
CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
CHƯƠNG VII

1. Khái niệm chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là cá nhân có năng lực TNHS hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện hành vi mà LHS quy
định là tội phạm.
BLHS 1999, xác định chủ thể của tội phạm chỉ có cá
nhân mà không thừa nhận chủ thể tội phạm là pháp nhân
(cơ quan, tổ chức).
Tuy nhiên, BLHS 2015 lại xác định chủ thể của tội phạm
bao gồm:cá nhân và pháp nhân thương mại – Điểm
mới của BLHS 2015.

2. Năng lực TNHS
Khái niệm:Năng lực TNHS là khả năng của một người,
một pháp nhận thương mại ở thời điểm họ thực hiện hành
vi nguy hiểm cho XH nhận thức được tính chất nguy hiểm
cho XH của hành vi mà mình thực hiện và điều khiển
được hành vi ấy.
Chỉ những người, pháp nhân thương mại có năng lực TNHS
mới là chủ thể của tội phạm.

2.1. Năng lực TNHS của cá nhân
LHS không chính thức quy định thế nào là tình trạng
có năng lực TNHS mà chỉ quy định tình trạng không
có năng lực TNHS.
Do vậy, một người đạt đến độ tuổi chịu TNHS, không
rơi vào tình trạng không có năng lực TNHS thì đương
nhiên được coi là có năng lực TNHS.

Tình trạng không có năng lực TNHS
của cá nhân
Đ21 BLHS sửa đổi 2015: ‘‘Người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho XH trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình thì không phải chịu TNHS’’.
Dấu hiệu về yhọc:
Dấu hiệu pháp lý:
TH người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi – Chỉ được
xem xét là tình tiết giảm nhẹ TNHS mà thôi.

