VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------
NGUYỄN HỒNG PHÚC
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ
TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------
NGUYỄN HỒNG PHÚC
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ
TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PSG.TS.TRƯƠNG QUANG VINH
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu được là trung thực, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
về kết quả nghiên cứu.
Tác giả
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN................................................. 7
1.1 Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn ..................... 7
1.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn ..................... 20
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI
HẠN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG
NAI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH
PHẠT NÀY THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ................................ 40
2.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai .............................................................................. 40
2.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn tại
địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................................ 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. ADPL : Áp dụng pháp luật
2. BLHS : Bộ luật Hình sự
3. BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự
4. HĐXX : Hội đồng xét xử
5. TAND : Tòa án nhân dân
6. TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
7. TANDCC : Tòa án nhân dân cấp cao
8. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý ............................................ 40
Bảng 2.2: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng ................................... 41
Bảng 2.3: Số liệu kết quả xét xử .................................................................. 42
Bảng 2.4: Số liệu các loại tội phạm đã xử lý................................................ 43
Bảng 2.5: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng ................................... 44
Bảng số 2.6: Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn ................................. 47
Bảng số 2.7: Số liệu về nhân thân của bị cáo ............................................... 48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay nước ta đang trong trong quá trình đổi mới đã có những bước
phát triển cả về nội dung lẫn phương thức thực hiện, nền kinh tế thị trường,
giao lưu hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên,
ở nước ta hiện nay tình hình tội phạm trong đời sống xã hội ngày càng phức
tạp, với số lượng ngày càng gia tăng, hành vi phạm tội ngày càng nguy hiểm
cho xã hội. Qua các năm nhóm tội phạm và trường hợp phạm nhiều tội có dấu
hiệu gia tăng đáng báo động. Để hạn chế, giảm thiểu tình hình tội phạm đang
có dấu hiệu gia tăng, nhà nước ta đã có những giải pháp tuyên truyền giáo
dục, phổ biến pháp luật trong toàn dân. Đặc biệt là đã và đang có những chế
tài xử lý hết sức nghiêm khắc trong đó có hình phạt tù là một biệt pháp xử lý,
mang tính chất răn đe đối với những hành vi vi phạm.
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015,
được sửa đổi bổ sung năm 2017 thì hình phạt tù có thời hạn là một trong số 07
hình phạt chính trong điều luật quy định các hình phạt đối với người phạm tội.
Ta cũng có thể thấy trong quy định tại điều 38 của Bộ Luật Hình sự hiện hành
quy định: “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt”
trong đó thời gian phải chấp hành giam giữ từ 03 tháng tới tối đa là 20 năm.
Như vậy, hình phạt tù có thời hạn là một trong những chế tài có ở hầu
hết tất cả các điều luật trong phần riêng của Bộ Luật Hình sự nhằm thực hiện
việc cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống cộng đồng trong một khoảng
thời gian nhất định. Điều này càng chứng minh hình phạt tù có thời hạn là
một trong các hình phạt thể hiện rõ nhất chính sách nghiêm khắc của Luật
Hình sự và nguyên tắc của Nhà nước, nó tước bỏ quyền tự do của người phạm
tội để đạt được mục đích trừng trị người phạm tội đồng thời ngăn ngừa người
phạm tội tiếp tục phạm tội mới, cũng như giáo dục họ tôn trọng pháp luật,
1
động viên, khuyến khích người phạm tội chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo,
nhanh chóng để trở về hoà nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho
xã hội. Hình phạt tù có thời hạn là nhằm tách người phạm tội ra khỏi cộng
đồng trong một khoảng thời gian nhất định, khi mà hành vi phạm tội của họ
buộc phải tách họ ra khỏi cộng đồng một thời gian để ngăn ngừa tội phạm và
giáo dục người phạm tội pháp luật thì cách vận dụng các quy định của pháp
luật hình sự để áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm
tội của người vi phạm là rất quan trọng.
Thành phố Biên Hòa là một đơn vị hành chính ở phía tây của tỉnh Đồng
Nai, phía bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, phía nam giáp huyện Long Thành, phía
đông giáp huyện Trảng Bom, phía tây giáp thị xã Tân Uyên, thành phố Dĩ An
của tỉnh Bình Dương và thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp lớn của tỉnh Đồng Nai nói riêng
và khu vực Đông Nam Bộ nói chung. Do đó, lưu lượng người nhập cư đến
làm việc tại địa phương cũng như phương tiện qua lại trên các tuyến giao
thông luôn nhộn nhịp nhưng đồng thời gây nên tình trạng phức tạp về an ninh
trật tự, khó khăn trong công tác quản lý địa bàn và đảm bảo an nịnh trật tự.
Thời gian vừa qua, do tác động của suy thoái kinh tế thế giới và dịch
bệnh nên dẫn đến hoạt động của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn gặp khó
khăn, thậm chí bị phá sản dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng. Nhiều đối
tượng xấu lợi dụng tình hình phức tạp và công tác quản lý địa bàn còn sơ hở
để thực hiện hành vi phạm tội dẫn đến nhiều đối tượng phạm tội bị xử lý và
kết án phạt tù. Tuy nhiên, ngoài những kết quả tích cực đã đạt được trên thực
tế thì việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn của hệ thống tòa án hai cấp trên
địa bàn thành phố vẫn còn bộc lộ hạn chế, như: Sự không thống nhất khi xác
định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm; một số trường hợp áp dụng chưa
đúng các Điều, Khoản của Bộ luật Hình sự; việc áp dụng tình tiết tăng nặng,
2
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chưa phù hợp dẫn đến có trường hợp
xử quá nhẹ hoặc quá nặng hoặc cho hưởng án treo không phù hợp. Từ thực
trạng đó, cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá về thực tiễn áp dụng hình phạt
tù tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để đánh giá những ưu điểm, hạn
chế, khó khăn và nguyên nhân của hạn chế, khó khăn để đưa ra những giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về áp dụng hình phạt tù
có thời hạn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tác giả lựa chọn
đề tài “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu là cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, có nhiều công trình nghiên cứu được công bố có
nội dung liên quan đến đề tài áp dụng hình phạt tù nói chung và áp dụng hình
phạt tù có thời hạn nói riêng đối với người phạm tội trong xét xử các vụ án
hình sự luôn là chủ để quan tâm của nhiều học giả, cá nhận, tổ chức liên quan
đến lĩnh vực này, có thể nêu một số công trình như:
Võ Hồng Nam (2014) “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ.
Hoàng Văn Huyền (2016) “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”, luận văn thạc sĩ.
Đinh Tấn Long (2017) “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”, luận văn thạc sĩ.
Nguyễn Thành Chung (2018) “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, luận văn thạc sĩ.
Nguyễn Thị Hồng Thanh (2020) “ Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, luận văn thạc sĩ
Các công trình nghiên cứu khoa học, đề tài, luận văn nêu trên là tài liệu
bổ ích đã có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, có giá trị
3
sử dụng trong quá trình nghiên cứu, gợi mở cho tác giả những ý tưởng khoa
học. Tuy nhiên để đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện tưucho đến nay
vẫn chưa có một công trình nghiên cứu độc lập về hoạt động áp dụng hình
phạt tù có thời hạn của một đơn vị hành chính thuộc tỉnh, cụ thể là thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt động áp dụng hình
phạt tù có thời hạn từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sẽ mang tới
những góc nhìn phong phú về vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về áp dụng hình
phạt tù có thời hạn, thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, luận văn đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật để tập trung nghiên
cứu bản thân tác giả đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng hình phạt tù: Khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn; khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc
áp dụng hình phạt tù có thời hạn; cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt có
thời hạn; quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với một số trường
hợp đặc biệt.
- Khảo sát thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại địa bàn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến năm 2020. Khẳng định những
ưu điểm, những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và
nguyên nhân của hạn chết, thiếu sót trong áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại
địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó xây dựng các giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt có thời hạn tại địa bàn
4
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu là những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn
liên quan trực tiếp đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp
dụng hình phạt tù có thời hạn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
trong thời gian 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về pháp luật hình
sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự, hình phạt, quyết định hình phạt và về
đấu tranh phòng và chống tội phạm và bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng biện pháp biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác –
Lê Nin và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê; Phương pháp so sánh được áp
dụng chủ yếu ở phần về thực trạng hình phạt tù có thời hạn; phương pháp
phân tích và tổng hợp phương pháp này được vận dụng trong toàn bộ cả hai
chương của đề tài, mục đích phân tích các quy định của pháp luật về hình phạt
tù có thời hạn, qua đó tổng hợp vấn đề; phương pháp logic, phương pháp
khảo sát, thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
5
Đây là công trình nghiên cứu khoa học đề cập tương đối có hệ thống và
toàn diện về áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai, sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về áp dụng
hình phạt tù có thời hạn trong việc thi hành các vụ án hình sự, nâng cao nhận
thức của những người thực hiện các hoạt động tư pháp của cơ quan tiến hành
tố tụng và cơ quan thi hành án. Công trình nghiên cứu khoa học sẽ giúp cho
các công tác xét xử vụ án hình sự trở nên cụ thể hơn trong việc làm rõ nội
dung áp dụng hình phạt tù có thời hạn vào luật cũng như vào thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu có thể được các cơ quan tư pháp,
cơ quan thi hành án các cấp tham khảo để áp dụng đúng hình phạt tù có thời
hạn trong hoạt động tố tụng, thi hành án, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật của các chủ thể có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
thạc sỹ được cơ cấu 2 chương gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và giải pháp bảo đảm hình phạt này theo
6
quy định của pháp luật
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
1.1 Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn
1.1.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn
Trong BLHS hiện hành biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà
nước là hình phạt. Có nhiều loại biện pháp cưỡng chế khác nhau như xử phạt
hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về tài sản, xử lý kỷ luật,…nhưng biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất vẫn là hình phạt. Đây là chế tài của pháp
luật Hình sự, được toà án sử dụng đối với người phạm luật như cá nhân hoặc
pháp nhân thương mại.
Ngoài các biện pháp tạo sự công bằng, đảm bảo công lý, giáo dục
người phạm tội,… Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn còn giúp pháp luật
Hình sự xử lý người phạm tội và pháp nhân thương mại một cách cụ thể hơn,
ngăn ngừa các hành vi phạm tội tích cực hơn và phòng, chống tội phạm một
cách hiệu quả hơn.
Trong các loại hình phạt, tù có thời hạn là một hình phạt có tính nghiêm
khắc. Đó là việc buộc người bị kết án phải chịu hình phạt và chấp hành hình
phạt trong một thời hạn nhất định. Người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly
khỏi môi trường xã hội bình thường một khoảng thời gian nhất định, họ phải
lao động cải tạo trong dưới sự quản lý và giám sát của lực lượng cảnh sát. Chế
độ cải tạo cũng như việc chấp hành hình phạt tù có thời hạn được đảm bảo
thực hiện theo Luật thi hành án hình sự và nghị định của Chính phủ quy định.
Trong luật hình sự Việt Nam thì hình phạt tù có thời hạn tuy là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc là một trong các hình phạt thể hiện rõ nhất
chính sách hình sự và nguyên tắc của Nhà nước đối với người phạm tội,
7
nhưng không mang tính chất trả thù hay hành hạ người bị kết án mà có ý
nghĩa cải tạo giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Trong thời gian
người phạm tội chấp chấp hành hình phạt, nếu họ tiến bộ thì được xét giảm
mức hình phạt hoặc tha tù trước thời hạn. Bộ luật hình sự còn có những quy
định không phải chấp hành hình phạt tù khi đã hết thời hiệu (Điều 60); được
miễn chấp hành hình phạt tù (Điều 62); giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều
63 hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67); tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù (68); án treo (Điều 65).
Mức quy định của Hình phạt tù có thời hạn có mức cao nhất là 20 năm
và mức thấp nhất là 03 tháng. Thời hạn chấp hành hình phạt tù sẽ trừ đi thời
gian Tạm giữ, tạm giam để ra bản án chính thức. Cứ 01 ngày tạm giam, tạm
giữ bằng 01 ngày tù. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.”. Có thể nói
đây là hình phạt tước đi quyền tự do của người phạm tội trong khoản thời gian
nhất định. Tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của tội sẽ quy ra mức phạt, đối với 1 tội
tối thiểu là 03 tháng và tối đa là 20 năm. Tổng các hình phạt không được quá
30 năm đối với các trường hợp phạm nhiều tội cộng lại để ra hình phạt chung.
Nhìn chung trên thực tiễn tại toà án nhân dân thì hình phạt tù có thời hạn là
hình phạt được áp dụng phổ biến nhất.
Mức tối thiểu và tối đa đối với hình phạt tù có thời hạn được quy định
trong các điều luật và trong từng khung hình phạt cụ thể không hoàn toàn
giống với mức tối thiểu và tối đa quy định cho loại hình phạt này mà tùy
thuộc và từng tội phạm, từng trường hợp phạm tội cụ thẻ mà nhà làm luạt quy
định mức tối thiểu và tối đa cho phù hợp. Có tội phạm nhà làm luật chỉ quy
định mức tối thiểu là ba tháng và mức tối đa là hai năm, nhưng có tội phạm
phải quy định mức tối thiểu là mười năm và tối đa là hai mươi năm. Nếu
khung hình phạt quy định mức tối thiểu cao hơn ba tháng tù thì khi quyết định
hình phạt Tòa án có thể phạt bị cáo dưới mức tối thiểu của khung hình phạt,
8
nhưng không được thấp hơn ba tháng tù.
Người bị kết án bị Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn, nếu trước
đó họ đã bị tạm giữ hoặc tạm giam, thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ
vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một
ngày tù.
Tóm lại: Hình phạt tù có thời hạn là việc người bị kết án bị tước tự do,
cách ly với xã hội và buộc phải lao động cải tạo trong các cơ sở giam giữ
dưới sự quản lý và giám sát của cơ quan thi hành án trong một thời hạn nhất
định.
1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn
- Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt chính được quy định hầu hết
trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Hình phạt tù có thời hạn được quy định trong
hầu hết tất cả các chế tài đối với cấu thành tội phạm và được áp dụng phổ biến
trong quá trình Tòa án xét xử tội phạm.“Tù có thời hạn là buộc người bị kết
án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định”
được quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
- Hay có thể nói, hình phạt tù có thời hạn là hình phạt buộc người phạm
tội cách ly khỏi đời sống xã hội và phải cải tạo tại trại giam để có thể thay đổi
nhân cách, lối sống của họ. Hay có thể hiểu một cách ngắn gọn đó là hình
phạt tù có thời hạn là việc hạn chế một số quyền tự do của người phạm tội, bị
giam giữ tại nhà tạm giam, tạm giữ và buột họ phải tách khỏi cộng đồng xã
hội trong một khoảng thời gian nhất định và buộc họ phải chịu nghiêm khắc
cải tạo, thực hiện lao động, học nghề, học văn hóa...theo quy định của pháp
luật. Hình phạt tù có thời hạn chủ yếu làm người phạm tội bị mất đi quyền tự
do, cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội. Đồng thời cũng giáo dục cải tạo nhằm
họ có thể thay đổi nhân cách tốt hơn, có ích cho xã hội.
- Thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn có thời gian tối thiểu và
tối đa, tùy theo tính chất, mức độ hành vi phạm tội.
9
Nếu xem xét ta có thể thấy tại Điều 38 BLHS năm 2015 về hình phạt tù
có thời hạn thì mức định tội đối với người phạm một tội có mức cao nhất là
20 năm và thấp nhất là 03 tháng. Về mỗi cấu thành tội của 1 tội được nêu cụ
thể trong điều 38 “Mức thấp nhất không dưới 03 tháng và mức tối đa là 20
năm”. Vì vậy dù phạm tội chưa đạt hay ít nghiêm trọng thì mức hình phạt
thấp nhất vẫn là 03 tháng, và nếu thuộc trường hợp tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng ngoài khung hình phạt chung thân và tử hình thì toà án có thể phạt lên
tới 20 năm. Còn có trường hợp, người phạm tội có nhiều tội danh của nhiều
bản án và có nhiều tội thì tổng hợp mức hình phạt cũng không được quá 30
năm.
- Mục đích của hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng phạt người phạm
tội về hành vi phạm tội của họ đã thực hiện.
Hình phạt tù có thời hạn là chế tài nghiêm khắc chiếm vị trí quan trọng
trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự. Trong phần các tội phạm, hình
phạt tù có thời hạn là hình phạt được quy định ở tất cả các điều luật trong Bộ
luật Hình sự. Trong thực tế xét xử hình phạt tù có thời hạn được áp dụng phổ
biến và được coi là hình phạt hữu hiệu và nghiêm khắc nhất để đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng trong
trường hợp khi thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi cộng đồng
xã hội trong khoảng thời gian nhất định để ngăn ngừa tội phạm và giáo dục
người phạm tội. Hình phạt không phải là hình phạt tù chính là trường hợp
hình phạt có thể đạt được mục đích mà không cần phải cách ly người phạm
tội ra khỏi cộng đồng. Hình phạt tù có thời hạn được toà án áp dụng khi
khung hình phạt của luật có quy định mà người phạm tội bị kết án có quy định
hình phạt này. Đối với người dưới 18 tuổi, Toà án hạn chế áp dụng hình phạt
tù, chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi xét thấy các biện pháp cảu tạo và
giáo dục không có tính phòng ngừa và ăn đe. Điều này được quy định tịa
khoản 6 điều 91 của BLHS hiện hành. Nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn,
10
người chưa đủ 18 tuổi được hưởng mức hình phạt nhẹ hơn đối với người từ
18 tuổi trở lên. Và hình phạt áp dụng cũng nhẹ hơn và có thời hạn ngắn nhất
cảu khung hình phạt.
1.1.3. Ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn
- Ý nghĩa chính trị - xã hội: Những hành vi không đúng với pháp luật
của cá nhân và người phạm tội, làm nên những tiêu cực trong mặt xã hội. Tạo
nên những tiền đề xấu về môi trường sinh sống cũng như an ninh xã hội
không tốt. Nên việc xét xử các vụ án hình sự đối với hành vi phạm tội nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng đối với các bị can, bị cáo luôn nhận được sự chú
ý quan tâm của xã hội và người dân. Vì vậy việc áp dụng hình phạt tù có thời
hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị - xã hội trong đời sống hiện
nay. Việc áp dụng và vận dụng đúng hình phạt sẽ mang lại sự chấp thuận của
đông đảo người dân, tạo nên sự khách quan trong xã hội của việc đánh giá tội
phạm, đánh giá chính sách hính sự của nhà nược. Điều này tạo niềm tin cho
người dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, sự điều hành, quản lý của
Nhà nước, tăng uy tín của Tòa án, Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khi thực hiện quyền tư pháp, đồng thời tạo sự ổn định
trong đời sống của nhân dân, người dân yên tâm trong sinh hoạt, lao động. Áp
dụng hình phạt tù có thời hạn đúng còn tác động một cách tích cực tới người
bị kết án, qua đó họ nhận thấy mức hình phạt là phù hợp, tương xứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mình mà sẽ cố
gắng cải tạo để về hòa nhập cuộc sống, sinh sống ổn định và không thực hiện
hành vi phạm tội nữa. Sử dụng pháp luật cần phải công minh và minh bạch,
đối với người phạm tội cần phải xử đúng người đúng tội. Không quá nhẹ cho
người lỗi nặng và không quá nặng cho người lỗi nhẹ, cần áp dụng hình phạt
một cách linh hoạt nhất là áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
phạm tội. Tạo niềm tin cho nhân dân về tính nghiêm minh của nhà nước trong
việc bảo vệ công lý cũng như tính nghiêm minh của pháp luật hình sự Việt
11
Nam. Tất cả các hành vi xâm hại đến các quan hệ pháp luật được pháp luật
Hình sự bảo vệ của người bị kết án đều được phải chịu các hình phạt tương
xứng. Vì vậy việc nhà nước áp dụng hình phạt tù có thời hạn nghiêm minh
đúng đắn sẽ góp phần bảo vệ công bằng xã hội, tăng cường pháp chế, trật tự
pháp luật và kỷ cương xã hội và pháp chế xã hội Chủ nghĩa.
- Ý nghĩa pháp lý: Mang ý nghĩa thiết thực khi áp dụng hình phạt tù có
thời hạn là ý nghĩa về mặt pháp lý. Tính hợp lý và nghiêm minh của văn bản
pháp luật hính sự thể hiện qua việc áp dụng hình phạt tù một cách hợp lý và
chính xác. Để tìm ra những vấn đề còn thiếu sót và bất cập trong việc áp dụng
hình phạt tù có thời hạn để đưa ra những hướng giải quyết phù hợp trong việc
áp dụng hình phạt tù có thời hạn một cách thống nhất và toàn vẹn trong thực
tiễn. Cần ban hành án lệ hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của
BLHS. Ngoài ra cũng cần xem xét tính hiệu quả của việc áp dụng pháp luật
nói chung và áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng thông qua trình tự thủ
tục tố tụng quy định. Từ đó nhận xét được trình tự thủ tục tố tụng đã đạt được
hiệu quả cao và đáp ứng được nhu cầu Cho thấy được trình tự, thủ tục tố tụng
Hình sự quy định đã hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Chính vì thế trong mỗi giai
đoạn khác nhau sự phát triển của xã hội đều có sự thay đổi, kéo theo sự thay
đổi về kinh tế, văn hóa, pháp luật. Do đó, nhiều quy định của pháp luật không
còn phù hợp với tình hình thực tế của xã hội, trình tự thủ tục cần sửa đổi, bổ
sung để chặt chẽ hơn.
- Ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa: Ngoài mục đích trừng trị người phạm
tội, mục đích của hình phạt tù có thời hạn là răng đe, trừng trị người phạm tội
mà còn là giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp luật, chuẩn mực quy
tắc của cuộc sống đồng thời ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác.
Trường hợp hình phạt tù có thời hạn được áp dụng một cách triệt để minh
bạch và đúng đắn sẽ tạo sự đồng thuận của các cá nhân và tổ chức và toàn xã
12
hội nhận thấy được sự công bằng của pháp luật từ đó tin tưởng vào sự đấu
tranh phòng ngừa tội phạm vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
điều tra, truy tố và xét xử của nước ta; tạo ra sự đồng thuận để toàn xã hội
tham gia tích cực vào công cuộc phòng chống tội phạm ở nước ta. Qua đó,
cũng là bài học để tất cả người dân nhận thức được và tuyên truyền, giáo dục
pháp luật tới người thân, gia đình, bạn bè, góp phần nâng cao sự hiểu biết
pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật.
1.1.4 Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Có thể coi hình phạt tù có thời hạn là một trong những biện pháp trong
nhiệm vụ đấu tranh và phòng chống tội phạm. Hình phạt này giữ vai trò khá
quan trọng trong việc cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục răn đe.
Hình phạt tù có thời hạn được Toà án áp dụng thông qua hoạt động xét
xử của Toà án và hoạt động xét xử của toà án phải tuân thủ các nguyên tắc đó
là: Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, xét xử tập thể và
quyết định theo đa số…Căn cứ để ra quyết định hình phạt được quy định tại
Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 “Khi quyết định hình phạt Toà án căn
cứ vào quy định của Bộ luật này, căn nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của tội phạm, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
Hoạt động tư duy của hội đồng xét xử được thực hiện sau khi xác định
tội danh đối với hành vi người phạm tội được gọi là áp dụng hình phạt. Nếu
coi cơ sở của việc quyết định hình phạt là định tội danh thì quyết định hình
phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử vụ án hình sự. Để quyết định
hình phạt tù có thời hạn, Hội đồng xét xử phải căn cứ hồ sơ vụ án, kết quả của
quá trình tranh tụng tại phiên toà, xác định các tình tiết của vụ án và nhận
thức đầy đủ quy định của Bộ luật hình sự. Cũng có thể nói áp dụng hình phạt
tù có thời hạn là hoạt động mang tính quyền lực của nhà nước, được thực thi
13
thông qua Hội đồng xét xử là những người được nhà nước trao quyền để xem
xét, đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã được thụ lý và thu thập trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử nhằm xác định sự thật xác thực của vụ án, sau đó lựa
chọn hình phạt sao cho phù hợp nhất với BLHS tương xứng với mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm. Ngoài ra HĐXX còn phải xem xét các tình tiết
tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để ban hành bản án cũng như
quyết định về hình phạt sao cho chính xác nhất.
Những phân tích trên đã cho thấy khái niệm Áp dụng hình phạt tù có
thời hạn có thể định nghĩa như sau: “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn là hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự sau quá trình định tội danh, thể hiện ở việc
trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại Toà, xác định các tình tiết của
vụ án, nhận thức đầy đủ quy trình của bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ lựa
chọn mức hình phạt tù có thời hạn để áp dụng đối với người bị kết tối và ra
phán quyết trong bản án kết tội về hình phạt đó.
1.1.5. Đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn
- Có thể coi đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn là một hoạt động
áp dụng pháp luật hình sự dưới 1 hình thức đặc biệt. Được nhà nước trao thẩm
quyền nhân dân nhà nước để áp dụng pháp luật đối với người phạm tội. Vì
vậy các hoạt động của toà án phải tuân thủ nghiêm theo quy định của tố tụng
hình sự từ các bước: Xử lý, thu thập, chứng minh,…cho tới khi xét xử và ra
quyết định. Để có thể áp dụng hình phạt tù một cách hiệu quả cần phải thường
xuyên kiểm tra quá trình hoạt động nhận thức quy định pháp luật hình sự của
người làm luật và các hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước chức
năng nhằm cá biệt hoá các quy định của pháp luật hình sự đối với người phạm
tội. Áp dụng chế tài chính là áp dụng hình phạt tù, chỉ có toà án là cơ quan có
thẩm quyền thực hiện các chế tài hình sự và làm các hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự. Áp dụng pháp luật hình phạt tù có thời hạn đối với người có
hành vi vi phạm, toà án cần xem xét từng trường hợp cụ thể, trong những
14
trường hợp đặc biệt như án có đồng phạm, hay phạm nhiều tội, hay phạm tội
nhiều lần,…Toà án còn thể hiện cá biệt hoá trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội thông qua việc xét xử và áp dụng xét xử, áp dụng hình phạt tù. Tiêu
biểu như các trường hợp: áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định, phạm tội chưa
đạt hay chuẩn bị phạm tội,… Trong tất cả các hoạt động áp dụng hình phạt, có
thể coi việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn là một trong những hoạt động
quan trọng nhất và cũng là cơ bản nhất trong việc áp dụng pháp luật. Để nêu
của tinh thần bắt buộc và tối cao của luật, nhà nước đã trao thẩm quyền áp
dụng pháp cho toà án, tiêu biểu là hoạt động áp dụng hình phạt. Việc áp dụng
thể chế hình phạt, nhà nước mang đầy tính tối thượng và ngày càng hoàn
thiện hơn trong hệ thống dân sinh cũng như hệ thống pháp luật.
- Chủ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn là Hội đồng xét xử: Theo
quy định tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 thì “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền duy nhất áp dụng
hình phạt hay không áp dụng hình phạt đối với người bị kết tội. Ngoài Tòa án,
không cơ quan hay cá nhân nào có quyền áp dụng hình phạt đối với cá nhân
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Toà án được nhà nước trao quyền lực
và có thẩm quyền xét xử, và kết quả của hoạt động xét xử chính là bản án.
Bản án được đút kết từ các quá trình do hội đồng xét xử nhân danh nhà nước
xem xét, tuyên bố, quyết định một cá nhân, một pháp nhân thương mại là vô
tội hay không. Bản án chính là thái độ toà án nhân danh nhà nước đối với
người vi phạm pháp luật.
Đối với vụ án Hình sự được xét xử theo thủ tục rút gọn, phiên toà do
một Thẩm phán tiến hành quy định tại khoản 1 Điều 463 BLTTHS thì Các
bản án, quyết định của Hội đồng xét xử hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật ngay mà sau khi tuyên án một thời gian nhất định và hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị mới có hiệu lực pháp luật.
15
Tại Điều 23 BLTTHS thì Các cơ quan, tổ chức, cá nhân bị pháp luật
nghiêm cấm hành vi can thiệp vào công việc xét xử của toà án và Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuỳ vào mức độ, tính chất
hành vi can thiệp sẽ bị xử phạt hành chính hoặc nặng hơn có thể truy cứu theo
pháp luật hình sự.
Trong quá trình xét xử cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân điều ngang quyền với nhau, Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
đều thảo luận và quyết định theo đa số. Tất cả thành viên trong hội đồng xét
xử sẽ đưa ra ý kiến và thống nhất tất cả ý kiến đó để đưa ra quyết định chung
nhất. Để đưa ra được ý kiến thống nhất, HĐXX không chỉ căn cứ vào tài liệu
hồ sơ chứng cứ, chứng cứ điều tra và chứng cứ do viện kiểm sát thu thập. Mà
Hội đồng còn phải căn cứ vào nhiều quá trình khác như thẩm tra, thẩm vấn,
tranh tụng phiên toà,….để nêu lên ý kiến và biện pháp phù hợp cho hành vi
phạm tội của từng cá nhân. Quyết định của hội đồng xét xử là trọng tâm của
hoạt động tố tụng hình sự trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn vào
thực tiễn.
- Được thực hiện sau khi định tội danh. Hay nói cách khác, các hành vi
nguy hiểm cho xã hội được pháp luật quy định là phạm tội mà các cá nhân
huy tổ chức thực hiện phù hợp với quy định đó của pháp luật và gây nguy
hiểm cho xã hội mà cấu thành nên 1 tội được gọi là định tội danh. Từ các
hành vi phạm tội mà người xử dụng luật sẽ xem xét, xem phù hợp với điều
luật nào mà BLHS quy định. Từ đó áp dụng quá trình định tội danh đó trong
quá trình khởi tố tới khi xét xử giám đốc thẩm. Khi xem xét định tội danh với
tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật thì định tội
danh lại là tiền đề cơ sở của hoạt động. Để làm được điều đó cần có các bước
sau:
Thứ nhất: Xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án đã xảy ra trên thực
16
tế thì người đánh giá phải thực hiện một cách khách quan, toàn diện, vô tư
dựa trên những chứng cứ thu thập được và dựa trên các cơ sở quy định của
BLTTHS.
Thứ hai: Phải nhận thức một cách thống nhất, chính xác nội dung các
quy phạm pháp luật hình sự phán ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm về
tội danh mà chủ thể áp dụng hướng tới lựa chọn. Trong BLHS các dấu hiệu
trong cấu thành tội phạm thì thường chỉ nêu nét khái quát những nét đặc
trưng, phổ biến của hành vi cấu thành tội phạm Do đó, đòi hỏi trong quá trình
áp dụng chủ thể định tội danh phải tư duy, sau sát đánh giá trên căn cứ khoa
học và thực tế để đảm bảo tính thuyết phục;
Thứ ba: Các cấu thành tội phạm và các tình thiết cần phải đối chiếu với
nhau nhằm xác định ra tội danh phù hợp nhất. Người thực hiện pháp luật cần
phải xem xét lựa chọn cụ thể để chọn ra điểm, khoản, điều phù hợp với loại
hành vi mà các đối tượng đã phạm phải.
Thứ tư: Cần phải có cụ thể loại tội danh cũng như hình phạt thích ứng
với tội danh đó. Từ các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, hội đồng xét xử sẽ
đưa ra mức hình phạt phù hợp với tính chất nguy hiểm mà hành vi đó gây ra
cho xã hội. Từ đó đưa ra hình phạt công bằng chính xác nhất đối với hành vi
phạm tội, cũng như đối với người thực hiện hành vi phạm tội đó.
- Hình phạt được áp dụng: Hình phạt tù có thời hạn là sau khi xác định
được tội danh của hành vi vi phạm thì HĐXX dựa trên các tài liệu chứng cứ
có trong hồ sơ, kết quả tranh luận tại phiên tòa để lựa chọn hình phạt áp dụng
đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Hình phạt bổ sung và hình phạt chính là 2
loạt hình phạt được pháp luật hình sự quy định trong đó hình phạt chính bao
gồm: Phạt tiền, bắt buộc giam giữ, Cải tạo tại địa phương không giữ, hình
phạt tù có thời hạn,… được quy định tại điều 32 BLHS. Trong đó hình phạt tù
có thời hạn là hịnh cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội có mức
phạt từ 03 tháng cho tới 20 .
17
- Văn bản áp dụng hình phạt: Nhiều văn bản cũng có nên khái niệm về
không có tội. Hay tại điều 13 BLTTHS có nêu Không có tội cho đến khi có
bản án két tội của Toà án đã có hiêu lực pháp luật. Vậy nếu bản án chưa có
hiệu luật pháp luật thì người đó vẫn chưa phải là phạm tội. Hội đồng xét xử
sau khi xem xét tất cả các tình tiết của vụ án và thống nhất về việc áp dụng
các hình phạt cho bị cáo thì cần phải có Bản án kết tội của Hội đồng xét xử
thể hiện việc Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt cho hành vi của bị cáo gây
ra, đó là bản án ghi nhận đầy đủ quan điểm của những người tham gia tố tụng,
nhận định của Hội đồng xét xử về việc xác định bị cáo có tội, tội gì, theo
điểm, khoản, điều nào của BLHS và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, mức hình phạt cụ thể được áp dụng. Bản án chính của
HĐXX là văn bản thể hiện rõ tính quyền lực của nhà nước cũng như sự trừng
phạt của nhà nước đối với người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu
hình phạt tù cho hành vi vi phạm mà mình đã thực hiện. Việc viết bản án vào
trước năm 2017, cần xem xét các vấn đề được nêu khái quát trong BLHS, các
nội dung, hướng dẫn do toà án các cấp soạn thảo và tổ chức. Từ năm 2017,
Các buổi tổ chức riêng, các cuộc họp về nâng cao nhân thức, hướng dẫn trong
cách làm bản án theo quy định được toà án nhân dân tối cao tổ chức. Ngày
28/07/2017 ban hành văn bản số 155/TANDTC - PC về kĩ thuật trình bày các
văn bản tố tụng trong đó có bản án và việc áp dụng thống nhất thể thức, Ngày
19/07/2017 Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP đã quy định một số biểu mẫu
cụ thể. Từ các văn bản trên đã làm thống nhất toàn vẹn toà án tư pháp trên
toàn đất nước.
1.1.6. Nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Trong hệ thống hình phạt, hình phạt tù có thời hạn nằm trong hình phạt
chính tại điểm Đ khoản 1 điều 32 của BLHS. Có thể nói hình phạt được ưu
tiên xử dụng và được toà án áp dụng phổ biến cũng chính là hình phạt này. Bộ
luật hình sự năm 2015 có quy định tại điều 38 về nội dung của tù có thời hạn
18
chính là áp dụng xử phạt hay nói cách khác là bắt buộc người phạm tội bị kết
án chấp hành hình phạt tại nơi được chỉ định (cơ sở giam giữ) trong một thời
hạn nhất định. Xem xét kĩ ta có thể thấy biện pháp giam giữ tại cơ sở trại
giam chính là cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội bằng biện pháp
bắt buộc để họ có thể thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Điều chính yếu của
hình phạt tù có thời hạn chính là giúp cho người phạm tội có cơ hội thay đổi,
giáo dục cải tạo để họ có thể thay đổi thành người có giá trị tốt cho xã hội và
đó cũng là giá trị phải trả cho hậu quả của họ gây ra cũng là tính răn đe của
nhà nước dành cho người phạm tội.
Hình phạt tù có thời hạn cũng có thời gian chấp hành riêng của nó, mức tối
thiểu và tối đa được quy định tại điều 38 của BLHS năm 2015 là “ Mức tối đa
là 20 năm và tối thiểu là 03 tháng”. Quy định này nhấn mạnh 1 điều là nếu áp
dụng hình phạt tù có thời hạn thì khi xử người phạm tội và định tội danh thì
mức phạt tù không được thấp hơn 03 tháng và không cao hơn 20 năm. Tuy
nhiên vẫn có trường hợp người phạm tội phạm nhiều tội và tổng hợp hình
hình phạt của các bản án khcas nhau thì tổng hình phạt được cộng lại không
được quá 30 năm.
Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự thì hình phạt chiếm vị trí
quan trọng là hình phạt tù có thời hạn. Nhìn chung về hình phạt này trong
phần tội phạm ta có thể thấy hầu như đều có mặt của hình phạt tù có thời hạn.
Hay nói cách khác hình phạt này rất hữu hiệu và được xử dụng phổ biến trong
các phiên xét xử cũng như trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nhưng không phải vì vậy mà lúc nào cũng áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Vì hình phạt này chỉ áp dụng đối với trường hợp cần cách ly người phạm tội
ra khỏi đời sống xã hội, hay chỉ áp dụng với các trường hợp tái phạm nhiều
lần nay phạm tội với mức độ nguy hiểm. Còn đối với trường hợp phạm tội
19
nhẹ và lần đầu ta có thể xử dụng biện pháp thay thế không phải hình phạt tù.
1.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn
1.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự
- Quy định về trách nhiệm hình sự:
Người phải chịu trách nhiệm hình sự là người thực hiện các hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự việt nam quy định cụ thể trong
luật. Hành vi được nhà nước cũng như luật hình sự không cho phép thực hiện
hoặc các vấn đề gây ra đe doạ, gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ đó là trái với nghĩa vụ cũng như trách nhiệm công dân. Thì sẽ phải
chiu trách nhiệm về hành vi mình gây ra đó là chịu hậu quả pháp lí, chế tài
tương ứng do nhà nước quy định.
Các chế tài (hình phạt, biện pháp tư pháp) được nhà nước đề ra trong
BLHS nhằm áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội làm ảnh
hưởng tới cộng đồng. Họ sẽ bị những chế tài theo đúng với những hành vi họ
phạm phải như hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích, cách ly khỏi đời
sống xã hội tạm thời.
Khi có người vi phạm pháp luật, thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội thì hậu quả trách nhiệm hình sự sẽ phát sinh để buộc người vi phạm
phải thực hiện những những chế tài mà nhà nước đã đặt ra.
Các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện các quy định
của pháp luật nhằm đưa ra các trách nhiệm hình sự cụ thể cho từng loại tội
phạm.Trách nhiệm hình sự được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải
chịu các chế tài theo pháp luật hình sự quy định là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội
phải gánh chịu là trách nhiệm đổi với Nhà nước và xã hội chứ không phải đối
với người, hay tổ chức mà quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi
phạm tội trực tiếp xâm hại và được phản ánh trong bản án hay quyết định có
hiệu lực pháp luật của toà án.
20
- Về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội được quy định trong Bộ
Luật Hình sự 2015 tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Bộ Luật Hình sự 2015 như sau:
Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, những người không có ý định hợp
tác, lợi dụng quyền hạn, mưu đồ trục lợi cần được nghiêm trị
Tất cả những người trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng trước pháp
luật mà nhà nước đề ra.
Phạt nặng những người dùng thủ đoạn, có tính chất chuyên nghiệp, có
tổ chức phải chịu hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Khoan hồng đối với người lập công chuộc tội, đầu thú, thành khẩn khai
báo, tự nguyễn chữa chữa bồi thường thiệt hại gây ra, có hành vi tố giác đồng
phạm.
Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám
sát, giáo dục;
Những người bị phạm tội, nhất là hình phạt tù nếu chấp hành đúng các
kỉ cương ở nơi giam giữ, hoàn thiện tốt các công việc được giao, cải tạo tốt
thì có thể xem xét giảm thời gian chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn.
Khi hoàn tất việc chấp hành hình phạt, người hoàn lương được nhà
nước tạo điều kiện học nghề, tạo điều kiện có việc làm, làm ăn để hoà nhập
với xã hội, khi cống hiến đủ yêu cầu cho đất nước thì án tích sẽ được xoá.
Như vậy, các quy định Bộ luật hình sự về nguyên tắc xử lý đối với tội
phạm thể hiện chính sách hình sự vừa kiên quyết nghiêm minh, vừa khoan
hồng nhân đạo của Nhà nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm,
trong đó:
+ Bất cứ hành vi phạm tội gây trái pháp luật đều được phát giác kịp
thời, thực hiện công tác xử lí nhanh, công bằng công minh theo luật pháp Việt
Nam. Nguyên tắc này thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc xử
lý đối với mọi hành vi xâm phạm các lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ.
21
Nó đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩ quyền, các tổ chức và mọi công dân
có nhiệm vụ phải kịp thời phát hiện, tố giác hành vi phạm tội với cơ quan có
thẩm quyền; các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện kịp thời,
bảo đảm không chỉ xử lý đúng người, đúng tội mà cũn không được làm oan
người vô tội; không một hành vi phạm tội nào xảy ra mà không bị phát hiện
và bị xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật hình sự; hình phạt mà Tòa án
áp dụng đối với người phạm tội phải phù hợp với các quy định của Bộ luật
hình sự.
+ Không phân biệt tôn giáo, giới tính, tính ngưỡng, dân tộc, địa vị xã
hội,… mọi người đều bình đẳng trước pháp luật khi có hành vi phạm tội.
Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ và công bằng của luật hình sự Việt Nam
nhằm tôn trọng và bảo vệ các quyền dân chủ của công dân trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội; quyền lợi của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ
như nhau, không phân biệt nòi giống, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần, địa vị xã hội, tình trạng tài sản,… của công dân đó.
+ Luật pháp Việt Nam không nhượng bộ với hành vi sai trái, kiên quyết
đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nhất là đối với những tội phạm chống phá
nhà nước, những người có chức vụ gây nhũng nhiễu tham ô, những côn đồ
ngang ngược gây nguy hiểm an ninh xã hội, những tội phạm phạm tội nhiều
lần và có tính chuyên nghiệp cao. Mặt khác, nó cũng thể hiện tính nhân đạo,
sự khoan hồng và phân hóa tội phạm của Nhà nước trong xử lý tội phạm, tạo
cơ hội để người phạm tội sớm trở thành người có ích cho xã hội, tái hoà nhập
với cộng đồng, cụ thể:
+ Giảm nhẹ hình phạt đối với những người biết ăn năn hối cãi, những
người thành khẩn khai báo, hỗ trợ cho công tác điều tra, đoái công chuộc
tội.gia cảnh tốt lần đâu phạm tội.
+ Với những người có sự đóng góp cho đất nước, có sự ăn năn hối cải
hay gia đình có công cách mạng, lần đầu phạm tội thì có thể áp dụng hình
22
phạt nhẹ hơn mức hình phạt hiện hữu.
+ Hình phạt tù có thười hạn buộc người phạm tội phải chấp hành biện
pháp cưỡng chế tại cơ sở giam giữ. Khi chấp hành hình phạt, người phạm tội
có thành tích cải tạo tốt sẽ được xem xét giảm việc chấp hành hình phạt.
+ Đối với người đã hoàn thành việc cải tạo sẽ được tạo điều kiện để
quay về cuộc sống xã hội, khi đủ các yếu tố do luật định sẽ được xoá án tích.
- Quy định về hình phạt tù có thời hạn
Hình phạt tù có thời hạn tại điều 38 trong BLHS 2015 là:
Buộc người bị kết án chấp hành hình phạt, hình phạt được quy định từ 03
tháng cho tới 20 năm. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời gian tù theo luật định.
Không áp dụng hình phạt này đối với người có nơi cư trú rõ ràng và lần đầu phạm
tội.
Hình phạt tù này sẽ làm cho người bị kết án buộc phải cách ly khỏi nơi
mình đang sống và phải vào nơi cải tạo một khoản thời gian tương ứng với
thời gian chịu hình phạt.
Nếu so với hình phạt tù không giam, thì hình phạt có thời hạn có yếu tố
răn đe cao hơn, nghiêm minh hơn. Việc cải tạo không giam chỉ tác động tới
người bị kết án, tạo tác động tới tinh thần chứ không cách ly họ ra xã hội
nhưng đối với người bị tù có thời hạn thì họ đã bị cách ly ra khỏi môi trường
mình đang ở. Điều này ảnh hưởng tới tâm lí cũng như các vấn đề hoạt động
bình thường của họ, họ sẽ bị tác động chi phối khiến họ phải tuân thủ các quy
định tại nơi giam giữ, đồng thời bị cải tạo để trở thành người công dân có ích
cho xã hội.
Theo Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định thì, mức tối thiểu của tù có thời
hạn là ba tháng và mức tối đa là hai mươi năm. Khoảng cách của khung hình
phạt tù có thòi hạn được quy định cho mỗi loại tội phạm trong phần các tội
phạm của Bộ luật Hình sự không được vượt ra ngoài các giối hạn tối đa và tối
thiểu nêu trên.
23
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, biện pháp mang đầy đủ tính chất
cưỡng chế và nghiêm khắc nhưng lại không thiếu yếu tố nhân đạo giáo dục
người phạm tội. Đồng thời có đầy đủ yếu tố phòng, chống tội phạm một cách
hiệu quả thiết thực nhất. Thì đó chính là hình phạt tù có thời hạn.
Tóm lại, các quy định của Bộ luật Hình sự đã nêu rất rõ về căn cứ,
nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Các quy định đó là cơ sở pháp lý
cho thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn cho tòa án các cấp trong quá
trình xét xử tội phạm.
1.2.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội
Định nghĩa của vấn đề tội phạm, là cá nhân có phạm phải một vấn đề
mà pháp luật nghiêm cấm gây nguy hiểm cho xã hội dẫn đến có tội người ta là
tội phạm. Đặc điểm cơ bản của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội, là sự
khách quan nêu lên quan điểm của xã hội đối với cách mức độ hành vi của
từng loại tội phạm. Nói cách khác, tội phạm phạm tội vì nó gây nên hành vi
mà pháp luật không cho phép, hay hành vi đó gây nguy hiểm cho mọi người,
cho xã hội. Hành vi, mức độ nguy hiểm của người phạm tội được đánh giá
tổng quan qua các tình tiết khác nhau như tính chất, mục đích, động cơ của
hành vi,…nhiều yếu tố khác tạo nên các yếu tố cấu thành.
Theo điều 134 có nêu về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ
người khác thì mức phạt cao nhất là 20 năm tù hoặc chung thân. Còn theo
điều 123 BLHS thì tội giết người thì khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù
hoặc chung thân tử hình. Sự giống nhau là mức độ năm tù từ 12 đến 20 năm
chung thân và tử hình. Điểm khác biệt ở đây là mức độ hành vi của 2 loại tội
gây ra là khác nhau. Nên trong quá trình thực hiện đưa ra quyết định hình
phạt, Toà án phải xem xét cụ thể các tình tiết chứng minh tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của từng loạt hành vi để đưa ra mức hình phạt phù hợp
24
nhất.
Cách viết bản án hướng dẫn thì phần dẫn dắt căn cứ lập luận về áp
dụng hình phạt có nêu trong phần “nhận định của toà án”. Cần phải xem xét
tổng thể các tình tiết mà ở đó tội phạm đã thực hiện để dưa ra tính chất và
mức độ hành vi của tội phạm đã gây nguy hiểm cho xã hội. Các tình tiết tuỳ
vào trường hợp mà khác nhau như: Hoàn cảnh, thời gian, hậu quả, địa điểm,
phương tiện, công cụ mà nhà làm luật quy định, phương pháp. Đây là nhưng
dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Việc quyết định hình phạt nặng hay
nhẹ tuỳ thuộc vào các tình tiết nói trên có ảnh hưởng ở mức độ nào đối với xã
hội. Hay trong trường hợp các tình tiết trên lại không phải là những dấu hiệu
bắt buộc do nhà làm luật quy định thì các dấu hiệu đó chỉ có ý nghĩa trong
việc quyết định hình phạt nhưng lại không có ý nghĩa trong việc định tội
danh. Vì vậy trong tất cả các trường hợp, cần cân nhắc và xác định các tình
tiết một cách đầy đủ có căn cứ cho việc định tội danh quyết định hình phạt.
Một trong các yếu tố khác gây ảnh hưởng tới quyết định hình phạt đó là tính
chất hậu quả mà bị cáo gây ra.
Các hậu quả không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quyết định hình phạt
bao gồm cả những thiệt hại về vật chất lẫn những thiệt hại về các mặt khác
cũng như ảnh hưởng đến mức độ nghiêm khắc quyết định của hình phạt. Do
đó, để xác định tính chất, mức độ hành vi gây nguy hiểm của tội phạm được
thực hiện cần xác định các loại và mức độ của lỗi người phạm tội khi thực
hiện hành vi vi phạm. Trong BLHS các chế tài khác nhau được quy định độc
lập cho các lỗi cố ý và vô ý. Các lỗi cố ý sẽ có mức độ hành vi gây nguy hiểm
cho xã hội cao hơn so với các lỗi vô ý. Nên trong trường hợp này hình phạt
thực hiện lỗi cố ý sẽ nặng hơn và áp dụng nghiêm khắc hơn so với lỗi vô ý.
Vì trong cùng trường hợp thực hiện 1 lỗi, thì tính chất mức độ nguy hiểm của
lỗi vô ý sẽ nhẹ hơn, nên cần xác định cụ thể lỗi là vô ý hay cố ý để xác định
25
chính xác mức độ phạm tội của từng đối tượng.
Ngoài ra, còn phải xác định và cân nhắc mức độ lỗi của bị cáo trong
những trường hợp phạm tội cụ thể, trường hợp có thể trong cùng một loại lỗi
nhưng mức độ thể hiện hành vi thái độ của nó cũng khác nhau, nên có ảnh
hưởng khác nhau đến việc quyết định hình phạt. Lỗi của chủ thể càng lớnn thì
mức độ gây nguy hiểm cho xã hội càng cao, nên mức độ hình phạt càng phải
nghiêm khắc hơn. Đấy là mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng
hành vi mà tội phạm đã thực hiện để nêu lên các mối quan hệ trực tiếp và gián
tiếp giữa các mối quan hệ đó đối với hình phạt. Mức hình phạt được quyết
định sau khi tổng hợp đầy đủ các yếu tố tăng nặng và giảm nhẹ trong BLHS,
thì các tình tiết sẽ được xét tuỳ theo động cơ, lỗi và mục đích của hành vi vi
phạm đó. Nhiệm vụ của HĐXX là cần phải làm sáng tỏ mục đích, động cơ
của hành vi vi phạm đã thực hiện vì xét đến cùng chúng quyết định hình phạt.
Tuỳ vào mức độ mà mục đích và động cơ của tội phạm đối với xã hội mà mức
độ tăng nặng và giảm nhẹ của hình phạt sẽ khác nhau. VD: Lê Văn Luyện gây
nên căm phẫn cho xã hội nên hình phạt sẽ nặng hơn. Trong cuộc sống và qua
thực tiễn xét xử, người thực hiện hành vi phạm tội bởi những động cơ, mục
đích khác nhau yêu cầu đối với Tòa án là phải xác định rõ ràng động cơ, mục
đích của người thực hiện hành vi phạm tội và phải nhận định rõ trong bản án.
Đối với việc quyết định hình phạt, những căn cứ xác định tính chất, hành vi mức
độ nguy hiểm của tội phạm là có ý nghĩa rất quan trọng. Mức độ nguy hiểm, tính
chất hành vi sẽ được xem xét một cách khách quan và độc lập để có thể đánh giá
chi tiết các tình tiết của vụ án. Từ đó quyết định các hình phạt cho phù hợp đảm
bảo tính nghiêm minh cũng như tính khách quan của nhà nước.
1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Vào năm 1999 tại khoản 1 Điều 8 BLHS có nêu về định nghĩa của tội
phạm như sau: người có hành vi cố ý hoặc vô ý có năng lực trách nhiệm hình
sự gây nguy hiểm cho xã hội thì gọi là tội phạm. Ngoài ra, chúng ta còn phải
26
xem xét tới yếu tố nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội, hay nôm
na là gia đình hay những người thân người phạm tội. Sau này bộ luật hình sự
có sự thay đổi vào năm 2015 về tội phạm là có sự ra đời của pháp nhân
thương mại vào tội. Khi xem các yếu tố đối với hình phạt của pháp nhân
thương mại theo điều 83 BLHS năm 2015 lại không thể đưa nhân thân để lam
căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình phạt mà chỉ xét về yếu tố, hành vi, mức độ
nguy hiểm để định tội danh. Ngoài các yếu tố nhân thân là người thân, gia
đình ta còn nhận xét về các định nghĩa nhân thân khác như: “ Tuổi tác, trình
độ học thức, môi trường và hoàn cảnh gia đình khi đang sống,…” . Hay ta có
thể xem xét các đặc tính của nhân thân theo các yếu tố môi trường xã hội, tính
cách cá biệt của đối tượng, hay các đặc tính tác động,… Trước khi kết tội và
đưa ra quyết định hình phạt, HĐXX cần phải xem xét tổng thể tất cả các yếu
tố từ tính cách, hành vi, môi trường, mức độ nguy hiểm,…làm cơ sở đo đạt
đánh giá hành vi phạm tội để đưa ra chế tài phù hợp nhất. Các điều được quy
định trong BLHS 2015 về đặc tính đó thuộc điều 51 và 52. Ngoài ra còn có
một số luật cho phép HĐXX có ý chí riêng trog công tác quyết định chế tài
trong từng vụ án khác nhau. Để quyết định hình phạt, các yếu tố đặc điểm
nhân thân tác động ở ba góc độ khác nhau như sau:
Thứ nhất: Đây là yếu tố tác động tới tính chất cũng như mức độ mà tội
phạm có thể gây nguy hiểm cho xã hội hay có thể tái lại hay không,….
Thứ hai: Khi áp dụng hình phạt, người có yếu tố nhân thân tốt có khả
năng cải tạo và giáo dục hiệu quả đạt kết quả cao hay các thành phần chưa
thành niên,…
Thứ 3: Đây cũng là biện pháp nhân đạo của nhà nước dàn cho những
người có lối sống tốt hay đối với gia đình nhân thân của người phạm tội.
Nhằm khuyến khích người dân có lối sống lành mạnh hơn.
Việc làm xác định nhân thân đã làm nên các yếu tố hoàn thiện của luật
hình sự, đồng thời nêu lên yếu tố nhân đạo của nhà nước trong cách quản lí
27
những người công dân tốt, tạo điều kiện để họ có thể sửa sai và làm lại từ đầu.
Những yếu tố được coi trọng trong yếu tố nhân thân bao gồm: “ các lối sống
chuẩn mực, các yếu tố đạo đức giá trị của từng thành viên trong gia đình, cách
giao tiêos với xã hội, tính kỉ luật, lối sống tập thể, tinh thần hi sinh bảo vệ lẽ
phải bảo vệ đất nước,…Ta cũng có thể thấy, mỗi vụ án khác nhau sẽ có những
nhân thân người phạm cũng có những tính cách khác nhau. Vì vậy ngoài các
bằng chứng cũng như chứng cứ trong hồ sơ, HĐXX còn phải xem xét yếu tố
nhân thân để làm rõ các mặt xấu, tiêu cực cũng như các mặt tốt để làm yếu tố
tiền đề trong công cuộc xét xử. Các yếu tố trên cho ta thấy tính nhân đạo cao
trong yếu tố làm luật của nhà nước cũng như tạo điều kiện sửa sai cho những
người, gia đình, người thân hay chính phạm nhân có lối sống lành mạnh và tốt
đẹp. Người lần đầu phạm tội cũng sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình phạt,
đây có lẽ là yếu tố cơ bản mà nhà nước muốn nhắm tới để thúc đẩy người dân
có lối sông lành mạnh hơn.
1.2.4. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
Pháp luật tuy có tính nghiêm minh nhưng cũng có tính nhân đạo. Nhà
nước luôn có các biện pháp nhân đạo đó là giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người phạm tội. Về nhân thân người phạm tội, nếu nhân thân tốt có thể làm
toà án căn nhắc trong quá trình lựa chọn hình phạt.
Ngoài các tình tiết giảm nhẹ cũng có các tình tiết tăng nặng. Các tình
tiết này được quy định trong BLHS với các tội cụ thể để mang tính trừng trị
và răn đe cao đối với người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết làm
tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại các Điều 51 và 52
BLHS năm 2015.
Khác với tính nhân đạo trong tình tiết giảm nhẹ, thì nhà nước lại nêu
lên tính nghiêm khắc, công bằng răn đe cao trong các tình tiết tăng nặng được
quy định tại BLHS năm 1999 và được sửa đổi bổ sung 2015. Nhưng tại điều
51 của bộ luật hình sự vẫn có tính nhân đạo khi coi biện pháp tự thú, đầu thú
28
là biện pháp giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên toà án phải đánh giá căn nhắc đưa
ra các biện pháp để áp dụng các tình tiết một cách hợp lí đúng người đúng tội
đúng quy định.
Các biện pháp tăng nặng và giảm nhẹ chính là tính công bằng và
nghiêm minh của nhà nước, hay thưởng tội phạt. Tuy nhiên các tội cũng được
nhà nước thể hiện qua tính nhân đạo, nếu trong một vụ án có nhiều tình tiết
giảm nhẹ thì có thể xử dưới khung hình phạt. Hay nếu có nhiều tình tiết giảm
nhẹ có cơ hội đổi sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn.
Các yếu tố tăng nặng và giảm nhẹ trong hình phạt tạo nên áp lực trong
vai trò xét xử của toà án. Để tạo nên tính công bằng minh bạch trong các đánh
giá định tội và định ra loại hình phạt, toà án, HĐXX cần phải xem xét nhiều
yếu tố khía cạnh khác nhau để đưa ra kết quả hợp lí. Ngoài ra các cơ quan có
thẩm quyền trọng việc xem xét đánh giá hỗ trợ tu pháp cũng cần phải đánh
giá toàn diện tổng thể các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ. Đây chính là biện
pháp hợp lí trong công tác định tội danh cũng như nên lên tính khách quan
minh bạch của pháp luật trong quá trình áp dụng luật vào thực tiễn.
1.2.5. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong một số trường hợp
đặc biệt
Quyết định hình phạt tù có thời hạn dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng
Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Với mục đích cao nhất là giáo dục, khoan hồng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội nên khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phải
dựa cơ sở tổng hòa các quy định tại Chương XII về những quy định đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và các quy định khác của Bộ luật hình sự để đảm
bảo nguyên tắc có lợi nhất. Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thông
thường thì khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, Tòa án chuyển sang
29
khung hình phạt nhẹ hơn hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn
sau đó quyết định mức hình phạt ở khung hình phạt được áp dụng theo đúng
quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi tại Chương XII
BLHS.
- Lưu ý số nội dung khác khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định
Thứ nhất, khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định nếu xác định
người bị kết án về điều luật có nhiều khung hình phạt nhưng không phải là
khung hình phạt nhẹ nhất mà khi đánh giá toàn diện vụ án cho thấy không thể
tuyên hình phạt khác ngoài hình phạt tù nhưng cũng không nhất thiết bắt
người bị kết án phải chấp hành án phạt tù thì Tòa án có thể quyết định cho họ
được hưởng án treo. Tuy nhiên, trường hợp này Tòa án cần phải cân nhắc một
cách thận trọng, kỹ lưỡng và phải đảm bảo 05 điều kiện để người bị kết án
phạt tù được hưởng án treo theo Điều 2 và 06 trường hợp không cho hưởng án
treo của Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP, ngoài ra cũng cần hạn chế
cho hưởng án treo đối với người bị kết án mà dư luận lên án, quan tâm như
các tội liên quan đến sức khỏe, tính mạng của trẻ em, các tội phạm về chức
vụ, tham nhũng, các tội phạm liên quan đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh,
thương mại.
Thứ hai, Không phải lúc nào cũng quyết định hình phạt nhẹ hơn mức
hình phạt mà blhs quy định. Nó chỉ có tác dụng đối với hình phạt chính, còn
đối với hình phạt bổ sung thì ko được áp dụng hình phạt nhẹ hơn vì không có
nhiều khung hình phạt, không có quy định về chuyển sang hình phạt khác nhẹ
hơn và không có khung hình phạt nhẹ nhất.
Thứ ba, trường hợp người bị kết án vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có
tình tiết tăng nặng thì khi quyết định hình phạt, Tòa án phải đánh giá khách
quan, toàn diện ý nghĩa của từng tình tiết và nhất là không được nghiêng về
tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng.
Thứ tư, Có những trường hợp mà người phạm tội có thể miễn hình phạt
30
đó là khoan hồng đặc biệt quy định tạin điều 59 BLHS nhưng vẫn chưa được
miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên do đây là quy định mới mang tính chất
mở nên cũng rất cần Liên ngành Tư pháp Trung ương có văn bản hướng dẫn
chi tiết để Tòa án các cấp áp dụng pháp luật thống nhất, có hiệu quả, đảm bảo
tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật hình sự đối với người bị kết án.
1.2.6. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm
nhiều tội
Tại điều 55, BLHS năm 2015 có quy định đối với trường hợp tội phạm
đã phạm tội nhưng lại phạm thêm nhiều tội tội thì:
“Đối với hình phạt chính:
Các hình phạt đã tuyên trước đó sẽ được cộng lại với nhau để tạo nên
hình phạt tương ứng với hành vi tội phạm. Vd: đã tuyên tù có thời hạn khung
hình phạt số 1 hai lần, thì sẽ cộng lại để ra hình phạt chung nhất nhưng ko
được vượt quá 30 năm nếu tù có thời hạn và 03 năm với cải tạo không giam.
Ngoài ra còn trường hợp đang được cải tạo không giam giữ, mà đã
thực hiện bản án được nửa năm thì ta có thể tính như sau: ta có thể đổi ra tỷ
lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam bằng 1 ngày tù. Từ đó ta có thể tổng hợp
hình phạt thành hình phạt chung theo pháp luật.
Nếu hình phạt đã là hình phạt nặng, thì sẽ cộng lại để tăng lên nặng
hơn còn nặng nhất thì vẫn là nặng nhất. Vd chung thân, tử hình.
Không tổng hợp các hình phạt khác với phạt tiền; các khoản tiền phạt
được cộng lại thành hình phạt chung;
Trường hợp thuộc về trục xuất thì không cộng vào các tội khác.
Đối với hình phạt bổ sung:
Hình phạt bổ sung nếu áp dụng vào các hình phạt đã tuyên thì các hình
phạt cùng loại sẽ được giới hạn do tính quy định của bộ luật đối với hình phạt
này. Hình phạt sẽ được cộng để tạo thành hình phạt chung nếu cả 2 đều là
hình phạt tiền.
31
Không chỉ có cùng loại, người bị kết án phải chấp nhận tất cả các hình
phạt đã tuyên nếu các hình phạt đó khác loại nhau.
Như vậy, quy định tại Điều 55 là quy định về quyết định hình phạt
trong trường hợp người phạm tội phạm nhiều lần và xét xử cùng 01 lần, nghĩa
là chỉ có 1 Bản án và 1 mức hình phạt chung duy nhất trong trường hợp này.
Điều luật này được thiết kế rất rõ ràng, dễ hiểu đó là lý do vì sao nó kế thừa
hoàn toàn quy định cũ tại Điều 50 BLHS 1999 mà không có bất kỳ sửa đổi,
bổ sung nào. Chiếu theo quy định cho thấy việc quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội không hề khác với việc quyết định hình phạt khi
phạm một tội, nghĩa là Tòa án sẽ căn cứ vào cáo trạng của Viện Kiểm sát, lời
bào chữa của bị cáo, luật sư, các chứng cứ cũng như nhân thân người phạm
tội v.v…để quyết định hình phạt. Điểm khác biệt duy nhất là chỗ tổng hợp
hình phạt sau cùng để ra một mức án chung. Như vậy trong trường hợp xét xử
người phạm tội phạm nhiều tội sẽ có 2 bước rất rõ ràng (và cũng được nêu rõ
trong Bản án).
Bước 1: Xét xử từng tội phạm cụ thể và quyết định hình phạt cho từng
tội
Bước 2: Tổng hợp các hình phạt của từng tội để cho ra một hình phạt
chung sau cùng.
Bước 1 như tác giả đã nói nó hoàn toàn giống với quyết định hình phạt
đối với một tội nên không có gì để bàn thêm. Riêng bước 2 sẽ có một vài lưu
ý nhỏ:
Một là: Tổng hợp hình phạt chia theo hình phạt chính và hình phạt bổ
sung (sẽ có cách cách tổng hợp khác nhau)
Hai là: Đối với hình phạt chính có 2 kiểu tổng hợp:
Kiểu 1: Tổng hợp theo phương pháp cộng dồn nhưng không được quá
03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù
có thời hạn. Ví dụ: A phạm tội trộm cắp bị tuyên phạt 05 năm tù, phạm tội
32
cướp phạt 20 năm tù; phạm tội cướp giật 10 năm tù thì tổng hợp hình phạt của
A = 05 + 20 + 10 = 35 năm nhưng đã vượt quá giới hạn 30 năm nên sẽ lấy
mức 30 năm tù.
Kiểu 2: Tổng hợp theo phương pháp thu hút (hình phạt cao nhất sẽ thu
hút các hình phạt còn lại), kiểu này chỉ áp dụng nếu trong những tội phạm
phải có ít nhất 1 tội bị tuyên án chung thân, tử hình. Nếu mức án nặng nhất là
chung thân thì sẽ quyết định hình phạt cuối cùng sẽ là chung thân và tương tự
đối với mức án tử hình. Ví dụ: A Bị tuyên 10 năm về tội cướp giật, 20 năm về
tội cướp và tử hình về tội giết người thì tổng hợp hình phạt sau cùng là sẽ là
tử hình.
Riêng hình phạt tiền và trục xuất là 02 hình phạt khá đặc biệt, nó có thể
được áp dụng là hình phạt chính và cũng có thể áp dụng là hình phạt bổ sung
và sẽ không được tổng hợp với các hình phạt khác, riêng hình thức phạt tiền
các khoản tiền phạt sẽ được cộng lại thành mức phạt chung (theo phương
pháp cộng dồn mà không giới hạn mức tối đa).
Ba là 3: Tổng hợp đối với hình phạt bổ sung có 3 kiểu:
Kiểu 1: Cộng dồn nhưng có giới hạn mức tối đa đối với các hình phạt
bổ sung cùng loại và mức giới hạn sẽ theo quy định đối với từng loại đó. Ví
dụ: A phạm tội 1 bị áp dụng hình phạt bổ sung là Quản chế với thời hạn 03
năm; tội 2 bị áp dụng hình phạt Quản chế với thời hạn 04 năm. Tổng hợp hình
phạt = 03 + 04 = 07 năm nhưng mức hình phạt bổ sung tối đa đối với Quản
chế là 05 năm (Điều 43) nên mức phạt cuối cùng sẽ là 05 năm.
Kiểu 2: Cộng dồn nhưng không giới hạn mức tối đa. Kiểu tổng hợp này
chỉ áp dụng duy nhất đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Ví dụ: Với
tội 1 A bị phạt tiền 500 triệu đồng, tội 2 là 300 triệu đồng, tội 3 là 200 triệu
đồng, tổng hợp hình phạt sau cùng sẽ là 1 tỷ đồng.
Kiểu 3: Hỗn hợp tất cả các hình phạt. Kiểu này áp dụng khi các hình
phạt bổ sung đã tuyên là khác loại. Khi đó người bị kết án phải chấp hành tất
33
cả các hình phạt đã được tuyên đó. Ví dụ: A phạm tội 1 bị áp dụng biện pháp
cấm cư trú, phạm tội 2 bị áp dụng hình phạt tước một số quyền công dân,
phạm tội 3 bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản. Tổng hợp sau cùng A phải
thực hiện cả 3 hình phạt bổ sung trên.
1.2.7. Tổng hợp hình phạt tù có thời hạn của nhiều bản án
Trong trường hợp một người có nhiều bản án kết tội thì theo Điều 56
BLHS hình phạt chung được tổng hợp như sau:
- Đối với tội phạm đang bị xét xử nhưng trước đó phải chấp hành một
bản án khác thì toà án sẽ đưa ra quyết định với tội đang xét xử. Từ đó cộng 2
tội để tạo ra một bản án chung nhất đối với hình phạt chung. Hình phạt của tất
cả các bản án từ bản án trước đó chưa chấp hành hết được cộng với bản án
hiện hành sẽ ra hình phạt chung được nêu tại điều 55 BLHS. Thời gian thực
hiện hình phạt sẽ được toà án tổng hợp khi tính tổng toàn bộ thời gian đã trừ
ra khi chấp hành hình phạt cũ công với hình phạt mới để ra hình phạt chung.
- Quyết định hình phạt chung là một người phạm một tội mới mà còn
phải chấp hành hình phạt cũ, Toà án tổng hợp quyết định hình phạt đối với tội
mới đối với bản án trước và đưa ra hình phạt tổng hợp là quyết định hình phạt
chung. Hình phạt chung được quyết định theo quy định tại Điều 55 BLHS.
- Theo quy định ở khoản 1 và 2 Điều 56 BLHS thì Chánh án Tòa án
phải ra quyết định tổng hợp các hình phạt của các bản án khi một người tội
phạm phải chấp hành hình phạt gồm nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà
các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp.
1.2.8. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
được quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
“Điều luật này đưa ra hình phạt đối với các hành vi phạm tội chưa đạt
và chuẩn bị phạm tội. Đối với các tội phạm có tội tương ứng tuỳ theo tính
34
chất, gây nguy hiểm cho xã hội, hay các tình tiết khác khiến cho tội phạm
thực hiện hành vi tới cùng,…
Các Trường hợp chuẩn bị phạm tội được quy định cụ thể trong khung
hình phạt.
Còn khung hình phạt cao nhất là tù chung thân có thể áp dụng vào
khung hình phạt về tội phạm tội chưa đạt. Ngoài ra nếu trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng có thể áp dụng cả biện tử hình. Mức phạt tù không quá ba phần
tư đối với trường hợp là tù có thời hạn.
Do đó, khi HĐXX quyết định hình phạt đối với người hành vi chuẩn bị
phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, Toà án phải dựa vào những căn cứ sau:
+ Các điều luật của Bộ luật Hình sự quy định về các tội phạm tương
ứng đối với hành vi vi phạm.
+ Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội.
+ Căn cứ vào mức độ thực hiện ý định phạm tội.
+ Căn nhắc những tình tiết khác khiến người phạm tội không thức hiện
được tội phạm đến cùng.
Trong những điều kiện tương đương, tội phạm đã hoàn thành bao giờ
cùng nguy hiểm hơn là phạm tội chưa đạt và càng nguy hiểm hơn so với tội
phạm trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Xuất phát từ nhận thức đó, Khoản 3
Điều 57 BLHS nhà làm luật đã quy định:
+ Điều luật này áp dụng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Nếu
trong trường hợp người vi phạm chuẩn bị phạm tội, đối với tù có thười hạn thì
mức phạt cao nhất không quá một phần hai mức hình phạt. Đối với trường
hợp là tù chung thân và tử hình thì không được phạt quá 20 năm tù.
+ Còn đối với trường hợp tội phạm chưa đạt, thì hình phạt cao nhất có
thể áp dụng đối với tội đặc biệt nhiêm trọng là chung thân hoặc tử hình. Còn
đối với tù có thời hạn thì trường hợp cao nhất phạt là không quá ba phần tư
35
mức hình phạt quy định trong BLHS hiện hành.
1.2.9. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp đồng phạm
Tại Điều 58 BLHS quy định: “Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng
phạm trong trường hợp khi quyết định hình phạt đối với những người đồng
phạm, Tòa án phải xét đến tính chất, mức độ, hành vi của đồng phạm, tính
chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm [19].
Đối với đồng phạm trong loại trừ trách nhiệm hình sự, tuỳ vào trách
nhiệm hình sự của cá nhân nào mà việc giảm nhẹ hay tăng nặng trách nhiệm
hình sự sẽ áp dụng vào cá nhân đó.
Theo quy định đó, khi xác định TNHS và hình phạt đối với mỗi người
đồng phạm, toà án phải xét đến:
- Tính chất của đồng phạm: Ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm chung mà cả bọn cùng thực hiện
- Mức độ tham gia và tính chất của từng hành vi của người đồng phạm :
+ Vai trò của người đồng phạm thực hiện thể hiện tính chất của quá
trình tội phạm, nó mang tính đặc thù của nhiệm vụ, cũng như chức năng tác
động lên việc phạm tội đó.
+ Xác định mức độ tham gia phụ thuộc vào việc thực hiện tội phạm
cũng như hậu quả của tội phạm chung.
+ Tuỳ vào từng cá nhân thực hiện hành vi phạm tội mà định hình các
tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ khác nhau.
1.2.10. Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Kế thừa những nguyên tắc cơ bản của Luât Hình sư thì người chưa
thành niên phạm tội của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 cũng có những
thay đổi quan trọng như thay thế cụm từ người chưa thành niên phạm tội
thành cụm từ người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu giáo dục, cải tạo người phạm tội
36
nhận ra những sai lầm khuyết điểm và làm sao để có điều kiện tốt nhất để hòa
nhập với cộng đồng. Một trong những chính sách nhân đạo của pháp luật hình
sự là việc áp dụng mức hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo
Điều 101 BLHS năm 2015 quy định như sau:
“ Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà
điều luật quy định.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà
điều luật quy định”.
Ở gần cuối khoản 1 và khoản 2 Điều này đều có cụm từ mức phạt tù mà
điều luật quy định ngoài ra cũng chưa có văn bản gì hướng dẫn rõ ràng vấn đề
này nên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn cho người dưới 18 tuổi khi
phạm tội có thể sẽ có ba cách hiểu và vận dụng khác nhau như sau:
+ Một là, theo khoản 6 - Điều 91 BLHS có quy định: Người dưới 18
tuổi phạm tội, toà án khi xử hình phạt tù có thời hạn thì mức án nhẹ hơn khi
áp dụng đối với người đủ 18 tuổi và khi người dưới 18 tuổi phạm tội ta xét
theo khoản 1 điều 101 của BLHS thì mức phạt cao nhất đối với người dưới 18
tuổi và đủ 16 tuổi là không quá ba phần tư và người từ 14 tuổi tới dưới 16 tuổi
thì mức phạt cao nhất được áp dụng là một phần hai không được quá.
Ví dụ: Phạm Thị H phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, tính đến
ngày thực hiện hành vi phạm tội thì mới 17 tuổi, bị truy tố theo khoản 2 -
Điều 194 BLHS với mức hình phạt tù là 05 năm đến 10 năm. Đặt giả thuyết
hình phạt được áp dụng đối với H cao nhất là 07 năm tù nhưng do H dưới 18
37
tuổi nên hình phạt cao nhất không quá ba phần tư của 07 năm tức là 05 năm
25 ngày.
+ Hai là, khi áp dụng tù có thời hạn đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi theo khoản 1 - Điều 101 BLHS hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá ba phần tư và đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo
khoản 2 - Điều 101 BLHS hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một
phần hai mức hình phạt cao nhất mà khung hình phạt của điều luật quy định.
Như vậy, theo ví dụ trên đây thì mức hình phạt cao nhất mà H có thể sẽ là 3
năm 06 tháng.
+ Như vậy, theo ví dụ trên đây thì Điều 249 BLHS năm 2015 quy định
mức hình phạt cao nhất của điều luật là 20 năm, tức là H có thể bị xử phạt ba
38
phần tư của 20 năm là 15 năm tù.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu Chương 1, tác giả rút ra những kết luận như sau:
- Tác giả đưa ra các khái niệm áp dụng hình phạt nhất là đối với hình
phạt tù có thời hạn. Xác định các nội dung cần nghiên cứu của hoạt động áp
dụng từ đó làm cơ sở để tách biệt cũng như phân biệt hình phạt tù có thời hạn
với các hình phạt khác. Đưa các vấn đề quan trọng của hình phạt tù có thời
hạn vào luận văn để làm cơ sở dữ liệu kham khảo.
- Áp dụng hình phạt tù có thời hạn là hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự sau khi quá trình định tội danh diễn ra, điều này nằm ở cơ sở hồ sơ vụ án
và tổng kết kết quả quá trình tranh tụng tại toà, xem xét cụ thể các tình tiết,
đánh giá đầy đủ các quy định của bộ luật hình sự. Từ các quá trình trên hội
đồng xét xử áp dụng BLHS để đưa ra mức hình phạt cụ thể của mức hình phạt
tù có thời hạn để kết án đố với người phạm tội và ra phán quyết cuối cùng
trong bản án về hình phạt đã tuyên.
- Xác định được những ý nghĩa quan trọng của hoạt động áp dụng hình
phạt tù có thời hạn: ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, pháp lý và giáo dục cải
39
tạo và phòng ngừa tội phạm.
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT NÀY
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
2.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.1.1. Tình hình áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020.
- Tình hình áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Dựa trên báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ công tác hàng năm (từ
năm 2016 đến năm 2020) của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tình
hình thụ lý, xét xử các vụ án hình sự được thể hiện qua bảng tổng hợp sau đây:
Bảng 2.1: Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý
Đơn vị tính: Vụ án, bị cáo
STT Năm
Số liệu thụ lý Vụ án Tỷ lệ % Bị cáo Tỷ lệ %
1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020
Cộng 53 46 51 58 55 263 20.2% 17.5% 19.4% 22.1% 20.9% 100% 104 82 100 109 102 497 20.9% 16.5% 20.1% 21.9% 20.5% 100%
(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai)
Qua bảng số liệu thống kê cho thấy:
- Năm 2016, Tòa án thụ lý 53 vụ án, với tổng số 104 bị cáo.
40
- Năm 2017, Tòa án thụ lý 46 vụ án, với tổng số 82 bị cáo.
- Năm 2018, Tòa án thụ lý 51 vụ án, với tổng số 100 bị cáo.
- Năm 2019, Tòa án thụ lý 58 vụ án, với tổng số 109 bị cáo.
- Năm 2020, Tòa án thụ lý 55 vụ án, với tổng số 102 bị cáo.
Dựa trên số liệu thống kê tội phạm từ năm 2017 đến 2020, số lượng
vụ án và số lượng bị cáo có xu hướng gia tăng. Tăng mạnh nhất và nhiều
nhất vào năm 2019 và số lượng ít nhất là vào năm 2017. So với năm 2019
thì số lượng vụ án và bị cáo của năm 2020 có xu hướng giảm, đây là điều
đáng mừng trong năm qua.
Qua thực tiễn xét xử vụ án cho thấy việc tòa án áp dụng hình phạt tù có
thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn so với các hình phạt chính khác.
Bảng 2.2: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng
Đơn vị tính: Bị cáo
Năm
Tổng số bị cáo Cảnh cáo Tử hình
Tù có thời hạn
Số liệu hình phạt chính được áp dụng Tù Cho Phạt chung hưởng tiền thân án treo
2016 91 10 14 10 37 0 0 Cải tạo không giam giữ 21
2017 70 5 9 8 29 0 0 19
2018 79 12 6 12 36 0 0 13
2019 95 7 12 20 41 0 0 15
2020 83 7 9 18 38 0 0 11
418 0 Tổng 41 50 68 180 3 79
0 Tỷ lệ 100 9.8% 12.0% 18.9% 16.3% 43.1% 0%
(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai)
Trên đây là bảng số liệu thống kê áp dụng hình phạt tại thành phố Biên
41
Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020
Qua bảng trên cho thấy, số vụ áp dụng hình phạt tại thành phố Biên
Hòa tỉnh Đồng Nai như sau: Áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với 41 bị cáo
chiếm tỷ lệ 9.8%; Áp dụng hình phạt tiền đối với 50 bị cáo chiếm tỷ lệ 12.0%;
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với 79 bị cáo chiếm 18.9%;
Áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với 68 bị cáo chiếm
16.3%; Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với 180 bị cáo chiếm 43.1%; Áp
dụng hình phạt tù chung thân đối với 3 bị cáo chiếm 0.7%; Áp dụng hình phạt
tử hình đối với 0 bị cáo.
Có thể thấy hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn 43.1%, chưa
tính đến số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.
Bảng 2.3: Số liệu kết quả xét xử
Đơn vị tính: Vụ án, bị cáo
Stt Năm
1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020 Vụ án 48 42 46 50 51 Tổng số xét xử Bị cáo 91 70 79 95 83
Tỷ lệ % 20.3% 17.7% 19.4% 21.1% 21.5% 100% Tỷ lệ % 21.8% 16.7% 18.9% 22.7% 19.9% 100% Cộng 237 418
(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai)
Qua số liệu tổng hợp, phân tích cho thấy trong thời gian từ năm 2016 –
2020, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành xét xử các vụ án như sau:
- Năm 2016, Tòa án xét xử 48 vụ án với 91 bị cáo.
- Năm 2017, Tòa án xét xử 42 vụ án với 70 bị cáo.
- Năm 2018, Tòa án xét xử 46 vụ án với 79 bị cáo.
- Năm 2019, Tòa án xét xử 50 vụ án với 95 bị cáo.
42
- Năm 2020, Tòa án xét xử 51 vụ án với 83 bị cáo.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trong thời gian 5 năm của tòa án
nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao. Xét xử đúng người đúng tội đối với các án hình sự. Giải quyết đạt
tỷ lệ cao mang lại hiểu quả trong công tác phòng chống tội phạm. Nâng cao
vai trò của toà án trong công tác phục vụ mục đích chính trị, xã hội tại địa
phương, hạn chế án tồn.
Bảng 2.4: Số liệu các loại tội phạm đã xử lý
Đơn vị tính: Vụ án
TT
Tội danh
Số thụ lý theo năm
Tổng Tỷ lệ
2016 2017 2018 2019 2020
1. 2. 3.
Tội giết người Tội cố ý gây thương tích Tội cướp tài sản
1 6 0
0 9 1
1 8 1
2 5 2
1 7 1
1.9% 13.3% 1.9%
5 35 5
4.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
4
3
6
5
3
8.0%
21
5.
3
4
2
3
6
6.8%
18
6.
tàng
sản xuất,
1
0
1
2
4
3.0%
8
7.
8
5
6
9
5
12.5%
33
8.
4
1
2
1
2
3.8%
10
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tội trữ, vậnchuyển, buôn bán hàng cấm Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt ma túy Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 9. Tội đánh bạc 10. Tội trộm cắp tài sản
8 12
5 10
9 13
10 17
12 13
16.7% 24.7%
44 65
11. Tội cưỡng đoạt tài sản
2
3
0
1
1
2.7%
7
12. Các tội phạm khác
4
5
2
1
0
4.6%
12
100%
Cộng
53
46
51
58
55
263
Tỷ lệ %
20.9
20.2
19.4
22.1
100
17.5 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai)
Qua bảng số liệu của thống kê, ta thấy bắt đầu từ năm 2016 so với năm
2017 số lượng đưa ra xét xử có xu hướng giảm. Nhưng từ năm 2016 đến năm
43
2019 số lượng đưa ra xét xử có tỉ lệ tăng dần. Đỉnh điểm là năm 2019 với số
lượng xét xử lên đến 58 vụ, các tội danh thống kê có xu hướng tăng cao nhất
là đối với các tội về tệ nạn như tàng trữ ma tuý, đánh bạc, cướp giật. Nhưng
nếu so với năm 2020 thì đây lại là số liệu đáng mừng. Vì so với năm 2019 thì
năm 2020 số lượng xét xử có xu hướng giảm, các tội về giết người, cướp tài
sản, điều khiển phương tiện giao thông,…có xu hướng giảm mạnh. Chỉ còn
các tội về chiếm đoạt tài sản, cố ý gây thương tích, đánh bạc và trộm cắp tài
sản là vẫn còn đáng báo động. Nhìn chung, so với năm 2019 thì đây là một
dấu hiệu đáng mừng trong kết quả quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm
của các ngành, các cơ quan tư pháp.
2.1.2. Những kết quả đạt được trong áp dụng hình phạt tù có thời
hạn trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Qua thực tiễn xét xử vụ án cho thấy việc tòa án áp dụng hình phạt tù có
thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn so với các hình phạt chính khác.
Bảng 2.5: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng
Đơn vị tính: Bị cáo
Năm
Tổng số bị cáo Cảnh cáo Tử hình
Tù có thời hạn
Số liệu hình phạt chính được áp dụng Tù Cho Phạt chung hưởng tiền thân án treo
91 70 79 95 83
37 29 36 41 38 180 14 9 6 12 9 50 10 5 12 7 7 41 10 8 12 20 18 68
0 0 0 0 0 0 0 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng Tỷ lệ 418 100 Cải tạo không giam giữ 21 19 13 15 11 79 9.8% 12.0% 18.9% 16.3% 43.1% 0 0 0 0 0 3 0%
(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh
44
Đồng Nai)
Trên đây là bảng số liệu thống kê áp dụng hình phạt tại thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020
Qua bảng trên cho thấy, số vụ áp dụng hình phạt tại thành phố Biên
Hòa tỉnh Đồng Nai như sau: Áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với 41 bị cáo
chiếm tỷ lệ 9.8%; Áp dụng hình phạt tiền đối với 50 bị cáo chiếm tỷ lệ 12.0%;
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với 79 bị cáo chiếm 18.9%;
Áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với 68 bị cáo chiếm
16.3%; Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với 180 bị cáo chiếm 43.1%; Áp
dụng hình phạt tù chung thân đối với 3 bị cáo chiếm 0.7%; Áp dụng hình phạt
tử hình đối với 0 bị cáo.
Có thể thấy hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn 43.1%, chưa
tính đến số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.
Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà cũng hạn chế áp dụng các biện pháp là hình
phạt tù, nâng cao vai trò các hình phạt khác như cải tạo không giam giữ, án treo.
Giúp người phạm tội có cơ hội cải tạo hiệu quả nhất có thể. Ngoài ra nếu phải áp
dụng hình phạt tù có thời hạn, Toà án nhân dân luôn lấy phương châm xử đúng
người đúng tội. Áp dụng nguyên tắc nhân đạo, xử lý người phạm tội với hình phạt
thích đáng thấu tình hợp lí nhất có thể.
Vd: Bản án số 145/2020/HS-St ngày 31/3/2020 của Toà án nhân dân thành
phố Biên Hoà tỉnh Đồng Nai. Trong ngày 31 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa
án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình
sự sơ thẩm thụ lý số 129/2020/TLST-HSST ngày 13 tháng 3 năm 2020 theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3
năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Anh Tú, (tên gọi khác: Quậy) sinh năm
1995 tại Đồng Nai
Khoảng 23 giờ 21/11/2018, Tiêu Quốc Thông, Nguyễn Hữu Tuấn,
Nguyễn Anh Tú và Trần Thanh Thiện (ngụ tại 70/3A, tổ 10, khu phố 2,
45
phường An Bình, thành phố Biên Hòa) đến quán “Thùy Trâm” tại tổ 4, khu
phố 2, phường An Bình, thành phố Biên Hòa để uống bia. Đến khoảng 00 giờ
00 phút ngày 22/11/2018, Thiện đi về trước, khi đi đến phía trước cạnh quán
“Thùy Trâm” thì thấy anh Nguyễn Hữu Trường, anh Nguyễn Hữu Tín và chị
Nguyễn Ngọc Thoa (cùng ngụ tại địa chỉ 77/2, tổ 18, khu phố 2, phường An
Bình, thành phố Biên Hòa) đang ngồi uống bia trước cổng nhà nên anh
Trường gọi Thiện vào uống bia chung. Đến khoảng 00 giờ 30 phút cùng ngày,
Tuấn, Thông và Tú từ trong quán “Thùy Trâm” đi ra về nên Thiện gọi Tuấn,
Thông và Tú vào uống bia thì chỉ có Tuấn vào uống bia cùng Thiện, Trường,
Tín và chị Thoa, còn Thông ngồi trên xe chờ, Tú bỏ về trước. Trong quá trình
uống bia, Tuấn và chị Thoa xảy ra mâu thuẫn và cãi nhau nên anh Trường can
ngăn đẩy chị Thoa vào trong nhà và đẩy Tuấn đi về. Do bực tức vì bị đuổi về
nên Tuấn đã rủ Thông về nhà Tuấn lấy dao tự chế để chém anh Trường, trên
đường đi Thông gọi điện thoại rủ Tú tham gia chém anh Trường cùng thì Tú
đồng ý. Sau đó, Thông, Tuấn và Tú mỗi người mang theo 01 (một) con dao tự
chế cán bằng sắt dài khoảng từ 60cm đến 80cm rồi Thông chở Tuấn, còn Tú
đi một mình (bằng xe mô tô không rõ biển số của Tuấn và Tú) đến chỗ anh
Trường đang uống bia. Khi đến nơi, Tuấn cầm dao tự chế chạy vào chém anh
Trường nhưng bị anh Trường ôm lại nên Thông chạy đến dùng dao tự chế
chém vào anh Trường thì bị anh Tín can ngăn, đẩy Thông ra không để Thông
chém anh Trường, Thông liền cầm dao quay lại chém một nhát vào cổ tay trái
của anh Tín, anh Tín bỏ chạy và bị té ngã, Thông tiếp tục cầm dao chém một
nhát vào cẳng chân phải anh Tín gây thương tích. Trong lúc giằng co với
Tuấn thì anh Trường bị Tuấn dùng dao tự chế chém hai nhát vào trán phải và
một nhát vào bờ nếp khuỷu tay trái gây thương tích. Thấy vậy, chị Thoa chạy
vào can ngăn thì bị Tú dùng tay đánh vào mặt chị Thoa. Sau khi chém anh
Trường và anh Tín bị thương, Tuấn, Thông và Tú bỏ đi và đưa dao cho Tú cất
giấu. Sự việc xảy ra, Tú dùng xe chở Thông và Tuấn đi băng bó vết thương,
46
khi đi đến khu vực dốc Nguyễn Huệ thuộc phường Bình Đa, thành phố Biên
Hòa thì gặp chị Huỳnh Thị Trâm (là chủ quán Thùy Trâm) đang chở anh Tín
đi cấp cứu thì Tú ép xe chị Trâm dừng lại và Tú xuống xe dùng tay đánh vào
mặt anh Tín mấy cái, chị Trâm can ngăn thì Tú bỏ đi. Anh Trường và anh Tín
được đưa đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy, sau đó xin về Bệnh
viện Đồng Nai điều trị vết thương. Qua điều tra, xác minh, Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố
bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Tuấn, Thông và Tú để điều tra,
xử lý. Ngày 22/01/2019, Thông bị bắt giữ để điều tra xử lý, riêng Tuấn và Tú
đã bỏ trốn. Đến ngày 08/12/2019, Tú bị bắt giữ để điều tra xử lý.
Áp dụng dụng điểm a, i khoản 1 và điểm d khoản 3 Điều 134; điểm s
khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh Tú
(tên gọi khác: Quậy) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Tú (tên gọi khác: Quậy): 05 (năm) năm 06
(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2019.
Bảng số 2.6: Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Đơn vị tính: Bị cáo
Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Tù từ 3 năm trở xuống Từ từ 3 năm đến 7 năm Tù từ trên 7 năm đến 15 năm
Stt Năm Tỷ lệ
1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020
Tổng số bị cáo 36 29 36 41 38 180 Tỷ lệ 22.2% 17.2% 25.0% 17.1% 21.1% 20.6% Tỷ lệ 44.4% 51.7% 33.3% 41.5% 44.7% 42.8% 33.3% 31.0% 41.7% 41.5% 34.2% 36.7% Bị cáo 8 5 9 7 8 37 Bị cáo 12 9 15 17 13 66 Cộng
Bị cáo 16 15 12 17 17 77 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh
47
Đồng Nai)
Qua phân tích số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại TAND thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy được: Việc áp dụng hình phạt tù từ 3
năm trở xuống đối với 66 bị cáo, chiếm tỷ lệ 36.7%, tổng số bị cáo bị áp dụng
hình phạt tù có thời hạn; Áp dụng hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm đối với 77
bị cáo, chiếm tỷ lệ 42.8% tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn;
Áp dụng hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm đối với 37 bị cáo, chiếm 20.6%
tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Từ các nhận xét trên ta cso thể thấy mức độ phạt tù có thời hạn của Toà
án nhân dân thành phố Biên Hoà có xu hướng giảm và bảo hoà. Giảm thiếu
các hình phạt tù khi không cần thiết, tăng các hình phạt khác không phải là
hình phạt tù để tạo điều kiện cải tạo hữu hiệu hơn cho bị cáo.
Bảng số 2.7: Số liệu về nhân thân của bị cáo
Đơn vị tính: Bị cáo
Nữ
Năm Bị cáo Phân tích đặc điểm nhân thân các bị cáo đã bị xét xử Dân Đảng tộc viên thiểu số Nghiện ma túy Cán bộ công chức
Từ 18 đến 30 tuổi
Từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi 2 1 2 4 1 10 Từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi 5 2 3 6 3 19 2016 36 2017 29 2018 36 2019 41 2020 38 Cộng 180 6 4 7 5 6 28 9 5 11 8 5 38 6 4 5 4 6 25 9 4 8 10 6 37 4 2 2 5 2 15 Tái phạm, tái phạm nguy hiểm 11 3 8 9 7 38
16 11 14 13 15 69 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai)
Từ những số liệu trên phân tích và tổng hợp ở trên có thể thấy chất lượng
xét xử được đảm bảo và nâng cao rõ rệt, Tòa án áp dụng các quy định của pháp
luật, các bản án được tuyên bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
48
Hình phạt mà tòa án áp dụng đã nghiêm trị đối tượng cầm đầu, ngoan cố,
chống đối, lưu manh... đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước
ta đối với những người phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ TNHS như tự thú, ăn
năn hối cải, khắc phục hậu quả. Tòa án đã xem xét, làm rõ các tình tiết định
tội; các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân của bị cáo để khi áp dụng hình
phạt và mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
được thực hiện.
Số liệu trên cũng cho thấy mức độ tiếp thu, sống và làm thoe pháp luật
của người dân thành phố Biên Hoà tỉnh Đồng Nai ngày càng cao. Tỉ lệ phạm
tội có xu hướng giảm, giảm nhiều nhất đối với các bị cáo có nhân thân là
Đảng viên. Với năm 2019 là 05 bị cáo là Đảng viên thì năm 2020 chỉ còn lại
02 bị cáo. Ngoài ra số lượng tái phạm nguy hiểm, ma tuý và dân tộc thiểu số
cũng giảm thiếu đáng kể. Điều này chứng tỏ mặc nhận thức của người dân có
dấu hiệu gia tăng, ngày càng hiểu và làm việc theo pháp luật. Đây là sự việc
đáng mừng.
VD: Bản án số: 282/2021/HSST ngày 21/05/2021 của Toà án nhân dân
thành phố Biên Hoà tỉnh Đồng Nai. Lê Trọng T là người sử dụng trái phép
chất ma túy (ma túy tổng hợp). Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 26/01/2021, T đi
đến khu vực gần cây xăng An Viễn thuộc xã An Viễn, huyện Trảng Bom, tỉnh
Đồng Nai mua của người thanh niên tên B (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 (một)
gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để sử
dụng.
Vào lúc 20 giờ 45 phút cùng ngày, T cất giấu gói ma túy nêu trên trong
túi áo khoác phía trước bên trái của T đang mặc trên người, rồi đi đến trước
nhà không số thuộc tổ A, khu phố LĐA, phường TP, thành phố BH, tỉnh
Đồng Nai thì bị Công an phường Tam Phước kiểm tra phát hiện bắt quả tang,
49
chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý.
* Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (T khai là
ma túy tổng hợp – hàng đá);
*Tại Kết luận giám định số 205/PC54-GĐMT ngày 01/02/2021 của
Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận như sau:
Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy,
có khối lượng: 1,03892 gam loại: Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số: 304/CT-VKSBH ngày 05/05/2021, Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo: Lê Trọng T về tội “Tàng trữ
trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật
hình sự.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị
cáo:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, trong quá trình điều
tra và tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên
bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s
khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ
nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
Xử phạt bị cáo Lê Trọng T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù giam nhưng
được trừ đi thời gian bị tạm giam trước đó;
Về xử lý vật chứng:
- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định
đựng trong gói niêm phong số: 205/PC54-GĐMT ngày 02/02/2021 của Phòng
50
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
2.1.3. Một số hạn chế, vướng mắc trong áp dụng hình phạt tù có thời hạn
trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác xét, thực tiễn xét xử
cho thấy việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn còn bộc lộ những hạn chế, vướng
mắc gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội,
cũng như uy tín của cơ quan thực thi pháp luật. Các sai sót vướng mắc này
thường tập trung chủ yếu ở những dạng sau đây:
Thứ nhất, vẫn còn tình trạng ưu tiên áp dụng hình phạt tù có thời hạn
trong hoạt động xét xử
Qua số liệu thống kê về các hình phạt chính được áp dụng tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai như phân tích ở trên thấy: Áp dụng hình phạt cảnh
cáo chiếm tỷ lệ 9.8%; Áp dụng hình phạt tiền đối chiếm tỷ lệ 12.0%; áp dụng
hình phạt cải tạo không giam giữ chiếm 18.9%; Áp dụng hình phạt tù nhưng
cho hưởng án treo chiếm 16.3%; Áp dụng hình phạt tù có thời hạn chiếm
43.1%. Tỷ lệ hình phạt tù có thời hạn được áp dụng cao rất nhiều lần so với
các hình phạt khác. Trong số người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù có thời
hạn thì có 36.7% người phạm tội có mức hình phạt từ 3 năm trở xuống
[29]. Trên thực tiễn tại thành phố Biên Hòa việc áp dụng hình phạt tù có thời
hạn với tỷ lệ cao như trên cho thấy những người áp dụng áp dụng pháp luật có
phần ưu tiên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Nghị quyết số 49-NQ-
TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách ngành Tư pháp
đến năm 2020 đưa ra yêu cầu giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt
tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Những
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, an ninh mạng và điều kiện kinh tế hội
nhập quốc tế... Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp
tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm
51
quyền quyết định trong việc áp dụng các biện pháp tạm giam. Việc tòa án ưu
tiên lựa chọn hình phạt tù có thời hạn để áp dụng xuất phát từ nhiều lý do
như: Nhận thức của người áp dụng, dư luận xã hội và nhận thức của người
dân rằng hành vi phạm tội phải bị trừng trị nghiêm khắc. Theo đó, mục đích
giáo dục, phòng ngừa chung đứng sau mục đích trừng trị. Người áp dụng hình
phạt còn chưa thấy được hết lợi ích của việc giảm áp dụng hình phạt tù có
thời hạn và tăng cường áp dụng các hình phạt khác không tước quyền tự do.
Ví dụ: Khoảng 09 giờ sáng ngày 23/05/2016 Đinh Thế Hoàng có giấy
phép lái xe, điều khiển xe chở 02 người ở đằng sau là anh Thành và chị Tiền
đi từ chợ Đồn về hướng Biên Hoà. Khi đến đường Võ Thị Sáu thuộc phường
Quyết Thắng, lúc này Hoàng lái xe chạy sát mép đường và ngủ gật nên khi
thấy Anh Hậu và Anh quang dắt xe đạp đi bộ phía trước ngược chiều đã
không xử lý kịp thời hậu quả đâm vào đầu xe đạp của anh Quang và anh Hậu,
đẩy anh Quang và anh Hậu ngã về phía sau. Anh Quang được đưa đi cấp Cứu
nhưng đã tử vong sau đó, còn anh Hâu chỉ bị say sát nhẹ.Sau khi gây tai nạn,
phía anh Hoàng có bồi thường cho gia đình anh Quang 90 triệu đồng và anh
hậu 05 triệu đồng, đồng thời cũng làm đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo.
Bản án sơ thẩm số 53/2016/HSST ngày 09/11/2016 của toà án nhân dân
thành phố Biên Hoà tuyên bố bị cáo Đinh Thế Hoàng tội “Vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Xử phạt Đinh Thế Hoàng
theo Khoản 1 Điều 202 BLHS với thời gian tù có thời hạn là 12 tháng.
Trong vụ án này, ta có thể thấy mọi hành vi của Bị cáo là sự vô ý để
xảy ra lỗi vi phạm an toàn giao thông gây tai nạn với Anh Quang và Anh Hậu.
Sau đó người bị nạn đã được đưa đi cấp cứu, bị cáo cũng chủ động bồi thường
90 triệu đồng cho gia đình người bị hại. Bị cáo có ăn năn hối cải, thành khẩn
khai báo và có nhân thân tốt. Theo khoản 1 điều 202 thì có thế phạt Tiền từ 5
triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù
52
từ 6 tháng tới 3 năm. Điều này cho thấy luật quy định linh hoạt chứ không
nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù.
Thứ hai, còn tình trạng đánh giá chưa đúng các tình tiết, chứng cứ của
vụ án khi định khung hình phạt trong một số vụ án.
Đánh giá các tình tiết tài liệu chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự
chưa đúng, dẫn đến quyết định mức hình phạt không chính xác.
Việc nghiên cứu chứng cứ còn có vụ chưa đảm bảo tính khách quan,
toàn diện, chứng cứ còn mang tính chủ quan do phụ thuộc nhiều vào các lời
khai của đối tượng phạm tội, người làm chứng, bị hại, người biết việc mà
chưa chú trọng nhiều đến chứng cứ khách quan như: Kết luận giám định, biên
bản đối chất, nhận dạng hoặc khám nghiệm hiện trường.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ còn được áp dụng tùy tiện ở nhiều vụ
án, nhất là đối với các vụ phạm tội ít nghiêm trọng, như tội phạm đánh bạc
nên có nhiều vụ cho hưởng án treo hoặc phạt tiền, phạt cảnh cáo. Nhiều vụ xử
dưới khung hình phạt tối đa do áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ. Qua đó làm
giảm đi tính nghiêm minh của hình phạt dành cho đối tượng phạm tội.
Thứ ba, một số vụ án đã quyết định hình phạt không đúng (quá nặng;
quá nhẹ; cho hưởng án treo không tương xứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm…)
Ví dụ: Bản án số 62/2017/HSST ngày 06/06/2017 của toà án nhân
dân Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
Vào lúc 20 giờ ngày 18/02.2017, Nguyễn Thanh Trí cùng bạn Lê
Thanh Sang , Nguyễn Bá Đạt và Nguyễn Đức Phú đến hát karaoke tại quan
Gia Bảo ở phường Tân Hạnh, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Khoảng
22 giờ Sang ra lấy bóp trong xe và quay vào quầy lễ tân thanh toán tiền. Trí
lấy xe đón Sang. Còn những người khác ra trước quán karaoke Gia Bảo
chuẩn bị bắt taxi đi về. Lúc này Thái và Nam cũng đứng trước cửa đợi xe.
Thấy trí lái xe tới, Thái bước ra chặn ra Trí, Nam đứng phía trước bên trái
53
xe. Sau khi Sang lên xe, Thái nói với Trí xin đi nhờ, Nam nói xe Trí đè lên
chân Nam. Sau khi lùi xe lại thì bất ngờ Thái xông lên giật mở cửa xe và
đấm nhiều phát vào mặt Trí. Trí luống cuống bỏ chạy ra ngoài thì Nam và
Đạt xong vào dùng tay và chân đấm đá Trí. Bạn của Đạt là Khánh chạy tới
cầm ghế gỗ đập liên tiếp vào người Trí. Vì bị đánh hội đồng và bị đau nên
Thanh thò vào túi áo rút dao đa năng và đâm một nhát vào bụng Nam và
một nhát vào ngực Thái, Nam và Thái vùng ra và tiếp tục lao vào đánh Trí.
Trí bỏ chạy, Thái và Nam đuổi theo nhưng chạy được một đoạn thì ngã
xuống, trên đường đưa đi cấp cứu thì tử vong. Xem xét các căn cứ tình tiết
của vụ án, Hội đồng kết luận: Nguyễn Thanh Trí phạm tội “ Giết người” do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại khoản 1 điều 96
BLHS. Bị hại cũng có lỗi vì “Tấn công Nguyễn Thanh Trí” dẫn tới việc bị
cáo Nguyễn Thanh Trí làm bị cáo Nam và Thái tử vong. Theo khoản 1 điều
245 thì bị cáo Thái và Nam phạm tội gây rối trật tự nơi công cộng, bị hại
cũng có lỗi. Xét thấy bị cáo Trí có sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo,
tiền án tiền sự chưa có, phạm tội ít nghiêm trọng nên cho bị cáo tự cải tạo.
Sau khi xem xét hội đồng quyết định áp dụng khoản 1 điều 245; điểm p, h
khoả 1, khoản 2 điều 46; điều 20; điều 53; khoản 1, khoản 2 điều 60 BLHS
xử phạt bị cáo 12 tháng tù cho hưởng án treo.
Lật lại lý lịch của bị cáo về nhân thân: Năm 2008 bị cáo bị Toà Án
nhân dân thành phố Biên Hoà xử phạt 12 tháng về tội “ Cố ý gây thương
tích”. Sau đó thì bị cáo bị toà án tỉnh Đồng Nai phúc thẩm xử phạt 3 tháng
tù về tội “Không tố giác tội phạm”. Xem xét các yếu tố thấy bị cáo có nhân
thân xấu và không đạt mục đích phạm tội lần đầu của toà tuyên. Tuy lần
này bị cáo phạm tội là do hành vi của Thái và Nam gây ra nhưng tuyên bị
cáo phạm tội lần đầu là chưa thoả đáng đối với Nghị quyết số
01/2013/HĐTP-TANDTC ngày 06/11/2013 hướng dẫn về án treo của hội
đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao. Bản án này được viện kiểm sát
54
nhân dân tỉnh Đồng Nai kháng nghị cho bị cáo Trí hưởng án treo là không
đúng. Nên Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã huỷ bản án sơ thẩm về phần
quyết định hình phạt của bị cáo Trí và yêu cầu xét xử lại.
2.1.4. Một số nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong áp dụng
hình phạt tù có thời hạn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Những hạn chế, vướng mắc nêu trên khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn
trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhưng chủ yếu tập trung ở những nguyên nhân sau:
Một là, nhận thức của một số chủ thể áp dụng pháp luật về hình phạt tù
có thời hạn còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất
Nguyên nhân đầu tiên dẫn tới những hạn chế, vướng mắc trong việc áp
dụng hình phạt nói chung và hình phạt tù có thời hạn nói riêng xuất phát từ
nhận thức của những người áp dụng hay nói cách khác là của các thành viên
trong HĐXX. Quan trọng từ nhận thức của các người dân trong xã hội. Hình
phạt được áp dụng không chỉ để trừng trị người phạm tội mà mục đích tốt đẹp
hơn hình phạt hướng tới đó là giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp
luật, quy tắc của cuộc sống và ngăn ngừa họ phạm tội mới. Nhưng để trừng trị
người phạm tội thì có nhất thiết phải áp dụng hình phạt mang tính cách ly người
phạm tội khỏi đời sống xã hội hay không. Hiện nay, không chỉ người dân mà cả
những người trực tiếp áp dụng hình phạt đều có suy nghĩ đã phạm tội là phải
trừng trị bằng biện pháp cách ly khỏi đời sống xã hội thì mới cải tạo tốt để
thành công dân có ích cho xã hội.
Việc áp dụng hình phạt có thời hành như trên đã và đang gây quá tải cho hệ
thống cơ sở giam giữ người bị kết án vì số lượng người bị áp dụng hình phạt
này quá nhiều. Qua các phân tích của chúng ta thấy số lượng người phạm tội bị
áp dụng hình phạt tù lớn nhưng trong đó phần lớn lại thuộc mức hình phạt từ 3
năm trở xuống, có rất nhiều người bị kết án chỉ mấy tháng tù. Với thời gian chấp
hành án ngắn như thế thì việc giáo dục, cải tạo có đạt được kết quả tốt là rất khó
55
khăn trên thực tế. Cụ thể việc giam giữ họ trong thời gian ngắn là không cần thiết,
để trừng trị người phạm tội còn rất nhiều hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thể
áp dụng, mà vẫn đảm bảo được mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo.
Hai là, quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn còn thiếu rõ
ràng, đầy đủ, gây khó khăn, bất cập cho việc áp dụng
Một số quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay còn chưa
đầy đủ, hoặc có những quy định không đầy đủ rõ ràng, chưa kịp thời sửa đổi,
nên dẫn đến có nhiều cách hiểu không giống nhau những cách áp dụng khác
nhau. Như việc quy định khung hình phạt tù có thời hạn với khoảng cách quá
rộng giữa mức tối thiểu và mức tối đa dẫn đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn
của hội đồng xét xử chưa phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội mà người bị kết án đã thực hiện. Qua thực tế áp dụng hình phạt tù
đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp chấp hành hình phạt tù
khác nhau dù trong cùng một khoản, cùng một hành vi và hậu quả xảy ra như
nhau, nhưng có trường hợp cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội, trường hợp
áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo. Điều 54 BLHS năm
2015 cũng chưa quy định rõ để thực sự có cách hiểu thống nhất về vấn đề này.
Ngoài ra, Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm x khoản 1
Điều 51 BLHS: Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha,
mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ chưa phù hợp với thực tế. Theo Pháp lệnh Số:
04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 07 năm 2012 của Ủy ban thương vụ quốc
hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công
với cách mạng thì người có công với cách mạng quy định cụ thể như sau:
“Người có công với cách mạng:
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;
Liệt sĩ;
56
Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;
Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
Bệnh binh;
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế;
Người có công giúp đỡ cách mạng.”[33]
Thực tiễn xét xử cho thấy tuổi người phạm tội còn trẻ nên dựa trên quy
định về Người có công nêu trên rất nhiều bị cáo không thể đáp ứng được điều
kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ này. Như vậy, vô hình chung đi trái với
yêu cầu thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, khoan hồng của nhà nước
giảm hình phạt tù, tăng cường các tình tiết không phải hình phạt tù...trong công
cuộc cải cách tư pháp. Chính từ những bất cập trong các quy định của Bộ luật
hình sự, dẫn tới việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn vẫn còn những thiếu sót,
ảnh hưởng đến mục đích hình phạt tù có thời hạn, gây bức xúc trong dư luận.
Ba là, việc áp dụng pháp luật về hình phạt tù có thời hạn còn thiếu văn
bản hướng dẫn cụ thể
Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có Nhà nước thẩm quyền có
quyền giải thích luật và pháp lệnh trên thực tế cơ quan này chưa thực hiện bởi sự
"quá tải" trong công tác xây dựng pháp luật. Vướng mắc trong việc ADPL nói
chung áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng đều dựa vào văn bản hướng
dẫn ADPL của các cơ quan tư pháp ở trung ương mà chủ yếu là TANDTC.
Hình thức văn bản chủ yếu là các thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán TANDTC. Thực tế văn bản hướng dẫn áp dụng hình phạt còn chưa
kịp thời sâu sát với thực tế, dẫn đến nhiều khó khăn, lúng túng cho hoạt động áp
57
dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án địa phương. Nguyên nhân chủ yếu do
TANDTC vẫn còn chậm trong công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn xét xử,
hướng dẫn kịp thời các vướng mắc trong quá trình áp dụng hình phạt nói chung
và hình phạt tù có thời hạn của Tòa án các cấp.
Bốn là, phẩm chất, năng lực áp dụng pháp luật hình phạt tù có thời hạn
của một số Thẩm phán, Hội thẩm chưa cao
Một trong những khó khăn trên thực tế là trình độ, năng lực và phẩm chất
của Thẩm phán, Hội thẩm. Sau khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có
hiệu lực thi hành đồng thời với việc tăng thẩm quyền là sự gia tăng số lượng án
hình sự, các vụ án ngày càng phức tạp, thủ đoạn của tội phạm ngày môt tinh
vi. Bên cạnh đó là việc thiếu biên chế do chủ trương của của Đảng và nhà nước
về việc không tăng biên chế hiện có. Vì vậy, dẫn đến áp lực lớn đối với đội ngũ
cán bộ tòa án, một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bản án còn bị hủy, sửa.
Ngoài ra, còn có những thẩm phán chưa vững vàng về bản lĩnh chính trị và nghề
nghiệp. Một số thẩm phán còn thiếu sự cẩn trọng dẫn đến bỏ sót một số tình
tiết quan trọng ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Trình độ chuyên môn và năng lực của một bộ phận Hội thẩm nhân dân
chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của công tác xét xử. Các hội thẩm chủ yếu
kiêm nhiệm, đa số hạn chế về kiến thức pháp lý cũng như áp dụng kiến thức pháp
luật vào việc xét xử còn mang nặng tính hình thức. Thời gian dành cho việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử chưa nhiều. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội
ngũ Hội thẩm vẫn còn khiêm tốn nên cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng hình
phạt tù có thời hạn trong giải quyết các vụ án hình sự.
Năm là, một số yếu tố khách quan khác
- Các cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan
tiến hành tố tụng còn thiếu thốn, cũng như chế độ phụ cấp chưa đảm bảo và chưa
ổn định. Bên cạnh đó những tác động của tiêu cực xã hội cũng ảnh hưởng đến
chất lượng của hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
58
- Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức công tác trong hệ thống
tòa án chưa thật sự phù hợp để đảm bảo cuộc sống, chưa đủ điều kiện để họ
thật sự khách quan, vô tư trong hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
- Công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự của Lãnh
đạo Tòa án nhân dân các cấp chưa thường xuyên, nên chưa phát hiện được thiếu
sót để có những biện pháp chấn chỉnh và khắc phục kịp thời.
Vẫn còn có những can thiệp của cá nhân, áp lực không đúng từ dư luận
đến việc áp dụng hình phạt của Toà án.
2.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn
tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn
Để nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn, yêu cầu những
người tiến hành tố tụng phải nắm chắc các quy định của Pháp luật hình sự, luôn
cập nhật các văn bản hướng dẫn pháp luật đồng thời đưa ra các đề xuất, giải
pháp hoàn thiện phù hợp với quy định và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước. Quyết định của bản án phải đảm bảo có đủ căn cứ, thực hiện đúng trình
tự thủ tục quy định của pháp luật.
Đối với pháp luật hình sự, Nhà nước ta đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung nhưng vẫn còn những bất cập hạn chế so với đòi hỏi của thực tiễn trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017 tuy rằng mới được ban hành nhưng cũng không tránh khỏi có
những vướng mắc, bất cập, hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới đây cần phải tiếp
tục nghiên cứu, sửa đổi cho thật khoa học, có hệ thống, đồng bộ, cụ thể và chặt
chẽ hơn trong phần chung và phần các tội phạm, trình tự áp dụng hình phạt tù
có thời hạn, bảo đảm quy định của pháp luật vừa chính xác, công bằng, nhân
đạo và dễ áp dụng. Các chế tài về hình phạt phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung đảm bảo cho việc quyết định phạt đúng; hoàn thiện các căn cứ áp dụng
hình phạt phải đúng mục đích của hình phạt, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
59
trách nhiệm hình sự; quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt:
Phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, đồng phạm, miễn hình phạt...cụ thể:
- Pháp luật có quy định về khoảng cách tối thiểu và khoảng cách tối đa
trong một khung hình phạt tù có thời hạn. Trong điều 38 BLHS hiện hành quy
định hình phạt ít nhất là 03 tháng và tối đa là 30 năm. Với khoảng các tối đa và tối
thiểu của khung hình phạt tù có thời hạn thế này vẫn còn quá rộng. Ưu điểm của
khoảng các này có thể áp dụng một cách linh hoạt trong nhiều trường hợp phạm
tội khác nhau trong nhiều tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong BLHS. Tuy nhiên,
với khoảng cách quá rộng sẽ dễ bị lạm dụng dẫn tới không thống nhất, thiếu chuẩn
xác trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Không đảm bảo đủ đầy tính công
bằng và không phát huy hết các biện pháp giáo dục như cải tạo không giam giữ, tù
treo,… Vì vậy, chế tài quy định đối với các tội phạm cụ thể cần được hoàn thiện
theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối mức tối đa của
khung hình phạt, chia nhỏ các khung hình phạt, tăng cường chế tài tùy nghi lựa
chọn giữa các hình phạt không phải là hình phạt tù.
Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức tối thiểu là 03 trong BLHS
hiện hành vẫn chưa phù hợp với thực tiễn. Trong bối cảnh tội phạm ngày càng
nhiều, cần mang các tính chất răng đe giáo dục cao như hiện nay thì việc thời
gian 03 tháng tối thiểu chưa phát huy được hết công dụng trong thực tiễn. Không
kể tới thời gian chấp hành hình phạt tù 03 tháng quá ngắn để cải tạo, nhiều lúc
dẫn tới tình trạng quá tải tại các cơ sở giam giữ. Nên với khoảng cách tối thiểu và
tối đa vẫn còn là 1 hạn chế.
Theo quan điểm của tác giả với thời gian chấp hành án 03 tháng, người
phải chấp hành án không có đủ thời gian để hưởng các chính sách về giảm thời
hạn chấp hành hình phạt, học nghề, không khuyến khích được ý thức tự cải tạo
của bản thân. Mức tối thiếu từ 03 tháng của hình phạt tù có thời hạn cần được
sửa chữa thành 06 tháng. Với mức hình phạt tù thay đổi sẽ làm hạn chế việc
áp dụng hình phạt tù quá nhiều. Điều này sẽ nâng cao việc áp dụng các hình
60
phạt khác thay thế cho việc sử dụng hình phạt tù có thời hạn, tạo nên tính hài
hoà trong công tác xét xử cũng như lựa chọn hình phạt.
Ngoài ra cũng cần phải sửa đổi bổ xung các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự để người dân có thể hưởng quyền lợi và phù hợp hơn với thực
tiễn. Tại điểm X khoản 1 điều 51 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự: “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha,
mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” cần được thay đổi sửa chữa thành: “Người phạm
tội là người có công với cách mạng; là vợ, chồng, con của người có công với
cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ”. Ngoài ra để điều 54
BLHS 2015 được làm rõ hơn cần phải ban hành hướng dẫn về cách hiểu
cụ thể.
Quyết định hình phạt là nội dung quan trọng trong việc xét xử, nên
rất cần hoàn thiện và bổ xung một cách phù hợp và đầy đủ. Song song đó
các vấn đề về Hình phạt tù có thời hạn được quy định trong BLHS cũng
cần được hoàn thiện hơn. Giúp người phạm tội có cơ hội được giáo dục,
cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc hoàn thiện hình phạt tù
có thời hạn nhằm tăng giá trị trong việc áp dụng hình phạt. Nâng cao tính
pháp lý và tinh thần giáo dục, khuyến khích các hình phạt khác giúp
người phạm tội hoàn lương thay vì hình phạt tù.
2.2.2. Ban hành hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết rút kinh
nghiệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xây dựng và ban hành án lệ
Trong thời gian qua Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự và Bộ luật tố
tụng hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Tuy nhiên, các văn bản
hướng dẫn thi hành hai bộ luật trên còn chưa đầy đủ nên khi áp dụng sẽ không
tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc trong việc hiểu và áp dụng đúng tinh thần
của điều luật. Mặt khác, các quy chế phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành với
tòa án còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ dẫn tới thời gian xét xử vụ án kéo dài,
61
gặp nhiều khó khăn.
Do văn bản hướng dẫn cho hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND
tối cao chưa đầy đủ nên thực tiễn xét xử các TAND có sự vận dụng các hướng
dẫn của TAND tối cao theo những cách khác nhau thậm chí trong cùng một
TAND hoặc giữa các cấp TAND ở trong tỉnh. Bên cạnh đó là trình độ chuyên
môn của đội ngũ Hội thẩm nhân dân chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu xét xử. Do
đó, đòi hỏi trong thời gian tới cần tiếp tục đối mới công tác xây dựng pháp luật
tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ, dễ thực hiện. Ủy ban thường vụ quốc hội
phải tăng cường công tác giải thích pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng
một cách thống nhất trên cơ sở tổng kết thực tiễn.
Tổng kết kinh nghiệm xét xử là nhiệm vụ quan trọng. Thông qua hoạt
động tổng kết, rút kinh nghiệm về những vấn đề đã làm được, những vấn đề còn
vướng mắc, bất cập chúng ta mới rút ra được bài học kinh nghiệm đặc biệt về
việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xem xét, kiến nghị bãi bỏ những quy định
không còn phù hợp, sửa đổi, bổ sung các quy định còn chưa đầy đủ, có cách
hiểu khác nhau.
Hàng năm ngoài việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để đảm
bảo và nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn cần phải mở thường
xuyên hơn nữa các lớp tập huấn về nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán, hội thẩm
nhân dân. Đối với Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, hàng
năm đều tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm, mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, tổ
chức cho cán bộ, công chức tham gia các buổi tập huấn trực tuyến do TAND
tối cao tổ chức. Vì vậy, nhìn chung chất lượng xét xử các vụ án hình sự, trong
đó có chất lượng hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn được nâng cao.
Mặt khác, do việc quy định khoảng cách tối đa và tối thiểu trong khung
hình phạt tù có sự chênh lệch lớn, không thống nhất giữa các tòa án, cùng một
điều luật có cách hiểu khác nhau và và các hành vi phạm tội xảy ra theo chiều
62
hướng phúc tạp mà các quy định của pháp luật chưa điều chỉnh hết. Vì vậy, để
có cách hiểu thống nhất và đáp ứng yêu cầu đấu tranh kịp thời với tội phạm cần
xây dựng và ban hành các án lệ. Ngày 28/10/2015 Hội đồng thẩm phán tòa án
nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình
công bố, lựa chọn và áp dụng án lệ. Theo đó áp dụng án lệ để giải quyết các vụ
việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau
phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết
định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được
nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp
lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định
của Toà án; trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ
lý do trong bản án, quyết định của Toà án.
Tính đến nay TAND tối cao đã ban hành 16 án lệ, trong đó số lượng án
lệ về hình sự chiếm số lượng khá khiêm tốn (mới chỉ có 1), chưa đáp ứng được
như cầu xét xử hiện nay. Do đó, trong thời gian tới cần tiếp tục bổ sung các án
lệ của các vụ án hình sự để đảm bảo cho việc xét xử án hình sự của các tòa án
đạt kết quả cao hơn nữa.
2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng của Thẩm phán, Hội
thẩm trong công tác xét xử
Việc xây dựng, ban hành các văn bản áp dụng hình phạt nói chung hay
trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng thì một yếu tố rất quan
trọng để nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đó là con người
mà cụ thể là Thẩm phán và Hội thẩm. Chủ thể trực tiếp thực hiện áp dụng hình
phạt tù có thời hạn. Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt nghiêm khắc, tước
một số quyền của người bị kết án, cách ly họ khỏi đời sống xã hội trong khoảng
thời gian nhất định, người bị kết án còn phải chịu cả những hệ lụy xảy ra sau khi
họ đã chấp hành hình phạt xong. Vì vậy, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đòi
hỏi phải có những thẩm phán, hội thẩm có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có ý
63
thức pháp luật cũng như phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công việc, hiểu
biết đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, quy định của
pháp luật và trên hết là lợi ích của người dân. Do đó, yêu cầu nâng cao chất
lượng của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm yêu cầu cấp thiết.
Để có trình độ chuyên môn vững vàng, trước hết Thẩm phán, Hội thẩm
phải có trình độ cử nhân luật hoặc tương đương trở lên, có kinh nghiệm sống
phong phú, được đào tạo qua các lớp học về kỹ năng nghề nghiệp: kỹ năng hòa
giải, tâm lý tội phạm, tâm lý trẻ vị thành niên...Việc áp dụng hình phạt nói chung
và áp dụng hình phạt tù nói riêng không phải là sự áp đặt máy móc các quy
định của pháp luật mà đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải vận dụng một cách linh
hoạt trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. Ngoài yếu tố năng lực
chuyên môn, người Thẩm phán, hộithẩm nhân dân còn phải đáp ứng được các
yêu cầu về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Đây là yếu tố luôn song hành cùng
với yếu tố năng lực chuyên môn. Chúng bổ sung cho nhau giúp chủ thể áp dụng
hình phạt tù có thời hạn đưa ra được mức hình phạt đúng, đảm bảo cả yêu tố
trừng trị và yếu tố giáo dục, cải tạo đốivới người phạm tội.
Để nâng cao chất lượng của Thẩm phán, Hội thẩm trước hết cần chú
trọng đến quá trình đào tạo, lựa chọn, bổ nhiệm thẩm phán, khuyến khích và
tạo điều kiện về thời gian, vật chất để thẩm phán được học ở bậc cao hơn. Tổ
chức các kỳ thi tuyển chọn thẩm phán một cách nghiêm túc, công bằng. Khi
bầu hội thẩm nhân dân cần ưu tiên lựa chọn những người có trình độ pháp lý
hoặc đã làm công việc liên quan đến pháp luật. Tiếp đó cần phải tổ chức nhiều
đợt tập huấn, bồi dưỡng, các khóa đào tạo ngắn và trung hạn bằng nhiều hình
thức khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức thành các chuyên đề chuyên
sâu, về kỹ năng xét xử, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong công tác xét
xử, hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật... để không ngừng nâng cao năng
lực, trình độ và kinh nghiệm xét xử cho các Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm
phán và Hội thẩm phải thường xuyên đổi mới, tích cực ứng dụng công nghệ
64
thông tin vào việc tra cứu, trao đổi nghiệp vụ cùng đồng nghiệp; sau khi thực
hiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn phải tự đánh giá rút kinh nghiệm và đưa
ra phương hướng khắc phục những điểm còn thiếu sót nếu có, nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác xét xử, bảo đảm thống nhất nhận thức pháp luật
và thống nhất áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án. Không xử
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và đảm bảo pháp luật được tuân thủ
tuyệt đối.
Các Thẩm phán, Hội thẩm cũng phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện,
nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, giữ vững
quan điểm lập trường tư tưởng, bản lĩnh nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm
trong công tác, bảo đảm trong hoạt động xét xử Thẩm phán và Hội thẩm phải
độc lập và tuân theo pháp luật, bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án ngày
càng được nâng cao.
2.2.4. Đảm bảo các yếu tố khách quan thuận lợi cho việc áp dụng
hình phạt tù có thời hạn
Để bảo đảm áp dụng hình phạt tù một cách minh bạch chính xác thì tính
độc lập của toà án cần được đảm bảo. Nhất là đối với các biện pháp áp dụng hình
phạt tù cơ thời hạn, các hội đồng cần phân tính chính xác mức độ hành vi tội
phạm, tránh các tác động từ bên ngoài của các cá nhân và tố chức.. Bộ luật tố
tụng hình sự đã đưa ra nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật đồng thời quy định đường lối xử lý đối khi cá nhân, cơ
quan , tổ chức can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm, theo đó:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử dướibất kỳ hình thức nào
sẽ bị xử kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật tùy thuộc vào tính chất, mức độ hành vi.
Nguyên tắc này tuy không mới, nhưng với thức tiễn xét xử thì vẫn còn có
nhiều vi phạm. Nhiều các tổ chức, cá nhân và các cơ quan nhà nước có mối
quan hệ với nhau đã lợi dụng chi phối, can thiệp vào quá trình xử lí xét xử của
65
hội đồng. Để có thể thực hiện tính minh bạch cũng như công bằng trong công
tác xét xử khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì toà án cần toạ ra cơ chế xử
lí hoạt động tách biệt với sự kiểm tra giám sát của các cơ quan khác.
Ngoài ra các chính sách của các hội thẩm, thẩm phán cũng cần được
đảm bảo đãi ngộ: Cần thực hiện đãi ngộ đáp ứng đủ với các yêu cầu nhiệm vụ
đối với cán bộ toà án và các hội thẩm, vì thực trạng hiện nay chính sách đãi
ngộ đối với các cán bộ vẫn chưa ngang tầm với các nhiệm vụ được giao. Vì
các đặc tính được nêu, cần đổi chính sách bảo hiểm, tiền lương cho phù hợp
với nhiệm vụ cũng như trách nhiệm với đặc thù nghề nghiệp của ngành toà
án. Đối với các cơ sở thiết bị vật chất cũng cần được tu sửa, bảo trì cẩn thận.
Nâng cấp thiết bị cho đội ngũ an ninh để đảm bảo an toàn cho các cán bộ khi
hỗ trợ cũng như thực hiện các nhiệm vụ trong và ngoài toà án.
- Đối với giám đốc việc xét xử cần tăng cường kiểm tra giám sát.
Vào ngày 02/06/2005 Nghị quyết số 49/NQ-TƯ của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: "Từng bước hoàn thiện
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ
kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản
án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng
kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn
đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định" [4]. Qua thực tiễn xét
xử cho thấy, đa số các bản án đã xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, thì vẫn
còn một số bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có
sai sót như: Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với tình tiết
khách quan của vụ án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, áp dụng không
đúng pháp luật, quyết định mức hình phạt không đúng gây thiệt hại đến quyền
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bỏ sót những tình tiết quan
trọng của vụ án dẫn đến giải quyết không đúng bản chất của nội dung vụ án.
Thực hiện chính xác, xử lý công minh, áp dụng hình phạt đúng người
66
đúng tội tuỳ vào mức độ hành vi của người phạm tội chính là tiêu chí của toà
án trong việc xét xử nhằm đảm bảo tính minh bạch cho mọi bản án. Để có thể
nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử cũng như nâng cao chất lượng, cần tăng
cường các công tác giám sát, kiểm tra, điều tra kĩ lưỡng từ những khâu đầu
67
vào hồ sơ để đạt kết quả tốt nhất.
KẾT LUẬN
Tác giả đã thực hiện việc nghiên cứu vấn đề về lý luận và đánh giá thực
tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai, trên cơ sở đó làm rõ những hạn chế, vướng mắc để đưa ra những
yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Sau những lần xem xét, tác giả có những suy nghĩ sau:
1. Hình phạt tù có thời hạn là biện pháp nghiêm khắc của nhà nước áp
dụng đối với người phạm tội. Hình phạt tù có thời hạn không chỉ là biện pháp
cưỡng chế, răn đe và còn có tính giáo dục.
2. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn thể hiện ở việc trên cơ sở hồ sơ
vụ án và kết quả tranh tụng tại Tòa, xác định các tình tiết của vụ án, nhận thức
đầy đủ quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử lựa chọn mức hình phạt
tù có thời hạn để áp dụng đối với người bị kết tội và ra phán quyết trong bản án
kết tội về hình phạt đó.
3. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai đã đạt được những kết quả tốt, vụ án được đưa ra xét xử đạt tỷ
lệ cao, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không kết
án oan người vô tội. Từ những vấn đề khác nhau như một số vướng mắc của
bộ luật hình sự, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật còn những hạn chế nhất
định.... nên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn vẫn còn bất cập, hạn chế: Đó
là những bất cập trong vấn đề xác định các tình tiết, chứng cứ của vụ án; áp
dụng hình phạt khung hình phạt thiếu tính chính xác (như quá nặng hay quá
nhẹ; cho hưởng án treo không đúng…); tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân
thân của bị cáo bị đánh giá thiếu tính chính xác, dẫn đến quyết định áp dụng
khung hình phạt cho hưởng án treo không đúng; Áp dụng hình phạt tù có thời
hạn thiếu tính khách quan, công bằng.
4. Từ những thực tiễn đã có và xem xét các thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đồng
68
Nai, thành phố Biên Hoà thời gian gần đây đã có nhiều kết quả đáng kể. Từ những
thực tiễn đó ta cũng thấy được nhiều bất cập hạn chế cũng như những vướng mắt
trong hệ thống pháp luật hiện nay nhất là đối với hình phạt tù có thời hạn. Để làm
những vướng mắt và hạn chế chở nên hiệu quả, chúng ta cần thay đổi về vai trò
của hình phạt tù, thay đổi về chính sách hình sự, tính nhân đạo của chính sách
hình sự và hoàn thiện các quy định về hình phạt tù có thời hạn, và các tù có thời
hạn nên xây dựng riêng. Đối với người thực hiện pháp luật, cần có những hướng
dẫn bổ xung, hướng dẫn cụ thể để có thể áp dụng hình phạt tù một cách hợp lí và
đúng đắng nhất.
Chính sách hình sự hướng thiện phải được nhận thức một cách đầy đủ,
đúng đắn, phòng ngừa, mục đích hình phạt và vai trò hình phạt tù phải được xác
định là trọng tâm. Dựa trên cơ sở thay đổi về mặt nhận thức, các quy định của
Bộ luật hình sự sẽ ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo đáp ứng được những
yêu cầu của cải cách tư pháp, đồng thời đảm bảo quyền con người theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn có được sự hướng dẫn tận tình. Tuy
nhiên, do khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn nên Luận văn không thể tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Từ bài luận văn, tác giả xin cám ơn các đọc giả đã
xem xét và góp ý, từ đó tác giả có thể hoàn thiện bài viết hơn. Xin chân thành
69
cám ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội.Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghịquyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
4. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số
01/2000/NQ- HĐTP ngày 04/08/2000, hướng dẫn áp dụng một số quy
định trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999.
5. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số
02/2003/NQ- HĐTP ngày 17/4/2003, hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999.
6. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số
04/2004/NQ- HĐTP ngày 05/11/2004, hướng dẫn áp dụng một số quy
định trong phần xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
7. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2015), Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐTP về quy trình công bố, lựa chọn và áp dụng án lệ.
8. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số
05/2017/NQ-HĐTP ngày 19 tháng 07 năm 2017 Ban hành một số biểu
mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Bộ luật tố tụng hình sự;
70
9. Nguyễn Văn Hiện (2002), Nâng cao chất lượng soạn thảo bản án hình
sự một số yêu cầu cấp bách, Tạp chí dân chủ pháp luật, số 04/2002.
10. Hoàng Văn Huyền (2016), “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ.
11. Phạm Hồng Hải (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Đinh Tấn Long (2017): “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”, Luận văn thạc sĩ.
13. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb
Lao động- xã hội, Hà Nội.
14. Võ Hồng Nam (2014), “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ.
15. Cao Thị Oanh, Lê Văn Cảm, Trần Văn Độ, Giáo trình luật hình sự
Việt Nam, NXB Hà Nội, Giáo dục Việt Nam 2013.
16. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013, Hà Nội.
17. Quốc Hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
18. Quốc hội (2014); Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày
24/11/2014, Hà Nội.
19. Quốc Hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
20. Quốc Hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội.
21. Quốc Hội (2015), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.
22. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm,
các tội xâm phạm sở hữu, 2003, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
23. Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2017), Bản án hình sự sơ
thẩm số 12/2017/HSST ngày 23/01/2017.
71
25. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án hình sự sơ
thẩm số 47/2018/HSST ngày 12/08/2018.
26. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án hình sự sơ
thẩm số 46/2018/HSST ngày 07/08/2018.
27. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2017), Bản án hình sự sơ
thẩm số 41/2017/HSST ngày 08/11/2017.
28. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2017), Bản án hình sự sơ
thẩm số 08/2017/HSST ngày 28-03-2017.
29. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2016 - 2020), Báo cáo công
tác năm.
30. TAND tối cao (2017), Văn bản số 155/TANDTC - PC ngày 28 tháng 07
năm 2017 về việc áp dụng thống nhất thể thức và kĩ thuật trình bày các
văn bản tố tụng trong đó có bản án.
31. Nguyễn Đức Tuấn (Chủ biên), Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
32. Chu Thị Thu Trang (2009), “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của
các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam”, Luận án tiến sĩ.
33. Ủy ban thường vụ quốc hội (2012), Pháp lệnh Số: 04/2012/UBTVQH13
ngày 16 tháng 07 năm 2012 của Ủy ban thương vụ quốc hội về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng thì người có công với cách mạng.
34. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
Khoa học xã hội.
35. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb khoa
học xã hội.
36. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về Định tội danh, Nxb Công an
Nhân dân, Hà Nội.
72
37. Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

