VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HẠ BÍCH PHƯƠNG

NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TRONG

LĨNH VỰC KINH DOANH THỰC PHẨM THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HẠ BÍCH PHƯƠNG

NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TRONG

LĨNH VỰC KINH DOANH THỰC PHẨM THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN BÁ BÌNH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học

độc lập của cá nhân tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tác giả thực hiện.

Các tài liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân khác được

tham khảo, sử dụng, trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn gốc một

cách trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã cam đoan ở trên.

Tác giả luận văn

Hạ Bích Phương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN

THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THỰC PHẨM VÀ

KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NHƯỢNG QUYỀN

THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC NÀY ........................................................... 9

1.1. Lược sử hình thành và định nghĩa nhượng quyền thương mại trong lĩnh

vực kinh doanh thực phẩm ................................................................................... 9

1.2. Các hình thức nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm ........................................................................................................... 14

1.3. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm ........................................................................................................... 16

1.4. Vai trò của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm .......................................................................................................... 19

1.5. Khái quát pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong lĩnh

vực kinh doanh thực phẩm ................................................................................. 21

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH

THỰC PHẨM .......................................................................................................... 30

2.1. Điều kiện đối với bên nhượng quyền và bên nhận quyền ........................... 30

2.2. Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại ................................................... 32

2.3. Hợp đồng nhượng quyền thương mại .......................................................... 35

2.4. Quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền .................. 39

2.5. Xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền ............................ 47

2.6. Nhà nhượng quyền nước ngoài ................................................................... 51

Chương 3: THỰC TIỄN NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TRONG

LĨNH VỰC KINH DOANH THỰC PHẨM TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ

KHUYẾN NGHỊ ...................................................................................................... 55

3.1. Thực tiễn nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm tại Việt Nam .............................................................................................. 55

3.2. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm ở Việt Nam cũng như hoàn thiện

quy định pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này .................................................... 64

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78

DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT

AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực thương mại tự do ASEAN

Asia-Pacific Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái APEC

Cooperation Bình Dương

Association of Southeast Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN

Asian Nations

Asia-Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á–Âu ASEM

Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN

European Community Cộng đồng châu Âu EC

European Union Liên hiệp châu Âu EU

Federal Trade Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ FTC

Commission

Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội GDP

International Franchising Hiệp hội nhượng quyền quốc tế IFA

Association

Thành phố Hồ Chí Minh TP HCM

International Institute for Unidroit Viện quốc tế về nhất thể hoá pháp luật tư

the Unification of Private

Law

World Trade Tổ chức thương mại thế giới WTO

Organization

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Các hệ thống nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm tại Việt Nam tại thời điểm 01/01/2020 ................................................................ 58

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong các năm trở lại đây, Việt Nam đang có những điều kiện rất thuận lợi

cho hoạt động kinh doanh phát triển đặc biệt là việc hội nhập kinh tế quốc tế, tự do

hóa thương mại. Sở hữu lợi thế là sự ổn định chính trị, Việt Nam đã và đang được

rất nhiều tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới dành sự quan tâm đầu tư. Do nguồn nhân

công dồi dào với dân số hơn 84 triệu người, nước ta là một trong ba thị phần bán lẻ

sôi động nhất khu vực Thái Bình Dương.

Cho tới năm 2020, Việt Nam đã mở mang quan hệ thương mại tới hơn 230 thị

trường của các nước và vùng lãnh thổ; ký kết trên 100 Hiệp định thương mại song

phương và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Thêm đó, nước ta cũng có

mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới như:

WTO, ASEAN, AFTA, ASEM, APEC,... mở ra khá nhiều thời cơ cho các nhà đầu

tư, kinh doanh trong và ngoài nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại đã

cho ra đời nhiều phương thức kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao cho thương

nhân. Một trong những phương thức hiệu quả được nhiều nhà kinh doanh lựa chọn

đó là phương thức “nhượng quyền thương mại” (tiếng Anh là “Franchise”).

Các thương hiệu nước ngoài đến Việt Nam hiện nay chủ yếu theo hình thức

nhượng quyền thương mại. Hàng trăm thương hiệu tới thời điểm hiện nay đã

nhượng quyền tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực nhưng có lễ phổ biến hơn hết phải

nói đến nhượng quyền thương mại trong ngành kinh doanh thực phẩm, phải kể đến

các thương hiệu như đến từ các nước phát triển trên toàn cầu như Anh, Pháp, Mỹ,

Đài Loan, Hong Kong, Nhật Bản…. Việt Nam cũng đã có một số thương hiệu trong

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm nhượng quyền thương mại ra nước ngoài như: Phở

24 (Công ty cổ phần Sản xuất Thương mại – Dịch vụ Phở hai mươi bốn), Cửa hàng

cà phê Bobby Brewers (Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vũ Giang),…

Nhằm giúp hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại nói chung và

nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm nói riêng phát triển

tốt hơn, Việt Nam đã có các quy định khá cụ thể như Luật thương mại 2005, Luật

1

Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009, 2019), Luật Cạnh tranh 2014 (nay là Luật Cạnh

tranh 2018) và các nghị định, các văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản trên đã

và đang được áp dụng và mang lại kết quả khá tích cực, góp phần cho sự phát triển

hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.

Sự phát triển mạnh mẽ của phương thức nhượng quyền thương mại tại Việt

Nam hiện nay rất cần có sự điều chỉnh đầy đủ của hệ thống pháp luật trong nước

nhằm đáp ứng được nhu cầu hoạt động nhượng quyền thương mại đặc biệt trong

ngành kinh doanh thực phẩm. Sự phát triển này cũng cần phải song song phù hợp

với hệ thống pháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại. Việc tìm hiểu các quy

định pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm là điều hết sức cần thiết, qua đó thấy được những khó khăn khi áp dụng

trong thực tiễn để có những biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định kể trên.

Từ những lý do trên, em xin chọn đề tài “Nhượng quyền thương mại trong

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài

khóa luận thạc sĩ của mình. Kết quả của nghiên cứu này hy vọng sẽ đóng góp phần

nào cho việc nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến nhượng quyền thương mại

và nhượng quyền thương mại trong hoạt động kinh doanh thực phẩm theo quy định

của pháp luật Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nhượng quyền thương mại là hình thức kinh doanh phát triển và thành công ở

nhiều quốc gia trên toàn cầu. Nhờ tính ưu việt và sức mạnh hệ thống, nhượng quyền

thương mại là một trong những hình thức luôn được các thương nhân ưu tiên lựa

chọn để tiến hành hoạt động kinh doanh cho các công ty của mình, đặc biệt là các

công ty tại các quốc gia đang phát triển - nơi mà các thương hiệu thành công luôn

tạo ra sự năng động cho thị trường thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

* Các nghiên cứu ở nước ngoài:

- Rick Grossmann và Michael J. Katz, Esq (2017), “Franchise Bible” (Kinh

Thánh về Nhượng quyền), là phiên bản thứ 8 của Entrepreneur Press - tạp chí

Doanh nhân. Đây được đánh giá là cuốn sách có bước đi toàn diện nhất, hướng dẫn

vấn đề liên quan đến nhượng quyền thương mại, là con đường dẫn đến thành công

2

nhượng quyền thương mại.

- Robert Hayes (2011), “Cẩm nang hướng dẫn nhượng quyền kinh doanh”,

nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM. Đây là một nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích

dành cho tất cả các bên nhượng quyền và bên nhận quyền tiềm năng, cung cấp

thông tin chi tiết về mô hình nhượng quyền cũng như lợi ích mà các bên tham gia

nhận được. Cẩm nang đã phân tích những ưu và nhược điểm của mô hình nhượng

quyền, cách thức xây dựng hoặc mua được một thương hiệu thành công, cách thức

lựa chọn được một thương hiệu nhượng quyền phù hợp với khả năng và mục tiêu tài

chính. Cuốn sách này cũng hướng dẫn cả cách thức quản lý các hoạt động thường

nhật, thu hút và giữ chân khách hàng, tuyển dụng và huấn luyện nhân viên, kiểm

soát chi phí, hạch toán tài chính, thỏa thuận pháp lý, chào hàng, tiếp thị, mở rộng thị

trường quốc tế cùng nhiều vấn đề liên quan khác.

- Yanos Gramatidis & Dennis Campbell, International Franchising: “An

indepth treatment of business and legal techniques” (Nhượng quyền thương mại

quốc tế: Nghiên cứu chuyên sâu về kinh doanh và kỹ thuật pháp lý): Phân tích các

đặc điểm và cách thức tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại, đặc biệt là

nhượng quyền thương mại quốc tế được biên tập bởi Yanos Gramatidis & Dennis

Campbell trên cơ sở Báo cáo hội thảo được tổ chức tại Trường Luật McGeorge tại

Waidring, Áo.

* Các nghiên cứu ở Việt Nam:

- Lý Quý Trung (2006), “Franchise - Bí quyết thành công bằng mô hình

nhượng quyền kinh doanh”, Nhà xuất bản Trẻ [28]. Cuốn sách đã chia sẻ những

kiến thức và kinh nghiệm thực tế với nhiều doanh nhân khác được hình thành trong

suốt quá trình tác giả tự nghiên cứu để áp dụng mô hình kinh doanh nhượng quyền

cho chính doanh nghiệp của mình.

- Nguyễn Bá Bình (2008), “Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố

nước ngoài theo pháp luật Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Luật học số 5/2008 [3].

Bài viết đã phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam đối với hợp đồng

nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài.

- Nguyễn Minh Dũng (2010), “Hoạt động nhượng quyền thương mại của hệ

3

thống nhà hàng pizza và kinh nghiệm cho các doanh nghiệp kinh doanh đồ ăn

nhanh Việt Nam”, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Ngoại thương [13]. Khóa

luận đã nghiên cứu về hệ thống nhượng quyền của Pizza Hut trên thế giới cũng như

tại Việt Nam, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam muốn

kinh doanh nhượng quyền ở lĩnh vực đồ ăn nhanh.

- Vũ Đặng Hải Yến (2008), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật

điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”,

Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội [32]. Công trình

nghiên cứu chủ yếu làm rõ và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp

luật về hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam, xây dựng định hướng và

giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực tiễn.

- Nguyễn Thị Vân (2011): “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp

luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa

Luật, Đại học quốc gia Hà Nội [31]. Công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận và đi

sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận và

thực tiễn về hợp đồng về nhượng quyền thương mại và pháp luật về hợp đồng

nhượng quyền thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế…

Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên, còn có các công trình nghiên cứu

khác liên quan đến đề tài trên các tạp chí khoa học như: “Hoàn thiện khung pháp lý

về nhượng quyền thương mại” của tác giả Bùi Ngọc Cường, Tạp chí nghiên cứu lập

pháp số 103/2007 [12], bài viết của tác giả Nguyễn Thanh Tú “Nhượng quyền

thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh” [30], bài viết của Nguyễn Khánh

Trung “Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam – Giải pháp nào cho sự phát triển

bền vững” đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn [29].

Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên đã phản ánh khá đầy đủ bản chất,

đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại; các bước triển khai nhượng

quyền thương mại dưới góc độ là bên nhượng quyền và bên nhận quyền; phân tích

các thương hiệu đã thành công điển hình trong hoạt động kinh doanh nhượng

quyền. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hoạt nhượng quyền thương

mại nhưng chỉ chủ yếu ở phương diện nhượng quyền thượng mại chung nhất mà

chưa đào sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nhượng quyền thương mại

4

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm.

Vì vậy, trên cơ sở tìm hiểu và đánh giá các đề tài đã nghiên cứu, có thể thấy rằng

chưa có một đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể hoạt động nhượng quyền thương

mại trong ngành thực phẩm theo quy định pháp luật tại Việt Nam. Vì vậy, việc thực hiện

đề tài luận văn sẽ không bị trùng lặp và có ý nghĩa lý luận lẫn thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hoạt động nhượng quyền thương mại

và nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại Việt Nam

thời gian qua.

- Làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm.

- Đánh giá thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực

kinh doanh thực phẩm ở Việt Nam hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhượng quyền

thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm ở Việt Nam cũng như hoàn thiện

pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung của hoạt động nhượng quyền thương mại.

- Thu thập các số liệu về tình hình hoạt động nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm ở nước ta trong những năm gần đây.

- Đánh giá thực tiễn áp dụng hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh

vực kinh doanh thực phẩm theo quy định pháp luật nước ta hiện nay.

- Rà soát, nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về nhượng

quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm.

- Tìm ra những lý do dẫn đến việc áp dụng các quy định pháp luật về

nhượng quyền thương mại chưa mang lại hiệu quả cao; từ đó đưa ra những giải

pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm và hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong

5

lĩnh vực này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm theo quy định của pháp luật, không tập trung vào các ngành khác cũng

được ứng dụng nhiều trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại như

bán lẻ, dịch vụ…

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động nhượng quyền thương mại diễn ra trong rất nhiều ngành nghề, lĩnh

vực kinh doanh, tuy nhiên đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam và nước

ngoài đang hoạt động trên thị trường Việt Nam. Đề tài cũng chỉ tập trung nghiên

cứu các quy định về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm mà không đi sâu vào các quy định về kinh doanh thực phẩm. Đề tài tập trung

đánh giá thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực thực phẩm

tại Việt Nam trong khoảng thời gian mười năm trở lại đây.

5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, luận văn dựa trên cơ sở

phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

cơ bản về nhượng quyền thương mại và nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực

kinh doanh thực phẩm;

- Phương pháp thống kê để thấy được số lượng hệ thống nhượng quyền

thương mại và nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

trong nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam;

- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nắm bắt được những khó khăn

vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định về nhượng quyền thương mại và

những khó khăn từ phía các bên nhượng quyền và bên nhận quyền thương mại;

- Phương pháp so sánh giữa các quy định của pháp luật về nhượng quyền

thương mại theo Luật thương mại 2005 và các văn bản trước đây, các văn bản có

6

liên quan khác.

- Phương pháp tổng hợp dữ liệu: Bao gồm dữ liệu từ nguồn thứ cấp và sơ cấp

như nguồn Internet, sách, tạp chí, báo trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại

đặc biệt là nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt

động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm. Luận văn

đã hệ thống hóa về mặt lý luận để làm sáng tỏ khái niệm nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm cũng như khái quát pháp luật Việt

Nam về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực này. Khái quát hóa hệ thống

pháp luật liên quan đến nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm từ đó phân tích một số vấn đề pháp lý hạn chế sự phát triển của hoạt

động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm trong thời

gian qua từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn trên.

Về thực tiễn: Hiện nay những công trình nghiên cứu luận văn liên quan đến

nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm chỉ dừng lại ở

việc nghiên cứu dưới góc độ kinh tế và những ảnh hưởng của hoạt động này tới

đời sống xã hội. Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động nhượng quyền thương

mại và nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm theo quy

định pháp luật Việt Nam hiện hành. Từ đó, tìm ra những bất cập trong quá trình áp

dụng và đưa ra một số khuyến nghị trong hoạt động nhượng quyền thương mại qua

ngành kinh doanh thực phẩm qua các quy định của pháp luật. Nhờ việc phân tích,

đánh giá thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại và nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại Việt Nam, các thương nhân muốn

kinh doanh theo phương thức và lĩnh vực này sẽ có cái nhìn phổ quát hơn nhằm

nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực

kinh doanh thực phẩm trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn “Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

theo pháp luật Việt Nam hiện nay” được chia làm 3 phần: phần mở đầu, phần nội

7

dung và phần kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực

kinh doanh thực phẩm và khái quát pháp luật Việt Nam về nhượng quyền

thương mại trong lĩnh vực này.

Chương 2. Các quy định của pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

Chương 3. Thực tiễn nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Ngoài ra, luận văn còn có Lời cam đoan; Mục lục; Bảng viết tắt và Danh mục

8

tài liệu tham khảo.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI

TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THỰC PHẨM VÀ KHÁI QUÁT

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI

TRONG LĨNH VỰC NÀY

1.1. Lược sử hình thành và định nghĩa nhượng quyền thương mại trong lĩnh

vực kinh doanh thực phẩm

1.1.1. Lược sử hình thành của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm

Nhượng quyền thương mại đã được chứng minh là một trong những

phương thức kinh doanh thành công nhất trong vòng 100 năm qua, kể từ sau Thế

chiến thứ II. Nhượng quyền thương mại được cho là đã xuất hiện vào khoảng thế

kỷ 17-18 tại Châu Âu. Nhưng nhượng quyền thương mại được chính thức thừa

nhận tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi mà nhà máy Singer (nhà máy phân phối

máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác của

mình vào năm 1851. Singer đã ký hợp đồng nhượng quyền và trở thành người đi

đầu trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền. Trong thời gian này, khuôn

khổ nhượng quyền chỉ liên quan đến chuyển quyền phân phối và bán sản phẩm

của các nhà sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ II, hình thức này đã thực sự

bùng nổ và phát triển rất mạnh mẽ, với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà

hàng, khách sạn và các hệ thống phân phối theo kiểu bán lẻ đồng nhất về nhãn

hiệu, cơ sở vật chất, cung cách phục vụ là đặc điểm cơ bản để nhận dạng những

hệ thống kinh doanh theo phương thức này. Sau đó, nhượng quyền thương mại

trở thành phương thức kinh doanh hết sức thịnh hành, không chỉ tại Hoa Kỳ mà

còn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp...

Trên thế giới, toàn cầu hoá diễn ra nhanh và mạnh trong tất cả các lĩnh vực

tạo điều kiện cho "làn sóng" nhượng quyền thương mại phát triển rầm rộ trong

những năm gần đây. Nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển,

hỗ trợ và quảng bá hoạt động nhượng quyền thương mại đã được thành lập. Điển

9

hình là Hội đồng nhượng quyền thương mại Thế giới (World Franchise Council), ra

đời vào năm 1994, có thành viên là các hiệp hội nhượng quyền thương mại của

nhiều quốc gia. Ngoài ra, một tổ chức uy tín và lâu đời nhất là Hiệp hội nhượng

quyền quốc tế (International Franchise Association) được thành lập năm 1960, có

khoảng 30.000 thành viên bao gồm các doanh nghiệp nhượng quyền và nhận quyền.

Năm 2017 tổng doanh thu hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới

chiếm hai nghìn tỷ USD và đứng đầu là Mỹ.

Tại Mỹ, 90% công ty kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại

tiếp tục hoạt động sau 10 năm và 5% công ty theo hợp đồng thương hiệu thất bại

trong năm đầu tiên so với 38% công ty độc lập thất bại tại cùng thời điểm đó.

Hoạt động nhượng quyền chiếm 1/4 tổng mức bán lẻ, thu hút 1/7 tổng lao động ở

Mỹ và có hơn 500 nghìn cửa hàng nhượng quyền. Ở Châu Âu, có hơn bốn nghìn

hệ thống nhượng quyền; với hơn một nghìn cửa hàng nhượng quyền, doanh thu

đạt khoảng 100 tỉ Euro, tạo ra hơn 1,5 triệu việc làm. Riêng ở Anh, nhượng

quyền là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với

khoảng 32 nghìn doanh nghiệp nhượng quyền, doanh thu trung bình 8,9 tỷ bảng

Anh/năm, giải quyết việc làm cho 317 nghìn lao động và chiếm trên 1/3 thị phần

bán lẻ. Tại Úc, có khoảng năm tư nghìn cửa hàng nhượng quyền, đóng góp 12%

vào GDP và tạo hàng trăm ngàn việc làm cho người lao động [37].

Theo Hiệp hội nhượng quyền Quốc tế (IFA) thì nhượng quyền kinh doanh

tại châu Á đã tạo doanh thu hơn 500 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Từ năm 1980,

nhượng quyền đã xuất hiện ở Trung Quốc. Đến năm 2004, nước này đã có trên

hai nghìn hệ thống nhượng quyền (nhiều nhất thế giới), với 120 nghìn cửa

hàng nhượng quyền ở hầu hết các lĩnh vực. Biểu đồ tăng trưởng hoạt

động nhượng quyền của Trung Quốc “tăng tốc” kể từ khi nước này gia nhập

WTO. Từ năm 2000, các cửa hàng nhận nhượng quyền tăng 55%, bình quân mỗi

năm hệ thống nhượng quyền tăng 38%, vượt xa mức tăng trưởng 10%/năm của

hàng tiêu dùng. Đặc biệt, hệ thống nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp

Trung Quốc cạnh tranh ngang hàng với các thương hiệu nhượng quyền nổi tiếng

của thế giới. Tại Thái Lan, số hợp đồng nhượng quyền đang tăng rất nhanh,

10

trong đó có tới 67% thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bộ Thương mại

Thái Lan công bố chương trình khuyến khích và quảng bá thương hiệu nội địa ra

thị trường thế giới thông qua hệ thống nhượng quyền thương mại. Các doanh

nghiệp kinh doanh theo hình thức này được hỗ trợ đào tạo trung và ngắn hạn về

công nghệ nhượng quyền. Do vậy, năm 2004 đạt doanh số 25 triệu Baht, năm

2005 tăng 10% và tăng rất nhanh cho các năm tiếp theo. Tại Nhật Bản, nhượng

quyền phát triển mạnh từ năm 1996, đến năm 2004 đã có khoảng 220 nghìn cửa

hàng kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại, doanh thu từ hệ

thống này vào khoảng 150 tỉ USD, tăng trưởng 7%/năm [37].

Tại Việt Nam, theo thống kê của Bộ Công Thương, tính từ năm 2007 đến

nay đã có 206 doanh nghiệp với hàng trăm nhãn hiệu được cấp phép nhượng

quyền tại Việt Nam với nhiều mô hình kinh doanh, từ sản xuất dược phẩm đến

cửa hàng cho thuê xe hay đào tạo bán hàng, cửa hàng tiện lợi, mô hình giáo dục

trẻ em, kinh doanh quần áo, giày dép thời trang [40],… Tuy nhiên, nhiều nhất

chính là các chuỗi nhà hàng ăn uống. Trên thực tế, phần lớn các thương hiệu

được nhượng quyền tại Việt Nam đến từ các quốc gia châu Á. Doanh nghiệp

nhượng quyền thương mại mạnh nhất ở Việt Nam thời gian qua là Mc Donald’s,

thương hiệu này đến thị trường Việt Nam vào giữa năm 2013 và chính thức 2014

đã triển khai nhượng quyền. Với tham vọng lớn về thị trường Việt Nam có tiềm

năng như Trung Quốc nên Mc Donald’s đã đưa ra chỉ tiêu trong 2 năm từ 2014-

2016 sẽ phát triển 100 chi nhánh tại Việt Nam. Nhưng sau 4 năm Mc Donald’s

đánh giá lại thị trường Việt Nam thì kế hoạch này phải đến năm 2024 mới thực

hiện được. Bên cạnh McDonald’s, các thương hiệu khác cũng có nhượng quyền tại

Việt Nam như: Baskin Robbins, Haagen-Dazs (Hoa Kỳ), Pizza Hut, Kentucky Fried

Chicken, Pepper Lunch, Burger King (Singapore), Lotteria, Caffe Bene, Tous Les

Jours, BBQ Chicken (Hàn Quốc), Swensen’s (Malaysia), Oasis, Karren Millen,

Warehouse, Topshop, Coast London (Anh), Bulgari, Moschino, Rossi (Italy)…

Trong khi đó một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tích cực triển khai phát triển

thương hiệu ở nước ngoài như Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô Bakery, Ninomax,

11

giày dép T&T…

Nước ta cũng đang được các chuyên gia nước ngoài đánh giá là một thị trường

lý tưởng của hoạt động bán lẻ. Theo Ông Luke Kim, Giám đốc Công ty A.S Louken

của Singapore cũng cho biết hầu hết các thương hiệu trên thế giới nhượng quyền thành

công tại Singapore như thương hiệu giày da thời trang Charles & Keiths và một số

thương hiệu thức ăn nhanh như Break Talk, Cavana đều đang có ý định nhắm đến Việt

Nam. "Thị trường VN đã bắt đầu chín muồi để các thương hiệu trong và ngoài nước áp

dụng nhượng quyền thương mại", ông Luke Kim nhận xét [24].

Bà Nguyễn Phi Vân, Chủ tịch Công ty Retail & Franchise Asia, thành viên

sáng lập và điều hành World Franchise Associated chia sẻ với báo chí, xu hướng

các thương hiệu vào Việt Nam sẽ còn tiếp tục trong 3 năm tới. Trong số này, các

thương hiệu từ khu vực (ví dụ như Malaysia, Singapore hay Thái Lan, Philippines)

sẽ vào cùng với các thương hiệu quốc tế [27].

1.1.2. Định nghĩa nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh đã được nhiều nước

trên thế giới áp dụng. Nhiều định nghĩa được nêu ra của nhiều trường phái khác

nhau nhằm giải thích, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh

nhượng quyền đạt hiệu quả. Tuy nhiên, do sự khác biệt về quan điểm và môi trường

kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia, nên các định nghĩa này thường khác

nhau. Các định nghĩa trình bày sau đây được chọn lọc dựa trên sự khác nhau trong

việc quản lý, điều chỉnh các hoạt động nhượng quyền thương mại của một số quốc

gia, tổ chức tiêu biểu.

Hiệp hội nhượng quyền quốc tế (The International Franchise Association) đã

đưa ra định nghĩa nhượng quyền thương mại như sau: "Nhượng quyền thương mại

là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền, theo đó

Bên nhượng quyền đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp

của Bên nhận quyền trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh (know-how), đào

tạo nhân viên; Bên nhận quyền hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức,

phương pháp kinh doanh do Bên nhượng quyền sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên

nhận quyền đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các

12

nguồn lực của mình".

Theo Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (The US Federal Trade

Commission – FTC): “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng theo đó

Bên nhượng quyền: (i) hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận quyền trong việc điều hành

doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của

Bên nhận; (ii) li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận quyền để phân phối sản phẩm hoặc

dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên nhượng quyền và (iii) yêu cầu Bên nhận

quyền thanh toán cho Bên nhượng quyền một khoản phí tối thiểu.”

Còn Cộng đồng chung Châu Âu (EC) (nay là Liên minh Châu Âu (EU)) chỉ ra

nhượng quyền thương mại là một "Tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở

hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng,

giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được

khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng".

Tại Việt Nam, khái niệm nhượng quyền thương mại được quy định tại Điều

284, Luật Thương mại 2005 như sau: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động

thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự

mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau

đây: 1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ

chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng

hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh

doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; 2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát

và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”

Ngoài ra, để hướng dẫn chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền

thương mại, chính phủ đã ban hành Nghị định 35/2006/NĐ-CP,, Nghị định

120/2011/NĐ-CP, Nghị định 08/2018/NĐ-CP và Bộ Thương mại (nay là Bộ Công

thương) đã ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn chi tiết đăng ký hoạt

động nhượng quyền thương mại. Có thể thấy, những cơ sở pháp lý trên đây đã cung

cấp một cách khá đầy đủ định nghĩa, các nguyên tắc và hướng dẫn cho việc tiến

hành hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. Khái niệm nhượng quyền

thương mại được ghi nhận trong Luật Thương mại Việt Nam khá tương đồng với

13

pháp luật các nước và về cơ bản đã thể hiện được bản chất của hoạt động này. Do

sự khác biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia,

đã có nhiều định nghĩa khác nhau về nhượng quyền thương mại. Có thể thấy rằng

các định nghĩa trên dù được thể hiện một cách khác nhau nhưng đều chứa đựng

những nội dung giống nhau đó là: Một bên (bên nhượng quyền) sở hữu hoặc kiểm

soát các quyền sở hữu trí tuệ hoặc công nghiệp và phương thức kinh doanh; Một

bên độc lập (bên nhận quyền) tiến hành kinh doanh trong đó sử dụng các quyền sở

hữu trí tuệ hoặc công nghiệp và phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền; Có

một hợp đồng cấp quyền giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền ràng buộc hai

bên trong việc cấp quyền và sử dụng các quyền được cấp; Bên nhận quyền phải trả

phí cho việc được nhận quyền; Giao dịch giữa hai bên không phải là giao dịch một

lần mà là giao dịch mang tính thường xuyên và liên tục trong suốt thời hạn của hợp

đồng nhượng quyền.

Trên cơ sở các định nghĩa và đặc điểm của nhượng quyền thương mại nêu

trên, nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm ở Việt Nam

có thể được định nghĩa như sau: “Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm là một hoạt động thương mại theo đó bên nhượng quyền cho phép

bên nhận quyền độc lập tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thực

phẩm gắn liền với các đối tượng sở hữu trí tuệ do bên nhượng quyền sở hữu hoặc

kiểm soát, bên nhượng quyền hỗ trợ và kiểm soát thường xuyên đối với việc kinh

doanh của bên nhận quyền.”

1.2. Các hình thức nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

Từ lịch sử hình thành và phát triển của nhượng quyền thương mại có thể thấy

rằng hoạt động nhượng quyền thương mại rất đa dạng và phong phú bao gồm nhiều

hình thức khác nhau. Các chuyên gia đã đưa ra nhiều cách phân loại nhượng quyền

thương mại dựa trên các tiêu chí như: Phạm vi lãnh thổ, Nội dung của hoạt động

kinh doanh, cách thức tiến hành nhượng quyền, cách thức phát triển hoạt động …

Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ có hai loại nhượng quyền là nhượng quyền

thương mại trong nước và nhượng quyền thương mại quốc tế.

- Nhượng quyền thương mại trong nước là nhượng quyền thương mại trong

14

phạm vi một quốc gia.

- Nhượng quyền thương mại quốc tế là nhượng quyền thương mại từ nước này

sang nước khác.

Căn cứ vào cách thức tiến hành nhượng quyền có thể chia thành nhượng

quyền cho từng cơ sở (single-unit franchise) và nhượng quyền đa cơ sở (multiple-

unit franchise) [36].

- Nhượng quyền thương mại cho từng cơ sở (single-unit franchise) là cách

thức nhượng quyền thương mại trong đó bên nhượng quyền tiến hành

nhượng quyền trực tiếp cho từng đối tác riêng lẻ để mở một cơ sở kinh

doanh. Đây là hình thức nhượng quyền phổ thông, đơn giản và dễ áp dụng.

- Nhượng quyền đa cơ sở (multiple-unit franchise) là cách thức nhượng quyền

thương mại thông qua đó bên nhượng quyền thiết lập nhiều hơn một cơ sở

kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại.

Căn cứ vào nội dung của hoạt động kinh doanh có hai hình thức nhượng

quyền là nhượng quyền phân phối sản phẩm (Product distribution franchise) và

nhượng quyền công thức kinh doanh (Business format franchise).

- Nhượng quyền phân phối sản phẩm (Product distribution franchise) là hình

thức nhượng quyền thương mại trong đó bên nhượng quyền cung cấp cho

bên nhận quyền sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ, logo, dịch vụ quảng

cáo trên phạm vi quốc gia. Bên nhượng quyền không cung cấp cách thức

điều hành cho bên nhận quyền.

- Nhượng quyền công thức kinh doanh (Business format franchise) là hình

thức nhượng quyền thương mại trong đó bên nhượng quyền cung cấp cho

bên nhận quyền nhiều dịch vụ bao gồm: nhãn hiệu, dịch vụ, logo, phương

thức kinh doanh. Bên nhượng quyền hỗ trợ Bên nhận quyền lựa chọn địa

điểm, thiết kế, bố trí nội thất, đào tạo nhân viên, quang cáo, tiếp thụ, cung

cấp sản phẩm,… Đây là hình thức nhượng quyền thương mại được áp dụng

phổ biến hiện nay.

Căn cứ vào cách thức phát triển hoạt động, nhượng quyền thương mại gồm

các hình thức: Nhượng quyền thương mại độc quyền (Master franchise), Nhượng

quyền thương mại phát triển khu vực (Area development franchise), Nhượng quyền

15

thương mại trực tiếp (direct franchise)

- Nhượng quyền thương mại độc quyền (Master franchise): là hình thức

nhượng quyền thương mại mà trong đó bên nhận quyền được phép thực hiện

nhượng quyền lại trong một khu vực, lãnh thổ cụ thể và cam kết phát triển về

số lượng đơn vị kinh doanh nhượng quyền trong từng giai đoạn cụ thể với

bên nhượng quyền.

- Nhượng quyền thương mại phát triển khu vực (Area development franchise):

hình thức này bên nhận quyền được độc quyền mở ra nhiều đơn vị kinh

doanh (số lượng theo cam kết với bên nhượng quyền) tại một khu vực, lãnh

thổ nhất định và theo thời gian cụ thể. Bên nhận quyền trong trường hợp này

không được phép nhượng quyền lại. Họ sẽ phải cam kết mở bao nhiêu cửa

hàng trong thời gian nhất định.

- Nhượng quyền thương mại trực tiếp (direct franchise): Bên nhận quyền ký hợp

đồng trực tiếp với bên nhượng quyền để mở ra một đơn vị kinh doanh theo hệ

thống nhượng quyền của bên nhượng quyền, tại một địa điểm nhất định và trong

một thời gian cụ thể. Sau thời gian này, hợp đồng có thể được gia hạn và bên

nhận quyền phải trả thêm một khoản phí. Bên nhận quyền theo hình thức này

không thể nhượng lại cho bên thứ ba hay tự ý mở thêm cửa hiệu kinh doanh cùng

thương hiệu. Vì thế, bên nhận quyền trực tiếp thường chỉ có thể mua được qua

các bên nhận quyền trong nhượng quyền thương mại độc quyền (đối với thương

hiệu nổi tiếng) hay các nhà nhượng quyền nhỏ.

1.3. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

Hiện nay trên thế giới đang diễn ra sự bùng nổ trong ngành kinh doanh lương

thực thực phẩm do luồng vốn đầu tư nước ngoài của những tập đoàn chế biến và

kinh doanh thực phẩm lớn trên thế giới thâm nhập vào các thị trường đang tăng

trưởng. Sự tăng lên của mức sống, thu nhập và quá trình đô thị hóa mạnh mẽ dẫn

đến sự đa dạng trong nhu cầu tiêu thụ thực phẩm, càng thúc đẩy ngành kinh doanh

thực phẩm phát triển. Cách thức kinh doanh thực phẩm truyền thống đang dần được

thay bằng bởi các phương thức kinh doanh hiện đại như: siêu thị, mạng lưới các cửa

hàng thực phẩm, cửa hàng tự chọn. Theo báo cáo của Tổ chức Nông Lương Liên

16

Hiệp Quốc (FAO), chỉ số giá thực phẩm đạt trung bình 182,5 điểm trong tháng

1/2020, tăng 0,7% so với tháng 12/2019 và 11,3% so với tháng 1/2019 [43]. Trong

đó, giá dầu thực vật, đường và lúa mỳ là các mặt hàng tăng giá chủ yếu.

Tại Việt Nam, Công ty Cổ phần báo cáo đánh giá Việt Nam - Vietnam

Report – VNR cho biết, Việt Nam là một trong những thị trường có sức tiêu thụ

thực phẩm - đồ uống rất tiềm năng. Chỉ số tiêu thụ của ngành sản xuất chế biến thực

phẩm và sản xuất đồ uống trong 9 tháng đầu năm 2018 tăng lần lượt 8,1% và 10,2%

so với cùng kỳ năm trước (theo GSO). (Hình 1.1)

Đánh giá về tiềm năng tăng trưởng, ngành thực phẩm và đồ uống hiện chiếm

khoảng 15% GDP và có xu hướng tăng lên trong thời gian tới [42]. Bên cạnh đó,

với tỷ lệ dân số trẻ ngày một cao (ước tính khoảng trên 50% dân số Việt Nam dưới

30 tuổi), mức thu nhập được cải thiện và thói quen mua sắm thực phẩm chế biến sẵn

ngày càng phổ biến, sự phong phú cùng với sự dồi dào các sản phẩm nông nghiệp -

nguồn nguyên liệu thô cung ứng cho hoạt động chế biến thực phẩm, đồ uống…

đang là những lợi thế để các doanh nghiệp trong ngành đa dạng hóa chủng loại sản

phẩm nhằm đáp ứng với nhu cầu liên tục thay đổi của người tiêu dùng, và là những

điều kiện thuận lợi góp phần giúp Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ thực phẩm

- đồ uống tiềm năng trong khu vực.

Ngành kinh doanh thực phẩm có nhiều trong hoạt động nhượng quyền

17

thương mại vì tính chất của ngành này có nhiều điểm thích hợp như sau:

- Vốn đầu tư cho cửa hàng kinh doanh thực phẩm không nhiều, nên dễ dàng

thu hút người nhận quyền. Việc đầu tư vào một cửa hàng kinh doanh thực

phẩm so với ngành khách sạn, bất động sản hay siêu thị rẻ hơn rất nhiều.

- Sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người nên dễ dàng được chấp

nhận ở tất cả các quốc gia. Bên cạnh đó, vì đáp ứng nhu cầu cơ bản của con

người nên các cửa hiệu kinh doanh nhượng quyền ngành thực phẩm có thể

được mở gần nhau (trong một phạm vi nhất định), vì thế một hệ thống kinh

doanh nhượng quyền có thể mở rất nhiều cửa hàng.

- Khi cuộc sống ngày càng phát triển, người ta ngày càng có nhu cầu ăn ngon

hơn, tiện lợi hơn nên các thương hiệu McDonald’s, Jollibee, KFC, Lotteria…

phát triển nhanh chóng và vươn ra toàn cầu.

- Thực phẩm là một ngành mang đậm yếu tố văn hóa của vùng, miền, quốc gia

vì thế bên cạnh đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người nó còn đáp ứng nhu

cầu hiểu biết, thưởng thức văn hóa của ẩm thực vùng, miền khác nhau của

con người và dẫn đến nó có nhiều cơ hội để phát triển hơn các ngành khác.

- Công thức và cách thức của các thương hiệu ngành thực phẩm dễ nhượng

quyền hơn các ngành khác.

Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm có các đặc

điểm chính như sau:

Thứ nhất, chủ thể của quan hệ nhượng quyền thương mại bao gồm bên

nhượng quyền và bên nhận quyền. Hai bên có tư cách pháp lý độc lập với nhau và

tự chịu trách nhiệm cho những rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Sau khi nhận

quyền thương mại, bên nhận quyền được tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa,

cung ứng dịch vụ trên cơ sở sự cho phép của bên nhượng quyền để khai thác lợi ích

cho chính mình. Các chủ thể này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, là công dân

trong nước hoặc là người nước ngoài. Thực tế, hầu hết các bên tham gia hoạt động

nhượng quyền thương mại đều là thương nhân.

Thứ hai, về mặt đối tượng, nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm là một hoạt động thương mại có sự chuyển giao “quyền thương

18

mại” trong lĩnh vực thực phẩm gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ đó là “cách thức tổ

chức kinh doanh… nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu

hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo” của bên nhượng quyền cho bên

nhận quyền.

Thứ ba, bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại luôn

tồn tại “quyền kiểm soát và trợ giúp” rất gắn bó và mật thiết. Đây được coi là một

đặc điểm nổi bật của nhượng quyền thương mại so với các hoạt động thương mại

khác. Nhượng quyền thương mại thực chất là việc mở rộng mô hình kinh doanh đã

thành công trên thị trường bằng cách chia sẻ quyền kinh doanh thương mại cho các

thương nhân nhận quyền. Tuy nhiên việc mở rộng mô hình kinh doanh, bên nhượng

quyền thương mại luôn phải đối mặt với nguy cơ mất uy tín thương mại nếu bên

nhận quyền thực hiện không đúng cam kết. Điều này đòi hỏi bên nhượng quyền

phải kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền, bên nhận quyền phải tuân thủ chặt

chẽ mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền, thông qua đó bảo vệ được thương

hiệu của mình. Cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ nhượng quyền thương mại

chính là hợp đồng nhượng quyền thương mại, chính hợp đồng nhượng quyền

thương mại thể hiện việc thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc

chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nhượng quyền thương mại.

1.4. Vai trò của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

1.4.1. Đối với bên nhượng quyền

Thứ nhất, bên nhượng quyền cải thiện được hệ thống phân phối. Bên

nhượng quyền không cần đầu tư mà vẫn mở rộng được hệ thống kinh doanh và điều

tiết được. Do tính đặc thù nên bên nhận quyền thương mại luôn chịu sự kiểm soát

của bên nhượng quyền thương mại.

Thứ hai, bên nhượng quyền thu được một khoản lợi nhuận không nhỏ từ

việc nhượng quyền cho bên nhận quyền. Bởi lẽ, khi nhượng quyền, bên nhận quyền

phải trả tiền bản quyền thuê thương hiệu và tiền phí để được kinh doanh với tên và

hệ thống của bên nhượng quyền. Đồng thời bên nhận quyền phải mua sản phẩm,

nguyên liệu của bên nhượng quyền nhờ đó mà bên nhượng quyền có thể tối đa hoá

19

thu nhập của mình.

Thứ ba, bên nhượng quyền quảng bá được thương hiệu một cách rộng rãi.

Khi sử dụng hình thức nhượng quyền, bên nhượng quyền sẽ tạo được những lợi thế

trong việc quảng cáo, quảng bá thương hiệu của mình. Sự xuất hiện ở mọi nơi các

chuỗi cửa hàng giúp khách hàng tiếp cận được hình ảnh của sản phẩm dễ dàng hơn.

Bên cạnh đó, chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất nhiều cửa hàng, vì thế chi

phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh là rất nhỏ. Đây là một lợi thế cạnh tranh

mà khó có đối thủ cạnh tranh nào có khả năng vượt qua.

1.4.2. Đối với bên nhận quyền

Thứ nhất, bên nhận quyền tận dụng được nguồn lực, tiết kiệm được chi

phí và thời gian trong việc xây dựng một mô hình kinh doanh đào tạo đội ngũ quản

lý hay xây dựng một thương hiệu trên thị trường. Nhượng quyền thương mại phù

hợp với những thương nhân nhận quyền có quy mô kinh doanh vừa và nhỏ, nhất là

doanh nghiệp nhỏ vì mức cạnh tranh của các thương nhân này nếu tự mình xây

dựng các thương hiệu cho riêng mình thì sẽ rất khó khăn.

Thứ hai, bên nhận quyền chịu ít rủi ro hơn tự mở cơ sở sản xuất kinh doanh.

Việc mở cửa hàng, cơ sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỷ lệ thất bại cao. Lý

do chính là do người quản lý là những người mới bước vào nghề, thiếu kinh nghiệm

và phải tốn nhiều thời gian cho việc nghiên cứu các đặc trưng riêng của từng loại

hình kinh doanh. Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ

được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành

công của các loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã tích luỹ được

từ những lần trải nghiệm trên thị trường tức là họ kinh doanh theo một mô hình

quản lý có sẵn. Bên nhận quyền không phải trải qua giai đoạn xây dựng và phát

triển ban đầu.

Thứ ba, bên nhận quyền được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi. Bên

nhượng quyền luôn có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu

cho bên nhận quyền. Bên nhận quyền được mua sản phẩm hoặc nguyên liệu với

khối lượng lớn theo một tỷ lệ chiết khấu hấp dẫn. Giá của các sản phẩm, nguyên

liệu đầu vào thấp sẽ là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn. Nếu thị trường khan

20

hiếm nguồn hàng thì bên nhượng quyền sẽ ưu tiên phân phối cho bên nhận quyền

trước. Điều này giúp cho bên nhận quyền ổn định đầu vào, tránh được những tổn

thất từ biến động thị trường.

1.5. Khái quát pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực

kinh doanh thực phẩm

1.5.1. Các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam

Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại, Việt Nam đã

ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại. Quan hệ

nhượng quyền thương mại rất phức tạp, phụ thuộc vào đối tượng “quyền thương

mại” được chuyển giao đến mức độ nào mà mỗi hợp đồng nhượng quyền thương

mại có thể có những đặc trưng riêng và đặt ra những yêu cầu riêng cho việc áp dụng

pháp luật. Vì vậy pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại cũng

rất đa dạng và phong phú.

Việt Nam là một trong số hơn 30 nước trên thế giới sử dụng hệ thống quy

phạm pháp luật riêng nhằm điều chỉnh hoạt động liên quan đến nhượng quyền

thương mại. Các quy định pháp luật riêng biệt về nhượng quyền thương mại còn

hiệu lực như sau: Luật Thương mại 2005 (Mục 8 Chương VI), Nghị định

35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại

về hoạt động nhượng quyền thương mại (sau đây gọi tắt là Nghị định 35/2006/NĐ-

CP), Thông tư 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn

đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại (sau đây gọi tắt là Thông tư

09/2006/TT-BTM); Quyết định 106/2008/QĐ-BTC ngày 17/11/2008 của Bộ Tài

chính về việc quy định mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký hoạt động

nhượng quyền thương mại; Nghị định 120/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 của

Chính phủ sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ

quy định chi tiết Luật Thương mại (sau đây gọi tắt là Nghị định 120/2011/NĐ-CP);

Nghị định 08/2018/NĐ-CP ngày 15/1/2018 của Chính phủ về sửa đổi Nghị định liên

quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công

thương (sau đây gọi tắt là Nghị định 08/2018/NĐ-CP).

Trước ngày 1/1/2006, thuật ngữ “nhượng quyền thương mại” chưa chính

21

thức xuất hiện trong bất cứ quy định pháp luật nào của Việt Nam, chỉ một vài khía

cạnh liên quan đến hoạt động này được nhắc đến trong các văn bản pháp quy về sở

hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ. Trước khi ban hành Luật Thương mại

2005, hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam vẫn chưa được luật hoá.

Không thể phủ nhận được rằng ở Việt Nam trước khi có Luật Thương mại 2005 các

hoạt động thương mại mang bản chất của nhượng quyền thương mại vẫn diễn ra,

tuy nhiên, các hoạt động này trên thực tế đều phải áp dụng những văn bản hướng

dẫn dưới luật, hầu hết là các văn bản liên quan đến mảng chuyển giao công nghệ.

Cụ thể là, năm 1998, lần đầu tiên thuật ngữ “franchise” xuất hiện trong một văn bản

pháp quy của Việt Nam. Tại Thông tư 1254/1998/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và

Công nghệ hướng dẫn Nghị định 45/ 1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ có đề

cập đến cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh” với giải thích tiếng Anh

là “franchise”. Tiếp theo đó, năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định

11/2005/NĐ-CP và Thông tư số 30/2005/TTBKHCN quy định về hoạt động chuyển

giao công nghệ, theo đó, hoạt động cấp phép đặc quyền kinh doanh được coi là một

hoạt động chuyển giao công nghệ. Tại Điều 4, Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày

2/2/2005 quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ, hoạt động nhượng quyền

thương mại được đề cập đến dưới tên gọi “cấp phép đặc quyền kinh doanh”. Theo

Nghị định này thì cấp phép đặc quyền kinh doanh là một nội dung trong hoạt động

chuyển giao công nghệ và được định nghĩa như sau “Cấp phép đặc quyền kinh doanh,

theo đó Bên nhận sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết của Bên

giao để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thương mại”.

Cho đến năm 2005, khi Luật Thương mại được ban hành và có hiệu lực từ

ngày 1/1/2006, mới chính thức đưa vào thuật ngữ “nhượng quyền thương mại”. Đây

là lần đầu tiên định nghĩa “nhượng quyền thương mại” được đề cập đến trong một

đạo luật của nước ta. Tại Mục 8 Luật Thương mại (từ Điều 284 đến 291) đã nêu

định nghĩa nhượng quyền thương mại, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp

đồng nhượng quyền thương mại, đồng thời thừa nhận nhượng quyền thương mại là

một hoạt động thương mại độc lập. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về nhượng

quyền thương mại chỉ được nêu trong 8 điều của Luật Thương mại vẫn chưa đủ rõ

22

ràng và cụ thể để làm căn cứ pháp lý cho hoạt động này. Nội dung hợp đồng

nhượng quyền thương mại, thủ tục đăng ký nhượng quyền thương mại vẫn chưa

được đề cập, quyền nghĩa vụ của các bên còn chưa được quy định rõ rệt.

Ngày 31/3/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định

chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại. Trong Nghị định

này, định nghĩa “quyền thương mại” đã được làm rõ. Nếu Điều 284 Luật Thương

mại 2005 quy định quyền thương mại là “Quyền được bên nhượng quyền cho phép

và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng

hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với

nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,

quảng cáo của bên nhượng quyền”, thì theo Mục 6, Điều 3, Nghị định 35/2006/NĐ-

CP, quyền thương mại không chỉ có vậy, nó còn bao gồm thêm một số hoặc toàn bộ

các quyền sau đây: “quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền sơ cấp

quyền thương mại chung”, “quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên

nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung”, “quyền được

bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát

triển quyền thương mại”. Định nghĩa này của Nghị định đầy đủ hơn, bao quát được

tất cả các hình thức nhượng quyền thương mại.

Nghị định 35/2006/NĐ-CP còn bổ sung điều kiện đối với bên nhượng quyền

và bên nhận quyền trong Điều 5 và Điều 6. Theo đó, đối với bên nhương quyền, hệ

thống kinh doanh phải đã hoạt động ít nhất 01 năm, hàng hoá dịch vụ kinh doanh

phải hợp pháp và phải có văn bản chấp thuận đăng ký hoạt động nhượng quyền

thương mại. Đối với bên nhận quyền, phải có đăng ký ngành nghề kinh doanh phù

hợp với đối tượng của quyền thương mại. Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung trách

nhiệm cung cấp thông tin của bên nhượng quyền mà Luật Thương mại 2005 chưa

đề cập đến. Điều 8 của Nghị định quy định: “Bên nhượng quyền có trách nhiệm

cung cấp bản sao hợp đồng nhượng quyền thương mại và bản giới thiệu về nhượng

quyền thương mại của mình cho bên dự kiến nhận quyền ít nhất là 15 ngày làm việc

trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại nếu các bên không có thoả

thuận khác”. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng đã được nêu

23

rõ trong Điều 11 của Nghị định, bao gồm các điều khoản chủ yếu sau: “1.Nội dung

của quyền thương mại; 2. Quyền, nghĩa vụ của bên nhượng quyền; 3. Quyền, nghĩa

vụ của bên nhận quyền; 4. Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh

toán, 5. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng, 6. Gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải

quyết tranh chấp”.

Việc đăng ký nhượng quyền thương mại được quy định tại Mục 3 Nghị định

35/2006/NĐ-CP. Cơ quan tiếp nhận đăng ký nhượng quyền thương mại là Bộ

Thương mại (nay là Bộ Công thương) đối với hoạt động nhượng quyền thương mại

có yếu tố nước ngoài và là Sở Thương mại đối hoạt động nhượng quyền thương mại

mang tính nội địa. Hồ sơ đăng ký bao gồm: đơn đăng ký và bản giới thiệu về

nhượng quyền thương mại theo mẫu của Bộ Thương mại; bản sao có chứng thực

giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư, văn bằng bảo hộ quyền sở

hữu công nghiệp. Trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan

tiếp nhận sẽ chấp thuận đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại cho thương

nhân. Ngày 25/5/2006 Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) ban hành Thông tư

số 09/2006/TT-BTM hướng dẫn cụ thể hơn việc đăng ký hoạt động nhượng quyền

thương mại. Thông tư đã quy định chi tiết về mẫu đơn đăng ký hoạt động nhượng

quyền thương mại (Phụ lục 1) và bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại (Phụ

lục 2). Ngoài các quy định pháp luật hiện hành của Bộ Thương mại, hiện nay hoạt

động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam còn chịu sự điều tiết của Bộ Khoa học

và Công nghệ. Điều 10, Nghị định 35/2006/NĐ-CP, đã khẳng định “Phần chuyển

giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp trong hợp đồng nhượng

quyền thương mại chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu công nghiệp”.

Ngày 15/01/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 08/2018/NĐ-CP sửa đổi

một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh (ĐKKD) thuộc phạm vi

quản lý nhà nước của Bộ Công Thương. Bãi bỏ hàng loạt điều kiện kinh doanh

thuộc nhiều lĩnh vực, trong đó có “nhượng quyền thương mại”. Nghị định

08/2018/NĐ-CP đã sửa đổi Điều 5 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP như sau: “Điều 5.

Điều kiện đối với Bên nhượng quyền: Thương nhân được phép cấp quyền thương

mại khi hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít

24

nhất 01 năm”. Theo đó, hiện nay thương nhân được phép cấp quyền thương mại khi

hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 01 năm.

Đồng thời, bãi bỏ Điều 6 và Điều 7 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006

quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.

1.5.2. Các quy định pháp luật ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại

Việt Nam

Luật Đầu tư 2014 (sửa đổi 2017) danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh

có điều kiện còn lại là 243 ngành, nghề, trong danh mục là những ngành, nghề, khi

thực hiện hoạt động kinh doanh Nhà nước phải can thiệp vào bằng điều kiện kinh

doanh. Trong số ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì có 3 ngành nghề kinh

doanh thực phẩm thuộc quyền quản lý của các bộ ngành khác nhau như: kinh doanh

thực phẩm thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Công thương; Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Y tế. Kinh doanh thực phẩm là bao gồm các

hoạt động kinh doanh phục vụ nhu cầu ăn uống của con người. Đây chính là cơ sở

pháp lý để các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động kinh doanh thực phẩm nhằm

đảm bảo an toàn sức khỏe tính mạng của con người, duy trì phát triển nòi giống...

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện kinh doanh thực phẩm

của Việt Nam ngày càng hoàn thiện như: ban đầu là pháp lệnh, chỉ thị, thông tư ví

dụ như Pháp lệnh số 12 về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 của Ủy Ban thường

vụ Quốc hội, tiếp sau này là Luật An toàn thực phẩm năm 2010. Luật An toàn thực

phẩm đã phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đó là Chính

phủ; Luật An toàn thực phẩm cũng quy định trách nhiệm của từng bộ trong việc

quản lý an toàn thực phẩm như sau:

Bộ Y tế có trách nhiệm quản lý chung về an toàn thực phẩm như: chủ trì xây

dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện chiến

lược quốc gia, quy hoạch tổng thể về an toàn thực phẩm; ban hành quy chuẩn kỹ

thuật quốc gia về chỉ tiêu và mức giới hạn an toàn đối với sản phẩm thực phẩm;

dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm; yêu cầu các bộ, ngành, Ủy ban

Nhân dân cấp tỉnh báo cáo định kỳ, đột xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm;

quy định về điều kiện chung bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất,

25

kinh doanh thực phẩm; bên cạnh đó Bộ Y tế có trách nhiệm trong quản lý ngành

như: chủ trì tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về an toàn

thực phẩm; cảnh báo sự cố ngộ độc thực phẩm; thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với

toàn bộ quá trình sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc phạm vi quản lý

của các bộ khác khi cần thiết. trong suốt quá trình sơ chế, chế biến, bảo quản, vận

chuyển, kinh doanh thực phẩm; quản lý an toàn thực phẩm đối với dụng cụ, vật liệu

bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sơ chế, chế biến, kinh doanh thực

phẩm; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm trong quá

trình sản xuất thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có trách nhiệm quản lý trong suốt

quá trình sản xuất, thu gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất

khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản

và sản phẩm thủy sản, rau, củ, quả và sản phẩm rau, củ, quả, trứng và các sản phẩm

từ trứng, sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản phẩm từ mật ong, thực phẩm biến

đổi gen, muối và các nông sản thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ; quản

lý ATTP đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản

xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Bộ Công thương có trách nhiệm quản lý trong suốt quá trình sản xuất, chế

biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với các loại rượu,

bia, nước giải khát, sữa chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế biến bột và tinh bột và

các thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ; quản lý an toàn thực phẩm đối

với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế

biến, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. Như vậy, Luật

An toàn thực phẩm năm 2010 đã phân công, phân cấp rõ ràng, trách nhiệm cũng

như nhiệm vụ của từng bộ một cách cụ thể, các bộ hoạt động một cách độc lập

nhưng cũng có lúc phải phối hợp với nhau để thực hiện nhiệm vụ chung.

Thêm vào đó, Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm, và Nghị định số

178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành

chính về an toàn thực phẩm. Và ngày 02/02/2018 chính phủ đã ban hành nghị định

26

số 15/2018/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực

phẩm. Ngoài ra Ban chỉ đạo liên ngành TW vệ sinh an toàn thực phẩm cũng ban

hành công văn số 858/BCĐTƯVSATTP ngày 07/02/2018 “V/v hướng dẫn thực

hiện Nghị định số 15/2018/NĐ-CP”.

Bộ Y tế cũng đã nghiên cứu và ban hành hơn 15 thông tư để hướng dẫn thi

hành Luật An toàn thực phẩm, trong đó có khoảng hơn 10 thông tư liên quan đến

điều kiện kinh doanh thực phẩm như: Thông tư số 05/2012/TT-BYT ngày 1/3/2012

ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với ô nhiễm vi sinh vật trong thực phẩm;

Thông tư số 15/TT-BYT ngày 12/9/2012 quy định về điều kiện chung bảo đảm an

toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm; Thông tư số 16/TT-

BYT ngày 22/10/2012 quy định về điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản

xuất kinh doanh thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói chứa đựng thực phẩm thuộc

phạm vi quản lý của Bộ Y tế; Thông tư 19/TT-BYT ngày 9/11/2012 hướng dẫn việc

công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm; Thông tư số

26/TT-BYT ngày 30/11/2012 quy định cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an

toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng, thực

phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực

phẩm; nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai; dụng cụ, vật liệu bao gói,

chứa đựng thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế; Thông tư 27/TT-BYT

ngày 30/11/2012 hướng dẫn quản lý phụ gia thực phẩm; Thông tư số 30/TT-BYT

ngày 5/12/2012 quy định điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh

thực phẩm, kinh doanh thức ăn đường phố; Thông tư số 08/2013/TT-BYT ngày 13

tháng 3 năm 2013 hướng dẫn quảng cáo thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y

tế; Thông tư số 47/TT-BYT ngày 11/12/2014 quy định hướng dẫn quản lý an toàn

thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh thực phẩm.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cùng

với Bộ Công thương đã phối hợp với nhau để ban hành Thông tư liên tịch số

20/2013/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 1/8/2013 quy định điều kiện, trình tự,

thủ tục chỉ định cơ sở kiểm nghiệm thực phẩm phục vụ quản lý nhà nước. Ngoài

những văn bản nêu trên, những cơ sở kinh doanh thực phẩm còn chịu sự điều chỉnh

27

của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật,

Luật Thủy sản, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh… Như vậy, hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật về điều kiện kinh doanh thực phẩm nhằm kiểm soát vệ sinh an

toàn thực phẩm trong hoạt động kinh doanh thực phẩm tại Việt Nam đã được hoàn

thiện dần dần ngày càng tiến bộ và chi tiết hơn, từ việc quy định an toàn sức khoẻ

cho cộng đồng đến quy định về kiểm dịch động, thực vật… đã đáp ứng kịp thời

trong tình hình mới. Từ đó, tạo ra được hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các cơ

quan quản lý nhà nước thực hiện hoạt động thanh tra kiểm tra của mình nhằm mục

đích kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất kinh doanh thực

phẩm của các doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế…

Những văn bản nêu trên đã thể hiện sự quyết tâm của Nhà nước cũng như sự

quyết tâm của Chính phủ, của các bộ, các cơ quan ngang bộ cũng như của các cấp

chính quyền địa phương trong việc quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm

với một mục đích đó là mang bữa ăn an toàn đến với mọi người, góp phần tạo dựng

hành lang pháp lý ổn định, an toàn, rõ ràng, minh bạch để các doanh nghiệp yên tâm

đầu tư kinh doanh thực phẩm, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách bền vững

28

trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế…

Tiểu kết chương 1

Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh phổ biến trên thế giới

cũng như ở Việt Nam hiện nay, có ý nghĩa hết sức trong nền kinh tế. Trong chương

1, tác giả làm rõ một số nội dung sau:

Một là, khái quát về lược sử hình thành và khái niệm nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm.

Hai là, các hình thức nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm dựa trên các tiêu chí như: Phạm vi lãnh thổ, Nội dung của hoạt động

kinh doanh, cách thức tiến hành nhượng quyền, phát triển hoạt động.

Ba là, các đặc điểm của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm như: đặc điểm của nhượng quyền thương mại, sự phát triển của ngành

kinh doanh thực phẩm, đặc trưng của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm.

Bốn là, vai trò của hình thức nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm đối với bên nhượng quyền và bên đối với bên nhận quyền.

Năm là, khái quát pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong lĩnh

vực kinh doanh thực phẩm qua việc phân tích các quy định pháp luật về nhượng

quyền thương mại tại Việt Nam và một số các quy định pháp luật ảnh hưởng đến

29

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm.

Chương 2

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH

THỰC PHẨM

2.1. Điều kiện đối với bên nhượng quyền và bên nhận quyền

Nhượng quyền thương mại là một trong những hình thức kinh doanh thương

mại. Theo đó bên nhượng quyền cho phép bên nhận nhượng quyền tự mình tiến hành

việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các thức tổ chức kinh doanh mà bên

nhượng quyền quy định gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh

doanh, biểu tượng kinh doanh và hình ảnh quảng cáo của bên nhượng quyền.

Để tham gia vào hoạt động nhượng quyền này thì cả hai bên nhượng quyền và

nhận nhượng quyền đều phải đáp ứng được các điều kiện nhất định. Nhà đầu tư

nước ngoài muốn thực hiện hoạt động nhượng quyền cho thương nhân Việt Nam

hoặc nhận nhượng quyền từ thương nhân Việt Nam thì đều phải tuân thủ các quy

định pháp luật của Việt Nam về hoạt động nhượng quyền.

Trước đây, theo Điều 5 Nghị định 35/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương

mại về hoạt động nhượng quyền thương mại quy định như sau:

“Điều 5. Điều kiện đối với Bên nhượng quyền

Thương nhân được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện

sau đây:

1. Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít

nhất 01 năm.

Trường hợp thương nhân Việt Nam là Bên nhận quyền sơ cấp từ Bên nhượng

quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức

nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại

quyền thương mại.

2. Đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm

30

quyền theo quy định tại Điều 18 của Nghị định này.

3. Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại không

vi phạm quy định tại Điều 7 của Nghị định này.”

Tuy nhiên, việc nhượng quyền thương mại trong nước, nhượng quyền

thương mại từ nước ngoài vào Việt Nam hay nhượng quyền thương mại từ Việt

Nam ra nước ngoài, thì trước khi thực hiện hoạt động nhượng quyền, thương nhân

dự định nhượng quyền đều phải thực hiện thủ tục đăng ký nhượng quyền thương

mại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị định

120/2011/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày 01/02/2012, có quy định tại khoản 2 Điều

3 như sau: “Điều 17a. Các trường hợp không phải đăng ký nhượng quyền: Các

trường hợp sau không phải đăng ký nhượng quyền: a) Nhượng quyền trong nước;

b) Nhượng quyền thương mại từ Việt Nam ra nước ngoài. Đối với các trường hợp

không phải đăng ký nhượng quyền phải thực hiện chế độ báo cáo Sở Công

Thương”. Tiếp đó, theo quy định tại Điều 8, Nghị định 08/2018/NĐ-CP ngày

15/1/2018 về sửa đổi Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc

phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công thương, điều kiện đối với bên nhượng

quyền được sửa đổi như sau: “Thương nhân được phép cấp quyền thương mại khi

hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 01

năm”. Theo quy định trên, điều kiện "đã được hoạt động ít nhất 01 năm" áp dụng

đối với hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền, không áp dụng cho

thương nhân. Hệ thống pháp luật của Việt Nam quy định đối với hoạt động của bên

nhượng quyền trước khi thực hiện nhượng quyền là một năm. Khoảng thời gian một

năm theo quy định của pháp luật Việt Nam là tương đối ngắn. Trong khoảng thời

gian này, tên thương mại và các công nghệ đặc trưng của thương nhân không phải

lúc nào cũng đủ thời gian để được hình thành trọn vẹn. Tuy nhiên, với tư cách là

hoạt động thương mại mới, nhượng quyền thương mại phải được tạo điều kiện để

phát triển một cách tự do và nhanh chóng. Vì vậy, quy định khoảng thời gian ngắn

để nhận biết giá trị “quyền thương mại” của bên nhượng quyền cũng là một trong

những cách thức tiếp cận có ý nghĩa của pháp luật thương mại Việt Nam. Tuy nhiên

việc quy định khoảng thời gian này đối với bên nhượng quyền hầu như rất ít ảnh

31

hưởng đến mức độ thành công hay rủi ro trong hoạt động nhượng quyền của bên

nhận quyền sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại đã được ký kết. Theo quy

định nêu trên của Nghị định 120/2011/NĐ-CP thì thủ tục đăng ký nhượng quyền

thương mại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi thực hiện hoạt động

nhượng quyền thương mại đã được gỡ bỏ.

Tại Điều 6 Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định về việc thương nhân được

phép nhận quyền thương mại khi có đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với

đối tượng của quyền thương mại. Nhưng điều này cũng đã bị bãi bỏ bởi Nghị định

08/2018/NĐ-CP. Như vậy, từ 15/1/2018 thì bên nhận nhượng quyền thương mại

không cần điều kiện riêng trong giao dịch này, theo đó, các bên cần tuân thủ quy

định chung tại Mục 8 Luật Thương mại 2005.

