
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG
-----------***-----------
NGUYỄN THỊ THẢO SƯƠNG
CƠ CẤU BỆNH TIM MẠCH VÀ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI MẮC SUY
TIM, RUNG NHĨ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN
THỐNG NHẤT, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH: Dịch tễ học
MÃ SỐ: 972 01 17
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Hà Nội - 2025

CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG
Cán bộ hướng dẫn khoa học
1. Hướng dẫn 1: PGS.TS. Lê Đình Thanh
2. Hướng dẫn 2: GS.TS. Nguyễn Văn Ba
Phản biện 1: PGS.TS. Đoàn Huy Hậu
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Minh Giang
Phản biện 3: PGS.TS. Lê Xuân Hùng
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá chất lượng luận
án tiến sỹ cấp Viện tại Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng
Trung ương vào hồi: giờ ngày … tháng năm 2025
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia Việt Nam
2. Thư viện Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tim mạch (BTM) hiện là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên toàn
cầu, gây ra khoảng 17,9 triệu ca tử vong mỗi năm, trong đó hơn 75% xảy ra tại
các quốc gia thu nhập thấp và trung bình [1]. Tại Việt Nam, năm 2016 có
khoảng 170.000 người tử vong do BTM, chiếm 31% tổng số ca tử vong [2].
Gánh nặng BTM ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và
tốc độ già hóa dân số nhanh. Tại Hoa Kỳ, 82% các ca tử vong do BTM là ở
người cao tuổi; tại Việt Nam, tỷ lệ người cao tuổi tăng từ 10% (2011) lên
11,9% (2019), kèm theo đó là tỷ lệ tử vong do BTM cũng gia tăng theo độ tuổi
[3], [4], [5]. WHO cho rằng phần lớn BTM có thể phòng ngừa được thông qua
kiểm soát các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, hút thuốc, đái tháo đường,
béo phì, lối sống ít vận động [2], [7].
BTM không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất mà còn tác động
mạnh đến tâm lý và đời sống xã hội, làm suy giảm chất lượng cuộc sống
(CLCS) [9]. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), CLCS là một
khái niệm đa chiều, phản ánh sức khỏe thể chất, tinh thần, mức độ độc lập, các
mối quan hệ xã hội và môi trường sống [10]. Nhiều nghiên cứu cho thấy
CLCS là chỉ số nhạy để đánh giá hiệu quả can thiệp và là yếu tố tiên lượng độc
lập về khả năng sống còn ở bệnh nhân BTM. Tại Việt Nam, các nghiên cứu
như của Nguyễn Hoàng Định (2016) cho thấy người bệnh tăng huyết áp có
điểm số sức khỏe thấp ở tất cả các lĩnh vực theo thang điểm SF-36 [13].
Tuy nhiên, hiện chưa có nhiều nghiên cứu về cơ cấu BTM và CLCS ở
người cao tuổi tại Việt Nam. Do đó, nghiên cứu: “Cơ cấu bệnh tim mạch và
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi mắc rung nhĩ, suy tim điều trị tại
Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh” được thực hiện nhằm mục
tiêu: 1. Mô tả cơ cấu bệnh tim mạch và một số yếu tố liên quan của người
cao tuổi điều trị tại bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022.
2. Đánh giá chất lượng cuộc sống của người cao tuổi mắc suy tim và
rung nhĩ điều trị nội trú tại bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2023.
CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Luận án dày 121 trang, trong đó:
- Đặt vấn đề: 2 trang
- Tổng quan: 28 trang
- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 23 trang
- Kết quả nghiên cứu: 29 trang
- Bàn luận: 35 trang
TÍNH KHOA HỌC VÀ TÍNH MỚI CỦA LUẬN ÁN:
Kết quả nghiên cứu của luận án đã cung cấp những phát hiện mới về cơ cấu

2
bệnh tim mạch cũng như chất lượng cuộc sống của người cao tuổi mắc bệnh
tim mạch tại một bệnh viện lớn ở TP. Hồ Chí Minh. Việc sử dụng song song
hai thang điểm đánh giá chất lượng cuộc sống khác nhau, phù hợp với từng
bệnh lý (suy tim và rung nhĩ), đã cho thấy kết quả tương đồng. Điều này khẳng
định đây đều là những bệnh lý mạn tính nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến
chất lượng cuộc sống người bệnh.
Ở nhóm nghiên cứu, chất lượng cuộc sống cho thấy người bệnh có sức khỏe
thể chất ở mức thấp nhưng sức khỏe tinh thần lại ở mức cao. Kết quả này phản
ánh nỗ lực chăm sóc người bệnh hiệu quả tại bệnh viện, với chất lượng dịch vụ
tốt, góp phần giúp người bệnh duy trì tinh thần lạc quan và niềm tin vào quá
trình điều trị. Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Người cao tuổi và bệnh của người cao tuổi
Người cao tuổi (NCT) được định nghĩa theo Luật NCT Việt Nam
(2009) là những người từ 60 tuổi trở lên [14]. Trên thế giới, quá trình già hóa
dân số đang diễn ra nhanh chóng, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Năm
2012, có khoảng 810 triệu người trên 60 tuổi (11,5% dân số toàn cầu), dự kiến
sẽ tăng lên 22% vào năm 2050. Già hóa dân số kéo theo nhiều thách thức về
kinh tế - xã hội và chăm sóc y tế [15].
Tại Việt Nam, tỷ lệ NCT đạt 11,9% vào năm 2019 [16]. Dù phần lớn
NCT có cuộc sống ổn định, vẫn còn nhiều người sống cô đơn, phải lao động
kiếm sống và đối mặt với nguy cơ sức khỏe. Trình độ học vấn, khả năng tự
chăm sóc và tiếp cận y tế có sự chênh lệch giữa nông thôn - thành thị, nam -
nữ và các nhóm dân tộc.
Về thể chất, quá trình lão hóa ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trong
cơ thể. NCT thường gặp suy giảm chức năng tim mạch, hô hấp, thần kinh, giác
quan và tiêu hóa. Tình trạng mất ngủ, giảm trí nhớ, yếu cơ và các bệnh mạn
tính như tăng huyết áp, đái tháo đường, loãng xương… là phổ biến [18].
Cơ cấu bệnh người cao tuổi
Trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh mạn tính ở NCT rất cao. Một nghiên cứu
ở Trung Quốc ghi nhận 31,7% người cao tuổi mắc ít nhất một trong bốn bệnh:
tăng huyết áp (26%), đái tháo đường (8%), COPD (1%), đột quỵ (1,9%). Một
nghiên cứu khác cho thấy 85,2% NCT mắc bệnh mạn tính, phổ biến là tăng
huyết áp (67,6%), rối loạn lipid máu (58,8%), đái tháo đường (21,5%) và
loãng xương (24,5%) [19].
Tại Việt Nam, nghiên cứu tại Quảng Trị cho thấy 100% NCT có triệu
chứng bệnh, trung bình mỗi người mắc gần 4 bệnh. Nhóm bệnh thường gặp
gồm: tuần hoàn (17,6%), hô hấp (14,9%), cơ xương khớp (13,7%), tiêu hóa
(12,5%) và nội tiết (7%). Trong đó, tăng huyết áp chiếm tới 45,3% [21].

3
Tại Bệnh viện Thống Nhất, nghiên cứu năm 2009 cho thấy bệnh tim
mạch chiếm ưu thế, với tăng huyết áp là nguyên nhân nhập viện hàng đầu
(13,8%). Các bệnh phổ biến khác gồm: tim thiếu máu cục bộ, đái tháo đường,
bệnh tiêu hóa và mạch máu não [22].
Những số liệu này cho thấy gánh nặng bệnh tật lớn ở người cao tuổi và
nhấn mạnh vai trò của chăm sóc sức khỏe dài hạn, quản lý bệnh mạn tính, đặc
biệt là bệnh tim mạch và tăng huyết áp, trong bối cảnh dân số đang già hóa
nhanh chóng.
1.2. Bệnh lý tim mạch
1.2.1. Khái niệm bệnh tim mạch
Bệnh tim mạch (BTM) là nhóm bệnh liên quan đến tim và hệ mạch
máu, được mã hóa từ I00 đến I99 trong ICD-10 [23],[24]. BTM bao gồm
nhiều bệnh lý như thấp tim, bệnh tim do tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục
bộ, bệnh mạch máu não, bệnh mạch ngoại vi, bệnh tĩnh mạch, suy tim, rung
nhĩ, phình động mạch... BTM được chia thành hai nhóm lớn: nhóm do xơ vữa
(như bệnh mạch vành, mạch não) và nhóm không do xơ vữa (như tim bẩm
sinh, viêm cơ tim...).
Tăng huyết áp (THA): Là tình trạng huyết áp tâm thu ≥140 mmHg và/hoặc
huyết áp tâm trương ≥90 mmHg. Các dạng gồm: THA tâm thu đơn độc, THA
tâm trương đơn độc, THA áo choàng trắng, THA ẩn giấu [25], [26].
Đột quỵ não: Gồm hai loại chính: thiếu máu não (do tắc mạch) và xuất huyết
não (do vỡ mạch). Thiếu máu não là thể phổ biến hơn, cần xử lý khẩn cấp để
giảm tử vong và di chứng [27].
Bệnh động mạch vành (BMV): Là bệnh lý do xơ vữa gây hẹp lòng động
mạch nuôi tim, làm giảm tưới máu cơ tim. Gồm hai hội chứng: hội chứng vành
cấp (nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực không ổn định) và hội chứng vành mạn
[29].
Suy tim: Là tình trạng tim không đủ khả năng bơm máu đáp ứng nhu cầu cơ
thể. Phân loại theo phân suất tống máu, vị trí tổn thương, chức năng sinh lý và
mức độ nặng theo Hội Tim mạch New York (NYHA, độ I–IV) [30], [31].
Bệnh mạch máu ngoại vi: Bao gồm bệnh động mạch (do xơ vữa, huyết
khối...) và tĩnh mạch (giãn, suy tĩnh mạch). Là biểu hiện toàn thân của xơ vữa
mạch, làm tăng nguy cơ các biến cố tim mạch khác [32].
Rung nhĩ: Rối loạn nhịp nhanh trên thất do mất đồng bộ co bóp nhĩ. Là yếu tố
nguy cơ cao gây đột quỵ do hình thành huyết khối trong nhĩ. Gồm 4 thể: cơn,
bền bỉ, dai dẳng và mạn tính [33].
Phình động mạch: Là tình trạng giãn khu trú thành động mạch, do bẩm sinh
hoặc mắc phải, thường gặp ở động mạch chủ và động mạch não, nguy cơ vỡ
cao và đe dọa tính mạng.
1.2.2. Các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch