VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG PHƯỢNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC

TIỄN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG PHƯỢNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC

TIỄN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS.LẠI VIẾT QUANG

HÀ NỘI, 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung

thực và không trùng lặp với những đề tài khác trong cùng lĩnh vực nghiên cứu khoa

học. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác và trung thực.

Các kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công

trình khoa học nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Hồng Phượng

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ

THỜI HẠN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................... 6

1.1.Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc áp dụnghình phạt tù có thời hạn: ........ 6

1.2. Trình tự, Nội dung và ý nghĩa áp dụng hình phạt tù có thời hạn: ............. 20

1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn: ...................... 35

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN CỦA

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP ................................................................ 39

2.1. Khái quát tình hình tội phạm xảy ra ở quận Gò Vấp;Việc thụ lý, xét xử

liên quan đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân quận Gò

vấp, thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................ 39

2.2. Thực trạng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân

quận Gò Vấp. .................................................................................................... 43

2.3. Nhận xét, đánh giá về thực trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn của

TAND quận Gò Vấp. ........................................................................................ 48

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP

DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP 65

3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụnghình phạt tù có thời hạn. ......... 65

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng phạt tù có thời hạn. .............. 68

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ADPL : Áp dụng pháp luật 1.

BLHS : Bộ luật Hình sự 2.

BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự 3.

HĐXX : Hội đồng xét xử 4.

TAND : Tòa án nhân dân 5.

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao 6.

TANDCC : Tòa án nhân dân cấp cao 7.

XHCN : Xã hội chủ nghĩa 8.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý của các TAND quận Gò Vấp ......... 41

Bảng 2.2: Số liệu kết quả xét xử của các TAND quận Gò Vấp ................................ 42

Bảng 2.3: Số liệu các tội tội phạm thường xảy ra ..................................................... 43

Bảng 2.4: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng của tòa án............................... 44

Bảng 2.5: Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn .................................................. 44

Bảng 2.6: Số liệu về nhân thân của bị cáo ................................................................ 45

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hệ thống hình phạt nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới,

hình phạt tù có thời hạn có vị trí, vai trò rất quan trọng, được áp dụng phổ biến nhất

trong thực tiễn xét xử của Tòa án.Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam tại

Điều 32 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, hệ

thống hình phạt nước ta có 07 loại hình phạt chính, trong đó có hình phạt tù có thời

hạn. Có thể nói, hình phạt tù có thời hạn là thực hiện việc cách ly người phạm tội ra

khỏi đời sống cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định.Đây là một hình phạt

nghiêm khắc, nó tước bỏ quyền tự do của người phải chấp hành hình phạt trong

khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, cách vận dụng các quy định của pháp luật hình

sự để áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của người

phạm tội là rất quan trọng và phải đạt được mục đích là trừng trị người phạm tội và

giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới cũng như giáo

dục họ tôn trọng pháp luật.

Quận Gò Vấp hiện nay là một khu vực sầm uất, nhộn nhịp, trước đây khu

vực này từng là một làng hoa danh tiếng với diện tích gieo trồng lên đến hàng trăm

hecta phong phú về chủng loại, người dân nơi đây sinh sống bằng nghề trồng

hoa.Tuy nhiên cùng với tốc độ phát triển đô thị, cơ cấu dịch chuyển ngành nghề

theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, quận Gò Vấp đã dần vươn mình trở thành

khu đô thị hiện đại và tăng trưởng cả về mặt kinh kế – xã hội, không còn là một

quận ngoại thành vùng ven hẻo lánh, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông,

trồng hoa theo từng mùa vụ, nơi còn nhiều hạn chế về nguồn thu nhập, cơ sở hạ

tầng, thương mại dịch vụ, giáo dục, y tế…chính.Cùng với sự chuyển biến đó, tăng

dân số cơ học ngày càng cao, nhiều lao động ở các nơi khác trên cả nước đến làm

ăn và sinh sống và cũng từ đây tình hình tội phạm cũng tăng theo, số người bị kết án

tù có thời hạn tương đối lớn. Hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án

trên địa bàn quận Gò Vấp hiện nay tính từ năm 2016 cho đến năm 2020, số vụ giải

quyết là 1.399 vụ với 2038 bị cáo, tỷ lệ áp dụng hình phạt tù có thời hạn là 82,1%.

1

Song song những kết quả tích cực đã đạt được vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm

chưa thể khắc phục được như: sai sót, vướng mắc trong xác định các tình tiết, chứng

cứ của vụ án; Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân không

đúng, dẫn đến quyết định hình phạt cho hưởng án treo không đúng; Quyết định mức

hình phạt đối với bị cáo quá nặng hoặc quá nhẹ do vì áp dụng các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng.Việc áp dụng hình phạt tù chưa

chính xác sẽ dẫn đến quyết định một hình phạt không công bằng, phù hợp với lỗi

của người phạm tội, nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn tốt sẽ giải quyết được

những vấn đề trừng trị, giáo dục và ngăn ngừa tội phạm.

Từ thực tiễn trên, trong quá trình hành nghề cũng như quá trình nghiên cứu

các quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn, tác giả xin nêu ra một vài

luận điểm để bàn về quy định của pháp luật vềhình phạt tù có thời hạn, nghiên cứu

đổi mới hình phạt tù có thời hạn có vai trò rất quan trọng trong đổi mới pháp luật

hình sự nói riêng, cải cách tư pháp nói chung ở nước ta.Quan điểm của Đảng và

Nhà nước ta về cải cách tư cách cũng là quan điểm hoàn thiện pháp luật hình sự,

trong đó có hình phạt tù không chỉ là mục đích trừng trị, giáo dục,hình phạt tù còn

có tác dụng hạn chế ở mức độ đa khả năng người đã phạm tội tiếp tục phạm tội,bảo

vệ các quan hệ xã hội trước sự đe dọa của những hành vi tái phạm.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên nói lên tính cấp thiết của việc nghiên cứu

đề tài: "Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, Thành phố

Hồ Chí Minh" và cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc

sĩ Luật học

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về chủ

đề áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong xét xử các vụ án hình sự. Liên quan đến

đề tài áp dụng hình phạt tù có thời hạn, có thể nêu một số công trình nghiên cứu

được công bố trong những năm qua như sau: Luận án tiến sĩ của tác giả Chu Thị

Thu Trang:“Hoạt độngáp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát và Tòa án Việt Nam”,(năm 2009); Luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Hồng

Nam ;“Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử

2

thành phố Hồ Chí Minh”,(năm 2014); Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Văn

Huyền:“Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Việt

Yên,tỉnh Bắc Giang”, (năm 2016);Luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Tấn Long:“Áp

dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ,

tỉnh Quảng Nam”,(năm 2017) và gần đây nhất Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn

Thành Chung: “ Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự việt nam

từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”(năm 2018)...Các công trình nghiên cứu, bài viết

được nêu trên đã phần nào làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng

hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự Việt Nam. Một số công trình đã phân

tích rõ những kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình áp dụnghình phạt tù có

thời hạn ở một số địa phương, tuy nhiên, tác giả khẳng định cho đến nay vẫn

chưa có công trình nghiên cứu nào dưới góc độ chuyên sâu về những kết quả đạt

được, ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động áp

dụng hình phạt tù có thời hạn của một cơ quan Tòa án cụ thể là Tòa án nhân dân

quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận và quy định của pháp luật hiện hành về áp dụng hình phạt tù có thời hạn, từ đó

thông qua thực tiễn áp dụnghình phạt tù có thời hạn tại Tòa án nhân dân Quận

GòVấp từ năm 2016 đến năm 2020, Luận văn đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả

áp dụng quy định của BLHS năm 2015 vềhình phạt tù có thời hạn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, Luận văn đề ra và giải quyết các

nhiệm vụ chủ đạo sau:

- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận theo quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về áp dụng hình phạt tù có thời hạn và thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời

hạn.

- Khảo sát thực trạng, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên

nhân của hoạt động thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân

Quận Gò Vấp từ năm 2016 đến năm 2020.

3

-Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời

hạn trên địa bàn Quận Gò Vấp trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

áp dụng hình phạt tù có thời hạn, các quan điểm khoa học và thực tiễn liên quan

trực tiếp đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong công tác xét xử của Tòa án

trên cơ sở thực tiễn giải quyết các vụ án xảy ra trên địa bàn quận Gò Vấp,Thành phố

Hồ Chí Minh nhằm tìm ra những tồn tại, thiếu sót và khó khăn, vướng mắc, từ đó đề

xuất các kiến nghị và giải pháp khắc phục.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài luận văn nghiên cứu dưới gốc độ luật hình sự và tố tụng hình sự;

Không gian: quận Gò Vấp; Thời gian: 2016 - 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên đây, các vấn đề khoa học được tiếp cận trên cơ sở

phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, quan điểm chủ

nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đấu

tranh phòng và chống tội phạm, hình phạt, quyết định hình phạt; về cải tạo, giáo dục

người phạm tội; về tính nhân đạo của pháp luật, về bảo vệ quyền con người.

Đồng thời, trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, tác giả sử

dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng

vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân

tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tế, lý luận kết hợp với thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về

áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong việc xét xử các vụ án hình sự, nâng cao nhận

thức của những người thực hiện công tác xét xử trong hệ thống tòa án.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

4

Bên cạnh giá trị về mặt lý luận, luận văn còn có thể được vận dụng như một

tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở

giáo dục trên cả nước.Mặt khác, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được

Toà án cấp quận, huyện tham khảo để áp dụng đúnghình phạt tù có thời hạn trong

xét xử, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh và phòng, chống tội phạm.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, lời cam đoan, bảng từ viết tắt, danh mục các bảng, kết

luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo

pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân

quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù

có thời hạn.

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc áp dụnghình phạt tù có thời hạn:

1.1.1.Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn:

Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án, một trong những công việc

quan trọng nhất đó là áp dụng hình phạt. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Điều 102), Điều 30

BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: Hình phạt là biện pháp

cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự, do

Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội để

tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người, pháp nhân thương mại

đó.Hình phạt là biện pháp cưỡng chế được Tòa án nhân dân, nhân danh Nhà nước

quyết định áp dụng đối với người phạm tội, không một cơ quan Nhà nước nào khác

ngoài Tòa án nhân dân có quyền áp dụng hình phạt.“Tòa án căn cứ vào Bộ luật hình

sự tuyên bố áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, là thể hiện sự lên án của

Nhà nước đối với họ về việc thực hiện tội phạm, là sự trừng trị người phạm

tội”.[44]. Theo quy định tại Điều 31 BLHS năm 2015 được sửa đổi năm 2017 cho

thấy:“Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người,pháp nhân thương

mại phạm tội mà còn giáo dục ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc

sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dụcngười,pháp nhân thương mại khác tôn

trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.[31]. Hệ thống hình

phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, theo quy định tại Điều 32

BLHS năm 2015 được sửa đổi năm 2017 hình phạt chính gồm: Cảnh cáo, phạt tiền,

cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt

tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ

trong một khoảng thời gian nhất định với mức tối thiểu từ ba tháng mức tối đa đến

20 năm, để giáo dục, cải tạo người phạm tội và người khác, bảo vệ công bằng xã

hội. Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt cách ly người phạm tội ra khỏi cuộc

6

sốngbình thường trong xã hội để nhằm răn đegiáo dục cải tạo người phạm tội hoàn

lương trở thành người có ích cho xã hội. Trong thời gian bị cách ly họ bị hạn chế rất

nhiều quyền công dân, tước một số quyền trong cuộc sống bình thường như: Quyền

tự do tín ngưỡng, tự do kinh doanh, Quyền bầu cử, Quyền tự do đi lại, thậm chí cả

Quyền kết hôn.v.v cũng bị hạn chế.

Hình phạt tù có thời hạn do Tòa án quyết định áp dụng thông qua hoạt động

xét xử của Tòa án, cụ thể từ khi thụ lý hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và ra bản án, quyết

định.

Bộ luật tố tụng hình sự quy định toàn bộ hoạt động xét xử của Tòa án bao

gồm các trình tự, thủ tục tố tụng để giải quyết án hình sự, khi xét xử Thẩm phán và

Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, để lựa chọn hình phạt chính

xác, HĐXX phải sử dụng kết quả điều tra, kết quả buộc tội, kết quả thẩm vấn, tranh

luận, đối chiếu các tình tiết của một vụ án hình sự cùng với sự nhận thức đầy đủ quy

định của Bộ luật hình sự vàvới các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm gắn liền

với việc đánh giá con người cụ thể đã thực hiện tội phạm để xác định một loại và

một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội

phạm. Áp dụng hình phạt do Hội đồng xét xử quyết định và phải luôn luôn bảo đảm

đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa mặc dù các tình tiết cụ thể của các vụ án có

thể khác nhau, dẫn đến mức phạt có thể nặng hoặc mức phạt có thể nhẹ. “Điều đó

có nghĩa rằng, khi quyết định hình phạt phải bảo đảm sự tương xứng của hình phạt

được tuyên với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực

hiện, với các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng và

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, với dư luận xã hội, với ý thức pháp luật”.[47].

Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại

giam trong một thời hạn nhất định. Hình phạt tù có thời hạn có mức tối thiểu là ba

tháng, mức tối đa là hai mươi năm. Tuy nhiên, mức này chỉ đối với người phạm một

tội, còn đối với người phạm nhiều tội thì mức tối đa có thể tới ba mươi năm.

Mức tối thiểu và tối đa đối với hình phạt có thời hạn được quy định trong các

điều luật và trong từng khung hình phạt cụ thể không hoàn toàn với mức tối thiểu và

7

tối đa quy định cho loại hình phạt này, mà tùy thuộc và từng tội phạm, từng trường

hợp phạm tội cụ thể.

Người bị kết án Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó họ đã

bị tạm giữ hoặc tạm giam, thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn

chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giam giữ, tạm giam bằng một ngày tù.

Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù,

nhưng không quy định Tòa án trừ ngay khi quyết định hình phạt hay cơ quan công

an trừ trong quá trình thi hành hình phạt trong trai giam.

Như vậy, khái niệm hình phạt tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải

chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Và áp dụng

hình phạt tù có thời hạn là hoạt động của HĐXX cụ thể xem xét, đánh giá các tài

liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhằm xác

định sự thật khách quan của vụ án, đối chiếu với các quy định trong BLHS, các tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội để đưa vào

thực tiễn xét xử nhằm bảo đảm tuyên hình phạt đúng người, đúng quy định pháp

luật, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Từ sự phân tích trên, tác giả thấy rằng, khái niệm áp dụng hình phạt tù có

thời hạn, đó là: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn là hoạt động thực tiễn của Tòa án

(Hội đồng xét xử) được thể hiện ở việc trên cơ sở của việc định tội, đối chiếu với

các quy định trong BLHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,

nhân thân người phạm tội, xác định các tình tiết của vụ án làm căn cứ quyết định

hình phạt do luật định, Hội đồng xét xử lựa chọn mức hình phạt để áp dụng đối với

người phạm tội thể hiện trong bản án kết tội.

Xuất phát từ khái niệm trên có thể nói áp dụng hình phạt tù có thời hạn là

hoạt động của Tòa án trong việc vận dụng các quy định của BLHS để tuyên phạt

buộc người phạm tội phải cách ly khỏi xã hội trong một thời gian.

1.1.2. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù có thời hạn:

Thứ nhất, chủ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn là Hội đồng xét xử.

8

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh

theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật”theo quy định tại Điều 31 Hiến pháp.[25].

Tại Điều 13 Bộ Luật tố tụng Hình Sự năm 2015 quy định về suy đoán vô tội.

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình

tự, thủ tục do Bộ Luật tố tụng Hình Sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật”.[30].

“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” được quy định tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp

năm 2013.[25].

Và Điều 30 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định

trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân

thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp

nhân thương mại đó”.[31].

Theo các quy định trên, cơ quan có thẩm quyền tuyên bố một người có tội

bằng một bản án kết tội là Tòa án. Và người bị kết tội phải bị áp dụng hình phạt. Vì

vậy, Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng hình phạt hay không áp

dụng hình phạt (miễn hình phạt) đối với người bị kết tội. Ngoài Tòa án, không cơ

quan, cá nhân nào có quyền áp dụng trách nhiệm hình sự cũng như hình phạt đối

với bất cứ tổ chức, cá nhân nào.[15].

Như vậy, theo quy định, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến

khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật quy định và có bản án kết tội

của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.Tòa án là cơ quan nhà nước duy nhất có quyền

phán quyết một người có tội hay không có tội. Một người chỉ bị coi là có tội khi Tòa

án kết tội bằng một bản án và bản án đó đã phát sinh hiệu lực pháp luật.Ngoài Tòa án,

không cơ quan hay cá nhân nào có quyền áp dụng hình phạt đối với tổ chức, cá nhân.

Bản án là kết quả của hoạt động xét xử do HĐXX nhân danh nhà nước cộng

hòa xã hội chủ nghĩa tuyên án, quyết định một tổ chức, một tập thể, cá nhân có tội

hay không có tội, đây là nhiệm vụ của Tòa án thực hiện quyền lực nhà nước được

9

thể hiện thông qua phiên tòa xét xử. Bản án thể hiện công minh đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật và ý chí, thái độ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hành vi

của bị cáo. Do đó, Chủ thể trực tiếp thực hiện quyền áp dụng hình phạt nói chung

và áp dụng hình phạt tù nói riêng của Tòa án là Hội đồng xét xử.

Bản án, quyết định của Hội đồng xét xử sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật

ngay mà theo quy định thì kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị 30 ngày,

kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết

định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và

đưa ra thi hành. Đối với bản án, quyết định phúc thẩm thì có hiệu lực ngay kể từ

ngày tuyên án, ra quyết định.

“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm

cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới

bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt

vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của

luật”.[30]. Đây là nguyên tắc khi xét xử được quy định tại Điều 23 Bộ luật tố tụng

hình sự.Trong quá trình xét xử,các thành viên trong Hội đồng xét xử độc lập và có

quyền ngang nhau trong việc xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, trong nhận định

về kết luận, có quyền trình bày quan điểm, ý kiến của mình về việc giải quyết về kết

quả tranh luận, về việc giải quyết vụ án và biểu quyết, Thẩm phán không được áp

đặt ý chí của mình để buộc Hội thẩm phải biểu quyết theo. Khi nghị án, Hội thẩm

biểu quyết trước, thẩm phán là người biểu quyết sau cùng (Điều 326). Hội đồng xét

xử sẽ quyết định mọi vấn đề về vụ án theo nguyên tắc thảo luận tập thể và quyết

định theo đa số. Trường hợp có bất kỳ thành viên nào trong Hội đồng xét xử có ý

kiến khác với các thành viên đều có quyền trình bày ý kiến của mình được ghi vào

biên bản nghị án.

Thứ hai, là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự.

Theo lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật thì việc thực hiện pháp

luật là một trong những biểu hiện của áp dụng pháp luật. Một trong các hình thức

thực hiện pháp luật hình sự là áp dụng pháp luật hình sự, trong đó đại diện cho nhà

nước là các cơ quan có thẩm quyền hoặc các ban ngành, đoàn thể cho các chủ thể

10

pháp luật thực hiện trong những qui định pháp luật đề ra. Quá trình thực hiện việc

áp dụng pháp luật sẽ làm một quan hệ pháp luật hình sự có thể phát sinh, thay đổi,

đình chỉ hay chấm dứt. Có thể nói, pháp luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh

và thống nhất khi hoạt động áp dụng pháp luật được bảo đảm; trên thực tế sẽ được

thực hiện và được bảo vệ về các quyền của chủ thể; để cũng cố các quan hệ xã hội

xã hội chủ nghĩa đã và đang được thiết lập, phải xử lý nghiêm minh, kịp thời các

hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.

Một trong những giai đoạn cơ bản, quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật

hình sự là áp dụng hình phạt, có thể nói quá trình áp dụng pháp luật hình sự, việc áp

dụng hình phạt là vô cùng quan trọng. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ Tòa án là cơ

quan duy nhất có quyền áp dụng hình phạt. Khi một người thực hiện hành vi phạm tội,

Tòa án không chỉ xem xét và nắm rõ ở góc độ các quy định pháp luật hình sự về loại

tội phạm đó mà còn phải xem xét những điều kiện để có thể áp dụng chế tài đối với

hành vi vi phạm của người phạm tội cùng với những tác động xung quanh, những mối

quan hệ xã hội liên quan đến hành vi phạm tội này. Có như vậy, Tòa án mới áp dụng

phạt tù một cách chuẩn xác, bảo đảm đúng quy định pháp luật, đúng người và đúng tội.

Quá trình áp dụng phạt tù là một quá trình cụ thể từ sự nhận thức các quy định của

pháp luật hình sự để vận dụng vào từng trường hợp phạm tội cụ thể và đó cũng chính là

cá biệt hóa các quy định của pháp luật hình sự đối với người phạm tội.

Trong từng trường hợp cụ thể, khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn Tòa án cá

biệt hóa các chế tài hình sự đối với người phạm tội trong từng trường hợp cụ thể, trong

những trường hợp đặc thù như các vụ án có đồng phạm, có người phạm nhiều

tội....Hoặc cả trong trường hợp áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình

sự, trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình phạt.

Thứ ba, trong trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt tù có thời hạn được thực

hiện sau khi định tội danh và sau khi định khung hình phạt.

Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự nhằm cá biệt hóa các quy định của BLHS vào từng trường hợp hành vi nguy

hiểm cho xã hội cụ thể xảy ra, được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác,

khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và tình tiết khác của vụ

11

án, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội

phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội

phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và các tình tiết

khác của vụ án, bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.

Định tội danh theo đó có các đặc điểm: Là sự kết hợp giữa lý luận và thực

tiễn, cụ thể là việc xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có thỏa

mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự hay không và

đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với hành vi đó; Là một dạng hoạt

động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở xác định các

tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện.

Với các đặc điểm trên, định tội danh được thực hiện theo các bước sau:

Bước 1: Phân tích hành vi của người phạm tội.Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án,

người tiến hành tố tụng phân tích hành vi của người phạm tội trong vụ án để nắm

được tất cả các hành vi của bị can, các tình tiết của vụ án. Việc tóm tắt và phân tích

hành vi của bị can trong bước này giúp cho việc kiểm tra, đánh giá về mặt hình sự

những bước sau không bị lệch hướng. Khi tiến hành tóm tắt và phân tích vụ án,

người thực hiện sẽ có thể phát hiện ra những điểm mấu chốt giúp cho việc giải

quyết vụ án một cách mau chóng, chính xác và có hiệu quả.

Bước 2: Xác định khách thể mà hành vi vi phạm xâm hại và các quy phạm

pháp luật hình sự cần kiểm tra.Dựa vào kết quả phân tích hành vi của bị can, người

tiến hành tố tụng phải đưa ra kết luận có tội phạm xảy ra không (có quan hệ pháp

luật hình sự phát sinh không). Nếu có thì công việc tiếp theo là xác định khách thể

của tội phạm, tức là xác định quan hệ xã hội nào bị xâm hại. Cơ sở để xác định

khách thể là các quy định về các loại tội phạm tại Bộ luật hình sự. Theo đó, những

tội phạm được xếp trong cùng một chương là những tội phạm có cùng khách thể.

Bước 3: Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự cụ thể trong mối liên hệ với hành

vi vi phạm.Thực chất của bước này là định tội và định khung hình phạt cho hành vi

phạm tội.Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm

cụ thể được quy định trong Luật Hình sự. Cấu thành tội phạm phải có đầy đủ bốn yếu

tố: Yếu tố khách thể, yếu tố chủ thể yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan. Do đó việc

kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự dựa vào từ các yếu tố cấu thành tội phạm.

12

Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật xác định tội danh cần áp dụng đối

với trường hợp phạm tội của người đó.Kết quả của quá trình trên được tóm tắt

thành kết luận cuối cùng đối với từng hành vi của từng bị can trong vụ án. Nội

dung kết luận có thể là:Hành vi của bị can có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu

thành tội phạm không,hành vi vi phạm đó cấu thành nên tội nào,có chứa đựng

các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ hay không,các điều luật nào trong Bộ luật Hình

sự được sử dụng làm căn cứ.

Định khung hình phạt là xác định khung hình phạt phải áp dụng cho hành vi

phạm tội đã được định tội danh.Định khung hình phạt là một hoạt động trong quá

trình áp dụng luật hình sự, được thực hiện trên cơ sở kết quả của hoạt động định tội

và là cơ sở cho việc quyết định hình phạt.

Từ nội dung kết luận trên, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng mức hình

phạt phù hợp với tính chất nguy hiểm của hành vi do tổ chức, cá nhân đã thực

hiện.Vì vậy, hoạt động áp dụng phạt tù phải thực hiện sau khi định tội danh để đảm

bảo tính chính xác của hình phạt, phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội.

Thứ tư, đối tượng phạm tội bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Sau khi xác định được tội danh, dựa trên các tài liệu trong hồ sơ, kết quả

tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử phải lựa chọn hình phạt để áp dụng đối với

hành vi phạm tội của bị cáo bị đưa ra xét xử. Theo quy định của Bộ luật hình sự thì

hình phạt gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung được sắp xếp theo một trật tự

từ nhẹ đến nặng. Hình phạt chính theo quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự được áp

dụng đối với một tội phạm và được Tòa án tuyên độc lập, Tòa án chỉ được tuyên một

hình phạt chính cho một tội phạm cụ thể. Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo, Phạt

tiền, Cải tạo không giam giữ, Trục xuất, Tù có thời hạn, Tù chung thân và Tử hình.

Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội

trong một thời gian nhất định để học tập,lao đồng, cải tạo. Tù có thời hạn được quy

định tại Điều 38 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, Bổ sung năm 2017: “Tù có thời

hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời

hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng

13

và mức tối đa là 20 năm.Thời gian tạm giữa, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp

hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù”.[31].

Như vậy, đây là hình phạt tước tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách

ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định và phải cải tạo theo chế độ giam giữ

nghiêm ngặt trong quá trình lao động, học tập và sinh hoạt.Người bị kết án tù có

thời hạn được phép học văn hóa, học nghề tham gia lao động, được tạo điều kiện để

tự cải tạo. [26]

Thứ năm,Văn bản áp dụng hình phạt tù có thời hạn: Bản án, Quyết định của

Hội đồng xét xử.

Bản án kết tội của Hội đồng xét xử là bản án hình sự, đó là văn bản ghi nhận

phán quyết của Hội đồng xét xử sau khi xét xử vụ án, là văn bản tố tụng đặc biệt

của Tòa án nhân danh nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là quyết định

của Hội đồng xét xử xác định bị cáo là người có tội hay không có tội trong quy định

của Bộ luật hình sự, xác định trách nhiệm pháp lý của bị cáo với Nhà nước cụ thể

hoá bằng hình phạt quy định trong BLHS, xác định trách nhiệm của bị cáo với bị

hại(nếu có) và các thành phần khác cụ thể hoá bằng mức bồi thường thiệt hại quy

định trong BLDS. Bản án hình sự sơ thẩm khi được ban hành và có hiệu lực pháp

luật thì những quyết định trong bản án đưa đến hậu quả pháp lý rất lớn, ảnh hưởng

trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của những người bị buộc tội và những chủ thể khác

có liên quan thể hiện tại Điều 31 Hiến Pháp, Điều 13, 14 BLTTHS.

Vậy, sau khi xem xét các tình tiết của vụ án và thống nhất về áp dụng hình phạt

cho bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt cho hành vi của bị cáo gây

ra, quyết định này được ghi nhận cụ thể vào bản án. Bản án phải ghi nhận đầy đủ ý

kiến, quan điểm của những người tham gia tố tụng, ghi rõ căn cứ buộc tội hoặc gỡ tội

của đại diện Viện kiểm sát, những luận cứ của người bào chữa cho bị cáo hoặc người

bị thiệt hại và những ý kiến của hội đồng xét xử về việc chấp nhận hoặc không chấp

nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa. Hội đồng xét xử phải nhận

định về việc xác định người có hành vi vi phạm có phạm tội không, phạm tội gì, theo

quy định tại điều luật nào của Bộ luật hình sựcùng với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự theo đó được quy định, từ đó Hội đồng xét xử áp dụng một mức

14

hình phạt cụ thể. Ngoài ra, Hội đồng xét xử còn phải nhận định lý do áp dụngphạt tù có

thời hạn và mức hình phạt tù có thời hạn được áp dụng.

Thứ sáu, mục đích áp dụng hình phạt.

Hình phạt là hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự phổ biến nhất. Nhưng

ngoài hình phạt, trách nhiệm hình sự còn được thực hiện bằng các biện pháp hình sự

khác như bắt buộc chữa bệnh theo quy định tại Điều 49 BLHS hoặc giáo dục

tạitrường giáo dưỡng theo quy định tại Điều 96 BLHS, v.v..Nếu thấy rằng người

phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự thì HĐXX phải xem xét tiếp là có áp dụng

hình phạt đối với người phạm tội không, tức là có miễn hình phạt cho bị cáo theo

Điều 59 BLHS hay áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự đối với bị cáo không.

Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp có cần và đủ căn cứ

theo quy định tại Điều 59; khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS.Và cũng theo quy định

tại Khoản 4, Khoản 6 Điều 91 BLHS:“Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo

dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án

cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối

với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn

nhất”.[31]. Trên cơ sở các căn cứ được quy định ở Điều 38 BLHS, Tòa án không

được áp dụng phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do

vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Như vậy, mục đích của áp dụng phạt tù có thời hạn

đòi hỏi cần xem xét người phạm tội có cần thiết phải bị cách ly khỏi xã hội hay

không, cần được xem xét khi ở trường hợp nào không áp dụng hoặc trường hợp nào

hạn chế áp dụng phạt tù có thời hạn với một số đối tượng nhất định.

1.1.3. Nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn:

Các nguyên tắc áp dụng phạt tù có thời hạn là những tư tưởng chỉ đạo xuyên

suốt trong hoạt động lập pháp liên quan đến áp dụng hình phạt và hoạt động áp dụng

hình phạt, được rút ra từ các quy định của Pháp luật, bao gồm cả Hiến pháp, đạo luật

cơ bản và các văn bản pháp luật hình sự đểđịnh hướng hoạt động của Tòa án trong áp

dụng hình phạt tù có thời hạn bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

15

Căn cứ vào những tiêu chuẩn, những đặc điểm nêu trên áp dụng phạt tù có

thời hạn phải dựa trên bốn nguyên tắc:Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa,

nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên

tắc công bằng.“Các nguyên tắc đó có tính độc lập tương đối và cùng tồn tại.Nhưng,

mặt khác, các nguyên tắc áp dụng hình phạt luôn có những phần, những nội dung

xâm nhập nhau, có mối liên hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn

nhau và ở dạng tổng thể tạo thành một hệ thống thống nhất. Tính hệ thống và tính

thống nhất cao của các nguyên tắc bảo đảm tính định hướng của Tòa án khi áp

dụng hình phạt.Tuy nhiên, tính hệ thống và tính thống nhất không cho phép đồng

nhất chúng. Bên cạnh những mối quan hệ chặt chẽ, xâm nhập với nhau, bổ sung

cho nhau, các nguyên tắc áp dụng hình phạt vẫn có những nội dung và tính độc lập

tương đối của chúng. Những nội dung và tính độc lập tương đối của chúng không

mâu thuẫn với nhau. Điều đó nói lên mối liên hệ biện chứng giữa các nguyên tắc áp

dụng hình phạt. Bởi vậy, khi áp dụng các nguyên tắc phải nhận thức được điều đó

để tránh hoặc đồng nhất chúng, hoặc là nhận thức một cách biệt lập.Như vậy, hệ

thống các nguyên tắc áp dụng hình phạt là hệ thống lôgic; biện chứng các tư tưởng

xuất phát, những tư tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải

thích luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo ở thể thống nhất khi áp dụng các chế

tài Luật hình sự đối với người phạm tội”.[47].

- Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa.

“Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện là

ở chỗ khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người bị kết án, Tòa án phải tuân

thủ nghiêm chỉnh các quy định của BLHS”.[47]. Đây là một nguyên tắc cực kỳ quan

trọng, nội dung của nguyên tắc này thể hiện trước hết ở chỗ có thể áp dụng hình

phạt tù có thời hạn chỉ đối với người thực hiện hành vi phạm tội, được quy định cụ

thể trong BLHS.Điều 2 BLHS quy định:“Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ

luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.[43].

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải định tội danh đúng hành

vi phạm tội của người phạm tội. Nguyên tắc này là tiền đề đúng đắn cho việc áp

dụng hình phạt tù có thời hạn.

16

Theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, áp dụng hình phạt tù có thời hạn

là thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Tại phiên tòa, sau khi tranh tụng, so sánh, đánh

giá tài liệu, chứng cứ đi đến kết luận hành vi của bị cáo có đầy đủ dấu hiệu của một

cấu thành tội phạm cụ thể, Hội đồng xét xửquyết định áp dụng hình phạt tù có thời

hạn với một mức hình phạt nhất định trong bản án kết tội.

Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn thể hiện ở chỗ: Khi áp dụng phạt tù có

thời hạn, Tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng loại hình phạt cụ

thể này, và chỉ có thể tuyên hình phạt được quy định trong luật.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi khi áp dụng phạt tù có thời

hạn, Tòa án phải tuân thủ các quy định của BLHS liên quan đến quyết định hình

phạt như: Quy định về căn cứ quyết định hình phạt theo Điều 50 BLHS; quy định

về các tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51BLHS, các tình tiết tăng nặngtrách nhiệm

hình sự theo Điều 52 BLHS; quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất

của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại Điều 54 BLHS; quy định về

quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo Điều 55BLHS, quyết

định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án theo Điều 56; quy định về quyết

định hình phạt trong các trường hợp phạm tội đặc biệt như chuẩn bị phạm tội, phạm

tội chưa đạt theo Điều 57 BLHS, đồng phạm theo Điều 58BLHS...

Khi Hội đồng xét xử tuyên hình phạt cho bị cáo phải nêu được có căn cứ lập

luận, có tính xác định và có lý do, đây là các yêu cầu mà nguyên tắc pháp chế xã hội

chủ nghĩa đặt ra. Trong một bản án kết tội bị cáo phải thể hiện mức phạt cụ thể

được quyết định cho bị cáo, đó là tính xác định của hình phạt.“Tính có căn cứ lập

luận và bắt buộc có lý do trong bản án đòi hỏi Tòa án phải nghiên cứu kỹ và làm sáng

rõ các tình tiết có trong vụ án, làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt”. [47]. Đó là

những tình tiết đã đượcHội đồng xét xử phải làm rõ bằng cách xét hỏi, được thẩm tra,

đối chiếu lại trong quá trình từ thụ lý cho đến khi xét xử, đã được đánh giá, nhận xét

bởi Hội đồng xét xử. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa còn yêu cầu có tính hợp lý,

hợp tình của việc quyết định áp dụng hình phạt, đó chính là tính có căn cứ đòi hỏi phải

nêu rõ các lý do của việcquyết định áp dụng hình phạt.“Tính hợp lý thể hiện ở chỗ,

trong số những phương án giải quyết khác nhau mà luật cho phép, Tòa án phải lựa

17

chọn một mức hình phạt, một mặt phải đúng luật, mặt khác phù hợp với các nguyên tắc

khác, phù hợp với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,

các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.[47].

- Nguyên tắc nhân đạo.

“Nguyên tắc nhân đạo của việc áp dụng phạt tù có thời hạn thể hiện tập

trung nhất ở chỗ khi quyết định hình phạt,Tòa án phải cân nhắc lợi ích của xã hội,

của Nhà nước và của người phạm tội trong một tổng thể thống nhất biện chứng, hài

hòa và hợp lý. Nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có thái độ đúng đắn cả đối

với lợi ích của toàn xã hội và Nhà nước, lẫn đối với lợi ích của bị cáo. Bởi lẽ, không

thể nói đến nhân đạo được, nếu khi quyết định hình phạt mà quá đề cao lợi ích của

Nhà nước, của xã hội mà hạ thấp,xem thường lợi ích của bị cáo hoặc ngược

lại”.[39].Tuy nhiên, nét nổi bật nhất của nguyên tắc nhân đạo khi quyết định hình

phạt thể hiện ở chỗ mức hình phạt với tính cưỡng chế của Nhà nước, chỉ áp dụng

đối với người phạm tội ở mức cần và đủ để đảm bảo giáo dục cải tạo người phạm

tội, đạt được mục đích phòng ngừa chung và riêng.

Để đạt được điều đó, đối với những người phạm tội ít nguy hiểm cho xã hội

và cho những người phạm tội lần đầu, những người thật thà khai báo, lập công

chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra, Bộ Luật Hình sự

nước ta đã có các quy định giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt. “Đối với

những người này, khi quyết định hình phạt, tùy theo các tình tiết của vụ án và nhân

thân người phạm tội, Tòa án có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn phạt tù, phạt tù cho

bị cáo hưởng án treo; khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ có thể quyết định hình phạt

dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang loại hình

phạt khác thuộc loại nhẹ hơn...và ngược lại đối với những người phạm tội đặc biệt

nguy hiểm, những người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tổ chức, người

phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp nhằm bảo vệ có hiệu

quả quyền lợi của xã hội, của Nhà nước và mọi công dân khỏi sự xâm hại của tội

phạm”.[47]. Bộ luật hình sự có những quy định để quyết định áp dụng hình phạt rất

nghiêm khắc thích hợp.

- Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.

18

Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc cá thể hóa quyết định hình phạt thể hiện ở

chỗ: Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật,

cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể,

nhân thân người phạm tội cụ thể và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm

hình sự cụ thể trong từng vụ án, để áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt cụ thể,

đảm bảo cho việc đạt được các mục đích của hình phạt.Hình phạt áp dụng cho chủ

thể phạm tội phải tương xứng với mức độ gây nguyên hiểm cho xã hội của tội phạm

gây ra và phải phù hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh của chủ thể phạm tội.

- Nguyên tắc công bằng.

“Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc công bằng xã hội của việc quyết định hình

phạt thể hiện ở chỗ mức hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với tội phạm

đã thực hiện và nhân thân người phạm tội”.[47]. Hình phạt đã tuyên trong bản án

phải tương xứng với tội mà người phạm tộiđã có hành vi phạm tội, đây là yêu

cầuđầu tiên của nguyên tắc công bằng xã hội, nghĩa là trong những điều kiện khác

giống nhau tội đã phạm càng nghiêm trọng thì mức hình phạt phải càng nghiêm

khắc và ngược lại tội đã phạm ít nghiêm trọng thì mức hình phạt nhẹ hơn.“Ngoài tội

phạm, nguyên tắc công bằng xã hội đòi hỏi khi quyết định mức hình phạt còn phải

cân nhắc cả nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án. Vì rằng,

hình phạt bao giờ cũng được áp dụng đối với những người phạm tội cụ thể, mà

những người đó, tất yếu, có những đặc điểm, tính cách, giữ những địa vị không

giống nhau trong xã hội... Do đó, để đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội, khi

quyết định áp dụng phạt tù có thời hạn Tòa án phải cân nhắc các đặc điểm, tính

cách, địa vị trong xã hội của người đó.

Việc cân nhắc tội phạm đã thực hiện về tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội, các đặc điểm nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng

trách nhiệm hình sự có trong vụ án phải đặt trong một thể thống nhất biện chứng

mới đảm bảo được tính công bằng của hình phạt. Nếu quá nhấn mạnh, coi trọng

đến yếu tố này mà xem thường yếu tố kia thì không thể tuyên được một hình phạt

công bằng.

19

Nguyên tắc công bằng xã hội còn đòi hỏi hình phạt được tuyên cần phải phản

ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức của xã hội

chúng ta, phải có đủ sức thuyết phục mọi người ở tính đúng đắn, tính công bằng

của chính sách xét xử của Nhà nước ta”.[47].

Ngoài bốn nguyên tắc chung nêu trên, còn có các nguyên tắc đặc thù đó là

thứ tự áp dụng từ luật cho đến nghị quyết, hướng dẫn, cần căn cứ vào quy định của

luật, đặc điểm nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của người phạm tội. Ngay từ

giai đoạn áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật, trước hết là các đạo luật, pháp

lệnh, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật phải được

bảo đảm.Đây phải được coi là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quá

trình áp dụng pháp luật. Từ đó trên cơ sở hành vi phạm tội, các đặc điểm nhân thân

và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của người phạm tội mà áp dụng luật cho phù

hợp và thống nhất.

1.2. Trình tự, Nội dung và ý nghĩa áp dụng hình phạt tù có thời hạn:

1.2.1.Trình tự áp dụng hình phạt tù có thời hạn:

1.2.1.1.Xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết vụ án liên quan

đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Để áp dụng hình phạt được đúng đắn, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, đạt được mục đích hình phạt đặt ra, việc đầu tiên là Tòa án phải xác định đầy

đủ, chính xác, khách quan các tình tiết của vụ án là căn cứ để quyết định hình phạt.

Các tình tiết cần phải chứng minh để áp dụng hình phạt bao gồm:

- Tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm thực hiện cần được xác định.

Tòa án dựa vào căn cứ để xác định được loại và mức hình phạt trong phạm vi

khung hình phạt đã xác định. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

là căn cứ khách quan có ý nghĩa cơ bản trong việc quyết định xử lý cụ thể nhằm bảo

đảm sự tương xứng giữa hình phạt và tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi

phạm tội phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau: Tính chất của hành vi phạm tội

(hành vi, công cụ, phương tiện, thủ đoạn, cách thức sử dụng công cụ, phương tiện,

hình thức thực hiện, đồng phạm (phạm tội có tổ chức hay đồng phạm thường); Mức

độ thực hiện tội phạm; Chuẩn bị hay đã thực hiện tội phạm (chưa đạt hay đã hoàn

20

thành); Tính chất, mức độ hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho các quan hệ xã

hội; Thái độ chủ quan (lỗi, động cơ, mục đích, ý thức quyết tâm phạm tội); Hoàn

cảnh, nguyên nhân, điều kiện phạm tội…

Trong quá trình quyết định hình phạt, Bản án cần phải thể hiện rõ hành vi

phạm tội của bị cáo đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm như: hành vi phạm tội

của bị cáo đã xâm phạm tới quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ; Hành vi

phạm tội của bị cáo được thể hiện dưới dạng hành động hay không hành động, mức

độ quyết liệt của hành vi phạm tội của bị cáo đến đâu, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý

hay vô ý, nhận thức của bị cáo về hành vi phạm tội của mình và hậu quả do hành vi

phạm tội của bị cáo ra sao. Để có cơ sở đưa ra kết luận Hội đồng xét xử cũng cần

xem xét xuyên suốt các giai đoạn tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử như

xéttính hợp pháp của quyết định khởi tố trong quá trình thu thập tài liệu chứng cứ

của cơ quan Điều tra, căn cứ pháp luật được nêu trong nội dung bản Cáo trạng của

Viện kiểm sát và cả lời trình bày của người bào chữa, người bị hại.

Qua thực tiễn xét xử hiện nay, các Tòa án thường chỉ nhận định chung

chung về hành vi phạm tội của bị cáo, trong bản án chỉ nêu về nhân thân người

phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để cho rằng bị

cáo có hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội, nhưng không nêu được tính chất

và mức độ nguy hiểm cho xã hội như thế nào một cách rõ ràng cụ thể.Do đó, có

nhiều trường hợp Tòa án do không đánh giá được tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội, nên đã quyết định áp dụng phạt không chính xác,

có bản án kết tội quá nặng hoặcbản án kết tội quá nhẹ, mặc dù đã nêu được hết các

tình tiết về nhân thân người phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 BLHS năm 2015: “Những hành vi tuy có

dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì

không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.[31]. Do đó, tính

chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc vào tất cả các

yếu tố trong xã hội. Theo quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015: “Căn cứ vào tính

chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tội phạm được phân thành

21

bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm

trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. [31].Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội của hành vi phạmtội khác nhau, mức hình phạt trong một khung hình phạt cũng

khác nhau dù cho người có hành vi phạm tội trong cùng một loại tội phạm.

Mức hình phạt phải khác nhau dù trong cùng một khung hình phạt vì do tính

chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi hành vi phạm tội là khác nhau.Khi

quyết định áp dụng hình phạt, cần phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội trong cùng một khung hình phạt, nếu xác định không

đúng khung hình phạt sẽ xác định sai các quy phạm pháp luật cần áp dụng.Do đó,

khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cần phải

xem xét một cách toàn diện các yếu tố liên quan đến nó.

Các tính chất quan trọng bao gồm: khách thể bị xâm phạm,yếu tố lỗi cố ý

hay vô ý do hành vi phạm tội, mục đích phạm tội, động cơphạm tội và hậu quả do

hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của người phạm tội.v.v. Tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc vào tất cả các tính chất quan trọng

nêu trên.Do đó, khi quyết định áp dụng hình phạt, cụ thể là cân nhắc tính chất, mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cần phải chú trọng xem xét các yếu

tố thuộc về hành vi phạm tội, hậu quả gây ra, lỗi do vô ý hay cố ý, động cơ phạm

tội, mục đích phạm tội. Riêng các tình tiết có liên quan đến nhân thân người phạm

tội đã được quy định là một căn cứ khi quyết định hình phạt.

Khi xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ thể

phải xuất phát từ tổng thể các tình tiết mà ở đó tội phạm cụ thể đã được thực

hiện.Trong một số trường hợp các tình tiết như: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, hậu

quả, phương pháp, phương tiện thực hiện tội phạm được nhà làm luật quy định là

những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.Trong những trường hợp đó,

những tình tiết nói trên có ảnh hưởng ở một mức độ nhật định đến việc quyết định

hình phạt. Trường hợp những tình tiết nói trên không được các nhà làm luật quy

định là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thì chúng không có ý nghĩa

đối với việc định tội danh, nhưng có ý nghĩa rất lớn trong việc quyết định hình phạt

22

đối với bị cáo.Vì vậy, trong mọi trường hợp, cần phải xác định và cân nhắc các tình

tiết đó để có căn cứ đầy đủ cho việc quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Việc quyết định hình phạt luôn phụ thuộc chủ yếu vào hậu quả do tội phạm

gây ra.“Trong lý luận về luật hình sự, pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử, các hậu

quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được chia làm hai loại: Các hậu quả được

quy định với tính cách là một yếu tố của cấu thành tội phạm, định khung hình phạt

và các hậu quả không được quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm,

của khung hình phạt. Trong những trường hợp việc gây ra hậu quả được quy định

là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tộiphạm, định khung thì chúng không được coi

là dấu hiệu tăng nặng. Nhưng điều đó không có nghĩa là mức độ nghiêm trọng của

hậu quả đã xảy ra không được tính đến khi quyết định hình phạt”.[47]. Có thể nói

hậu quả gây ra càng nghiêm trọng thì mức độ hình phạt được quyết định càng phải

nghiêm khắc dù trong những điều kiện khác hay giống nhau, đây là điều cần phải

lưu ý khi quyết định áp dụng hình phạt.“Các hậu quả không được pháp luật quy

định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với

việc quyết định hình phạt”.Tội phạm gây ra hậu quả bao gồm cả những thiệt hại về

vật chất lẫn những thiệt hại phi vật chất.Sự nghiêm khắc của hình phạt sẽ được

quyết định phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hậu quả do tội phạm gây ra.

Ngoài ra, còn phải xác định và cân nhắc tính chất và mức độ lỗi của hành vi phạm

tội do người phạm tội thực hiện, vì cùng một loại lỗi nhưng mức độ thể hiện của

nó cũng khác nhau nên có ảnh hưởng khác nhau đến việc quyết định hình phạt.

Lỗi do người phạm tội vô ý vì quá tự tin nguy hiểm hơn lỗi vô ý của người phạm

tội vì cẩu thả, lỗi cố ý trực tiếp của người phạm tộithì nguy hiểm hơn lỗi cố ý gián

tiếp, cùng là lỗi cố ý trực tiếp nhưng sự quyết tâm phạm tội của người phạm tội

nguy hiểm hơn người không có ý thức quyết tâm phạm tội đến cùng. “Do đó, có

thể nói mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội có ảnh hưởng lớn đến

mức độ lỗi của người phạm tội”.[47]. Hành vi phạm tội đã thực hiện càng nguy

hiểm thì mức độ lỗi của người có hành vi phạm tội càng lớn, nên mức hình phạt

được quyết định cần phải nghiêm khắc hơn.Vấn đề này nói lên mối quan hệ trực

23

tiếp giữa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực

hiện và mức độ lỗi của người phạm tội.

Động cơ, mục đích cả trong trường hợp được luật quy định là những tình

tiết tăng nặng lẫn trong trường hợp luật quy định là những tình tiết giảm nhẹ, ảnh

hưởng đáng kể đến mức độ lỗi và do vậy, cũng ảnh hưởng đến mức hình phạt được

quyết định.Nhiệm vụ của Tòa án là phải làm sáng tỏ mục đích, động cơ của tội

phạm đã thực hiện vì xét đến cùng chúng có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết

định hình phạt. Trường hợp người phạm tội có động cơ, mục đích phạm tội gâyảnh

hưởng mạnh đến trật tự xã hội, mức hình phạtbị tăng nặng, nhưng ngược lại người

phạm tội có những động cơ, mục đích phạm tội không gây thiệt hại sẽ làm giảm nhẹ

lỗi của bị cáo và tương xứng giảm nhẹ mức hình phạt.

Việc quyết định hình phạt được thực hiện sau khi tính chất, mức độ nguy

hiểm của tội phạm thực hiện cần phải được xác định, điều này có ý nghĩa rất quan

trọng.Hội đồng xét xử khi xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạmđược

thực hiện nhằm đảm bảo cho việc quyết định một hình phạt công bằng, đúng người

đúng tội đối với người phạm tội.Ngoài việc xem xét một cách độc lập và toàn diện

các tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử còn phải xem xét mối liên hệ giữa chúng

với nhau trong cùng vụ án để quyết định áp dụng phạt tù có thời hạn thật phù hợp.

- Nhân thân người bị kết tội cần được xác định

Theo quy định tại Điều 50 BLHS quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án

phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân

thân người phạm tộ, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nâng trách nhiệm hình sự”. [31]

Nhân thân của người phạm tội bao gồm tuổi đời, sức khỏe, giới tính, nghề

nghiệp, trình độ văn hóa, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo,chỗ ở, quá trình làm việc, trình

độ chuyên môn nghiệp vụ, thành tích cũng nhưkỷ luật vàhoàn cảnh lịch sử bản

thân.v.v. được gọi là các yếu tố tự nhiên và xã hội, được thể hiện trong lý lịch của

người phạm tội và các tài liệu khác như Danh bản, Chỉ bản có liên quan đến nhân

thân của bị can được cơ quan công an điều tra thu thập đầy đủ trong hồ sơ vụ

án.Theo quy định của BLTTHS, các yếu tố về nhân thân của người phạm tội phải

được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận đầy đủ trong hồ sơ vụ án của người

24

phạm tội như Cơ quan điều tra ghi rõ và đầy đủ trong quyết định khởi tố, Viện kiểm

sát ghi nhận trong bản cáo trạng và của Tòa án phải ghi đầy đủ trong bản án.Nhân

thân của người phạm tội cũng là một trong những căn cứ quyết định áp dụng hình

phạt, nên nó rất quan trọng nếu bị bỏ sót sẽ ảnh hưởng đến việc quyết địnhhình

phạt.

Các yếu tố nhân thân của người phạm tội được quy định trong BLHS,tùy

theo một số trường hợp, được quy định là dấu hiệu định tội, định khung hình phạt

hoặc quy định là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.

Khi quyết định áp dụng hình phạt cho người có hành vi phạm tội, Tòa án

phải cân nhắc, xem xét một cách toàn diện, đầy đủ, chính xác để áp dụng một hình

phạt tương xứng với hành vi phạm tội của người phạm tội.Bởi vì, trong một số

trường hợp,yếu tố nhân thân người phạm tội có thể chưa đủ điều kiện theoquy định

của pháp luật để được xem là yếu tốđịnh tội, định khung hình phạt hoặc quy định là

tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử khi

đánh giá các yếu tố nhân thân của bị cáo, cần chú trọng xem xét các yếu tố nhân

thân không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, không phải là yếu tố định tội hay định khung hình phạt để làm căn cứ quyết

định áp dụng hình phạt.

Các đặc điểm nhân thân tác động đến việc quyết định hình phạt ở ba góc độ

khác nhau: Một là những tình tiết ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm của

tội phạm như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần...; hai là khả năng

cải tạo, giáo dục người phạm tội để đạt được mục đích hình phạt như tái phạm,

người chưa thành niên, người già...; ba là các đặc điểm thể hiện tính nhân đạo của

pháp luật, sự đánh giá xã hội, sự “Trả công” của Nhà nước như nhân thân tốt, phụ

nữ có thai, người bị bệnh, người được khen thưởng...

Việc xem xét yếu tố nhân thân người phạm tội nhằm làm rõ các lý do, mục

đích phạm tội, môi trường sống, phong tục tập quán của người phạm tội, hoàn cảnh

gia đình, học vấn, nghề nghiệp và các mặt tích cực, mặt tiêu cực của người phạm tội

thông qua các mối quan hệ xung quanh. Những đặc điểm, đặc tính đó ảnh hưởng

25

đến việc quyết định hình phạt, đến khả năng giáo dục cải tạo người phạm tội.

“Những đặc điểm, đặc tính về nhân thân như sự cư xử trong cuộc sống, quan hệ với

các thành viên trong gia đình, trong xã hội, với đồng chí trong công tác, trong lao

động, tinh thần, thái độ đối với công việc chung, đối với việc bảo vệ tài sản chung,

thái độ chấp hành kỷ luật, uy tín trong tập thể, lối sống, đạo đức, tham gia chiến

đấu bảo vệ Tổ quốc, thương binh, có người trong gia đình là liệt sĩ..”.[47]được Tòa

án cân nhắc trong quyết định hình phạt và ghi rõ, lý giải chúng có ảnh hưởng như

thế nào đối với việc quyết định hình phạt trong bản án.

Để đưa ra quyết định hình phạt, mức hình phạt tù phù hợp đối với hành vi

phạm tội của bị cáo, Tòa án không chỉ cân nhắc và đánh giá các đặc điểm, đặc tính

của nhân thân người phạm tội mà còn phải phải cân nhắc cả tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện. “Điều đó nói lên mối quan hệ biện

chứng giữa hành vi mà tội phạm đã thực hiện và các đặc điểm, đặc tính thuộc nhân

thân người phạm tội.Tuy nhiên, Tòa án phải coi trọng và lấy căn cứ tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện làm căn cứ hàng đầu, quan

trọng và quyết định.Tòa án phải cân nhắc nhân thân người phạm tội, tức là muốn

nói đến việc cân nhắc nội dung cụ thể của nhân thân người phạm tội trong từng vụ

án cụ thể. Các đặc điểm, đặc tính của nhân thân người phạm tội cụ thể bao giờ

cũng có nội dung cụ thể”.[47]. Bởi vậy, trong từng vụ án, Tòa án phải xác định và

chỉ rõ những tình tiết cụ thể chứng minh mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhân

thân người phạm tội, bao gồm cả các đặc điểm xấu lẫn các đặc điểm tốt của người

đó, tình tiết thể hiện khả năng giáo dục cải tạo của người phạm tội, tình tiết thể hiện

chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta để quyết định hình phạt đúng đắn, hợp

lý, công bằng.

- Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần được xác định.

Theo Điều 50 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017quy

định: “khi quyết định hình phạt Tòa án không chỉ phải cân nhắc tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện, nhân thân người phạm tội,

mà còn phải cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình

sự”.[31].

26

“Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc khi quyết định áp

dụng hình phạt là những tình tiết khác nhau về tội phạm đã thực hiện, về nhân thân

người phạm tội được quy định cụ thể trong luật hoặc không được quy định cụ thể

trong luật, nhưng được Tòa án cân nhắc với ý nghĩa làm giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự và hình phạt đối với người phạm tội. Các tình tiết tăng nặng được cân nhắc khi

quyết định hình phạt là những tình tiết khác nhau về tội phạm đã thực hiện, về nhân

thân người phạm tội được quy định cụ thể trong luật có ý nghĩa làm tăng nặng

trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội”.[47].

Trong bản án, Tòa án phải ghi cụ thể và lý giải những tình tiết nào được coi

là tình tiết giảm nhẹ, những tình tiết tăng nặng nào và điểm, khoản của Điều 51, 52

BLHS được áp dụng; riêng đối với các tình tiết giảm nhẹ do Tòa án đưa ra theo

khoản 2 Điều 51 BLHS, thì Tòa án phải nêu rõ lý do giảm nhẹ ngay trong bản án.

“Việc chỉ ra một cách cụ thể các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình

sự trong bản án làm cho hình phạt được tuyên có sức thuyết phục, có căn cứ hơn

đối với người bị kết án và những người khác, tạo điều kiện cho việc cải tạo, giáo

dục người phạm tội, thể hiện tính công bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án cấp

trên kiểm tra tính hợp lý và tính có căn cứ của bản án”.[47].

Quá trình áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, có

một số điểm sau đây cần lưu ý: Các tình tiết đã là yếu tố định tội, định khung hình

phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự trong

khi áp dụng phạt tù; Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ được xem xét một

lần khi quyết định hình phạt, còn tình tiết giảm nhẹ có thể được cân nhắc nhiều lần.

Thực tế trong công tác xét xử có nhiều vụ án có các tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.“Trong những trường

hợp như vậy, cần phải có quan niệm đánh giá toàn diện, đầy đủ, triệt để trong một

tổng thể thống nhất cả các tình tiết giảm nhẹ lẫn các tình tiết tăng nặng. Không

được đánh giá, xem xét một cách phiến diện, một chiều các tình tiết đó, tức là chỉ

coi trọng, cân nhắc loại tình tiết này, xem thường loại tình tiết kia,nhất là các tình

tiết thuộc về nhân thân của người phạm tội, hoặc chỉ đánh giá, cân nhắc các tình

27

tiết nào đó cho là cơ bản, quyết định”.[47]. Bằng cách đó, Tòa án mới có thể quyết

định hình phạt đúng pháp luật, hợp lý, công bằng.

1.2.1.2.Xác định các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến áp dụng

hình phạt tù có thời hạn.

- Về hình phạt tù có thời hạn.“Hình phạt tù có thời hạn là việc buộc người bị

kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định”.[31].

Người bị kết án phạt tù sẽ bị mất tự do, bị tách ra khỏi xả hội, người bị kết án

phải chịu sự quản lý giám sát của Công an trại giam. Do đó, có thể nói phạt tù có

thời hạn là một loại hình phạt nghiêm khắc. Người bị kết án phải chấp hành hình

phạt tù có thời hạn và chấp hành việc cải tạo theo quy định pháp luật.

Hình phạt tù có thời hạn trong Luật hình sự Việt Nam tuy là biện pháp cưỡng

chế nghiêm khắc, nhưng không mang tính chất trả thù hay hành hạ người bị kết án

mà cải tạo giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội.Trong thời gian chấp hành

hình phạt, nếu họ tiến bộ thì được xét giảm mức hình phạt. Cũng qua thực tế cho

thấy, trong trường hợp người bị kết án có thành tích tốt trong quá trình chấp hành án

tại trại giam, đa số những người bị phạt tù có thời hạn đều được giảm và được trả tự

do trước thời hạn. Bộ luật hình sự còn có những quy định không phải chấp hành

hình phạt tù khi đã hết thời hiệu; được miễn chấp hành hình phạt tù; giảm mức hình

phạt tù, hoãn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; án treo.

Điều 38 BLHS năm 2015 quy định:“Tù có thời hạn đối với người phạm một

tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm”.[31]. Tuy nhiên, mức này

chỉ đối với người phạm một tội, còn đối với người phạm nhiều tội thì mức tối đa có

thể lên đến 30 năm, quy định này thể hiện tính nhân đạo và bản chất của chế độ Nhà

nước Việt Nam. Có thể nói, Hội đồng xét xử khi áp dụng mức hình phạt không thể

thấp hơn 03 tháng, mặc dù người phạm tội thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng ởmức

nào.Hoặc người phạm tội thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhưng không

phải bị rơi vào trường hợp tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử cũng áp dụng

mức hình phạt đến 20 năm và nếu người phạm tội trong trường hợp phạm nhiều tội

thì Hội đồng xét xử khi áp dụng mức hình phạt chung không được vượt quá 30 năm

cho người phạm tội, dù họ bị kết tội ở nhiều bản án.

28

Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Không áp dụng hình

phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do lỗi vô ý và có

nơi cư trú rõ ràng”[31]. Đây là quy định thể hiện tính nhân đạo và nguyên tắc xử lý

đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do lỗi vô ý, đồng thời giảm thiểu số

người phải đi tù trong trại cải tạo.Tù có thời hạn chỉ được áp dụng trong trường hợp

khi thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội trong khoảng thời gian

nhất định.Trường hợp mục đích của hình phạt có thể đạt được mà không cần phải

cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội bình thường thì cần áp dụng hình

phạt không phải hình phạt tù.Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi khung

hình phạt của điều luật mà người phạm tội bị kết án có quy định hình phạt này.

Theo khoản 6 Điều 91 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy

định:“Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe,

phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội

được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm

tội tương ứng với thời hạn thích hợp ngắn nhất.[31]. Do đó cần lưu ý khi áp dụng

hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi rơi vào trường hợp

được quy định tại diều luật nêu trên.

- Về chế tài các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm được áp dụng.

Điều kiện quan trọng để áp dụng hình phạt đúng quy định pháp luật, đúng

người, đúng tội là đòi hỏi có sự nhận thức chính xác về điều kiện, phạm vi áp dụng

từng loại hình phạt được quy định trong Bộ Luật hình sự và tổng hợp hình phạt

trong trường hợp nhiều tội phạm...Ngoài ra còn phải thông hiểu rõ về các chế tài lựa

chọn, chế tài bắt buộc hoặc chế tài tùy nghi.

Có thể nói, Hội đồng xét xử cần phải căn cứ vào tất cả các quy định của bộ

luật hình sự một cách toàn diện, thống nhất khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Hội đồng xét xử cần phải nêu rõ trong bản án kết tội đã căn cứ những quy định

nàotrong Bộ Luật hình sự có liên quan một cách cụ thể đến hành vi của bị cáo để

quyết định áp dụng hình phạt.

29

1.2.1.3. Quyết định biện pháp trách nhiệm hình sự, loại và mức hình phạt

tương xứng với người phạm tội trên cơ sở xác định sự phù hợp các quy định của

BLHS với các tình tiết của vụ án được xác định.

Trên cơ sở xác định các tình tiết khách quan của vụ án liên quan đến việc áp

dụng hình phạt, nhận thức đầy đủ, chính xác các quy định của BLHS, Tòa án thực

hiện việc lựa chọn biện pháp trách nhiệm hình sự, loại và mức hình phạt tương

xứng để áp dụng đối với người phạm tội. Quá trình áp dụng hình phạt, Tòa án xem

xét và quyết định miễn hình phạt trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ được

quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt đối với thể

nhân (Điều 59 BLHS) và khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả của tội phạm và bồi

thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra đối với pháp nhân thương mại

phạm tội (Điều 88 BLHS). Tòa án quyết định loại và mức hình phạt (bao gồm hình

phạt chính và hình phạt bổ sung) áp dụng đối với người bị kết tội. Cũng có những

trường hợp, Tòa án không áp dụng hình phạt, mà lựa chọn biện pháp trách nhiệm

hình sự khác để áp dụng đối với người phạm tội như bắt buộc chữa bệnh theo quy

định tại Điều 49 BLHS hoặc đưa đi giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định

tại Điều 96 BLHS, v.v.... Hoặc đối với trường hợp đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi xét thấy các hình phạt và biện pháp

giáo dục khác không còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Hội đồng xét xử có thể miễn

và áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cụ thể như cho người dưới 18 tuổi phạm tội

được hưởng mức án nhẹ hơn mức áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội

tương ứng và với thời gian thích hợp ngắn nhất.

1.2.1.4. Ra Bản án đối người bị kết tội về áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Nội dung cuối cùng của hoạt động áp dụng hình phạt là ra văn bản áp dụng

hình phạt. Hình phạt do Hội đồng xét xử quyết định áp dụng đối với người phạm tội

thông qua xét xử tại phiên tòa. Cho nên, văn bản áp dụng hình phạt duy nhất là bản

án kết tội của Tòa án. Hội đồng xét xử luận giải lý do của việc áp dụng hình phạt

được tại phần xét thấy của bản án, trong đó Hội đồng xét xử lý giải việc áp dụng

hay không trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với bị cáo; lý do của việc áp dụng loại

và mức hình phạt được áp dụng; phân tích chứng cứ và căn cứ pháp lý của việc áp

30

dụng đó. Trong phần quyết định của bản án, sau khi tuyên bố bị cáo phạm tội cụ

thể, Hội đồng xét xử viện dẫn điều, khoản, điểm của BLHS được áp dụng và tuyên

hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Nếu áp dụng hình phạt tù có điều kiện (án treo) thì

Hội đồng xét xử giải thích về chế định án treo theo quy định tại Điều 65 BLHS, để

buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt theo đúng quy định của pháp luật.

1.2.1.5.Về chủ thể ra quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn; Sự phân

công, phân cấp và mối quan hệ phối hợp trong áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Theo Điều 364 BLTTHS quy định Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có

thẩm quyền ra quyết định thi hành án trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án,

quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết

định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm. Và theo quy định

tại Điều 22 Luật Thi hành án, Tòa án có trách nhiệm giao quyết định thi hành án

phat tù cho: Người phải chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Cơ quan thi hành án

hình sự Công an cấp tỉnh, Trại tạm giam nơi người chấp hành án đang bi tạm giam

tại nhà tạm giữ hoặc đang tại ngoại và Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định thi hành

án có trụ sở. Như vậy sau khi Tòa án ra quyết định thi hành án sẽ giao cho Viện

kiểm sát cùng cấp giám sát theo quy định tại Điều 7 Luật Thi hành án và Cơ quan

thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh và Trại tạm giam có nhiệm vụ thi hành quyết

định thi hành của Tòa án.

Trường hợp được giảm án theo quy định tại Điều 38 Luật Thi hành án, cơ

quan có thẩm quyền đề nghị làm văn bản đề xuất giảm án là Trại giam thuộc Bộ

công an và Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh gửi cho Viện kiểm sát và

Tòa án, Chánh án Tòa án nhân dân cấp Tỉnh thành lập hội đồng và tổ chức phiên

họp có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp để xét, quyết định giảm thời hạn

chấp hành án phạt tù.

Trường hợp người chấp hành án được tha tù trước thời hạn có điều kiện, Trại

giam, Cơ quant hi hành án hình sự Công an có trách nhiệm bàn giao hồ sơ phạm

nhân cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an nơi người tha tù trước thời hạn có

điều kiện về cư trú tiếp nhận, quản lý hồ sơ phạm nhân; lập hồ sơ quản lý người

được tha tù trước thời hạn có điều kiện và giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản

31

lýgiám sát, giáo dục người được tha tù trước thời hạn có điều kiện. Và Công an cấp

xã, tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ quản lý người được

tha tù trước thời hạn có điều kiện.

1.2.2. Nội dung áp dụng hình phạt tù có thời hạn: Áp dụng các quy định về

quyết định hình phạt tù có thời hạn và các vấn đề liên quan đối với người thành

niên, người dưới 18 tuổi phạm tội.

- Áp dụng quy định về miễn hình phạt tù có thời hạn.

Tòa án có thể quyết định miễn hình phạt trong trường hợp có nhiều tình tiết

giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt

đối với thể nhân (Điều 59 BLHS) và khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả của tội phạm

và bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra đối với pháp nhân

thương mại phạm tội (Điều 88 BLHS); Và đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tại

khoản 6 Điều 91 BLHS, HĐXX chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không

có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Hoặc khi xử phạt tù có thời hạn cho người dưới 18

tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi

trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

- Áp dụng quy định về miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn.

Theo Điều 62 BLHS quy định các trường hợp miễn chấp hành hình phạt tù

có thời hạn gồm: Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt tù khi được đặc xá

hoặc đại xá; Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm

chưa chấp hành hình phạt nhưng đã thuộc các trường hợp như sau khi bị kết án đã

lập công, mắc bệnh hiểm nghèo, chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc

biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Người bị

kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công

lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa,

thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp

hành toàn bộ hình phạt và người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ

chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc

chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó

32

không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm

sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

- Áp dụng quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù có thời hạn.

Theo Điều 67 BLHS quy định các trường hợp hoãn chấp hành hình phạt tù

có thời hạn gồm: Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi

con đủ 36 tháng tuổi; Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp

hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ

trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội

khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Bị kết án về tội

phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

- Áp dụng quy định giảm mức hình phạt tù có thời hạn đã tuyên.

Trong trường hợp áp dụng hình phạt tù đối với người thành niên phạm tội,

Tòa án có thể quyết định giảm mức hình phạt tù đã tuyên theo quy định tại Điều 63

BLHS, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ

và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. Nhưng đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội phải thực hiện áp dụng giảm mức phạt tù theo quy định tại Điều 105

BLHS.

- Áp dụng quy định về áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo.

Theo Điều 65 BLHS, khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân

thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt

chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách

từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy

định của Luật thi hành án hình sự.

- Các vấn đề liên quan trong việc áp dụng các quy định về quyết định hình

phạt tù có thời hạn.

Tòa án có thể quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù theo quy định

tại Điều 68 BLHS hay tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định tại Điều 66,

Điều 106 BLHS hoặc tổng hợp hình phạt tù của nhiều bản án hay trong trường hợp

phạm nhiều tội theo quy định tại Điều 55, Điều 56 BLHS đối với người thành niên

33

phạm tôi; Theo Điều 103, Điều 104 BLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy

nhiên, các điều luật nêu trên không quy định cụ thể để áp dụng cho hưởng án treo,

hay tha tù trước thời hạn có điều kiện …do đó Hội đồng xét xử phải xem xét một

cách toàn diện các văn bản như Nghị quyết hướng dẫn để lựa chọn biện pháp chấp

hành hình phạt cho phù hợp với bị cáo.

1.2.3.Ý nghĩa áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Để đạt được nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ gìn

trật tự xã hội đề ra, xây dựng và áp dụng hình phạt bảo đảm đúng có ý nghĩa rất lớn

sau đây:

-Ý nghĩa chính trị - Xã hội

Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng sẽ đảm bảo được mục đích và nâng

caohiệu quả của hình phạt.Khi Tòa án tiến hành áp dụnghình phạt tù có thời hạn tạo

thành một hình phạt cho bị cáo thì hình phạt này là sự đánh giá đầy đủ và toàn diện

nhất của Nhà nước đối với tất cả các tội mà bị cáo đã thực hiện. Nếu áp dụng hình

phạt tù có thời hạn không đúng sẽ làm mất tác dụng của hoạt động quyết định hình

phạt trước đó đối với từng tội và dẫn đến mục đích của hình phạt không đạt

được.Như vậy, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng sẽ góp phần rất lớn trong việc

nâng cao hiệu quả của việc quyết định hình phạt với từng tội và việc áp dụng hình

phạt chung trong thực tế.Mặt khác, áp dụng hình phạt tù có thời hạn còn có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng về chính trị - Xã hội, nếu Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời

hạn đúng sẽ nhận được sự đồng tình của dư luận xã hội, tạo ra sự đồng thuận xã hội

trong đánh giá tội phạm, đánh giá chính sách hình sự của Nhà nước ta, đồng thời

bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền con

người, bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

trong lĩnh vực hình sự, làm tăng uy tín của Tòa án, Cơ quan xét xử của nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Cho nên, để giữ vững trật

tự pháp luật, trật tự an ninh xã hội cũng như bảo vệ công bằng xã hội và đẩy mạnh

công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa cần phải thực

hiện việc áp dụng phạt tù có thời hạn bảo đảm đúng pháp luật.

-Ý nghĩa pháp lý

34

“Áp dụng hình phạt đúng thể hiện sự đúng đắn, hợp lý của văn bản pháp luật

hình sự, sức sống của pháp luật hình sự trên thực tế. Đồng thời qua hoạt động áp

dụng hình phạt, cơ quan có thẩm quyền cũng phát hiện những bất cập, vướng mắc

của các quy phạm pháp luật hình sự để có những biện pháp bảo đảm áp dụng thống

nhất pháp luật trên thực tế; ban hành án lệ hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện

BLHS.Áp dụng hình phạt thể hiện tính hiệu quả của trình tự, thủ tục tố tụng quy

định trong áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng hình phạt nói riêng. Hoạt

động áp dụng hình phạt là cơ sở thực tiễn để kiểm nghiệm trên thực tế các quy định

của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến áp dụng hình phạt nhằm tổng kết, rút

kinh nghiệm và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trong xây dựng một hệ thống

tư pháp hình sự dân chủ, hiệu quả, vì công lý, vì con người”.[15].

-Ý nghĩa giáo dục phòng ngừa

“Mục đích của hình phạtchỉ đạt được tức là có tác dụng giáo dục cải tạo

người phạm tội, ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác khi hình phạt

được áp dụng một cách chính xác và công bằng.Người phạm tội vànhững người

khác sẽ có thái độ xem thường pháp luật nếu mức hình phạt được quyết định áp

dụng quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thực

hiệnvà ngược lại người bị kết án sẽ có tâm lý tiêu cực, chán nản trong giáo dục cải

tạo, không tin tưởng vào tính công bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ

quan tiến hành tố tụngnếu hình phạt được quyết định áp dụng quá nghiêm khắc.Ý

nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt sẽ bị sút giảm do hậu

quả của hai vấn đề nêu trên gây ra. Trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và

chống tội phạm, sự công bằng của pháp luật sẽ tạo nên niềm tin tưởng cho người

dân cũng như tạo nên sự đồng thuận của toàn xã hội.Chính vì vậy, áp dụng hình

phạt một cách đúng đắn sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực để toàn xã hội tham gia tích cực

vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta”.[15].

1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn:

Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn là tổng hợp các

nhân tố (chủ quan, khách quan) làm ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng phạt tù có

thời hạn. Các yếu tố tác động đến hoạt động áp dụng phạt tù có thời hạn, gồm:

35

- Sự thay đổi trong chính sách pháp luật.

Hệ thống pháp luật hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự, Bộ Luật hình sự và các

quy phạm pháp luật khác có liên quan có chất lượng về mặt giá trị pháp lý là điều

kiện bảo đảm hàng đầu cho việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn.Khi Hội đồng xét

xử quyết định hình phạt phải dựa vào các quy phạm pháp luật để làm căn cứ pháp lý

cho việc áp dụng hình phạt. Vì vậy, nếu các quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng

hình sự và các văn bản khác có liên quan đầy đủ, đồng bộ tạo điều kiện cho hoạt

động áp dụng hình phạt tù có thời hạn được chính xác, đúng tội, đúng pháp luật.

Ngược lại, các quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các văn bản khác có

liên quan không đầy đủ, chồng chéo nhau, mâu thuẫn trùng lặp, không có tính khả

thi ảnh hưởng rất lớn đến hoạt đồng áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Vì vậy việc

hoàn thiện nâng cao chất lượng lượng hệ thống pháp luật hình sự, Luật Tố tụng hình

sự và các quy phạm pháp luật khác có liên quan nhằm đảm bảo việc áp dụng phạt tù

có thời hạn là yêu cầu cấp thiết được đặt ra.

Ngoài các Bộ luật, Luật hoặc Pháp lệnh, hệ thống các văn bản hướng dẫn thi

hành như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư

liên tịch cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thống nhất áp dụng pháp

luật vào việc giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm chất lượng áp dụnghình phạt tù có

thời hạn của Tòa án.

Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở tính rõ ràng, minh bạch,

dễ hiểu, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, với ý thức pháp luật của nhân dân,

nhất là chính sách hình sự của Nhà nước ta có tính khả thi. Vì vậy, tính đúng đắn,

phù hợp, khả thi về mặt nội dung, hợp lý về kỷ thuật lập pháp…,luôn là tiêu chí ban

hành các văn bản pháp luật nói chung, các văn bản là cơ sở pháp lý cho việc áp

dụng hìnhphạt tù có thời hạn của Tòa án nói riêng.

- Năng lực, trình độ, phẩm chất của các chủ thể áp dụng hình phạt tù có thời

hạn trong xét xử các vụ án hình sự.

Để hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn được khách quan, toàn diện,

đúng pháp luật, ngoài hệ thống pháp luật hoàn chỉnh thì nhân tố có ý nghĩa quyết

định đến hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn là các Thẩm phán và Hội thẩn

36

nhân dân làm nhiệm vụ trực tiếp xét xử. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối

với người có hành vi phạm tội sẽ bảo đảm đúng pháp luật nếucác Thẩm phán và Hội

thẩn nhân dân có hiểu biết sâu sắc về pháp luật, có trình độ năng lực chuyên môn

nghiệp vụ cao, có phẩm chất đạo đức tốt. Trái lại, nếu trình độ năng lực, phẩm chất

đạo đức của Thẩm phán và Hội thẩn nhân dân bị hạn chế, yếu kém, bản lĩnh thiếu

vững vàng thì chất lượng trong hoạt động xét xử nói chung và hoạt động áp dụng

hình phạt tù có thời hạn nói riêng cụ thể là bản án sẽ thiếu chính xác và công bằng,

không đạt được mục đích của hình phạt.

- Quan hệ phối hợp và quy chế phối hợp liên ngành đạt hiệu quả giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng.

Khi các cơ quan tiến hành tố tụng hoạt động nhằm mục đích giải quyết vụ án

hình sự phải thực hiện các quy định của BLTTHS theo trình tự thủ tục nghiêm ngặt

từgiai đoạn điều tra cho đến truy tố và cuối cùng là giai đoạn xét xử.Ở mỗi giai

đoạn Nhà nước trao quyền cho một cơ quan nhất định: cơ quan điều tra tiến hành

các hoạt động điều tra, bản cáo trạng là quyết định truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án

tiến hành xét xử vụ án kết luận hành vi phạm tội hay không phạm tội. Mỗi cơ quan

có chức trách quyền hạn khác nhau nhưng đều chung mục đích là xác định sự thật

vụ án. Vì vậy để đảm bảo giải quyết tốt vụ án hình sự, đưa ra quyết định áp dụng

hình phạt tù có thời hạn đúng đắn, khách quan, hợp pháp của các hoạt động và văn

bản tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, đồng thời phải phối hợp chặt chẻ

với các cơ quan đó để quyết vụ án nhanh chóng, theo đúng quy định của pháp luật.

Ngược lại nếu các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đều thể hiện quyền của

riêng mình, không phối hợp nhịp nhàng sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án của

Tòa án trong việc đưa ra các quyết định của mình.

37

Kết luận chương 1

Trong Chương 1, luận văn đã đạt được các kết quả:

Lý luận về áp dụnghình phạt tù có thời hạn, cụ thể là phân tích khái niệm áp

dụnghình phạt tù có thời hạn (định nghĩa và đặc điểm của áp dụng hình phạt tù có

thời hạn); phân tích ý nghĩa của áp dụnghình phạt tù có thời hạn; các nguyên tắc áp

dụng hình phạt tù có thời hạn; nội dung và ý nghĩa áp dụnghình phạt tù có thời hạn;

các yếu tố tác động đến áp dụnghình phạt tù có thời hạn.

Một trong những nội dung quan trọng của đề tài là nghiên cứu lý luận về áp

dụng hình phạt.Việc nghiên cứu này sẽ là cơ sởcho nội dung nghiên cứu ở chương

II, phần các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình phạt.

Áp dụng hình phạt tù có thời hạn có quy trình hoạt động theo một trình tự cụ

thể thống nhất đúng quy định về nội dung và hình thức.Theo quy định về nội

dung,Tòa án áp dụnghình phạt tù có thời hạn căn cứ vào các quy định của Bộ luật

hình sự và trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội,

Tòa án phải thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Qua nghiên cứu áp dụng hình phạt tù có thời hạn, bản thân nhận thấy được

mục đích và ý nghĩa quan trọng trong áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Một, đó là

áp dụng hình phạt tù có thời hạn có ý nghĩa rất lớn về mặt chính trị, xã hội và hệ

thống pháp luật Việt Nam.Hai, là mục đích giáo dục cải tạo và phòng ngừa tội

phạm. Đồng thời được hiểu rõ hơn các yếu tố tác động trong việc áp dụng hình phạt

tù có thời hạn: Về sự thay đổi chính sách pháp luật, yếu tố năng lực, trình độ, phẩm

chất của các chủ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong xét xử các vụ án hình

sự, yếu tố chính sách đãi ngộ, trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác

xét xử và mối quan hệ phối hợp và quy chế phối hợp liên ngànhđạt hiệu quả giữa

các cơ quan tiến hành tố tụng. Giáo dục người phạm tội có ý thức tuân theo pháp

luật và quy tắc của cuộc sống, phòng ngừa họ phạm tội mớiđó chính là mục đích

chủ yếu của áp dụnghình phạt tù có thời hạn.

38

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP

2.1. Khái quát tình hình tội phạm xảy ra ở quận Gò Vấp;Việc thụ lý, xét

xử liên quan đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân quận

Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh

2.1.1. Khái quát về tội phạm ở quận Gò Vấp

Quận Gò Vấp nằm ở phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh, có địa giới hành

chính, phía đông giáp quận Bình Thạnh và Quận 12, phía tây và phía bắc giáp Quận

12, phía nam giáp quận Phú Nhuận và quận Tân Bình, với tổng diện tích tự nhiên

của quận là 19,74km2, gồm 16 phường và 491.122 nhân khẩu. Là cửa ngõ nối liền

trung tâm thành phố với các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh... qua trục lộ

Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, xa lộ Đại Hàn, tiếp cận phi trường Tân Sơn Nhất và

đường xe lửa bắc Nam. Tuy có một diện tích đất đai tương đối lớn - đứng hàng thứ

ba trong 12 quận nội thành của thành phố nhưng Gò Vấp lại là nơi mà đất đai quân

sự chiếm một tỉ trọng khá lớn 329,3ha, nhiều căn cứ quân sự hậu cần phục vụ cho

cuộc chiến tranh xâm lược của Đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã được xây

dựng trước đây.

Ngoài ra vốn là một quận ven nội thành nên diện tích đất nông nghiệp cũng

chiếm một tỉ trọng không nhỏ, quận Gò Vấp có quỹ đất lớn so với các quận khác.Từ

những năm 80, quận Gò Vấp được xem là một quận có tốc độ đô thị hóa cao

của Thành phố Hồ Chí Minh, quá trình đô thị hóa quá nhanh đã làm cho quận Gò

Vấp trở thành một trong ba quận có tốc độ tăng dân số cơ học cao nhất thành phố.

Cụ thể, năm 1976 quận Gò Vấp có 144 ngàn dân thì năm 1995 đã có 223 ngàn

người, năm 2000 là 231 ngàn, năm 2003 là 413 ngàn và năm 2004 là 455 ngàn

người. Tính từ năm 1980 đến năm 2003, dân số của quận Gò Vấp tăng 2,87lần,

trung bình tăng mỗi năm13,66%. Theo thống kê vào năm 2019 của Cục Thống kê

Thành phố Hồ Chí Minh, dân số quận GòVấp là 602.180 người. Đây là quận đông

dân thứ 2 của thành phố (sau quận Bình Tân), tập trung nhiều thành phần dân cư từ

các tỉnh thành trong nước đến làm ăn, sinh sống, phần lớn là người dân lao động với

39

đời sống còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí và nhận thức pháp luật còn một số hạn

chế, nhiều vụ việc người dân vi phạm do thiếu hiểu biết về pháp luật. Cho nêntrên

địa bàn quận Gò Vấp,tình trạng mất trật tự an ninh xã hội thường xuyên xảy ra và

tội phạm theo đó ngày càng tăng.

Từ đầu năm 2016 đến cuối năm 2020, số vụ án TAND quận Gò Vấp phải

giải quyết là 1.399 vụ với 2038 bị cáo. Trong đó, tội phạm thường thực hiện hành vi

phạm tội thuộc các tội sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác 86 vụ;Tội cướp giật tài sản 132 vụ; Tội trộm cắp tài sản 395 vụ; Tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản 42 vụ; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 26 vụ;

Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 208 vụ; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc

chiếm đoạt chất ma túy 249 vụ; Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ 27 vụ; Tội đánh bạc 69 vụ; Tội cướp tài sản 38 vụ. Điễn hình là một số loại tội

phạm ngày càng tăng, như:Tội trộm cắp tài sản, Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán

hoặc chiếm đoạt chất ma túy,Tội cướp giật tài sản,Tội đánh bạc, Tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản...

2.1.2. Khái quát kết quả thụ lý, xét xử của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

Tòa án nhân dân quận Gò Vấp hiện có: tổng biên chế được giao là 60 người

(trong đó có 40 Thẩm phán; 01 Thẩm tra viên; 19 Thư ký); Hàng năm, nhân sự của

TAND quận Gò Vấp đều thực hiện theo lệnh điều động, chuyển đổi vị trí công tác,

làm quy trình đề nghị và được Chánh án TANDTC bổ nhiệm và bổ nhiệm lại đối

với các thẩm phán trung cấp và sơ cấp. Bên cạnh đó, công tác đào tạo, tập huấn

chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trong Tòa án Thành phố Hồ Chí

Minh cũng như Tòa án quận Gò Vấp nói riêng cũng được quan tâm, chú trọng.

Trong những năm gần đây, Đảng bộ của ngành Tòa án cũng như Đảng bộ của quận

Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh liên tục tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo về mặt

chính trị, bồi dưỡng, đào tạo thạc sĩ và bồi dưỡng cả chuyên môn nghiệp vụ nhằm

nâng cao trình độ chính trị và trình độ giải quyết án cho các cán bộ công chức.

Tòa án nhân dân quận Gò Vấpluôn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương

và nhiệm vụ chuyên môn, còn phải luôn quan tâm và bảo đảm đầy đủ trang thiết bị

và cơ sở vật chất phục vụ tốt cho công tác xét xử. Bên cạnh đó, Tòa án nhân

40

dânquận Gò Vấp còn cùng đồng hành với Tòa án cấp trên Tòa án nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đặt ra là tiếp tục cải cách tư

pháptheo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp.

Với sự quan tâm, chỉ đạo của Tòa án cấp trênlà Tòa án nhân dân Thành phố

Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp đã phối hợp chặt chẽ với Đảng bộ, ban

nghành trong quận.Dù có nhiều khó khăn nhưng Tòa án nhân dân quận Gò Vấp đã

hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, đó là kết quả của một Tòa án nhân dân quận

Gò Vấp, làcủa một tập thể lãnh đạo và của tập thể cán bộ, công chức với sự đoàn

kết,với tinh thần trách nhiệm cao và ý chí quyết tâm cùng nhau thực hiện nhiệm vụ.

Theo Bản báo cáo kết quả giải quyết án hàng năm (năm 2016 đến năm 2020)

của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, số liệu thụ lý, số liệu xét xử các vụ án hình sự

được thể hiện qua bảng tổng hợp số liệu sau:

Bảng 2.1: Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý của các TAND quận Gò Vấp

Đơn vị tính: Vụ án, bị cáo

Số liệu thụ lý Ghi chú STT Năm

1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020 Vụ án 372 329 275 239 189 Bị cáo 556 493 375 358 268

(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND Gò Vấp)

Qua bảng số liệu thống kê chúng ta thấy:

- Năm 2016,Tòa án nhân dân quận Gò Vấp thụ lý 372 vụ án hình sự, với tổng số

556 bị cáo;

-Năm 2017, Tòa ánnhân dân quận Gò Vấp thụ lý 329 vụ án hình sự với tổng số 493

bị cáo;

-Năm 2018, Tòa ánnhân dân quận Gò Vấp thụ lý 275 vụ án hình sự với tổng số 375

bị cáo;

- Năm 2019, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp thụ lý 239 vụ án hình sự với tổng số

358 bị cáo.

41

- Năm 2020,Tòa án quận Gò Vấp thụ lý 189 vụ án hình sự với tổng số 268 bị cáo;

Bảng số liệu trên cho thấy, so với các năm 2016, 2017, số bị cáo phạm tội ở những

năm 2018, 2019 và 2020 có giảm nhiều.

Bảng 2.2: Số liệu kết quả xét xử của các TAND quận Gò Vấp

Đơn vị tính: Vụ án, bị cáo

Tổng số giải quyết Ghi chú STT Năm

1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020 Bị cáo 550 493 348 358 268 Vụ án 369 329 261 239 189

(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND Gò Vấp)

Qua số liệu tổng hợp, phân tích cho chúng ta thấy trong thời gian 05 năm (từ

năm 2016 đến năm 2020) Tòa án nhân dân quận Gò Vấp đã xét xử 1.387 vụ, với

2017 bị cáo, cụ thể như sau:

- Năm 2016, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp giải quyết 369 vụ án hình sự, với

550 bị cáo.

- Năm 2017, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp giải quyết 329 vụ án hình sự, với

493 bị cáo.

- Năm 2018, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp giải quyết 261 vụ án hình sự, với

348 bị cáo.

- Năm 2019, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp giải quyết 239 vụ án hình sự, với

358 bị cáo.

- Năm 2020, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp giải quyết 189 vụ án hình sự, với

268 bị cáo.

Qua số liệu xét xử các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp trong

thời gian 5 năm (từ năm 2016 đến năm 2020), cho thấy với số lượng án thụ lý

nhiều, tỷ lệ giải quyết cao, có năm không có án tồn. Như vậy, Tòa án nhân dân quận

Gò Vấp đã kịp thời đưa ra xét xử các vụ án hình sự, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính

trị được giao.

42

Bảng 2.3: Số liệu các tội tội phạm thường xảy ra

Đơn vị tính: Vụ án

STT Tội danh

1 2 Năm 2016 75 20 Số thụ lý theo năm Năm 2018 59 55 Năm 2019 50 65 Năm 2017 86 15 Năm 2020 45 36

3 15 25 15 21 10

4 5 25 11 27 9 24 5 25 7 15 4

6 8 10 4 3 4

7 8

Tội trộm cắp tài sản Tội tàng trữ trái phép chất ma túy Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác Tội cướp giật tài sản Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tín lạm dụng Tội nhiệm chiếm đoạt tài sản Tội đánh bạc Tội cướp tài sản Tổng cộng

12 4 130 59 28 4 204 123 13 8 183 78 18 7 179 190

15 2 188 51 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND Gò Vấp) 9 Các tội phạm khác

Qua bảng số liệu nêu trên: Năm 2016 số lượng tội phạm bị đưa ra xét xử

nhiều nhất trong 5 năm (2016 - 2020). Từ năm 2016 đến năm 2020, xu hướng

chung số lượng vụ án theo các tội danh được thống kê nhìn chung có xu hướng

giảm dần, có nhiều tội giảm mạnh như tội trộm cắp tài sản, Tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, Tội đánh bạc...Đây là kết quả chung của quá trình đấu tranh phòng chống tội

phạm của lực lượng công an nhân dân quận Gò vấp nói riêng và cả các cơ quan có

thẩm quyền trong địa bàn quận Gò Vấp nói chung cùng thực hiện trong cả một thời

gian dài. Tuy nhiên, vẫn còn một số loại tội danh tăng nhiều như: tội tàng trữ, mua

bán trái phép chất ma túy, Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của

người khác.

2.2. Thực trạng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân

dân quận Gò Vấp.

Qua số liệu xét xử vụ án hình sự trong 05 năm nêu trên thấy rằng nếu so với

áp dụng các hình phạt chính khác, Tòa án áp dụnghình phạt tù có thời hạn với số

lượng rất nhiều.

43

Bảng 2.4: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng của Tòa án

Đơn vị tính: Bị cáo

Số liệu hình phạt chính được áp dụng

Năm Tổng số bị cáo Cảnh cáo Phạt tiền Cải tạo không giam giữ Tù có thời hạn

2016 2017 2018 2019 2020 Tổng Số % 1 2 0 1 1 5 0,24% 3 0 1 0 2 6 0,3% 0 0 0 0 0 0 0 Cho hưởng án treo 86 72 59 65 68 350 17,35% 460 419 288 292 197 1656 82,1%

550 493 348 358 268 2017 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND Gò Vấp)

Trên đây là bảng số liệu ghi nhận tỷ lệ áp dụng hình phạt của Tòa án nhân

dân quận Gò Vấp trong thời gian 05 năm (2016 -2020).

Qua bảng số liệu trên tỷ lệ áp dụng hình phạt tại quận Gò Vấp: Áp dụng hình

phạt tù có thời hạn đối với 1.656 bị cáo chiếm 82,1%. Hình phạt tù có thời hạn

chiếm tỷ lệ rất lớn 82,1%, chưa tính đến số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời

hạn nhưng cho hưởng án treo. Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn có nhiều

mức khác nhau và phổ biến. Áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với

350 bị cáo chiếm 17.35%; Áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với 6 bị

cáo chiếm 0.3%; Áp dụng hình phạt tiền đối với 5 bị cáo chiếm tỷ lệ 0.24%.

Bảng 2.5: Số liệu áp dụnghình phạt tù có thời hạn

Đơn vị tính: Bị cáo

Số liệu phạt tù có thời hạn được áp dụng

Năm Tù từ trên 7 năm đến 15 năm Tổng số bị cáo Tù từ 3 năm trở xuống Bị cáo Tỷ lệ Bị cáo

550 493 348 358 268 482 421 293 304 199 % 87,63 85,39 84,19 81,91 74,25 2016 2017 2018 2019 2020 Tù từ 3 năm đến 7 năm Bị cáo 59 65 45 48 62 Tỷ lệ % 10,72 13,18 12,93 13,40 23,13 Tỷ lệ % 1,09 0,81 2,87 1,39 1,86 6 4 10 5 5 Tổng hợp hình phạt Bị cáo 3 3 0 1 2 Tỷ lệ % 0,54 0,60 0 0,27 0,74

(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND Gò Vấp)

44

Qua phân tích số liệu áp dụnghình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận Gò

Vấp thấy: Áp dụng phạt tù từ 3 năm trở xuống đối với 1.699 bị cáo, chiếm tỷ lệ

84,23 %, tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn; Áp dụng phạt tù từ 3

năm đến 7 năm đối với 279 bị cáo, chiếm tỷ lệ 13,8 % tổng số bị cáo bị áp dụng

hình phạt tù có thời hạn; Áp dụng phạt tù từ 7 năm đến 15 năm đối với 30 bị cáo,

chiếm 1,48% tổng số bị cáo bị áp dụng phạt tù có thời hạn; Tổng hợp hình phạt tù

từ 9 bị cáo, chiếm 0,44% tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Bảng 2.6: Số liệu về nhân thân của bị cáo

Đơn vị tính: Bị cáo

Phân tích đặc điểm nhân thân các bị cáo đã bị xét xử

Năm Bị cáo

Nữ Đảng viên Nghiện ma túy

Cán bộ công chức Dân tộc thiểu số Từ 18 đến 30 tuổi Tái phạm, tái phạm nguy hiểm

Từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi 9 13 5 8 6 28 12 21 34 26 56 48 51 45 55 59 61 48 56 35 2 0 0 0 1 0 0 0 1 0 1 0 0 1 1 388 354 213 200 129

Từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi 7 2016 550 5 2017 493 10 2018 348 13 2019 358 2020 268 15 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND Gò Vấp)

Từ những bảng thống kê trên đây có thể thấy công tác xét xử luônđược chú

trọng, căn cứ các quy định của Bộ luật Hình sự, Tòa án tuyên các bản án được bảo

đảm đúng pháp luật và công bằng. Hình phạt Tòa án áp dụng đã nghiêm trị những

kẻ cầm đầu, ngoan cố chống đối, lưu manh…Đồng thời thể hiện chính sách khoan

hồng đối với những người tự thú, ăn năn hối cải. Trong quá trình xét xử tại phiên

tòa, Hội đồng xét xử thục hiện việc xét hỏi đúng trình tự, đồng thời xem xét, làm rõ

các tình tiết định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân của bị cáo.

Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, nên trong quá trình nghị án

Hội đồng xét xử cùng thảo luận và quyết dịnh theo đa số, vì vậy quyết định của Hội

45

đồng xét xử là quyết định mang tính tập thể của đa số thành viên Hội đồng xét xử.

Việc nghị án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại

phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của kiểm

sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác.Từ đó, áp dụng hình

phạt và mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm được

thực hiện.

Ví dụ: Bản án số 59/2018/HSST ngày 08/05/2018 của TAND quận Gò Vấp.

Khoảng 17 giờ ngày 17/4/2017, Lê Minh C, Phạm Văn, Trần Minh C và Lê Tứ T

cùng với K và T (chưa rõ lai lịch) đi nhậu cùng nhau. Sau đó cả bọn về công ty Đại

Hưng Thịnh ngủ, khi về đến nơi C và H ở ngoài sân cự cải việc thanh toán tiền

nhậu, H cầm 01 vỏ chai bia sài gòn và 01 cây sắt tròn phi 18 dài 78,5cm đứng ngoài

sân kêu C ra nhưng C không ra, H liền chạy vào nhà đánh C nên C chụp 01 con dao

đang để trên kệ đâm H hai nhát trúng vào ngực trái và lưng phải gây thương tích.

Ngày 31/5/2017, anh Phạm Văn H làm đơn yêu cầu khởi tố xử lý hình sự đối

với Lê Minh C.

Hội đồng xét xử đã xem xét các tình tiết ảnh hưởng đến việc áp dụng hình

phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội trong suốt quá trình xét xử.Hội đồng xét

xử nhận định: Hành vi của Lê Minh C đã xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của anh

Phạm Văn H được chứng minh bởi Bản kết luận giám định pháp y về thương tích

với tỷ lệ thương tật toàn bộ là 46% vĩnh viễn. Hành vi hại đến tính mạng, sức khỏe

của Lê Minh C là bất hợp pháp, rất nguy hiểm cho xã hội, vì vậy Lê Minh C đã

phạm tội “ cố ý gây thương tích”. Do Lê Minh C có hành vi xâm hại đến tính mạng,

sức khỏe của người khác nên phải bị xử lý theo theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ

luật Hình sự, có mức án từ 5 năm đến 10 năm tù.

Hành vi phạm tội của bị cáo sau khi đã xem xét và khung hình phạt đã được

xác định. Hội đồng xét xử tiếp tục nhận định về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo tự

nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại; bị cáo phạm tội trong trường hợp vượt quá

giới hạn phòng vệ chính đáng; bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải nên được

hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, c, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật

Hình sự.

46

Cuối cùng hội đồng xét xử quyết định áp dụng điểmc khoản 3 Điều 134,

điểm b,c,s khoản1, 2 Điều 51 BLHS.Xử phạt bị cáo Lê Minh C 04 (bốn) năm tù.

Hội đồng xét xửđã cân nhắc các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự của bị cáo và quyết định áp dụng mức phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là

phù hợp với tính chất hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

Ví dụ: Bản án số 131/2017/HSST ngày 14/6/2017 của TAND quận Gò Vấp.

Khoảng 17 giờ ngày 27/01/2015, chị Hồ Yến Nhật A cùng với Hồ Thị Kim

H đang đứng trước nhà số 9/17 đường số 6, phường 3, quận Gò Vấp, trên tay chi A

có cầm 01 chiếc Ipad để xem hình, bất ngờ Lê Trương Minh T điều khiển xe gắn

máy Yamaha Classico biển số 59V1-26927 chạy ép sát chị A từ phía sau rồi giật

máy tính bảng tẩu thoát về hướng chợ Tân Sơn Nhất. Chị A, chị H truy hô đuổi

theo. T chạy được một đoạn rồi quẹo trái thì bị ngã xe nên vứt lại chiếc Ipad xuống

đất rồi dựng xe lên tiếp tục chạy về hướng bãi giữ xe của chợ Tân Sơn Nhất thì bị

quần chúng nhân dân bắt giữ.

Trong quá trình xét xử, bị cáo Lê Trương Minh T không thừa nhận hành vi

phạm tội, bị cáo T cho rằng bị cáo không có hành vi cướp giật chiếc Ipad của người

bị hại, bị cáo chỉ thừa nhận hành vi do lúc chạy xe nhanh thiếu quan sát nên va quẹt

vào tay của người bị hại làm rớt chiếc Ipad xuống đất vì sợ bị bắt đền nên bỏ chạy.

Hội đồng xét xử đã công bố các lời khai của người bị hại và các nhân chứng,

công bố bản sơ đồ hiện trường xác định điểm rơi của chiếc Ipad cách vị trí người bị

hại đứng gần 100m, bị cáo vẫn không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Hội

đồng xét xử nhận định: các lời khai của người bị hại và các nhân chứng cùng với

các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận

Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát quận Gò Vấp. Hành vi cướp giật tài

sản của người khác của bị cáo T, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản

của người khác.Vì vậy Lê Trương Minh T đã phạm tội cướp giật tài sản theo khoản

2 Điều 136 BLHS, có mức án từ 03 năm đến 10 năm tù.

Sau khi nhận định về hành vi của bị cáo và xác định khung hình phạt.Hội

đồng xét xử tiếp tục nhận định về các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết tăng nặng: Bị

cáo không thành khẩn khai nhận tội nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy

47

định tại khoản 1 điều 46 bộ luật hình sự, bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử lý về

hành vi cướp giật tài sản.Hội đồng xét xử quyết định áp dụng điểm d khoản 2 Điều

136 BLHS. Xử phạt bị cáo Lê Trương Minh T 03 năm 6 tháng tù.

Hội đồng xét xử đã cân nhắc các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự của bị cáo và quyết định áp dụng mức phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là

phù hợp với tính chất hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

2.3. Nhận xét, đánh giá về thực trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn

của TAND quận Gò Vấp.

2.3.1. Những hạn chế, vướng mắc trong áp dụnghình phạt tù có thời hạn

của TAND quận Gò Vấp.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng có những thiếu sót, sai lầm gây

ảnh hưởng không nhỏ tới quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội, cũng như uy

tín của cơ quan thực thi pháp luật.Vấn đề này được nhận thấy qua thực tiễn xét xử,

việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc và thường

gặp phải tập trung chủ yếu ở những dạng sau đây:

- Một là, quyết định hình phạt không đúng (quá nặng; quá nhẹ; miễn trách

nhiệm hình sự, miễn hình phạt, cho hưởng án treo không đúng…)

Trong khi xét xử các vụ án hình sự, do Hội đồng xét xử đã xác định không

đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, xác định sai

khung hình phạt, điểm, khoản và điều luật áp dụng…Do đó, việc áp dụng hình phạt

không đúng pháp luật đối với người thực hiện hành vi phạm tội đã có những sai sót

vướng mắc là tất yếu. Cụ thể như sau:

+Quyết định hình phạt cho hưởng án treo không đúng do đánh giá xem xét

tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm tội không đúng.

Khoảng 20 giờ ngày 27/5/2016, ông Nguyễn Văn C đang ngồi trông coi tiệm

Internet “Không Gian Xanh” (địa chỉ số 85 Nguyễn Kiệm, phường 3, quận Gò Vấp),

nhìn thấy Nguyễn Văn L đi ngang qua nên gọi L để đòi số tiền 450.000 đồng mà L

chơi game chưa trả, L và C cải nhau, L bỏ đi về. Sau đó bị cáo Nguyễn Văn L gọi điện

thoại cho Nguyễn Công D đến tiệm Internet “Không Gian Xanh” để đánh nhau,

Nguyễn Công D đồng ý và D rũ thêm Huỳnh Tuấn A, Trần Mạnh D và P cùng đi. Khi

48

đến tiệm Internet “Không Gian Xanh”, Huỳnh Tuấn A, Trần Mạnh D và P đứng ngoài,

còn Nguyễn Văn L và Nguyễn Công D xông vào tiệm, bị cáo L cầm 01 con dao tự chế

dài 50cm chém làm bể 08 cái màn hình máy vi tính Samsung và 02 tấm cửa kính của

tiệm Internet (gây thiệt hại 7.900.000 đồng) và tấn công ông Nguyễn Văn C, ông C

thấy vậy bỏ chạy bằng lối cửa sau, còn bị cáo D dùng roi điện rượt đuổi một số người

chơi game. Sau đó, L và D nhìn thấy 01 chiếc điện thoại hiệu Nokia 1202 và 01 chiếc

điện thoại hiệu Gionee L800 gold, nghĩ là của ông C nên chiếm đoạt. Ông C đến công

an phường 3, quận Gò Vấp trình báo vụ việc.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 239/2016/HSST ngày 12/8/2016, bị cáo

Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133,

Khoản 1 Điều 143; điểm b, p khoản 1,2 Điều 46 kết án về tội “cướp tài sản” và tội

“hủy hoại tài sản” xử phạt mức án 05 năm tù về tội cướp tài sản và 06 tháng tù về

tội hủy hoại tài sản, tổng hợp hình phạt chung 02 tội là 05 năm 06 tháng tù. Bị cáo

Nguyễn Công D bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp áp dụng khoản 1 Điều 133; điểm

b, khoản 1,2 Điều 46 kết án về tội “cướp tài sản” xử phạt với mức án 03 năm tù

nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm.

Sau khi xẩy ra sự việc, cha ruột của bị cáo L đã bồi thường cho chủ tiệm

Internet “Không Gian Xanh”, số tiền 9.000.000 đồng, chủ tiệm nhận tiền và làm

đơn bãi nại.

Nhận thấy trong vụ án này:Bị cáo Nguyễn Văn L là người khởi xướng, chủ

mưu và trực tiếp rủ Nguyễn Công D thực hiện tội phạm.Bị cáo D tham gia vụ án với

vai trò đồng phạm, người giúp sức tích cực. Bị cáo được rũ đi đánh nhau, nhưng bị

cáo D còn rũ thêm người cùng tham gia, có chuẩn bị hung khí là dao và roi

điện…làm phương tiện thực hiện tội phạm.Khi những người trong tiệm Internet

hoảng sợ bỏ chạy, các bị cáo chiếm đoạt tài sản. Hành vi của các bị cáo đã tấn công

người bị hại, làm họ hoảng sợ bỏ chạy thoát thân, bỏ tài sản, bị chiếm đoạt…. thể

hiện sự coi thường pháp luật, tính mạng, tài sản của người khác nên cần phải

nghiêm trị nên các bị cáo phạm tội “cướp tài sản” thuộc trường hợp “sử dụng vũ

khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”, nhưng bản án sơ thẩm xét xử đối

với bị cáo Nguyễn Văn L theo điểm d Khoản 2 Điều 133 là đúng người, đúng tội,

49

áp dụng tình tiết giảm nhẹ phù hợp, tuy nhiên, đối với bị cáo Nguyễn Công D lại xét

xử bị báo theo Khoản 1 Điều 133, cho bị cáo D hưởng án treo là không đánh giá

đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tôi của bị cáo D dẫn đến quyết định hình phạt

cho hưởng án treo không đúng.

Bản án này đã bị Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp kháng nghị sửa bản

án sơ thẩm, áp dụng Khoản 2 Điều 133 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Công D.

Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã được Tòa án nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm chấp nhận sửa bản án sơ thẩm.

+ Quyết định mức phạt quá nặng hoặc quá nhẹ do áp dụng không đúng các

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Ví dụ 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2018/HSST ngày 18/7/2018 của Tòa

án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Khoảng 13 giờ 15’ ngày 271/11/2017, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công

an Quận Gò Vấp bắt quả tang An Kim C đang tang trữ 01 gói nylon chứa heroin trại

trước nhà số 587 đường Thống Nhất, phường 16, quận Gò Vấp nên lập biên bản

phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, An Kim C đã khai nhận hành vi phạm tội và khai do

nghiện heroin nên Công có đến khu vực hẻm giáo xứ Bắc Dũng đường Thống Nhất

gặp một thanh niên (không rõ lai lịch) hỏi mua heroin với số tiền 100.000 đồng. Sau

khi mua, C cất ma túy vào túi quần tìm nơi sử dụng nhưng đến trước nhà 587 đường

Thống Nhất thì bị kiểm tra và bắt giữ.

Tại Bản kết luận giám định số 41/KLGĐ-H ngày 14/12/2017 cửa Phòng kỷ

thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chất bột màu trắng trong

gói nylon (bên trong 01 gói giấy báo) được niêm phong, bên ngoài có chữ ký và ghi

tên An Kim C và hình dấu Công an phường 16, quận Gò Vấp gửi đến giám định là

ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,1354gram, loại heroin.

Căn cứ vào các tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị

cáo An Kim C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản

2 Điều 249 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo An Kim C thuộc trường hợp “tái phạm

50

nguy hiểm”. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s

khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt An Kim C 05 năm tù.

Trong lý lịch của bị cáo An Kim C thể hiện: Năm 2009, bị cáo bị Tòa án

nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Năm

2011,bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội

“Trộm cắp tài sản”.Năm 2013, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 02

năm tù về tội “Trộm cắptài sản”. Năm 2015,bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận 12 xử

phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Như vậy, xét về nhân thân, bị cáo An Kim C có 04 tiền án bị xét xử về các

tội do cố ý, chưa được xóa án tích nhưng trong đó có 03 tiền án do Tòa án nhân dân

quận Gò Vấp xét xử bị cáo về các tội chiếm đoạt tài sản, là tình tiết định tội trong

lần bị cáo C bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” vào năm 2015 tại Tòa án nhân dân

Quận 12 với tài sản chiếm đoạt trị giá 200.000 đồng và tại bản án này không xác

định bị cáo C phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm”. Nên theo nguyên tắc có lợi

cho bị cáo, coi như bị cáo C đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại phạm tội do cố ý

trong vụ án này nên thuộc trường hợp “tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm

hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Khi quyết định

hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự

năm 2015 để xử phạt bị cáo An Kim C với tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm

nguy hiểm”, là không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, với quy định

của pháp luật tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bản án này đã bị Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp kháng nghị theo trình

tự phúc thẩm theo hướng không áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” theo điểm o

khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, áp dụng tình tiết tái phạm tại điểm h

khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân

dân quận Gò Vấp đã được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc

thẩm chấp nhận sửa bản án sơ thẩm.

Ví dụ 2: Bản án hình sự sơ thẩm số 201/2018/HSST ngày 15/11/2018 của

Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

51

Khoảng 7 giờ 40 phút ngày 15/5/2018, anh Nguyễn Văn N điều khiển xe gắn

máy hiệu Wave biển số 76B1-080.10 đến bải giữ xe số 30 Lê Lợi, phường 4, quận

Gò Vấp gửi xe. Do vội nên anh N để quên chìa khóa xe ở ổ khóa cóp xe máy (bên

trong cốp xe có thẻ giữ xe). Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 15/5/2018, anh N phát

hiện mất xe nên báo nhân viên giữ xe. Qua trích xuất dữ liệu camera thì thấy được

đối tượng lấy trộm xe nên anh N đến công an trình báo sự việc.

Ngày 16/5/2018, Nguyễn Minh Nhật A đến bãi giữ xe số 30 để gửi xe Honda

Click biển số 60U2-1237, bị nhân viên giữ xe phát hiện giống đối tượng đã trộm xe

của anh N nên giữ lại và báo công an.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Minh Nhật A và Nguyễn Phước Bảo H khai

nhận: khi Nguyễn Minh Nhật A vào gửi xe tại bãi giữ xe số 30 Lê Lợi và dựng xe

đối diện với chiếc xe gắn máy hiệu Wave biển số 76B1-080.10, phát hiện có chìa

khóa ở trên khóa yên xe liền nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài nên

Nguyễn Minh Nhật A lấy chìa khóa và ra trước bãi giữ xe số 30 Lê Lợi gặp Nguyễn

Phước Bảo H (vì Nhật A hẹn H tới để chở đi học) và rũ H cùng trộm xe bán lấy tiền

tiêu xài và H đồng ý. Sau khi chiếm đoạt xe, Nhật A điều khiển xe vừa trộm được

đem bán được 2.000.000 đồng. Nhật A cho người giới thiệu bán xe số tiền 200.000

đồng, Nhật A lấy 900.000 đồng và đưa cho H số tiền 900.000 đồng.Khi bị bắt công

an thu giữ của Nhật A số tiền 800.000 đồng, Nhật A khai tiền bán xe trộm được.Gia

đình của Nguyễn Minh Nhật A đã bồi thường cho anh Nguyễn Văn N số

tiền13.000.000 đồng, anh N nhận tiền và không có yêu cầu gì khác.

Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Minh Nhật A và

Nguyễn Phước Bảo H phạm tội “trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 173 Bộ

luật Hình sự. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s

khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh

Nhật A 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước Bảo H

06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Trong vụ án này cả 02 bị cáo Nhật A và Bảo H đều khai nhận hành vi phạm tội

của mình nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt 02 bị cáo đúng tội danh, tuy nhiên khi

quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm

52

tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả ” theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật

Hình sự đối với bị cáo Bảo H là không có căn cứ pháp luật vì bị cáo Bảo H không bồi

thường cho người bị hại, chỉ có bị cáo Nhật A bồi thường cho người bị hại.

Bản án này đã bị Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng

nghị theo trình tự phúc thẩm theo hướng không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người

phạm tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả” theo điểm b khoản 1 Điều 51

Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Phước Bảo H. Kháng nghị của Viện kiểm sát

nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí

Minh xét xử phúc thẩm chấp nhận sửa bản án sơ thẩm.

- Hai là, thói quen áp dụng phạt tù có thời hạn.

Qua số liệu thống kê về các hình phạt chính được áp dụng của các Tòa án

nhândân quận Gò Vấp đã nêu trên cho thấy áp dụng hình phạt tù có thời hạn có tỷ lệ

chiếm 82,1%, tỷ lệ hình phạt tù có thời hạn được áp dụng cao rất nhiều lần so với

các hình phạt khác. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn với tỷ lệ cao như trên cho

thấy xuất phát từ:Từ trước đến nay Việt Nam có truyền thống pháp luật hình sự

luôn xem phạt tù có thời hạn là hình phạt chủ đạo trong các hình phạt, hầu hết các

Thẩm phán đều quen áp dụng phạt tù có thời hạn, có nhận thức chưa đúng đắn và

toàn diện về mục đích và ý nghĩa của áp dụng phạt tù có thời hạn, cho rằng khi áp

dụng phạt tù có thời hạn lại đạt hiệu quả, lợi ích của việc trừng trị trong xã hội. Các

Thẩm phán cho rằng chỉ có áp dụng phạt tù có thời hạn mới đủ sức răn đe người có

hành vi phạm tội nên đã quá xem trọng hình phạt này mà quên và xem nhẹ các hình

phạt khác không phải tù.

Ví dụ1: Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2018/HSST ngày 18/7/2018 của Tòa

án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Khoảng 11 giờ 21 phút ngày 23/01/2019, nhân viên cửa hàng mỹ phẩm

Guardian số 617 Quang Trung, phường 11, quận Gò Vấp theo dõi camera phát hiện

Nguyễn Thị Thùy T, nhân viên bán hàng đang lấy trộm mỹ phẩm trong cửa hàng

nên báo công an. Qua kiểm tra trong balo phát hiện: 01 chai nước súc miệng

Listerrine, 01 hộp kem hiệu Vichy loại 30ml có tổng trị giá là 2.191.000 đồng.

53

Khám xét nơi ở của T tại số 40 Lý thường Kiệt, phường 7, quận Gò Vấp thu

giữ: 02 thỏi son hiệu 2A, 05 mặt nạ hiệu Neohene, 01 hộp gel trị mụn hiệu Vichy,

01 hộp gel giảm mụn hiệu Vichy, 01 hộp khoáng hiệu Vichy, 01 hộp gel dưỡng ẩm

hiệu Vichy, 01 hộp tinh chất dưỡng ẩm hiệu Vichy và 01 hộp mặt nạ ngủ hiệu

Vichy, có tổng trị giá 5.176.000 đồng. T khai số mỹ phẩm trên do T lấy của cửa

hàng vào ngày 22/01/2019.

Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thùy T phạm tội

“trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử

quyết định áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm

g khoản 1 điều 52, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy T 09

tháng tù nhưng cho hưởng án treo.Thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng kể từ

ngày tuyên án.

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Thị Thùy T thừa nhận hành vi phạm tội của

mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã

áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thùy T

phạm tội “trộm cắp tài sản” là xét xử đúng người, đúng tội.

Tuy nhiên, về áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

và mức hình phạt đối với bị cáo T, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng

phạm tội từ 02 lần trở lên đối với bị cáo nhưng lại áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự

cho bị cáo được hưởng án treo là trái với hướng dẫn tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết

02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Về nhân thân của bị cáo T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng, đã tự nguyện nộp tiền bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại nên

được xem có tình tiết giảm nhẹ, bị cáo T có nơi cư trú rõ ràng, tính chất mức độ

phạm tội có hạn chế.Theo khoản 1 Điều 173 BLHS, trường hợp của bị cáo T có thể

được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng

đến 03 năm. Điều luật quy định cho người áp dụng hình phạt linh hoạt trong việc áp

dụng hình phạt để “trừng trị” hành vi vi phạm của bị cáo.Trong trường hợp này có

thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo mà không nhất thiết

phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

54

Bản án này đã bị Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp kháng nghị sửa bản

án sơ thẩm, áp dụng Khoản 2 Điều 133 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Thị Thùy T.

Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã được Tòa án nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm chấp nhận sửa bản án sơ thẩm.

Ví dụ 2: Khoảng 22 giờ 10 phút, ngày 08/4/2019, anh Võ Đức T cùng với

Huỳnh Ngọc A, Võ Duy K đến quán karaoke Diamond Star, phường 14, quận Gò

Vấp hát karaoke. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì Phạm Hoàng Bá P là người quen

của A đến hát chung.Khoảng 0 giờ 20 phút ngày 09/4/2019 khi cả nhóm ra về chỉ

còn anh T và anh K ngồi trong phòng cờ tính tiền thì bất ngờ P quay lại cầm ly thủy

tinh dung để uống bia có sẵn trong phòng đập vào đầu anh T làm chảy máu và vỡ

ly, tiếp đó P cầm tiếp ly thứ hai đánh thì anh T dung tay phải đỡ gây rách tay gây

thương tích.Lúc này anh K ngăn cản và đưa anh T đi cấp cứu.

Bản án sơ thẩm 26/2020/HSST ngày 05/05/2020 của Tòa án nhân dân quận

Gò Vấp, tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng Bá P phạm tội “cố ý gây thương tích”.Áp

dụng điểm đ, khoản 2 Điều 134 BLHS.Xử phạt Phạm Hoàng Bá P 02 năm tù.

Trong vụ án này, bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đ để thanh

toán tiền viện phí, thuốc men, người bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo.Bị cáo có

nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền

án, tiền sự, bị cáo có nơi cư trú và việc làm ổn định, bị cáo là lao động chính và

nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Theo khoản 1 Điều 54 Bộ Luật Hình sự thì trường

hợp của bị cáo P “có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật

khi người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản1 Điều 51 Bộ

Luật Hình sự”.[31].

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và Điều luật quy định cho người áp

dụng hình phạt linh hoạt trong việc áp dụng hình phạt để “trừng trị” hành vi vi

phạm của bị cáo.Trong trường hợp này có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam

giữ đối với bị cáo mà không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

55

- Ba là, sai sót, vướng mắc trong xác định các tình tiết, chứng cứ của vụ

án.Đánh giá các tình tiết chứng cứ trong vụ án hình sự không đúng, dẫn đến quyết

định mức phạt không chính xác.

Ví dụ:Bà Nguyễn Thị T có mâu thuẫn với bà Phượng (là mẹ vợ của Vũ

VănĐ) trong việc mua bán. Khoảng 12 giờ, ngày 05/9/2017, bà T đến nhà bà

Phượng thì giữa hai người xảy ra mâu thuẫn, Vũ Văn Đ bênh mẹ vợ nên đánh nhau

với bà T. Sau khi bà T đi về thì Đ đến quán cà phê “Cỏ” gần khu vực căn cứ 26 tìm

Vũ Văn Đồng (là em ruột của Đ). Tại đây Đ kể cho Đồng, Huỳnh Duy C, Trung và

2 thanh niên là bạn của Trung (không rõ lai lịch) nghe sự việc và nhờ đi đánh trả

thù, tất cả đồng ý. Cả nhóm đi đến chỗ bà T bán hàng tìm đánh vợ chồng bà T

nhưng không gặp, Đ dùng cây gỗ đánh chị Lan là em của T nhưng không gây

thương tích gì rồi tất cả bỏ đi.

Khoảng 15 giờ cùng ngày khi Đ về thì nghe hàng xóm nói người nhà của bà

T bắt bà Phượng gọi Đ về quỳ gối xin lỗi.Do bực tức nên Đ quay lại quán cà phê

“Cỏ” kể lại sự việc cho Đồng nghe và kêu Đồng quay lại đánh bà T. Lúc này Trung

hỏi cócần lấy “hàng” không thì Đ trả lời có, Trung gọi điện thoại rồi cả nhóm đi đến

phía sau trường Nguyễn Trung Trực, quận Gò Vấp thì bạn của Trung đem mã tấu

(dạng kiếm Nhật) đến.Đ, Đồng và hai người bạn của Trung mỗi người cầm một mã

tấu, Cương và Trung không cầm hung khí chở Đ và Đồng.

Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, nhóm của Đ chạy xe đến bên hông nhà

số242 Phạm Văn Chiêu, phường 9, quận Gò Vấp. Đ cầm mã tấu xông vào chém bà

T và ông Trần Duy L (chồng bà T) nhưng không trúng và bị ông Lvà bà T cầm ống

sắt chống trả thì Đồng và 2 thanh niên sau khi chém ông Nguyễn Khắc T (em của

bà T) gây thương tích ở lưng thì quay sang hỗ trợ Đ. Đ chém bà T trúng tay, bà T

ngã xuống đất thì Đ chém tiếp hai phát, bà T đưa tay lên đỡ nên trúng vào tay, trong

lúc Đ chém ông T thì Đồng và hai thanh niên đuổi chém ông L nhưng không gây

thương tích. Khi thấy bà T bị thương thì cả bọn lên xe tẩu thoát, ông T, bà T được

đưa đi cấp cứu, sau đó trình báo công an.

56

Trung tâm pháp y Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích của

bà Nguyễn Thị T tại Kết quả giám định pháp y về thương tích số: 925/TgT.17 ngày

10/11/2017:

- Vết thương bàn tay phải gây đứt gần lìa ngón I tại đốt gần, đứt da đốt xa

ngón II, đã được điều trị xuyên kim ngón I, hiện còn:

+ Một sẹo kích thước 6 x 0,15cm quanh đốt gần ngón I.

+ Một sẹo xuyên kim tại ngón I kích thước 0,3 x 0,2cm.

+ Một sẹo tại đốt xa ngón II kích thước 3 x 0,1cm.

+ Cứng khớp ngón I, vận động ngón II bình thường.

+ Mất dẫn truyền cảm giác đốt xa ngón I và II.

- Vết thương gây đứt lìa ngón III, IV và V bàn tay trái, đứt da đầu ngón II tay

trái, đã được điều trị:

+ Tạo mỏm cụt tại cổ bàn tay kích thước 15 x (0,1-1)cm.

+ Một sẹo kích thước 3 x 0,7cm tại đốt xa ngón II.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 42%do thương tích gây nên hiện tại.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 935/TgT.17 ngày

14/11/2017 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luậnthương

tích của ông Nguyễn Khắc T:

- Vết thương lưng trái thấu ngực trái gây đứt cung sau xương sườn 6

trái,tràn khí, tràn máu màng phổi trái, rách thùy trên phổi trái, đã được phẫu thuật

khâu phổi rách, khâu đính xương sườn, dẫu lưu màng phổi, hiện còn:

+ Sẹo kích thước 15 x (0,4-0,7cm) tại lưng trái.

+ Sẹo dẫn lưu kích thước 2,5cm x 2,1cm tại mạn sườn trái.

+ Hình ảnh xơ vùng đỉnh và đáy phổi, dày dính màng phổi trái.

+ Có hạn chế chức năng hô hấp nhẹ.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 37%do thương tích gây nên hiện tại.

Bản án sơ thẩm số 154/2018/HSST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân

quận Gò Vấp, tuyên bố bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng

điểm a, c, i khoản 3 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm

57

2009; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ

sung năm 2017.Xử phạt Vũ Văn Đ 06 năm 06 tháng tù.

Qua nội dung vụ án, nhận thấy bị cáo Vũ Văn Đ cùng đồng bọn dùng mã tấu

là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bà Nguyễn Thị T với tỉ lệ thương tật

42% và ông Nguyễn Khắc T với tỉ lệ thương tật 37%, mặt khác bị cáo có 02 tiền án

chưa được xóa án tích lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy

hiểm, bị cáo rủ đối tượng tên Vũ Văn Đồng là em bị cáo dùng mã tấu chém gây

thương tích cho ông T thuộc trường hợp gây thương tích cho nhiều người. Mặc dù

bản án sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo cùng các

tình tiết giảm nhẹ như bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, người

bị hại cũng có một phần lỗi để áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ

luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.Tuy nhiên, bị cáo là người chủ

mưu, rủ rê đồng bọn gây cố tật cho người bị hại, hành vi của bị cáo là côn đồ, xem

thường pháp luật nên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên là quá nhẹ.

Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là không đánh giá đúng tính chất, mức độ

hành vi của bị cáo nên khi lượng hình áp dụng hình phạt tù có thời hạn để xử lý đối

với bị cáo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo.

Bản án này đã bị người bị hại kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh đề nghị tăng mức hình phạt đối với bị cáo Vũ Văn Đ.Tòa án nhân

dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm đã chấp kháng cáo của người bị hại

và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc.

Những hạn chế vướng mắc nêu trên của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xảy

ra trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn là do nhiều nguyên nhân khác nhau,

nhưng tập trung chủ yếu ở những nguyên nhân sau đây:

- Nguyên nhân khách quan

Hình phạt được áp dụng không chỉ để trừng trị người phạm tội mà mục đích

tốt đẹp hơn hình phạt hướng tới đó là giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo

pháp luật, quy tắc của cuộc sống và ngăn ngừa họ phạm tội mới.Để trừng trị người

phạm tội còn rất nhiều hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thể áp dụng, mà vẫn đảm

58

bảo được mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo.Qua thực tế áp dụng phạt tù đã phân

tích ở trên, Hội đồng xét xử khi áp dụng biện pháp chấp hành hình phạt tù đã có

nhiều vướng mắc, lúng túng khi BLHS quy định giới hạn tối thiểu và tối đa của phạt

tù có thời hạn:

Theo quy định của BLHS năm 2015, thời hạn tối thiểu của hình phạt tù là

03 tháng. Nhưng trước đây, pháp luật hình sự Việt Nam, đã có giai đoạn quy định

thời hạn tối thiểu của hình phạt tù rất ngắn như là 01tháng,10 ngày hoặc chỉ còn có

07 ngày. Bởi vì pháp luật hình sự Việt Nam thời điểm đó cho rằng phạt tù là hình

phạt nghiêm khắc, nên tước quyền tự do của người phạm tội với các khoảng thời

gian quy định như vậy là đủ để trừng trị, cải tạo, giáo dục được người phạm tội ý

thức tuân theo pháp luật.Tuy nhiên, thực tế các trại giam không thể tổ chức giáo

dục, cải tạo có hiệu quả đối với người phạm tội với quy định thời hạn phạt tù dưới

06 tháng như vậy, bên cạnh đó người bị kết án còn phải chịu hậu quả về mặt pháp lý

là do có tiền án, tiền sự, nó sẽ đi theo lý lịch của họ cho đến cuối đời, gây cho họ

những bất lợi khó khăn, những hệ lụy mà họ phải gánh chịu khi trở về cuộc sống

bình thường trong xã hội.Có thể thấy trong một số trường hợp, người phạm tội bị

tạm giam, tạm giữ với thời gian khoảng 06 tháng với hành vi phạm tội do phòng vệ

chính đáng, hoặc trong tình thế cấp thiết.v.v nhưng tính chất nguy hiểm gây ra cho

xã hội không đáng kể. Khi người phạm tội bị Tòa án tuyên phạt tù với thời hạn dưới

06 tháng bằng với khoảng thời gian người phạm tội bị tạm giam, tạm giữ, Tòa án

tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho người bị kết án.Đây thường gọi là những

trường hợp thông án,chữa cháy.Trong các trường hợp đã nêu trên, đúng ra Tòa án

nên áp dụng hình phạt không phải tù hoặc cho người bị kết án hưởng án treo vì do

người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Thời hạn tối đa của hình phạt tù được quy định khác nhau.Điều 38 BLHSquy

định:..“tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức hình phạt cao nhất là 20

năm tù”[31].Nhưng theo quy định của Điều 55, Điều 56 BLHS “thì trong các

trường hợp nếu người phạm nhiều tội hoặc phải chịu hình phạt của nhiều bản án,

thì hình phạt tù có thời hạn tối đa là 30 năm tù. Người bị kết án tù chung thân nếu

được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu thì xuống 30 năm

59

tù”[31].BLHS quy định mức hình phạt tối đa trong trường hợp này là nhằm bảo

đảm sự bình đẳng cho mọi công dân trước pháp luật, thực hiện việc phân hoá trách

nhiệm hình sự trong trường hợp phạm một tội và trường hợp phạm nhiều tội hoặc

có nhiều bản án.

Không giống một số loại hình phạt khác, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi,

bổ sung năm 2017, không quy định đối tượng phạm tội nào được áp dụng, loại tội

nào được áp dụng, điều kiện áp dụngnhư thế nào mà chỉ quy định về nội dung, thời

hạn tối thiểu và thời hạn tối đa của hình phạt tù có thời hạn. Đặc biệt, nhà làm luật

vướng phải những khó khăn, hạn chế trong việc quy định chế tài các quy phạm pháp

luật phần tội phạm có hình phạt tù có thời hạn vì theo quy định tại Điều 38Bộ Luật

Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, áp dụng hình phạt tù có thời hạn

không có quy định điều kiện chung.Một vấn đề nữa trong hầu hết các quy định của

Bộ luật hình sự về tội danh trong phần các tội phạm đều có chế tài là hình phạt tù có

thời hạn, dù đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất

nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, dù đó có là cố ý phạm tội hay vô ý phạm

tội,vấn đề này sẽ gây khó khăn khi Tòa án tuyên án, cá thể hóa hình phạt đối với bị

cáo hay rất khó khăn khi phân hoá trách nhiệm hình sự trong quy định các chế tài.

Hay là trong phần các tội phạm cụ thể, thì có nhiều điều luật cụ thể còn quy

định nhiều loại hình phạt trong khung hình phạt và mức hình phạt quá dài trong

khung hình phạt, dẫn đến các chủ thể thực hiện tố tụng khi xét xử khó áp dụng các

loại hình phạt, hoặc đôi khi còn áp dụng mức hình phạt thiếu chính xác.

Phạm vi quy định hình phạt tù có thời hạn vẫn quá rộng. Có những tội, hầu

như các mức độ hình phạt đều được quy định trong chế tài (Điều 134 về Tội cố ý

gây thương tích; Điều 174 vê tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 188 BLHS về tội

buôn lậu..); có nhiều khung hình phạt khoảng cách mức hình phạt tối thiểu và tối đa

được quy định còn khá rộng từ 08 đến 10 năm tù (Điều 110 về Tội gián điệp; Điều

111 về Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Điều 112 về Tội bạo loạn…) làm ảnh

hưởng tính thống nhất trong áp dụng pháp luật.Vì vậy, có thể nói giữa thực tiễn áp

dụng hình phạt và quy định của BLHS về hình phạt nói chung, hình phạt tù nói

riêng đang có một độ "lệch”nhất định.

60

Ở nhiều điều luật, sự phân hoá chế tài chưa thật tốt từ góc độ các yếu tố chủ

quan của tội phạm.Đối với các tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý thì chế tài quy định

là quá nghiêm khắc. Đối với các tội phạm do vô ý, đa số trong các trường hợp này, Tòa

án thường quyết định áp dụng hình phạt nhẹ hơn rất nhiều so với quy định của Bộ Luật

Hình sự, vấn đề được tác giả nhận thấy qua thực tiễn trong công tác xét xử.

Bên cạnh đó, trong quá trình áp dụng hình phạt, người áp dụng hình phạt

chắc chắn sẽ có thể thấy những bất cập giữa Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình

sự trong một số quy định cụ thể còn chưa đầy đủ, hoặc có những quy định không rõ

ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau mà chưa được sửa đổi, bổ sung, giải thích,

hướng dẫn kịp thời, nên dẫn đến có những nhận thức khác nhau và lúng túng trong

việc áp dụng hình phạt cho bị cáo.

Theo quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về những vấn đề

phải chứng minh trong vụ án hình sự như sau:

“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng phải chứng minh:

1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình

tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý

hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị

cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn

trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”.[30].

Nội dung Điều luật này không quy định về chứng minh tài sản, về khả năng

thi hành án của người phạm tội, là không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 50

của Bộ luật Hình sự “ Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định

tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của

người phạm tội”.[31]. Rõ ràng đây là yêu cầu phải chứng minh, có chứng minh

61

được thì Tòa án mới được áp dụng.Nếu hồ sơ vụ án không thực hiện việc chứng

mình này thì quy định của Khoản 2 Điều 50 BLHS rất khó thực hiện.

Hay khó khăn khi áp dụng quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS.Về tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa

chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”.Bồi thường thiệt hại, do điều

luật không quy định mức độ bồi thường nên có nhiều quan điểm khác nhau. Có

quan điểm cho rằng bồi thường một phần dù nhỏ vẫn áp dụng tình tiết này; có quan

điểm lại cho rằng phải bồi thường đáng kể mới áp dụng tình tiết này; lại có quan

điểm cho rằng nếu bị cáo đã bán hết tài sản nhưng cũng chỉ bồi thường được một

phần rất nhỏ so với hậu quả xảy ra thì cũng phải áp dụng. Trên thực tế hiện nay

nhiều vụ án gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng, như vậy nếu bị cáo bồi thường vài triệu

mà được áp dụng điểm b thì có thỏa đáng không. Vấn đề này còn phải tùy thuộc vào

mức thiệt hại, khả năng kinh tế của bị cáo, nếu bị cáo đã bán hết tài sản để bồi

thường được một phần rất nhỏ thì nên xem xét áp dụng tình tiết “ăn năn, hối cải”

mà không áp dụng tình tiết bồi thường thì hợp lý hơn không. Có trường hợp tài sản

trộm cắp đã được bị cáo trả lại sau khi chiếm đoạt, có quan điểm cho rằng đây

không phải là tiền bồi thường nên không áp dụng tình tiết “tự nguyện bồi thường” là

đúng, nên chăng áp dụng tình tiết “khắc phục hậu quả” cho bị cáo.

Và một khó khăn trong thực tiễn xét xử hiện nay đó là áp dụng án treo đối

với người chưa thành niên phạm tội. Theo Điều 65 BLHS quy định về án treo và

Điều 91 BLHS quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và hướng dẫn tại Nghị

quyết số 02/2018/NQ-HĐTP-TANDTC ngày 15/5/2018 hướng dẫn về áp dụng án

treo, cũng không có quy định nào về việc ưu tiên áp dụng án treo đối với người

chưa thành niên. Và thực tế cũng không có văn bản hướng dẫn cụ thể việc giao

người chưa thành niên cho cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương để giám

sát, giáo dục trong trường hợp họ được hưởng án treo.

Đồng thời, trình độ hiểu biết pháp luật của một số cán bộ Thẩm phán, Hội

thẩm còn chưa tương đồng, còn hạn chế dẫn đến áp dụng pháp luật nói chung và áp

dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng có lúc còn chưa thống nhất cao. Đa số cán

bộ Thẩm phán, Hội thẩm có nhận thức chưa chuẩn xác về các quy định hình phạt,

62

cho rằng chỉ có áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thì mới đủ sức răn

đe và phòng chống tội phạm, còn các hình phạt khác không phải tù thì không có tác

dụng, không hiệu quả nhiều trong cải tạo, giáo dục và phòng chống tội phạm.

Mặc khác, việc tăng thẩm quyền giải quyết cho Tòa án nhân dân cấp huyện,

số lượng các vụ án hình sự ngày càng gia tăng, tính chất ngàycàng phức tạp, thủ

đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn rất nhiều... Trong khi đó,

số lượng Thẩm phán, Hội thẩm để bố trí cho các Tòa án nhân dân các cấp còn thiếu

nhiều do thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về không tăng tổng biên chế

hiện có. Đây là nguyên nhân chính, dẫn đến tình trạng án quá tải, gây áp lực cho

Thẩm phán, tỷ lệ giải quyết án không cao, tỷ lệ án bị cải, sửa, hủy vẫn còn nhiều,

nên chất lượng xét xử không được đảm bảo.

- Nguyên nhân chủ quan.

+ Đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm làm nhiệm vụ trực tiếp xét xử, giải

quyết các loại vụ việc nói chung và các vụ án hình sự nói riêng còn chưa đáp ứng cả

về số lượng và chất lượng. Cá biệt còn có Thẩm phán, Hội thẩm làm việc với tinh

thần trách nhiệm chưa cao, nên chất lượng và hiệu quả công tác còn có những hạn

chế nhất định.

+ Việc cải tiến lề lối phương pháp làm việc, hiện nay ngành Tòa án cũng đã

đưa ra những sáng kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển để đạt kết quả tốt

trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.Tuy nhiên, do một số khó khăn, hạn chế

nói chungvẫn đang tồn tại, cụ thể việc áp dụng hình phạt còn chưa được thống

nhất,do đó chưa thể thực hiện một cách đồng bộ trong toàn hệ thống ngành Tòa án.

+ Việc kiểm tra, đôn đốc trong công tác xét xử, giải quyết các loại vụ việc

nói chung và án hình sự nói riêng của Lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp có lúc, có

nơi chưa thường xuyên, nên chưa phát hiện được những yếu kém, thiếu xót trong

công tác này, để có những biện pháp chấn chỉnh và khắc phục kịp thời. Trong một

số trường hợp cụ thể còn chưa thực sự tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan

hữu quan hoặc ngay cả giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng xét xử để giải

quyết kịp thời.

63

Kết luận chương 2

Qua số liệu thụ lý vụ án và số liệu áp dụng phạt tù có thời hạn của Tòa án

nhân dân quận GòVấp, cho thấy: Đa số các vụ án giải quyết đúng thời hạn, tỷ lệ xét

xử cao, hạn chế để án tồn đọng. Về mặt nội dung giải quyết các vụ án đều có kết

quả tốt, áp dụng phạt tù có thời hạn có tỷ lệ cao, bảo đảm xét xử đúng pháp luật,

không có án bị sai, oan và không bỏ lọt tội phạm.Không có án bị hủy vì vi phạm

nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như về nội dung theo thủ tục giám đốc thẩm

hoặc tái thẩm.Tuy nhiên, có thể nói mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo và phòng

ngừa của hoạt động áp dụng phạt tù có thời hạn chưa đạt được, bởi vì tội phạm gây

án tại địa bàn quận Gò Vấp vẫn còn xẩy ra rất nhiều và ngày càng nhiều thủ đoạn

tinh vi hơn.

Những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng phạt tù có thời hạn do nhiều

nguyên nhân.Nguyên nhân chủ yếu vẫn là những bất cập trong quy định của Bộ luật

hình sự, sự hạn chế khi hướng dẫn áp dụng pháp luật và năng lực của chủ thể áp dụng.

64

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG

HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP

3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụnghình phạt tù có thời hạn.

-Cải cách tư pháp

Việc vẫn coi trừng trị là mục đích chính của hình phạt đã tạo ra một chính

sách sai lầm là coi nặng tính trừng trị với các biện pháp trách nhiệm hình sự hà khắc

thái quá làm giảm hiệu quả phòng ngừa. Nhận thức đó đã tạo ra một thực tiễn áp

dụng pháp luật, dư luận xã hội đi ngược lại với chính sách, với quy định của pháp

luật: hình phạt tù có thời hạn được áp dụng phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ cao; các biện

pháp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, các hình phạt không phải tù, các

biện pháp thay thế hình phạt… ít được áp dụng trên thực tế. Việc quy định và áp

dụng các hình phạt tù có thời hạn chỉ coi nặng tính trừng trị mà chưa tính đến hậu

quả xã hội tiêu cực có thể tạo ra các nguyên nhân, điều kiện cho việc phát sinh, phát

triển của tình hình tội phạm.Nhận thức xã hội nói chung, của những người áp dụng

pháp luật hình sự nói riêng vẫn chưa đồng hành cùng chính sách hình sự được xác

định.Việc xử lý nhân đạo, hướng thiện đối với người phạm tội vẫn chưa nhận được

sự đồng tình cao của dư luận xã hội. Công lý, công bằng chưa được coi là tiêu chí

cao nhất của một nền tư pháp tiến bộ…

Trong thời gian qua, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập trong công tác tư pháp

như áp dụng hình phạt tù có thời hạn chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy

hiểm của hành vi phạm của người phạm tội, kết án quá nặng hoặc quá nhẹ; án oan

sai, bỏ lọt tội phạm vẫn còn xẩy ra ở một vài Tòa án địa phương, ảnh hưởng không

tốt đến quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã

hội được công nhận,tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.Những

hạn chế, bất cập này đã tạo dư luận không tốt trong xã hội về ngành Tư pháp.

Theo tinh thần các Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính

trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của

Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nhà nước ta đã và đang

65

tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách tư pháp. Do đó cần phải đáp ứng kịp thời

nhiều yêu cầu, trong đó yêu cầu về cải cách tư pháp là rất quan trọng, có như vậy áp

dụng hình phạt tù có thời hạn mới đạt được kết quả tốt và có hiệu quả.

Để đảm bảo yêu cầu của cải cách tư pháp, trong hoạt động xét xử các vụ án

hình sự, Tòa án căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, xem xét một cách toàn

diện từ hành vi, nhân thân, lỗi của người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự trong vụ án, có vậy mới quyết định áp dụng mức hình phạt tù

có thời hạn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.Và để thực hiện được những mục

tiêu cải cách tư pháp đặt ra, các tình tiết có ý nghĩa và ảnh hưởng trực tiếp đến việc

áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cần phải được Quốc hội thể chế hóa cụ thể, có vậy

chất lượng hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới được nâng cao.

-Tăng cường tính nhân đạo của việc áp dụng biện pháp trách nhiệm hình

sự; Coi trọng phòng ngừa hơn chống tội phạm; Giảm hình phạt tù, tăng cường

các hình phạt không phải tù là một nội dung cơ bản trong chính sách hình sự.

Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trị

người phạm tội mà còn vì mục đích giáo dục, răn đe người phạm tội có ý thức tuân

theo pháp luật và ngăn ngừa người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội khác. Đây

là mục đích chính và là nội dung cơ bản của bản chất hình phạt trong Luật Hình sự

Việt Nam, nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành có ích cho xã hội. Cũng

theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng thể hiện:“Coi trọng việc hoàn thiện chính

sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng

thiện trong việc xử lý người phạm tội.Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình

phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế

áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại

tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ

lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới

xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội

nhập quốc tế. Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền

66

hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm

cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm

vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và

quyết định tố tụng của mình. Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng

biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm;thu hẹp đối tượng người có thẩm

quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam”.[5].

Nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc cơ bản, sự hiện hữu của

nguyên tắc này trong hầu hết các chương của Bộ luật Hình sự. Nguyên tắc này thể

hiện trong từng chế định pháp luật cụ thể như chế định về tội phạm; Chế định hình

phạt như mục đích áp dụng hình phạt là cải tạo người phạm tội; Nguyên tắc xử lý

người chưa thành niên phạm tội, khi xử phạt tù có thời hạn, người chưa thành niên

được hưởng mức án nhẹ hơn. Mục đích thể chế hóa nguyên tắc nhân đạo trong Bộ

luật Hình sự nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử

lý người phạm tội.

Có thể thấy về nguyên tắc xử lý tội phạm, tính nhân đạo được qui định tại

Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Khoan

hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng

trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây

ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra (Khoản 2 Điều 3 Bộ luật

Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đây được xem là điều luật bao quát

nhất, thể hiện một cách tổng quan nhất nguyên tắc nhân đạo mà pháp luật hình sự

quan tâm chú trọng, là sự thể chế rõ ràng nhất chủ trương của Bộ Chính trị, dùng

pháp luật hình sự với vai trò răn đe, phòng ngừa là chính, các chế định hình phạt xử

lý các tội phạm được xây dựng trên cơ sở nhân đạo, hướng thiện, với mục đích giáo

dục ý thức người phạm tội, giúp họ nhận thức đúng đắn về hành vi có lỗi và trách

nhiệm của bản thân, tạo điều kiện tối đa cho người phạm tội có cơ hội tự sửa chữa,

hòa nhập cộng đồng. Bộ luật hình sự quy định mở rộng cả về loại tội phạm và lĩnh

vực phạm tội có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với tội rất nghiêm

trọng thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công

cộng, an toàn công cộng, có 10 tội danh thay đổi hình phạt tù bằng hình phạt tiền.

67

Và quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã

thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù theo hướng hình phạt này không áp dụng đối

với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng (khoản

2 Điều 38).

-Quyền con người, quyền của người bị buộc tội cần bảo đảm.

Quyền con người, quyền công dân như quyền sống, quyền bất khả xâm

phạm, các quyền tự do cá nhân, quyền sở hữu, các quyền dân chủ của công dân…

đã được ghi nhận đầy đủ ngay sau các quy định về chế độ chính trị. Hiến pháp, một

mặt được cụ thể hóa trong Bộ luật Hình sự như là công cụ pháp lý bảo vệ quyền con

người, quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận; nhưng mặt khác, Hiến pháp cũng

là giới hạn hiến định cần thiết để xây dựng chính sách hình sự phù hợp.Bảo vệ

quyền con người nói chung và của người bị buộc tội nói riêng trong tố tụng hình sự

là thước đo mức độ dân chủ của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó, tại Bộ luật

Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 của nước ta, quyền con người đã được bảo vệ

nghiêm ngặt bởi hệ thống các quy phạm pháp luật chặt chẽ, hợp lý.

Nghị quyết số 49/NQ ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các

phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.[5]. Sau những

năm cải cách tư pháp, phiên tòa hình sự ở Tòa án các cấp đã có nhiều tiến bộ, đạt

được những kết quả nhất định, bảo đảm sự công bằng, dân chủ, chất lượng xét xử

được nâng cao. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh

tụng trong xét xử được bảo đảm”.[30]. Đây là quy định mang tính đột phá, là cơ sở

cho những quy phạm pháp luật khác cũng được thay đổi để phù hợp với nội dung

của nguyên tắc, hứa hẹn góp phần từng bước khắc phục những bất cập, hạn chế của

hoạt động tư pháp, bảo vệ hơn nữa quyền con người, quyền công dân, cụ thể ở đây

là quyền con người của bên bị buộc tội - là bên yếu thế trong tố tụng hình sự.

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng phạt tù có thời hạn.

- Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự cần được tiếp tục hoàn thiện.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, giải quyết các vụ án hình sự, đòi hỏi chúng

ta phải tiếp tục hoàn thiện và nắm chắc các quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật

68

tố tụng hình sự, cập nhật các văn bản hướng dẫn pháp luật mới, đồng thời để đề

xuất, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp

luật. Quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội, phải có đủ

căn cứ,theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, bảo đảm phán quyết của

Tòa án được chính xác.

Quốc hội khóa XIII đã sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, tuy nhiên,

trong thực tế áp dụng vẫn còn nhiều điểm bất cập, hạn chế so với đòi hỏi thực tiễn

của đất nước, trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do vậy, trong những

năm tới phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, toàn diện cả luật nội dung và luật hình

thức cho thật khoa học, có hệ thống, đồng bộ, cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ hơn trong

phần chung và phần các tội phạm, trình tự thủ tục áp dụng hình phạt tù có thời hạn,

bảo đảm các quy định của pháp luật vừa chính xác, công bằng, nhân đạo, minh bạch

dễ áp dụng. Đảm bảo cho việc xét xử án hình sự được chính xác, chính là việc quyết

định mức hình phạt phải thật sự chuẩn xác, mức hình phạt áp dụng phải tương xứng

với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo gây ra.

Để đảm bảo cho việc quyết định hình phạt đúng, cần sửa đổi, bổ sung các

chế tài về hình phạt, các căn cứ áp dụng hình phạt phải đúng mục đích của hình phạt

phải được hoàn thiện,mức phạt tù, điều kiện áp dụng hình phạt tù, hoàn thiện chế tài

các điều luật phần các tội phạm, sự thống nhất tương đối giữa Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015 và Bộ luật hình sự năm 2015 và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự… cụ thể:

- Tăng mức phạt tù tối thiểu từ 03 tháng lên 06 tháng. Việc mức tối thiểu của

hình phạt tù được tăng lên sẽ giúp cho các nhà làm luật quy định thêm chế định về

hình phạt không phải là tù trong phần chế tài của các tội phạm ít nghiêm trọng.

-Bộ luật hình sự không có quy định về điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời

hạn, nên việc bổ sung quy định này sẽ đảm bảo sự thống nhất trong Bộ luật hình sự

các quy định về hệ thống hình phạt, là căn cứ chung cho việc quy định và áp dụng

hình phạt tù có thời hạn theo quan điểm giảm hình phạt tù trong Bộ luật hình sự.

69

- Việc hoàn thiện chế tài các điều luật phần các tội phạm cần được thực hiện

theo các hướng cơ bản sau đây: một,hạn chế hình phạt tù, tăng cường các hình phạt

không phải tù bằng cách tăng số lượng chế tài ở nhóm tội phạm ít nghiêm trọng,

không có phạt tù. Tuỳ theo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, cần sử dụng chế tài lựa chọn có hình phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo

không giam giữ để thay thế chế tài ở các khung hình phạt có quy định hình phạt tù

từ 03 tháng đến 02 năm. Hai, là thu hẹp khoảng cách tuỳ nghi giữa mức tối thiểu và

mức tối đa của phạt tù có thời hạn; khoảng cách giữa mức hình phạt tối thiểu và tối

đa của khung hình phạt được xác định tùy theo loại tội: đối với loại tội đặc biệt

nghiêm trọng khoảng cách này tối đa là 08 năm; đối với loại tội rất nghiêm trọng

khoảng cách này tối đa là 06 năm; đối với loại tội nghiêm trọng khoảng cách này tối

đa là 04 năm và đối với loại tội ít nghiêm trọng khoảng cách này tối đa là 03 năm.

- Phân hoá tốt hơn mức chế tài tuỳ theo tính chất, hậu quả, hình thức lỗi. Các

tội có tính chất kinh tế, xâm phạm trật tự quản lý hành chính… thì nên hạn chế hình

phạt tù có thời hạn, tăng cường phạt tiền là hình phạt chính.Giảm hình phạt đối với

các tội được thực hiện do lỗi vô ý. Đối với loại tội này, dù hậu quả có là rất nghiêm

trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì mức hình phạt tối đa cũng không nên quá 12

năm tù.Điều này phù hợp với nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, quan điểm

về tính hướng thiện của hình phạt, phù hợp với thực tiễn áp dụng hình phạt và chấp

hành hình phạt ở nước ta trong thời gian qua.

- Tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về những vấn đề phải chứng

minh trong vụ án hình sự, nội dung Điều luật này không quy định về chứng minh tài

sản, về khả năng thi hành án của người phạm tội, là không phù hợp với quy định tại

khoản 2 Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Do đó, cần phải có văn bản quy định hướng

dẫn việc áp dụng cho phù hợp vấn đề chứng minh và chứng cứ,phải tiếp tục hoàn

thiện các nguyên tắc tố tụng hình sự, có vậy mới đảm bảo cho việc định áp dụng

hình phạt tù có thời hạn được chính xác.

-Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm b khoản 1 Điều

51 BLHS cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo người bị áp

dụng hình phạt được hưởng quyền lợi phù hợp với chính sách pháp luật của Nhà

70

nước, theo đó cần quy định điểm b như sau: cần có một quy định cụ thể về tỷ lệ

phần trăm mức bồi thường thiệt hại mà người phạm tội đã thực tế bồi thường.Tỷ lệ

bồi thường này có thể ít nhất là từ 50% thiệt hại trở lên. Cần ban hành văn bản

hướng dẫn áp dụng điểm b khoản 1Điều 54 BLHS năm 2015.

- Quy định về hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít

nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt

tại Điều 34 BLHS.Theo quy định này cụm từ “chưa đến mức miễn hình phạt” cần

sớm có văn bản hướng dẫn, giải thích cụ thể, thống nhất như thế nào là “chưa đến

mức miễn hình phạt”.

- Tại Điều 36 BLHS quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ. Trong

trường hợp Tòa án xem xét áp dụng hình phạt tù có thời hạn là tương xứng với tính

chất, mức độ của hành vi phạm tội.Nhưng khi xem xét quy định tại Điều 36 BLHS,

có vướng mắc khi áp dụng từ cụm từ “Không cần thiết phải cách ly người phạm tội

khỏi xã hội”.Vậy cụm từ “Không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội”

cần sớm có văn bản hướng dẫn, giải thích cụ thể, thống nhất như thế nào là “Không

cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội”.

- Tại Điều 65 BLHS quy định về án treo và Điều 91 BLHS quy định đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong trường hợp Tòa án xem xét áp dụng án treo cho

người chưa thành niên phạm tội và khi xem xét Điều 65 BLHS và Điều 91 BLHS,

có vướng mắc vì không có quy định nào về việc ưu tiên áp dụng án treo đối với

người chưa thành niên. Và hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc giao người

chưa thành niên cho cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương để giám sát,

giáo dục trong trường hợp họ được hưởng án treo theo quy định Khoản 2 Điều 65

BLHS vì trên thực tế trong nhiều trường hợp, cha, mẹ người chưa thành niên không

sống cùng địa chỉ và có nhiều người chưa thành niên có tên trong hộ khẩu của cha

(hoặc mẹ), nhưng lại thường sống chung với người kia nên việc giao giám sát, giáo

dục mỗi địa phương cũng còn áp dụng khác nhau. Vì vậy, cần sớm ban hành những

quy định cụ thể cho việc áp dụng án treo cho người chưa thành niên.

- Và tại Điều 101 BLHS quy định về mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với

ngưới từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, tuy

71

nhiên khi áp dụng việc quyết định hình phạt tù có nhiều vướng mắc với nhiều quan

điểm khác nhau về cách tính mức hình phạt tù, cụ thể: Mức hình phạt cao nhất áp

dụng đối với người chưa thành niên phải thấp hơn mức hình phạt cao nhất áp dụng

cho người thành niên, nhưng BLHS không khống chế mức tối thiểu.Hay cần phải

xác định một khung hình phạt tương ứng cho người chưa thành niên từ mức tối

thiểu đến mức tối đa, sau đó Hội đồng xét xử xác định mức hình phạt tù cụ thể trong

phạm vi khung hình phạt đó, từ đó, căn cứ vào các yếu tố được pháp luật quy định

để quyết định hình phạt tù cụ thể đối với với người chưa thành niên trong phạm vi

khung hình phạt đã xác định. Do đó Điều 101 BLHS cần được sửa đổi, bổ sung cho

phù hợp với thực tiễn, đảm bảo người chưa thành niên bị áp dụng hình phạt được

hưởng quyền lợi phù hợp với chính sách pháp luật của Nhà nước, theo đó cần quy

định Điều 101 BLHS như sau: “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi… nếu

là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư

mức phạt tù mà điều luật quy định” thành “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18

tuổi…nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba

phần tư mức phạt tù của khung hình phạt được áp dụng”.

- Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và trách

nhiệm nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội thẩm.

Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của nước ta, đòi hỏi yêu cầu của Đảng

và Nhà nước ngày càng cao về chất lượng của đội ngũ cán bộ tư pháp. Vì thế, việc

nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm trong giai đoạn

hiện nay là một yêu cầu rất cấp thiết. Đây là một điều kiện tiên quyết để đảm bảo

chất lượng cho việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn được chính xác. Vì vậy, các

Thẩm phán và Hội thẩm cần được tiếp tục tăng cường bồi dưỡng, đào tạovề chuyên

môn nghiệp vụ và kinh nghiệm xét xử. Đồng thời, mỗi Thẩm phán, Hội thẩm cũng

phải thường xuyên tự phấn đấu, học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận chính

trị, chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức cách mạng, giữ vững quan điểm lập

trường tư tưởng, bản lĩnh nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm trong công tác, bảo

đảm trong hoạt động xét xử Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập và tuân theo pháp

72

luật, bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án ngày càng được nâng cao.Có như vậy,

áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đạt được hiệu quả nhất định.

-Bảo đảm tính độc lập trong xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.

Trong khi xét xử phải quán triệt tuân thủ triệt để các nguyên tắc pháp chế xã

hội chủ nghĩa; nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Cần tạo cơ chế hoạt động đặc thù cho hệ thống Tòa án, không chịu sự quản lý, kiểm

tra của cơ quan khác về mặt tổ chức.Có như vậy,Thẩm phán và Hội thẩm khi áp

dụng hình phạt tù có thời hạn mới được đảm bảo tính độc lập trong xét xử.

- Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác xét xử;Thực hiện giám đốc việc

xét xử.

Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ:“Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định

rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ.

Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều

kiện nhất định”.[5].

Qua thực tiễn xét xử cho thấy, bên cạnh đa số bản án xét xử đúng pháp luật,

vẫn còn một số bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với tình tiết khách

quan của vụ án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bị oan sai, bỏ lọt tội phạm, áp

dụng hình phạt không đúng pháp luật, quá nặng hoặc quá nhẹ, quyết định mức hình

phạt không đúng gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử và kịp thời

khắc phục những sai sót trong công tác xét xử cần phải tăng cường công tác kiểm

tra, giám sát, thực hiện hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân cấp

trên đối với Tòa án nhân dâncấp dưới, nhằm đảm bảo cho mọi bản án, quyết định

của Tòa áncó hiệu lực pháp luật đều được thi hành nghiêm minh, đúng pháp luật.

73

Kết luận chương 3

Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về hình phạt tù có

thời hạn, tôi nhận thấy rằng BLHS hiện hành quy định hình phạt này chiếm tỷ lệ

quá cao trong hệ thông hình phạt. Đồng thời, do bất cập trong việc quy định khung

hình phạt (quá rộng), mức tối đa quy định quá cao… cho nên mức hình phạt tù có

thời hạn áp dụng có sự thiếu thống nhất giữa quy định của BLHS và hình phạt được

quyết định trong bản án.

Qua đó, phạt tù có thời hạn là hình phạt cơ bản, quan trọng trong hệ thống

hình phạt và được áp dụng phổ biến nhất trong thực tiễn xét xử nước ta. Việc

nghiên cứu đổi mới hình phạt tù có thời hạn có vai trò rất quan trọng trong đổi mới

pháp luật hình sự nói riêng, cải cách tư pháp nói chung ở nước ta. Quan điểm của

Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp cũng là quan điểm hoàn thiện pháp luật

hình sự, trong đó có hình phạt tù. Hoàn thiện các quy định về hình phạt tù có thời

hạn theo hướng hạn chế áp dụng phạt tù, mở rộng áp dụng các hình phạt không phải

tù là hướng cơ bản trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta trong bối cảnh mới./.

74

KẾT LUẬN

Từ việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn áp dụng phạt tù có thời hạn

của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó tác giả

làm rõ những hạn chế, vướng mắc, để từ đó đưa ra những yêu cầu và giải pháp nâng

cao chất lượng áp dụng phạt tù có thời hạn.

Sau khi định tội danh, theo hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại Tòa, Hội

đồng xét xử xem xét một cách toàn diện hành vi phạm tội của bị cáo, xác định đầy

đủ các tình tiết của vụ án, căn cứ các quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử

lựa chọn mức hình phạt tù có thời hạn để áp dụng đối với người bị kết tội và quyết

định trong bản án về hình phạt đã chọn.

Thông qua việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động xét xử, cụ thể là hoạt động áp

dụng phạt tù có thời hạn tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp từ năm 2016 đến năm

2020, cho thấy bên cạnh những kết quả tốt đã đạt được như các vụ án xét xử đạt tỷ

lệ cao, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không có án

oan sai. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, bất cập trong hoạt động áp dụng hình

phạt tù có thời hạn, dẫn đến kết quả chưa đáp ứng được mục đích răn đe, giáo dục,

cải tạo và phòng ngừa tội phạm. Cụ thể: Hạn chế, vướng mắc trong xác định các

tình tiết, chứng cứ của vụ án; Quyết định hình phạt không đúng, quá nặng, quá nhẹ,

cho hưởng án treo không đúng quy định pháp luật; Đánh giá tính chất mức độ hành

vi phạm tội, nhân thân của bị cáo không đúng. Nguyên nhân của những hạn chế này

là do sự nhận thức của Hội đồng xét xử, sự bất cập của bộ luật hình sự và trong

hướng dẫn áp dụng pháp luật.

Từ thực tiễn áp dụng phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp,

luận văn đã đưa ra các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt

tù có thời hạn, như: Yêu cầu cải cách tư pháp; thựchiện chính sách hình sự hướng

thiện, coi trọng tính phòng ngừa, giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không

phải tù; đảm bảo quyền con người, kể cả của người bị kết tội.Yêu cầu thực hiện

chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa không phải là yêu cầu

mới nhưng đến hiện nay yêu cầu này mới được thể hiện rõ nét qua các quy định của

bộ luật hình sự, tố tụng hình sự. Thực hiện được điều này sẽ giảm tải gánh nặng cho

75

các cơ sở thực hiện việc thi hành án, cho xã hội và tạo cơ hội nhiều hơn cho người

phạm tội xây dựng cuộc sống mà không cần phải cách ly khỏi gia đình, xã hội. Cần

thực hiện các giải pháp sau đây nhằm đáp ứng được những yêu cầu đã nêu trên

gồm: Nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; Tăng

cường hướng dẫn áp dụng pháp luật về áp dụng phạt tù có thời hạn; Cần thay đổi

nhận thức về áp dụng các hình phạt, cụ thể là hình phạt tù có thời hạn,vai trò của

nó; Có tư duy mới về chính sách hình sự hướng thiện theo tinh thần Nghị quyết số

49/NQ-TƯ ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp; tiếp tục

hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự nhất là các quy định về hình phạt tù có

thời hạn.

Điều quan trọng trong số các giải pháp cần thực hiện ngay đó là việc thay đổi

nhận thức, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng

phòng ngừa, mục đích hình phạt và vai trò hình phạt tù. Trên cơ sở thay đổi nhận

thức, các quy định của Bộ luật hình sự sẽ tiếp tục được hoàn thiện để đáp ứng được

yêu cầu cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người theo quy định của Hiến pháp./.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Hoàng Thị Kim Anh, Phan Thị Phương Hiền, Trần Ngọc Lan Trang

(2016), Một số điểm mới về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân, tr.1-4.

2. Phạm Văn Báu (2008), Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộluật

nhữngbất cập và phương hướng hoàn thiện”,Tạp chí Tòa án nhân dân, số18, tr.2-3.

3. Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb

chính trị quốc gia, Hà Nội.Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-

NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác

tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

4. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

5. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

6. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghịquyết

số01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000, hướng dẫn áp dụng một số quy định trong

Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999.

7. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghịquyết

số02/2003/NQ- HĐTP ngày 17/4/2003, hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

luật hình sự năm 1999.

8. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004),Nghịquyết

số04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004, hướng dẫn áp dụng một số quy định trong

phần xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

9. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2015), Nghịquyết

số03/2015/NQ-HĐTP về quy trình công bố, lựa chọn và áp dụng án lệ.

10. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao(2017),Nghịquyết

số05/2017/NQ-HĐTP ngày 19 tháng 07 năm 2017 Ban hành một số biểu mẫu trong

giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của Bộ luật tố tụng hình sự;

77

11. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2007),Nghị quyết số

01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của hướng dẫn áp dụng một số quy định của

BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp

hành hình phạt;

12. Công văn số 37/NCPL ngày 16/1/1976 kèm theo chuyên đề sơ kết kinh

nghiệm xét xử các vụ án về người chưa thành niên phạm tội; Thông tư số

2308/NCPL ngày 1/12/1961 hướng dẫn về tổng hợp hình phạt đối với án treo.

13. Lê Văn Đệ (2003), Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều

tội,Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, số1,

tr.58-62

14. Lê Văn Đệ (2010), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình

sựViệt Nam, Nxb Công an nhân dân.

15. Trần Văn Độ, Nguyễn Trí Tuệ, Phạm Minh Tuyên (2015), Chương trình

đạotạo nghiệp vụ xét xử - phần kỹ năng giải quyết vụ án hình sự, Tập bài giảng cho

K2,Nxb Công an nhân dân.

16. Trần Văn Độ (1989), Một số ý kiến về áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộluật

Hìnhsự, Tạp chí Tòa án nhân dân số5, tr.14.

17. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2001),Chương Quyết định hình phạt–

Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.65-66

18. Nguyễn Văn Hiện (2002), Nâng cao chất lượng soạn thảo bản án hình

sự một số yêu cầu cấp bách, Tạp chí dân chủ pháp luật, số 04/2002.

19. Nguyễn Thành Chung (2018),“áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo

pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh”, Luận văn thạc sĩ.

20. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb

Lao động- xã hội, Hà Nội.

21. Võ Hồng Nam (2014), “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình

sựViệt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ.

22. Phạm Minh Tuyên - Kỹ năng xét xử vụ án hình sự.

23. Giáo trình luật hình sự Việt Nam - phần chung, Trường đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức.

78

24. Giáo trình Định tội danh và Quyết định hình phạt, Học viện Tòa án.

25. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013, Hà Nội.

26. Quốc Hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

27. Quốc Hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

28. Quốc hội (2014); Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày

24/11/2014, Hà Nội.

29. Quốc Hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội.

30. Quốc Hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

31. Quốc Hội (2015), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.

32. Bộ Tư pháp (2000), Tài liệu hội nghị tập huấn chuyên sâu Bộ luật Hình

sự1999, Hà Nội,

33. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm,

các tội xâm phạm sở hữu, 2003, Nxb Tp Hồ Chí Minh.

34. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt

trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội

35. Đinh Văn Quế (2002), Một số vấn đề về quyết định hình phạt quy định

trong BLHS năm 1999, tạp chí Tòa án nhân dân, tr.14

37. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp (2015), Báo cáo tổng kết công tác ngành,

Tp. Hồ Chí Minh.

38. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp (2016), Báo cáo tổng kết công tác ngành,

Tp. Hồ Chí Minh.

39. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp (2017), Báo cáo tổng kết công tác ngành,

Tp. Hồ Chí Minh.

40.Tòa án nhân dân quận Gò Vấp(2018),Báo cáo tổng kết công tác ngành,

Tp. Hồ Chí Minh.

41.Tòa án nhân dân quận Gò Vấp(2019),Báo cáo tổng kết công tác ngành,

Tp. Hồ Chí Minh.

42.Tòa án nhân dân quận Gò Vấp(2020),Báo cáo tổng kết công tác ngành,

Tp. Hồ Chí Minh.

79

43. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội.

44. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb khoa

học xã hội.

45. Võ Khánh Vinh (2013),Lý luận chung về Định tội danh, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội.

46. Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội.

47.VõKhánhVinh(1989),Quyết định hình phạt:Một sốvấn đềchung, Nhà

nước và pháp luật.

48. Đào Trí Úc (1996) (chủ biên), chương Quyết định hình phạt theo luật

hình sựViệt nam, trong sách: Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, Nxb

Chính trịquốc gia, Hà Nội.

49. Nguyễn Thị Xuân (2016), Những điểm mới trong Bộ luật hình sự năm

2015 về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân

dân, số6, tr.34-36.

80