VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG VĂN NINH
HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG VĂN NINH
HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Các thông tin và kết quả
nghiên cứu trong Luận văn này do tôi tự thu thập, phân tích. Các ví dụ, trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực.
TÁC GIẢ
Đặng Văn Ninh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2015 : Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, ngày 24/11/2015
CTCP : Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông
HĐQT : Hội đồng quản trị
LDN 1999 : Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10, ngày 12/06/1999
LDN 2005 : Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11, ngày 29/11/2005
LDN 2014 : Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ngày 26/11/2014
LCK 2006 : Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11, ngày 29/06/2006
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN ................................................................... 7
1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần ..................................................... 7
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần ...................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm công ty cổ phần ....................................................................... 9
1.1.3. Khái niệm cổ phần ................................................................................. 10
1.1.4. Đặc điểm của cổ phần ........................................................................... 12
1.1.5. Các loại cổ phần .................................................................................... 13
1.1.6. Cổ đông công ty cổ phần ....................................................................... 15
1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng chuyển nhượng cổ phần .................... 18
1.3. Nguyên tắc chuyển nhượng cổ phần ................................................... 21
1.4. Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện
nay ............................................................................................................. 22
1.5. Thủ tục chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay .. 28
1.6. Những quy định về lợi ích của các bên tham gia hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay ................................... 30
1.6.1. Chuyển nhượng cổ phần chưa niêm yết ............................................... 31
1.6.2. Chuyển nhượng cổ phần đã niêm yết thông qua giao dịch trên thị
trường chứng khoán ........................................................................................ 32
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN
NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY .... 36
2.1. Các quy định pháp luật về điều kiện chuyển nhượng cổ phần ............ 36
2.2. Chủ thể của hợp đồng chuyền nhượng cổ phần .................................. 37
2.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia trong hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay ................................... 38
2.4. Nội dung và hình thức của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ........... 39
2.5. Ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ...................... 44
2.5.1. Các quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng chưa
niêm yết/đăng ký giao dịch .............................................................................. 44
2.5.2. Ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đối với cổ phiếu đã
niêm yết/đăng ký giao dịch .............................................................................. 46
2.6. Hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ................................. 48
2.7. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng cổ phần 51
2.8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ở
Việt Nam hiện nay ..................................................................................... 58
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật ........................................................ 62
3.1.1. Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần phải đảm bảo nguyên
tắc pháp quyền ................................................................................................. 62
3.1.2. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần phải bảo đảm quyền tự do kinh
doanh của các nhà đầu tư, của các doanh nghiệp ........................................ 63
3.1.3. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cần vừa phù hợp với đặc điểm,
trình độ phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường hiện nay và đảm
bảo sự thống nhất và hài hòa với pháp luật quốc tế đáp ứng yêu cầu chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế ......................................................................... 65
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần ............................................................................................................ 66
3.2.1. Giải pháp chung ..................................................................................... 66
3.2.2. Giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật chuyển nhượng cổ phần69
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi thành pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần ............................................................................. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc
quan theo cơ chế thị trường. Với những đổi mới kể từ sau Đại hội VI đến nay
đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng
phát triển. Trong bối cảnh đó thì các quan hệ thương mại ngày càng trở nên
đa dạng và phức tạp. Chuyển nhượng cổ phần trong các doanh nghiệp, mua
bán cổ phần trên thị trường chứng khoán là một phần tất yếu của kinh tế thị
trường trong bối cảnh hiện nay. Hiện nay, Việt Nam đang có nhiều công ty
hoạt động với nhiều loại hình khác nhau, công ty cổ phần là một trong những
loại hình doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường có nhiều ưu
điểm của công ty đối vốn. Tính chất đó thể hiện rất rõ trong việc tự do
chuyển nhượng cổ phần của các doanh nghiệp. Cách thức chuyển nhượng cổ
phần có thể được thực hiện thông qua giao dịch về hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán: Chuyển
nhượng cổ phần thông qua hợp đồng chuyển nhượng thì các bên tham gia
chuyển nhượng cổ phần phải tuân thủ các quy định trong Bộ luật Dân sự và
Luật Doanh nghiệp. Trường hợp chuyển nhượng cổ phần thông qua giao dịch
trên thị trường chứng khoán thì trình tự thủ tục và việc ghi nhận sở hữu cần
tuân thủ các quy định của Luật Chứng khoán. Việc tự do thực hiện chuyển
nhượng cổ phần trong các công ty cổ phần làm thay đổi cổ đông và/ hoặc tỷ
lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông trong công ty cổ phần, tuy nhiên vốn cổ
phần của công ty không thay đổi, đảm bảo cho các hoạt động bình thường
của công ty. Chuyển nhượng cổ phần của các doanh nghiệp được quan tâm
nhiều hơn trong những năm gần đây. Bởi chuyển nhượng cổ phần được xem
là một giải pháp tích cực cho doanh nghiêp, đồng thời nó cũng được xem là
chiến lược để huy động được các cổ đông có năng lực tham gia vào công ty.
1
Hoạt động chuyển nhượng cổ phần đang trở nên sôi động nhưng trên thực tế
việc thực hiện các giao dịch chuyển nhượng cổ phần cũng còn gặp những
hạn chế và khó khăn khi chưa có khung pháp lý riêng định nghĩa cụ thể rõ
ràng nên dẫn đến những rủi ro trong việc thực hiện chuyển nhượng cổ phần
thông qua các giao dịch về hợp đồng chuyển nhượng hoặc là thông qua các
giao dịch trên thị trường chứng khoán. Hiện nay, khi thực hiện chuyển
nhượng cổ phần chủ yếu dự trên khung pháp lý Bộ luật dân sự năm 2015
(BLDS 2015), Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN 2014) và Luật chứng
khoán năm 2006 (LCK 2006). Tuy nhiên, Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
theo khung pháp lý hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập, chưa rõ ràng, vẫn
chưa có một chế định cụ thể riêng, độc lập cho Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần. Quá đó có thể dẫn đến rủi ro về mặt pháp lý khi thực hiện các giao
dịch chuyển nhượng. Chính vì vậy nên việc thực hiện các hoạt động chuyển
nhượng cổ phần trong bối cảnh của nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi cần
thiết phải có một khung pháp lý đầy đủ rõ ràng, cụ thể để thực hiện các giao
dịch là hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Việc phân tích các quy định của
pháp luật hiện hành về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, tìm ra các ưu điểm
và hạn chế của pháp luật và đưa ra các đề xuất, kiến nghị để xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần đang trở thành
một vấn đề cấp thiết cần phải quan tâm và điều chỉnh. Với sự cấp thiết đó tác
giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tổng hợp tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tác
giả đã nhận thấy có một số công trình nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật
này, cụ thể:
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Tạ Thanh Bình (2001), “Đặc điểm
2
pháp lý của việc giao kết hợp đồng mua bán chứng khoán trên thị trường
giao dịch tập trung tại Việt Nam”. Công trình này tập trung nghiên cứu về
giao kết hợp đồng mua bán chứng khoán nhưng chưa nghiên cứu sâu các nội
dung có liên quan về trình tự thực hiện hợp đồng mua bán chứng
khoán…đồng thời công trình cũng dừng lại nghiên cứu việc mua bán chứng
khoán tại thị trường giao dịch tập trung;
Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Bùi Doãn Đức (2004), “Pháp luật hợp
đồng mua bán chứng khoán, những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Công trình
này đã nghiên cứu sơ bộ được về hợp đồng mua bán chứng khoán về lý luận
và thực tiễn, thời điểm nghiên cứu của công trình này là năm 2004 nên
những quy định pháp luật về hợp đồng mua bán chứng khoán được trích dẫn
và phân tích trong công trình so với thời điểm hiện tại đã hết hiệu lực.
Ngoài ra, tác giả còn tham khảo thêm một số công trình nghiên cứu
khoa học khác như: Đỗ Thái Hán (2012), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học; Nguyễn Thị Cà
(2012), “Quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ phần”, Luận văn
tốt nghiệp cử nhân Luật; Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2008), “Bảo vệ cổ
đông thiểu số trong công ty cổ phần – So sánh giữa pháp luật Anh và pháp
luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Với những công trình khoa học trên là những tài liệu quý báu giúp tác
giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và thực
hiện luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới mục đích nghiên cứu các quy định của pháp luật về
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần để làm sáng tỏ hơn về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Qua đó, chỉ ra những hạn
3
chế, bất cập chưa rõ ràng trong các quy định của pháp luật về Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần, làm rõ các ưu điểm, hạn chế của các quy định pháp
luật hiện hành trong việc thực hiện các giao dịch về Hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần, nhằm đảm bảo chủ thể tham gia trong việc chuyển nhượng
cổ phần được thực hiện đúng quy định của pháp luật với trình tự, thủ tục và
phương thức đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ thể tham gia trong giao
dịch. Từ đó, luận văn đề xuất các kiến nghị về hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể:
Một là, tìm hiểu và phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến Hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần; cách thức chuyển nhượng cổ phần; những rủi
ro về mặt pháp lý khi thực hiện các giao dịch chuyển nhượng cổ phần thông
qua hợp đồng chuyển nhượng cổ phần để làm rõ nội dung về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Hai là, thực tiễn áp dụng pháp luật về các phương thức giải quyết trong
giao dịch về Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, chỉ ra những vấn đề bất cập, hạn chế và nguyên nhân để có những
kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài đề cập đến những vấn đề chính về công ty cổ phần, chuyển
nhượng cổ phần chưa niêm yết và chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán. Đề tài tập trung với phạm vi nghiên cứu về cách thức chuyển
nhượng cổ phần có thể được thực hiện thông qua giao dịch về hợp đồng
chuyển nhượng và thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán cụ thể là
mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam hiện
4
nay.
Đề tài nghiên cứu các văn bản pháp luật về chuyển nhượng cổ phần,
các phương thức chuyển nhượng cổ phần, mua bán cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán tập trung thứ cấp được quy định trong các văn bản pháp luật
như Bộ Luật dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật chứng khoán 2006,
các văn bản pháp luật liên quan và các văn bản hương dẫn thi hành. Đồng
thời tìm hiểu thực trạng về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật
Việt Nam hiện nay để làm rõ các yêu cầu của đề tài đặt ra.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp và phân
tích, luận giải để nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần. Đồng thời tác giả cũng sử dụng thêm nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp lịch
sử; phương pháp chứng minh; phương pháp so sánh... để áp dụng trong việc
nghiên cứu đề tài này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu đề tài “Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay” chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế
trong quy định về chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay,
góp phần tạo cơ sở khoa học để hoàn thiện pháp luật đối với giao dịch chuyển
nhượng cổ phần của cổ đông Công ty cổ phần qua đó đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật có liên quan.
Về mặt thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài “Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay” giúp người tiếp cận có cái nhìn tổng
quan về hoạt động chuyển nhượng cổ phần của cổ đông Công ty cổ phần theo
pháp luật Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần của cổ đông Công
5
ty cổ phần góp phần nâng cao việc thực hiện có hiệu quả quy định pháp luật
về các giao dịch trong chuyển nhượng cổ phần thông qua các hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng
khoán. Thông qua đó, tạo điều kiện thu hút đầu tư, đảm bảo công bằng, minh
bạch trong các giao dịch chuyển nhượng cổ phần. Luận văn được bảo vệ
thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên chuyên ngành luật,
các nhà đầu tư và những người làm công tác thực tiễn liên quan đến việc
chuyển nhượng cổ phần thông qua hợp đồng chuyển nhượng hoặc thông qua
giao dịch chuyển nhượng cổ phần trên thị trường chứng khoán cụ thể đó là
hợp đồng mua bán cổ phiếu trên thị trường tập trung thứ cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận chung và tài liệu tham khảo, luận văn có
bố cục gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về Hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần
Chương 2. Thực trạng pháp luật về Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế định
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN
NHƯỢNG CỔ PHẦN
1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam được xây dựng theo mô hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động không
theo cơ chế thị trường. Tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1986 đã đề ra đường lối đổi mới, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời và phát
triển.
Qua đó, ngày 21/12/1990, Quốc hội đã thông qua Luật Công ty và đây
là một dấu mốc “lịch sử” hết sức quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Luật Công ty năm
1990 đã quy định hai hình thức tổ chức công ty đó là: Công ty trách nhiệm
hữu hạn và Công ty cổ phần. Cả hai loại hình công ty này đều được định
nghĩa là: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, gọi chung là
công ty, là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia
nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào
công ty”.
Trong đó, Công ty cổ phần có các đặc điểm:
“a) Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời
gian hoạt động ít nhất là bảy;
b) Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi
là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể
7
mua một hoặc nhiều cổ phiểu;
c) Cổ phiếu được phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ
phiếu của sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ
phiếu có ghi tên;
d) Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu có ghi
tên chỉ được chuyển nhượng, nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị, trừ
trường hợp quy định tại Điều 39 của Luật này”.
Sau 09 năm thi hành Luật Công ty 1990, bên cạnh những đóng góp tích
cực cho nền kinh tế thì Luật Công ty 1990 cũng đã bộc lộ một số bất cập, nhất
là trong bối cảnh quan hệ kinh tế Việt Nam trong thời kỳ này liên tục biến
đổi. Bởi lẻ đó, việc sửa đổi, thay thế các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt
động của các loại hình công ty là một tất yếu khách quan. Ngày 12/06/1999,
Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp 1999, thay cho Luật công ty 1990.
Khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời, khái niệm về công ty cổ phần và khái
niệm về công ty trách nhiệm hữu hạn được quy định cụ thể, riêng biệt.
Khái niệm Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 1999 tiếp tục được
tiếp thu và kế thừa cho Luật Doanh nghiệp 2005 được quy định tại Điều 77 và
Luật Doanh nghiệp 2014 được quy định tại Điều 110. Tại Điều 110 Luật
Doanh nghiệp 2014, thì Công ty Cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
“a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03
và không hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126
Luật doanh nghiệp 2014.
8
đ) Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
e) Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động
vốn.”
Như vậy, khái niệm Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014 về
cơ bản là tương đồng với khái niệm Công ty cổ phần theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp 1999. So với Luật Công ty 1990,
khái niệm Công ty cổ phần theo quy định Luật Doanh nghiệp các thời kỳ sau
này đã được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với nền kinh tế của Việt Nam
và gần với các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Việc chuyển nhượng cổ phần
của cổ đông được quy định tại điểm d khoản 1 điều 110 Luật Doanh nghiệp
2014 là “Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho
người khác”, tuy nhiên trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 119 và
khoản 1 điều 126 của Luật này, Theo đó, tại khoản 3 điều 119 quy định: “3
Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ
thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp
thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển
nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ
phần đó; Và khoản 1 điều 126 quy định “1. Cổ phần được tự do chuyển
nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 của Luật này và Điều
lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ
công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này
chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.”
1.1.2. Đặc điểm công ty cổ phần
Công ty Cổ phần có các đặc điểm như:
9
Một là, Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân, tư cách pháp nhân của
công ty cổ phần phát sinh từ thời điểm công ty được cấp giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
Hai là, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần nhỏ
gọi là cổ phần, người sở hữu các cổ phần gọi là cổ đông. Số lượng cổ đông
của công ty cổ phần tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng cổ đông tối đa.
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác, trừ trường
hợp (i) đối với cổ phần của cổ đông sáng lập, trong thời hạn ba năm kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng
lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập
khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người
không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ
đông và (ii) điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần và
các quy định này được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.
Ba là, Công ty cổ phần được phép phát hành các loại cổ phần để huy
động vốn. Đặc điểm này cho phép công ty cổ phần có thể huy động nguồn
vốn nhanh và rất rộng rãi.
Bốn là, cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty hoặc số vốn cam kết góp
vào công ty tại thời điểm lập công ty.
Với những đặc điểm nêu trên nên công ty cổ phần thường có số lượng
cổ đông lớn, các cổ đông công ty cổ phần có thể hoạt động trong nhiều lĩnh
vực khác nhau và cũng có thể họ không có mối quan hệ quen biết với nhau từ
trước nhưng vẫn có thể đến được với nhau, gặp nhau và cùng hợp tác trên một
lĩnh vực nhất định.
1.1.3. Khái niệm cổ phần
“Cổ phần” là một thuật ngữ đã được sử dụng rất phổ biến bởi các nước
10
trên thế giới và cũng có những cách định nghĩa khái niệm khác nhau. Các
nước theo truyền thống dân luật thì khái niệm về cổ phần được định nghĩa là
đơn vị để phân chia quyền sở hữu công ty. Bởi thế, cổ phần không có mối liên
hệ gì đến vốn điều lệ của công ty. Tại một số nước Châu Âu thì khái niệm về
Cổ phần lại được định nghĩa là: Vốn điều lệ khi được chia nhỏ thành những
phần bằng nhau thì mỗi phần đó gọi là cổ phần, vì vậy cổ phần là một phần
của vốn điều lệ. Trên thực tế thì cổ phần cũng phản ánh mức độ quyền sở hữu
của cổ đông. Cổ đông góp vốn vào công ty cổ phần bằng cách mua cổ phần và
trở thành chủ sở hữu công ty.
Trong khuôn khổ pháp lý của pháp luật Việt Nam chúng ta thì khái
niệm cổ phần được quy định lần đầu tiên tại khoản 2 điều 30 Luật Công ty
năm 1990, qua đó nêu: “Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần”. Khái niệm này được các nhà lập pháp xây dựng
và được tiếp tục kế thừa tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Doanh
nghiệp năm 2014 (điểm a, khoản 1, điều 110).
Theo đó, cổ phần là một phần của vốn điều lệ. Cổ phần được phân chia
ra nhiều loại khác nhau như: cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu
đãi bao gồm các loại như: Cổ phần ưu đãi biểu quyết; Cổ phần ưu đãi cổ tức;
Cổ phần ưu đãi hoàn lại; Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ Công ty quy định.
Người sở hữu cổ phần phổ thông được gọi là cổ đông phổ thông, điều này
được thể hiện tại khoản 1 điều 113 của Luật Doanh nghiệp 2014.
Đối với công ty cổ phần thì cổ phần là vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau chứ không phải là tất cả các loại vốn của công ty cổ
phần được chia thành nhiều phần bằng nhau. Đây là một trong những vấn đề
pháp lý cơ bản của công ty cổ phần. Cổ phần cũng là công cụ tài chính đặc
biệt của công ty cổ phần. Do vậy việc nắm giữ cổ phần trong công ty có một
vai trò rất quan trọng bởi cổ phần là tài sản chứng minh tư cách sở hữu của cổ
11
đông đối với công ty cổ phần. Việc nắm giữ cổ phần có vai trò quan trọng
trong việc hình thành cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý công ty.
Việc chuyển nhượng cổ phần xét về bản chất thì đây chính là sự dịch
chuyển quyền sở hữu của cổ đông đối với cổ phần trong công ty cổ phần. Cổ
đông muốn rút cổ phần của mình ra khỏi công ty thì phải tuân thủ các quy
định của pháp luật về công ty cổ phần. Theo đó, cổ đông có thể yêu cầu công
ty cổ phần mua lại cổ phần của mình hoặc cổ đông chuyển nhượng cổ phần
của mình cho người khác. Chính vì sự thuận tiện và linh hoạt của hoạt động
chuyển nhượng cổ phần đã mang lại cho nền kinh tế thị trường của chúng ta
có sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà không ảnh hưởng đến tính ổn
định về tài sản của Công ty cổ phần.
1.1.4. Đặc điểm của cổ phần
Từ định nghĩa cổ phần nêu trên cho thấy các đặc điểm chung của cổ
phần như sau:
Một là, Cổ phần thể hiện quyền sở hữu tài sản của cổ đông trong công
ty cổ phần. Nó là căn cứ pháp lý để xác lập tư cách cổ đông trong công ty cổ
phần, bất kể họ có tham gia thành lập nên công ty cổ phần hay không. Người
sở hữu cổ phần là cổ đông của công ty cổ phần. Người nắm giữ cổ phần có
đầy đủ quyền của cổ đông, trực tiếp thực hiện quyền của mình đối với công ty
cổ phần. Do vậy, cổ phần làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các cổ đông
trong công ty cổ phần. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở
hữu chúng các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
Hai là, công ty cổ phần quyết định mệnh giá của cổ phần và được ghi
trên cổ phiếu. Mệnh giá cổ phần có thể khác với giá chào bán cổ phần. Giá
chào bán cổ phần do Hội đồng quản trị của công ty cổ phần quyết định nhưng
không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán. Giá trị của cổ
phần có thể được ghi trong sổ sách của công ty tại thời điểm gần nhất, trừ
12
những trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ba là, cổ phần có đặc điểm là không thể phân chia nhỏ hơn nữa bởi cổ
phần là phần vốn nhỏ nhất và bằng nhau trong vốn điều lệ.
Bốn là, cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng và đây cũng là điểm đặc
trưng của công ty cổ phần, bởi công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đặc
trưng của công ty đối vốn. Có nghĩa là tất cả những thuộc tính của công ty đối
vốn được thể hiện đầy đủ nhất trong công ty cổ phần. Nhìn từ góc độ kinh tế,
bởi tính dễ dàng chuyển nhượng của cổ phần tạo ra sự năng động về vốn
nhưng vẫn giữ được tính ổn định tài sản của công ty cổ phần. Nhìn từ góc độ
pháp lý thì khi một người đã góp vốn vào công ty cổ phần, họ có quyền tự do
chuyển nhượng cho người khác nhưng không có quyền rút vốn ra khỏi công
ty, trừ trường hợp yêu cầu công ty mua lại cổ phần theo quy định tại Luật
Doanh nghiệp năm 2014 hoặc trường hợp được nhận lại vốn góp khi công ty
giải thể. Do vậy, khi cổ đông của Công ty cổ phần nếu không muốn tiếp tục ở
lại công ty thì chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
1.1.5. Các loại cổ phần
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay thì cổ phần của công ty cổ phần
được chia làm: Cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi bao
gồm các loại như: cổ phần ưu đãi biểu quyết; cổ phần ưu đãi cổ tức; cổ phần
ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty cổ phần quy
định. Mỗi loại cổ phần có những đặc điểm, tính chất khác nhau và mang lại
những quyền, nghĩa vụ khác nhau cho các cổ đông sở hữu loại cổ phần đó.
Luật Công ty năm 1990 chỉ cho phép công ty cổ phần được phát hành một
loại cổ phiếu thể hiện dưới hai hình thức đó là cổ phiếu có ghi tên và cổ phiếu
không ghi tên. Cổ phiếu có ghi tên là cổ phiếu của các thành viên sáng lập và
các thành viên của Hội đồng quản trị. Loại cổ phiếu này chỉ được phép tự do
chuyển nhượng khi được sự đồng ý của Hội đồng quản trị và sau hai năm, khi
13
thành viên đó thôi giữ chức thành viên Hội đồng quản trị.
Trong quá trình mua bán chuyển nhượng cổ phần thì có nhà đầu tư mua
cổ phần nhằm vào mục đích tham gia điều hành các hoạt động trong công ty,
củng cố quyền lực trong công ty; có nhà đầu tư thực hiện việc mua bán
chuyển nhượng cổ phần chỉ nhằm mục đích hưởng lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh của công ty và không cần không quan tâm đến vấn đề quản lý
công ty; có những chủ thể lại mua cổ phần với mục đích được hoàn lại vốn
vào bất cứ lúc nào. Nhìn dưới góc độ là nhà đầu tư, họ cũng muốn góp vốn
vào công ty cổ phần hơn vào các loại doanh nghiệp khác, bởi lẻ khi tham gia
vào công ty cổ phần các nhà đầu tư sẽ có nhiều sự lựa chọn.
Trong các loại cổ phần thì cổ phần phổ thông là nền tảng của công ty cổ
phần, tổng giá trị loại cổ phần phổ thông thường chiếm tỷ lệ lớn hơn các loại
cổ phần khác. Đây cũng là loại cổ phần bắt buộc mà tất cả các công ty cổ
phần đều phải phát hành. Việc sở hữu cổ phần phổ thông sẽ đem lại cho cổ
đông phổ thông những quyền và lợi ích cơ bản trong đó một cổ phần phổ
thông có một phiếu biểu quyết để thực hiện biểu quyết các vấn đề của công ty
cổ phần. Cổ phần phổ thông không thể chuyển thành cổ phần ưu đãi. Nhưng
cổ phần ưu đãi có thể chuyển thành cổ phần phổ thông theo quyết định của
Đại hội đồng cổ đông.
Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần được ưu tiên hơn cổ phần phổ thông.
Tuy nhiên, các cổ đông nắm giữ những cổ phần ưu đãi cũng chịu những hạn
chế nhất định. Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi hoặc không có cổ
phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm các loại như:
(1) Cổ phần ưu đãi biểu quyết, đây là loại cổ phần có số phiếu biểu
quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ
phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty cổ phần quy định.
(2) Cổ phần ưu đãi cổ tức là loại cổ phần mà cổ đông nắm giữ số cổ
14
phần này được công ty cổ phần trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức
được trả cho cổ phần phổ thông. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức có hạn
chế là không có quyền dự họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông, không
được đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Ngoài ra, cổ đông
sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức có các quyền khác tương tự như quyền của cổ
đông phổ thông. Cổ phần ưu đãi cổ tức là loại cổ phần phù hợp với những nhà
đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận.
(3) Cổ phần ưu đãi hoàn lại là loại cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn
góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện
được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại.
(4) Cổ phần ưu đãi khác do điều lệ Công ty cổ phần quy định là loại cổ
phần có tính mở. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì các công ty cổ phần thường
chỉ phát hành các loại cổ phần được nêu trong Luật Doanh nghiệp, các công
ty cổ phần thường không đưa ra một loại cổ phần ưu đãi mới. Bởi khi pháp
luật chưa có sự hướng dẫn và quy định cụ thể mà công ty cổ phần phát hành
thêm loại cổ phần mới sẽ có thể gây ra những rắc rối, phức tạp trong quá trình
vận hành quản lý hoạt động kinh doanh.
1.1.6. Cổ đông công ty cổ phần
Cổ đông công ty cổ phần là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần
của công ty. Công ty cổ phần có ít nhất ba cổ đông và không hạn chế số lượng
cổ đông tối đa. Cổ đông công ty chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty hoặc cam kết góp khi thành lập công
ty. Cổ đông công ty cổ phần có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với số cổ
phần đang sở hữu, được chứng nhận bằng cổ phiếu của công ty cổ phần.
Thông tin của cổ đông phải đảm bảo được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông
của công ty. Cổ đông có thể không tham gia vào việc quản lý, điều hành công
việc hàng ngày của công ty, tuy nhiên cổ đông thực hiện quyền chủ sở hữu
15
công ty thông qua việc tham dự và biểu quyết các vấn đề quan trọng của công
ty tại các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông công ty.
Cổ đông sáng lập là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và
ký tên trong Danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần. Các cổ đông sáng
lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được
quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp và phải thanh toán đủ số
cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty cổ phần
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trong pháp luật về doanh
nghiệp của Việt Nam có quy định cách giải quyết đối với trường hợp cổ đông
sáng lập không thanh toán đủ hoặc không thanh toán đúng thời hạn cho số cổ
phần mà cổ đông sáng lập đã đăng ký mua là: (1) Cổ đông chưa thanh toán số
cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty cổ
phần và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác;
(2) Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua và còn một
phần chưa thanh toán thì có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác
tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền
mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác; Số cổ phần chưa thanh toán
được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán; Công ty
cổ phần phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần
đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán.
Cổ đông phổ thông nắm giữ các cổ phần phổ thông có các quyền cơ
bản như: (1) Tham dự và phát biểu trong các Đại hội đồng cổ đông và thực
hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền hoặc
theo hình thức khác do pháp luật hay Điều lệ công ty cổ phần quy định. Mỗi
cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết; (2) Nhận cổ tức với mức theo
quyết định của Đại hội đồng cổ đông; (3) Ưu tiên mua cổ phần mới chào bán
16
tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty; (4) Tự
do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp pháp
luật về doanh nghiệp có quy định khác; (5) Xem xét, tra cứu và trích lục các
thông tin trong Danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi
các thông tin không chính xác; (6) Xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp
Điều lệ công ty cổ phần, biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và các Nghị
quyết của Đại hội đồng cổ đông; (7) Khi công ty cổ phần giải thể hoặc phá
sản, được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại
công ty cổ phần;
Bên cạnh những quyền lợi được nêu trên thì các cổ đông phổ thông
nắm giữa cổ phần phổ thông cũng phải thi hành những nghĩa vụ nhất định
như: (1) Thanh toán đủ số cổ phần cam kết mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ
ngày công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; (2)
Không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty cổ phần
dưới mọi hình thức, trừ khi được công ty cổ phần hoặc người khác mua lại cổ
phần.
Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại không
có quyền dự họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông, không được đề cử
người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Ngoài ra, họ có các quyền và
nghĩa vụ khác như cổ đông phổ thông. Điều lệ Công ty cổ phần quy định cụ
thể hoặc Đại hội đồng cổ đông quyết định việc phát hành cổ phần ưu đãi cổ
tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại.
Qua những phân tích nêu trên, có thể thấy điểm khác biệt cơ bản giữa
cổ đông nắm giữ cổ phần phổ thông với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức
và cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ đông phổ thông có quyền dự họp Đại hội
đồng cổ đông và biểu quyết thông qua các quyết định của công ty cổ phần.
Thông thường, những chủ thể mua các loại cổ phần ưu đãi cổ tức hay cổ phần
17
ưu đãi hoàn lại là những nhà đầu tư quan tâm nhiều đến lợi nhuận, các nhà
đầu tư này thường thì họ có rất ít kinh nghiệm hoặc thậm chí không có kinh
nghiệm trong việc quản lý và điều hành công ty do vậy họ chỉ muốn đầu tư
cũng chỉ nhằm mục đích lợi nhuận. Những vấn đề cụ thể hơn thường được
quy định trong điều lệ công ty cổ phần.
1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Trong lịch sử phát triển của pháp luật hợp đồng cho thấy thuật ngữ về
“Hợp đồng” được hình thành từ động từ “contrahere” trong tiếng La-tinh, có
nghĩa là “ràng buộc” và xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ thứ
5, thứ 6 trước công nguyên. Pháp luật phương Tây đã có sự kế thừa và phát
triển đã chính thức sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng” trong khoa học pháp lý
cũng như trong việc thực hiện các giao dịch trong thực tiễn từ thời La Mã.
Việt Nam chúng ta trước đây sử dụng một số thuật ngữ có ý nghĩa tương tự
hợp đồng như: khế ước, văn tự, cam kết, tờ giao ước… Hiện nay, trong các
văn bản pháp luật của nhà nước ban hành không còn sử dụng thuật ngữ này
mà sử dụng các thuật ngữ như hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng
thương mại. Hợp đồng chyển nhượng cổ phần là loại hợp đồng được thể hiện
trong việc thực hiện các giao dịch chuyển nhượng cổ phần giữa các nhà đầu
tư trong các công ty cổ phần hoặc thực hiện các giao dịch chuyển nhượng cổ
phần trên thị trường chứng khoán.
Có thể nói thuật ngữ “hợp đồng” có một phạm trù đa nghĩa và có thể
được xem xét qua nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường
hiểu khái niệm “hợp đồng” theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ
quan. Nhìn từ góc độ khách quan, hợp đồng là một bộ phận của chế định
nghĩa vụ trong pháp luật dân sự, bao gồm các quy phạm pháp luật được quy
định cụ thể trong Bộ luật Dân sự nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và chủ
yếu là quan hệ về tài sản trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa
18
các chủ thể với nhau. Nhìn từ góc độ chủ quan, hợp đồng là sự ghi nhận kết
quả của việc cam kết, thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể trong quá
trình thực hiện giao kết hợp đồng hay là kết quả của việc thỏa thuận, thống
nhất ý chí của các chủ thể, được thể hiện bằng các điều khoản cụ thể về quyền
và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, nhà làm luật đã đưa ra định nghĩa
về hợp đồng tại Điều 385 BLDS 2015, theo đó thì “hợp đồng là sự thoả thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Với khái niệm này, chúng ta có thể nhận thấy rằng nó không những phản
ánh đúng bản chất của thuật ngữ “hợp đồng”, mà còn thể hiện rõ vai trò của
hợp đồng trong việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
dân sự, nó như là một căn cứ pháp lý phổ biến để làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên trong quá trình thực hiện các
giao dịch.
Theo giáo sư Mechael Blackeney của Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ
Queen Mary, Đại học London, thì khái niệm “chuyển nhượng” được hiểu như
sau: Chuyển nhượng là việc chủ sở hữu bán tất cả các quyền sở hữu trí tuệ
độc quyền của mình và được một cá nhân khác hoặc pháp nhân khác mua lại
các quyền đó. Khi tất cả các quyền độc quyền đối với một sáng chế đã được
bảo hộ được chủ sở hữu của nó chuyển giao cho một cá nhân hoặc một pháp
nhân khác mà không có một giới hạn bất kỳ về thời gian hoặc các điều kiện
khác, thì việc chuyển nhượng các quyền đó xem như đã được thực hiện. Qua
đó, chúng ta thấy rằng “chuyển nhượng” là việc chủ sở hữu giao tài sản thuộc
sở hữu của mình cho người được nhận chuyển nhượng và nhận được từ người
nhận chuyển nhượng một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đó. Như
vậy chúng ta thấy có sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Chuyển nhượng cổ phần là việc cổ đông chuyển
19
một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mà mình đang nắm giữ cho người khác.
Với ý nghĩa là một loại hợp đồng cụ thể, hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần cũng có thể được định nghĩa dựa trên quan niệm chung và thống nhất về
hợp đồng, từ lý luận và thực tiễn, loại hợp đồng này cũng có những điểm đặc
thù nhất định. Trên quan điểm nhận thức như vậy, tác giả luận văn cho rằng
có thể định nghĩa về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần như sau:
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên chuyển nhượng (bên bán) chuyển quyền sở hữu số cổ phần thuộc sở
hữu của mình cho bên nhận chuyển nhượng (bên mua) và bên nhận chuyển
nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng theo giá cả do các bên thỏa
thuận.
Qua đó, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có những đặc điểm như: (1)
Chuyển nhượng cổ phần là hình thức mua bán một phần doanh nghiệp. Nếu
chuyển nhượng một lượng cổ phần đạt tỷ lệ chi phối quyền kiểm soát trong
công ty cổ phần, bên nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ có quyền sở hữu một
phần công ty cổ phần và có quyền kiểm soát công ty cổ phần đó. Trong
trường hợp nếu bên nhận chuyển nhượng nhận chuyển nhượng cổ phần đến
một tỷ lệ nhất định (đạt tỷ lệ cổ phần chi phối) trong công ty cổ phần thì
trường hợp này sẽ được coi như là mua bán doanh nghiệp. (2) Về chủ thể của
việc chuyển nhượng. Cổ đông không bị bắt buộc phải chịu ràng buộc suốt đời
với cổ phần họ nắm giữ. Khi không còn nhu cầu sở hữu cổ phần đó nữa, cổ
đông hoàn toàn có thể chuyển nhượng nó với tư cách là một loại tài sản trong
giao dịch dân sự. Chủ thể nhận chuyển nhượng cổ phần có thể là cá nhân hoặc
tổ chức có nhu cầu sở hữu, có đủ năng lực tài chính và đáp ứng được các điều
kiện do luật định thì đều có thể nhận chuyển nhượng cổ phần. (3) Cổ phần với
tư cách là một loại tài sản, có giá trị tiền tệ được tự do chuyển giao trong giao
dịch dân sự nhưng nguyên tắc tự do chuyển giao bị hạn chế bởi một số ngoại
20
lệ về: điều khoản về sự chấp thuận và điều khoản cấm chuyển nhượng cổ
phần ưu đãi biểu quyết. Tất cả các điều khoản hạn chế này do pháp luật về
doanh nghiệp quy định chi tiết. (4) Chuyển nhượng cổ phần phải tuân thủ các
quy định của pháp luật về điều kiện và thủ tục chuyển nhượng. (5) Chuyển
nhượng cổ phần không chỉ đơn giản là sang tên các khoản vốn điều lệ, điều
chỉnh đăng ký kinh doanh của công ty cổ phần mà chủ thể chuyển nhượng cổ
phần còn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan nhà
nước.
1.3. Nguyên tắc chuyển nhượng cổ phần
Tổng thể các quy định của pháp luật bắt buộc các bên có liên quan phải
tuân thủ khi tham gia vào quá trình chuyển nhượng cổ phần. Chuyển nhượng
cổ phần trong công ty cổ phần phải tuân thủ nguyên tắc tự do chuyển nhượng
theo quy định của pháp luật dân sự, nhưng bị hạn chế bởi một số trường hợp
ngoại lệ. Quy định ràng buộc các cổ đông sáng lập trong thời gian ba năm đầu
thành lập công ty cổ phần có tác dụng duy trì sự ổn định để công ty cổ phần
phát triển. Với một đặc trưng rất dễ nhận biết đó là sự gia nhập và ra đi một
cách liên tục, thường xuyên của các cổ đông, nhất là ở những công ty cổ phần
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong khi đó, khi mới thành lập, các cơ
quan quyền lực trong công ty cổ phần chưa thể hoàn thiện ngay. Với đặc điểm
này, công ty cổ phần sẽ liên tục phải đối đầu với vấn đề nhân sự trong các cơ
quan quản lý của mình. Trong khi đó, điều cần thiết trong khoảng thời gian
mới thành lập công ty cổ phần là phải tập trung thực hiện chiến lược hoạt
động và các mục tiêu kinh doanh của công ty cổ phần, chứ không phải loay
hoay với việc thay đổi nhân sự trong các cơ quan quyền lực, quản lý, kiểm
soát.
Các quy định pháp luật về nguyên tắc chuyển nhượng đóng vai trò là cơ
sở pháp lý cho các cổ đông thực hiện hoạt động chuyển nhượng cổ phần của
21
mình. Các nguyên tắc này bảo vệ công ty cổ phần trước sự xâm nhập của
người ngoài bằng các quy định hạn chế sự xuất hiện của những người lạ
(người không phải là cổ đông sáng lập vào công ty cổ phần); bảo vệ các cổ
đông mới nhận chuyển nhượng cổ phần trước những nguy cơ xuất hiện những
hành vi lừa dối, gian lận, thiếu trung thực của bên chuyển nhượng. Với các
nguyên tắc chuyển nhượng cổ phần mà Luật Doanh nghiệp (2014) đã quy
định, các bên có liên quan trong quan hệ chuyển nhượng có nghĩa vụ thực
hiện các “quy tắc xử sự” mà pháp luật đã đề ra. Đồng thời, pháp luật chỉ ghi
nhận các nội dung bảo vệ các lợi ích chính đáng của các cổ đông trong công
ty cổ phần.
1.4. Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt
Nam hiện nay
Theo pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam, trừ các trường hợp hạn
chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập, cổ đông sở hữu cổ phần ưu
đãi biểu quyết và các trường hợp khác theo quy định tại Điều lệ công ty, cổ
đông trong công ty cổ phần có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho một
cổ đông khác hoặc cho bất kỳ người nào. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy
định về quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông cụ thể như sau:
Điều 110, khoản 1, điểm d, quy định: “d) Cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định
tại khoản 3, Điều 119 và khoản 1, Điều 126 của Luật này”;
Điều 114, Khoản 1, Điểm d quy định về quyền của cổ đông phổ thông:
“d) Tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp
quy định tại khoản 3, Điều 119 và khoản 1, Điều 126 của Luật này”;
Điều 126, Khoản 1, quy định: “1. Cổ phần được tự do chuyển nhượng,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3, Điều 119 của Luật này và Điều lệ công
ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty
22
có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có
hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng”.
Như vậy, với vốn đã bỏ ra để mua cổ phần mà công ty cổ phần chào
bán, cổ đông không nhất thiết phải gắn bó lâu dài với công ty, nếu họ không
muốn. Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần đem lại cho công ty cổ phần lợi
thế hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Đối với công ty cổ phần,
quyền chuyển nhượng cổ phần bao gồm cả quyền tặng, cho, để thừa kế… cổ
phần. Điều đó có nghĩa là khái niệm “chuyển nhượng cổ phần” trong công ty
cổ phần không phải chỉ được hiểu theo nghĩa là việc mua, bán, trao đổi cổ
phần.
Một trong những ưu điểm nổi bật của công ty cổ phần là mặc dù cổ
đông “không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông dưới mọi hình
thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần” theo
khoản 1, điều 115, Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhưng cổ đông vẫn có
quyền “được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác và
cho người không phải là cổ đông” (điểm d khoản 1 điều 114 Luật Doanh
nghiệp 2014). Do xuất phát từ quan điểm xem công ty cổ phần là mô hình
doanh nghiệp có tính chất đối vốn, có tính chất đại chúng khác với mô hình
doanh nghiệp có tính chất đối nhân, nên việc chuyển nhượng vốn trong công
ty cổ phần dễ dàng hơn so với trong công ty trách nhiện hữu hạn và công ty
hợp danh.
Cũng chính vì điều đó, việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần
không phải là một vấn đề gì quá phức tạp và khó khăn. Các cổ đông có thể
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác một cách công khai trên thị
trường chứng khoán theo những điều kiện mà pháp luật cũng như Điều lệ của
công ty cổ phần quy định. Các nhà làm luật quy định quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của cổ đông xuất phát từ quan niệm xem công ty cổ phần là
23
mô hình tổ chức theo hình thức đối vốn, có tính chất đại chúng. Quyền này
phản ánh cấu trúc vốn linh hoạt của công ty cổ phần và khả năng chuyển đổi
dễ dàng mà không làm mất đi tính ổn định trong cấu trúc vốn. Đây cũng là
đặc điểm nổi bật của công ty cổ phần và là điểm khác biệt so với các loại hình
doanh nghiệp khác theo pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay.
Chuyển nhượng cổ phần phổ thông: cổ phần phổ thông có thể được coi
là nền tảng cơ bản về vốn của công ty cổ phần, tổng giá trị của loại cổ phần
này chiếm tỷ lệ chủ yếu trong công ty cổ phần. Người sở hữu cổ phần phổ
thông được gọi là cổ đông phổ thông. Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp
năm 2014, một cổ phần phổ thông sẽ có một phiếu biểu quyết, quyết định các
vấn đề quan trọng đến tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần. Khi không còn
nhu cầu đầu tư vào công ty cổ phần, cổ đông phổ thông có thể chuyển quyền
sở hữu của mình đối với công ty cổ phần cho người khác thông qua việc
chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần. Các điều kiện về chào bán, chuyển
nhượng loại cổ phần này thường do Điều lệ công ty cổ phần quy định.
Chuyển nhượng các loại cổ phần ưu đãi: Bên cạnh các cổ phần phổ
thông, các công ty cổ phần có thể quyết định việc phát hành thêm một số loại
cổ phần ưu đãi. Các loại cổ phần ưu đãi bao gồm: cổ phần ưu đãi biểu quyết,
cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và một số cổ phần ưu đãi khác
(nếu có) do Điều lệ công ty cổ phần quy định. Cũng như các cổ đông phổ
thông, các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại
đều là những người đầu tư vào công ty cổ phần bằng cách mua cổ phần trong
công ty cổ phần và hoàn toàn có quyền tự do chuyển nhượng các loại cổ phần
này. Nhưng điểm khác nhau cơ bản giữa các loại cổ phần này là: các cổ đông
phổ thông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông và biểu quyết, còn các cổ
đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền
dự họp Đại hội đồng cổ đông và biểu quyết. Đối với các loại cổ phần ưu đãi
24
(trừ cổ phần ưu đãi biểu quyết), việc chuyển nhượng chúng như thế nào hoàn
toàn mang tính chất tùy nghi và do Điều lệ công ty cổ phần quy định. Nếu
Điều lệ công ty cổ phần không cụ thể hóa vấn đề này, các cổ đông sở hữu
chúng sẽ tự do chuyển nhượng theo quy định Luật doanh nghiệp 2014.
Việc đảm bảo quyền tự do chuyển nhượng cổ phần có ý nghĩa rất quan
trọng đối với cổ đông và cả nhà đầu tư. Bởi mục đích chính của việc góp vốn
đầu tư vào công ty cổ phần là mục đích tìm kiếm lợi nhuận do được hưởng cổ
tức hàng năm hoặc hưởng chênh lệch giá từ chuyển nhượng cổ phần. Khi
công ty cổ phần làm ăn thuận lợi, phát triển thì giá cổ phiếu của công ty cổ
phần trên thị trường chứng khoán tăng. Chính vì vậy, khi cảm thấy có khoản
lợi nhuận lớn hơn từ chênh lệch giá cổ phiếu, cổ đông sẽ bán đi để thu lợi
nhuận. Trong trường hợp công ty cổ phần hoạt động kém hiệu quả, giá cổ
phiếu giảm, cổ đông muốn hạn chế rủi ro, thua lỗ do đầu tư vào cổ phiếu, thì
họ có quyền bán cổ phiếu cho những nhà đầu tư có nhu cầu. Điều này cũng
tạo ra cơ hội tái cấu trúc lại công ty cổ phần đối với những công ty làm ăn
kém hiệu quả, khi có các nhà đầu tư mong muốn mua lại phần lớn cổ phần để
thiết lập lại bộ máy quản lý cũng như chiến lược hoạt động của công ty cổ
phần. Đối với nhà đầu tư, quyền tự do chuyển nhượng cổ phần tạo điều kiện
cho nhà đầu tư thực hiện chiến lược đầu tư mua cổ phần của công ty cổ phần
nhằm giành quyền quản lý, sau đó cải tạo và sắp xếp lại bộ máy quản lý, điều
hành của công ty cổ phần. Cơ chế này buộc các nhà quản trị công ty cổ phần
phải tìm mọi phương án hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty
cổ phần, nếu không muốn mất quyền quản lý và để công ty cổ phần rơi vào
tay nhà đầu tư khác.
Pháp luật Việt Nam thừa nhận tính tự do chuyển nhượng của cổ phần
như một nguyên tắc, song cũng có một số giới hạn nhất định như: Đối với cổ
phần phổ thông của cổ đông sáng lập: Theo Điều 119, khoản 3, Luật Doanh
25
nghiệp năm 2014 thì: “Trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác,
nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không
phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông”.
Tuy nhiên, không phải tất cả số cổ phần thuộc sở hữu của cổ đông sáng lập
đều chịu sự hạn chế chuyển nhượng này mà chỉ có “số cổ phần đăng ký tại
thời điểm đăng ký doanh nghiệp lần đầu đã góp trong 90 ngày, kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp” mới bị hạn chế chuyển
nhượng theo Điều 119, khoản 3. Hạn chế chuyển nhượng đối với cổ phần phổ
thông của cổ đông sáng lập sẽ được bãi bỏ sau 3 năm, kể từ ngày công ty cổ
phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Pháp luật quy định như vậy một mặt là nhằm ràng buộc và đề cao trách
nhiệm của cổ đông sáng lập trong giai đoạn đầu thành lập công ty cổ phần.
Mặt khác, điều này có tác dụng ngăn chặn tình trạng các sáng lập viên thành
lập công ty cổ phần nhằm mục đích không trong sáng (như để lừa đảo, chiếm
đoạt tài sản sản của người góp vốn…) và khi đạt được mục đích của mình, họ
bán cổ phần của mình và bỏ mặc số phận của công ty cổ phần cũng như của
các cổ đông khác.
Đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết tại khoản 3 điều 116 Luật Doanh
nghiệp năm 2014 quy định: “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết
không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác”. Việc không được
chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết cho người khác có nghĩa là tổ chức
được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập không được chuyển nhượng cổ
phần ưu đãi biểu quyết mà mình nắm giữ cho người khác. Tuy nhiên, sau thời
hạn ba năm, kể từ khi công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển thành
26
cổ phần phổ thông. Pháp luật đưa ra những hạn chế như vậy cũng nhằm đảm
bảo và duy trì tính ổn định trong hoạt động của công ty cổ phần. Đối với cổ
phần ưu đãi biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ, đương
nhiên việc chuyển nhượng sẽ bị hạn chế bởi đây là cơ quan đại diện cho sự
quản lý của Nhà nước trong hoạt động của công ty cổ phần, nhằm điều tiết
hoạt động của công ty cổ phần cho phù hợp với định hướng của Nhà nước, vì
vậy cổ đông được Chính phủ ủy quyền nắm giữ không được phép chuyển
nhượng. Với cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần phổ thông của cổ đông
sáng lập, việc chuyển nhượng này cũng bị hạn chế trong khoảng thời gian ba
năm nhằm duy trì sự ổn định trong cơ cấu và bảo đảm định hướng phát triển
của công ty cổ phần, khi những cổ đông này là người đầu tiên đứng ra thành
lập và định hình sự phát triển của công ty cổ phần thì họ phải có trách nhiệm
đối với công ty. Đây là quy định hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong thực
tiễn có thể gặp trường hợp đặc biệt, khi một cổ đông có quyền ưu đãi biểu
quyết mất tích, chết hay mất năng lực hành vi dân sự... thì số cổ phần ưu đãi
biểu quyết đó sẽ được giải quyết như thế nào? Luật Doanh nghiệp năm 2014
cũng chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về sự chuyển đổi của cổ phần ưu đãi
biểu quyết của tổ chức được Chính phủ ủy quyền.
Ngoài hai trường hợp pháp luật hạn chế chuyển nhượng cổ phần như
trên, thực tế tại một số công ty cổ phần, Hội đồng quản trị không cho phép cổ
đông công khai chuyển nhượng cổ phần hoặc chỉ cho phép chuyển nhượng cổ
phần trong nội bộ công ty cổ phần. Điều này đã dẫn đến tình trạng chuyển
nhượng ngầm. Cổ đông thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần chỉ thông qua
giấy viết tay mà không làm thủ tục chuyển nhượng tại công ty cổ phần. Một
số công ty cổ phần khác, tuy không hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần
nhưng lại gây khó khăn cho cổ đông trong việc hoàn tất các thủ tục chuyển
nhượng cổ phần. Điều này đã xâm phạm nghiêm trọng tới quyền và lợi ích
27
của cổ đông được pháp luật bảo vệ.
1.5. Thủ tục chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam
hiện nay
Các quy định liên quan tới chuyển nhượng cổ phần được Luật Doanh
nghiệp (2014) quy định một cách rất cụ thể và rõ ràng, như: hình thức chuyển
nhượng, trường hợp chỉ chuyển nhượng một số cổ phần trong cổ phiếu có ghi
tên…. Chuyển nhượng có thể được thực hiện giữa các cổ đông trong công ty
cổ phần hoặc với người không phải là cổ đông của công ty cổ phần. Nhưng
khác với hình thức mua lại cổ phần, chuyển nhượng cổ phần không làm thay
đổi số vốn thực tế của công ty cổ phần, không làm ảnh hưởng đến quy mô sản
xuất hay năng lực tài chính của công ty cổ phần trên thị trường.
Chuyển nhượng cổ phần được thực hiện bằng văn bản theo cách thông
thường là hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hoặc mua bán trên thị trường
chứng khoán. Bên chuyển nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có liên quan
cho đến khi tên của người nhận chuyển nhượng được ghi vào sổ đăng ký cổ
đông của công ty cổ phần. Giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển
nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Thủ
tục chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần được quy định như:
Chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập: Các bên liên
quan ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần; Tiến hành lập
biên bản xác nhận về việc đã hoàn thành thủ tục chuyển nhượng cổ phần; Tổ
chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua việc chuyển nhượng cổ
phần; Tiến hành chỉnh sửa, bổ sung thông tin trong Sổ đăng ký cổ đông của
công ty cổ phần; Tiến hành đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập theo quy định;
Chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông phổ thông: Các bên
liên quan ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần; Tiến hành
lập biên bản xác nhận về việc đã hoàn thành thủ tục chuyển nhượng cổ phần;
28
Tiến hành chỉnh sửa, bổ sung thông tin trong Sổ đăng ký cổ đông của công ty
cổ phần; Tiến hành đăng ký cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần trở lên với
Cơ quan đăng ký kinh doanh (nếu có). Bên chuyển nhượng vẫn là người sở
hữu cổ phần có liên quan cho đến khi thông tin của người nhận chuyển
nhượng được đăng ký vào Sổ đăng ký cổ đông của công ty cổ phần. Cổ phần
được coi là đã bán khi được thanh toán đủ và những thông tin về người mua
được ghi đúng, ghi đủ vào Sổ đăng ký cổ đông; kể từ thời điểm đó, người
mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Cổ đông dự định chuyển
nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng cổ phần
đó.
Quyền chuyển nhượng cổ phần bao gồm mua, bán, tặng, cho, để lại
thừa kế. Trong quan hệ chuyển nhượng cổ phần, người nhận chuyển nhượng
trở thành chủ sở hữu cổ phần khi tên của người này được đăng ký vào Sổ
đăng ký cổ đông của công ty cổ phần. Như vậy, người chuyển nhượng vẫn
được nhận cổ tức từ công ty cổ phần khi họ chuyển nhượng cổ phần của mình
trong thời gian giữa thời điểm kết thúc việc lập Danh sách cổ đông và thời
điểm trả cổ tức. Luật Doanh nghiệp (2014) còn dự liệu cả trường hợp chỉ
chuyển nhượng một số cổ phần trong số cổ phiếu có ghi tên, thì cổ phiếu cũ bị
hủy bỏ và công ty cổ phần phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã
chuyển nhượng và số cổ phần còn lại.
Cổ đông đã chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình sẽ phải chịu
thuế thu nhập cá nhân dựa trên thu nhập mà người này đã nhận được khi tiến
hành chuyển nhượng cổ phần của mình với thuế suất 0,1% tính trên giá trị của
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Đối với trường hợp chuyển nhượng các loại cổ phần khác (trừ các loại
cổ phần bị hạn chế chuyển nhượng) thì việc chuyển nhượng cổ phần sẽ được
ghi nhận trong Sổ đăng ký cổ đông. Bên nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ trở
29
thành cổ đông của công ty cổ phần, có các quyền và nghĩa vụ của một cổ
đông sở hữu công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ
của công ty cổ phần đó, cũng như được hưởng các quyền lợi khác từ loại cổ
phần ưu đãi mà họ sở hữu trong công ty cổ phần.
1.6. Những quy định về lợi ích của các bên tham gia hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Quá trình tham gia góp vốn vào công ty cổ phần, để phục vụ cho lợi ích
của mình, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần thông qua hoạt
động mua bán, chuyển nhượng cổ phần. Cổ phần được chuyển nhượng, nó sẽ
làm phát sinh quyền và trách nhiệm đối với các bên trực tiếp tham gia chuyển
nhượng và các bên có liên quan. Các bên có quyền tự thỏa thuận về giá, tuy
nhiên phải phù hợp với pháp luật hiện hành và phụ thuộc rất nhiều vào tình
hình hoạt động của công ty cổ phần. Người sở hữu cổ phần được thực hiện
các quyền và nghĩa vụ với tư cách là cổ đông của công ty cổ phần. Nếu công
ty cổ phần hoạt động có lãi thì giá bán cổ phần sẽ được tăng; ngược lại công
ty cổ phần làm hoạt động thua lỗ thì giá bán cổ phần sẽ giảm. Bên nhận
chuyển nhượng tự nhận định giá trị của cổ phần (có thể do họ tự thu thập
thông tin hoặc do bên chuyển nhượng cung cấp). Các thông tin này là những
thông tin đặc biệt, bởi vì nó có liên quan đến tình hình hoạt động của công ty
phát hành cổ phần, nhất là tình hình tài chính. Đặt giả thiết rằng: bên chuyển
nhượng cổ phần đã cung cấp các thông tin không đầy đủ và trung thực cho
bên nhận chuyển nhượng, do đó dẫn đến việc bên nhận chuyển nhượng có sự
nhầm lẫn về giá trị của cổ phần. Vậy thì trong trường hợp luật không quy định
rằng cung cấp và đảm bảo giá trị thông tin về cổ phần là nghĩa vụ của bên
chuyển nhượng, thì bên nhận chuyển nhượng có thể có quyền yêu cầu đền bù
thiệt hại hoặc hủy bỏ hợp đồng hay không? Chúng ta có thể áp dụng tương tự
pháp luật các quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán trong hợp đồng mua
30
bán hàng hóa thông thường cho hợp đồng mua bán quyền tài sản này hay
không? Có thể thấy pháp luật vẫn chưa có quy định rõ ràng cụ thể và đầy đủ
để bảo vệ quyền lợi của bên mua trong trường hợp này. Đây là một nội dung
mà trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu cần xác định và có những kiến nghị để
hoàn thiện cho pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Pháp luật hiện hành của Việt Nam quy định việc chuyển nhượng cổ
phần trong công ty cổ phần được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông
thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, qua đó:
1.6.1. Chuyển nhượng cổ phần chưa niêm yết
Việc chuyển nhượng cổ phần chưa niêm yết được thực hiện bằng hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần. Nội dung định đoạt cổ phần chính là nội dung
của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Trong khoa học pháp lý, điều khoản
của hợp đồng được chia làm ba loại: Điều khoản căn bản, điều khoản thông
thường và điều khoản tùy nghi. Một hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có thể
bao gồm nhiều điều khoản: Điều khoản do các bên thỏa thuận, điều khoản do
pháp luật quy định. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần bắt buộc phải có
những nội dung như: (1) Bên nhận chuyển nhượng cổ phần phải là người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Đối với việc chuyển nhượng vốn trong công
ty cổ phần, hình thức công ty được đánh giá là có cấu trúc vốn được chuyển
nhượng tự do và khá dễ dàng thì việc chuyển nhượng được hiểu theo nghĩa
rộng (bao gồm cả hình thức tặng cho hoặc thừa kế) thì người nhận chuyển
nhượng không đòi hỏi phải có năng lực pháp luật hoặc năng lực hành vi dân
sự đầy đủ. Tuy nhiên, người nhận chuyển nhượng trong trường hợp này cũng
phải chịu một số hạn chế nhất định liên quan đến điều kiện chuyển nhượng
theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. (2) Đối tượng được chuyển
nhượng chính là số cổ phần thuộc sở hữu của cổ đông. (3) Số lượng cổ phần
chuyển nhượng. (4) Giá chuyển nhượng và phương thức thanh toán: Giá
31
chuyển nhượng do các bên tự do thỏa thuận. Về phương thức thanh toán các
bên có thể thỏa thuận thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản qua Ngân
hàng. (5) Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên: Đây là nội dung không thể thiếu
trong hợp đồng, nó quyết định một hợp đồng có hình thành và thực hiện được
hay không.
Như vậy, có thể hiểu đây là một loại giao dịch dân sự mà đối tượng là
cổ phần, cơ sở hình thành là sự thỏa thuận từ hai bên. Vì thế, thủ tục giao dịch
cũng do hai bên tự thỏa thuận theo quy định của pháp luật dân sự. Các hành vi
chuyển nhượng khác, như tặng cho, thừa kế cũng thuộc hình thức chuyển
nhượng này. Yêu cầu đối với trường hợp chuyển nhượng cổ phần bằng hợp
đồng là giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận
chuyển nhượng hoặc đại điện ủy quyền của họ ký.
1.6.2. Chuyển nhượng cổ phần đã niêm yết thông qua giao dịch trên thị
trường chứng khoán
Hình thức chuyển nhượng mà trong đó, các công ty cổ phần được mua
bán trên thị trường chứng khoán phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt về
tính minh bạch tài chính, về khả năng sinh lời, phải được Ủy ban Chứng
khoán thẩm định và phải tuân thủ các quy tắc kiểm toán theo pháp luật về
chứng khoán. Những quy định chặt chẽ này nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho
người mua, vì khi cổ phần niêm yết được mua bán trên thị trường chứng
khoán thì số lượng nhà đầu tư có thể rất lớn và không phải ai cũng có đủ
thông tin để đánh giá về giá trị cổ phần. Sự can thiệp của Nhà nước trong việc
thẩm định các công ty cổ phần đăng ký bán cổ phần là một chứng thực tin cậy
để người mua đưa ra các quyết định trong việc giao dịch. Người mua thực
hiện việc mua cổ phần chỉ qua các thông tin đã được Nhà nước kiểm định,
người mua không nhìn thấy hàng hóa cụ thể, nếu các thông tin này bị sai lệch
thì có rất nhiều rủi ro đối với người mua. Điều này cho thấy pháp luật về
32
chứng khoán cần phải hết sức cụ thể, phải được thực hiện đầy đủ để bảo vệ lợi
ích người mua.
Pháp luật của Việt Nam thừa nhận tính tự do chuyển nhượng cổ phần
như một nguyên tắc đặc thù của loại hình công ty cổ phần. Xuất phát từ quan
niệm xem công ty cổ phần là mô hình tổ chức theo hình thức đối vốn, có cấu
trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển đổi dễ dàng mà không làm mất đi tính
ổn định trong cấu trúc vốn. Pháp luật Việt Nam quy định cổ phần được thể
hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành là
một loại “hàng hóa” đặc biệt và người có cổ phiếu có thể tự do chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật. Điều này khác với mô hình tổ chức
doanh nghiệp theo hình thức đối nhân nên việc chuyển nhượng cổ phần trong
công ty cổ phần dễ dàng hơn so với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
hợp doanh.
Với số vốn đã bỏ ra để mua cổ phần mà công ty cổ phần chào bán, cổ
đông không nhất thiết phải gắn bó lâu dài với công ty cổ phần, nếu họ không
muốn. Đối với công ty cổ phần, quyền chuyển nhượng cổ phần bao gồm cả
quyền bán, tặng, cho và thừa kế cổ phần. Một trong những điểm nổi bật của
công ty cổ phần là mặc dù cổ đông không được rút vốn đã góp bằng cổ phần
phổ thông dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty cổ phần mua lại
cổ phần, nhưng lại được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông
khác và cho người không phải là cổ đông. Điều này xuất phát từ bản chất của
công ty cổ phần là công ty đối vốn, có tính chất đại chúng. Việc chuyển
nhượng vốn trong công ty cổ phần không phải là một vấn đề gì quá phức tạp
và khó khăn. Điều đó có nghĩa là các cổ đông có thể chuyển nhượng cổ phần
của mình cho người khác công khai trên thị trường chứng khoán theo những
điều kiện mà pháp luật cũng như điều lệ của công ty cổ phần quy định.
Tính tự do chuyển nhượng cổ phần đem lại cho công ty cổ phần lợi thế
33
hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy vậy, tính tự do chuyển
nhượng cổ phần cũng có hạn chế đó là trường hợp đối với cổ phần phổ thông
của cổ đông sáng lập và cổ phần ưu đãi biểu quyết trong thời hạn ba năm kể
từ ngày công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Có
những quy định như vậy là nhằm ràng buộc và đề cao trách nhiệm của cổ
đông sáng lập trong giai đoạn công ty cổ phần mới thành lập.
Nhìn từ góc độ pháp lý, tính tự do chuyển nhượng cổ phần có ý nghĩa
rất quan trọng, tạo cho công ty cổ phần một cấu trúc vốn “mở” với việc cổ
đông trong công ty cổ phần thường xuyên thay đổi.
Kết luận chương 1
Khi trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay, luận văn đã trình bày các nội dung
chính sau: Khái quát về công ty cổ phần, các loại cổ phần trong công ty cổ
phần, quyền chuyển nhượng cổ phần của cổ đông công ty cổ phần. Các vấn đề
lý luận cơ bản về hợp đồng trong giao dịch dân sự. Quy định về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần.
Từ các nội dung này, tác giả rút ra kết luận:
Cổ phần trong công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường
hợp hạn chế chuyển nhượng đối với cổ phần của cổ đông sáng lập và cổ phần
ưu đãi biểu quyết trong thời gian 03 năm kể từ ngày Công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quy định về tự do chuyển nhượng cổ phần
đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dễ dàng tham gia đầu tư vào công ty cổ
phần, dễ dàng chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần cho người khác, tạo
thuận lợi cho nhà đầu tư và góp phần phát triển kinh tế thị trường. Giao dịch
chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần có sự khác nhau giữa cổ phần
của công ty chưa niêm yết và cổ phần của công ty đã niêm yết trên thị trường
chứng khoán. Đối với cổ phần của công ty chưa niêm yết, việc chuyển
34
nhượng cổ phần của cổ đông cho cổ đông khác hoặc cho người không phải là
cổ đông công ty được thực hiện bằng hợp đồng chuyển nhượng cổ phần thông
thường. Đối với các cổ phần của công ty đã niêm yết, việc chuyển nhượng cổ
phần cho nhà đầu tư được thực hiện thông qua giao dịch trên thị trường chứng
khoán.
35
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG
CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Nội dung của pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam bao
gồm các chế định như: Các quy định pháp luật về điều kiện chuyển nhượng
cổ phần; Chủ thể của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần; Quyền và nghĩa vụ
của chủ thể tham gia trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần; Nội dung và
hình thức của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần; Ký kết và thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần; Hiệu lực và giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần; Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần và một số khó khăn vướng mắc….
2.1. Các quy định pháp luật về điều kiện chuyển nhượng cổ phần
Nội dung quy định về các điều kiện chung của việc chuyển nhượng các
loại cổ phần, các điều kiện chuyển nhượng riêng biệt áp dụng cho từng loại cổ
phần... các quy định này liên quan đến điều kiện về chủ thể chuyển nhượng,
chủ thể có quyền nhận chuyển nhượng, hình thức chuyển nhượng, quyền và
nghĩa vụ của các bên trong giao dịch chuyển nhượng cổ phần. Chủ thể có
quyền chuyển nhượng cổ phần phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ theo quy định của pháp luật dân sự. Nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật
định thì người sở hữu cổ phần sẽ có toàn quyền chuyển nhượng cổ phần của
mình hoặc có quyền chuyển nhượng cổ phần của người khác khi được người
đó ủy quyền, trừ trường hợp người này bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự khi chuyển nhượng tài sản.
Khi chuyển nhượng cổ phần, người chuyển nhượng phải tuân thủ các quy
định của pháp luật về trình tự và thủ tục chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng
cổ phần phải được lập thành văn bản và có xác nhận của công ty cổ phần.
Điều kiện để các bên hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần đó là các bên tuân
36
thủ và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại hợp đồng
chuyển nhượng. Bên nhận chuyển nhượng hoàn tất việc thanh toán tiền mua
cổ phần và bên chuyển nhượng chuyển giao quyền sở hữu cổ phần cho người
nhận chuyển nhượng và công ty cổ phần xác nhận tư cách cổ đông mới cho
người nhận chuyển nhượng tại sổ đăng ký cổ đông của công ty cổ phần. Quy
định pháp luật về điều kiện chuyển nhượng có ý nghĩa là cơ sở pháp lý để
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về kinh tế, tăng cường trách nhiệm của
các bên có liên quan trong hoạt động chuyển nhượng (phải đáp ứng đủ điều
kiện và chuyển nhượng theo đúng nguyên tắc), ngăn ngừa các vi phạm pháp
luật và góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân được Hiến
pháp (1992, sửa đổi, bổ sung năm 2013) ghi nhận.
2.2. Chủ thể của hợp đồng chuyền nhượng cổ phần
Qua nghiên cứu khảo sát chế định về hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần, tác giả luận văn nhận thấy rằng vấn đề chủ thể của hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Tại
khoản 3 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Tổ chức, cá nhân có
quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này (trừ
trường hợp cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà
nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
hoặc các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức). Tại khoản 10 Điều 6 Luật Chứng khoán năm
2006 (sửa đổi năm 2010), khi đề cập đến chủ thể tham gia thị trường chứng
khoán có đưa ra định nghĩa: “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ
chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán”.
Như vậy, từ các quy định trên đây có thể thấy rằng chủ thể tham gia ký
kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là khá đa dạng, bao gồm các tổ chức, cá
37
nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài (trừ các tổ chức, cá nhân bị
pháp luật cấm tham gia vào giao dịch chuyển nhượng cổ phần) có đủ các điều
kiện pháp lý để tham gia vào giao dịch chuyển nhượng cổ phần.
Đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, pháp luật hiện hành quy định mọi
tổ chức, cá nhân đều có quyền tham gia chuyển nhượng cổ phần, trừ các
trường hợp: (1) Tổ chức trong nước là “cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang
nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng
cho cơ quan, đơn vị mình”. Quy định này chỉ loại trừ trường hợp chủ thể nhận
chuyển nhượng cổ phần là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và
mục đích mua cổ phần là “để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình”. Trên
thực tế, để xác định yếu tố “thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình” không
phải là điều dễ dàng, trong khi đó các văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp
năm 2014 hiện nay không có quy định cụ thể thế nào là “thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình”. (2) Cá nhân trong nước thuộc trường hợp pháp luật cấm
tham gia đầu tư chứng khoán hoặc cấm góp vốn, nhận chuyển nhượng cổ
phần. Cụ thể, pháp luật hiện hành quy định người đứng đầu, cấp phó của
người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của những người đó không được góp
vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực
tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước (Khoản 2 Điều 37 Luật Phòng chống
tham nhũng 2005). Quy định này nhằm phòng ngừa trường hợp người có
chức vụ quyền hạn lạm dùng chức vụ của mình, các thông tin mà mình có
được trong quá trình quản lý để mua cổ phần nhằm thu lợi riêng hoặc phòng
ngừa trường hợp người có chức vụ quyền hạn đưa ra những chính sách quản
lý chủ quan để thu lợi riêng cho doanh nghiệp mà mình góp vốn.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia trong hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Sau khi hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần, quyền và trách nhiệm
38
của cổ đông trong công ty cổ phần được chuyển nhượng sẽ phát sinh quyền,
trách nhiệm đối với bên chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng và các bên
khác có liên quan. Khi hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần, bên chuyển
nhượng không còn là cổ đông của công ty cổ phần và chấm dứt toàn bộ các
quyền và nghĩa vụ đối với công ty cổ phần. Lợi ích mà cổ đông chuyển
nhượng cổ phần nhận được là số tiền tương ứng với giá trị của cổ phần được
chuyển nhượng. Cổ đông chuyển nhượng cổ phần có trách nhiệm nộp thuế
thu nhập cá nhân sau khi hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần theo quy định
của pháp luật. Khi nhận chuyển nhượng cổ phần, bên nhận chuyển nhượng trở
thành cổ đông mới của công ty cổ phần. Để trở thành cổ đông của công ty cổ
phần, bên nhận chuyển nhượng phải đáp ứng hai điều kiện là (i) Cổ đông đã
thanh toán đầy đủ tiền mua cổ phần và (ii) Thông tin về cổ đông được ghi vào
Sổ Đăng ký cổ đông. Pháp luật quy định sau khi hoàn tất việc chuyển nhượng
cổ phần thì người nhận chuyển nhượng được ghi nhận thông tin vào Sổ đăng
ký cổ đông, người nhận chuyển nhượng có tư cách cổ đông của công ty cổ
phần từ thời điểm đó. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy có nhiều bất cập
đối với quy định về thủ tục ghi nhận thông tin người nhận chuyển nhượng sau
khi hoàn tất các nghĩa vụ vào Sổ Đăng ký cổ đông. Có nhiều công ty cổ phần
không thực hiện đúng thủ tục ghi nhận tư cách cổ đông sau khi cổ đông đã
hoàn tất thủ tục chuyển nhượng theo đúng quy định pháp luật, gây ra nhiều
tranh cãi và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cổ đông trong công ty cổ
phần.
2.4. Nội dung và hình thức của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Về nội dung và hình thức của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, ngoài
các quy định chung của Bộ luật dân sự 2015 áp dụng cho các giao dịch dân
sự, khoản 2 Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014 còn quy định: “Việc chuyển
nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông
39
qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Trường hợp chuyển nhượng bằng
hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên
nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Trường hợp chuyển
nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, trình tự, thủ tục và
việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán”.
Như vậy, đối với mỗi trường hợp, pháp luật hiện hành có quy định về nội
dung và hình thức của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần tương ứng. Cụ thể
là:
Thứ nhất, đối với hợp đồng chuyển nhượng cổ phần không niêm
yết/đăng ký giao dịch. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 126 Luật Doanh
nghiệp 2014 thì hợp đồng chuyển nhượng cổ phần phải bằng văn bản do bên
chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ
ký. Như vậy đối với hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, pháp luật không thừa
nhận hợp đồng dưới hình thức lời nói hoặc hành vi.
Về nội dung của hợp đồng, pháp luật chuyên ngành hiện tại chưa có điều
khoản cụ thể quy định về nội dung của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 398 Bộ luật Dân sự 2015 về nội dung của
hợp đồng nói chung thì hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có thể bao gồm các
điều khoản như: Điều khoản về đối tượng của hợp đồng. Trong điều khoản
này, các bên có thể thỏa thuận rõ về loại cổ phần được chuyển nhượng, tổ
chức phát hành, mệnh giá cổ phần, số lượng cổ phần chuyển nhượng, tình
trạng tự do giao dịch hoặc hạn chế giao dịch của cổ phần. Trong trường hợp
đối tượng của hợp đồng là cổ phần đang trong thời gian hạn chế giao dịch, các
bên cần quy định rõ thời gian hạn chế giao dịch, điều kiện để cổ phần được
phép chuyển nhượng; Điều khoản về giá, phương thức thanh toán. Trong điều
khoản này, các bên thỏa thuận về giá cả của cổ phần được chuyển nhượng,
tổng giá trị hợp đồng, thời hạn và cách thức thanh toán; Điều khoản về thời
40
hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng. Trong điều khoản này, các
bên thỏa thuận về thời hạn hoàn tất thủ tục chuyển nhượng cổ phần, phương
thức chuyển nhượng cổ phần; Điều khoản về quyền, nghĩa vụ của các bên.
Trong điều khoản này, các bên có thể thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của mỗi bên đối với giao dịch chuyển nhượng cổ phần như bên bán có
nghĩa vụ thực hiện thủ tục sang tên cổ phiếu cho bên mua và nhận tiền thanh
toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán và nhận cổ phần chuyển
nhượng. Ngoài ra, trong trường hợp chuyển nhượng cổ phần nhằm chi phối
quyền quản trị, kiểm soát công ty cổ phần, các bên có thỏa thuận về quyền lợi
của bên mua trong việc chỉ định nhân sự vào hội đồng quản trị, ban kiểm soát
công ty cổ phần và nghĩa vụ của bên bán trong việc “rút” đại diện đương
nhiệm của mình trong hội đồng quản trị, ban kiểm soát công ty cổ phần; Điều
khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên
có thể thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm thanh toán tiền phạt
vi phạm khi một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng; Điều khoản về
phương thức giải quyết tranh chấp. Các bên có thể thỏa thuận chọn phương
thức giải quyết tranh chấp là thương lượng, hòa giải hoặc thông qua cơ quan
tài phán là Tóa án hoặc trung tâm trọng tài.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, Điều 398 BLDS 2015 còn cho phép các
bên có quyền thỏa thuận về các nội dung khác của hợp đồng. Quy định này
tạo độ mở cho các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận về những nội dung
khác với điều kiện không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Các bên có thể
thỏa thuận thêm về những nội dung phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần như quyền chi phối, kiểm soát hoạt động quản trị
công ty của bên mua sau khi chính thức đứng tên sở hữu cổ phần hoặc những
nội dung nhằm đảm bảo hạn chế rủi ro cho bên mua trong quá trình thực hiện
hợp đồng như quyền và cách thức yêu cầu phong tỏa cổ phiếu tại tổ chức phát
41
hành cho đến khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.
Thứ hai, đối với hợp đồng chuyển nhượng cổ phần đã niêm yết/đăng ký
giao dịch hay còn gọi là hợp đồng mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán. Cổ phiếu niêm yết/đăng ký giao dịch được giao dịch tập trung trên hệ
thống giao dịch của các Sở giao dịch chứng khoán. Ngoài các chủ thể chính
thức của hợp đồng mua bán cổ phiếu là bên mua và bên bán, trong quá trình
giao dịch mua bán cổ phiếu còn có sự tham gia hỗ trợ của các chủ thể khác
như: nhà môi giới chứng khoán, các chủ thể quản lý thị trường như Sở giao
dịch chứng khoán, trung tâm lưu ký chứng khoán và thành viên lưu ký (công
ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký). Do đó, pháp luật chuyên ngành thường có
những quy định đặc thù về nội dung cũng như hình thức của hợp đồng mua
bán cổ phiếu trong trường hợp này. Về hình thức của hợp đồng mua bán cổ
phiếu đã niêm yết/đăng ký giao dịch: Khác với trường hợp mua bán cổ phần
chưa niêm yết, theo đó bên mua và bên bán có thể gặp mặt trực tiếp, đàm
phán và cùng ký kết vào một thỏa thuận để xác lập các quyền và nghĩa vụ với
nhau liên quan đến cổ phiếu mua bán thì trong trường hợp cổ phiếu đã niêm
yết/đăng ký giao dịch, quá trình giao kết và xác lập hợp đồng mua bán cổ
phiếu tuân theo nguyên tắc về đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng của Bộ luật dân sự 2015. Vì vậy, hình thức của hợp
đồng mua bán cổ phiếu tuân theo hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Vấn đề này đã được quy định tại khoản
1, khoản 2 và khoản 3 Điều 52 Thông tư số 210/2012/TT-BTC như: Bản đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán cổ phiếu đã niêm yết do nhà đầu tư đưa ra
dưới hình thức “lệnh mua” hoặc “lệnh bán” và gửi cho công ty chứng khoán –
với tư cách là nhà môi giới chứng khoán. Việc nhà đầu tư đặt lệnh mua hoặc
lệnh bán (gửi đề nghị giao kết hợp đồng mua bán cổ phiếu) có thể được thực
hiện bằng cách đặt lệnh trực tiếp tại quầy hoặc đặt lệnh qua điện thoại, fax,
42
internet và các đường truyền khác. Về bản chất, Phiếu lệnh giao dịch chứng
khoán của nhà đầu tư là một đề nghị giao kết hợp đồng. Theo quy định tại
Thông tư số 210/2012/TT-BTC nói trên thì Phiếu lệnh giao dịch chứng khoán
được xác lập dưới hình thức văn bản như phiếu lệnh giấy hoặc thông điệp dữ
liệu. Trường hợp là phiếu lệnh giấy, nhà đầu tư trực tiếp ký xác nhận vào
phiếu lệnh và chuyển tới công ty chứng khoán. Trường hợp là thông điệp dữ
liệu, nhà đầu tư sử dụng các công cụ bảo mật mà công ty chứng khoán cấp để
đăng nhập vào hệ thống giao dịch trực tuyến, sau đó nhập các thông tin giao
dịch vào hệ thống này. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán cổ
phiếu. Các lệnh giao dịch của nhà đầu tư được công ty chứng khoán hỗ trợ
nhập vào hệ thống giao dịch của các sở giao dịch chứng khoán và khớp với
các lệnh giao dịch của nhà đầu tư khác. Nếu kết quả khớp lệnh giữa các nhà
đầu tư mà thể hiện sự thống nhất ý chí về giá mua bán và thời gian thực hiện
lệnh mua bán thì được xem là đã hoàn thành việc chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng và khi đó, một hợp đồng mua bán cổ phiếu được xem là đã giao kết
và bắt đầu có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
Về nội dung của hợp đồng mua bán cổ phiếu đã niêm yết/đăng ký giao
dịch. Tại khoản 4 Điều 52 Thông tư số 210/2012/TT-BTC có quy định: Công
ty chứng khoán chỉ được thực hiện lệnh của khách hàng khi lệnh giao dịch có
đầy đủ và chính xác các thông tin về khách hàng, ngày giao dịch, mã chứng
khoán, phương thức, loại lệnh, số lượng và giá giao dịch. Lệnh giao dịch của
khách hàng phải được công ty chứng khoán ghi nhận số thứ tự và thời gian
(ngày, giờ, phút) nhận lệnh tại thời điểm nhận lệnh.
Như vậy, nhà đầu tư có thể đặt lệnh mua bán cổ phiếu thông qua một
trong các phương thức như mang phiếu lệnh văn bản đến công ty chứng
khoán/chi nhánh công ty chứng khoán hoặc truy cập từ xa vào hệ thống giao
dịch trực tuyến để đặt lệnh. Thực tế đây là hai phương thức được sử dụng phổ
43
biến nhất, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư bởi trong
nhiều trường hợp nhà đầu tư do điều kiện địa lý xa không mang phiếu lệnh
đến công ty chứng khoán được hoặc hệ thống giao dịch trực tuyến còn nhiều
khâu đăng nhập phức tạp khiến nhà đầu tư chưa thực sự “thích” sử dụng thì
đòi hỏi cần có những phương thức đặt lệnh thuận tiện hơn. Mặc dù Khoản 3
Điều 52 Thông tư số 210/2012/TT-BTC có nhắc tới phương thức giao dịch
qua điện thoại, fax và đường truyền khác nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể
nên thực tế các công ty chứng khoán hiện nay còn khá lúng túng và gặp nhiều
khó khăn khi áp dụng các phương thức này vào thực tiễn giao dịch mua bán
chứng khoán.
2.5. Ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
2.5.1. Các quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
chưa niêm yết/đăng ký giao dịch
Theo quy định hiện hành, bên bán, bên mua hoặc đại diện theo ủy
quyền của họ trực tiếp ký kết vào hợp đồng chuyển nhượng và những giấy tờ
có liên quan khác theo quy định của tổ chức phát hành hoặc tổ chức được tổ
chức phát hành ủy quyền hợp lệ. Sau khi ký kết và hợp đồng có hiệu lực, các
bên tham gia giao dịch tiến hành thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng đã xác lập.
Do cổ phiếu chưa niêm yết được quản lý bởi tổ chức phát hành hoặc tổ
chức được ủy quyền nên quá trình thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đối với
cổ phiếu chưa niêm yết ít có sự tham gia của các chủ thể đóng vai trò trung
gian, hỗ trợ như tổ chức phát hành, công ty chứng khoán. Vì vậy, thủ tục
chuyển nhượng cổ phiếu tuân theo quy định của tổ chức phát hành, thủ tục
này có thể được tóm tắt trên tờ cổ phiếu hoặc tuân theo quy định của tổ chức
được tổ chức phát hành ủy quyền như công ty chứng khoán.
Đối với việc chuyển nhượng cổ phiếu chưa niêm yết tại tổ chức phát
44
hành, thông thường thủ tục chuyển nhượng cổ phiếu sẽ được thực hiện như
sau: các bên sẽ nộp hồ sơ chuyển nhượng đến trụ sở của tổ chức phát hành
bao gồm hợp đồng hoặc giấy đề nghị chuyển nhượng theo mẫu của tổ chức
phát hành và các giấy tờ liên quan khác như tờ cổ phiếu của bên bán, chứng
minh nhân dân/giấy đăng ký doanh nghiệp của bên mua/bên bán. Sau khi xem
xét hồ sơ, tổ chức phát hành ký xác nhận trên hợp đồng hoặc giấy đề nghị
chuyển nhượng và cập nhật dữ liệu vào sổ đăng ký cổ đông. Bên mua chỉ trở
thành cổ đông mới của công ty kể từ thời điểm các thông tin của họ quy định
tại khoản 2 Điều 121 của Luật Doanh nghiệp 2014 được ghi đầy đủ vào sổ
đăng ký cổ đông. Tờ cổ phiếu cũ của bên bán bị hủy và tổ chức phát hành sẽ
cấp lại tờ cổ phiếu mới cho bên bán, bên mua tương ứng với số lượng cổ
phiếu nắm giữ. Đối với việc chuyển nhượng cổ phiếu chưa niêm yết tại công
ty chứng khoán: Trường hợp này công ty chứng khoán được cấp Giấy chứng
nhận hoạt động lưu ký sẽ ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức phát hành không
phải là công ty đại chúng và đóng vai trò là đại lý chuyển nhượng của tổ chức
phát hành. Thủ tục chuyển nhượng được thực hiện theo quy định của công ty
chứng khoán và các bước trình tự thông thường tương tự như trình tự chuyển
nhượng tại tổ chức phát hành.
Như vậy, có thể nhận thấy việc thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu
cổ phần, một nội dung cơ bản của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần không
được quy định chi tiết tại văn bản quy phạm pháp luật mà được quy định cụ
thể theo hướng dẫn của tổ chức phát hành và các cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành về chứng khoán. Riêng việc thanh toán tiền mua cổ phần do
các bên tự thỏa thuận và thực hiện phù hợp với quy định pháp luật. Có thể
thấy tổ chức phát hành đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng đối với cổ phiếu chưa niêm yết/đăng ký giao dịch, đặc
biệt là quá trình chuyển quyền sở hữu cổ phiếu từ bên bán sang cho bên mua
45
nhưng lại chưa có quy định pháp luật cụ thể quy định rõ ràng về trách nhiệm
của tổ chức phát hành trong vấn đề này.
2.5.2. Ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đối với cổ phiếu đã
niêm yết/đăng ký giao dịch
Khác với quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ
phiếu chưa niêm yết/đăng ký giao dịch vốn dĩ chủ yếu được thực hiện thông
qua phương thức thỏa thuận trực tiếp giữa bên mua và bên bán, việc thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu đã niêm yết/đăng ký giao dịch thường
được thực hiện thông qua chủ thể trung gian là nhà môi giới và các tổ chức
trung gian khác theo phương thức gián tiếp, nghĩa là người mua và người bán
không trực tiếp gặp nhau để ký kết và thực hiện giao dịch mà hoàn toàn thông
qua tổ chức trung gian trên thị trường. Một trong những tổ chức trung gian
đóng vai trò quan trọng trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng giữa các
bên đó là công ty chứng khoán. Để xác lập nên tư cách nhà môi giới của công
ty chứng khoán, bên mua và bên bán trước hết phải lập Giấy đề nghị mở tài
khoản và ký kết hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán với công ty
chứng khoán. Giấy đề nghị mở tài khoản có các nội dung chủ yếu như thông
tin về khách hàng, thông tin về giao dịch như loại lệnh, phương thức giao
dịch, phương thức nhận kết quả giao dịch. Hợp đồng mở tài khoản giao dịch
chứng khoán có các nội dung chủ yếu như cách thức nhận lệnh của công ty
chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của khách hàng như quyền sở hữu tiền và
chứng khoán trên tài khoản giao dịch, quyền và nghĩa vụ của công ty chứng
khoán như nhận lệnh giao dịch, lưu giữ, bảo quản tiền và chứng khoán trên tài
khoản của khách hàng, thực hiện giao dịch, thu phí dịch vụ… Sau khi xác lập
hợp đồng, công ty chứng khoán sẽ cấp cho nhà đầu tư một tài khoản giao dịch
chứng khoán để lưu ký chứng khoán và/hoặc để thực hiện các giao dịch
mua/bán chứng khoán trên tài khoản này. Như vậy với việc xác lập hợp đồng
46
mở tài khoản giao dịch chứng khoán có các nội dung cơ bản như nêu trên thì
hợp đồng này có giá trị như một hợp đồng môi giới chứng khoán, bên bán/bên
mua đã “trao quyền” cho công ty chứng khoán được thay mặt mình quản lý
tài khoản giao dịch chứng khoán, theo đó công ty chứng khoán sẽ hỗ trợ bên
bán/bên mua thực hiện các giao dịch mua/bán chứng khoán bằng cách nhận
lệnh từ khách hàng, nhập lệnh mua/bán chứng khoán vào hệ thống giao dịch
của các sở giao dịch chứng khoán để tìm và khớp các lệnh bán/mua chứng
khoán tương ứng. Có thể thấy hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán
đóng vai trò quan trọng trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng cổ phiếu niêm yết/đăng ký giao dịch giữa các bên bởi hợp đồng này
đã tạo cơ sở, tiền đề cho bên bán và bên mua xác lập và thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng cổ phiếu niêm yết/đăng ký giao dịch với nhau mà không cần
gặp mặt để thỏa thuận và ký kết trực tiếp thông qua cơ chế đặc thù là cơ chế
môi giới của công ty chứng khoán.
Theo quy định hiện hành, các bên tham gia giao dịch mua bán cổ phiếu
niêm yết/đăng ký giao dịch lập phiếu lệnh giao dịch chứng khoán dưới dạng
văn bản như giấy tờ hoặc thông điệp dữ liệu và chuyển cho công ty chứng
khoán. Công ty chứng khoán với vai trò là nhà môi giới được xác lập theo hợp
đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán và có trách nhiệm kiểm tra lệnh
giao dịch của khách hàng và nhập lệnh vào hệ thống của sở giao dịch chứng
khoán. Sau khi lệnh mua của bên mua khớp với lệnh bán của bên bán trên hệ
thống giao dịch của sở giao dịch chứng khoán thì một hợp đồng mua bán cổ
phiếu được xác lập và có hiệu lực thực thi ngay lập tức. Việc thực hiện hợp
đồng mua bán cổ phiếu trong trường hợp này được triển khai một cách “tự
động” bởi sự hỗ trợ của các chủ thể trung gian, công nghệ kỹ thuật mà hầu
như không cần sự tham gia trực tiếp của bên mua và bên bán.
Như vậy, nếu đối chiếu, so sánh với việc thực hiện hợp đồng mua bán cổ
47
phiếu chưa niêm yết/đăng ký giao dịch thì việc thực hiện hợp đồng mua bán
cổ phiếu niêm yết/đăng ký giao dịch được thực hiện “tự động” và có sự tham
gia tích cực của các chủ thể trung gian. Do tính chất “tự động” và đảm bảo an
toàn cho hệ thống giao dịch cũng như an toàn của thị trường chứng khoán,
việc hủy, sửa lệnh giao dịch đã khớp là không được phép, trừ trường hợp do
lỗi công ty chứng khoán khi đặt nhầm, sai lệnh của khách hàng như: sai số tài
khoản của khách hàng, sai chứng khoán, sai mức giá, thừa lệnh, nhầm lệnh
mua thành lệnh bán và ngược lại, sai số lượng chứng khoán... Trong khi đó,
đối với hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu chưa niêm yết/đăng ký giao dịch,
các bên có quyền thỏa thuận sửa đổi, chấm dứt hợp đồng ngay cả khi hợp
đồng đã có hiệu lực thi hành. Cũng do tính chất giao dịch tập trung trên hệ
thống giao dịch của các Sở giao dịch chứng khoán, thời gian thực hiện hợp
đồng mua bán cổ phiếu trong trường hợp này diễn ra nhanh chóng. Từ thời
điểm hợp đồng được giao kết cho đến thời điểm hoàn tất thanh toán tiền và cổ
phiếu chỉ là hai ngày làm việc trong khi đó đối với việc thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng cổ phiếu chưa niêm yết/đăng ký giao dịch, các bên có quyền
tự do thỏa thuận về thời gian thực hiện hợp đồng theo khả năng và nhu cầu
của mình mà không bị khống chế về thời gian thực hiện hợp đồng.
2.6. Hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Qua nghiên cứu thực trạng của hợp đồng nói chung và hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần nói riêng cho thấy, các quy định về hiệu lực của hợp
đồng hiện nay ở Việt Nam đã tương đối đầy đủ và hoàn thiện. Có thể hình
dung các quy định về hiệu lực của hợp đồng nói chung và hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần nói riêng bao gồm các nội dung chính sau đây:
Trên nguyên tắc đã được ghi nhận tại Điều 401 Bộ luật Dân sự năm
2015, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần được giao kết hợp pháp sẽ có hiệu
lực kể từ thời điểm các bên đã ký vào văn bản hợp đồng, trừ trường hợp các
48
bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật chuyên ngành có quy định khác. Mặc
dù pháp luật quy định nguyên tắc chung là như vậy nhưng thực tế cho thấy
việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần đôi
khi rất khó khăn và phức tạp, bởi lẽ có những trường hợp các đề nghị giao kết
hợp đồng đã được gửi nhưng không xác định chính xác thời điểm bên nhận đề
nghị giao kết hợp đồng đã chấp nhận đề nghị hay chưa và chấp nhận ở mức
độ như thế nào. Chính vì vậy, có một nguyên tắc chung thường được viện dẫn
để xác định thời điểm có hiệu lực của một hợp đồng khi không xác định được
bằng chứng về thời điểm các bên ký vào văn bản hợp đồng, đó chính là thời
điểm các bên đã đạt được sự thống nhất ý chí về các điều khoản của hợp
đồng.
Thực tế cũng cho thấy, ngoài nguyên tắc nêu trên, các bên cũng có thể
thỏa thuận về hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo nhiều cách
thức khác nhau, chẳng hạn như: Hợp đồng có hiệu lực sau 30 ngày kể từ khi
kí hợp đồng; hợp đồng có hiệu lực trong một thời hạn nhất định, ví dụ trong
vòng một năm kể từ ngày được giao kết, quá thời hạn đó hợp đồng hết hiệu
lực; hợp đồng chỉ có hiệu lực khi nếu được phê duyệt bởi một cơ quan thứ 3,
ví dụ hợp đồng mua bán cổ phiếu chiếm từ mười phần trăm (10%) trở lên vốn
điều lệ của công ty quản lý quỹ không phải là công ty đại chúng chỉ có hiệu
lực khi được Ủy ban chứng khoán nhà nước chấp thuận (Điều 16 Thông tư số
212/2012/TT-BTC).
Tương tự như hợp đồng dân sự nói chung, một hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần sẽ có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện như: Chủ thể
có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với hợp đồng
được xác lập. Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân hoặc pháp
nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Chủ
thể tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp
49
đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có tham gia hay không tham gia
vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà không chịu sự chi phối
hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác. Pháp luật đòi
hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự
nguyện. Đây là là sự cụ thể hóa nguyên tắc tự do ý chí của các chủ thể tham
gia hợp đồng. Các yếu tố làm mất đi sự tự nguyện của các chủ thể bao gồm:
Hợp đồng xác lập do giả tạo, hợp đồng xác lập do nhầm lẫn, hợp đồng được
xác lập do bị lừa dối, đe dọa; Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Mặc dù nhà nước thông
qua pháp luật thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận nhưng để bảo
vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, nhà nước cũng có thể qui định một số trường hợp hạn chế quyền
tự do của các bên trong việc thiết lập hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Theo
đó, nội dung và mục đích của hợp không được vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái đạo đức xã hội; Hình thức của hợp đồng là điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng. Như đã phân tích, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
chưa niêm yết/đăng ký giao dịch phải được lập thành văn bản. Như vậy nếu
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần niêm yết/đăng ký giao dịch được xác lập
bằng lời nói hoặc hành vi thì có nghĩa đã phạm quy định về hình thức của hợp
đồng, từ đó có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần không thỏa mãn
bất cứ điều kiện nào trong số các điều kiện nêu trên, hợp đồng này có thể bị
tuyên vô hiệu tương đối nếu chủ thể tham gia hợp đồng không có đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi; các chủ thể không có sự tự nguyện khi tham
gia hợp đồng; hình thức của hợp đồng không phù hợp với pháp luật hoặc bị
tuyên vô hiệu tuyệt đối nếu nội dung và mục đích của hợp đồng không phù
hợp với pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Trong trường hợp đó, các hợp
50
đồng chuyển nhượng cổ phần bị vô hiệu sẽ được giải quyết theo nguyên tắc
chung là “các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi ký kết hợp
đồng”, nghĩa là các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền.
2.7. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần
Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là điều khó
tránh, bởi lẽ trong quá trình thực hiện hợp đồng, có những thời điểm quyền và
lợi ích của các bên không thống nhất mà có sự xung đột, mâu thuẫn với nhau
dẫn đến việc một bên hoặc cả hai bên vi phạm hợp đồng. Cũng như việc giải
quyết tranh chấp đối với hầu hết các loại hợp đồng mua bán tài sản khác trong
đời sống kinh doanh, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần cũng được giải quyết theo các phương thức cơ bản như: thương lượng,
hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.
Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tranh chấp giữa người
chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần
vốn góp với công ty, thành viên công ty là tranh chấp về kinh doanh, thương
mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Theo Điều 131 Luật chứng khoán 2006: “Tranh chấp phát sinh trong
hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam có thể được
giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải hoặc yêu cầu Trọng tài hoặc Toà
án giải quyết theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền, thủ tục giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán
tại Trọng tài hoặc Tòa án được tiến hành theo quy định của pháp luật”.
Qua nghiên cứu pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng mua bán cổ phiếu, tác giả luận văn cho rằng có thể đưa ra một số
nhận xét khái quát như: Đối với phương thức giải quyết tranh chấp là thương
51
lượng và hòa giải, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về quy trình,
thủ tục thương lượng hay hòa giải tranh chấp giữa các bên mà để mở cho các
bên tự thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp bằng các phương thức này; Đối
với phương thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại, trình
tự và thủ tục giải quyết tranh chấp tuân theo quy định tại Luật Trọng tài
thương mại năm 2010. Về nguyên tắc, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua
bán cổ phiếu chỉ được giải quyết bằng thủ tục trọng tài nếu các bên có thoả
thuận về việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần thông qua cơ quan tài phán là Tòa án, trình tự và thủ
tục giải quyết tranh chấp phải tuân theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
Như vậy, có thể nhận định rằng các quy định hiện hành về giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là khá hoàn thiện,
ngoại trừ các quy định về thủ tục thương lượng và hòa giải. Vì vậy, có lẽ điểm
cần lưu ý khi hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần chính là cần phải hoàn thiện các quy định về
giải quyết tranh chấp bằng cơ chế thương lượng và cơ chế hòa giải.
Mặc dù các quy định pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần nói riêng ngày càng được chỉnh sửa hoàn thiện nhưng
việc áp dụng trên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Tình trạng này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân
cơ bản như: Các quy phạm pháp luật còn nhiều lỗ hổng; các chủ thể tham gia
vào giao dịch chuyển nhượng cổ phần còn thiếu kiến thức về pháp luật; hệ
thống công nghệ thông tin chưa đáp ứng kịp nhu cầu của thị trường cùng việc
thiếu kinh nghiệm quản lý thị trường chứng khoán so với các nước tiên tiến…
Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của các hạn chế, vướng mắc hiện
52
nay đó là các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng cổ phần còn
khá nhiều, việc tranh chấp này cũng đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau
nhưng nguyên nhân chủ yếu đó là do sự thiếu kiến thức pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần của chính bên mua và bên bán trong quá trình xác
lập và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hay hợp đồng mua bán cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán. Qua đó, trong khuôn khổ luận văn về Hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay, tác giả sẽ tập
trung phân tích một số bản án của Tòa án đã giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng chuyển nhượng cổ phần để làm rõ hơn nhận định của mình:
Một là, tình trạng tranh chấp phát sinh do hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần hay hợp đồng mua bán cổ phiếu được xác lập nhưng không phản ánh
đúng bản chất của quan hệ giao dịch mà hai bên hướng tới. Thực tiễn được
thể hiện qua việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu giữa
nguyên đơn và bị đơn tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương
bằng Bản án sơ thẩm số 27/2012/KDTM-ST ngày 27/9/2012, cụ thể như sau:
Về nội dung vụ việc được tóm tắc như sau:
Theo nguyên đơn trình bày: Ngày 5/7/2011, bà Nguyễn Thị Thanh và
Ông Trần Quốc Tân có thỏa thuận ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
số 01-07/HĐCN với nội dung Ông Tân chuyển nhượng cho Bà Thanh
3.666.666 cổ phần của Công ty cổ phần Tân Tân với giá 11 tỷ đồng. Bà
Thanh đã thanh toán đủ tiền và công ty Tân Tân đã cấp giấy chứng nhận sở
hữu cổ phần cho Bà Thanh. Sau khi nhận chuyển nhượng, bà Thanh đã nhiều
lần yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ nhưng công ty Tân Tân không thực hiện.
Nay bà Thanh yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa bà
và ông Tân để bà được thực hiện các quyền của cổ đông.
Bị đơn trình bày: Ông Tân và bà Thanh có quan hệ vay tiền từ đầu năm
2008. Do không có khả năng trả nợ đúng hạn nên bà Thanh yêu cầu ông Tân
53
ra phòng công chứng ký hợp đồng vay tiền, đồng thời bà Thanh yêu cầu ông
Tân ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần để đảm bảo cho khoản nợ ngoài số
nợ ghi trên hợp đồng vay. Cùng ngày bà Thanh còn yêu cầu ông Tân ký giấy
nhận tiền, biên bản họp HĐQT, giấy chứng nhận sở hữu cổ phần. Ông Tân
cho rằng hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chỉ dùng để bảo đảm
cho khoản vay nên công ty Tân Tân không coi bà Thanh là cổ đông là hợp lý.
Phân tích, đánh giá của Tòa án: Sau khi xem xét lời khai và các chứng
cứ, Tòa án xác định: ông Tân không cung cấp được bằng chứng chứng minh
cho lời khai của mình đồng thời người làm chứng khai nhận ông Tân ký hợp
đồng cùng các giấy tờ khác trong trạng thái minh mẫn, không bị ép buộc do
đó quan hệ hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa bà Thanh và ông Tân là có
thực, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Qua nội dung của vụ việc trên thì tác giả có bình luận, phân tích và
đánh giá như sau: Giả định sự thật của tranh chấp hợp đồng nêu trên đúng
theo như lời khai của ông Trần Quốc Tân thì ở đây các bên đã nhầm lẫn trong
việc xác lập hình thức hợp đồng để phản ánh quan hệ hợp đồng. Về bản chất
của quan hệ này theo như giả định thì chỉ là quan hệ bảo đảm cho khoản vay,
tài sản bảo đảm của bên vay do đó hình thức hợp đồng xác lập là hợp đồng
bảo đảm khoản vay. Trong quan hệ này thì cổ phiếu vẫn đứng tên bên vay và
bên cho vay không có quyền biểu quyết với tư cách cổ đông. Trong khi đó khi
xác lập hợp đồng chuyển nhượng cổ phần thì quan hệ giữa các bên là quan hệ
chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần. Bên bán phải chuyển giao
quyền sở hữu cổ phần của mình cho bên mua và từ thời điểm hoàn tất thủ tục
chuyển giao thì bên mua có tư cách cổ đông với toàn quyền biểu quyết tại
cuộc họp ĐHĐCĐ tương ứng với số cổ phần sở hữu.
Vấn đề đặt ra ở đây là Tòa án xác định đã hình thành hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần giữa ông Tân và bà Thanh thì có đúng với ý chí đích thực
54
của các bên khi xác lập hợp đồng liên quan đến số cổ phần nói trên hay
không; Tòa án cũng chưa phân tích, đánh giá các bằng chứng về việc đã có sự
thống nhất ý chí giữa các bên hay chưa để từ đó khẳng định có hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần hay không.
Qua vụ việc này cho thấy, một trong những khó khăn vướng mắc hiện
nay trong giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chính là
tình trạng một số thẩm phán khi tiếp nhận giải quyết tranh chấp chưa có kiến
thức chuyên môn tốt về lĩnh vực giải quyết, dẫn đến có những phán quyết của
Tòa thiếu tính khách quan và chính xác.
Hai là, tranh chấp phát sinh do bên mua khi xác lập hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần chưa tìm hiểu rõ về cổ phiếu chuyển nhượng để quản trị tốt
rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Thực tiễn
về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa nguyên
đơn và bị đơn tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh
bằng Bản án phúc thẩm số 149/2012/KDTM-PT ngày 04/5/2012
Về nội dung vụ việc được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn trình bày: Bà Phan Thị Thu Ba và ông Nguyễn Văn Khâu
ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 21/9/2010. Hợp đồng hết hạn ngày
21/11/2010 nhưng ông Khâu không thực hiện theo các điều khoản trong hợp
đồng. Do đó bà yêu cầu ông Khâu thanh toán tiền phạt và tiền bồi thường
thiệt hại như quy định tại hợp đồng.
Bị đơn trình bày: Ông Khâu có ký hợp đồng với bà Ba để mua cổ phần
Công ty cổ phần Thuận Lợi nhưng sau khi ký hợp đồng thì phát hiện bà Ba
chưa đóng tiền góp vốn vào công ty mặc dù đã hết thời hạn góp vốn theo quy
định nên hợp đồng không thực hiện được. Do đó ông không đồng ý với yêu
cầu của bà Ba.
Phân tích đánh giá của Tòa án: Sau khi xem xét lời khai và các chứng
55
cứ, Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa bà Ba và ông
Khâu là hợp đồng vô hiệu.
Qua nội dung của vụ việc trên thì tác giả có bình luận, phân tích và
đánh giá như sau: Theo quy định tại khoản 5 điều 23 Nghị định
102/2010/NĐ-CP là văn bản có hiệu lực tại thời điểm giải quyết tranh chấp,
thì trường hợp có cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong
thời hạn 90 ngày, kể từ khi công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp thì sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được
chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác. Trong trường hợp nêu
trên do bà Ba chưa đóng tiền góp vốn vào công ty đúng thời hạn nên bà sẽ
không được coi là cổ đông và không có quyền chuyển nhượng. Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần được xác lập giữa bà Ba và ông Khâu bị vô hiệu do
vi phạm điều cấm của pháp luật. Tranh chấp về đối tượng của hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần là dạng tranh chấp khả phổ biến do sự thiếu kiến thức
cũng như chủ quan của bên mua. Để phòng ngừa những rủi ro này, bên mua
cần có những biện pháp như trước khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần cần yêu cầu chên chuyển nhượng cung cấp các bằng chứng chứng minh
bên chuyển nhượng đã góp đủ vốn, thanh toán đầy đủ tiền mua cổ phần, cổ
phần giao dịch không bị hạn chế chuyển nhượng, không đang cầm cố/thế
chấp với các bên khác… để đảm bảo cho việc thực hiện giao dịch chuyển
nhượng cổ phần thông qua hợp đồng chuyển nhượng cổ phần..
Ba là, tranh chấp phát sinh do các bên vi phạm về nguyên tắc và trình
tự ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Thực tiễn về việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu giữa nguyên đơn và bị đơn tại Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh bằng Bản án phúc
thẩm số 73/2010/KDTM-PT ngày 14/5/2010
Về nội dung vụ việc được tóm tắt như sau:
56
Ông Trịnh Văn Viện và bà Nguyễn Thị Thu có xác lập hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần thông qua người môi giới là ông Triệu Minh Chi.
Ông Chi có đưa cho ông Viện một hợp đồng đánh máy sẵn, hợp đồng này bà
Thu đã viết thông tin bên bà Thu là người chuyển nhượng và ký. Sau khi nhận
hợp đồng từ ông Chi, ông Viện có viết thêm ngày, tháng, năm vào hợp đồng,
viết thông tin cá nhân của ông, số cổ phần và giá tiền. Do hợp đồng không có
nội dung trách nhiệm của mỗi bên nên ông đã viết thêm vào Điều 3 của hợp
đồng là “Tách sổ cho Bên B trước khi lên sàn 20 ngày”, “Khi có cổ phiếu ra
trong thời gian là 5 ngày”, “nếu Bên A thay đổi không bán phải trả gấp 3 lần
tiền Bên B đặt cọc”, “nếu Bên B không mua thì mất tiền đặt cọc”. Sau đó ông
Viện ký vào hợp đồng, ông Chi ký vào phần làm chứng. Hợp đồng chỉ ký một
bản do ông Viện giữ. Đã quá thời hạn mà bà Thu chưa làm thủ tục sang tên cổ
phiếu cho ông Viện nên ông Viện yêu cầu bà Thu trả số tiền tương đương
bằng ba lần tiền đặt cọc. Trong khi đó và Thu cho rằng ông Viện đã tự ý ghi
nội dung cam kết vào hợp đồng mà không có sự đồng ý của bà là không đúng
do đó bà không vi phạm thỏa thuận và không đồng ý trả số tiền nêu trên.
Nội dung phán quyết của Tòa án: Sau khi xem xét các chứng cứ, Tòa
án phúc thẩm xác định khi giải quyết vụ án cấp sơ thẩm chưa đưa bà Đào Thị
Ngọc Bích (người có liên quan) vào tham gia tố tụng là vi phạm thủ tục tố
tụng, do đó cần hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm để thụ lý lại vụ
án.
Qua nội dung của vụ việc trên thì tác giả có bình luận, phân tích và
đánh giá như sau: Cổ phần mà các bên mua bán tại thời điểm xác lập hợp
đồng trong trường hợp nêu trên là cổ phần chưa niêm yết/đăng ký giao dịch,
do đó về nguyên tắc các điều khoản trong hợp đồng cần có sự thống nhất tự
nguyện của hai bên và sau đó cùng ghi nhận lại bằng việc ký tên vào văn bản.
Tuy nhiên trong trường hợp này các bên đã chủ quan khi chỉ xác lập hợp đồng
57
thành một bản đồng thời cũng không có sự trao đổi, đàm phán để cùng thống
nhất chung về toàn bộ các điều khoản của hợp đồng nên một bên đã tự ý bổ
sung thêm nội dung vào hợp đồng, từ đó dẫn đến tranh chấp. Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần được xác lập bằng văn bản có giá trị chứng cứ khi
xảy ra tranh chấp do đó để phòng ngừa các tranh chấp tương tự, các bên cần
tuân thủ đúng nguyên tắc và trình tự ký kết hợp đồng và đồng thời hợp đồng
cần lập ít nhất thành hai bản gốc có giá trị như nhau để mỗi bên lưu giữ một
bản làm bằng chứng.
2.8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần ở Việt Nam hiện nay
Như đã phân tích ở trên, các quy định về hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần tuy có những điểm hoàn thiện hoặc chưa hoàn thiện nhưng thực tiễn
thực hiện các quy định này đã và đang bộc lộ nhiều vấn đề cần được nghiên
cứu, trao đổi.
Cùng với việc hoàn thiện dần các quy định pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần thì việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán cổ
phiếu trên thị trường không tập trung và thị trường chứng khoán tập trung
cũng đạt được những thành tựu nhất định. Sự ra đời của thị trường chứng
khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao
dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh ngày 20/7/2000 và thực hiện phiên giao
dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000. Ở thời điểm này, chỉ có 2 doanh nghiệp
niêm yết 2 loại cổ phiếu đó là REE và SAM với số vốn 270 tỷ đồng. Ngày
08/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã chính thức đi vào
hoạt động. Theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết
năm 2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ
đồng, chiếm 0,69% GDP. Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có hơn
4.500 tỷ đồng cổ phiếu, hơn 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và khoản
58
35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu
hút hơn 28.300 tài khoản giao dịch. Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của
thị trường chứng khoán gấp đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ
đồng. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường
chứng khoán của Việt Nam chúng ta trở thành một trong những quốc gia có
tốc độ tăng trưởng nhanh của thế giới. Năm 2006, thị trường chứng khoán
Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ
Chí Minh tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội tăng 152,4%. Luật
Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường
phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế.
Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường. Diễn
biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên giao dịch có nhiều
biến động, giai đoạn 2006 - 2010 đánh dấu sự kết hợp phát triển thị trường
chứng khoán cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Giai đoạn 2010-2015 đánh dấu
sự phát triển vượt bậc của thị trường theo chiều sâu và từng bước tiếp cận
chuẩn mực quốc tế. Ngày 24/11/2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung Luật chứng khoán. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 252/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán
giai đoạn 2011- 2020. Bộ Tài chính đã chỉ đạo Ủy ban chứng khoán nhà nước
hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp lý, đồng thời quyết liệt triển khai
công tác tái cấu trúc thị trường chứng khoán.
Qua 15 năm hoạt động đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đảm bảo các mục tiêu, yêu cầu đặt ra.
Tạo lập được một mô hình thị trường chứng khoán phù hợp với trình độ phát
triển của nền kinh tế thị trường của nước ta như hiện nay, hỗ trợ quá trình
chuyển đổi nền kinh tế, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển để hội
nhập khu vực và quốc tế nhằm thu hút và tranh thủ nguồn vốn nước ngoài;
59
Chúng ta đã và đang xã xây dựng và ngày càng hoàn thiện một hệ thống văn
bản pháp quy từ khung pháp lý ban đầu, các chính sách đến các quy chế, quy
trình cụ thể để vừa xây dựng, vừa quản lý thị trường chứng khoán trong bối
cảnh Nhà nước đang sửa đổi, hoàn chỉnh thể chế kinh tế và cơ chế quản lý
nền kinh tế; Thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng và là kênh huy
động vốn trung và dài hạn cho ngân sách để phục vụ đầu tư phát triển và mở
rộng sản xuất kinh doanh; Thị trường chứng khoán đã góp phần tích cực tái
cơ cấu và thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, góp phần thúc đẩy
quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; Nâng cao tính công khai, minh bạch, quản trị
công ty; tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh
nghiệp, tạo được niềm tin đối với nhà đầu tư, qua đó các nhà đầu tư mạnh dạn
thiết lập các quan hệ hợp đồng trong giao dịch chuyển nhượng cổ phần trên
thị trường chứng khoán; Hệ thống tổ chức thị trường chứng khoán ngày càng
được nâng cấp và phát triển. Các Sở giao dịch chứng khoán, đã thực hiện
chức năng giao dịch, lưu ký, thanh toán chuyển giao chứng khoán an toàn,
chú trọng phát triển công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực, quản trị
nội bộ và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng cho thị trường; Hoạt động
thanh tra, giám sát và cưỡng chế thực thi được thực hiện hiệu quả, góp phần
giữ vững ổn định, kỷ cương pháp luật của thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư.
Kết luận chương 2
Pháp luật đã quy định về quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ
đông công ty cổ phần và các điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện chuyển
nhượng cổ phần thông qua hợp đồng chuyển nhượng.
Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện quy định về hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần vẫn còn một số hạn chế như: bên mua khi xác lập hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần chưa tìm hiểu rõ về cổ phần chuyển nhượng dẫn đến có thể
60
xảy ra các rủi ro; nguyên tắc và trình tự ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần.
Qua thực tiễn các vụ việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, khi
thực hiện giao dịch về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, các bên cần tuân
thủ chặt chẽ các nguyên tắc, trình tự ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần để hạn chế những rủi ro về mặt pháp lý; cần tìm hiểu kỹ các
quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần, điều này không chỉ các bên tham gia trong hợp đồng cần nghiên cứu khi
thiết lập hợp đồng mà ngay cả những người làm công tác xét xử cũng cần có
trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực tranh chấp để đảm bảo việc phán xét các
vụ việc khách quan, đúng quy định pháp luật.
61
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật
3.1.1. Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần phải đảm bảo
nguyên tắc pháp quyền
Nguyên tắc pháp quyền là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất chi
phối toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam. Nó đòi hỏi trước hết là sự thống
nhất đồng bộ trong toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam và sau đó là
sự tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối của tất cả các chủ thể đối với các văn bản
pháp luật do nhà nước ban hành. Yêu cầu về việc đảm bảo nguyên tắc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là yêu cầu bắt buộc đặt ra đối với bất kỳ một lĩnh vực
pháp luật nào. Theo tinh thần của nguyên tắc này, việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam cần đảm bảo các
yêu cầu cụ thể sau:
Đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần: Đây là một yêu cầu rất quan trọng không riêng về chế định
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần mà yêu cầu bất kỳ chế định nào hệ thống
pháp luật Việt Nam cũng cần phải đáp ứng. Một hệ thống pháp luật được coi
là hoàn thiện chỉ khi nó được xây dựng một cách thống nhất, đồng bộ từ các
văn bản có giá trị pháp lý cao đến văn bản có giá trị thấp hơn, từ các văn bản
điều chỉnh chung đến các văn bản quy định những vấn đề cụ thể và hệ thống
pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cũng không ngoại lệ.
Đảm bảo tính khoa học trong hệ thống pháp luật quy định về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần: Tính khoa học vừa là yêu cầu, đồng thời cũng là
thuộc tính quan trọng của hệ thống các văn bản pháp luật. Tính khoa học
62
trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
thể hiện trước hết ở tính hợp lý của việc sửa đổi các quy định hiện hành và
xây dựng, ban hành các quy định mới nhằm điều chỉnh một cách có hiệu quả
các vấn đề pháp lý được đặt ra đối với hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Ngoài ra, nó còn được thể hiện ở tính khả thi của các quy phạm pháp luật trên
thực tế.
Đảm bảo tính minh bạch đối với hệ thống pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần: Yêu cầu về tính minh bạch đối với hệ thống pháp
luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là một vấn đề mới được đặt ra ở
Việt Nam trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, đây hoàn toàn không phải là
một khái niệm mới vì nó đã được rất nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và
tuân thủ. Ngoài ra, nó còn là một vấn đề quan trọng được đề cập trong nhiều
điều ước quốc tế. Khái niệm về tính minh bạch được sử dụng ở đây bao gồm
cả hai lĩnh vực, minh bạch trong hệ thống chính sách và minh bạch trong hệ
thống luật pháp. Đảm bảo tính minh bạch cũng đồng thời là một trong những
biện pháp hiệu quả để đảm bảo và phát huy dân chủ, tự do trong hoạt động
chuyển nhượng cổ phần.
3.1.2. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần phải bảo đảm quyền tự do
kinh doanh của các nhà đầu tư, của các doanh nghiệp
Sự quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp là một vấn đề pháp
lý quan trọng hiện nay. Sự quản lý của Nhà nước càng trở nên quan trọng và
có ý nghĩa đối với hoạt động về hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp của
các doanh nghiệp nói chung và hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong công
ty cổ phần nói riêng. Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần gắn liền
với quy định về quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư, của các doanh
nghiệp. Đây là yêu cầu mang tính chất khách quan trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp. Để thực hiện được yêu cầu này, nhà làm luật cần
63
phải đánh giá và dự liệu được các tình huống, rủi ro làm ảnh hưởng đến quyền
tự do kinh doanh nói chung và quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của các
cổ đông, nhà đầu tư trong công ty cổ phần.
Việc tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong hoạt động về hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần phải thể hiện được: Việc quản lý của Nhà nước vừa
mang tính quyền lực nhà nước trong hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động
chuyển nhượng cổ phần vừa phải phục vụ cho hoạt động của công ty cổ phần.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh của các chủ thể
mang quyền lực nhà nước đối với hoạt động về chuyển nhượng cổ phần được
thực hiện bằng bộ máy công cụ đồng bộ. Các cơ quan quản lý nhà nước phải
thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong hoạt động chuyển nhượng cổ
phần bằng quyền lực công vụ. Việc quản lý của Nhà nước phải phục vụ cho
hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có hoạt động về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần. Nhà nước không quản lý trực tiếp hay can thiệp sâu vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp vì vốn dĩ đó là chức năng của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, Nhà nước cần quản lý doanh nghiệp ở mức tối thiểu, nghĩa
là quản lý những nội dung chủ yếu liên quan đến tư cách pháp nhân, tình hình
tài chính, các nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện với Nhà nước và trách
nhiệm đối với các doanh nghiệp khác trong sự tuân thủ các quy định của pháp
luật.
Đối với hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần hay
nói cách trong phạm vi nghiên cứu của để tài là hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần, Nhà nước tuân thủ nguyên tắc quản lý nhà nước nhưng cũng phải đảm
bảo quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp mà cụ thể là quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần. Như vậy, chức năng quản lý của Nhà nước đối với
hoạt động chuyển nhượng cổ phần là tạo môi trường pháp lý thuận lợi, hướng
dẫn, điều tiết và xử lý vi phạm trong hoạt động chuyển nhượng cổ phần chứ
64
không làm thay chức năng kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước tôn trọng
và tạo điều kiện cho khả năng tự điều chỉnh, tự do lựa chọn của các bên trong
hoạt động kinh doanh nói chung và trong hoạt động về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần nói riêng.
3.1.3. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cần vừa phù hợp với đặc
điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường hiện nay và
đảm bảo sự thống nhất và hài hòa với pháp luật quốc tế đáp ứng yêu cầu chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế
Với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã thực sự trở
thành một xu thế tất yếu mà các quốc gia dù muốn hay không đều cũng phải
tuân thủ để có định hướng phát triển đất nước. Quá trình này diễn ra trên hầu
hết các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… và nó được cụ thể
hóa một cách rõ nét trong hệ thống pháp luật quốc gia cũng như quốc tế. Điều
này thể hiện ở chỗ ngày càng có nhiều điều ước quốc tế được ký kết giữa các
quốc gia. Qua đó, hệ thống pháp luật của các quốc gia cũng có xu hướng ngày
càng xích lại gần nhau. Sự thống nhất và hòa hợp pháp luật của các quốc gia
đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Với tinh thần đó, với
xu thế hội nhập như hiện nay, Việt Nam cần quan tâm đến việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình để phù hợp với các điều ước quốc tế.
Về hoạt động chuyển nhượng cổ phần chúng ta cũng cần xây dựng theo
hướng thống nhất và phù hợp với những chuẩn mực và mặt bằng pháp lý
chung của các quốc gia trên thế giới. Việc tăng cường hợp tác, giao lưu quốc
tế trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp nói chung và chuyển nhượng cổ phần
nói riêng một việc làm hết sức cần thiết.
Chúng ta cần chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tham gia vào quá
trình hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh vấn đề chuyển
nhượng cổ phần, khẳng định tiếng nói và dấu ấn của Việt Nam trên trường
quốc tế trong việc xây dựng các chuẩn mực pháp lý chung. Đối với vấn đề
65
hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần, chúng ta cần phải xem xét và điều chỉnh trên cơ sở đảm bảo tính thống
nhất và phù hợp với các quy phạm pháp luật quốc tế đã được ghi nhận trong
các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia cũng như đảm bảo sự
hài hòa so với hệ thống pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới. Điều
này không chỉ có ý nghĩa trong việc rút ngắn khoảng cách về các chuẩn mực
pháp lý giữa Việt Nam với thế giới mà còn có tác dụng rất lớn trong việc củng
cố và tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần
3.2.1. Giải pháp chung
Luật Doanh nghiệp (1999) được ban hành, có nhiều loại hình doanh
nghiệp được thành lập ở Việt Nam, đặc biệt là loại hình công ty cổ phần. Với
tư cách là một loại chủ thể đặc biệt, công ty cổ phần tham gia vào rất nhiều
quan hệ. Việc hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp góp phần thúc đẩy
sự tăng trưởng của đất nước trong thời gian vừa qua. Kế thừa từ Luật Doanh
nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 có nhiều
ưu điểm và thành công, nhưng cũng còn những nhược điểm và bất cập, trong
đó có các quy định về chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần mà cụ
thể khi áp dụng để thực hiện chế định về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về chuyển nhượng cổ phần
hay về chế định hợp đồng chuyển nhượng cổ phần trong thời gian tới cần
được tiến hành theo phương hướng được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản
như:
Để có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở
Việt Nam cần tiếp tục thể chế hóa sâu sắc đường lối đổi mới của Đảng và các
chủ trương, chính sách của Nhà nước về quản lý doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường hiện nay. Đặc biệt là chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
66
phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách phát huy tối
đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật quy định về chuyển
nhượng cổ phần hay chế định về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần được thể
hiện rõ ràng, cụ thể hơn theo hướng dân chủ công bằng, tuân thủ chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền
lợi của các bên trong hoạt động chuyển nhượng cổ phần, đảm bảo tốt nhất
quyển tự do chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần.
Tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tư nhân và thành phần
kinh tế quốc doanh. Sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tư nhân và kinh
tế quốc doanh được đảm bảo cả về mặt pháp lý và trên thực tế nhằm đảo bảo
tốt nhất quyền lợi của các cổ đông khi chuyển nhượng cổ phần và quyền lợi
của nhà đầu tư khi nhận chuyển nhượng cổ phần. Để đảm bảo thực hiện tốt
được điều này chúng ta cần phải tạo ra một “sân chơi” thống nhất đúng luật
và công bằng giữa các thành phần kinh tế. Hiện nay, trong nền kinh tế của
chúng ta đang tồn tại nhiều vấn đề cần phải quan tâm là trên cùng một “sân
chơi” lại tồn tại nhiều “luật chơi” khác nhau được áp dụng cho từng chủ thể
khác nhau, chính vì sự không thống nhất này sẽ nảy sinh sự không công bằng
về mặt pháp lý. Vì cùng đầu tư kinh doanh thì bất cứ ai tạo ra nhiều của cải
cho xã hội đều được khuyến khích, không nên tạo ra sự phân biệt đối xử: có
thành phần kinh tế được ưu tiên, có thành phần kinh tế lại không được coi
trọng. Qua đó, chúng ta cần tạo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh
cho các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động kinh doanh, hay đầu tư
vào các hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, chúng ta cần có một đạo luật
thống nhất và công bằng về doanh nghiệp, thì việc tạo ra môi trường cạnh
67
tranh lành mạnh đảm bảo cho sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong
hoạt động chuyển nhượng cổ phần và nhất thiết cần phải có đạo luật cụ thể,
chi tiết và rõ ràng để áp dụng khi thực hiện chế định về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần. Sự bình đẳng đó phải được quy định cụ thể trong các quy
định của luật và phải được áp dụng đúng trên thực tiễn thi hành. Để thực hiện
được điều này nhất thiết cần phải có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quỷ
lý nhà nước. Nếu sự bình đẳng chỉ được quy định trong luật mà trên thực tế,
các thành phần kinh tế quốc doanh vẫn được hưởng những sự ưu đãi hơn so
với thành phần kinh tế tư nhân thì việc quy định của pháp luật cũng không
mang lại nhiều ý nghĩa.
Xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh về hoạt động
chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần. Sự phát triển của các doanh
nghiệp tạo ra những tác động lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Bởi vậy, chúng ta cần có sự đầu tư thích đáng cho việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong công
ty cổ phần và cụ thể hơn là chế định về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần cần phải có vị trí xứng đáng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động
chuyển nhượng cổ phần không chỉ là hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
mà còn bao gồm cả pháp luật về dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật
thương mại, pháp luật chứng khoán…Việc hoàn thiện pháp luật mang tính hệ
thống và tính thống nhất trong cả hệ thống pháp luật sẽ khắc phục được các
mâu thuẫn trong quy định pháp luật về công ty cổ phần nói chung cũng như
quy định về chế định hợp đồng chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần
nói riêng. Do đó, cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi những hạn chế của
Luật Doanh nghiệp, đảm bảo tính thống nhất và tính đồng bộ của các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp. Đảm bảo chế định về hợp đồng
68
chuyển nhượng cổ phần được thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam
để khi đưa vào thực hiện trong nền kinh tế thị trường như hiện nay giảm thiểu
rủi ro cho các nhà đầu tư.
Hiện nay, Chính phủ và các bộ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn
thi hành Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, một số lĩnh vực vẫn còn thiếu các
văn bản hướng dẫn, điển hình là các quy định về chuyển nhượng cổ phần còn
có chỗ chưa rõ ràng, do đó sẽ dẫn đến việc khi áp dụng thực hiện vào chế định
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần sẽ gặp những khó khăn nhất định.
Đổi mới chức năng, nhiệm vụ và phương thức quản lý hoạt động chuyển
nhượng cổ phần của Nhà nước bằng các biện pháp hành chính. Một trong
những phương thức quản lý của Nhà nước đối với hoạt động chuyển nhượng
cổ phần là thông qua các biện pháp hành chính. Nhà nước coi việc khuyến
khích, hướng dẫn và trợ giúp thực hiện các thủ tục, đơn giản hóa thủ tục
chuyển nhượng cổ phần là một trong những chức năng chính; coi các bên
trong hoạt động chuyển nhượng cổ phần và công ty cổ phần là đối tượng phục
vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Những quy định trước đây có lợi cho
công ty cổ phần và nhà đầu tư liên quan tới hoạt động chuyển nhượng cổ phần
thì được tiếp tục thực hiện. Nhà nước tôn trọng quyền của doanh nghiệp trong
tổ chức quản lý nội bộ công ty cổ phần, tự chủ thỏa thuận, quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần và quyết định các quan hệ nội bộ phù hợp với pháp
luật của Việt Nam và các cam kết quốc tế. Đồng thời, đảm bảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện quyền kiểm tra việc chấp hành pháp luật của
doanh nghiệp trong hoạt động chuyển nhượng cổ phần.
3.2.2. Giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật chuyển nhượng cổ
phần
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay, tác giả có
69
những khuyến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần, chúng ta cần thực hiện các giải pháp cụ thể, thiết thực như
sau:
Một là, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục chuyển nhượng cổ
phần và quyền nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Pháp luật của Việt Nam nói chung và pháp luật hiện hành về doanh nghiệp nói
riêng nên sửa đổi quy định về thủ tục chuyển nhượng cổ phần và quyền nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần như:
Về thủ tục chuyển nhượng cổ phần. Pháp luật hiện hành quy định sau khi
hai bên hoàn thành thủ tục chuyển nhượng cổ phần thì công ty cổ phần xác
nhận và ghi nhận tư cách cổ đông vào Sổ cổ đông của công ty cổ phần. Sau đó,
người nhận chuyển nhượng cổ phần mới chính thức trở thành cổ đông của công
ty cổ phần và được hưởng các quyền lợi của cổ đông. Thực tế áp dụng pháp
luật về quy định này đã cho thấy quy định này có nhiều bất cập. Đã có nhiều
tranh chấp xảy ra khi hai bên đã hoàn thành việc chuyển nhượng cổ phần và
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần, nhưng công ty cổ phần lại không xác nhận tư cách cổ đông
mới, khiến cho người nhận chuyển nhượng cổ phần bị ảnh hưởng đến quyền lợi
của họ cho nên họ buộc phải đưa vụ việc ra Tòa án yêu cầu giải quyết và làm
mất nhiều thời gian, tiền bạc cho người nhận chuyển nhượng cổ phần. Do đó,
tác giả kiến nghị các nhà làm luật nên bỏ quy định về việc người nhận chuyển
nhượng cổ phần trở thành cổ đông của công ty khi thông tin của họ được cập
nhật vào Sổ đăng ký cổ đông của công ty.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do chuyển nhượng cổ phần, nếu việc chuyển
nhượng cổ phần không nằm trong trường hợp hạn chế chuyển nhượng theo quy
định của pháp luật thì hai bên có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần. Sau khi
bên nhận chuyển nhượng cổ phần hoàn tất mọi nghĩa vụ thì họ có ngay tư cách
70
cổ đông mới. Quy định như vậy sẽ đảm bảo được các nhà đầu tư yên tâm đầu
tư mua cổ phần, đầu tư vốn vào công ty mà không lo sợ rủi ro.
Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển nhượng:
Nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu tài sản là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên
chuyển nhượng trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Trong các hợp đồng
có đối tượng là vật, người bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết về tài
sản cho người mua, đảm bảo chất lượng việc mua bán và bảo hành việc mua
bán cho người mua. Nhưng đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần,
cổ phần chỉ là một quyền tài sản hay nói cách khác là một tài sản vô hình. Bên
nhận chuyển nhượng tự nhận định về giá trị của cổ phần mà không có bất cứ
quy định đảm bảo nào để bảo vệ lợi ích của mình. Qua đó, thiết nghĩ các nhà
làm luật nên quy định việc áp dụng tương tự pháp luật về các quyền và nghĩa
vụ của bên mua và bên bán trong hợp đồng mua bán vật cho hợp đồng mua bán
quyền tài sản. Có nghĩa là trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần thì nghĩa vụ
của người bán đối với vật đem bán cũng giống như hợp đồng mua bán vật hữu
hình, đặc biệt là các nghĩa vụ bảo đảm về các thông tin bị bên bán che giấu.
Quy định giới hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ
chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ cổ phần tại công ty cổ phần. Pháp
luật cần quy định giới hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ
chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ cổ phần tại công ty cổ phần, bởi lẽ
cùng là cổ đông ưu đãi biểu quyết, cổ đông sáng lập phải tuân theo quy định
giới hạn về thời gian nắm giữ là 3 năm còn tổ chức đại diện cho phần vốn góp
của Nhà nước lại nắm giữ mãi mãi cổ phần ưu đãi biểu quyết. Điều này tạo ra
sự bất bình đẳng giữa các cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết với
nhau. Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ quy định thời hạn nắm giữ cổ phần ưu đãi
biểu quyết của cổ đông sáng lập là ba năm kể từ ngày công ty cổ phần được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà không có quy định về thời
71
hạn này đối với tổ chức được Chính phủ ủy quyền. Vì chưa có quy định về
thời hạn nắm giữ cổ phần ưu đãi của các tổ chức này nên tính vĩnh viễn của
nó được mặc nhiên thừa nhận. Việc đại diện của Chính phủ nắm giữ cổ phần
ưu đãi biểu quyết được hiểu như vậy như vậy là không hợp lý, dù đó là những
ngành nghề cần được Nhà nước quản lý, kiểm soát. Việc đại diện phần vốn
góp của Chính phủ vừa nắm cổ phần chi phối vừa có tỷ lệ phiếu biểu quyết
cao hơn sẽ dẫn đến nguy cơ gây áp lực cho các cổ đông khác trong công ty cổ
phần. Vì vậy, việc quy định giới hạn khoảng thời gian đại diện cho phần vốn
góp của Nhà nước nắm giữ các cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ khắc phục được
sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động của công ty cổ phần, đồng
thời tạo ra sự bình đẳng giữa các loại cổ đông. Tác giả khuyến nghị giới hạn
thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức được Chính phủ
ủy quyền trong công ty cổ phần là ba năm để tránh tạo ra sự bất bình đẳng
đối với các nhà đầu tư tư nhân khác trong công ty cổ phần.
Cần quy định rõ hơn khái niệm cổ phần. Thực tế cho thấy có nhiều
trường hợp cổ đông còn nhầm lẫn giữa giá cổ phần và mệnh giá cổ phần và cứ
nghĩ chúng là một cho nên đã chịu nhiều thiệt thòi trong quá trình chuyển
nhượng cổ phần. Quy định của pháp luật về doanh nghiệp hiện hành thì cổ
phần là những phần bằng nhau của vốn điều lệ của công ty cổ phần. Tác giả
cho rằng khái niệm này chưa thể hiện hết tính chất pháp lý của cổ phần.
Nhằm hạn chế sự nhầm lẫn giữa khái niệm cổ phần và cổ phiếu, theo quan
điểm của tác giả thì pháp luật cần quy định rõ hơn khái niệm cổ phần. Chúng
ta có thể định nghĩa cổ phần như sau: Cổ phần là căn cứ xác định một phần
quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần, được thể hiện trên những
loại giấy tờ gọi là cổ phiếu. Số cổ phần được sở hữu đó sẽ xác định được
quyền và nghĩa vụ của người sở hữu nó đối với công ty cổ phần. Quy định
như vậy sẽ tránh được sự nhầm lẫn giữa cổ phần và cổ phiếu, bởi vì cổ phiếu
72
là loại chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ do công ty cổ phần phát hành có giá trị
dùng để chứng minh tư cách cổ đông của chủ sở hữu góp vốn vào công ty cổ
phần.
Cần bổ sung các chế tài xử lý vi phạm quyền lợi của cổ đông trong
công ty cổ phần. Qua thực tiễn cho thấy, mặc dù pháp luật có quy định khá
đầy đủ nhưng tình trạng vi phạm pháp luật liên quan đến hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần vẫn ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả
thực thi pháp luật. Điều này xảy ra do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, một trong những nguyên nhân đó là pháp luật của Việt Nam vẫn
chưa có những chế tài đủ sức răn đe đối với những hành vi vi phạm đã xảy ra.
Vi phạm xảy ra nhiều nhưng số vụ việc được đưa ra xử lý một cách công khai
thì lại rất ít. Để nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật, thiết nghĩ các nhà
làm luật cần dự liệu và ghi nhận đầy đủ các hình thức xử lý đối với các
hành vi vi phạm quyền lợi của cổ đông. Tùy theo tính chất, mức độ của hành
vi vi phạm mà pháp luật đưa ra các chế tài xử lý thích hợp như: người vi
phạm phải bồi thường thiệt hại, bị xử phạt hành chính hoặc nghiêm trọng hơn,
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua đó chúng ta cần sửa đổi các nội
dung như: Quy định tăng mức xử phạt hành chính để đảm bảo tính răn đe và
ngăn ngừa vi phạm; Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi
phạm gây thiệt hại lớn như tiết lộ thông tin nội bộ để thực hiện giao dịch cổ
phần, thao túng thị trường chứng khoán.
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi thành pháp luật về
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần còn chưa được thực thi
thật sự hiệu quả trên thực tế bởi nguyên nhân cũng một phần do nhận thức của
các cổ đông và của các bên có liên quan; Cơ quan nhà nước chưa chú trọng
đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật về chuyển nhượng cổ phần các công ty cổ
73
phần và các nhà đầu tư. Trong khuôn khổ luận văn và đề tài nghiên cứu, tác
giả khuyến nghị một vài giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần như:
Các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền của Nhà nước, Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành nghề.... cần đẩy mạnh
việc tuyên truyền, giải thích, phổ biến pháp luật về doanh nghiệp, đặc biệt là
các quy định về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần đối với các công ty cổ
phần hoặc các cổ đông, các nhà đầu tư. Qua đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành nghề nên
mở thêm nhiều khóa đào tạo về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nói chung
và chế định về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nói riêng đối với các công
ty cổ phần, nhà đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam là hai cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý nhà
nước liên quan đến các doanh nghiệp nói chung và các công ty cổ phần nói
riêng, thiết nghĩ nên lập ra các trung tâm tư vấn trực tuyến miễn phí để công
ty cổ phần, các cổ đông có điều kiện tìm hiểu các quy định pháp luật và cách
tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi thực hiện việc giao dịch chuyển
nhượng chuyển nhượng cổ phần mà cụ thể hơn đó là thực hiện giao dịch về
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Ngoài ra, để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, các cổ
đông cần tập hợp lại với nhau thành các nhóm hoặc câu lạc bộ cổ đông nhằm
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động chuyển nhượng cổ
phần, cùng nhau đóng góp tiếng nói chung đối với các vấn đề còn bất cập liên
quan đến hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Các cơ quan quản lý nhà nước như Thanh tra Ủy ban chứng khoán Nhà
nước, Thanh tra sở Kế hoạch và Đầu tư, Thanh tra Chính phủ cần tăng cường
tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về hoạt động
74
chuyển nhượng cổ phần theo thẩm quyền của mình. Trường hợp phát hiện có
dấu hiệu vi phạm trong hoạt động chuyển nhượng cổ phần thì cần tiến hành
xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự để
đảm bảo tính nghiêm minh trong quá trình thực hiện pháp luật trong hoạt
động chuyển nhượng cổ phần.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý nhà
nước, Tòa án và hệ thống các cơ quan tư pháp. Cần nâng cao trách nhiệm
trong quá trình xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh, hoặc hồ sơ thay đổi đăng
ký kinh doanh công ty cổ phần của các cơ quan đăng ký kinh doanh. Nếu xét
thấy dấu hiệu vi phạm pháp luật đặc biệt liên quan đến quyền lợi của cổ đông,
liên quan đến hoạt động chuyển nhượng cổ phần, thì yêu cầu các các công ty
cổ phần sửa đổi cho phù hợp với quy định.
Đối với công ty đại chúng, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần yêu cầu
công ty cổ phần đảm bảo quyền lợi cho tất cả các cổ đông, cần phát huy hơn
nữa vai trò quản lý hoạt động chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường
chứng khoán nhằm đảm bảo cho các hoạt động mua bán, chuyển nhượng cổ
phần diễn ra đúng pháp luật. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát
và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về chứng khoán. Và cần dự liệu
trước những dạng vi phạm có thể xảy ra và đưa ra các kiến nghị cần thiết đến
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi của cổ đông.
Tòa án là một thiết chế hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Do đó, thiết nghĩ
cần phải nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án các cấp cũng như hiệu quả
giải quyết tranh chấp, đảm bảo tính công bằng, chính xác của bản án do Tòa
phán quyết mỗi khi xảy ra tranh chấp phải khởi kiện ra Tòa. Cần phải đổi mới
và hoàn thiện hơn công tác xét xử, bảo đảm nguyên tắc xét xử độc lập và tuân
thủ pháp luật, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ tham gia trong công tác
xét xử.
75
Kết luận chương 3
Từ việc nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần, kết hợp với phân tích một số tranh chấp trong
thực tiễn, tác giả đã đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định
hiện hành về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nhằm đảm bảo quy định về
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Qua đó,
tác giả kiến nghị nên xem xét sửa đổi khoản 3 điều 116 Luật Doanh nghiệp
2015: “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được quyền chuyể
nhượng cổ phần đó cho người khác”.
76
KẾT LUẬN
Dựa trên việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần và pháp luật chuyển nhượng cổ phần, nghiên cứu thực trạng
pháp luật cũng như việc thực thi pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trên
thực tế, tác giả luận văn có những kết luận như sau:
- Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam đang ngày càng
được hoàn thiện. Các văn bản pháp luật đã bao quát khá đầy đủ các điều kiện,
nguyên tắc và thủ tục chuyển nhượng cổ phần, các lợi ích của bên chuyển
nhượng, bên nhận chuyển nhượng và của các bên có liên quan. Pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam được xây dựng và phát triển tương đối
tương thích với pháp luật của một số nước tiên tiến trên thế giới nhưng vẫn có
một số điểm cần phải được sửa đổi, bổ sung.
- Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở
Việt Nam nhìn chung đã đạt được nhiều thành tựu. Bên cạnh đó còn một số
hạn chế dẫn đến việc áp dụng pháp luật chuyển nhượng cổ phần còn nhiều
tranh cãi và dẫn đến tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng. Đã xuất hiện các tranh chấp liên quan đến việc cổ đông hoặc người
nhận chuyển nhượng cổ phần không thực hiện đúng nghĩa vụ được quy định
tại hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Các tranh chấp cũng xảy ra liên quan
đến việc xác định tư cách cổ đông của nhà đầu tư nhận chuyển nhượng cổ
phần khi công ty cổ phần cố tình không xác nhận tư cách cổ đông cho nhà đầu
tư, sau khi họ đã hoàn tất mọi nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Điều này ảnh
hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư và cho thấy pháp luật của Việt Nam
hiện hành điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng cổ phần vẫn còn nhiều vấn đề
cần điều chỉnh.
- Qua tìm hiểu về các vấn đề pháp lý về chuyển nhượng cổ phần, thực
trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần, tác giả nhận thấy rằng cần xây
77
dựng phương hướng và thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở
Việt Nam. Việc hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam
cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần phải
đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh của công
dân; Pháp luật đưa ra những quy định mang tính bắt buộc cho các bên tham
gia tiến hành chuyển nhượng cổ phần của mình một cách an toàn và hiệu quả;
Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động chuyển nhượng cổ phần
thông qua các quy định pháp luật.
- Về phương hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở
Việt Nam, tác giả cho rằng cần xây dựng một hệ thống văn bản hoàn chỉnh về
hoạt động chuyển nhượng cổ phần, đổi mới chức năng nhiệm vụ và phương
thức quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động chuyển nhượng cổ phần để
công ty cổ phần phát triển lành mạnh trong nền kinh tế thị trường như hiện
nay.
- Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
là: sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục chuyển nhượng cổ phần và quyền
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần; quy định giới
hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức được Chính phủ
ủy quyền tại công ty cổ phần; quy định rõ hơn về khái niệm cổ phần; bổ sung
các chế tài xử lý vi phạm quyền lợi của cổ đông trong công ty cổ phần; tăng
cường hiệu quả thực thi của pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trên thực tế
và tăng cường nhận thức, kiến thức pháp luật cho công ty cổ phần, cổ đông
qua đó bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của bên chuyển nhượng cổ phần, bên
nhận chuyển nhượng cổ phần và các bên khác có liên quan để tạo điều kiện
cho nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển hơn.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Mạnh Bách (1995), Pháp luật về hợp đồng, Nxb. CTQG, Hà
Nội.
2. Tạ Thanh Bình (2001), “Đặc điểm pháp lý của việc giao kết hợp đồng
mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung tại Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội, tr20 – 60.
3. Bộ Tài chính (2012), Thông tư 210/2012/TT-BTC hướng dẫn thành lập
và hoạt động công ty chứng khoán, ban hành ngày 30/11/2012, Hà nội.
4. Bộ Tài chính (2012), Thông tư 212/2012/TT-BTC hướng dẫn về thành
lập, tổ chức và hoạt động công ty quản lý quỹ, ban hành ngày 05/12/2012, Hà
Nội.
5. Bộ Tài chính (2015), Thông tư 123/2015/TT-BTC hướng dẫn hoạt động
đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam, ban hành ngày
19/08/2015, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2015), Thông tư 197/2015/TT-BTC quy định về hành
nghề chứng khoán, ban hành ngày 03/12/2015, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (2016), Thông tư 07/2016/TT-BTC sửa đổi Thông tư
210/2012/TT-BTC hướng dẫn về thành lập và hoạt động công ty chứng
khoán, ban hành ngày 18/01/2016, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Cà (2012), “Quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty
cổ phần”, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật, Đại học Cần Thơ.
9. Chính phủ (2012), Nghị định 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật chứng
khoán và Luật chứng khoán sửa đổi, ban hành ngày 20/07/2012, Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
58/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật Chứng khoán và Luật Chứng khoán sửa đổi,
ban hành ngày 26/06/2015, Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009); Công Ty Vốn, Quản
Lý Và Tranh Chấp Theo luật Doanh Nghiệp 2005, Nhà xuất bản Tri Thức.
12. Bùi Doãn Đức (2004), “Pháp luật hợp đồng mua bán chứng khoán,
những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà
Nội, tr 35 – 50.
13. Trương Thanh Đức (2016), Luận giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014
(36 kế sách pháp lý của doanh nghiệp), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự
thật.
14. Đỗ Thái Hán (2012), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở
Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp – Bảo vệ cổ đông pháp luật
và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia.
16. Phạm Hoài Huấn, Nguyễn Thị Thanh Lê, Đặng Quốc Chương, Trần
Thanh Bình (2015), Luật Doanh nghiệp Việt Nam Tình huống – Dẫn giải –
Bình luận, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
17. Nguyễn Ngọc Khánh (2003), “Giao kết hợp đồng – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, trích trong tài liệu Nguyễn Như Phát (2003), Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, Nxb.
CAND, Hà Nội.
18. Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp các vấn đề
pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản Dân trí.
19. Quốc hội (2006), Luật Chứng khoán, ban hành ngày 29/06/2006, Hà
Nội
20. Quốc hội (2010), Luật Chứng khoán sửa đổi, ban hành ngày
24/11/2010, Hà Nội.
21. Quốc hội (1999), Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 12/06/1999, Hà
Nội.
22. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 29/11/2005, Hà
Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 26/11/2014, Hà
Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, ban hành ngày 24/11/2015,
Hà Nội.
26. Bộ Tư pháp, số chuyên đề về Bộ luật Dân sự việt Nam năm 2005, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, tr.24.
27. Nguyễn Thị Lan Hương (2011), Về hoạt động giám sát của Ban kiểm
soát trong CTCP, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27, Trang 250
28. Phạm Duy Nghĩa (2006), “Giấc mơ của nửa triệu doanh nghiệp và
một đạo luật chung – Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh”, Tạp
chí nhà nước và pháp luật, số 7, tr. 55.
29. Nguyễn Quốc Vinh, “Thỏa thuận cổ đông: một nội dung mới cho pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, đường dẫn:
http://www.nclp.org.vn/thuc_tien_phap_luat/thoa-thuan-co-111ong-mot-noi-
dung-moi-cho-phap-luat-doanh-nghiep-viet-nam