Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
lượt xem 17
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; Thực trạng pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất và thực tiễn thực hiện ở tỉnh Đồng Nai; Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHẠM NGỌC ANH GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHẠM NGỌC ANH GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐẶNG VŨ HUÂN Hà Nội, năm 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là vùng lãnh thổ không thể tách rời của mỗi quốc gia, là tài nguyên vô giá, là thành phần cốt lõi của môi trường sống, là nơi phân bố dân cư và là nguồn tư liệu sản xuất trọng yếu trong nông nghiệp, sản xuất, kinh doanh. Đất đai cũng là nền tảng để đặt các công trình dân dụng, các công trình phát triển kinh tế – xã hội, là tài sản có giá trị lớn của mọi chủ thể trong xã hội… Trong thời điểm nước ta tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai ngày càng phát huy vai trò quan trọng của mình, đặc biệt với vai trò là nguồn tư liệu sản xuất trọng yếu không chỉ trong sản xuất nông nghiệp. Trong mọi lĩnh vực kinh tế đều cần sử dụng đất đai, đối với sản xuất công nghiệp là nền tảng để xây dựng các nhà máy – xí nghiệp; đối với phát triển thương mại và dịch vụ, để xây dựng các trung tâm thương mại, cửa hàng, nhà hàng, khách sạn, khu du lịch… Xuất phát từ vai trò to lớn đối với kinh tế – chính trị – xã hội, pháp luật Việt Nam quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tuy nhiên trên thực tế, Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà thông qua các hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) để chuyển giao cho các chủ thể khác sử dụng. Bằng các quy định của pháp luật đất đai, Nhà nước cũng đã mở rộng quyền cho người sử dụng đất (NSDĐ), mà một trong đó số đó là quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp để hợp tác sản xuất, kinh doanh. Quyền góp vốn bằng QSDĐ đã được ghi nhận từ năm 1977 trong Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và được triển khai từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Tuy nhiên, trên thực tế, ngay cả ở thời điểm hiện tại, quyền này chưa được NSDĐ cũng như cán bộ công chức Nhà nước hiểu đúng bản chất và áp dụng rộng rãi, chưa phát huy được hiệu quả. Quá trình thực hiện quyền góp vốn và nhận góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp tại từng địa phương còn nhiều hạn chế, thậm chí có sự khác biệt rõ rệt trong việc áp dụng pháp luật tại từng địa phương. Điều này, dẫn đến khó khăn cho cả NSDĐ có nhu cầu góp vốn và doanh nghiệp có nhu cầu nhận góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp. 1
- Luật Đất đai qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, nhưng QSDĐ - xét về mặt tổng quan vẫn chưa được xem là một loại hàng hóa có thể tự do lưu thông. Các Luật, Bộ luật điều chỉnh quan hệ góp vốn bằng QSDĐ như: Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… chưa có sự thống nhất, dẫn đến việc góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn khi xét ở phương diện thực thi. Từ những nguyên do đó, việc vô cùng cấp bách và mang ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay là nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp ở địa phương. Với mong muốn làm rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp trong thực tiễn tại một địa phương cụ thể là tỉnh Đồng Nai, nên tôi đã lựa chọn đề tài “Góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Có thể nói, hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp nói chung và góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp nói riêng đã được các nhà khoa học pháp lý chuyên ngành quan tâm và nghiên cứu từ lâu. Việc góp vốn bằng QSDĐ đã được ghi nhận từ năm 1977 trong Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhưng chỉ đến khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 mới được triển khai. Góp vốn bằng QSDĐ là một hình thức góp vốn, do đó, có thể được nghiên cứu ở nhiều phương diện và mức độ khác nhau. Đến thời điểm hiện tại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về góp vốn bằng QSDĐ nói chung, được công bố trên các luận án tiến sĩ, thạc sĩ, báo cáo khoa học, đề tài nghiên cứu, tạp chí, sách chuyên khảo… như: - Bài viết của tác giả Đỗ Quốc Quyền (2010): “Xác định loại và giá trị tài sản góp vốn vào công ty” đăng trong Tạp chí nghề luật, Học viện tư pháp số 5/2010; - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện nghiên cứu quản lý đất đai (Tổng cục quảy lý đất đai), Hà Nội do Bùi Sỹ Dũng làm Chủ nhiệm đề tài ( 2011): “Nghiên cứu thực trạng thực hiện các quyền chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp bằng quyền sử dụng đất nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam”; 2
- - Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Lan Đan (2012), “Pháp luật góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại tỉnh Ninh Thuận”, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; - Bài viết của tác giả Lê Thị Diễm Phương (2012), “Một số vấn đề liên quan đến hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất”, trong cuốn sách “Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch về quyền sử dụng đất” Nxb Lao động; - Bài viết của tác giả Phạm Minh Hoàng và Lê Thị Khánh Trang (2012): “Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất không có sự thống nhất trong các quy định của pháp luật”, (http://www.trilawoffice.com.vn/tai-lieu-nghien-cuu/297-gop- von-bang-gia-tri-quyen-su-dung-dat.html); - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Tài nguyên và Môi trường do Nguyễn Thắng làm Chủ nhiệm đề tài (2012): “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất cơ chế chính sách góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tổ kinh tế, hộ gia đình, cá nhân trong quy hoạch, kế hoạch bị thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư, phát triển khu đô thị, khu công nghiệp ở nước ta”; - Bài viết của tác giả Trương Hữu Ngữ (2014): “Góp vốn bằng đất: hiểu sao cho hợp lý”, (http://www.thesaigontimes.vn/121620/Gop-von-bang-dat-hieu-sao-cho- hopy?.html) - Bài viết của tác giả Sỹ Hồng Nam (2015): “Góp vốn bằng quyền sử dụng đất hay góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất” đăng trên Tạp chí Khoa học Kiểm sát (số 01); - Luận án Tiến sĩ luật học của Sỹ Hồng Nam (2016): “Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất”, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Việc tìm hiểu về tình hình nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài sẽ cung cấp cho tác giả một số kiến thức cơ bản cả về lý luận và thực tiễn đối với việc góp vốn bằng QSDĐ nói chung và góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp nói riêng. Đây sẽ là những tư liệu quý giá mà trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn của mình tác giả có thể tham khảo. Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài góp vốn bằng QSDĐ, nhưng đến nay, vẫn chưa có công 3
- trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về việc góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn của một địa phương cụ thể, qua đó, rút ra những bất cập và hạn chế còn tồn đọng trong việc thực thi pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp để đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp. Do vậy, không có sự trùng lặp về mặt nội dung giữa các công trình nghiên cứu đã có và đề tài luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp theo Pháp luật Việt Nam, phân tích và đánh giá thực tiễn tỉnh Đồng Nai để đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây để đạt được mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp, nội hàm pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp; các yếu tố chi phối đến pháp luật góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam nói chung và thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Nai, qua đó chỉ ra những ưu điểm có thể phát huy, những hạn chế bất cập cần phải khắc phục; - Từ các kết quả nghiên cứu lý luận pháp luật về quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp và phân tích, đánh giá thực tiễn, luận văn đưa ra những đề xuất về phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu 4
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp luật có quy định về quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp; thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Nai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp có thể được tiếp cận để nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả ưu tiên tập trung làm rõ các quy định về quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp; thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Nai, những bất cập và hạn chế còn tồn đọng để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được nhiệm vụ và đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn được tiếp cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Đối với từng nội dung cụ thể của luận văn, tác giả áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, cụ thể: Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng trong hầu hết các chương của luận văn nhằm đảm bảo tính tính khái quát và có hệ thống của nội dung được nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu, phân tích một cách khái quát về các thuộc tính đặc trưng của việc góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp, thông qua các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Nai để rút ra kết luận về bản chất của hoạt động góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp, đồng thời đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt luận văn. Phương pháp luật học so sánh được sử dụng để so sánh các khái niệm, quy định về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp trong các văn bản pháp luật khác nhau trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam cũng như với các khái niệm, quy định khác của pháp luật nước ngoài có liên quan. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 1 của luận văn. 5
- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng để trình bày nội dung của luận văn một cách khoa học, có bố cục rõ ràng, nội dung được gắn kết chặt chẽ. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt luận văn. Phương pháp phân tích, dự báo khoa học: được sử dụng để dự báo xu hướng phát triển của pháp luật góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp; đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 3 của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận pháp luật về quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Khái niệm QSDĐ ở Việt Nam là khái niệm đặc thù, bởi vậy, vấn đề góp vốn bằng QSDĐ cũng cần có những đặc thù trong điều chỉnh pháp luật. Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nêu ra định hướng hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp tại các địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Chương 2: Thực trạng pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất và thực tiễn thực hiện ở tỉnh Đồng Nai Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀO DOANH NGHIỆP 1.1. Khái quát về góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp Theo Từ điển Kinh tế học của tác giả Nguyễn Văn Ngọc xuất bàn năm 2006, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, “vốn” được định nghĩa là “giá trị của tư bản, hàng đầu tư hay tài sản chính (tiền) được sử dụng vào mục đích kinh doanh” [tr.601]. Vốn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, là điều kiện tiên quyết, mang ý nghĩa quyết định đối với mọi giai đoạn trong quy trình sản xuất, kinh doanh. Do đó, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có những chủ trương, chính sách để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được xem là tổng thể giá trị những tài sản ứng ra lúc ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp, thường được quy đổi bằng “tiền”. PGS.TS Lê Thị Châu nêu quan điểm: Góp vốn vào doanh nghiệp là việc một cá nhân hay tổ chức theo một trình tự, thủ tục nhất định chuyển tài sản của mình như tiền, hiện vật định giá được bằng tiền hoặc các quyền về tài sản vào doanh nghiệp và được hưởng các quyền và các nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp định nghĩa góp vốn là việc nhà đầu tư đưa tài sản vào doanh nghiệp bằng các hình thức khác nhau để trở thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của doanh nghiệp. Từ Luật Công ty 1990 đến Luật Doanh nghiệp các năm 1999, 2005, 2014 và mới nhất là Luật Doanh nghiệp năm 2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, đều đưa ra khái niệm về góp vốn. Luật Doanh nghiệp năm 2005 định nghĩa về góp vốn (tại khoản 4 Điều 4) là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là vàng; tiền Việt Nam, ngoại tệ được tự do chuyển đổi; giá trị QSDĐ; giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật; các tài sản khác ghi trong điều lệ công ty do các thành viên góp để tạo thành vốn của công ty. Tại khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 định 7
- nghĩa góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập. Khoản 1 Điều 35 quy định chi tiết về tài sản góp vốn có thể là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị QSDĐ, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng đồng Việt Nam. Theo quy định mới nhất trong Luật Doanh nghiệp năm 2020, tại khoản 1 Điều 34 thì tài sản góp vốn có thể là vàng, tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, QSDĐ, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng tiền đồng Việt Nam. Điểm a, khoản 1 Điều 36 quy định rõ hơn là đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc QSDĐ thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc QSDĐ cho công ty theo quy định của pháp luật. Bản chất pháp lý của việc góp vốn là chuyển tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vì thế, hành vi góp vốn có thể được xem xét trên nhiều góc độ bao gồm cả kinh tế và pháp lý. Xét ở góc độ kinh tế, góp vốn là một trong những hình thức tích tụ tư bản. Thông qua việc góp vốn, doanh nghiệp chuẩn bị nguồn lực nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi chủ đầu tư góp vốn vào doanh nghiệp, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng từ chủ đầu tư (thành viên góp vốn) sang doanh nghiệp. Việc chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng tài sản có thể thông qua các loại hình hợp đồng như: Hợp đồng góp vốn, hợp đồng thành lập doanh nghiệp… Các chủ đầu tư thông qua việc góp vốn, chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng tài sản vào doanh nghiệp để nhận về quyền lợi của mình trong doanh nghiệp. Pháp luật và điều lệ doanh nghiệp xác định những quyền lợi này cho thành viên góp vốn. Có thể hiểu rằng, việc nhiều người cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh vì mục đích thu lợi nhuận được gọi chung là góp vốn. Xét ở góc độ pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao các quyền đối với tài sản là vốn góp để nhận về quyền lợi đối với doanh nghiệp. Nghĩa vụ đối ứng giữa người góp vốn vào doanh nghiệp khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan 8
- hệ mua bán hay gia công ở chỗ quyền lợi mà người bỏ tiền ra nhận lại là một thứ đặc quyền: quyền sở hữu công ty. Về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể đem góp vốn nhưng phải phù hợp với sự thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào đối tượng góp vốn, có thể phân loại góp vốn thành các hình thức khác nhau. Ngoài quy định chung thì xuất phát từ đối tượng góp vốn, mỗi hình thức góp vốn sẽ có quy chế, chế định về pháp lý riêng. Các hình thức góp vốn có tính phổ biến hiện nay là góp vốn bằng các loại tài sản như tiền, hiện vật, quyền tài sản…; góp vốn bằng tri thức; góp vốn bằng công nghệ và các hình thức mới khác… Đất đai là tài nguyên vô giá, là thành phần cốt lõi của môi trường sống, là nơi phân bố dân cư và diễn ra các hoạt động sống, là nguồn tư liệu sản xuất trọng yếu trong nông nghiệp, sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội… Việc phân bổ đất đai luôn là vấn đề hết sức quan trọng của mọi quốc gia, bởi vì qua đó, quyết định lợi ích, sự công bằng đối với từng người dân và thể hiện sự thành công hay thất bại của một chế độ chính trị. Vấn đề bao nhiêu đất đai, thuộc về những ai và để làm gì luôn là vấn đề mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì thế, sở hữu đất đai luôn là vấn đề hết sức phức tạp do những đặc điểm khác biệt của đất đai so với tài sản, tài nguyên thiên nhiên khác. Theo Điều 53 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý là Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ để chuyển giao quyền sử dụng đất cho các chủ thể khác. Trong quá trình sử dụng đất, bên cạnh quyền khai thác sử dụng đất, NSDĐ còn được chuyển nhượng QSDĐ. Có thể thấy rằng chế định đặc thù của pháp luật Việt Nam là QSDĐ. Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Đất đai là một bất động sản, ở góc độ quyền sử dụng một loại tài sản thì quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất đai chính là QSDĐ. Khi xem xét ở góc độ này, QSDĐ là khái niệm pháp lý chỉ một trong những quyền của chủ sở hữu đất đai. Từ Hiến pháp năm 1992 đến nay, quyền của NSDĐ ngày càng được mở rộng, chứ không chỉ là quyền khai thác và sử dụng đất. Theo quy định tại Luật Đất đai năm 2013, NSDĐ ngoài những quyền chung đối với đất đai thì còn được thực hiện các 9
- giao dịch về QSDĐ như chuyển đổi mục đích sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng cho và góp vốn như những giao dịch về tài sản khác. Tuy nhiên, không phải tất cả chủ thể sử dụng đất đều có đầy đủ 8 quyền nêu trên, mà tùy thuộc vào chủ thể sử dụng đất và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước để xác lập và thực hiện những quyền này. Về bản chất, QSDĐ bao gồm một số quyền của mà Nhà nước đóng vai trò là chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho NSDĐ. Tuy nhiên, Nhà nước không chuyển giao tất cả các quyền của chủ sở hữu cho NSDĐ mà chỉ chuyển giao một số quyền, trong đó bao gồm quyền góp vốn. Điều đó có nghĩa là, mặc dù QSDĐ là một quyền tài sản nhưng lại không đơn thuần chỉ là quyền khai thác những thuộc tính có ích của đất mà còn bao hàm cả quyền được giao dịch nó như giao dịch các loại tài sản khác. Đây chính là yếu tố làm cho QSDĐ mang bản chất gần với quyền sở hữu đất đai. Pháp luật quy định về việc thực hiện hành vi giao dịch QSDĐ của NSDĐ tương tự quyền định đoạt của chủ sở hữu. QSDĐ là một quyền phái sinh từ quyền sở hữu đất đai. Vì thế, dù NSDĐ có được giao dịch QSDĐ, nhưng các quyền này bị hạn chế và chi phối bởi ý chí của đại diện chủ sở hữu đất đai là Nhà nước. Xét trên phương diện lý luận, rất nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập về khái niệm góp vốn bằng QSDĐ. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì góp vốn bằng QSDĐ được định nghĩa là một sự thỏa thuận giữa các bên mà NSDĐ được quyền góp phần vốn của mình bằng QSDĐ để hợp tác sản xuất, kinh doanh và sự thỏa thuận này phải tuân theo điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật Dân sự và pháp luật về đất đai quy định. Lần đầu tiên việc góp vốn bằng QSDĐ được quy định là tại Luật đất đai năm 1993, sau đó là trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và Luật Đất đai năm 2003. Các văn bản pháp luật này đã tạo tiền đề về mặt pháp lý để NSDĐ có thể góp vốn bằng QSDĐ nhằm mục đích hợp tác sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích khi giao đất …. Còn trong “Giáo trình Luật Đất đai” của Trường Đại học Luật Hà Nội, TS Trần Quang Huy cho rằng việc góp vốn bằng QSDĐ được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên; theo đó một bên là hộ gia đình, cá nhân có QSDĐ hợp pháp, có quyền góp vốn bằng QSDĐ để hợp 10
- tác, sản xuất, kinh doanh với các bên khác là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Với tư cách là một hình thức góp vốn, tác giả Hồng Vân cho rằng: “Góp vốn bằng QSDĐ là việc NSDĐ đưa tài sản thuộc quyền sử dụng của mình là QSDĐ đối với một diện tích nhất định để góp vốn thành lập công ty hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty”. Như vậy, khái niệm “góp vốn bằng QSDĐ” đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, các định nghĩa về góp vốn bằng QSDĐ trên mới chỉ đưa ra một số khía cạnh cụ thể của góp vốn bằng QSDĐ mang tính liệt kê, dựa trên nội dung pháp luật thực định như: chủ thể, đối tượng, hình thức… Tương tự các hình thức góp vốn khác, hình thức góp vốn bằng QSDĐ làm chấm dứt QSDĐ của bên góp vốn đồng thời phát sinh QSDĐ đối với bên nhận góp vốn thông qua các loại Hợp đồng như Hợp đồng góp vốn, Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Theo quy định tại Điều 727 Bộ luật Dân sự năm 2005 định nghĩa về Hợp đồng góp vốn bằng giá trị QSDĐ như sau: là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó NSDĐ (sau đây gọi là bên góp vốn) góp phần vốn của mình bằng giá trị QSDĐ để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai… Khác với quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 khi tách Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thành một chương riêng biệt (Chương XXXIII). Bộ luật Dân sự năm 2015 gộp chung quyền góp vốn vào trong các điều khoản như một trong số các quyền phái sinh từ QSDĐ. Cụ thể có thể xem xét tại Điều 500, Hợp đồng về QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên mà theo đó NSDĐ chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất hoặc thực hiện quyền khác theo quy định của Luật đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng với NSDĐ. Tác giả Sỹ Hồng Nam trong Luận án Tiến sỹ luật học của mình đã viết: “Góp vốn bằng QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên tuân theo điều kiện, nội dung, hình thức do pháp luật quy định, theo đó NSDĐ góp phần vốn của mình bằng QSDĐ để sản xuất, kinh doanh với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức khác ở trong nước hoặc ngoài nước”. 11
- Trên phương diện pháp luật, tùy thuộc vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, góp vốn bằng QSDĐ bao gồm hai hình thức: Một là, góp vốn bằng QSDĐ để hợp tác kinh doanh theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC – Business Cooperation Contract); Hai là, góp vốn bằng QSDĐ để thành lập pháp nhân mới, hoặc cùng kinh doanh sản xuất kinh doanh với pháp nhân đã được thành lập trước. Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập. Như vậy, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp là một trong hai hình thức của hành vi góp vốn bằng QSDĐ. Trên phương diện kinh tế, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp là hành vi của bên góp vốn là NSDĐ tự nguyện chuyển giao đất và các lợi ích từ đất đai cho bên nhận góp vốn là doanh nghiệp để đổi lấy quyền lợi đối với doanh nghiệp khi góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập. Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp như sau: “Góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp là sự thỏa thuận giữa các bên mà theo đó NSDĐ góp phần vốn của mình bằng QSDĐ để tạo thành vốn điều lệ của doanh nghiệp, bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập và sự thỏa thuận đó phải tuân theo điều kiện, nội dung, hình thức do pháp luật quy định”. 1.1.2. Đặc điểm của góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp Một là, đối tượng của góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp là một dạng quyền tài sản: Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ để chuyển giao cho các chủ thể khác chứ không trực tiếp sử dụng đất. Tuy không có quyền sở hữu đất đai, nhưng chủ thể sử dụng đất có QSDĐ. QSDĐ có thể định giá được bằng tiền và có thể giao dịch, một trong số giao dịch đó có góp vốn. Nhưng không phải tất cả QSDĐ đều là có thể được xem là đối tượng góp vốn. Từ Điều 166 đến Điều 192 Luật Đất đai năm 2013 quy định chặt chẽ từng chủ thể và từng loại QSDĐ được góp vốn. Qua những quy định của pháp luật nêu trên có thể thấy được 12
- đối tượng của quan hệ góp vốn là QSDĐ không phải bản thân đất đai hay QSDĐ nói chung mà được xác định bằng quy định của pháp luật. Chính vì vậy, ý chí Nhà nước chi phối đối tượng của góp vốn bằng QSDĐ với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai. Hai là, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp là một hình thức góp vốn riêng biệt: Ở Việt Nam hiện nay, việc góp vốn vào doanh nghiệp có nhiều hình thức khác nhau. Dựa vào đối tượng góp vốn để phân loại thành các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp. Mỗi hình thức góp vốn vào doanh nghiệp phải tuân theo một quy chế pháp lý nhất định. Bản chất của đất đai là bất động sản. Do đó, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp được xếp vào hình thức góp vốn bằng hiện vật. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện chủ sở hữu là Nhà nước thống nhất quản lý, không có một tổ chức hay cá nhân nào có quyền sở hữu đất đai. Có thể hiểu là chế độ pháp lý áp dụng cho từng loại QSDĐ khác nhau là riêng biệt vì QSDĐ là tài sản, có chế định đặc thù, được quy định bởi nhiều chế độ pháp lý tương ứng với từng loại đất. Do đó, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp được xác định là một hình thức góp vốn riêng. Ba là, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp không làm thay đổi quan hệ sở hữu đất đai: khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ thì QSDĐ của cá nhân, tổ chức được xác lập. Ngoài những quyền chung thì NSDĐ còn được thực hiện các quyền đối với QSDĐ quy định tại Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, góp vốn. Trong các quyền của NSDĐ góp vốn là một trong những quyền mà khi thực hiện sẽ làm chấm dứt QSDĐ của chủ thể sử dụng đất. Ngược lại, góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản khác vào doanh nghiệp sẽ làm chấm dứt hoàn toàn quyền sở hữu đối với tài sản đó của bên góp vốn và xác lập quyền sở hữu nó cho doanh nghiệp. Đây là đặc trưng thể hiện sự biệt giữa góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp với góp vốn vào doanh nghiệp bằng các hình thức khác. Bốn là, NSDĐ có thể góp vốn vào doanh nghiệp trên phương diện QSDĐ hoặc góp vốn trên phương diện là quyền tài sản: Bản chất của đất đai là bất động sản. Giá trị của đất đai thể hiện qua giao dịch trên thị trường với tư cách là một loại 13
- hàng hóa đặc biệt chứ không chỉ đơn thuần là trên phương diện khai thác, sử dụng như các tài sản hiện vật khác. Vì thế, NSDĐ có thể góp vốn vào doanh nghiệp bằng QSDĐ hoặc góp vốn bằng quyền tương đương quyền sở hữu đất đai. Tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên, trong một số trường hợp, thành viên góp vốn tách việc góp vốn bằng quyền hưởng dụng vào doanh nghiệp đối với tài sản góp vốn là hiện vật ra khỏi việc góp vốn bằng tài sản, bởi người góp vốn vào doanh nghiệp chỉ cho doanh nghiệp được sử dụng tài sản và thu lợi từ đó chứ không cho doanh nghiệp quyền sở hữu hoàn toàn tài sản đó. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp không có quyền quyết định đối với tài sản góp vốn. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà chủ sở hữu là Nhà nước đại diện quản lý. Điều 166 và Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định NSDĐ được thực hiện các giao dịch QSDĐ như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, tặng cho, để lại thừa kế, góp vốn giống như đối tượng là tài sản chứ không phải chỉ có quyền khai thác, sử dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất đai. Với quy chế pháp lý đặc thù của QSDĐ như trên nên NSDĐ có thể lựa chọn góp vốn bằng quyền sử dụng đất đai hoặc góp vốn bằng QSDĐ với tư cách là quyền tương đương sở hữu. Năm là, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp trong thời hạn sử dụng đất: Có hai loại thời hạn sử dụng đất theo pháp luật hiện hành là ổn định, lâu dài và có thời hạn. Điều 125 Luật Đất đai năm 2013 quy định các trường hợp sau đây được áp dụng thời hạn sử dụng đất ổn định, lâu dài bao gồm: đất ở do hộ gia đình, cá nhân sử dụng; đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng; đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên; đất thương mại, dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp của hộ gia đình cá nhân đang sử dụng ổn định; đất xây dựng trụ sở cơ quan; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, di tích danh lam, thắng cảnh, văn hóa; đất giao thông thủy lợi; đất nghĩa địa. Với các loại đất còn lại thì Điều 126 Luật Đất đai năm 2013 quy định thời hạn sử dụng tùy thuộc vào hình thức sử dụng đất mà thời hạn được xác định không quá 05 năm, 50 năm, 70 năm, 99 năm. Do đó NSDĐ chỉ được góp vốn bằng QSDĐ trong thời hạn sử dụng đất. Đối với các hình thức góp vốn khác thì thời hạn góp vốn vào doanh nghiệp là do các bên thỏa thuận mà không bị hạn chế về thời hạn sở hữu tài sản. 14
- Sáu là, giá trị QSDĐ góp vốn vào doanh nghiệp là do các bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn giá đất do Nhà nước ban hành: Ở Việt Nam, Nhà nước vừa là đại diện chủ sở hữu vừa là cơ quan quản lý đất đai. Vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước được thực hiện thông qua việc quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, quy định quyền và nghĩa vụ của NSDĐ. Vai trò quản lý đất đai Nhà nước được thực hiện thông qua việc quyết định về thuế, lệ phí, chi phí phát sinh từ các giao dịch QSDĐ. Vì vậy, việc ban hành giá đất là để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng quản lý đất đai của Nhà nước. Góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp là một loại giao dịch, cho nên các bên có quyền thỏa thuận về giá trị QSDĐ khi góp vào doanh nghiệp nhưng không được thấp hơn so với giá đất do Nhà nước ban hành. Quy định này thứ nhất là nhằm ngăn chặn việc trốn tránh nghĩa vụ tài chính của tổ chức, cá nhân đối với Nhà nước khi góp vốn; thứ hai là NSDĐ được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, tránh việc bị bên nhận góp vốn là doanh nghiệp “ép giá”. Bảy là, góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp gắn liền với tài sản trên đất: Đất đai và tài sản gắn liền với đất là một thực thể không tách rời. Với những quốc gia duy trì hình thức sở hữu tư nhân đối với đất đai thì việc góp vốn bằng đất đai nghĩa là góp luôn cả đất đai lẫn tài sản trên đất vào doanh nghiệp. Còn đối với các quốc gia duy trì hình thức sở hữu toàn dân đối hoặc sở hữu Nhà nước với đất đai thì quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai có sự tách rời, tức là đất đai thuộc sở hữu toàn dân hoặc Nhà nước còn tài sản gắn liền với đất lại thuộc quyền sở hữu của NSDĐ. Với những giao dịch không chuyển QSDĐ, NSDĐ có thể lựa chọn đem tài sản gắn liền với đất vào giao dịch QSDĐ hoặc giao dịch khác. Ví dụ như việc thế chấp QSDĐ thể hiện rất rõ điều này: NSDĐ có thể thế chấp QSDĐ trong một giao dịch riêng và thế chấp tài sản trên đất trong một giao dịch khác. Tuy nhiên, đối với giao dịch là góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp, mục đích của doanh nghiệp khi nhận góp vốn bằng QSDĐ là khai thác, sử dụng đất hoặc giá trị QSDĐ nên khi góp vốn thì tài sản gắn liền với đất là bộ phận không tách rời với QSDĐ. 1.1.3. Phân biệt góp vốn bằng quyền sử dụng đất với góp vốn bằng các loại tài sản khác vào doanh nghiệp 15
- Mỗi hình thức góp vốn vào doanh nghiệp có quy chế pháp lý riêng bởi vì mỗi loại tài sản có đặc trưng riêng. Bởi vì tài sản là khái niệm trừu tượng, khó để xác định về mặt phạm vi và thường xuyên thay đổi, do đó pháp luật dân sự của các quốc gia trên thế giới không đưa ra định nghĩa tài sản, điều này không giống với pháp luật dân sự của Việt Nam. Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015): “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản”. Tài sản có ý nghĩa quan trọng trong xã hội, là đối tượng của nhiều loại giao dịch mà góp vốn vào doanh nghiệp là một nội dung trong đó. Tài sản góp vốn theo Điều 34 Luật Doanh nghiệp năm 2020 được diễn giải theo hướng rộng hơn so với Bộ luật Dân sự 2015 nhưng vẫn sử dụng phương pháp liệt kê. Liệt kê tài sản góp vốn có ý nghĩa trong một phạm vi nhất định đối với việc xây dựng quy chế pháp lý đối với từng loại tài sản, nhưng sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Hình thức góp vốn bằng tài sản là quan trọng nhất trong các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp hiện nay bởi vì tài sản là tiền đề cho mọi hoạt động của doanh nghiệp hình thành từ việc góp vốn. Bản chất của đất đai là bất động sản, cho nên góp vốn bằng đất đai vào doanh nghiệp thường được xếp vào nhóm góp vốn bằng hiện vật. Tuy nhiên, ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện chủ sở hữu là Nhà nước, điều này có nghĩa là các tổ chức, cá nhân chỉ có QSDĐ chứ không có quyền sở hữu đất đai. Ở cả Việt Nam và Trung Quốc, sự sáng tạo ra khái niệm “quyền sử dụng đất” có vẻ như đã tạo thành một khái niệm sở hữu đa tầng: đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện chủ sở hữu là Nhà nước, nhưng QSDĐ lại thuộc về cá nhân hoặc tổ chức. Chính vì thế góp vốn bằng QSDĐ được xác định là hình thức góp vốn riêng, khác với góp vốn bằng hiện vật hay quyền tài sản. Thứ nhất, phân biệt góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất với góp vốn bằng hiện vật Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015) liệt kê các loại tài sản, trong đó có vật. Pháp luật hiện nay chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm “vật”. Tuy nhiên, khoa học pháp lý có đưa ra một số tiêu chí mà “vật” phải đáp ứng để được xác định là “tài sản”, trở 16
- thành đối tượng trong giao dịch như sau: + Phải là một bộ phận của thế giới vật chất; + Phải đem lại lợi ích cho con người; + Con người có thể chiếm giữ được. Góp vốn vào doanh nghiệp bằng “vật” là việc cá nhân hay tổ chức chuyển quyền sở hữu một “tài sản bằng hiện vật” của mình cho doanh nghiệp để đổi lấy các quyền và lợi ích tương ứng từ doanh nghiệp. Có thể nhận thấy, việc góp vốn bằng hiện vật là một hình thức góp vốn đã xuất hiện từ rất sớm. Các quốc gia theo hệ thống Civil Law trên thế giới, ví dụ như Điều 1843-3 Bộ luật Dân sự Pháp, đều có những quy định điều chỉnh việc góp vốn vào doanh nghiệp bằng hiện vật. Hiện vật góp vốn có thể là động sản hoặc bất động sản, hiện vật phải đăng ký hoặc không phải đăng ký tùy theo cách mà người ta sử dụng để phân loại tài sản. Ngoài những đặc điểm chung của việc góp vốn, giữa góp vốn vào doanh nghiệp bằng QSDĐ với góp vốn bằng hiện vật có những điểm khác biệt như sau: (i) Về đối tượng góp vốn vào doanh nghiệp: - Đối tượng góp vốn vào doanh nghiệp là hiện vật: Hiện vật góp vốn phải là vật thỏa mãn các điều kiện để trở thành tài sản và được phép lưu thông. Hiện vật góp vốn có thể là động sản hoặc bất động sản, hiện vật phải đăng ký hoặc không phải đăng ký tùy theo cách mà người ta sử dụng để phân loại tài sản; - Đối tượng góp vốn vào doanh nghiệp là QSDĐ: QSDĐ chỉ được xem là bất động sản do gắn với đất đai, bất động sản do bản chất. (ii) Về chủ thể góp vốn vào doanh nghiệp: - Chủ thể góp vốn vào doanh nghiệp là hiện vật: Là góp vốn quyền sở hữu vật và góp vốn là hành vi định đoạt tài sản. Bởi vậy, điều kiện tiên quyết là bên góp vốn bằng hiện vật phải là chủ sở hữu vật góp vốn. Từ đó bên nhận góp vốn cũng phải đặt ra các điều kiện để có thể nhận góp vốn bằng hiện vật. Việc doanh nghiệp trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc doanh nghiệp phải có tư cách pháp nhân, có nghĩa là doanh nghiệp phải có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ. Điều này cho thấy việc góp vốn bằng vật có thực không thể thực hiện được với các đối tượng không có tư cách pháp nhân; - Chủ thể góp vốn vào doanh nghiệp là QSDĐ: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân có đại diện chủ sở hữu là Nhà nước, điều này đồng nghĩa với việc quyền sở hữu 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 77 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn