VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------

NGUYỄN HỒNG PHÚC

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ

TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------

NGUYỄN HỒNG PHÚC

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ

TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PSG.TS.TRƯƠNG QUANG VINH

Hà Nội, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và kết quả nghiên cứu được là trung thực, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm

về kết quả nghiên cứu.

Tác giả

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN................................................. 7

1.1 Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn ..................... 7

1.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn ..................... 20

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI

HẠN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG

NAI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH

PHẠT NÀY THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ................................ 40

2.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai .............................................................................. 40

2.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn tại

địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................................ 59

KẾT LUẬN .................................................................................................... 68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. ADPL : Áp dụng pháp luật

2. BLHS : Bộ luật Hình sự

3. BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự

4. HĐXX : Hội đồng xét xử

5. TAND : Tòa án nhân dân

6. TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

7. TANDCC : Tòa án nhân dân cấp cao

8. XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý ............................................ 40

Bảng 2.2: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng ................................... 41

Bảng 2.3: Số liệu kết quả xét xử .................................................................. 42

Bảng 2.4: Số liệu các loại tội phạm đã xử lý................................................ 43

Bảng 2.5: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng ................................... 44

Bảng số 2.6: Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn ................................. 47

Bảng số 2.7: Số liệu về nhân thân của bị cáo ............................................... 48

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay nước ta đang trong trong quá trình đổi mới đã có những bước

phát triển cả về nội dung lẫn phương thức thực hiện, nền kinh tế thị trường,

giao lưu hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên,

ở nước ta hiện nay tình hình tội phạm trong đời sống xã hội ngày càng phức

tạp, với số lượng ngày càng gia tăng, hành vi phạm tội ngày càng nguy hiểm

cho xã hội. Qua các năm nhóm tội phạm và trường hợp phạm nhiều tội có dấu

hiệu gia tăng đáng báo động. Để hạn chế, giảm thiểu tình hình tội phạm đang

có dấu hiệu gia tăng, nhà nước ta đã có những giải pháp tuyên truyền giáo

dục, phổ biến pháp luật trong toàn dân. Đặc biệt là đã và đang có những chế

tài xử lý hết sức nghiêm khắc trong đó có hình phạt tù là một biệt pháp xử lý,

mang tính chất răn đe đối với những hành vi vi phạm.

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015,

được sửa đổi bổ sung năm 2017 thì hình phạt tù có thời hạn là một trong số 07

hình phạt chính trong điều luật quy định các hình phạt đối với người phạm tội.

Ta cũng có thể thấy trong quy định tại điều 38 của Bộ Luật Hình sự hiện hành

quy định: “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt”

trong đó thời gian phải chấp hành giam giữ từ 03 tháng tới tối đa là 20 năm.

Như vậy, hình phạt tù có thời hạn là một trong những chế tài có ở hầu

hết tất cả các điều luật trong phần riêng của Bộ Luật Hình sự nhằm thực hiện

việc cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống cộng đồng trong một khoảng

thời gian nhất định. Điều này càng chứng minh hình phạt tù có thời hạn là

một trong các hình phạt thể hiện rõ nhất chính sách nghiêm khắc của Luật

Hình sự và nguyên tắc của Nhà nước, nó tước bỏ quyền tự do của người phạm

tội để đạt được mục đích trừng trị người phạm tội đồng thời ngăn ngừa người

phạm tội tiếp tục phạm tội mới, cũng như giáo dục họ tôn trọng pháp luật,

1

động viên, khuyến khích người phạm tội chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo,

nhanh chóng để trở về hoà nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho

xã hội. Hình phạt tù có thời hạn là nhằm tách người phạm tội ra khỏi cộng

đồng trong một khoảng thời gian nhất định, khi mà hành vi phạm tội của họ

buộc phải tách họ ra khỏi cộng đồng một thời gian để ngăn ngừa tội phạm và

giáo dục người phạm tội pháp luật thì cách vận dụng các quy định của pháp

luật hình sự để áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm

tội của người vi phạm là rất quan trọng.

Thành phố Biên Hòa là một đơn vị hành chính ở phía tây của tỉnh Đồng

Nai, phía bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, phía nam giáp huyện Long Thành, phía

đông giáp huyện Trảng Bom, phía tây giáp thị xã Tân Uyên, thành phố Dĩ An

của tỉnh Bình Dương và thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp lớn của tỉnh Đồng Nai nói riêng

và khu vực Đông Nam Bộ nói chung. Do đó, lưu lượng người nhập cư đến

làm việc tại địa phương cũng như phương tiện qua lại trên các tuyến giao

thông luôn nhộn nhịp nhưng đồng thời gây nên tình trạng phức tạp về an ninh

trật tự, khó khăn trong công tác quản lý địa bàn và đảm bảo an nịnh trật tự.

Thời gian vừa qua, do tác động của suy thoái kinh tế thế giới và dịch

bệnh nên dẫn đến hoạt động của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn gặp khó

khăn, thậm chí bị phá sản dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng. Nhiều đối

tượng xấu lợi dụng tình hình phức tạp và công tác quản lý địa bàn còn sơ hở

để thực hiện hành vi phạm tội dẫn đến nhiều đối tượng phạm tội bị xử lý và

kết án phạt tù. Tuy nhiên, ngoài những kết quả tích cực đã đạt được trên thực

tế thì việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn của hệ thống tòa án hai cấp trên

địa bàn thành phố vẫn còn bộc lộ hạn chế, như: Sự không thống nhất khi xác

định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mối quan hệ nhân

quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm; một số trường hợp áp dụng chưa

đúng các Điều, Khoản của Bộ luật Hình sự; việc áp dụng tình tiết tăng nặng,

2

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chưa phù hợp dẫn đến có trường hợp

xử quá nhẹ hoặc quá nặng hoặc cho hưởng án treo không phù hợp. Từ thực

trạng đó, cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá về thực tiễn áp dụng hình phạt

tù tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để đánh giá những ưu điểm, hạn

chế, khó khăn và nguyên nhân của hạn chế, khó khăn để đưa ra những giải

pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về áp dụng hình phạt tù

có thời hạn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tác giả lựa chọn

đề tài “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu là cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong giai

đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm qua, có nhiều công trình nghiên cứu được công bố có

nội dung liên quan đến đề tài áp dụng hình phạt tù nói chung và áp dụng hình

phạt tù có thời hạn nói riêng đối với người phạm tội trong xét xử các vụ án

hình sự luôn là chủ để quan tâm của nhiều học giả, cá nhận, tổ chức liên quan

đến lĩnh vực này, có thể nêu một số công trình như:

Võ Hồng Nam (2014) “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ.

Hoàng Văn Huyền (2016) “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”, luận văn thạc sĩ.

Đinh Tấn Long (2017) “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”, luận văn thạc sĩ.

Nguyễn Thành Chung (2018) “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, luận văn thạc sĩ.

Nguyễn Thị Hồng Thanh (2020) “ Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối

với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, luận văn thạc sĩ

Các công trình nghiên cứu khoa học, đề tài, luận văn nêu trên là tài liệu

bổ ích đã có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, có giá trị

3

sử dụng trong quá trình nghiên cứu, gợi mở cho tác giả những ý tưởng khoa

học. Tuy nhiên để đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện tưucho đến nay

vẫn chưa có một công trình nghiên cứu độc lập về hoạt động áp dụng hình

phạt tù có thời hạn của một đơn vị hành chính thuộc tỉnh, cụ thể là thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt động áp dụng hình

phạt tù có thời hạn từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sẽ mang tới

những góc nhìn phong phú về vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về áp dụng hình

phạt tù có thời hạn, thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, luận văn đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao

hiệu quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật để tập trung nghiên

cứu bản thân tác giả đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng hình phạt tù: Khái niệm, đặc

điểm, ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn; khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc

áp dụng hình phạt tù có thời hạn; cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt có

thời hạn; quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với một số trường

hợp đặc biệt.

- Khảo sát thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại địa bàn thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến năm 2020. Khẳng định những

ưu điểm, những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và

nguyên nhân của hạn chết, thiếu sót trong áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại

địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó xây dựng các giải

pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt có thời hạn tại địa bàn

4

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu là những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn

liên quan trực tiếp đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp

dụng hình phạt tù có thời hạn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

trong thời gian 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh;

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về pháp luật hình

sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự, hình phạt, quyết định hình phạt và về

đấu tranh phòng và chống tội phạm và bảo vệ quyền con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả đã sử dụng biện pháp biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác –

Lê Nin và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp

phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê; Phương pháp so sánh được áp

dụng chủ yếu ở phần về thực trạng hình phạt tù có thời hạn; phương pháp

phân tích và tổng hợp phương pháp này được vận dụng trong toàn bộ cả hai

chương của đề tài, mục đích phân tích các quy định của pháp luật về hình phạt

tù có thời hạn, qua đó tổng hợp vấn đề; phương pháp logic, phương pháp

khảo sát, thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

5

Đây là công trình nghiên cứu khoa học đề cập tương đối có hệ thống và

toàn diện về áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai, sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về áp dụng

hình phạt tù có thời hạn trong việc thi hành các vụ án hình sự, nâng cao nhận

thức của những người thực hiện các hoạt động tư pháp của cơ quan tiến hành

tố tụng và cơ quan thi hành án. Công trình nghiên cứu khoa học sẽ giúp cho

các công tác xét xử vụ án hình sự trở nên cụ thể hơn trong việc làm rõ nội

dung áp dụng hình phạt tù có thời hạn vào luật cũng như vào thực tiễn.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu có thể được các cơ quan tư pháp,

cơ quan thi hành án các cấp tham khảo để áp dụng đúng hình phạt tù có thời

hạn trong hoạt động tố tụng, thi hành án, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng

pháp luật của các chủ thể có liên quan.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

thạc sỹ được cơ cấu 2 chương gồm:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và giải pháp bảo đảm hình phạt này theo

6

quy định của pháp luật

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ÁP DỤNG

HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

1.1 Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn

1.1.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn

Trong BLHS hiện hành biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà

nước là hình phạt. Có nhiều loại biện pháp cưỡng chế khác nhau như xử phạt

hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về tài sản, xử lý kỷ luật,…nhưng biện

pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất vẫn là hình phạt. Đây là chế tài của pháp

luật Hình sự, được toà án sử dụng đối với người phạm luật như cá nhân hoặc

pháp nhân thương mại.

Ngoài các biện pháp tạo sự công bằng, đảm bảo công lý, giáo dục

người phạm tội,… Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn còn giúp pháp luật

Hình sự xử lý người phạm tội và pháp nhân thương mại một cách cụ thể hơn,

ngăn ngừa các hành vi phạm tội tích cực hơn và phòng, chống tội phạm một

cách hiệu quả hơn.

Trong các loại hình phạt, tù có thời hạn là một hình phạt có tính nghiêm

khắc. Đó là việc buộc người bị kết án phải chịu hình phạt và chấp hành hình

phạt trong một thời hạn nhất định. Người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly

khỏi môi trường xã hội bình thường một khoảng thời gian nhất định, họ phải

lao động cải tạo trong dưới sự quản lý và giám sát của lực lượng cảnh sát. Chế

độ cải tạo cũng như việc chấp hành hình phạt tù có thời hạn được đảm bảo

thực hiện theo Luật thi hành án hình sự và nghị định của Chính phủ quy định.

Trong luật hình sự Việt Nam thì hình phạt tù có thời hạn tuy là biện

pháp cưỡng chế nghiêm khắc là một trong các hình phạt thể hiện rõ nhất

chính sách hình sự và nguyên tắc của Nhà nước đối với người phạm tội,

7

nhưng không mang tính chất trả thù hay hành hạ người bị kết án mà có ý

nghĩa cải tạo giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Trong thời gian

người phạm tội chấp chấp hành hình phạt, nếu họ tiến bộ thì được xét giảm

mức hình phạt hoặc tha tù trước thời hạn. Bộ luật hình sự còn có những quy

định không phải chấp hành hình phạt tù khi đã hết thời hiệu (Điều 60); được

miễn chấp hành hình phạt tù (Điều 62); giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều

63 hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67); tạm đình chỉ chấp hành hình phạt

tù (68); án treo (Điều 65).

Mức quy định của Hình phạt tù có thời hạn có mức cao nhất là 20 năm

và mức thấp nhất là 03 tháng. Thời hạn chấp hành hình phạt tù sẽ trừ đi thời

gian Tạm giữ, tạm giam để ra bản án chính thức. Cứ 01 ngày tạm giam, tạm

giữ bằng 01 ngày tù. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người

lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.”. Có thể nói

đây là hình phạt tước đi quyền tự do của người phạm tội trong khoản thời gian

nhất định. Tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của tội sẽ quy ra mức phạt, đối với 1 tội

tối thiểu là 03 tháng và tối đa là 20 năm. Tổng các hình phạt không được quá

30 năm đối với các trường hợp phạm nhiều tội cộng lại để ra hình phạt chung.

Nhìn chung trên thực tiễn tại toà án nhân dân thì hình phạt tù có thời hạn là

hình phạt được áp dụng phổ biến nhất.

Mức tối thiểu và tối đa đối với hình phạt tù có thời hạn được quy định

trong các điều luật và trong từng khung hình phạt cụ thể không hoàn toàn

giống với mức tối thiểu và tối đa quy định cho loại hình phạt này mà tùy

thuộc và từng tội phạm, từng trường hợp phạm tội cụ thẻ mà nhà làm luạt quy

định mức tối thiểu và tối đa cho phù hợp. Có tội phạm nhà làm luật chỉ quy

định mức tối thiểu là ba tháng và mức tối đa là hai năm, nhưng có tội phạm

phải quy định mức tối thiểu là mười năm và tối đa là hai mươi năm. Nếu

khung hình phạt quy định mức tối thiểu cao hơn ba tháng tù thì khi quyết định

hình phạt Tòa án có thể phạt bị cáo dưới mức tối thiểu của khung hình phạt,

8

nhưng không được thấp hơn ba tháng tù.

Người bị kết án bị Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn, nếu trước

đó họ đã bị tạm giữ hoặc tạm giam, thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ

vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một

ngày tù.

Tóm lại: Hình phạt tù có thời hạn là việc người bị kết án bị tước tự do,

cách ly với xã hội và buộc phải lao động cải tạo trong các cơ sở giam giữ

dưới sự quản lý và giám sát của cơ quan thi hành án trong một thời hạn nhất

định.

1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn

- Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt chính được quy định hầu hết

trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Hình phạt tù có thời hạn được quy định trong

hầu hết tất cả các chế tài đối với cấu thành tội phạm và được áp dụng phổ biến

trong quá trình Tòa án xét xử tội phạm.“Tù có thời hạn là buộc người bị kết

án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định”

được quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Hay có thể nói, hình phạt tù có thời hạn là hình phạt buộc người phạm

tội cách ly khỏi đời sống xã hội và phải cải tạo tại trại giam để có thể thay đổi

nhân cách, lối sống của họ. Hay có thể hiểu một cách ngắn gọn đó là hình

phạt tù có thời hạn là việc hạn chế một số quyền tự do của người phạm tội, bị

giam giữ tại nhà tạm giam, tạm giữ và buột họ phải tách khỏi cộng đồng xã

hội trong một khoảng thời gian nhất định và buộc họ phải chịu nghiêm khắc

cải tạo, thực hiện lao động, học nghề, học văn hóa...theo quy định của pháp

luật. Hình phạt tù có thời hạn chủ yếu làm người phạm tội bị mất đi quyền tự

do, cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội. Đồng thời cũng giáo dục cải tạo nhằm

họ có thể thay đổi nhân cách tốt hơn, có ích cho xã hội.

- Thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn có thời gian tối thiểu và

tối đa, tùy theo tính chất, mức độ hành vi phạm tội.

9

Nếu xem xét ta có thể thấy tại Điều 38 BLHS năm 2015 về hình phạt tù

có thời hạn thì mức định tội đối với người phạm một tội có mức cao nhất là

20 năm và thấp nhất là 03 tháng. Về mỗi cấu thành tội của 1 tội được nêu cụ

thể trong điều 38 “Mức thấp nhất không dưới 03 tháng và mức tối đa là 20

năm”. Vì vậy dù phạm tội chưa đạt hay ít nghiêm trọng thì mức hình phạt

thấp nhất vẫn là 03 tháng, và nếu thuộc trường hợp tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng ngoài khung hình phạt chung thân và tử hình thì toà án có thể phạt lên

tới 20 năm. Còn có trường hợp, người phạm tội có nhiều tội danh của nhiều

bản án và có nhiều tội thì tổng hợp mức hình phạt cũng không được quá 30

năm.

- Mục đích của hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng phạt người phạm

tội về hành vi phạm tội của họ đã thực hiện.

Hình phạt tù có thời hạn là chế tài nghiêm khắc chiếm vị trí quan trọng

trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự. Trong phần các tội phạm, hình

phạt tù có thời hạn là hình phạt được quy định ở tất cả các điều luật trong Bộ

luật Hình sự. Trong thực tế xét xử hình phạt tù có thời hạn được áp dụng phổ

biến và được coi là hình phạt hữu hiệu và nghiêm khắc nhất để đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng trong

trường hợp khi thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi cộng đồng

xã hội trong khoảng thời gian nhất định để ngăn ngừa tội phạm và giáo dục

người phạm tội. Hình phạt không phải là hình phạt tù chính là trường hợp

hình phạt có thể đạt được mục đích mà không cần phải cách ly người phạm

tội ra khỏi cộng đồng. Hình phạt tù có thời hạn được toà án áp dụng khi

khung hình phạt của luật có quy định mà người phạm tội bị kết án có quy định

hình phạt này. Đối với người dưới 18 tuổi, Toà án hạn chế áp dụng hình phạt

tù, chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi xét thấy các biện pháp cảu tạo và

giáo dục không có tính phòng ngừa và ăn đe. Điều này được quy định tịa

khoản 6 điều 91 của BLHS hiện hành. Nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn,

10

người chưa đủ 18 tuổi được hưởng mức hình phạt nhẹ hơn đối với người từ

18 tuổi trở lên. Và hình phạt áp dụng cũng nhẹ hơn và có thời hạn ngắn nhất

cảu khung hình phạt.

1.1.3. Ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn

- Ý nghĩa chính trị - xã hội: Những hành vi không đúng với pháp luật

của cá nhân và người phạm tội, làm nên những tiêu cực trong mặt xã hội. Tạo

nên những tiền đề xấu về môi trường sinh sống cũng như an ninh xã hội

không tốt. Nên việc xét xử các vụ án hình sự đối với hành vi phạm tội nghiêm

trọng, đặc biệt nghiêm trọng đối với các bị can, bị cáo luôn nhận được sự chú

ý quan tâm của xã hội và người dân. Vì vậy việc áp dụng hình phạt tù có thời

hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị - xã hội trong đời sống hiện

nay. Việc áp dụng và vận dụng đúng hình phạt sẽ mang lại sự chấp thuận của

đông đảo người dân, tạo nên sự khách quan trong xã hội của việc đánh giá tội

phạm, đánh giá chính sách hính sự của nhà nược. Điều này tạo niềm tin cho

người dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, sự điều hành, quản lý của

Nhà nước, tăng uy tín của Tòa án, Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam khi thực hiện quyền tư pháp, đồng thời tạo sự ổn định

trong đời sống của nhân dân, người dân yên tâm trong sinh hoạt, lao động. Áp

dụng hình phạt tù có thời hạn đúng còn tác động một cách tích cực tới người

bị kết án, qua đó họ nhận thấy mức hình phạt là phù hợp, tương xứng với tính

chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mình mà sẽ cố

gắng cải tạo để về hòa nhập cuộc sống, sinh sống ổn định và không thực hiện

hành vi phạm tội nữa. Sử dụng pháp luật cần phải công minh và minh bạch,

đối với người phạm tội cần phải xử đúng người đúng tội. Không quá nhẹ cho

người lỗi nặng và không quá nặng cho người lỗi nhẹ, cần áp dụng hình phạt

một cách linh hoạt nhất là áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người

phạm tội. Tạo niềm tin cho nhân dân về tính nghiêm minh của nhà nước trong

việc bảo vệ công lý cũng như tính nghiêm minh của pháp luật hình sự Việt

11

Nam. Tất cả các hành vi xâm hại đến các quan hệ pháp luật được pháp luật

Hình sự bảo vệ của người bị kết án đều được phải chịu các hình phạt tương

xứng. Vì vậy việc nhà nước áp dụng hình phạt tù có thời hạn nghiêm minh

đúng đắn sẽ góp phần bảo vệ công bằng xã hội, tăng cường pháp chế, trật tự

pháp luật và kỷ cương xã hội và pháp chế xã hội Chủ nghĩa.

- Ý nghĩa pháp lý: Mang ý nghĩa thiết thực khi áp dụng hình phạt tù có

thời hạn là ý nghĩa về mặt pháp lý. Tính hợp lý và nghiêm minh của văn bản

pháp luật hính sự thể hiện qua việc áp dụng hình phạt tù một cách hợp lý và

chính xác. Để tìm ra những vấn đề còn thiếu sót và bất cập trong việc áp dụng

hình phạt tù có thời hạn để đưa ra những hướng giải quyết phù hợp trong việc

áp dụng hình phạt tù có thời hạn một cách thống nhất và toàn vẹn trong thực

tiễn. Cần ban hành án lệ hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của

BLHS. Ngoài ra cũng cần xem xét tính hiệu quả của việc áp dụng pháp luật

nói chung và áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng thông qua trình tự thủ

tục tố tụng quy định. Từ đó nhận xét được trình tự thủ tục tố tụng đã đạt được

hiệu quả cao và đáp ứng được nhu cầu Cho thấy được trình tự, thủ tục tố tụng

Hình sự quy định đã hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan có thẩm

quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Chính vì thế trong mỗi giai

đoạn khác nhau sự phát triển của xã hội đều có sự thay đổi, kéo theo sự thay

đổi về kinh tế, văn hóa, pháp luật. Do đó, nhiều quy định của pháp luật không

còn phù hợp với tình hình thực tế của xã hội, trình tự thủ tục cần sửa đổi, bổ

sung để chặt chẽ hơn.

- Ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa: Ngoài mục đích trừng trị người phạm

tội, mục đích của hình phạt tù có thời hạn là răng đe, trừng trị người phạm tội

mà còn là giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp luật, chuẩn mực quy

tắc của cuộc sống đồng thời ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác.

Trường hợp hình phạt tù có thời hạn được áp dụng một cách triệt để minh

bạch và đúng đắn sẽ tạo sự đồng thuận của các cá nhân và tổ chức và toàn xã

12

hội nhận thấy được sự công bằng của pháp luật từ đó tin tưởng vào sự đấu

tranh phòng ngừa tội phạm vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc

điều tra, truy tố và xét xử của nước ta; tạo ra sự đồng thuận để toàn xã hội

tham gia tích cực vào công cuộc phòng chống tội phạm ở nước ta. Qua đó,

cũng là bài học để tất cả người dân nhận thức được và tuyên truyền, giáo dục

pháp luật tới người thân, gia đình, bạn bè, góp phần nâng cao sự hiểu biết

pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật.

1.1.4 Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Có thể coi hình phạt tù có thời hạn là một trong những biện pháp trong

nhiệm vụ đấu tranh và phòng chống tội phạm. Hình phạt này giữ vai trò khá

quan trọng trong việc cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục răn đe.

Hình phạt tù có thời hạn được Toà án áp dụng thông qua hoạt động xét

xử của Toà án và hoạt động xét xử của toà án phải tuân thủ các nguyên tắc đó

là: Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, xét xử tập thể và

quyết định theo đa số…Căn cứ để ra quyết định hình phạt được quy định tại

Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 “Khi quyết định hình phạt Toà án căn

cứ vào quy định của Bộ luật này, căn nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi của tội phạm, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm

nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.

Hoạt động tư duy của hội đồng xét xử được thực hiện sau khi xác định

tội danh đối với hành vi người phạm tội được gọi là áp dụng hình phạt. Nếu

coi cơ sở của việc quyết định hình phạt là định tội danh thì quyết định hình

phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử vụ án hình sự. Để quyết định

hình phạt tù có thời hạn, Hội đồng xét xử phải căn cứ hồ sơ vụ án, kết quả của

quá trình tranh tụng tại phiên toà, xác định các tình tiết của vụ án và nhận

thức đầy đủ quy định của Bộ luật hình sự. Cũng có thể nói áp dụng hình phạt

tù có thời hạn là hoạt động mang tính quyền lực của nhà nước, được thực thi

13

thông qua Hội đồng xét xử là những người được nhà nước trao quyền để xem

xét, đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã được thụ lý và thu thập trong quá trình

điều tra, truy tố, xét xử nhằm xác định sự thật xác thực của vụ án, sau đó lựa

chọn hình phạt sao cho phù hợp nhất với BLHS tương xứng với mức độ nguy

hiểm cho xã hội của tội phạm. Ngoài ra HĐXX còn phải xem xét các tình tiết

tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để ban hành bản án cũng như

quyết định về hình phạt sao cho chính xác nhất.

Những phân tích trên đã cho thấy khái niệm Áp dụng hình phạt tù có

thời hạn có thể định nghĩa như sau: “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn là hoạt

động áp dụng pháp luật hình sự sau quá trình định tội danh, thể hiện ở việc

trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại Toà, xác định các tình tiết của

vụ án, nhận thức đầy đủ quy trình của bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ lựa

chọn mức hình phạt tù có thời hạn để áp dụng đối với người bị kết tối và ra

phán quyết trong bản án kết tội về hình phạt đó.

1.1.5. Đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn

- Có thể coi đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn là một hoạt động

áp dụng pháp luật hình sự dưới 1 hình thức đặc biệt. Được nhà nước trao thẩm

quyền nhân dân nhà nước để áp dụng pháp luật đối với người phạm tội. Vì

vậy các hoạt động của toà án phải tuân thủ nghiêm theo quy định của tố tụng

hình sự từ các bước: Xử lý, thu thập, chứng minh,…cho tới khi xét xử và ra

quyết định. Để có thể áp dụng hình phạt tù một cách hiệu quả cần phải thường

xuyên kiểm tra quá trình hoạt động nhận thức quy định pháp luật hình sự của

người làm luật và các hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước chức

năng nhằm cá biệt hoá các quy định của pháp luật hình sự đối với người phạm

tội. Áp dụng chế tài chính là áp dụng hình phạt tù, chỉ có toà án là cơ quan có

thẩm quyền thực hiện các chế tài hình sự và làm các hoạt động áp dụng pháp

luật hình sự. Áp dụng pháp luật hình phạt tù có thời hạn đối với người có

hành vi vi phạm, toà án cần xem xét từng trường hợp cụ thể, trong những

14

trường hợp đặc biệt như án có đồng phạm, hay phạm nhiều tội, hay phạm tội

nhiều lần,…Toà án còn thể hiện cá biệt hoá trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội thông qua việc xét xử và áp dụng xét xử, áp dụng hình phạt tù. Tiêu

biểu như các trường hợp: áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định, phạm tội chưa

đạt hay chuẩn bị phạm tội,… Trong tất cả các hoạt động áp dụng hình phạt, có

thể coi việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn là một trong những hoạt động

quan trọng nhất và cũng là cơ bản nhất trong việc áp dụng pháp luật. Để nêu

của tinh thần bắt buộc và tối cao của luật, nhà nước đã trao thẩm quyền áp

dụng pháp cho toà án, tiêu biểu là hoạt động áp dụng hình phạt. Việc áp dụng

thể chế hình phạt, nhà nước mang đầy tính tối thượng và ngày càng hoàn

thiện hơn trong hệ thống dân sinh cũng như hệ thống pháp luật.

- Chủ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn là Hội đồng xét xử: Theo

quy định tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 thì “Tòa án nhân dân là

cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện

quyền tư pháp”. Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền duy nhất áp dụng

hình phạt hay không áp dụng hình phạt đối với người bị kết tội. Ngoài Tòa án,

không cơ quan hay cá nhân nào có quyền áp dụng hình phạt đối với cá nhân

hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Toà án được nhà nước trao quyền lực

và có thẩm quyền xét xử, và kết quả của hoạt động xét xử chính là bản án.

Bản án được đút kết từ các quá trình do hội đồng xét xử nhân danh nhà nước

xem xét, tuyên bố, quyết định một cá nhân, một pháp nhân thương mại là vô

tội hay không. Bản án chính là thái độ toà án nhân danh nhà nước đối với

người vi phạm pháp luật.

Đối với vụ án Hình sự được xét xử theo thủ tục rút gọn, phiên toà do

một Thẩm phán tiến hành quy định tại khoản 1 Điều 463 BLTTHS thì Các

bản án, quyết định của Hội đồng xét xử hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực

pháp luật ngay mà sau khi tuyên án một thời gian nhất định và hết thời hạn

kháng cáo, kháng nghị mới có hiệu lực pháp luật.

15

Tại Điều 23 BLTTHS thì Các cơ quan, tổ chức, cá nhân bị pháp luật

nghiêm cấm hành vi can thiệp vào công việc xét xử của toà án và Thẩm phán,

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuỳ vào mức độ, tính chất

hành vi can thiệp sẽ bị xử phạt hành chính hoặc nặng hơn có thể truy cứu theo

pháp luật hình sự.

Trong quá trình xét xử cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân điều ngang quyền với nhau, Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm

đều thảo luận và quyết định theo đa số. Tất cả thành viên trong hội đồng xét

xử sẽ đưa ra ý kiến và thống nhất tất cả ý kiến đó để đưa ra quyết định chung

nhất. Để đưa ra được ý kiến thống nhất, HĐXX không chỉ căn cứ vào tài liệu

hồ sơ chứng cứ, chứng cứ điều tra và chứng cứ do viện kiểm sát thu thập. Mà

Hội đồng còn phải căn cứ vào nhiều quá trình khác như thẩm tra, thẩm vấn,

tranh tụng phiên toà,….để nêu lên ý kiến và biện pháp phù hợp cho hành vi

phạm tội của từng cá nhân. Quyết định của hội đồng xét xử là trọng tâm của

hoạt động tố tụng hình sự trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn vào

thực tiễn.

- Được thực hiện sau khi định tội danh. Hay nói cách khác, các hành vi

nguy hiểm cho xã hội được pháp luật quy định là phạm tội mà các cá nhân

huy tổ chức thực hiện phù hợp với quy định đó của pháp luật và gây nguy

hiểm cho xã hội mà cấu thành nên 1 tội được gọi là định tội danh. Từ các

hành vi phạm tội mà người xử dụng luật sẽ xem xét, xem phù hợp với điều

luật nào mà BLHS quy định. Từ đó áp dụng quá trình định tội danh đó trong

quá trình khởi tố tới khi xét xử giám đốc thẩm. Khi xem xét định tội danh với

tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật thì định tội

danh lại là tiền đề cơ sở của hoạt động. Để làm được điều đó cần có các bước

sau:

Thứ nhất: Xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án đã xảy ra trên thực

16

tế thì người đánh giá phải thực hiện một cách khách quan, toàn diện, vô tư

dựa trên những chứng cứ thu thập được và dựa trên các cơ sở quy định của

BLTTHS.

Thứ hai: Phải nhận thức một cách thống nhất, chính xác nội dung các

quy phạm pháp luật hình sự phán ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm về

tội danh mà chủ thể áp dụng hướng tới lựa chọn. Trong BLHS các dấu hiệu

trong cấu thành tội phạm thì thường chỉ nêu nét khái quát những nét đặc

trưng, phổ biến của hành vi cấu thành tội phạm Do đó, đòi hỏi trong quá trình

áp dụng chủ thể định tội danh phải tư duy, sau sát đánh giá trên căn cứ khoa

học và thực tế để đảm bảo tính thuyết phục;

Thứ ba: Các cấu thành tội phạm và các tình thiết cần phải đối chiếu với

nhau nhằm xác định ra tội danh phù hợp nhất. Người thực hiện pháp luật cần

phải xem xét lựa chọn cụ thể để chọn ra điểm, khoản, điều phù hợp với loại

hành vi mà các đối tượng đã phạm phải.

Thứ tư: Cần phải có cụ thể loại tội danh cũng như hình phạt thích ứng

với tội danh đó. Từ các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, hội đồng xét xử sẽ

đưa ra mức hình phạt phù hợp với tính chất nguy hiểm mà hành vi đó gây ra

cho xã hội. Từ đó đưa ra hình phạt công bằng chính xác nhất đối với hành vi

phạm tội, cũng như đối với người thực hiện hành vi phạm tội đó.

- Hình phạt được áp dụng: Hình phạt tù có thời hạn là sau khi xác định

được tội danh của hành vi vi phạm thì HĐXX dựa trên các tài liệu chứng cứ

có trong hồ sơ, kết quả tranh luận tại phiên tòa để lựa chọn hình phạt áp dụng

đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Hình phạt bổ sung và hình phạt chính là 2

loạt hình phạt được pháp luật hình sự quy định trong đó hình phạt chính bao

gồm: Phạt tiền, bắt buộc giam giữ, Cải tạo tại địa phương không giữ, hình

phạt tù có thời hạn,… được quy định tại điều 32 BLHS. Trong đó hình phạt tù

có thời hạn là hịnh cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội có mức

phạt từ 03 tháng cho tới 20 .

17

- Văn bản áp dụng hình phạt: Nhiều văn bản cũng có nên khái niệm về

không có tội. Hay tại điều 13 BLTTHS có nêu Không có tội cho đến khi có

bản án két tội của Toà án đã có hiêu lực pháp luật. Vậy nếu bản án chưa có

hiệu luật pháp luật thì người đó vẫn chưa phải là phạm tội. Hội đồng xét xử

sau khi xem xét tất cả các tình tiết của vụ án và thống nhất về việc áp dụng

các hình phạt cho bị cáo thì cần phải có Bản án kết tội của Hội đồng xét xử

thể hiện việc Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt cho hành vi của bị cáo gây

ra, đó là bản án ghi nhận đầy đủ quan điểm của những người tham gia tố tụng,

nhận định của Hội đồng xét xử về việc xác định bị cáo có tội, tội gì, theo

điểm, khoản, điều nào của BLHS và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự, mức hình phạt cụ thể được áp dụng. Bản án chính của

HĐXX là văn bản thể hiện rõ tính quyền lực của nhà nước cũng như sự trừng

phạt của nhà nước đối với người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu

hình phạt tù cho hành vi vi phạm mà mình đã thực hiện. Việc viết bản án vào

trước năm 2017, cần xem xét các vấn đề được nêu khái quát trong BLHS, các

nội dung, hướng dẫn do toà án các cấp soạn thảo và tổ chức. Từ năm 2017,

Các buổi tổ chức riêng, các cuộc họp về nâng cao nhân thức, hướng dẫn trong

cách làm bản án theo quy định được toà án nhân dân tối cao tổ chức. Ngày

28/07/2017 ban hành văn bản số 155/TANDTC - PC về kĩ thuật trình bày các

văn bản tố tụng trong đó có bản án và việc áp dụng thống nhất thể thức, Ngày

19/07/2017 Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP đã quy định một số biểu mẫu

cụ thể. Từ các văn bản trên đã làm thống nhất toàn vẹn toà án tư pháp trên

toàn đất nước.

1.1.6. Nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Trong hệ thống hình phạt, hình phạt tù có thời hạn nằm trong hình phạt

chính tại điểm Đ khoản 1 điều 32 của BLHS. Có thể nói hình phạt được ưu

tiên xử dụng và được toà án áp dụng phổ biến cũng chính là hình phạt này. Bộ

luật hình sự năm 2015 có quy định tại điều 38 về nội dung của tù có thời hạn

18

chính là áp dụng xử phạt hay nói cách khác là bắt buộc người phạm tội bị kết

án chấp hành hình phạt tại nơi được chỉ định (cơ sở giam giữ) trong một thời

hạn nhất định. Xem xét kĩ ta có thể thấy biện pháp giam giữ tại cơ sở trại

giam chính là cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội bằng biện pháp

bắt buộc để họ có thể thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Điều chính yếu của

hình phạt tù có thời hạn chính là giúp cho người phạm tội có cơ hội thay đổi,

giáo dục cải tạo để họ có thể thay đổi thành người có giá trị tốt cho xã hội và

đó cũng là giá trị phải trả cho hậu quả của họ gây ra cũng là tính răn đe của

nhà nước dành cho người phạm tội.

Hình phạt tù có thời hạn cũng có thời gian chấp hành riêng của nó, mức tối

thiểu và tối đa được quy định tại điều 38 của BLHS năm 2015 là “ Mức tối đa

là 20 năm và tối thiểu là 03 tháng”. Quy định này nhấn mạnh 1 điều là nếu áp

dụng hình phạt tù có thời hạn thì khi xử người phạm tội và định tội danh thì

mức phạt tù không được thấp hơn 03 tháng và không cao hơn 20 năm. Tuy

nhiên vẫn có trường hợp người phạm tội phạm nhiều tội và tổng hợp hình

hình phạt của các bản án khcas nhau thì tổng hình phạt được cộng lại không

được quá 30 năm.

Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự thì hình phạt chiếm vị trí

quan trọng là hình phạt tù có thời hạn. Nhìn chung về hình phạt này trong

phần tội phạm ta có thể thấy hầu như đều có mặt của hình phạt tù có thời hạn.

Hay nói cách khác hình phạt này rất hữu hiệu và được xử dụng phổ biến trong

các phiên xét xử cũng như trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm.

Nhưng không phải vì vậy mà lúc nào cũng áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Vì hình phạt này chỉ áp dụng đối với trường hợp cần cách ly người phạm tội

ra khỏi đời sống xã hội, hay chỉ áp dụng với các trường hợp tái phạm nhiều

lần nay phạm tội với mức độ nguy hiểm. Còn đối với trường hợp phạm tội

19

nhẹ và lần đầu ta có thể xử dụng biện pháp thay thế không phải hình phạt tù.

1.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn

1.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự

- Quy định về trách nhiệm hình sự:

Người phải chịu trách nhiệm hình sự là người thực hiện các hành vi gây

nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự việt nam quy định cụ thể trong

luật. Hành vi được nhà nước cũng như luật hình sự không cho phép thực hiện

hoặc các vấn đề gây ra đe doạ, gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp

luật bảo vệ đó là trái với nghĩa vụ cũng như trách nhiệm công dân. Thì sẽ phải

chiu trách nhiệm về hành vi mình gây ra đó là chịu hậu quả pháp lí, chế tài

tương ứng do nhà nước quy định.

Các chế tài (hình phạt, biện pháp tư pháp) được nhà nước đề ra trong

BLHS nhằm áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội làm ảnh

hưởng tới cộng đồng. Họ sẽ bị những chế tài theo đúng với những hành vi họ

phạm phải như hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích, cách ly khỏi đời

sống xã hội tạm thời.

Khi có người vi phạm pháp luật, thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho

xã hội thì hậu quả trách nhiệm hình sự sẽ phát sinh để buộc người vi phạm

phải thực hiện những những chế tài mà nhà nước đã đặt ra.

Các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện các quy định

của pháp luật nhằm đưa ra các trách nhiệm hình sự cụ thể cho từng loại tội

phạm.Trách nhiệm hình sự được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải

chịu các chế tài theo pháp luật hình sự quy định là biện pháp cưỡng chế

nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội

phải gánh chịu là trách nhiệm đổi với Nhà nước và xã hội chứ không phải đối

với người, hay tổ chức mà quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi

phạm tội trực tiếp xâm hại và được phản ánh trong bản án hay quyết định có

hiệu lực pháp luật của toà án.

20

- Về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội được quy định trong Bộ

Luật Hình sự 2015 tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Bộ Luật Hình sự 2015 như sau:

Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, những người không có ý định hợp

tác, lợi dụng quyền hạn, mưu đồ trục lợi cần được nghiêm trị

Tất cả những người trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng trước pháp

luật mà nhà nước đề ra.

Phạt nặng những người dùng thủ đoạn, có tính chất chuyên nghiệp, có

tổ chức phải chịu hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Khoan hồng đối với người lập công chuộc tội, đầu thú, thành khẩn khai

báo, tự nguyễn chữa chữa bồi thường thiệt hại gây ra, có hành vi tố giác đồng

phạm.

Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình

phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám

sát, giáo dục;

Những người bị phạm tội, nhất là hình phạt tù nếu chấp hành đúng các

kỉ cương ở nơi giam giữ, hoàn thiện tốt các công việc được giao, cải tạo tốt

thì có thể xem xét giảm thời gian chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn.

Khi hoàn tất việc chấp hành hình phạt, người hoàn lương được nhà

nước tạo điều kiện học nghề, tạo điều kiện có việc làm, làm ăn để hoà nhập

với xã hội, khi cống hiến đủ yêu cầu cho đất nước thì án tích sẽ được xoá.

Như vậy, các quy định Bộ luật hình sự về nguyên tắc xử lý đối với tội

phạm thể hiện chính sách hình sự vừa kiên quyết nghiêm minh, vừa khoan

hồng nhân đạo của Nhà nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm,

trong đó:

+ Bất cứ hành vi phạm tội gây trái pháp luật đều được phát giác kịp

thời, thực hiện công tác xử lí nhanh, công bằng công minh theo luật pháp Việt

Nam. Nguyên tắc này thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc xử

lý đối với mọi hành vi xâm phạm các lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ.

21

Nó đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩ quyền, các tổ chức và mọi công dân

có nhiệm vụ phải kịp thời phát hiện, tố giác hành vi phạm tội với cơ quan có

thẩm quyền; các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện kịp thời,

bảo đảm không chỉ xử lý đúng người, đúng tội mà cũn không được làm oan

người vô tội; không một hành vi phạm tội nào xảy ra mà không bị phát hiện

và bị xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật hình sự; hình phạt mà Tòa án

áp dụng đối với người phạm tội phải phù hợp với các quy định của Bộ luật

hình sự.

+ Không phân biệt tôn giáo, giới tính, tính ngưỡng, dân tộc, địa vị xã

hội,… mọi người đều bình đẳng trước pháp luật khi có hành vi phạm tội.

Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ và công bằng của luật hình sự Việt Nam

nhằm tôn trọng và bảo vệ các quyền dân chủ của công dân trong mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội; quyền lợi của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ

như nhau, không phân biệt nòi giống, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,

thành phần, địa vị xã hội, tình trạng tài sản,… của công dân đó.

+ Luật pháp Việt Nam không nhượng bộ với hành vi sai trái, kiên quyết

đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nhất là đối với những tội phạm chống phá

nhà nước, những người có chức vụ gây nhũng nhiễu tham ô, những côn đồ

ngang ngược gây nguy hiểm an ninh xã hội, những tội phạm phạm tội nhiều

lần và có tính chuyên nghiệp cao. Mặt khác, nó cũng thể hiện tính nhân đạo,

sự khoan hồng và phân hóa tội phạm của Nhà nước trong xử lý tội phạm, tạo

cơ hội để người phạm tội sớm trở thành người có ích cho xã hội, tái hoà nhập

với cộng đồng, cụ thể:

+ Giảm nhẹ hình phạt đối với những người biết ăn năn hối cãi, những

người thành khẩn khai báo, hỗ trợ cho công tác điều tra, đoái công chuộc

tội.gia cảnh tốt lần đâu phạm tội.

+ Với những người có sự đóng góp cho đất nước, có sự ăn năn hối cải

hay gia đình có công cách mạng, lần đầu phạm tội thì có thể áp dụng hình

22

phạt nhẹ hơn mức hình phạt hiện hữu.

+ Hình phạt tù có thười hạn buộc người phạm tội phải chấp hành biện

pháp cưỡng chế tại cơ sở giam giữ. Khi chấp hành hình phạt, người phạm tội

có thành tích cải tạo tốt sẽ được xem xét giảm việc chấp hành hình phạt.

+ Đối với người đã hoàn thành việc cải tạo sẽ được tạo điều kiện để

quay về cuộc sống xã hội, khi đủ các yếu tố do luật định sẽ được xoá án tích.

- Quy định về hình phạt tù có thời hạn

Hình phạt tù có thời hạn tại điều 38 trong BLHS 2015 là:

Buộc người bị kết án chấp hành hình phạt, hình phạt được quy định từ 03

tháng cho tới 20 năm. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời gian tù theo luật định.

Không áp dụng hình phạt này đối với người có nơi cư trú rõ ràng và lần đầu phạm

tội.

Hình phạt tù này sẽ làm cho người bị kết án buộc phải cách ly khỏi nơi

mình đang sống và phải vào nơi cải tạo một khoản thời gian tương ứng với

thời gian chịu hình phạt.

Nếu so với hình phạt tù không giam, thì hình phạt có thời hạn có yếu tố

răn đe cao hơn, nghiêm minh hơn. Việc cải tạo không giam chỉ tác động tới

người bị kết án, tạo tác động tới tinh thần chứ không cách ly họ ra xã hội

nhưng đối với người bị tù có thời hạn thì họ đã bị cách ly ra khỏi môi trường

mình đang ở. Điều này ảnh hưởng tới tâm lí cũng như các vấn đề hoạt động

bình thường của họ, họ sẽ bị tác động chi phối khiến họ phải tuân thủ các quy

định tại nơi giam giữ, đồng thời bị cải tạo để trở thành người công dân có ích

cho xã hội.

Theo Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định thì, mức tối thiểu của tù có thời

hạn là ba tháng và mức tối đa là hai mươi năm. Khoảng cách của khung hình

phạt tù có thòi hạn được quy định cho mỗi loại tội phạm trong phần các tội

phạm của Bộ luật Hình sự không được vượt ra ngoài các giối hạn tối đa và tối

thiểu nêu trên.

23

Trong pháp luật hình sự Việt Nam, biện pháp mang đầy đủ tính chất

cưỡng chế và nghiêm khắc nhưng lại không thiếu yếu tố nhân đạo giáo dục

người phạm tội. Đồng thời có đầy đủ yếu tố phòng, chống tội phạm một cách

hiệu quả thiết thực nhất. Thì đó chính là hình phạt tù có thời hạn.

Tóm lại, các quy định của Bộ luật Hình sự đã nêu rất rõ về căn cứ,

nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Các quy định đó là cơ sở pháp lý

cho thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn cho tòa án các cấp trong quá

trình xét xử tội phạm.

1.2.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi phạm tội

Định nghĩa của vấn đề tội phạm, là cá nhân có phạm phải một vấn đề

mà pháp luật nghiêm cấm gây nguy hiểm cho xã hội dẫn đến có tội người ta là

tội phạm. Đặc điểm cơ bản của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội, là sự

khách quan nêu lên quan điểm của xã hội đối với cách mức độ hành vi của

từng loại tội phạm. Nói cách khác, tội phạm phạm tội vì nó gây nên hành vi

mà pháp luật không cho phép, hay hành vi đó gây nguy hiểm cho mọi người,

cho xã hội. Hành vi, mức độ nguy hiểm của người phạm tội được đánh giá

tổng quan qua các tình tiết khác nhau như tính chất, mục đích, động cơ của

hành vi,…nhiều yếu tố khác tạo nên các yếu tố cấu thành.

Theo điều 134 có nêu về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ

người khác thì mức phạt cao nhất là 20 năm tù hoặc chung thân. Còn theo

điều 123 BLHS thì tội giết người thì khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù

hoặc chung thân tử hình. Sự giống nhau là mức độ năm tù từ 12 đến 20 năm

chung thân và tử hình. Điểm khác biệt ở đây là mức độ hành vi của 2 loại tội

gây ra là khác nhau. Nên trong quá trình thực hiện đưa ra quyết định hình

phạt, Toà án phải xem xét cụ thể các tình tiết chứng minh tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của từng loạt hành vi để đưa ra mức hình phạt phù hợp

24

nhất.

Cách viết bản án hướng dẫn thì phần dẫn dắt căn cứ lập luận về áp

dụng hình phạt có nêu trong phần “nhận định của toà án”. Cần phải xem xét

tổng thể các tình tiết mà ở đó tội phạm đã thực hiện để dưa ra tính chất và

mức độ hành vi của tội phạm đã gây nguy hiểm cho xã hội. Các tình tiết tuỳ

vào trường hợp mà khác nhau như: Hoàn cảnh, thời gian, hậu quả, địa điểm,

phương tiện, công cụ mà nhà làm luật quy định, phương pháp. Đây là nhưng

dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Việc quyết định hình phạt nặng hay

nhẹ tuỳ thuộc vào các tình tiết nói trên có ảnh hưởng ở mức độ nào đối với xã

hội. Hay trong trường hợp các tình tiết trên lại không phải là những dấu hiệu

bắt buộc do nhà làm luật quy định thì các dấu hiệu đó chỉ có ý nghĩa trong

việc quyết định hình phạt nhưng lại không có ý nghĩa trong việc định tội

danh. Vì vậy trong tất cả các trường hợp, cần cân nhắc và xác định các tình

tiết một cách đầy đủ có căn cứ cho việc định tội danh quyết định hình phạt.

Một trong các yếu tố khác gây ảnh hưởng tới quyết định hình phạt đó là tính

chất hậu quả mà bị cáo gây ra.

Các hậu quả không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu

thành tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quyết định hình phạt

bao gồm cả những thiệt hại về vật chất lẫn những thiệt hại về các mặt khác

cũng như ảnh hưởng đến mức độ nghiêm khắc quyết định của hình phạt. Do

đó, để xác định tính chất, mức độ hành vi gây nguy hiểm của tội phạm được

thực hiện cần xác định các loại và mức độ của lỗi người phạm tội khi thực

hiện hành vi vi phạm. Trong BLHS các chế tài khác nhau được quy định độc

lập cho các lỗi cố ý và vô ý. Các lỗi cố ý sẽ có mức độ hành vi gây nguy hiểm

cho xã hội cao hơn so với các lỗi vô ý. Nên trong trường hợp này hình phạt

thực hiện lỗi cố ý sẽ nặng hơn và áp dụng nghiêm khắc hơn so với lỗi vô ý.

Vì trong cùng trường hợp thực hiện 1 lỗi, thì tính chất mức độ nguy hiểm của

lỗi vô ý sẽ nhẹ hơn, nên cần xác định cụ thể lỗi là vô ý hay cố ý để xác định

25

chính xác mức độ phạm tội của từng đối tượng.

Ngoài ra, còn phải xác định và cân nhắc mức độ lỗi của bị cáo trong

những trường hợp phạm tội cụ thể, trường hợp có thể trong cùng một loại lỗi

nhưng mức độ thể hiện hành vi thái độ của nó cũng khác nhau, nên có ảnh

hưởng khác nhau đến việc quyết định hình phạt. Lỗi của chủ thể càng lớnn thì

mức độ gây nguy hiểm cho xã hội càng cao, nên mức độ hình phạt càng phải

nghiêm khắc hơn. Đấy là mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng

hành vi mà tội phạm đã thực hiện để nêu lên các mối quan hệ trực tiếp và gián

tiếp giữa các mối quan hệ đó đối với hình phạt. Mức hình phạt được quyết

định sau khi tổng hợp đầy đủ các yếu tố tăng nặng và giảm nhẹ trong BLHS,

thì các tình tiết sẽ được xét tuỳ theo động cơ, lỗi và mục đích của hành vi vi

phạm đó. Nhiệm vụ của HĐXX là cần phải làm sáng tỏ mục đích, động cơ

của hành vi vi phạm đã thực hiện vì xét đến cùng chúng quyết định hình phạt.

Tuỳ vào mức độ mà mục đích và động cơ của tội phạm đối với xã hội mà mức

độ tăng nặng và giảm nhẹ của hình phạt sẽ khác nhau. VD: Lê Văn Luyện gây

nên căm phẫn cho xã hội nên hình phạt sẽ nặng hơn. Trong cuộc sống và qua

thực tiễn xét xử, người thực hiện hành vi phạm tội bởi những động cơ, mục

đích khác nhau yêu cầu đối với Tòa án là phải xác định rõ ràng động cơ, mục

đích của người thực hiện hành vi phạm tội và phải nhận định rõ trong bản án.

Đối với việc quyết định hình phạt, những căn cứ xác định tính chất, hành vi mức

độ nguy hiểm của tội phạm là có ý nghĩa rất quan trọng. Mức độ nguy hiểm, tính

chất hành vi sẽ được xem xét một cách khách quan và độc lập để có thể đánh giá

chi tiết các tình tiết của vụ án. Từ đó quyết định các hình phạt cho phù hợp đảm

bảo tính nghiêm minh cũng như tính khách quan của nhà nước.

1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội

Vào năm 1999 tại khoản 1 Điều 8 BLHS có nêu về định nghĩa của tội

phạm như sau: người có hành vi cố ý hoặc vô ý có năng lực trách nhiệm hình

sự gây nguy hiểm cho xã hội thì gọi là tội phạm. Ngoài ra, chúng ta còn phải

26

xem xét tới yếu tố nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội, hay nôm

na là gia đình hay những người thân người phạm tội. Sau này bộ luật hình sự

có sự thay đổi vào năm 2015 về tội phạm là có sự ra đời của pháp nhân

thương mại vào tội. Khi xem các yếu tố đối với hình phạt của pháp nhân

thương mại theo điều 83 BLHS năm 2015 lại không thể đưa nhân thân để lam

căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình phạt mà chỉ xét về yếu tố, hành vi, mức độ

nguy hiểm để định tội danh. Ngoài các yếu tố nhân thân là người thân, gia

đình ta còn nhận xét về các định nghĩa nhân thân khác như: “ Tuổi tác, trình

độ học thức, môi trường và hoàn cảnh gia đình khi đang sống,…” . Hay ta có

thể xem xét các đặc tính của nhân thân theo các yếu tố môi trường xã hội, tính

cách cá biệt của đối tượng, hay các đặc tính tác động,… Trước khi kết tội và

đưa ra quyết định hình phạt, HĐXX cần phải xem xét tổng thể tất cả các yếu

tố từ tính cách, hành vi, môi trường, mức độ nguy hiểm,…làm cơ sở đo đạt

đánh giá hành vi phạm tội để đưa ra chế tài phù hợp nhất. Các điều được quy

định trong BLHS 2015 về đặc tính đó thuộc điều 51 và 52. Ngoài ra còn có

một số luật cho phép HĐXX có ý chí riêng trog công tác quyết định chế tài

trong từng vụ án khác nhau. Để quyết định hình phạt, các yếu tố đặc điểm

nhân thân tác động ở ba góc độ khác nhau như sau:

Thứ nhất: Đây là yếu tố tác động tới tính chất cũng như mức độ mà tội

phạm có thể gây nguy hiểm cho xã hội hay có thể tái lại hay không,….

Thứ hai: Khi áp dụng hình phạt, người có yếu tố nhân thân tốt có khả

năng cải tạo và giáo dục hiệu quả đạt kết quả cao hay các thành phần chưa

thành niên,…

Thứ 3: Đây cũng là biện pháp nhân đạo của nhà nước dàn cho những

người có lối sống tốt hay đối với gia đình nhân thân của người phạm tội.

Nhằm khuyến khích người dân có lối sống lành mạnh hơn.

Việc làm xác định nhân thân đã làm nên các yếu tố hoàn thiện của luật

hình sự, đồng thời nêu lên yếu tố nhân đạo của nhà nước trong cách quản lí

27

những người công dân tốt, tạo điều kiện để họ có thể sửa sai và làm lại từ đầu.

Những yếu tố được coi trọng trong yếu tố nhân thân bao gồm: “ các lối sống

chuẩn mực, các yếu tố đạo đức giá trị của từng thành viên trong gia đình, cách

giao tiêos với xã hội, tính kỉ luật, lối sống tập thể, tinh thần hi sinh bảo vệ lẽ

phải bảo vệ đất nước,…Ta cũng có thể thấy, mỗi vụ án khác nhau sẽ có những

nhân thân người phạm cũng có những tính cách khác nhau. Vì vậy ngoài các

bằng chứng cũng như chứng cứ trong hồ sơ, HĐXX còn phải xem xét yếu tố

nhân thân để làm rõ các mặt xấu, tiêu cực cũng như các mặt tốt để làm yếu tố

tiền đề trong công cuộc xét xử. Các yếu tố trên cho ta thấy tính nhân đạo cao

trong yếu tố làm luật của nhà nước cũng như tạo điều kiện sửa sai cho những

người, gia đình, người thân hay chính phạm nhân có lối sống lành mạnh và tốt

đẹp. Người lần đầu phạm tội cũng sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình phạt,

đây có lẽ là yếu tố cơ bản mà nhà nước muốn nhắm tới để thúc đẩy người dân

có lối sông lành mạnh hơn.

1.2.4. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự

Pháp luật tuy có tính nghiêm minh nhưng cũng có tính nhân đạo. Nhà

nước luôn có các biện pháp nhân đạo đó là giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của

người phạm tội. Về nhân thân người phạm tội, nếu nhân thân tốt có thể làm

toà án căn nhắc trong quá trình lựa chọn hình phạt.

Ngoài các tình tiết giảm nhẹ cũng có các tình tiết tăng nặng. Các tình

tiết này được quy định trong BLHS với các tội cụ thể để mang tính trừng trị

và răn đe cao đối với người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết làm

tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại các Điều 51 và 52

BLHS năm 2015.

Khác với tính nhân đạo trong tình tiết giảm nhẹ, thì nhà nước lại nêu

lên tính nghiêm khắc, công bằng răn đe cao trong các tình tiết tăng nặng được

quy định tại BLHS năm 1999 và được sửa đổi bổ sung 2015. Nhưng tại điều

51 của bộ luật hình sự vẫn có tính nhân đạo khi coi biện pháp tự thú, đầu thú

28

là biện pháp giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên toà án phải đánh giá căn nhắc đưa

ra các biện pháp để áp dụng các tình tiết một cách hợp lí đúng người đúng tội

đúng quy định.

Các biện pháp tăng nặng và giảm nhẹ chính là tính công bằng và

nghiêm minh của nhà nước, hay thưởng tội phạt. Tuy nhiên các tội cũng được

nhà nước thể hiện qua tính nhân đạo, nếu trong một vụ án có nhiều tình tiết

giảm nhẹ thì có thể xử dưới khung hình phạt. Hay nếu có nhiều tình tiết giảm

nhẹ có cơ hội đổi sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn.

Các yếu tố tăng nặng và giảm nhẹ trong hình phạt tạo nên áp lực trong

vai trò xét xử của toà án. Để tạo nên tính công bằng minh bạch trong các đánh

giá định tội và định ra loại hình phạt, toà án, HĐXX cần phải xem xét nhiều

yếu tố khía cạnh khác nhau để đưa ra kết quả hợp lí. Ngoài ra các cơ quan có

thẩm quyền trọng việc xem xét đánh giá hỗ trợ tu pháp cũng cần phải đánh

giá toàn diện tổng thể các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ. Đây chính là biện

pháp hợp lí trong công tác định tội danh cũng như nên lên tính khách quan

minh bạch của pháp luật trong quá trình áp dụng luật vào thực tiễn.

1.2.5. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong một số trường hợp

đặc biệt

Quyết định hình phạt tù có thời hạn dưới mức thấp nhất của khung

hình phạt được áp dụng

Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội

Với mục đích cao nhất là giáo dục, khoan hồng đối với người dưới 18

tuổi phạm tội nên khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phải

dựa cơ sở tổng hòa các quy định tại Chương XII về những quy định đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội và các quy định khác của Bộ luật hình sự để đảm

bảo nguyên tắc có lợi nhất. Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thông

thường thì khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, Tòa án chuyển sang

29

khung hình phạt nhẹ hơn hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn

sau đó quyết định mức hình phạt ở khung hình phạt được áp dụng theo đúng

quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi tại Chương XII

BLHS.

- Lưu ý số nội dung khác khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định

Thứ nhất, khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định nếu xác định

người bị kết án về điều luật có nhiều khung hình phạt nhưng không phải là

khung hình phạt nhẹ nhất mà khi đánh giá toàn diện vụ án cho thấy không thể

tuyên hình phạt khác ngoài hình phạt tù nhưng cũng không nhất thiết bắt

người bị kết án phải chấp hành án phạt tù thì Tòa án có thể quyết định cho họ

được hưởng án treo. Tuy nhiên, trường hợp này Tòa án cần phải cân nhắc một

cách thận trọng, kỹ lưỡng và phải đảm bảo 05 điều kiện để người bị kết án

phạt tù được hưởng án treo theo Điều 2 và 06 trường hợp không cho hưởng án

treo của Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP, ngoài ra cũng cần hạn chế

cho hưởng án treo đối với người bị kết án mà dư luận lên án, quan tâm như

các tội liên quan đến sức khỏe, tính mạng của trẻ em, các tội phạm về chức

vụ, tham nhũng, các tội phạm liên quan đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh,

thương mại.

Thứ hai, Không phải lúc nào cũng quyết định hình phạt nhẹ hơn mức

hình phạt mà blhs quy định. Nó chỉ có tác dụng đối với hình phạt chính, còn

đối với hình phạt bổ sung thì ko được áp dụng hình phạt nhẹ hơn vì không có

nhiều khung hình phạt, không có quy định về chuyển sang hình phạt khác nhẹ

hơn và không có khung hình phạt nhẹ nhất.

Thứ ba, trường hợp người bị kết án vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có

tình tiết tăng nặng thì khi quyết định hình phạt, Tòa án phải đánh giá khách

quan, toàn diện ý nghĩa của từng tình tiết và nhất là không được nghiêng về

tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng.

Thứ tư, Có những trường hợp mà người phạm tội có thể miễn hình phạt

30

đó là khoan hồng đặc biệt quy định tạin điều 59 BLHS nhưng vẫn chưa được

miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên do đây là quy định mới mang tính chất

mở nên cũng rất cần Liên ngành Tư pháp Trung ương có văn bản hướng dẫn

chi tiết để Tòa án các cấp áp dụng pháp luật thống nhất, có hiệu quả, đảm bảo

tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật hình sự đối với người bị kết án.

1.2.6. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm

nhiều tội

Tại điều 55, BLHS năm 2015 có quy định đối với trường hợp tội phạm

đã phạm tội nhưng lại phạm thêm nhiều tội tội thì:

“Đối với hình phạt chính:

Các hình phạt đã tuyên trước đó sẽ được cộng lại với nhau để tạo nên

hình phạt tương ứng với hành vi tội phạm. Vd: đã tuyên tù có thời hạn khung

hình phạt số 1 hai lần, thì sẽ cộng lại để ra hình phạt chung nhất nhưng ko

được vượt quá 30 năm nếu tù có thời hạn và 03 năm với cải tạo không giam.

Ngoài ra còn trường hợp đang được cải tạo không giam giữ, mà đã

thực hiện bản án được nửa năm thì ta có thể tính như sau: ta có thể đổi ra tỷ

lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam bằng 1 ngày tù. Từ đó ta có thể tổng hợp

hình phạt thành hình phạt chung theo pháp luật.

Nếu hình phạt đã là hình phạt nặng, thì sẽ cộng lại để tăng lên nặng

hơn còn nặng nhất thì vẫn là nặng nhất. Vd chung thân, tử hình.

Không tổng hợp các hình phạt khác với phạt tiền; các khoản tiền phạt

được cộng lại thành hình phạt chung;

Trường hợp thuộc về trục xuất thì không cộng vào các tội khác.

Đối với hình phạt bổ sung:

Hình phạt bổ sung nếu áp dụng vào các hình phạt đã tuyên thì các hình

phạt cùng loại sẽ được giới hạn do tính quy định của bộ luật đối với hình phạt

này. Hình phạt sẽ được cộng để tạo thành hình phạt chung nếu cả 2 đều là

hình phạt tiền.

31

Không chỉ có cùng loại, người bị kết án phải chấp nhận tất cả các hình

phạt đã tuyên nếu các hình phạt đó khác loại nhau.

Như vậy, quy định tại Điều 55 là quy định về quyết định hình phạt

trong trường hợp người phạm tội phạm nhiều lần và xét xử cùng 01 lần, nghĩa

là chỉ có 1 Bản án và 1 mức hình phạt chung duy nhất trong trường hợp này.

Điều luật này được thiết kế rất rõ ràng, dễ hiểu đó là lý do vì sao nó kế thừa

hoàn toàn quy định cũ tại Điều 50 BLHS 1999 mà không có bất kỳ sửa đổi,

bổ sung nào. Chiếu theo quy định cho thấy việc quyết định hình phạt trong

trường hợp phạm nhiều tội không hề khác với việc quyết định hình phạt khi

phạm một tội, nghĩa là Tòa án sẽ căn cứ vào cáo trạng của Viện Kiểm sát, lời

bào chữa của bị cáo, luật sư, các chứng cứ cũng như nhân thân người phạm

tội v.v…để quyết định hình phạt. Điểm khác biệt duy nhất là chỗ tổng hợp

hình phạt sau cùng để ra một mức án chung. Như vậy trong trường hợp xét xử

người phạm tội phạm nhiều tội sẽ có 2 bước rất rõ ràng (và cũng được nêu rõ

trong Bản án).

Bước 1: Xét xử từng tội phạm cụ thể và quyết định hình phạt cho từng

tội

Bước 2: Tổng hợp các hình phạt của từng tội để cho ra một hình phạt

chung sau cùng.

Bước 1 như tác giả đã nói nó hoàn toàn giống với quyết định hình phạt

đối với một tội nên không có gì để bàn thêm. Riêng bước 2 sẽ có một vài lưu

ý nhỏ:

Một là: Tổng hợp hình phạt chia theo hình phạt chính và hình phạt bổ

sung (sẽ có cách cách tổng hợp khác nhau)

Hai là: Đối với hình phạt chính có 2 kiểu tổng hợp:

Kiểu 1: Tổng hợp theo phương pháp cộng dồn nhưng không được quá

03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù

có thời hạn. Ví dụ: A phạm tội trộm cắp bị tuyên phạt 05 năm tù, phạm tội

32

cướp phạt 20 năm tù; phạm tội cướp giật 10 năm tù thì tổng hợp hình phạt của

A = 05 + 20 + 10 = 35 năm nhưng đã vượt quá giới hạn 30 năm nên sẽ lấy

mức 30 năm tù.

Kiểu 2: Tổng hợp theo phương pháp thu hút (hình phạt cao nhất sẽ thu

hút các hình phạt còn lại), kiểu này chỉ áp dụng nếu trong những tội phạm

phải có ít nhất 1 tội bị tuyên án chung thân, tử hình. Nếu mức án nặng nhất là

chung thân thì sẽ quyết định hình phạt cuối cùng sẽ là chung thân và tương tự

đối với mức án tử hình. Ví dụ: A Bị tuyên 10 năm về tội cướp giật, 20 năm về

tội cướp và tử hình về tội giết người thì tổng hợp hình phạt sau cùng là sẽ là

tử hình.

Riêng hình phạt tiền và trục xuất là 02 hình phạt khá đặc biệt, nó có thể

được áp dụng là hình phạt chính và cũng có thể áp dụng là hình phạt bổ sung

và sẽ không được tổng hợp với các hình phạt khác, riêng hình thức phạt tiền

các khoản tiền phạt sẽ được cộng lại thành mức phạt chung (theo phương

pháp cộng dồn mà không giới hạn mức tối đa).

Ba là 3: Tổng hợp đối với hình phạt bổ sung có 3 kiểu:

Kiểu 1: Cộng dồn nhưng có giới hạn mức tối đa đối với các hình phạt

bổ sung cùng loại và mức giới hạn sẽ theo quy định đối với từng loại đó. Ví

dụ: A phạm tội 1 bị áp dụng hình phạt bổ sung là Quản chế với thời hạn 03

năm; tội 2 bị áp dụng hình phạt Quản chế với thời hạn 04 năm. Tổng hợp hình

phạt = 03 + 04 = 07 năm nhưng mức hình phạt bổ sung tối đa đối với Quản

chế là 05 năm (Điều 43) nên mức phạt cuối cùng sẽ là 05 năm.

Kiểu 2: Cộng dồn nhưng không giới hạn mức tối đa. Kiểu tổng hợp này

chỉ áp dụng duy nhất đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Ví dụ: Với

tội 1 A bị phạt tiền 500 triệu đồng, tội 2 là 300 triệu đồng, tội 3 là 200 triệu

đồng, tổng hợp hình phạt sau cùng sẽ là 1 tỷ đồng.

Kiểu 3: Hỗn hợp tất cả các hình phạt. Kiểu này áp dụng khi các hình

phạt bổ sung đã tuyên là khác loại. Khi đó người bị kết án phải chấp hành tất

33

cả các hình phạt đã được tuyên đó. Ví dụ: A phạm tội 1 bị áp dụng biện pháp

cấm cư trú, phạm tội 2 bị áp dụng hình phạt tước một số quyền công dân,

phạm tội 3 bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản. Tổng hợp sau cùng A phải

thực hiện cả 3 hình phạt bổ sung trên.

1.2.7. Tổng hợp hình phạt tù có thời hạn của nhiều bản án

Trong trường hợp một người có nhiều bản án kết tội thì theo Điều 56

BLHS hình phạt chung được tổng hợp như sau:

- Đối với tội phạm đang bị xét xử nhưng trước đó phải chấp hành một

bản án khác thì toà án sẽ đưa ra quyết định với tội đang xét xử. Từ đó cộng 2

tội để tạo ra một bản án chung nhất đối với hình phạt chung. Hình phạt của tất

cả các bản án từ bản án trước đó chưa chấp hành hết được cộng với bản án

hiện hành sẽ ra hình phạt chung được nêu tại điều 55 BLHS. Thời gian thực

hiện hình phạt sẽ được toà án tổng hợp khi tính tổng toàn bộ thời gian đã trừ

ra khi chấp hành hình phạt cũ công với hình phạt mới để ra hình phạt chung.

- Quyết định hình phạt chung là một người phạm một tội mới mà còn

phải chấp hành hình phạt cũ, Toà án tổng hợp quyết định hình phạt đối với tội

mới đối với bản án trước và đưa ra hình phạt tổng hợp là quyết định hình phạt

chung. Hình phạt chung được quyết định theo quy định tại Điều 55 BLHS.

- Theo quy định ở khoản 1 và 2 Điều 56 BLHS thì Chánh án Tòa án

phải ra quyết định tổng hợp các hình phạt của các bản án khi một người tội

phạm phải chấp hành hình phạt gồm nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà

các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp.

1.2.8. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp chuẩn bị

phạm tội, phạm tội chưa đạt

Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

được quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

“Điều luật này đưa ra hình phạt đối với các hành vi phạm tội chưa đạt

và chuẩn bị phạm tội. Đối với các tội phạm có tội tương ứng tuỳ theo tính

34

chất, gây nguy hiểm cho xã hội, hay các tình tiết khác khiến cho tội phạm

thực hiện hành vi tới cùng,…

Các Trường hợp chuẩn bị phạm tội được quy định cụ thể trong khung

hình phạt.

Còn khung hình phạt cao nhất là tù chung thân có thể áp dụng vào

khung hình phạt về tội phạm tội chưa đạt. Ngoài ra nếu trường hợp đặc biệt

nghiêm trọng có thể áp dụng cả biện tử hình. Mức phạt tù không quá ba phần

tư đối với trường hợp là tù có thời hạn.

Do đó, khi HĐXX quyết định hình phạt đối với người hành vi chuẩn bị

phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, Toà án phải dựa vào những căn cứ sau:

+ Các điều luật của Bộ luật Hình sự quy định về các tội phạm tương

ứng đối với hành vi vi phạm.

+ Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội.

+ Căn cứ vào mức độ thực hiện ý định phạm tội.

+ Căn nhắc những tình tiết khác khiến người phạm tội không thức hiện

được tội phạm đến cùng.

Trong những điều kiện tương đương, tội phạm đã hoàn thành bao giờ

cùng nguy hiểm hơn là phạm tội chưa đạt và càng nguy hiểm hơn so với tội

phạm trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Xuất phát từ nhận thức đó, Khoản 3

Điều 57 BLHS nhà làm luật đã quy định:

+ Điều luật này áp dụng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Nếu

trong trường hợp người vi phạm chuẩn bị phạm tội, đối với tù có thười hạn thì

mức phạt cao nhất không quá một phần hai mức hình phạt. Đối với trường

hợp là tù chung thân và tử hình thì không được phạt quá 20 năm tù.

+ Còn đối với trường hợp tội phạm chưa đạt, thì hình phạt cao nhất có

thể áp dụng đối với tội đặc biệt nhiêm trọng là chung thân hoặc tử hình. Còn

đối với tù có thời hạn thì trường hợp cao nhất phạt là không quá ba phần tư

35

mức hình phạt quy định trong BLHS hiện hành.

1.2.9. Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp đồng phạm

Tại Điều 58 BLHS quy định: “Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng

phạm trong trường hợp khi quyết định hình phạt đối với những người đồng

phạm, Tòa án phải xét đến tính chất, mức độ, hành vi của đồng phạm, tính

chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm [19].

Đối với đồng phạm trong loại trừ trách nhiệm hình sự, tuỳ vào trách

nhiệm hình sự của cá nhân nào mà việc giảm nhẹ hay tăng nặng trách nhiệm

hình sự sẽ áp dụng vào cá nhân đó.

Theo quy định đó, khi xác định TNHS và hình phạt đối với mỗi người

đồng phạm, toà án phải xét đến:

- Tính chất của đồng phạm: Ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy

hiểm cho xã hội của tội phạm chung mà cả bọn cùng thực hiện

- Mức độ tham gia và tính chất của từng hành vi của người đồng phạm :

+ Vai trò của người đồng phạm thực hiện thể hiện tính chất của quá

trình tội phạm, nó mang tính đặc thù của nhiệm vụ, cũng như chức năng tác

động lên việc phạm tội đó.

+ Xác định mức độ tham gia phụ thuộc vào việc thực hiện tội phạm

cũng như hậu quả của tội phạm chung.

+ Tuỳ vào từng cá nhân thực hiện hành vi phạm tội mà định hình các

tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ khác nhau.

1.2.10. Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội

Kế thừa những nguyên tắc cơ bản của Luât Hình sư thì người chưa

thành niên phạm tội của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 cũng có những

thay đổi quan trọng như thay thế cụm từ người chưa thành niên phạm tội

thành cụm từ người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu giáo dục, cải tạo người phạm tội

36

nhận ra những sai lầm khuyết điểm và làm sao để có điều kiện tốt nhất để hòa

nhập với cộng đồng. Một trong những chính sách nhân đạo của pháp luật hình

sự là việc áp dụng mức hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo

Điều 101 BLHS năm 2015 quy định như sau:

“ Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều

luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức

hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn

thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà

điều luật quy định.

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều

luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức

hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì

mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà

điều luật quy định”.

Ở gần cuối khoản 1 và khoản 2 Điều này đều có cụm từ mức phạt tù mà

điều luật quy định ngoài ra cũng chưa có văn bản gì hướng dẫn rõ ràng vấn đề

này nên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn cho người dưới 18 tuổi khi

phạm tội có thể sẽ có ba cách hiểu và vận dụng khác nhau như sau:

+ Một là, theo khoản 6 - Điều 91 BLHS có quy định: Người dưới 18

tuổi phạm tội, toà án khi xử hình phạt tù có thời hạn thì mức án nhẹ hơn khi

áp dụng đối với người đủ 18 tuổi và khi người dưới 18 tuổi phạm tội ta xét

theo khoản 1 điều 101 của BLHS thì mức phạt cao nhất đối với người dưới 18

tuổi và đủ 16 tuổi là không quá ba phần tư và người từ 14 tuổi tới dưới 16 tuổi

thì mức phạt cao nhất được áp dụng là một phần hai không được quá.

Ví dụ: Phạm Thị H phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, tính đến

ngày thực hiện hành vi phạm tội thì mới 17 tuổi, bị truy tố theo khoản 2 -

Điều 194 BLHS với mức hình phạt tù là 05 năm đến 10 năm. Đặt giả thuyết

hình phạt được áp dụng đối với H cao nhất là 07 năm tù nhưng do H dưới 18

37

tuổi nên hình phạt cao nhất không quá ba phần tư của 07 năm tức là 05 năm

25 ngày.

+ Hai là, khi áp dụng tù có thời hạn đối với người từ đủ 16 tuổi đến

dưới 18 tuổi theo khoản 1 - Điều 101 BLHS hình phạt cao nhất được áp dụng

không quá ba phần tư và đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo

khoản 2 - Điều 101 BLHS hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một

phần hai mức hình phạt cao nhất mà khung hình phạt của điều luật quy định.

Như vậy, theo ví dụ trên đây thì mức hình phạt cao nhất mà H có thể sẽ là 3

năm 06 tháng.

+ Như vậy, theo ví dụ trên đây thì Điều 249 BLHS năm 2015 quy định

mức hình phạt cao nhất của điều luật là 20 năm, tức là H có thể bị xử phạt ba

38

phần tư của 20 năm là 15 năm tù.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Qua nghiên cứu Chương 1, tác giả rút ra những kết luận như sau:

- Tác giả đưa ra các khái niệm áp dụng hình phạt nhất là đối với hình

phạt tù có thời hạn. Xác định các nội dung cần nghiên cứu của hoạt động áp

dụng từ đó làm cơ sở để tách biệt cũng như phân biệt hình phạt tù có thời hạn

với các hình phạt khác. Đưa các vấn đề quan trọng của hình phạt tù có thời

hạn vào luận văn để làm cơ sở dữ liệu kham khảo.

- Áp dụng hình phạt tù có thời hạn là hoạt động áp dụng pháp luật hình

sự sau khi quá trình định tội danh diễn ra, điều này nằm ở cơ sở hồ sơ vụ án

và tổng kết kết quả quá trình tranh tụng tại toà, xem xét cụ thể các tình tiết,

đánh giá đầy đủ các quy định của bộ luật hình sự. Từ các quá trình trên hội

đồng xét xử áp dụng BLHS để đưa ra mức hình phạt cụ thể của mức hình phạt

tù có thời hạn để kết án đố với người phạm tội và ra phán quyết cuối cùng

trong bản án về hình phạt đã tuyên.

- Xác định được những ý nghĩa quan trọng của hoạt động áp dụng hình

phạt tù có thời hạn: ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, pháp lý và giáo dục cải

39

tạo và phòng ngừa tội phạm.

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI VÀ

MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT NÀY

THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

2.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.1.1. Tình hình áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020.

- Tình hình áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Dựa trên báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ công tác hàng năm (từ

năm 2016 đến năm 2020) của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tình

hình thụ lý, xét xử các vụ án hình sự được thể hiện qua bảng tổng hợp sau đây:

Bảng 2.1: Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý

Đơn vị tính: Vụ án, bị cáo

STT Năm

Số liệu thụ lý Vụ án Tỷ lệ % Bị cáo Tỷ lệ %

1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020

Cộng 53 46 51 58 55 263 20.2% 17.5% 19.4% 22.1% 20.9% 100% 104 82 100 109 102 497 20.9% 16.5% 20.1% 21.9% 20.5% 100%

(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai)

Qua bảng số liệu thống kê cho thấy:

- Năm 2016, Tòa án thụ lý 53 vụ án, với tổng số 104 bị cáo.

40

- Năm 2017, Tòa án thụ lý 46 vụ án, với tổng số 82 bị cáo.

- Năm 2018, Tòa án thụ lý 51 vụ án, với tổng số 100 bị cáo.

- Năm 2019, Tòa án thụ lý 58 vụ án, với tổng số 109 bị cáo.

- Năm 2020, Tòa án thụ lý 55 vụ án, với tổng số 102 bị cáo.

Dựa trên số liệu thống kê tội phạm từ năm 2017 đến 2020, số lượng

vụ án và số lượng bị cáo có xu hướng gia tăng. Tăng mạnh nhất và nhiều

nhất vào năm 2019 và số lượng ít nhất là vào năm 2017. So với năm 2019

thì số lượng vụ án và bị cáo của năm 2020 có xu hướng giảm, đây là điều

đáng mừng trong năm qua.

Qua thực tiễn xét xử vụ án cho thấy việc tòa án áp dụng hình phạt tù có

thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn so với các hình phạt chính khác.

Bảng 2.2: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng

Đơn vị tính: Bị cáo

Năm

Tổng số bị cáo Cảnh cáo Tử hình

Tù có thời hạn

Số liệu hình phạt chính được áp dụng Tù Cho Phạt chung hưởng tiền thân án treo

2016 91 10 14 10 37 0 0 Cải tạo không giam giữ 21

2017 70 5 9 8 29 0 0 19

2018 79 12 6 12 36 0 0 13

2019 95 7 12 20 41 0 0 15

2020 83 7 9 18 38 0 0 11

418 0 Tổng 41 50 68 180 3 79

0 Tỷ lệ 100 9.8% 12.0% 18.9% 16.3% 43.1% 0%

(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai)

Trên đây là bảng số liệu thống kê áp dụng hình phạt tại thành phố Biên

41

Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020

Qua bảng trên cho thấy, số vụ áp dụng hình phạt tại thành phố Biên

Hòa tỉnh Đồng Nai như sau: Áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với 41 bị cáo

chiếm tỷ lệ 9.8%; Áp dụng hình phạt tiền đối với 50 bị cáo chiếm tỷ lệ 12.0%;

áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với 79 bị cáo chiếm 18.9%;

Áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với 68 bị cáo chiếm

16.3%; Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với 180 bị cáo chiếm 43.1%; Áp

dụng hình phạt tù chung thân đối với 3 bị cáo chiếm 0.7%; Áp dụng hình phạt

tử hình đối với 0 bị cáo.

Có thể thấy hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn 43.1%, chưa

tính đến số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.

Bảng 2.3: Số liệu kết quả xét xử

Đơn vị tính: Vụ án, bị cáo

Stt Năm

1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020 Vụ án 48 42 46 50 51 Tổng số xét xử Bị cáo 91 70 79 95 83

Tỷ lệ % 20.3% 17.7% 19.4% 21.1% 21.5% 100% Tỷ lệ % 21.8% 16.7% 18.9% 22.7% 19.9% 100% Cộng 237 418

(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai)

Qua số liệu tổng hợp, phân tích cho thấy trong thời gian từ năm 2016 –

2020, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành xét xử các vụ án như sau:

- Năm 2016, Tòa án xét xử 48 vụ án với 91 bị cáo.

- Năm 2017, Tòa án xét xử 42 vụ án với 70 bị cáo.

- Năm 2018, Tòa án xét xử 46 vụ án với 79 bị cáo.

- Năm 2019, Tòa án xét xử 50 vụ án với 95 bị cáo.

42

- Năm 2020, Tòa án xét xử 51 vụ án với 83 bị cáo.

Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trong thời gian 5 năm của tòa án

nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ

được giao. Xét xử đúng người đúng tội đối với các án hình sự. Giải quyết đạt

tỷ lệ cao mang lại hiểu quả trong công tác phòng chống tội phạm. Nâng cao

vai trò của toà án trong công tác phục vụ mục đích chính trị, xã hội tại địa

phương, hạn chế án tồn.

Bảng 2.4: Số liệu các loại tội phạm đã xử lý

Đơn vị tính: Vụ án

TT

Tội danh

Số thụ lý theo năm

Tổng Tỷ lệ

2016 2017 2018 2019 2020

1. 2. 3.

Tội giết người Tội cố ý gây thương tích Tội cướp tài sản

1 6 0

0 9 1

1 8 1

2 5 2

1 7 1

1.9% 13.3% 1.9%

5 35 5

4.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

4

3

6

5

3

8.0%

21

5.

3

4

2

3

6

6.8%

18

6.

tàng

sản xuất,

1

0

1

2

4

3.0%

8

7.

8

5

6

9

5

12.5%

33

8.

4

1

2

1

2

3.8%

10

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tội trữ, vậnchuyển, buôn bán hàng cấm Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt ma túy Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 9. Tội đánh bạc 10. Tội trộm cắp tài sản

8 12

5 10

9 13

10 17

12 13

16.7% 24.7%

44 65

11. Tội cưỡng đoạt tài sản

2

3

0

1

1

2.7%

7

12. Các tội phạm khác

4

5

2

1

0

4.6%

12

100%

Cộng

53

46

51

58

55

263

Tỷ lệ %

20.9

20.2

19.4

22.1

100

17.5 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai)

Qua bảng số liệu của thống kê, ta thấy bắt đầu từ năm 2016 so với năm

2017 số lượng đưa ra xét xử có xu hướng giảm. Nhưng từ năm 2016 đến năm

43

2019 số lượng đưa ra xét xử có tỉ lệ tăng dần. Đỉnh điểm là năm 2019 với số

lượng xét xử lên đến 58 vụ, các tội danh thống kê có xu hướng tăng cao nhất

là đối với các tội về tệ nạn như tàng trữ ma tuý, đánh bạc, cướp giật. Nhưng

nếu so với năm 2020 thì đây lại là số liệu đáng mừng. Vì so với năm 2019 thì

năm 2020 số lượng xét xử có xu hướng giảm, các tội về giết người, cướp tài

sản, điều khiển phương tiện giao thông,…có xu hướng giảm mạnh. Chỉ còn

các tội về chiếm đoạt tài sản, cố ý gây thương tích, đánh bạc và trộm cắp tài

sản là vẫn còn đáng báo động. Nhìn chung, so với năm 2019 thì đây là một

dấu hiệu đáng mừng trong kết quả quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm

của các ngành, các cơ quan tư pháp.

2.1.2. Những kết quả đạt được trong áp dụng hình phạt tù có thời

hạn trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Qua thực tiễn xét xử vụ án cho thấy việc tòa án áp dụng hình phạt tù có

thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn so với các hình phạt chính khác.

Bảng 2.5: Số liệu các hình phạt chính được áp dụng

Đơn vị tính: Bị cáo

Năm

Tổng số bị cáo Cảnh cáo Tử hình

Tù có thời hạn

Số liệu hình phạt chính được áp dụng Tù Cho Phạt chung hưởng tiền thân án treo

91 70 79 95 83

37 29 36 41 38 180 14 9 6 12 9 50 10 5 12 7 7 41 10 8 12 20 18 68

0 0 0 0 0 0 0 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng Tỷ lệ 418 100 Cải tạo không giam giữ 21 19 13 15 11 79 9.8% 12.0% 18.9% 16.3% 43.1% 0 0 0 0 0 3 0%

(Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

44

Đồng Nai)

Trên đây là bảng số liệu thống kê áp dụng hình phạt tại thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020

Qua bảng trên cho thấy, số vụ áp dụng hình phạt tại thành phố Biên

Hòa tỉnh Đồng Nai như sau: Áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với 41 bị cáo

chiếm tỷ lệ 9.8%; Áp dụng hình phạt tiền đối với 50 bị cáo chiếm tỷ lệ 12.0%;

áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với 79 bị cáo chiếm 18.9%;

Áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với 68 bị cáo chiếm

16.3%; Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với 180 bị cáo chiếm 43.1%; Áp

dụng hình phạt tù chung thân đối với 3 bị cáo chiếm 0.7%; Áp dụng hình phạt

tử hình đối với 0 bị cáo.

Có thể thấy hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ rất lớn 43.1%, chưa

tính đến số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.

Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà cũng hạn chế áp dụng các biện pháp là hình

phạt tù, nâng cao vai trò các hình phạt khác như cải tạo không giam giữ, án treo.

Giúp người phạm tội có cơ hội cải tạo hiệu quả nhất có thể. Ngoài ra nếu phải áp

dụng hình phạt tù có thời hạn, Toà án nhân dân luôn lấy phương châm xử đúng

người đúng tội. Áp dụng nguyên tắc nhân đạo, xử lý người phạm tội với hình phạt

thích đáng thấu tình hợp lí nhất có thể.

Vd: Bản án số 145/2020/HS-St ngày 31/3/2020 của Toà án nhân dân thành

phố Biên Hoà tỉnh Đồng Nai. Trong ngày 31 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa

án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình

sự sơ thẩm thụ lý số 129/2020/TLST-HSST ngày 13 tháng 3 năm 2020 theo

Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3

năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Anh Tú, (tên gọi khác: Quậy) sinh năm

1995 tại Đồng Nai

Khoảng 23 giờ 21/11/2018, Tiêu Quốc Thông, Nguyễn Hữu Tuấn,

Nguyễn Anh Tú và Trần Thanh Thiện (ngụ tại 70/3A, tổ 10, khu phố 2,

45

phường An Bình, thành phố Biên Hòa) đến quán “Thùy Trâm” tại tổ 4, khu

phố 2, phường An Bình, thành phố Biên Hòa để uống bia. Đến khoảng 00 giờ

00 phút ngày 22/11/2018, Thiện đi về trước, khi đi đến phía trước cạnh quán

“Thùy Trâm” thì thấy anh Nguyễn Hữu Trường, anh Nguyễn Hữu Tín và chị

Nguyễn Ngọc Thoa (cùng ngụ tại địa chỉ 77/2, tổ 18, khu phố 2, phường An

Bình, thành phố Biên Hòa) đang ngồi uống bia trước cổng nhà nên anh

Trường gọi Thiện vào uống bia chung. Đến khoảng 00 giờ 30 phút cùng ngày,

Tuấn, Thông và Tú từ trong quán “Thùy Trâm” đi ra về nên Thiện gọi Tuấn,

Thông và Tú vào uống bia thì chỉ có Tuấn vào uống bia cùng Thiện, Trường,

Tín và chị Thoa, còn Thông ngồi trên xe chờ, Tú bỏ về trước. Trong quá trình

uống bia, Tuấn và chị Thoa xảy ra mâu thuẫn và cãi nhau nên anh Trường can

ngăn đẩy chị Thoa vào trong nhà và đẩy Tuấn đi về. Do bực tức vì bị đuổi về

nên Tuấn đã rủ Thông về nhà Tuấn lấy dao tự chế để chém anh Trường, trên

đường đi Thông gọi điện thoại rủ Tú tham gia chém anh Trường cùng thì Tú

đồng ý. Sau đó, Thông, Tuấn và Tú mỗi người mang theo 01 (một) con dao tự

chế cán bằng sắt dài khoảng từ 60cm đến 80cm rồi Thông chở Tuấn, còn Tú

đi một mình (bằng xe mô tô không rõ biển số của Tuấn và Tú) đến chỗ anh

Trường đang uống bia. Khi đến nơi, Tuấn cầm dao tự chế chạy vào chém anh

Trường nhưng bị anh Trường ôm lại nên Thông chạy đến dùng dao tự chế

chém vào anh Trường thì bị anh Tín can ngăn, đẩy Thông ra không để Thông

chém anh Trường, Thông liền cầm dao quay lại chém một nhát vào cổ tay trái

của anh Tín, anh Tín bỏ chạy và bị té ngã, Thông tiếp tục cầm dao chém một

nhát vào cẳng chân phải anh Tín gây thương tích. Trong lúc giằng co với

Tuấn thì anh Trường bị Tuấn dùng dao tự chế chém hai nhát vào trán phải và

một nhát vào bờ nếp khuỷu tay trái gây thương tích. Thấy vậy, chị Thoa chạy

vào can ngăn thì bị Tú dùng tay đánh vào mặt chị Thoa. Sau khi chém anh

Trường và anh Tín bị thương, Tuấn, Thông và Tú bỏ đi và đưa dao cho Tú cất

giấu. Sự việc xảy ra, Tú dùng xe chở Thông và Tuấn đi băng bó vết thương,

46

khi đi đến khu vực dốc Nguyễn Huệ thuộc phường Bình Đa, thành phố Biên

Hòa thì gặp chị Huỳnh Thị Trâm (là chủ quán Thùy Trâm) đang chở anh Tín

đi cấp cứu thì Tú ép xe chị Trâm dừng lại và Tú xuống xe dùng tay đánh vào

mặt anh Tín mấy cái, chị Trâm can ngăn thì Tú bỏ đi. Anh Trường và anh Tín

được đưa đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy, sau đó xin về Bệnh

viện Đồng Nai điều trị vết thương. Qua điều tra, xác minh, Cơ quan Cảnh sát

điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố

bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Tuấn, Thông và Tú để điều tra,

xử lý. Ngày 22/01/2019, Thông bị bắt giữ để điều tra xử lý, riêng Tuấn và Tú

đã bỏ trốn. Đến ngày 08/12/2019, Tú bị bắt giữ để điều tra xử lý.

Áp dụng dụng điểm a, i khoản 1 và điểm d khoản 3 Điều 134; điểm s

khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh Tú

(tên gọi khác: Quậy) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Tú (tên gọi khác: Quậy): 05 (năm) năm 06

(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2019.

Bảng số 2.6: Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Đơn vị tính: Bị cáo

Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Tù từ 3 năm trở xuống Từ từ 3 năm đến 7 năm Tù từ trên 7 năm đến 15 năm

Stt Năm Tỷ lệ

1 2 3 4 5 2016 2017 2018 2019 2020

Tổng số bị cáo 36 29 36 41 38 180 Tỷ lệ 22.2% 17.2% 25.0% 17.1% 21.1% 20.6% Tỷ lệ 44.4% 51.7% 33.3% 41.5% 44.7% 42.8% 33.3% 31.0% 41.7% 41.5% 34.2% 36.7% Bị cáo 8 5 9 7 8 37 Bị cáo 12 9 15 17 13 66 Cộng

Bị cáo 16 15 12 17 17 77 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

47

Đồng Nai)

Qua phân tích số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại TAND thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy được: Việc áp dụng hình phạt tù từ 3

năm trở xuống đối với 66 bị cáo, chiếm tỷ lệ 36.7%, tổng số bị cáo bị áp dụng

hình phạt tù có thời hạn; Áp dụng hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm đối với 77

bị cáo, chiếm tỷ lệ 42.8% tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn;

Áp dụng hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm đối với 37 bị cáo, chiếm 20.6%

tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Từ các nhận xét trên ta cso thể thấy mức độ phạt tù có thời hạn của Toà

án nhân dân thành phố Biên Hoà có xu hướng giảm và bảo hoà. Giảm thiếu

các hình phạt tù khi không cần thiết, tăng các hình phạt khác không phải là

hình phạt tù để tạo điều kiện cải tạo hữu hiệu hơn cho bị cáo.

Bảng số 2.7: Số liệu về nhân thân của bị cáo

Đơn vị tính: Bị cáo

Nữ

Năm Bị cáo Phân tích đặc điểm nhân thân các bị cáo đã bị xét xử Dân Đảng tộc viên thiểu số Nghiện ma túy Cán bộ công chức

Từ 18 đến 30 tuổi

Từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi 2 1 2 4 1 10 Từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi 5 2 3 6 3 19 2016 36 2017 29 2018 36 2019 41 2020 38 Cộng 180 6 4 7 5 6 28 9 5 11 8 5 38 6 4 5 4 6 25 9 4 8 10 6 37 4 2 2 5 2 15 Tái phạm, tái phạm nguy hiểm 11 3 8 9 7 38

16 11 14 13 15 69 (Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai)

Từ những số liệu trên phân tích và tổng hợp ở trên có thể thấy chất lượng

xét xử được đảm bảo và nâng cao rõ rệt, Tòa án áp dụng các quy định của pháp

luật, các bản án được tuyên bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

48

Hình phạt mà tòa án áp dụng đã nghiêm trị đối tượng cầm đầu, ngoan cố,

chống đối, lưu manh... đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước

ta đối với những người phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ TNHS như tự thú, ăn

năn hối cải, khắc phục hậu quả. Tòa án đã xem xét, làm rõ các tình tiết định

tội; các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân của bị cáo để khi áp dụng hình

phạt và mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm

được thực hiện.

Số liệu trên cũng cho thấy mức độ tiếp thu, sống và làm thoe pháp luật

của người dân thành phố Biên Hoà tỉnh Đồng Nai ngày càng cao. Tỉ lệ phạm

tội có xu hướng giảm, giảm nhiều nhất đối với các bị cáo có nhân thân là

Đảng viên. Với năm 2019 là 05 bị cáo là Đảng viên thì năm 2020 chỉ còn lại

02 bị cáo. Ngoài ra số lượng tái phạm nguy hiểm, ma tuý và dân tộc thiểu số

cũng giảm thiếu đáng kể. Điều này chứng tỏ mặc nhận thức của người dân có

dấu hiệu gia tăng, ngày càng hiểu và làm việc theo pháp luật. Đây là sự việc

đáng mừng.

VD: Bản án số: 282/2021/HSST ngày 21/05/2021 của Toà án nhân dân

thành phố Biên Hoà tỉnh Đồng Nai. Lê Trọng T là người sử dụng trái phép

chất ma túy (ma túy tổng hợp). Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 26/01/2021, T đi

đến khu vực gần cây xăng An Viễn thuộc xã An Viễn, huyện Trảng Bom, tỉnh

Đồng Nai mua của người thanh niên tên B (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 (một)

gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để sử

dụng.

Vào lúc 20 giờ 45 phút cùng ngày, T cất giấu gói ma túy nêu trên trong

túi áo khoác phía trước bên trái của T đang mặc trên người, rồi đi đến trước

nhà không số thuộc tổ A, khu phố LĐA, phường TP, thành phố BH, tỉnh

Đồng Nai thì bị Công an phường Tam Phước kiểm tra phát hiện bắt quả tang,

49

chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (T khai là

ma túy tổng hợp – hàng đá);

*Tại Kết luận giám định số 205/PC54-GĐMT ngày 01/02/2021 của

Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận như sau:

Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy,

có khối lượng: 1,03892 gam loại: Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 304/CT-VKSBH ngày 05/05/2021, Viện kiểm sát

nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo: Lê Trọng T về tội “Tàng trữ

trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật

hình sự.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị

cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, trong quá trình điều

tra và tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên

bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s

khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ

nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Xử phạt bị cáo Lê Trọng T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù giam nhưng

được trừ đi thời gian bị tạm giam trước đó;

Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân

thành phố Biên Hòa tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định

đựng trong gói niêm phong số: 205/PC54-GĐMT ngày 02/02/2021 của Phòng

50

kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

2.1.3. Một số hạn chế, vướng mắc trong áp dụng hình phạt tù có thời hạn

trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác xét, thực tiễn xét xử

cho thấy việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn còn bộc lộ những hạn chế, vướng

mắc gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội,

cũng như uy tín của cơ quan thực thi pháp luật. Các sai sót vướng mắc này

thường tập trung chủ yếu ở những dạng sau đây:

Thứ nhất, vẫn còn tình trạng ưu tiên áp dụng hình phạt tù có thời hạn

trong hoạt động xét xử

Qua số liệu thống kê về các hình phạt chính được áp dụng tại thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai như phân tích ở trên thấy: Áp dụng hình phạt cảnh

cáo chiếm tỷ lệ 9.8%; Áp dụng hình phạt tiền đối chiếm tỷ lệ 12.0%; áp dụng

hình phạt cải tạo không giam giữ chiếm 18.9%; Áp dụng hình phạt tù nhưng

cho hưởng án treo chiếm 16.3%; Áp dụng hình phạt tù có thời hạn chiếm

43.1%. Tỷ lệ hình phạt tù có thời hạn được áp dụng cao rất nhiều lần so với

các hình phạt khác. Trong số người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù có thời

hạn thì có 36.7% người phạm tội có mức hình phạt từ 3 năm trở xuống

[29]. Trên thực tiễn tại thành phố Biên Hòa việc áp dụng hình phạt tù có thời

hạn với tỷ lệ cao như trên cho thấy những người áp dụng áp dụng pháp luật có

phần ưu tiên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Nghị quyết số 49-NQ-

TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách ngành Tư pháp

đến năm 2020 đưa ra yêu cầu giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt

tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Những

hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, an ninh mạng và điều kiện kinh tế hội

nhập quốc tế... Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp

tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm

51

quyền quyết định trong việc áp dụng các biện pháp tạm giam. Việc tòa án ưu

tiên lựa chọn hình phạt tù có thời hạn để áp dụng xuất phát từ nhiều lý do

như: Nhận thức của người áp dụng, dư luận xã hội và nhận thức của người

dân rằng hành vi phạm tội phải bị trừng trị nghiêm khắc. Theo đó, mục đích

giáo dục, phòng ngừa chung đứng sau mục đích trừng trị. Người áp dụng hình

phạt còn chưa thấy được hết lợi ích của việc giảm áp dụng hình phạt tù có

thời hạn và tăng cường áp dụng các hình phạt khác không tước quyền tự do.

Ví dụ: Khoảng 09 giờ sáng ngày 23/05/2016 Đinh Thế Hoàng có giấy

phép lái xe, điều khiển xe chở 02 người ở đằng sau là anh Thành và chị Tiền

đi từ chợ Đồn về hướng Biên Hoà. Khi đến đường Võ Thị Sáu thuộc phường

Quyết Thắng, lúc này Hoàng lái xe chạy sát mép đường và ngủ gật nên khi

thấy Anh Hậu và Anh quang dắt xe đạp đi bộ phía trước ngược chiều đã

không xử lý kịp thời hậu quả đâm vào đầu xe đạp của anh Quang và anh Hậu,

đẩy anh Quang và anh Hậu ngã về phía sau. Anh Quang được đưa đi cấp Cứu

nhưng đã tử vong sau đó, còn anh Hâu chỉ bị say sát nhẹ.Sau khi gây tai nạn,

phía anh Hoàng có bồi thường cho gia đình anh Quang 90 triệu đồng và anh

hậu 05 triệu đồng, đồng thời cũng làm đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo.

Bản án sơ thẩm số 53/2016/HSST ngày 09/11/2016 của toà án nhân dân

thành phố Biên Hoà tuyên bố bị cáo Đinh Thế Hoàng tội “Vi phạm quy định

về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Xử phạt Đinh Thế Hoàng

theo Khoản 1 Điều 202 BLHS với thời gian tù có thời hạn là 12 tháng.

Trong vụ án này, ta có thể thấy mọi hành vi của Bị cáo là sự vô ý để

xảy ra lỗi vi phạm an toàn giao thông gây tai nạn với Anh Quang và Anh Hậu.

Sau đó người bị nạn đã được đưa đi cấp cứu, bị cáo cũng chủ động bồi thường

90 triệu đồng cho gia đình người bị hại. Bị cáo có ăn năn hối cải, thành khẩn

khai báo và có nhân thân tốt. Theo khoản 1 điều 202 thì có thế phạt Tiền từ 5

triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù

52

từ 6 tháng tới 3 năm. Điều này cho thấy luật quy định linh hoạt chứ không

nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù.

Thứ hai, còn tình trạng đánh giá chưa đúng các tình tiết, chứng cứ của

vụ án khi định khung hình phạt trong một số vụ án.

Đánh giá các tình tiết tài liệu chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự

chưa đúng, dẫn đến quyết định mức hình phạt không chính xác.

Việc nghiên cứu chứng cứ còn có vụ chưa đảm bảo tính khách quan,

toàn diện, chứng cứ còn mang tính chủ quan do phụ thuộc nhiều vào các lời

khai của đối tượng phạm tội, người làm chứng, bị hại, người biết việc mà

chưa chú trọng nhiều đến chứng cứ khách quan như: Kết luận giám định, biên

bản đối chất, nhận dạng hoặc khám nghiệm hiện trường.

Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ còn được áp dụng tùy tiện ở nhiều vụ

án, nhất là đối với các vụ phạm tội ít nghiêm trọng, như tội phạm đánh bạc

nên có nhiều vụ cho hưởng án treo hoặc phạt tiền, phạt cảnh cáo. Nhiều vụ xử

dưới khung hình phạt tối đa do áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ. Qua đó làm

giảm đi tính nghiêm minh của hình phạt dành cho đối tượng phạm tội.

Thứ ba, một số vụ án đã quyết định hình phạt không đúng (quá nặng;

quá nhẹ; cho hưởng án treo không tương xứng với tính chất và mức độ nguy

hiểm của tội phạm…)

Ví dụ: Bản án số 62/2017/HSST ngày 06/06/2017 của toà án nhân

dân Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.

Vào lúc 20 giờ ngày 18/02.2017, Nguyễn Thanh Trí cùng bạn Lê

Thanh Sang , Nguyễn Bá Đạt và Nguyễn Đức Phú đến hát karaoke tại quan

Gia Bảo ở phường Tân Hạnh, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Khoảng

22 giờ Sang ra lấy bóp trong xe và quay vào quầy lễ tân thanh toán tiền. Trí

lấy xe đón Sang. Còn những người khác ra trước quán karaoke Gia Bảo

chuẩn bị bắt taxi đi về. Lúc này Thái và Nam cũng đứng trước cửa đợi xe.

Thấy trí lái xe tới, Thái bước ra chặn ra Trí, Nam đứng phía trước bên trái

53

xe. Sau khi Sang lên xe, Thái nói với Trí xin đi nhờ, Nam nói xe Trí đè lên

chân Nam. Sau khi lùi xe lại thì bất ngờ Thái xông lên giật mở cửa xe và

đấm nhiều phát vào mặt Trí. Trí luống cuống bỏ chạy ra ngoài thì Nam và

Đạt xong vào dùng tay và chân đấm đá Trí. Bạn của Đạt là Khánh chạy tới

cầm ghế gỗ đập liên tiếp vào người Trí. Vì bị đánh hội đồng và bị đau nên

Thanh thò vào túi áo rút dao đa năng và đâm một nhát vào bụng Nam và

một nhát vào ngực Thái, Nam và Thái vùng ra và tiếp tục lao vào đánh Trí.

Trí bỏ chạy, Thái và Nam đuổi theo nhưng chạy được một đoạn thì ngã

xuống, trên đường đưa đi cấp cứu thì tử vong. Xem xét các căn cứ tình tiết

của vụ án, Hội đồng kết luận: Nguyễn Thanh Trí phạm tội “ Giết người” do

vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại khoản 1 điều 96

BLHS. Bị hại cũng có lỗi vì “Tấn công Nguyễn Thanh Trí” dẫn tới việc bị

cáo Nguyễn Thanh Trí làm bị cáo Nam và Thái tử vong. Theo khoản 1 điều

245 thì bị cáo Thái và Nam phạm tội gây rối trật tự nơi công cộng, bị hại

cũng có lỗi. Xét thấy bị cáo Trí có sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo,

tiền án tiền sự chưa có, phạm tội ít nghiêm trọng nên cho bị cáo tự cải tạo.

Sau khi xem xét hội đồng quyết định áp dụng khoản 1 điều 245; điểm p, h

khoả 1, khoản 2 điều 46; điều 20; điều 53; khoản 1, khoản 2 điều 60 BLHS

xử phạt bị cáo 12 tháng tù cho hưởng án treo.

Lật lại lý lịch của bị cáo về nhân thân: Năm 2008 bị cáo bị Toà Án

nhân dân thành phố Biên Hoà xử phạt 12 tháng về tội “ Cố ý gây thương

tích”. Sau đó thì bị cáo bị toà án tỉnh Đồng Nai phúc thẩm xử phạt 3 tháng

tù về tội “Không tố giác tội phạm”. Xem xét các yếu tố thấy bị cáo có nhân

thân xấu và không đạt mục đích phạm tội lần đầu của toà tuyên. Tuy lần

này bị cáo phạm tội là do hành vi của Thái và Nam gây ra nhưng tuyên bị

cáo phạm tội lần đầu là chưa thoả đáng đối với Nghị quyết số

01/2013/HĐTP-TANDTC ngày 06/11/2013 hướng dẫn về án treo của hội

đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao. Bản án này được viện kiểm sát

54

nhân dân tỉnh Đồng Nai kháng nghị cho bị cáo Trí hưởng án treo là không

đúng. Nên Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã huỷ bản án sơ thẩm về phần

quyết định hình phạt của bị cáo Trí và yêu cầu xét xử lại.

2.1.4. Một số nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong áp dụng

hình phạt tù có thời hạn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Những hạn chế, vướng mắc nêu trên khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn

trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do nhiều nguyên nhân khác nhau,

nhưng chủ yếu tập trung ở những nguyên nhân sau:

Một là, nhận thức của một số chủ thể áp dụng pháp luật về hình phạt tù

có thời hạn còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất

Nguyên nhân đầu tiên dẫn tới những hạn chế, vướng mắc trong việc áp

dụng hình phạt nói chung và hình phạt tù có thời hạn nói riêng xuất phát từ

nhận thức của những người áp dụng hay nói cách khác là của các thành viên

trong HĐXX. Quan trọng từ nhận thức của các người dân trong xã hội. Hình

phạt được áp dụng không chỉ để trừng trị người phạm tội mà mục đích tốt đẹp

hơn hình phạt hướng tới đó là giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp

luật, quy tắc của cuộc sống và ngăn ngừa họ phạm tội mới. Nhưng để trừng trị

người phạm tội thì có nhất thiết phải áp dụng hình phạt mang tính cách ly người

phạm tội khỏi đời sống xã hội hay không. Hiện nay, không chỉ người dân mà cả

những người trực tiếp áp dụng hình phạt đều có suy nghĩ đã phạm tội là phải

trừng trị bằng biện pháp cách ly khỏi đời sống xã hội thì mới cải tạo tốt để

thành công dân có ích cho xã hội.

Việc áp dụng hình phạt có thời hành như trên đã và đang gây quá tải cho hệ

thống cơ sở giam giữ người bị kết án vì số lượng người bị áp dụng hình phạt

này quá nhiều. Qua các phân tích của chúng ta thấy số lượng người phạm tội bị

áp dụng hình phạt tù lớn nhưng trong đó phần lớn lại thuộc mức hình phạt từ 3

năm trở xuống, có rất nhiều người bị kết án chỉ mấy tháng tù. Với thời gian chấp

hành án ngắn như thế thì việc giáo dục, cải tạo có đạt được kết quả tốt là rất khó

55

khăn trên thực tế. Cụ thể việc giam giữ họ trong thời gian ngắn là không cần thiết,

để trừng trị người phạm tội còn rất nhiều hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thể

áp dụng, mà vẫn đảm bảo được mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo.

Hai là, quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn còn thiếu rõ

ràng, đầy đủ, gây khó khăn, bất cập cho việc áp dụng

Một số quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay còn chưa

đầy đủ, hoặc có những quy định không đầy đủ rõ ràng, chưa kịp thời sửa đổi,

nên dẫn đến có nhiều cách hiểu không giống nhau những cách áp dụng khác

nhau. Như việc quy định khung hình phạt tù có thời hạn với khoảng cách quá

rộng giữa mức tối thiểu và mức tối đa dẫn đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn

của hội đồng xét xử chưa phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành

vi phạm tội mà người bị kết án đã thực hiện. Qua thực tế áp dụng hình phạt tù

đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp chấp hành hình phạt tù

khác nhau dù trong cùng một khoản, cùng một hành vi và hậu quả xảy ra như

nhau, nhưng có trường hợp cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội, trường hợp

áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo. Điều 54 BLHS năm

2015 cũng chưa quy định rõ để thực sự có cách hiểu thống nhất về vấn đề này.

Ngoài ra, Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm x khoản 1

Điều 51 BLHS: Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha,

mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ chưa phù hợp với thực tế. Theo Pháp lệnh Số:

04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 07 năm 2012 của Ủy ban thương vụ quốc

hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công

với cách mạng thì người có công với cách mạng quy định cụ thể như sau:

“Người có công với cách mạng:

Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;

Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày

khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;

Liệt sĩ;

56

Bà mẹ Việt Nam anh hùng;

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;

Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;

Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;

Bệnh binh;

Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;

Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;

Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và

làm nghĩa vụ quốc tế;

Người có công giúp đỡ cách mạng.”[33]

Thực tiễn xét xử cho thấy tuổi người phạm tội còn trẻ nên dựa trên quy

định về Người có công nêu trên rất nhiều bị cáo không thể đáp ứng được điều

kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ này. Như vậy, vô hình chung đi trái với

yêu cầu thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, khoan hồng của nhà nước

giảm hình phạt tù, tăng cường các tình tiết không phải hình phạt tù...trong công

cuộc cải cách tư pháp. Chính từ những bất cập trong các quy định của Bộ luật

hình sự, dẫn tới việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn vẫn còn những thiếu sót,

ảnh hưởng đến mục đích hình phạt tù có thời hạn, gây bức xúc trong dư luận.

Ba là, việc áp dụng pháp luật về hình phạt tù có thời hạn còn thiếu văn

bản hướng dẫn cụ thể

Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có Nhà nước thẩm quyền có

quyền giải thích luật và pháp lệnh trên thực tế cơ quan này chưa thực hiện bởi sự

"quá tải" trong công tác xây dựng pháp luật. Vướng mắc trong việc ADPL nói

chung áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng đều dựa vào văn bản hướng

dẫn ADPL của các cơ quan tư pháp ở trung ương mà chủ yếu là TANDTC.

Hình thức văn bản chủ yếu là các thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng

thẩm phán TANDTC. Thực tế văn bản hướng dẫn áp dụng hình phạt còn chưa

kịp thời sâu sát với thực tế, dẫn đến nhiều khó khăn, lúng túng cho hoạt động áp

57

dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án địa phương. Nguyên nhân chủ yếu do

TANDTC vẫn còn chậm trong công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn xét xử,

hướng dẫn kịp thời các vướng mắc trong quá trình áp dụng hình phạt nói chung

và hình phạt tù có thời hạn của Tòa án các cấp.

Bốn là, phẩm chất, năng lực áp dụng pháp luật hình phạt tù có thời hạn

của một số Thẩm phán, Hội thẩm chưa cao

Một trong những khó khăn trên thực tế là trình độ, năng lực và phẩm chất

của Thẩm phán, Hội thẩm. Sau khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có

hiệu lực thi hành đồng thời với việc tăng thẩm quyền là sự gia tăng số lượng án

hình sự, các vụ án ngày càng phức tạp, thủ đoạn của tội phạm ngày môt tinh

vi. Bên cạnh đó là việc thiếu biên chế do chủ trương của của Đảng và nhà nước

về việc không tăng biên chế hiện có. Vì vậy, dẫn đến áp lực lớn đối với đội ngũ

cán bộ tòa án, một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bản án còn bị hủy, sửa.

Ngoài ra, còn có những thẩm phán chưa vững vàng về bản lĩnh chính trị và nghề

nghiệp. Một số thẩm phán còn thiếu sự cẩn trọng dẫn đến bỏ sót một số tình

tiết quan trọng ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Trình độ chuyên môn và năng lực của một bộ phận Hội thẩm nhân dân

chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của công tác xét xử. Các hội thẩm chủ yếu

kiêm nhiệm, đa số hạn chế về kiến thức pháp lý cũng như áp dụng kiến thức pháp

luật vào việc xét xử còn mang nặng tính hình thức. Thời gian dành cho việc nghiên

cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử chưa nhiều. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội

ngũ Hội thẩm vẫn còn khiêm tốn nên cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng hình

phạt tù có thời hạn trong giải quyết các vụ án hình sự.

Năm là, một số yếu tố khách quan khác

- Các cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan

tiến hành tố tụng còn thiếu thốn, cũng như chế độ phụ cấp chưa đảm bảo và chưa

ổn định. Bên cạnh đó những tác động của tiêu cực xã hội cũng ảnh hưởng đến

chất lượng của hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

58

- Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức công tác trong hệ thống

tòa án chưa thật sự phù hợp để đảm bảo cuộc sống, chưa đủ điều kiện để họ

thật sự khách quan, vô tư trong hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

- Công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự của Lãnh

đạo Tòa án nhân dân các cấp chưa thường xuyên, nên chưa phát hiện được thiếu

sót để có những biện pháp chấn chỉnh và khắc phục kịp thời.

Vẫn còn có những can thiệp của cá nhân, áp lực không đúng từ dư luận

đến việc áp dụng hình phạt của Toà án.

2.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn

tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn

Để nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn, yêu cầu những

người tiến hành tố tụng phải nắm chắc các quy định của Pháp luật hình sự, luôn

cập nhật các văn bản hướng dẫn pháp luật đồng thời đưa ra các đề xuất, giải

pháp hoàn thiện phù hợp với quy định và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước. Quyết định của bản án phải đảm bảo có đủ căn cứ, thực hiện đúng trình

tự thủ tục quy định của pháp luật.

Đối với pháp luật hình sự, Nhà nước ta đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ

sung nhưng vẫn còn những bất cập hạn chế so với đòi hỏi của thực tiễn trong

công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi,

bổ sung năm 2017 tuy rằng mới được ban hành nhưng cũng không tránh khỏi có

những vướng mắc, bất cập, hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới đây cần phải tiếp

tục nghiên cứu, sửa đổi cho thật khoa học, có hệ thống, đồng bộ, cụ thể và chặt

chẽ hơn trong phần chung và phần các tội phạm, trình tự áp dụng hình phạt tù

có thời hạn, bảo đảm quy định của pháp luật vừa chính xác, công bằng, nhân

đạo và dễ áp dụng. Các chế tài về hình phạt phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ

sung đảm bảo cho việc quyết định phạt đúng; hoàn thiện các căn cứ áp dụng

hình phạt phải đúng mục đích của hình phạt, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ

59

trách nhiệm hình sự; quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt:

Phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, đồng phạm, miễn hình phạt...cụ thể:

- Pháp luật có quy định về khoảng cách tối thiểu và khoảng cách tối đa

trong một khung hình phạt tù có thời hạn. Trong điều 38 BLHS hiện hành quy

định hình phạt ít nhất là 03 tháng và tối đa là 30 năm. Với khoảng các tối đa và tối

thiểu của khung hình phạt tù có thời hạn thế này vẫn còn quá rộng. Ưu điểm của

khoảng các này có thể áp dụng một cách linh hoạt trong nhiều trường hợp phạm

tội khác nhau trong nhiều tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong BLHS. Tuy nhiên,

với khoảng cách quá rộng sẽ dễ bị lạm dụng dẫn tới không thống nhất, thiếu chuẩn

xác trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Không đảm bảo đủ đầy tính công

bằng và không phát huy hết các biện pháp giáo dục như cải tạo không giam giữ, tù

treo,… Vì vậy, chế tài quy định đối với các tội phạm cụ thể cần được hoàn thiện

theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối mức tối đa của

khung hình phạt, chia nhỏ các khung hình phạt, tăng cường chế tài tùy nghi lựa

chọn giữa các hình phạt không phải là hình phạt tù.

Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức tối thiểu là 03 trong BLHS

hiện hành vẫn chưa phù hợp với thực tiễn. Trong bối cảnh tội phạm ngày càng

nhiều, cần mang các tính chất răng đe giáo dục cao như hiện nay thì việc thời

gian 03 tháng tối thiểu chưa phát huy được hết công dụng trong thực tiễn. Không

kể tới thời gian chấp hành hình phạt tù 03 tháng quá ngắn để cải tạo, nhiều lúc

dẫn tới tình trạng quá tải tại các cơ sở giam giữ. Nên với khoảng cách tối thiểu và

tối đa vẫn còn là 1 hạn chế.

Theo quan điểm của tác giả với thời gian chấp hành án 03 tháng, người

phải chấp hành án không có đủ thời gian để hưởng các chính sách về giảm thời

hạn chấp hành hình phạt, học nghề, không khuyến khích được ý thức tự cải tạo

của bản thân. Mức tối thiếu từ 03 tháng của hình phạt tù có thời hạn cần được

sửa chữa thành 06 tháng. Với mức hình phạt tù thay đổi sẽ làm hạn chế việc

áp dụng hình phạt tù quá nhiều. Điều này sẽ nâng cao việc áp dụng các hình

60

phạt khác thay thế cho việc sử dụng hình phạt tù có thời hạn, tạo nên tính hài

hoà trong công tác xét xử cũng như lựa chọn hình phạt.

Ngoài ra cũng cần phải sửa đổi bổ xung các tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự để người dân có thể hưởng quyền lợi và phù hợp hơn với thực

tiễn. Tại điểm X khoản 1 điều 51 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự: “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha,

mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” cần được thay đổi sửa chữa thành: “Người phạm

tội là người có công với cách mạng; là vợ, chồng, con của người có công với

cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ”. Ngoài ra để điều 54

BLHS 2015 được làm rõ hơn cần phải ban hành hướng dẫn về cách hiểu

cụ thể.

Quyết định hình phạt là nội dung quan trọng trong việc xét xử, nên

rất cần hoàn thiện và bổ xung một cách phù hợp và đầy đủ. Song song đó

các vấn đề về Hình phạt tù có thời hạn được quy định trong BLHS cũng

cần được hoàn thiện hơn. Giúp người phạm tội có cơ hội được giáo dục,

cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc hoàn thiện hình phạt tù

có thời hạn nhằm tăng giá trị trong việc áp dụng hình phạt. Nâng cao tính

pháp lý và tinh thần giáo dục, khuyến khích các hình phạt khác giúp

người phạm tội hoàn lương thay vì hình phạt tù.

2.2.2. Ban hành hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết rút kinh

nghiệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xây dựng và ban hành án lệ

Trong thời gian qua Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự và Bộ luật tố

tụng hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Tuy nhiên, các văn bản

hướng dẫn thi hành hai bộ luật trên còn chưa đầy đủ nên khi áp dụng sẽ không

tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc trong việc hiểu và áp dụng đúng tinh thần

của điều luật. Mặt khác, các quy chế phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành với

tòa án còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ dẫn tới thời gian xét xử vụ án kéo dài,

61

gặp nhiều khó khăn.

Do văn bản hướng dẫn cho hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND

tối cao chưa đầy đủ nên thực tiễn xét xử các TAND có sự vận dụng các hướng

dẫn của TAND tối cao theo những cách khác nhau thậm chí trong cùng một

TAND hoặc giữa các cấp TAND ở trong tỉnh. Bên cạnh đó là trình độ chuyên

môn của đội ngũ Hội thẩm nhân dân chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu xét xử. Do

đó, đòi hỏi trong thời gian tới cần tiếp tục đối mới công tác xây dựng pháp luật

tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ, dễ thực hiện. Ủy ban thường vụ quốc hội

phải tăng cường công tác giải thích pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng

một cách thống nhất trên cơ sở tổng kết thực tiễn.

Tổng kết kinh nghiệm xét xử là nhiệm vụ quan trọng. Thông qua hoạt

động tổng kết, rút kinh nghiệm về những vấn đề đã làm được, những vấn đề còn

vướng mắc, bất cập chúng ta mới rút ra được bài học kinh nghiệm đặc biệt về

việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xem xét, kiến nghị bãi bỏ những quy định

không còn phù hợp, sửa đổi, bổ sung các quy định còn chưa đầy đủ, có cách

hiểu khác nhau.

Hàng năm ngoài việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để đảm

bảo và nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn cần phải mở thường

xuyên hơn nữa các lớp tập huấn về nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán, hội thẩm

nhân dân. Đối với Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, hàng

năm đều tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm, mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, tổ

chức cho cán bộ, công chức tham gia các buổi tập huấn trực tuyến do TAND

tối cao tổ chức. Vì vậy, nhìn chung chất lượng xét xử các vụ án hình sự, trong

đó có chất lượng hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn được nâng cao.

Mặt khác, do việc quy định khoảng cách tối đa và tối thiểu trong khung

hình phạt tù có sự chênh lệch lớn, không thống nhất giữa các tòa án, cùng một

điều luật có cách hiểu khác nhau và và các hành vi phạm tội xảy ra theo chiều

62

hướng phúc tạp mà các quy định của pháp luật chưa điều chỉnh hết. Vì vậy, để

có cách hiểu thống nhất và đáp ứng yêu cầu đấu tranh kịp thời với tội phạm cần

xây dựng và ban hành các án lệ. Ngày 28/10/2015 Hội đồng thẩm phán tòa án

nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình

công bố, lựa chọn và áp dụng án lệ. Theo đó áp dụng án lệ để giải quyết các vụ

việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau

phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết

định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được

nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp

lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định

của Toà án; trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ

lý do trong bản án, quyết định của Toà án.

Tính đến nay TAND tối cao đã ban hành 16 án lệ, trong đó số lượng án

lệ về hình sự chiếm số lượng khá khiêm tốn (mới chỉ có 1), chưa đáp ứng được

như cầu xét xử hiện nay. Do đó, trong thời gian tới cần tiếp tục bổ sung các án

lệ của các vụ án hình sự để đảm bảo cho việc xét xử án hình sự của các tòa án

đạt kết quả cao hơn nữa.

2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng của Thẩm phán, Hội

thẩm trong công tác xét xử

Việc xây dựng, ban hành các văn bản áp dụng hình phạt nói chung hay

trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng thì một yếu tố rất quan

trọng để nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đó là con người

mà cụ thể là Thẩm phán và Hội thẩm. Chủ thể trực tiếp thực hiện áp dụng hình

phạt tù có thời hạn. Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt nghiêm khắc, tước

một số quyền của người bị kết án, cách ly họ khỏi đời sống xã hội trong khoảng

thời gian nhất định, người bị kết án còn phải chịu cả những hệ lụy xảy ra sau khi

họ đã chấp hành hình phạt xong. Vì vậy, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đòi

hỏi phải có những thẩm phán, hội thẩm có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có ý

63

thức pháp luật cũng như phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công việc, hiểu

biết đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, quy định của

pháp luật và trên hết là lợi ích của người dân. Do đó, yêu cầu nâng cao chất

lượng của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm yêu cầu cấp thiết.

Để có trình độ chuyên môn vững vàng, trước hết Thẩm phán, Hội thẩm

phải có trình độ cử nhân luật hoặc tương đương trở lên, có kinh nghiệm sống

phong phú, được đào tạo qua các lớp học về kỹ năng nghề nghiệp: kỹ năng hòa

giải, tâm lý tội phạm, tâm lý trẻ vị thành niên...Việc áp dụng hình phạt nói chung

và áp dụng hình phạt tù nói riêng không phải là sự áp đặt máy móc các quy

định của pháp luật mà đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải vận dụng một cách linh

hoạt trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. Ngoài yếu tố năng lực

chuyên môn, người Thẩm phán, hộithẩm nhân dân còn phải đáp ứng được các

yêu cầu về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Đây là yếu tố luôn song hành cùng

với yếu tố năng lực chuyên môn. Chúng bổ sung cho nhau giúp chủ thể áp dụng

hình phạt tù có thời hạn đưa ra được mức hình phạt đúng, đảm bảo cả yêu tố

trừng trị và yếu tố giáo dục, cải tạo đốivới người phạm tội.

Để nâng cao chất lượng của Thẩm phán, Hội thẩm trước hết cần chú

trọng đến quá trình đào tạo, lựa chọn, bổ nhiệm thẩm phán, khuyến khích và

tạo điều kiện về thời gian, vật chất để thẩm phán được học ở bậc cao hơn. Tổ

chức các kỳ thi tuyển chọn thẩm phán một cách nghiêm túc, công bằng. Khi

bầu hội thẩm nhân dân cần ưu tiên lựa chọn những người có trình độ pháp lý

hoặc đã làm công việc liên quan đến pháp luật. Tiếp đó cần phải tổ chức nhiều

đợt tập huấn, bồi dưỡng, các khóa đào tạo ngắn và trung hạn bằng nhiều hình

thức khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức thành các chuyên đề chuyên

sâu, về kỹ năng xét xử, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong công tác xét

xử, hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật... để không ngừng nâng cao năng

lực, trình độ và kinh nghiệm xét xử cho các Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm

phán và Hội thẩm phải thường xuyên đổi mới, tích cực ứng dụng công nghệ

64

thông tin vào việc tra cứu, trao đổi nghiệp vụ cùng đồng nghiệp; sau khi thực

hiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn phải tự đánh giá rút kinh nghiệm và đưa

ra phương hướng khắc phục những điểm còn thiếu sót nếu có, nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả công tác xét xử, bảo đảm thống nhất nhận thức pháp luật

và thống nhất áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án. Không xử

oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và đảm bảo pháp luật được tuân thủ

tuyệt đối.

Các Thẩm phán, Hội thẩm cũng phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện,

nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, giữ vững

quan điểm lập trường tư tưởng, bản lĩnh nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm

trong công tác, bảo đảm trong hoạt động xét xử Thẩm phán và Hội thẩm phải

độc lập và tuân theo pháp luật, bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án ngày

càng được nâng cao.

2.2.4. Đảm bảo các yếu tố khách quan thuận lợi cho việc áp dụng

hình phạt tù có thời hạn

Để bảo đảm áp dụng hình phạt tù một cách minh bạch chính xác thì tính

độc lập của toà án cần được đảm bảo. Nhất là đối với các biện pháp áp dụng hình

phạt tù cơ thời hạn, các hội đồng cần phân tính chính xác mức độ hành vi tội

phạm, tránh các tác động từ bên ngoài của các cá nhân và tố chức.. Bộ luật tố

tụng hình sự đã đưa ra nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật đồng thời quy định đường lối xử lý đối khi cá nhân, cơ

quan , tổ chức can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm, theo đó:

Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử dướibất kỳ hình thức nào

sẽ bị xử kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm

hình sự theo quy định của pháp luật tùy thuộc vào tính chất, mức độ hành vi.

Nguyên tắc này tuy không mới, nhưng với thức tiễn xét xử thì vẫn còn có

nhiều vi phạm. Nhiều các tổ chức, cá nhân và các cơ quan nhà nước có mối

quan hệ với nhau đã lợi dụng chi phối, can thiệp vào quá trình xử lí xét xử của

65

hội đồng. Để có thể thực hiện tính minh bạch cũng như công bằng trong công

tác xét xử khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì toà án cần toạ ra cơ chế xử

lí hoạt động tách biệt với sự kiểm tra giám sát của các cơ quan khác.

Ngoài ra các chính sách của các hội thẩm, thẩm phán cũng cần được

đảm bảo đãi ngộ: Cần thực hiện đãi ngộ đáp ứng đủ với các yêu cầu nhiệm vụ

đối với cán bộ toà án và các hội thẩm, vì thực trạng hiện nay chính sách đãi

ngộ đối với các cán bộ vẫn chưa ngang tầm với các nhiệm vụ được giao. Vì

các đặc tính được nêu, cần đổi chính sách bảo hiểm, tiền lương cho phù hợp

với nhiệm vụ cũng như trách nhiệm với đặc thù nghề nghiệp của ngành toà

án. Đối với các cơ sở thiết bị vật chất cũng cần được tu sửa, bảo trì cẩn thận.

Nâng cấp thiết bị cho đội ngũ an ninh để đảm bảo an toàn cho các cán bộ khi

hỗ trợ cũng như thực hiện các nhiệm vụ trong và ngoài toà án.

- Đối với giám đốc việc xét xử cần tăng cường kiểm tra giám sát.

Vào ngày 02/06/2005 Nghị quyết số 49/NQ-TƯ của Bộ chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: "Từng bước hoàn thiện

thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ

kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản

án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng

kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn

đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định" [4]. Qua thực tiễn xét

xử cho thấy, đa số các bản án đã xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, thì vẫn

còn một số bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có

sai sót như: Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với tình tiết

khách quan của vụ án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, áp dụng không

đúng pháp luật, quyết định mức hình phạt không đúng gây thiệt hại đến quyền

lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bỏ sót những tình tiết quan

trọng của vụ án dẫn đến giải quyết không đúng bản chất của nội dung vụ án.

Thực hiện chính xác, xử lý công minh, áp dụng hình phạt đúng người

66

đúng tội tuỳ vào mức độ hành vi của người phạm tội chính là tiêu chí của toà

án trong việc xét xử nhằm đảm bảo tính minh bạch cho mọi bản án. Để có thể

nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử cũng như nâng cao chất lượng, cần tăng

cường các công tác giám sát, kiểm tra, điều tra kĩ lưỡng từ những khâu đầu

67

vào hồ sơ để đạt kết quả tốt nhất.

KẾT LUẬN

Tác giả đã thực hiện việc nghiên cứu vấn đề về lý luận và đánh giá thực

tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai, trên cơ sở đó làm rõ những hạn chế, vướng mắc để đưa ra những

yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

Sau những lần xem xét, tác giả có những suy nghĩ sau:

1. Hình phạt tù có thời hạn là biện pháp nghiêm khắc của nhà nước áp

dụng đối với người phạm tội. Hình phạt tù có thời hạn không chỉ là biện pháp

cưỡng chế, răn đe và còn có tính giáo dục.

2. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn thể hiện ở việc trên cơ sở hồ sơ

vụ án và kết quả tranh tụng tại Tòa, xác định các tình tiết của vụ án, nhận thức

đầy đủ quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử lựa chọn mức hình phạt

tù có thời hạn để áp dụng đối với người bị kết tội và ra phán quyết trong bản án

kết tội về hình phạt đó.

3. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai đã đạt được những kết quả tốt, vụ án được đưa ra xét xử đạt tỷ

lệ cao, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không kết

án oan người vô tội. Từ những vấn đề khác nhau như một số vướng mắc của

bộ luật hình sự, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật còn những hạn chế nhất

định.... nên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn vẫn còn bất cập, hạn chế: Đó

là những bất cập trong vấn đề xác định các tình tiết, chứng cứ của vụ án; áp

dụng hình phạt khung hình phạt thiếu tính chính xác (như quá nặng hay quá

nhẹ; cho hưởng án treo không đúng…); tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân

thân của bị cáo bị đánh giá thiếu tính chính xác, dẫn đến quyết định áp dụng

khung hình phạt cho hưởng án treo không đúng; Áp dụng hình phạt tù có thời

hạn thiếu tính khách quan, công bằng.

4. Từ những thực tiễn đã có và xem xét các thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đồng

68

Nai, thành phố Biên Hoà thời gian gần đây đã có nhiều kết quả đáng kể. Từ những

thực tiễn đó ta cũng thấy được nhiều bất cập hạn chế cũng như những vướng mắt

trong hệ thống pháp luật hiện nay nhất là đối với hình phạt tù có thời hạn. Để làm

những vướng mắt và hạn chế chở nên hiệu quả, chúng ta cần thay đổi về vai trò

của hình phạt tù, thay đổi về chính sách hình sự, tính nhân đạo của chính sách

hình sự và hoàn thiện các quy định về hình phạt tù có thời hạn, và các tù có thời

hạn nên xây dựng riêng. Đối với người thực hiện pháp luật, cần có những hướng

dẫn bổ xung, hướng dẫn cụ thể để có thể áp dụng hình phạt tù một cách hợp lí và

đúng đắng nhất.

Chính sách hình sự hướng thiện phải được nhận thức một cách đầy đủ,

đúng đắn, phòng ngừa, mục đích hình phạt và vai trò hình phạt tù phải được xác

định là trọng tâm. Dựa trên cơ sở thay đổi về mặt nhận thức, các quy định của

Bộ luật hình sự sẽ ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo đáp ứng được những

yêu cầu của cải cách tư pháp, đồng thời đảm bảo quyền con người theo quy

định của Hiến pháp và pháp luật.

Trong quá trình nghiên cứu luận văn có được sự hướng dẫn tận tình. Tuy

nhiên, do khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn nên Luận văn không thể tránh

khỏi những hạn chế, thiếu sót. Từ bài luận văn, tác giả xin cám ơn các đọc giả đã

xem xét và góp ý, từ đó tác giả có thể hoàn thiện bài viết hơn. Xin chân thành

69

cám ơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb

chính trị quốc gia, Hà Nội.Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghịquyết số

08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

2. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

3. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Hà Nội.

4. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số

01/2000/NQ- HĐTP ngày 04/08/2000, hướng dẫn áp dụng một số quy

định trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999.

5. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số

02/2003/NQ- HĐTP ngày 17/4/2003, hướng dẫn áp dụng một số quy

định của Bộ luật hình sự năm 1999.

6. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số

04/2004/NQ- HĐTP ngày 05/11/2004, hướng dẫn áp dụng một số quy

định trong phần xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

7. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2015), Nghị quyết số

03/2015/NQ-HĐTP về quy trình công bố, lựa chọn và áp dụng án lệ.

8. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số

05/2017/NQ-HĐTP ngày 19 tháng 07 năm 2017 Ban hành một số biểu

mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định

đã có hiệu lực pháp luật của Bộ luật tố tụng hình sự;

70

9. Nguyễn Văn Hiện (2002), Nâng cao chất lượng soạn thảo bản án hình

sự một số yêu cầu cấp bách, Tạp chí dân chủ pháp luật, số 04/2002.

10. Hoàng Văn Huyền (2016), “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ.

11. Phạm Hồng Hải (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn

xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

12. Đinh Tấn Long (2017): “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”, Luận văn thạc sĩ.

13. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb

Lao động- xã hội, Hà Nội.

14. Võ Hồng Nam (2014), “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ.

15. Cao Thị Oanh, Lê Văn Cảm, Trần Văn Độ, Giáo trình luật hình sự

Việt Nam, NXB Hà Nội, Giáo dục Việt Nam 2013.

16. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2013, Hà Nội.

17. Quốc Hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

18. Quốc hội (2014); Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày

24/11/2014, Hà Nội.

19. Quốc Hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

20. Quốc Hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội.

21. Quốc Hội (2015), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.

22. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm,

các tội xâm phạm sở hữu, 2003, Nxb Tp Hồ Chí Minh.

23. Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2017), Bản án hình sự sơ

thẩm số 12/2017/HSST ngày 23/01/2017.

71

25. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án hình sự sơ

thẩm số 47/2018/HSST ngày 12/08/2018.

26. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án hình sự sơ

thẩm số 46/2018/HSST ngày 07/08/2018.

27. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2017), Bản án hình sự sơ

thẩm số 41/2017/HSST ngày 08/11/2017.

28. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2017), Bản án hình sự sơ

thẩm số 08/2017/HSST ngày 28-03-2017.

29. TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2016 - 2020), Báo cáo công

tác năm.

30. TAND tối cao (2017), Văn bản số 155/TANDTC - PC ngày 28 tháng 07

năm 2017 về việc áp dụng thống nhất thể thức và kĩ thuật trình bày các

văn bản tố tụng trong đó có bản án.

31. Nguyễn Đức Tuấn (Chủ biên), Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

32. Chu Thị Thu Trang (2009), “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của

các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam”, Luận án tiến sĩ.

33. Ủy ban thường vụ quốc hội (2012), Pháp lệnh Số: 04/2012/UBTVQH13

ngày 16 tháng 07 năm 2012 của Ủy ban thương vụ quốc hội về việc

sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với

cách mạng thì người có công với cách mạng.

34. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội.

35. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb khoa

học xã hội.

36. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về Định tội danh, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội.

72

37. Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.