2.2. Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại

Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam không chỉ sử dụng luật riêng

về nhượng quyền thương mại để điều chỉnh mà hệ thống luật này còn đóng vai trò

giống một công cụ để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương

mại. Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại (tên tiếng Anh là “Prior

Disclosure”) được coi là công cụ quan trọng trong hệ thống quy định pháp luật Việt

Nam về nhượng quyền thương mại. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của lĩnh

vực nhượng quyền thương mại, Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại nhằm

hoàn thiện hơn nữa pháp luật để khuyến khích và đảm bảo an toàn cho hoạt động

nhượng quyền thương mại.

Một số nghiên cứu nhận thấy rằng, pháp luật điều chỉnh quan hệ nhượng

quyền thương mại trên thế giới đều thông qua bốn loại công cụ [33] như sau: Sử dụng

thống đăng ký nhượng quyền thương mại; Sử dụng Bản giới thiệu nhượng quyền

thương mại; Điều chỉnh thông qua việc hướng dẫn trách nhiệm thực thi của Bên

nhượng quyền và Bên nhận quyền (Luật về quản lý hoạt động nhượng quyền); Điều

chỉnh thông qua việc đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Bản giới thiệu nhượng

quyền thương mại cần phải chứa đựng các vấn đề chủ yếu đó là:

- Thông tin chung về Bên nhượng quyền;

32

- Thông tin về quyền sở hữu trí tuệ;

- Thông tin cụ thể về Bên nhượng quyền;

- Chi phí ban đầu mà Bên nhận quyền phải trả;

- Các nghĩa vụ tài chính khác của Bên nhận quyền;

- Đầu tư ban đầu của Bên nhận quyền;

- Nghĩa vụ của Bên nhận quyền phải mua hoặc thuê những thiết bị để phù hợp

với hệ thống kinh doanh do Bên nhượng quyền quy định;

- Nghĩa vụ của Bên nhượng quyền;

- Mô tả thị trường của hàng hóa/dịch vụ được kinh doanh theo phương thức

nhượng quyền thương mại;

- Hợp đồng nhượng quyền thương mại mẫu;

- Thông tin về hệ thống nhượng quyền;

- Báo cáo tài chính của Bên nhượng quyền;

- Phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc tổ chức cần tham gia.

Các hậu quả pháp lý bất lợi mà Bên nhượng quyền phải gánh chịu liên quan

đến nghĩa vụ cung cấp bản giới thiệu nhượng quyền thương mại cũng được quy

định rất rõ trong hệ thống luật nhượng quyền thương mại như sau:

- Bên nhận quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu Bên nhượng

quyền vi phạm nghĩa vụ cung cấp Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại;

- Bị xử phạt vi phạm hành chính nếu thông tin trong Bản giới thiệu nhượng

quyền thương mại là không trung thực;

- Bồi thường thiệt hại trong trường hợp có hành vi vi phạm gây thiệt đến lợi

ích vật chất của tổ chức, cá nhân liên quan.

Bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp bản giới thiệu nhượng quyền

thương mại cho Bên nhận quyền bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại của

mình cho Bên dự kiến nhận quyền ít nhất là 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp

đồng nhượng quyền thương mại nếu các bên không có thỏa thuận khác. Nếu quyền

thương mại là quyền thương mại chung thì Bên nhượng quyền thứ cấp còn phải

cung cấp cho bên dự kiến nhận quyền bằng văn bản các nội dung như:

- Thông tin về Bên nhượng quyền đã cấp quyền thương mại cho mình;

33

- Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại chung;

- Cách xử lý các hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp trong trường

hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại chung.

Một số nội dung bắt buộc của Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại do Bộ

Công thương quy định và công bố (tại Phụ lục III Thông tư số 09/2006/TT-BTM).

Trách nhiệm không chỉ ràng buộc với Bên nhượng quyền, theo quy định của

pháp luật hiện hành, Bên nhận quyền cũng có nghĩa vụ cung cấp cho Bên nhượng

quyền các thông tin mà Bên nhượng quyền yêu cầu để thuyết phục việc trao quyền

thương mại cho Bên dự kiến nhận quyền. Quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin liên

quan tới việc nhượng quyền thương mại thuộc cả Bên nhận quyền là khá đặc biệt

nếu so sánh với các nước.

Hiện tại chỉ có Việt Nam và Rumany quy định về vấn đề này (Rumany yêu

cầu Bên nhận quyền có trách nhiệm cung cấp thông tin về vấn đề quản trị và khả

năng tài chính cho Bên nhượng quyền). Trước đây Trung Quốc cũng có quy định

nghĩa vụ này của Bên nhận quyền, nhưng điều này đã được bãi bỏ trong luật mới về

nhượng quyền năm 2007. Có thể thấy, Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại của

Việt Nam khá phù hợp với thông lệ quốc tế do có sự chắt lọc kinh nghiệm từ các

quốc gia sử dụng cơ chế điều chỉnh nhượng quyền thông qua Bản giới thiệu nhượng

quyền thương mại như Mỹ, Úc, Trung Quốc, Malaysia và đặc biệt là tiếp thu tinh

thần luật mẫu về Bản giới thiệu nhượng quyền của Unidroit.

Tuy nhiên, để có thể sử dụng hiệu quả Bản giới thiệu nhượng quyền thương

mại như một công cụ trọng tâm trong việc điều chỉnh hoạt động thương mại, cần

tiếp tục hoàn thiện hơn nữa pháp luật Việt Nam. Trong đó, cần chú trọng một số

vấn đề liên quan như sau: Cần có sự thống nhất quy định về nghĩa vụ cung cấp Bản

giới thiệu nhượng quyền trong các văn bản quy phạm pháp luật về nhượng quyền

thương mại theo hướng đây là nghĩa vụ bắt buộc của Bên nhượng quyền. Theo tinh

thần của Nghị định 35/2006/NĐ-CP và Thông tư 09/2006/TT-BTM thì cung cấp

Bản giới thiệu nhượng quyền là nghĩa vụ bắt buộc của Bên nhượng quyền, trong khi

theo Điều 287 Luật Thương mại 2005 thì “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” Bên

nhượng quyền có nghĩa vụ cung cấp Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại cho

34

Bên nhận quyền; Nên quan tâm hơn nữa đến các thông tin ngoài hợp đồng (bởi lẽ

các thông tin trong hợp đồng sẽ được đề cập rõ trong hợp đồng giữa hai bên); Cần

xem xét để nới rộng thời hạn cung cấp Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại;

Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại sẽ trở nên không có ý nghĩa nếu như các

thông tin được đưa ra thiếu độ tin cậy. Đảm bảo sự minh bạch hóa trong tiếp cận

thông tin (đặc biệt là các thông tin liên quan đến tài chính) giúp cho Bên nhận

quyền nắm bắt được thông tin nào là trung thực. Đây là sự hỗ trợ cần thiết cho cơ

chế điều chỉnh bằng Bản giới thiệu nhượng quyền.

2.3. Hợp đồng nhượng quyền thương mại

Hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng giống như các loại hợp đồng

thông thường khác, là sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ nhượng quyền

thương mại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên

trong hoạt động nhượng quyền và cũng chính là căn cứ, cơ sở để giải quyết tranh

chấp có thể sẽ phát sinh giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hợp đồng

nhượng quyền thương mại phải có chung ý chí thống nhất và phải đạt được sự đồng

thuận của các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng.

Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US Federal Trade Commission -

FTC) đưa ra khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại là “hợp đồng theo đó

Bên nhượng quyền:

- Hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận quyền trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm

soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận quyền;

- Li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn

hiệu hàng hóa của Bên nhượng quyền và

- Yêu cầu Bên nhận quyền thanh toán cho bên nhượng quyền một khoản phí tối

thiểu.”

Có thể nói rằng hợp đồng nhượng quyền thương mại là loại hợp đồng chứa

đựng các đặc điểm tổng hợp của nhiều loại hợp đồng khác nhau.

Thứ nhất, hợp đồng nhượng quyền thương mại chứa đựng những yếu tố của

hợp đồng li-xăng, cũng hướng đến việc chuyển giao những đối tượng của sở hữu

công nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, bí quyết

35

kinh doanh…

Thứ hai, hợp đồng nhượng quyền thương mại có những điểm tương đồng với

hợp đồng chuyển giao công nghệ khi mà trong nội dung hợp đồng luôn xác định rõ

bên nhượng quyền phải chuyển giao, cung cấp, hướng dẫn cho bên nhận quyền sử

dụng, khai thác các công nghệ đi kèm cũng như các tài liệu hướng dẫn vận hành

công nghệ đó.

Thứ ba, hợp đồng nhượng quyền thương mại còn mang dáng dấp của hợp

đồng cung ứng dịch vụ, hàng hóa; hợp đồng đại lý phân phối.

Nhìn chung hợp đồng nhượng quyền thương mại là một tập hợp các thỏa

thuận của các chủ thể, trong đó các bên phải đề cập ít nhất một số vấn đề chủ yếu

như: Sự chuyển giao của các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ

từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm mục đích thực hiện hoạt động

kinh doanh, kiếm lợi nhuận. Bên nhượng quyền có nghĩa vụ hỗ trợ bên nhận quyền

trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Các nghĩa vụ của bên nhượng quyền đối

với bên nhận quyền (liên quan đến vấn đề tài chính, hạn chế cạnh tranh)

Đối với Việt Nam, pháp luật không đưa ra một định nghĩa nào về hợp đồng

nhượng quyền thương mại. Căn cứ Điều 285 Luật Thương mại 2005 với tiêu đề

“hợp đồng nhượng quyền thương mại” chỉ quy định về hình thức của loại hợp đồng

này. Như vậy, có thể hiểu, trên phương diện pháp luật, hợp đồng nhượng quyền

thương mại là loại hợp đồng được các thương nhân ký kết trong quá trình thực hiện

hoạt động thương mại, cụ thể là thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại. Vì

vậy, hợp đồng này phải có những đặc điểm chung của hợp đồng được quy định ở

Bộ luật Dân sự. Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải đáp ứng đầy đủ các điều

kiện pháp luật dân sự đặt ra đối với một giao dịch dân sự. Về cơ bản, hợp đồng

nhượng quyền thương mại thể hiện bản chất của giao dịch nhượng quyền thương

mại như được quy định tại Điều 284 Luật Thương mại 2005.

Mặc dù không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng nhượng quyền thương

mại nói chung, nhưng tại Nghị định số 35/2006/NĐ-CP lại đưa ra định nghĩa về các

dạng đặc biệt của hợp đồng nhượng quyền thương mại như “Hợp đồng phát triển

quyền thương mại” (Khoản 8 Điều 3) hoặc “hợp đồng nhượng quyền thương mại

36

thứ cấp” (Khoản 10 Điều 3). Đây là các dạng biến thể của hợp đồng nhượng quyền

thương mại, thể hiện sự đa dạng về hình thức và phương thức nhượng quyền thương

mại. Vì vậy, việc đưa ra định nghĩa cụ thể về những loại hợp đồng này trong các

văn bản luật là cần thiết. Tuy nhiên, khi giải thích về nghĩa của cả hai loại hợp đồng

nói trên, các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “hợp đồng nhượng quyền thương

mại” để làm cầu nối.

Như vậy, việc pháp luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng

nhượng quyền thương mại mà lại dùng chính thuật ngữ này để giải thích cho các

thuật ngữ khác có liên quan là chưa đảm bảo tính hệ thống và tính chính xác cần

phải có đối với các quy định pháp luật trong bối cảnh hiện nay.

Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, tồn tại hai chủ thể, đó là bên

nhượng quyền và bên nhận quyền. Về cơ bản, hợp đồng nhượng quyền thương mại

chính là những thoả thuận của hai chủ thể này về nội dung của hoạt động nhượng

quyền. Do nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại đặc thù, vì vậy, hầu

hết các nước đều quy định chủ thể của quan hệ nhượng quyền phải là thương nhân,

tồn tại hợp pháp, có thẩm quyền kinh doanh và có quyền hoạt động thương mại phù

hợp với đối tượng được nhượng quyền. Những đặc trưng về chủ thể này của hợp

đồng nhượng quyền thương mại làm cho hợp đồng nhượng quyền thương mại có

những đặc điểm khác biệt so với các loại hợp đồng khác. Quan hệ nhượng quyền

không chỉ dừng lại giữa một bên nhượng quyền và một bên nhận quyền mà còn xuất

hiện thêm nhiều bên nhận quyền khác nữa tạo thành một hệ thống nhượng quyền

thương mại, xuất phát từ sự khác biệt của quan hệ nhượng quyền này làm cho chủ

thể của loại hợp đồng này cũng khác với các hợp đồng khác. Bên nhận quyền thứ

hai là bên nhận lại quyền kinh doanh thương mại của bên nhượng quyền từ bên

nhận quyền thứ nhất. Trong trường hợp này, các bên lại phải có những thoả thuận,

phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên, nhất là bên nhượng

quyền. Như vậy, dưới góc độ pháp luật, bên nhượng quyền trong hợp đồng nhượng

quyền thương mại là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng

quyền thứ nhất và bên nhượng lại quyền. Bên nhận quyền là thương nhân nhận

quyền thương mại để khai thác, kinh doanh, bao gồm cả bên nhận quyền thứ nhất

37

(bên nhận quyền sơ cấp) và bên nhận quyền thứ hai (bên nhận quyền thứ cấp).

Đối với Việt Nam, pháp luật thương mại cũng đã ghi nhận các đối tượng có

thể trở thành chủ thể của một quan hệ nhượng quyền thương mại, bao gồm: bên

nhượng quyền, bên nhận quyền, bên nhượng quyền thứ cấp, bên nhận quyền sơ cấp

và bên nhận quyền thứ cấp (Khoản 1,2,3,4,5 Điều 3 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP).

Theo đó, hoạt động nhượng quyền thương mại có thể được thực hiện dưới nhiều

hình thức. Ở hình thức cơ bản nhất, tồn tại các bên nhượng quyền và bên nhận

quyền. Tuy nhiên, ở hình thức phức tạp hơn, các bên nhận quyền sơ cấp được thực

hiện việc nhượng lại quyền thương mại cho các bên nhận quyền thứ cấp và trở

thành bên nhượng quyền thứ cấp. Quy định này đáp ứng được tính đa dạng với

nhiều biến thể mà hoạt động nhượng quyền thương mại chứa đựng.

Pháp luật thương mại Việt Nam không quy định điều kiện bắt buộc về hình thức

tồn tại cho bên nhận quyền. Điều này có phần phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bởi

trên thực tế, hầu hết các “quyền thương mại” được nhượng quyền tại nước ta chủ yếu

chỉ được thiết lập dưới các dạng nhà hàng, quán ăn nhanh với quy mô tương đối nhỏ

hẹp, nằm trong khả năng có thể điều khiển được của hộ kinh doanh cá thể.

Việt Nam quan tâm đến hầu hết các mặt liên quan của quan hệ nhượng quyền

thương mại. Điều 285 Luật Thương mại 2005 của Việt Nam quy định: “Hợp đồng

nhượng quyền thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác

có giá trị pháp lý tương đương”. Trong đó, các hình thức có giá trị tương đương

văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo

quy định của pháp luật. Sự phức tạp của hoạt động này đã đặt pháp luật trước một

nghĩa vụ là bảo vệ tối đa quyền lợi hợp pháp của các thương nhân. Đối với mỗi

quốc gia khác nhau, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các chủ thể của

quan hệ nhượng quyền thương mại có thể cùng nhau thoả thuận và quyết định hợp

đồng nhượng quyền được thể hiện dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc bằng một

thoả thuận ngầm định giữa các bên nào đó mà không nhất thiết phải thể hiện ra bên

ngoài. Quy định về hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại của Luật Thương

mại hiện hành cũng góp phần thể hiện tính đa dạng đó. Mặc dù do sự tác động của

tính chất mới mẻ cũng như sự biến thể khá phức tạp của hoạt động nhượng quyền

38

thương mại ảnh hưởng rất nhiều đến sự cẩn trọng của Nhà nước thể hiện trong các

quy định pháp luật liên quan nhưng những quy định có tính chất mở, ví dụ như cởi

mở hơn về mặt hình thức của hợp đồng, cũng sẽ có những tác động không nhỏ đến

sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của một hoạt động thương mại mới mẻ ở Việt

Nam như hoạt động nhượng quyền thương mại.

Về nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại, không thể không nói

tới đối tượng của hợp đồng loại này. Đây là lợi ích mà các bên trong quan hệ

nhượng quyền đều hướng tới, đó chính là “quyền thương mại” (bao gồm: tên

thương mại, công nghệ, bí quyết kinh doanh, quy trình kinh doanh, nhãn hiệu hàng

hoá, tài liệu hướng dẫn...) mà các bên thoả thuận trong hợp đồng nhượng quyền

thương mại. Ở các nước khác nhau, với cái nhìn không đồng nhất về hoạt động

nhượng quyền thương mại, “quyền thương mại” mà một thương nhân có thể đem

nhượng cho một thương nhân khác có nội dung rộng, hẹp khác nhau. Xu hướng

phát triển của thương mại quốc tế chỉ ra rằng, đối tượng của hoạt động nhượng

quyền thương mại sẽ ngày càng được mở rộng trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang

diễn ra ngày một sôi động. Lúc đó “quyền thương mại” không chỉ là một phép cộng

đơn giản của các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mà cao hơn, đó là sự kết hợp toàn

diện tất cả các yếu tố ấy trong một thể thống nhất không phân tách. Có thể thấy rằng,

cách hiểu như trên về đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại mới nói lên

được bản chất của quan hệ thương mại đặc biệt này. Bởi xem xét cho đến cùng, hoạt

động nhượng quyền thương mại mang đặc trưng chính là sự chia sẻ quyền khai thác

trên cùng một tên thương mại, tạo nên một hệ thống bán hàng, cung cấp dịch vụ đồng

bộ giữa các thương nhân với những tư cách pháp lý độc lập và hoàn toàn khác biệt.

Xuất phát từ bản chất đó, khi giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại, các bên

cần thiết phải cân nhắc những yếu tố sẽ được nhắc đến và kết hợp trong “quyền thương

mại”. Bên cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, pháp luật sẽ hỗ trợ các bên trong việc làm

sáng tỏ hơn về tính kết hợp của các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.

2.4. Quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền

Pháp luật Việt Nam quy định quyền của bên nhượng quyền tại Điều 286 Luật

Thương mại 2005 như sau:

39

“Điều 286. Quyền của thương nhân nhượng quyền

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các

quyền sau đây:

1. Nhận tiền nhượng quyền;

2. Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới

nhượng quyền thương mại;

3. Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo

đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất

lượng hàng hoá, dịch vụ.”

Theo quy định nêu trên, quyền nhận tiền nhượng quyền là quyền đầu tiên của

bên nhượng quyền. Do một phần của các khoản phí được xác định bằng một số

phần trăm nhất định của doanh thu của bên nhận quyền nên bên nhượng quyền

thường giữ quyền kiểm soát rất chặt chẽ hệ thống sổ sách, kế toán của bên nhận

quyền. Việc này thể hiện qua việc bên nhượng quyền cung cấp các phần mềm kế toán

cho bên nhận quyền sử dụng, bên nhận quyền phải lập các báo cáo doanh thu định kỳ

nộp cho bên nhượng quyền, bên nhượng quyền chỉ định các bên kiểm toán độc lập

kiểm toán các báo cáo tài chính hàng năm của bên nhận quyền. Bên nhận quyền có

nghĩa vụ giữ sổ sách kế toán ghi nhận đầy đủ tất cả các khoản thu chi trong mỗi tháng

và sẽ lập các báo cáo tài chính theo mẫu do bên nhượng quyền quy định. Đồng thời bên

nhượng quyền cũng có quyền kiểm tra các tài khoản và ghi chép đó.

Hai là “tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng

lưới nhượng quyền thương mại”. Nhượng quyền thương mại được áp dụng trong

lĩnh vực mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Trong khi đó, quảng cáo là một

việc làm không thể thiếu được trong các hoạt động thương mại nói chung và các

hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ nói riêng. Do đó quảng cáo là

một hoạt động không thể thiếu trong các hệ thống nhượng quyền thương mại. Ngoài

ra, một phần tạo nên thành công của các hệ thống nhượng quyền chính là những

chiến dịch quảng cáo rầm rộ mà bên nhượng quyền thực hiện cho toàn hệ thống.

Các hoạt động quảng cáo do bên nhượng quyền thực hiện sẽ mang lại hiệu quả

không chỉ cho riêng một bên nhận quyền nào mà sẽ là cho cả hệ thống. Khi đó, bên

nhận quyền có nghĩa vụ hợp tác với bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác

40

trong các hoạt động khuyến mãi hoặc quảng cáo cũng như các hoạt động xúc tiến

kinh doanh, chương trình giảm giá, phát tờ rơi và tham gia các hoạt động quảng cáo

khuyến mãi khác mà bên nhượng quyền có thể chỉ thị.

Ba là “kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm

bảo đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về

chất lượng hàng hoá, dịch vụ”. Luật Thương mại 2005 đã quy định rõ đây là một

trong những quyền của thương nhân nhượng quyền (Khoản 3 Điều 286). Việc giới

hạn phạm vi kiểm soát cũng như cách thức kiểm soát của bên nhượng quyền đối với

bên nhận quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của bên nhận

quyền trong trường hợp bên nhượng quyền lợi dụng và lạm dụng việc kiểm soát để

gây khó khăn cho bên nhận quyền trong hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh pháp

luật không quy định nhiều về vấn đề này, các bên phải tự thiết kế nên những điều

khoản nhằm ràng buộc trách nhiệm và tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chính mình

trong quan hệ nhượng quyền thương mại.

Xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại, Luật Thương

mại 2005 đã quy định, nếu không có thỏa thuận nào khác thì bên nhượng quyền có

các nghĩa vụ sau đây:

“Điều 287. Nghĩa vụ của thương nhân nhượng quyền

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các

nghĩa vụ sau đây:

1. Cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại cho

bên nhận quyền;

2. Đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho thương nhân

nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại;

3. Thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của

thương nhân nhận quyền;

4. Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng

nhượng quyền;

5. Đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng

quyền thương mại.”

41

Một là “cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại

cho bên nhận quyền”. Việc tạo nên thành công của các hệ thống nhượng quyền

chính là những chiến dịch quảng cáo mà bên nhượng quyền thực hiện cho toàn hệ

thống. Các hoạt động quảng cáo do bên nhượng quyền thực hiện sẽ mang lại hiệu

quả không chỉ cho riêng một bên nhận quyền nào mà sẽ là cho cả hệ thống. Khi đó,

bên nhận quyền có nghĩa vụ hợp tác với bên nhượng quyền và các bên nhận quyền

khác trong các hoạt động khuyến mãi hoặc quảng cáo cũng như các hoạt động xúc

tiến kinh doanh, chương trình giảm giá, phát tờ rơi và tham gia các hoạt động quảng

cáo khuyến mãi khác mà bên nhượng quyền có thể chỉ thị.

Hai là “đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho

thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền

thương mại”. Đào tạo ban đầu đóng một vai trò chiến lược quan trọng trong sự phát

triển của nhượng quyền. Đào tạo vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cả hai bên trong

hợp đồng nhượng quyền. Đối với bên nhượng quyền có nghĩa vụ trợ giúp, đào tạo

để bên nhận quyền có đủ kiến thức mà tiến hành việc kinh doanh, nhưng đó cũng là

quyền của bên nhượng quyền buộc bên nhận quyền phải tham gia đào tạo để có thể

thực hiện việc kinh doanh theo đúng phương thức kinh doanh của mình, theo đúng

những chuẩn chung do mình đề ra, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống.

Đối với bên nhận quyền có quyền được bên nhượng quyền trợ giúp, đào tạo để đảm

bảo việc kinh doanh thành công, nhưng bên nhận quyền cũng có nghĩa vụ đảm bảo

mình và các nhân viên của mình tham gia đầy đủ các chương trình đào tạo do bên

nhượng quyền đề ra. Bên nhận quyền sẽ không ký hợp đồng nhượng quyền nếu như

họ không thể tự tin rằng mình có thể học được cách thành công trong việc kinh

doanh mới của mình. Một trong những yếu tố giúp cho bên nhận quyền lựa chọn

bên nhượng quyền chính là chất lượng của việc đào tạo và những hỗ trợ mà bên

nhượng quyền sẽ cung cấp cho họ.

Ba là “thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí

của thương nhân nhận quyền”. Để đảm bảo tính thống nhất của các cơ sở kinh

doanh nhượng quyền trong cùng một hệ thống, bên nhượng quyền thường quản lý

rất chặt chẽ việc thiết kế, sắp xếp cũng như trang trí cơ sở kinh doanh. Bên nhượng

42

quyền sẽ cung cấp cho bên nhận quyền các tiêu chuẩn xây dựng, bản vẽ chuyển đổi,

quy cách trình bày bên trong, biển hiệu, nội thất, và các tư vấn liên quan đến việc

xây dựng, làm lại cơ sở hoặc sẽ kiểm tra và phê chuẩn các bản vẽ và việc xây dựng

do bên nhận quyền tự tiến hành để đảm bảo rằng việc xây dựng tuân thủ các tiêu

chuẩn của hệ thống. Bên nhượng quyền cũng sẽ giám sát chung việc xây dựng hoặc

chuyển đổi cơ sở thành một cơ sở kinh doanh nhượng quyền. Ngược lại bên nhận

quyền có nghĩa vụ đảm bảo việc xây dựng lại cơ sở và cơ sở sau khi được thay đổi,

trang bị lại và trang trí lại đáp ứng các điều kiện của bên nhượng quyền.

Bốn là “bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp

đồng nhượng quyền”. Song song với việc ký kết hợp đồng nhượng quyền, bên

nhượng quyền sẽ cấp cho bên nhận quyền quyền sử dụng không độc quyền các đối

tượng sở hữu trí tuệ và hướng dẫn bên nhận quyền sử dụng đúng đắn các đối tượng

này. Để có thể cấp quyền sử dụng cho bên nhận quyền, bên nhượng quyền đảm bảo

mình là chủ sở hữu hoặc người kiểm soát các đối tượng trên và có quyền cấp quyền

cho bên nhận quyền sử dụng. Đồng thời bên nhượng quyền cũng cam kết sẽ không

để cho bên nhận quyền chịu bất kỳ thiệt hại nào trong trường hợp có bất kỳ tranh

chấp nào với bên thứ ba về quyền sở hữu của các đối tượng đó. Luật Thương mại

cũng quy định bên nhượng quyền có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với

các đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền Việc li-xăng quyền sử dụng

nhãn hiệu hàng hóa là không độc quyền và do đó bên nhượng quyền có thể: (i) tự

mình sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, nhượng quyền và cấp li-xăng cho các bên khác

sử dụng; (ii) thành lập, phát triển và nhượng quyền các hệ thống khác với hệ thống

đã lixăng cho bên nhận quyền mà không cần phải cung cấp cho bên nhận quyền bất

kỳ quyền nào theo hệ thống đó và (iii) thay đổi, sửa đổi toàn bộ hoặc một phần bất

kỳ khía cạnh nào của hệ thống miễn là các quyền của bên nhận quyền không bị bất

lợi một cách nghiêm trọng.

Năm là “đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống

nhượng quyền thương mại”. Nghĩa vụ này bao gồm việc lúc nào cũng có sẵn để

cung cấp cho bên nhận quyền các dịch vụ và tiện ích mà bên nhượng quyền cung

cấp cho các bên nhận quyền khác và các cơ sở kinh doanh của riêng bên nhượng

43

quyền. Đối với những nghĩa vụ chính của bên nhượng quyền như đã kể trên, pháp

luật Việt Nam cũng không có khác biệt gì đáng kể so với pháp luật các nước khác.

Xét về nhiều mặt như kinh tế và pháp lý, bên nhận quyền phải chịu nhiều ràng

buộc từ phía bên nhượng quyền ở mọi thời điểm, trong việc ký kết hợp đồng cũng

như trong lúc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những ràng buộc về mặt

nghĩa vụ đó, bên nhận quyền cũng có một số quyền đối với bên nhượng quyền,

những quyền này cũng chính là mối ràng buộc trở lại của bên nhận quyền đối với

bên nhượng quyền. Điều 288 Luật Thương mại 2005 quy định về quyền của bên

nhận quyền như sau:

“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhận quyền có các quyền

sau đây:

1. Yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có

liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại;

2. Yêu cầu thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương nhân

nhận quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại.”

Cụ thể, bên nhận quyền có thể:

Một là “yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ

thuật có liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại”.

Hai là “yêu cầu thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương

nhân nhận quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại”.

Hai quyền cơ bản nói trên của thương nhân nhận quyền có thể được triển

khai khác nhau, phù hợp với quy định cụ thể của từng quốc gia hay tổ chức quốc tế

về nhượng quyền thương mại. Các quy định này chỉ dừng lại ở những quy định

mang tính chất định hướng, không có những quy định vạch ra những giới hạn cụ thể

hay những điều kiện cụ thể để thực hiện những quyền này.

Nhóm nghĩa vụ mà pháp luật của hầu hết các nước trong đó có cả Việt Nam

quy định cho bên nhận quyền thể hiện hầu hết các đặc điểm quan trọng của quan hệ

nhượng quyền thương mại. Điều 290, Luật Thương mại 2005 quy định, nếu không

có thỏa thuận nào khác thì bên nhận quyền có các nghĩa vụ sau đây:

44

Một là “trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng

nhượng quyền thương mại”. Bên nhận quyền sẽ thanh toán cho bên nhượng quyền

các khoản phí. Các khoản phí bao gồm: phí ban đầu (initial fee), phí thường xuyên

(continuing fee) hay là phí định kỳ, tiền bản quyền (royalties), phí dịch vụ và các

khoản đóng góp quảng cáo khác. Pháp luật các nước đều quy định về nghĩa vụ trả

phí của bên nhận quyền cho bên nhượng quyền.

Hai là “đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận

các quyền và bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao”. Trong quan

hệ thương mại, với tính chất rủi ro cao đồng nghĩa với lợi nhuận cao, các bên phải

tự chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, quy định của pháp luật chỉ nên có tính

chất khung và hạn chế rủi ro cho các bên ở mức độ chung nhất. Nghị định số

35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006, tại Điều 9 đã làm rõ về trách nhiệm cung cấp

thông tin của bên dự kiến nhận quyền đối với bên nhượng quyền, theo đó, những

thông tin này chính là cơ sở để bên nhượng quyền quyết định nhượng quyền thương

mại cho bên nhận quyền. Như vậy nghĩa vụ của bên nhận quyền nên là nghĩa vụ

cung cấp thông tin một cách đầy đủ và trung thực. Dựa vào các thông tin đó, bên

nhượng quyền có thể quyết định trao hoặc không trao quyền thương mại cho bên

nhận quyền. Thông thường, việc trao quyền sẽ phụ thuộc vào khả năng tài chính,

nhân sự, cơ sở vật chất của bên nhận quyền.

Ba là “chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng

quyền; tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch

vụ của thương nhân nhượng quyền”. Bên nhận quyền chấp nhận sự kiểm soát

thường xuyên và liên tục từ bên nhượng quyền. Việc này giúp đảm bảo được tính

đồng bộ thống trong hoạt động nhượng quyền đồng thời đảm bảo được việc định

hướng cho việc kinh doanh của bên nhận quyền đi đúng hướng và thành công hơn.

Hơn nữa, do tính chất độc lập về vốn về vốn hoạt động kinh doanh của bên nhận

quyền đã làm cho bên nhận quyền luôn có xu hướng muốn được thực hiện các hoạt

động thương mại một cách độc lập, thoát ly khỏi sự kiểm soát của bên nhượng

quyền. Việc bên nhượng quyền đặt ra các tiêu chuẩn chặt chẽ đối với việc lựa chọn

địa điểm cũng như thiết kế và trang trí cơ sở kinh doanh theo tác giả là cần thiết và

45

đáng được thực hiện. Việc này không những giúp duy trì phát triển tên tuổi, danh

tiếng của bên nhượng quyền mà còn giúp đảm bảo thành công cho việc kinh doanh

của bên nhận quyền.

Bốn là “giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau

khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt”. Nghĩa vụ bảo

mật các thông tin được cung cấp liên quan đến các đối tượng sở hữu trí tuệ theo hợp

đồng nhượng quyền thương mại là cần thiết không những cho bên nhượng quyền

mà còn cho cả bên nhận quyền. Bên nhượng quyền quan tâm đến việc giữ bí mật để

bảo vệ sở hữu trí tuệ của mình trước đối thủ cạnh tranh, còn bên nhận quyền quan

tâm đến việc giữ bí mật này bởi sự thành công của họ phụ thuộc vào sự thành công

của cả hệ thống nhượng quyền.

Năm là “ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh

doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ

thống của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng nhượng quyền

thương mại”. Quy định này nhằm đảm bảo cho bên nhượng quyền luôn bảo vệ

được hệ thống, tránh tình trạng bên nhận quyền, người lao động của bên nhận quyền

sử dụng các kiến thức có được từ bên nhượng quyền để tiến hành việc kinh doanh

riêng, đồng thời cũng tránh tình trạng các bên nhận quyền cạnh tranh với nhau.

Sáu là “điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương

mại”. Nghĩa vụ điều hành việc kinh doanh tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của

sách hướng dẫn hoạt động và luôn tuân thủ đối với mọi khía cạnh của hệ thống như

được sửa đổi vào từng thời điểm và không được bất cứ lúc nào sử dụng thêm các

nhãn hiệu hàng hóa hoặc biểu tượng hoặc làm bất cứ điều gì thêm vào hoặc không

tuân thủ hệ thống mà không có sự chấp thuận trước của bên nhượng quyền. Để phù

hợp với hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền còn có nghĩa vụ tuân thủ các tiêu

chuẩn về vệ sinh, chất lượng, dịch vụ. Bên nhận quyền cam kết rằng việc tuân thủ

như trên là quan trọng nhất đối với sự thành công của hoạt động kinh doanh và bảo

vệ uy tín gắn liền với hệ thống. Nghĩa vụ bao gồm việc đảm bảo chất lượng hàng

hóa, dịch vụ do mình cung cấp tương ứng với chất lượng của hàng hóa và dịch vụ

do bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác trong hệ thống cung cấp.

46

Bảy là “không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp

thuận của bên nhượng quyền.”

Như vậy, việc cụ thể hoá một cách chi tiết các dấu hiệu nhận biết từng nghĩa

vụ không phải đã được thể hiện rõ trong pháp luật về thương mại của Việt Nam.

Trong hoạt động nhượng quyền thương mại tranh chấp có thể phát sinh tại bất cứ

giai đoạn nào của việc thực hiện hợp đồng và chủ yếu xuất phát từ hai nguyên nhân

chính: (i) cách tính phí nhượng quyền và (ii) cách hiểu về việc thực hiện đúng nghĩa

vụ của mỗi bên. Chính vì vậy, việc miêu tả chi tiết nghĩa vụ của mỗi bên trong quan

hệ nhượng quyền và định ra cho những nghĩa vụ ấy những ranh giới phân biệt nhất

định giữa việc hoàn thành và vi phạm chúng là một trong những cách thức giúp cho

các bên tránh được những tranh chấp không đáng có trong khi thực hiện kinh doanh

bằng phương thức nhượng quyền thương mại.

2.5. Xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền

Trong khung pháp luật về nhượng quyền thương mại, phải kể đến: pháp luật

về sở hữu trí tuệ, pháp luật về cạnh tranh, pháp luật thuế, pháp luật về phá sản, pháp

luật hành chính, pháp luật hình sự. Theo kinh nghiệm của các nước, việc xử lý vi

phạm pháp luật về nhượng quyền thương mại nhận được sự quan tâm cao. Theo

Jean-Marie Leloup [12], có hai loại vi phạm dẫn đến việc bóp méo hoạt động

nhượng quyền thương mại.

(i) Loại vi phạm thứ nhất: Các bên không hiểu bản chất của phương pháp hợp

tác giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Vi phạm loại này có thể do lỗi của

cả bên nhượng quyền lẫn bên nhận quyền.

Trong trường hợp lỗi của bên nhượng quyền, bên nhượng quyền gây ảnh

hưởng đến tính độc lập của bên nhận quyền, coi bên nhận quyền như người làm

công ăn lương và áp đặt sự kiểm soát trái với tinh thần của hoạt động nhượng quyền

thương mại (phải là mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp độc lập).Thực chất

hành động đó là sự trốn tránh ký kết hợp đồng lao động, mà thay thế nó bằng “hợp

đồng nhượng quyền thương mại trá hình”. Cái lợi của bên nhượng quyền là không

phải thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng lao động (về tài chính, trách nhiệm xã

hội, bảo hiểm xã hội). Trong trường hợp bên nhận quyền là pháp nhân, nếu bên

47

nhượng quyền tham gia góp vốn vào doanh nghiệp nhận quyền thì bên nhượng

quyền sẽ có vai trò lớn trong quản lý hoạt động của doanh nghiệp nhận quyền

và/hoặc can thiệp vào hoạt động quản lý của doanh nghiệp nhận quyền.

Trong trường hợp lỗi của bên nhận quyền. Một số bên nhận quyền có quan

điểm phiến diện khi cho rằng chỉ cần ký hợp đồng nhượng quyền thương mại là có

thể kinh doanh thành công. Cho đến khi hoạt động kinh doanh không thuận lợi thì

bên nhận quyền lại cho rằng sự việc này là do lỗi của bên nhượng quyền. Thực tế,

không đạt được thành công như mong muốn có thể do nhiều lý do như: bên nhận

quyền không được đào tạo cơ bản, không có khả năng tính toán kinh tế (ngân sách,

vốn của doanh nghiệp), không có khả năng đàm phán các loại hợp đồng mà một chủ

doanh nghiệp (hợp đồng với các nhà cung cấp dịch vụ, với nhân viên); thực hiện bí

quyết một cách hời hợt, không chính xác; không đủ vốn kinh doanh mà không

thông báo cho bên nhượng quyền biết; không cập nhật kịp thời kết quả khai thác

mạng lưới cho bên nhượng quyền (do cách làm việc không thống nhất hoặc do

không muốn phải thông báo về sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của mình;

do gian lận, để giảm số tiền bản quyền phải thanh toán cho bên nhượng quyền; đánh

giá sai về kết quả kế toán). Khi không thể khắc phục các sai sót trên, bên nhận

quyền thường đổ lỗi cho bên nhượng quyền từ chối thanh toán các khoản tiền, đòi

hỏi bên nhượng quyền phải chịu trách nhiệm những khoản lỗ.

(ii) Loại vi phạm thứ hai: Một trong các bên cố tình lợi dụng hoạt động

nhượng quyền thương mại bằng các biện pháp không trung thực.

Trong trường hợp vi phạm do bên nhượng quyền thực hiện. Bên nhượng

quyền thường thực hiện các hành vi như: thu tiền gia nhập mạng lưới của bên nhận

quyền và sau đó biến mất; thiết lập mạng lưới chỉ với một mục đích là tuyển chọn

những người gia nhập mạng lưới, mà không hề đưa ra thị trường bất cứ hàng hoá

hoặc dịch vụ gì; Các nạn nhân của những hành vi nói trên đã thanh toán tiền gia

nhập mạng lưới nhượng quyền thương mại, đã cam kết đầu tư nhưng lại không nhận

được những dịch vụ mà bên kia đã hứa thực hiện. Sự phá sản hoặc sự biến mất của

những kẻ được gọi là bên nhượng quyền đã làm chấm dứt sự chờ đợi và ảo tưởng

của bên nhận quyền.

48

Trong trường hợp vi phạm do bên nhận quyền thực hiện. Bên nhận quyền âm

mưu chiếm đoạt bí quyết của bên nhượng quyền theo kiểu gián điệp thâm nhập vào

mạng lưới nhượng quyền thương mại để nắm bắt bí quyết. Hành vi này thường xuất

hiện ở các doanh nghiệp sản xuất hơn là các doanh nghiệp thương mại. Vì vậy, trường

hợp này thường liên quan nhiều đến kiểu nhượng quyền thương mại sản xuất.

Căn cứ theo quy định tại Điều 292 Luật Thương mại, các loại chế tài áp dụng

đối với vi phạm hợp đồng nhượng quyền thương mại gồm có: Buộc thực hiện đúng

hợp đồng; Phạt vi phạm; Buộc bồi thường thiệt hại; Tạm ngừng thực hiện hợp

đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng; Huỷ bỏ hợp đồng. Các biện pháp khác do các

bên thoả thuận không trái pháp luật.

Tuy nhiên, nếu xem xét quy định tại Điều 24, Nghị định 35/2006/NĐ-CP thì

những vi phạm sau đây mới chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp

luật về xử lý vi phạm hành chính: Kinh doanh nhượng quyền thương mại khi chưa

đủ điều kiện quy định; Nhượng quyền thương mại đối với những hàng hoá, dịch vụ

cấm kinh doanh; Vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hoạt động nhượng

quyền thương mại; Thông tin bản giới thiệu nhượng quyền thương mại có nội dung

không trung thực; Vi phạm về đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại; Vi

phạm quy định về thông báo trong hoạt động nhượng quyền thương mại - Không

nộp thuế theo quy định pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứ trách nhiệm hình sự;

Không chấp hành yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành thanh

tra, kiểm tra

Theo quy định tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì hành vi vi phạm về kinh doanh nhượng quyền

thương mại bị xử phạt hành chính như sau:

“Điều 95. Hành vi vi phạm về kinh doanh nhượng quyền thương mại

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi nhượng quyền

thương mại mà không có hợp đồng theo quy định.

2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi

49

phạm sau đây:

a) Kê khai không trung thực, không chính xác nội dung trong hồ sơ đề nghị đăng ký

hoạt động nhượng quyền thương mại;

b) Ngôn ngữ và những nội dung chủ yếu của hợp đồng nhượng quyền thương mại

không đúng quy định;

c) Cung cấp thông tin không trung thực, không đầy đủ các nội dung bắt buộc trong

bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại;

d) Không cung cấp, cung cấp không đầy đủ, không chính xác các thông tin trong

hoạt động nhượng quyền thương mại theo quy định;

đ) Không thực hiện báo cáo, cung cấp tài liệu hoặc báo cáo không trung thực,

không đầy đủ những vấn đề có liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại

theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi

vi phạm sau đây:

a) Không đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại theo quy định;

b) Kinh doanh nhượng quyền thương mại khi chưa đủ điều kiện theo quy định;

c) Không thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về những thay

đổi trong hoạt động nhượng quyền thương mại theo quy định.

4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi

vi phạm sau đây:

a) Kinh doanh nhượng quyền thương mại - đối với những hàng hóa bị áp dụng biện

pháp khẩn cấp lưu thông có điều kiện hoặc phải có giấy phép nhưng không đảm

bảo điều kiện hoặc không có giấy phép theo quy định;

b) Tiếp tục kinh doanh nhượng quyền thương mại khi đã hết thời hạn hợp đồng

nhượng quyền thương mại.

5. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi kinh doanh

nhượng quyền thương mại hàng cấm, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hóa lưu thông

bị áp dụng biện pháp khẩn cấp cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông.

6. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực

hiện hành vi vi phạm quy định tại Điều này.

50

Những loại vi phạm trên đều là nhưng vi phạm có thể dẫn tới hợp đồng

nhượng quyền thương mại vô hiệu toàn phần hoặc vô hiệu từng phần, hoặc là

nguyên nhân dẫn đến tranh chấp giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền nhưng

lại chỉ xếp chung vào nhóm “bị xử phạt vi phạm hành chính” “tuỳ theo tính chất,

mức độ vi phạm” là chưa đầy đủ.

2.6. Nhà nhượng quyền nước ngoài

Pháp luật Việt Nam không quy định rõ về nhà nhượng quyền nước ngoài. Mặt

khác, khi Bộ Luật dân sự 2015 ra đời gánh vác nghĩa vụ là một “luật mẹ” bao quát

các vấn đề về thương mại, lao động, hôn nhân gia đình. Do đó, hoàn toàn có thể vận

dụng Phần thứ năm (pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước

ngoài), Bộ Luật dân sự 2015 để làm rõ hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu

tố nước ngoài. Dễ nhận biết nhất là để trở thành một hợp đồng nhượng quyền

thương mại có yếu tố nước ngoài thì phải là hợp đồng nhượng quyền thương mại và

phải có yếu tố nước ngoài.

Hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ có yếu tố nước ngoài khi có sự tham

gia của ít nhất một trong là thương nhân nước ngoài (Chủ thể). Căn cứ quy định tại

Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại 2005 thì thương nhân nước ngoài là thương

nhân được thành lập đăng ký kinh doanh theo pháp luật nước ngoài hoặc được pháp

luật nước ngoài công nhận. Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại là

“quyền thương mại”, dĩ nhiên đã là quyền thì thuộc về “tài sản vô hình” – tức là

không thể xác định được nó đang ở vị trí nào. Vì thế, không thể xảy ra trường hợp

hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài xuất phát từ việc đối

tượng của có yếu tố nước ngoài. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam,

một hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài khi xuất hiện một

trong các vấn đề sau: chủ thể của hợp đồng có sự tham gia của thương nhân nước

ngoài; và/hoặc khi sự kiện xác lập, sự kiện thay đổi, sự kiện chấm dứt hợp đồng

diễn ra ở nước ngoài.

Tìm hiểu về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài trước

hết phải xác định chủ thể phải thỏa mãn những điều kiện gì. Điều này không hề đơn

giản, bởi vấn đề này phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật của mỗi nước. Tuy

51

nhiên, cần lưu ý là khác với hợp đồng nói chung, đối với năng lực chủ thể của hợp

đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài thì Nghị định 35/2006/NĐ-

CP đã quy định rõ điều kiện dành cho thương nhân nhượng quyền và thương nhân

nhận quyền dù đó là thương nhân Việt Nam hay thương nhân nước ngoài. Như đã

nói ở phần phân tích trên, chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu

tố nước ngoài cũng cần thỏa mãn các điều kiện giống như chủ thể của hợp đồng

nhượng quyền thương mại nói chung.

Do Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định đối tượng áp dụng là thương nhân

Việt Nam và thương nhân nước ngoài khi tham gia vào hoạt động nhượng quyền.

Vì vậy, rõ ràng các quy định về hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại

nói chung được hiểu là dành cho cả hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố

nước ngoài. Điều này được hiểu là hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố

nước ngoài phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý

tương đương. Thêm vào đó, căn cứ theo Điều 12 Nghị định 35/2006/NĐ-CP thì

“Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập bằng tiếng Việt. Trường hợp

nhượng quyền từ Việt Nam ra nước ngoài, ngôn ngữ của hợp đồng nhượng quyền

thương mại do các bên thoả thuận”. Do đó, về nguyên tắc mọi hợp đồng nhượng

quyền thương mại trong đó bao hàm cả hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu

tố nước ngoài phải được lập bằng văn bản dưới ngôn ngữ là tiếng Việt. Duy chỉ có

trường hợp đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài mà

bên nhượng quyền là thương nhân Việt Nam và bên nhận quyền là thương nhân

nước ngoài thì ngôn ngữ có thể theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên.

Nhượng quyền của nhà nhượng quyền nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt

Nam hiện chủ yếu dừng lại ở mô hình nhượng quyền cấp 1 (nhượng quyền độc quyền),

hay còn gọi là phát triển hệ thống chuỗi. Rất ít thương hiệu quốc tế tại nước ta phát

triển thị trường qua hình thức nhượng quyền cấp 2, khi đối tác cấp 1 tiếp tục nhượng

quyền từng chi nhánh, hoặc từng khu vực cho một đối tác thứ cấp tiếp theo như cách

làm tại các thị trường phát triển. Trong khi đó, đối với các nhà nhượng quyền trong

nước, thách thức không chỉ cạnh tranh quyết liệt với các nhà nhượng quyền nước ngoài

hàng đầu tại thị trường trong nước mà còn đối mặt với không ít khó khăn như thiếu

52

vốn, thiếu trình độ quản lý và kiểm soát, chưa chuẩn hoá được quy trình và thương

hiệu, chưa hoạch định chiến lược và mô hình kinh doanh phù hợp, nên hầu như không

thể thực hiện được mô hình nhượng quyền thương mại toàn diện.

Tiểu kết chương 2

Tóm lại, Chương 2 của bài Luận văn tập trung nghiên cứu phân tích về các

quy định của pháp luật nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm tại Việt Nam hiện nay. Chương 2 phân tích dựa trên hệ thống pháp luật Việt

Nam liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại như: Luật Dân sự 2015;

Luật Thương mại 2005; Nghị định 35/2006/NĐ-CP, Nghị định 120/2011/NĐ-CP…

Cùng với đó là nghiên cứu phân tích các quy định pháp luật về nội dung của

hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm như:

Điều kiện đối với bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Để tham gia vào hoạt động

nhượng quyền này thì cả hai bên nhượng quyền và nhận nhượng quyền đều phải

đáp ứng được các điều kiện nhất định. Nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện hoạt

động nhượng quyền cho thương nhân Việt Nam hoặc nhận nhượng quyền từ thương

nhân Việt Nam thì đều phải tuân thủ các quy định pháp luật của Việt Nam về hoạt

động nhượng quyền; Quy định về bản giới thiệu nhượng quyền thương mại. Khác

với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam không chỉ sử dụng luật riêng về nhượng

quyền thương mại để điều chỉnh mà hệ thống luật này còn đóng vai trò giống một

công cụ để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại. Bản

giới thiệu về nhượng quyền thương mại được coi là công cụ quan trọng trong hệ

thống quy định pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại. Trong điều kiện

phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực nhượng quyền thương mại, Bản giới thiệu nhượng

quyền thương mại nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật để khuyến khích và đảm bảo

an toàn cho hoạt động nhượng quyền thương mại. Quy định về hợp đồng nhượng

quyền thương mại. Hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng giống như các loại

hợp đồng thông thường khác, là sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ nhượng

quyền thương mại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các

bên trong hoạt động nhượng quyền và cũng chính là căn cứ, cơ sở để giải quyết

53

tranh chấp có thể sẽ phát sinh giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hợp

đồng nhượng quyền thương mại phải có chung ý chí thống nhất và phải đạt được sự

54

đồng thuận của các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng.

Chương 3

THỰC TIỄN NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI

TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THỰC PHẨM TẠI VIỆT NAM

VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

3.1. Thực tiễn nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

tại Việt Nam

3.1.1. Quá trình phát triển nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm tại Việt Nam

Lịch sử của hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam bắt nguồn từ

trước năm 1975 thông qua một số hệ thống nhượng quyền các trạm xăng dầu (gas

station) của Mỹ như Mobil, Exxon (Esso), Shell. Cuối những năm 1980, đầu những

năm 1990 khi các công ty nước ngoài đã cho phép công ty trong nước tiêu thụ các

sản phẩm của họ kèm với sự hỗ trợ về kỹ thuật, kinh nghiệm, vốn và thương hiệu.

Có thể kể đến như các thương hiệu: rượu Bordeaux của Pháp, sau đó, vào những

năm 1996, bắt đầu với sự tham gia của các tên tuổi quốc tế, trong ngành chế biến

thức ăn nhanh và nước giải khát như Five Star Chicken, Texas Chicken, Carvel, Baskin

Robbins (Mỹ), Jollibee (Philippines), Burger Khan (Hàn Quốc). Như vậy, có thể thấy

hoạt động nhượng quyền thương mại đã xuất hiện ở Việt Nam từ sớm. Tuy nhiên, hình

thức nhượng quyền lúc này chưa tạo sự chú ý, trước năm 1976 đều là nhượng quyền

phân phối sản phẩm và chỉ bó hẹp trong một số lĩnh vực như thực phẩm.

Cùng với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đã gia nhập APEC và Tổ chức

thương mại thế giới (WTO). Đi cùng hội nhập là nhiều vấn đề kinh tế nảy sinh, đòi

hỏi phải nghiên cứu giải quyết, trong đó nhượng quyền thương mại là một hoạt

động thương mại hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)

tại Việt Nam. Kể từ năm 2006, nhượng quyền thương mại chính thức được luật hoá

và công nhận. Luật Thương mại 2005 đã dành nguyên Mục 8 Chương VI để quy

định về hoạt động nhượng quyền thương mại. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về

55

hoạt động nhượng quyền thương mại, đến ngày 25/5/2006 thì Bộ Thương mại (nay

là Bộ Công thương) ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt

động nhượng quyền thương mại. Nghị định số 35/2006/NĐ-CP cũng được sửa đổi,

bổ sung một số điều bởi Nghị định 120/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi,

bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết

Luật Thương mại và Nghị định 08/2018/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi một

số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý Nhà

nước của Bộ Công Thương. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ bản nhất, tương

đối đầy đủ để điều chỉnh và tạo điều kiện cho nhượng quyền thương mại phát triển

tại Việt Nam.

Theo thống kê, trên thế giới hiện nay có hàng nghìn hệ thống kinh doanh

dưới hình thức nhượng quyền thương mại, trong khi tại Việt Nam có chưa đến 300

hệ thống đang hoạt động. Là một đất nước có nền kinh tế tăng trưởng cao suốt 5

năm năm qua, GDP bình quân 7,5%/năm, không có xung đột về tôn giáo, chính trị;

một thị trường tiềm năng với dân số 84 triệu người, trong đó 70% số dân độ tuổi

dưới 30, đa số thích mua sắm, tiêu dùng.

Theo khảo sát của Tổng cục thống kê gần đây trong lĩnh vực tiêu dùng cho

thấy, có 90% người tiêu dùng quyết định mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thông

qua thương hiệu và theo số liệu của Hội đồng nhượng quyền thương mại thế giới –

WFC, năm 2006 VN được xếp là thị trường bán lẻ đứng thứ ba thế giới với sức mua

khoảng 21 tỷ USD, có trên 70 hệ thống nhượng quyền đang họat động với tốc độ

tăng trưởng mỗi năm khoảng 15 – 20%. Đây là xu hướng và cũng là cơ hội cho

những DNVVN muốn thử sức bằng các hình thức nhượng quyền. Những năm gần

đây, hình thức nhượng quyền thương mại không còn xa lạ và trở thành vấn đề gây

chú ý đối với các DNVVN. Nhìn một cách tổng quan, hoạt động nhượng quyền tại

Việt Nam đã khởi sắc, hứa hẹn một thị trường đầy hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước

ngoài. Bên cạnh các thương hiệu nhượng quyền trong nước nổi tiếng như Cà phê

Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô, Vissan đã xuất hiện các thương hiệu mới như

56

chuỗi cửa hàng G7, Nước mía siêu sạch…

3.1.2. Sự xâm nhập của các nhà nhượng quyền nước ngoài trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm vào thị trường Việt Nam

Ngoài những thương hiệu trong nước, các thương hiệu nổi tiếng ở nước

ngoài cũng tham gia thị trường nhượng quyền tại Việt Nam như KFC, Lotteria,

Jollibee đã chuyển nhượng thành công tại TP.HCM và Hà Nội. Đặc biệt sau hội

nhập, nhượng quyền thương mại đang nóng lên từng ngày, nhiều tập đoàn lớn trên

thế giới như Mc Donald’s, cà phê Starbucks, cửa hàng tiện lợi Seven - Eleven, tập

đoàn bán lẻ hàng đầu của Mỹ – WalMart… xâm nhập thị trường.

Hoạt động nhượng quyền kinh doanh bắt đầu ở Việt Nam vào giữa những

năm 1990 và tăng trưởng rất mạnh trong một vài năm gần đây. Theo thống kê của

Bộ Công Thương, từ năm 2007 đến năm 2019, Việt Nam đã cấp phép cho 235

doanh nghiệp nước ngoài nhượng quyền tại Việt Nam, trong đó có thể kể đến các

thương hiệu lớn như: Lotteria, BBQ Chicken (Hàn Quốc), Pizza Hut, Burger King

(Singapore), McDonalds, Baskin Robbins (Hoa Kỳ), Swensens (Malaysia), Karren

Millen, Coast London (Anh), Bvlgari, Moschino, Rossi (Italia)… Các lĩnh vực nhận

nhượng quyền thương mại từ các thương hiệu nước ngoài nhiều nhất ở Việt Nam là

kinh doanh thực phẩm chiếm 41,31%; cửa hàng bán lẻ hàng hóa tiêu dùng chiếm

15,49%; giáo dục - đào tạo chiếm 11,47%; thời trang chiếm 14,08% [41].

Khởi nguồn của hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam được

đánh dấu trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm với các thương hiệu thức ăn nhanh

nổi tiếng thế giới như KFC, Lotteria, Jollibee. Cho đến ngày nay, sự tăng trưởng

mạnh mẽ của hoạt động này tại Việt Nam cũng được thể hiện rõ nét nhất trong

ngành này. Có thể dễ dàng nhận thấy đa phần các hệ thống nhượng quyền trên thị

trường Việt Nam hiện nay đều thuộc lĩnh vực thực phẩm. Do hoạt động nhượng

quyền thương mại vẫn còn khá mới Việt Nam nên chưa có số liệu thống kê cụ thể

trong từng hoạt động, lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi nghiên cứu đề tài này, tác

giả đã tiến hành thu thập, chọn lọc và tổng hợp các nguồn thông tin khác nhau để có

được số liệu về một số hệ thống nhượng quyền tiêu biểu trong lĩnh vực thực phẩm

57

tại Việt Nam hiện nay (Bảng 2.1).

Bảng 3.1: Các hệ thống nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm tại Việt Nam tại thời điểm 01/01/2020

Thương hiệu Xuất xứ Sản phẩm Số cửa hàng tại Việt Nam Năm bắt đầu nhượng quyền tại Việt Nam

KFC Mỹ Đồ ăn nhanh 1997 140

Lotteria Hàn Quốc Đồ ăn nhanh 1998 210

Jollibee Philipines Đồ ăn nhanh 2005 100

Highlands Coffee Việt Nam Cà phê 2002 300

Pizza Hut Mỹ Đồ ăn nhanh 2007 40

Burger King Singapore Đồ ăn nhanh 2011 20

Mc Donald’s Mỹ Đồ ăn nhanh 2013 23

*Nguồn: Tác giả tự thống kê

Các tập đoàn nước ngoài, đa số thuộc lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, đã và

đang ồ ạt vào nước ta đầu tư, mở rộng kinh doanh qua nhượng quyền thương mại.

Sự kiện Burger King, tập đoàn thức ăn nhanh (fastfood) của Mỹ, khai trương cửa

hàng đầu tiên trên đường Phạm Hồng Thái, Quận 1, TPHCM và mở thêm một số

cửa hàng tại thành phố đã làm nóng cuộc cạnh tranh trên thị trường thực phẩm,

phân khúc thức ăn nhanh.

Các tập đoàn thức ăn nhanh nổi tiếng nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam. Có

thể điểm qua là thương hiệu Lotteria thuộc Tập đoàn Lotteria của Hàn Quốc, KFC,

Pizza Hut thuộc tập đoàn Yum! của Mỹ. Tiếp đó là các tập đoàn như người khổng

lồ McDonald’s của Mỹ, tập đoàn Psta Fresca Da Salvatore kinh doanh thực phẩm

truyền thống Ý. Thêm vào đó, các nhà kinh doanh thực phẩm của Singapore như

Cavana, Koufu đang bắt đầu tìm hiểu thị trường Việt Nam....

Subway, thương hiệu thức ăn nhanh lớn thứ 2 thế giới sau McDonald’s (Mỹ),

đã chính thức tiến vào thị trường Việt Nam (từ tháng 02/2011) theo chân các

thương hiệu lớn như KFC, Lotteria, Jollibee. Thương hiệu này chuyên cung cấp các

sản phẩm bánh mì kẹp thịt, còn hợp tác với PepsiCo về thức uống. Định hướng phát

triển của Subway là mở chuỗi 50 nhà hàng tại Việt Nam đến năm 2015, có thể dưới

58

hình thức nhượng quyền thương mại. Thêm đó, nhãn hiệu kem lớn nhất thế giới

Baskin – Robbins đánh dấu sự gia nhập thị trường Việt Nam với ba cửa hàng đầu

tiên khai trương tại TPHCM, thông qua đối tác độc quyền là Blue Star Food. KFC

(Mỹ) cũng tăng khoảng 100 nhà hàng trong năm 2011 từ 90 nhà hàng hiện có, với

mục tiêu nhân đôi con số năm 2015. Chuỗi cửa hàng này đang chiếm 60% thị phần

thức ăn nhanh tại Việt Nam và có vị trí đẹp ở các đường phố lớn trên khắp các tỉnh

thành trong cả nước. Dù phần lớn nhà hàng hiện có của KFC và Lotteria là tự đầu

tư, nhưng với kế hoạch mở rộng, các thương hiệu này cho biết sẽ bắt đầu thực hiện

nhượng quyền. Thương hiệu Pizza Hut của Yum Brands cũng có mặt tại Việt Nam

năm 2007, bao gồm cả dịch vụ Pizza Hut Delivery chuyên giao bánh tận nơi.

3.1.3. Nhượng quyền thương mại trong nội bộ lãnh thổ Việt Nam và từ Việt Nam

ra thế giới

Trung Nguyên có thể coi là nhà tiên phong tại Việt Nam áp dụng hình thức

nhượng quyền thương mại tại Việt Nam sau khi mở 3 quán cà phê nhượng quyền tại

Singapore. Cho đến nay, doanh nghiệp này không những đã mở rộng chuỗi cửa

hàng của mình trên khắp cả nước mà còn mở rộng sang một số nước như: Nhật,

Thái Lan, Trung Quốc.

Sau Trung Nguyên, Phở 24 cũng là doanh nghiệp biết tận dụng tối đa hình

thức nhượng quyền thương mại và được coi là 1 trong những doanh nghiệp nhượng

quyền thành công nhất tại Việt Nam. Phở 24 mới bắt đầu xuất hiện từ năm 2003,

chưa đầy 03 năm, Phở 24 đã có trên 20 cửa hàng phở nhượng quyền trong khắp cả

nước. Đặc biệt, trong năm 2006, Phở 24 đã tiến hành nhượng quyền sang Phillipine

và Indonesia. Đến tháng 06/2010, Phở 24 đã mở được 57 cửa hàng trong nước: tại

TPHCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Nha Trang, Bình Dương, và 16 cửa hàng

ngoài nước như Jakarta (Indonesia), Manila (Philippines), Seoul (Hàn Quốc),

Phnom Penh (Campuchia), Úc, Hồng Kông. Thời gian tới, Phở 24 dự định mở thêm

cửa hàng ở một số thành phố chính của Việt Nam cũng như nước ngoài, nơi có

đông dân cư người châu Á và đặt mục tiêu đạt tổng số 200 cửa hàng vào năm 2012.

Phở 24 tuy không phải là người đi tiên phong trong hình thức kinh doanh nhượng

quyền thương mại ở lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại nước ta nhưng Phở 24 lại là

mô hình nhượng quyền được coi thành công nhất trong số các doanh nghiệp Việt

59

Nam kinh doanh nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực này.

Cũng trong lĩnh vực thực phẩm, Wrap & Roll, chuỗi nhà hàng cuốn Việt

Nam với xấp xỉ 10 nhà hàng (không theo hình thức nhượng quyền), đang tìm kiếm

đối tác tại Úc để tiến hành nhượng quyền thương hiệu ở quốc gia này. Bên cạnh các

thương hiệu nói trên, có thể kể đến Kinh Đô bakery... Đây cũng là những tín hiệu

đáng mừng cho sự phát triển mới mẻ của hoạt động nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại Việt Nam.

Đối với nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm gần

đây là thương hiệu cà phê Cộng của công ty TNHH Cộng cà phê nhượng quyền

chính thức mở cửa hàng tại Seoul, Hàn Quốc. Cộng cà phê được thành lập vào năm

2007, xuất phát là một quán cà phê nhỏ trên phố Triệu Việt Vương, Hà Nội. Quan

được thiết kế theo phong cách cổ xưa lấy cảm hứng từ Việt Nam thời bao cấp. Sau

hơn 10 năm phát triển, hiện Cộng cà phê đã có hơn 50 cửa hàng trên khắp toàn

quốc. Bước đánh dấu sự thành công mạnh mẽ của hệ thống cà phê Cộng là vào

tháng 7 năm 2018 Cà phê Cộng chính thức được nhượng quyền ra nước ngoài, mở

cửa hàng đầu tiên tại Seoul, Hàn Quốc.

Có thể thấy, thị trường nhượng quyền đối với các tương hiệu nội địa cũng là

một thị trường vô cùng tiềm năng, có những thương hiệu đã thành công nhưng cũng

có không ít các thương hiệu những tưởng sẽ thành công lớn nhưng lại thất bại. Hoạt

động nhượng quyền thương mại đối với dịch vụ ăn uống tại Việt Nam mới bước

đầu phát triển. Đối với các doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong lĩnh vực nhượng

quyền như Trung Nguyên gặp những khó khăn đáng kể khi là đầu tàu, chưa có

nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nhượng quyền, hệ thống pháp luật khi đó lại chưa

đề cập nhiều, chưa được hướng dẫn chi tiết để thực hiện hợp đồng cho hoạt động

nhượng quyền, lại không có những mẫu gương các doanh nghiệp đi trước, đòi hỏi

các doanh nghiệp vừa làm vừa tìm tòi học hỏi. Cho đến nay, có khá nhiều các doanh

nghiệp đã tham gia vào lĩnh vực nhượng quyền thương mại, kinh nghiệm và những

tấm gương đi trước cũng nhiều hơn, hệ thống pháp luật cũng đầy đủ, chi tiết hơn

60

trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh theo đúng quy định pháp luật.

3.1.4. Một số đánh giá về thực tiễn hoạt động nhượng quyền thương mại trong

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm ở Việt Nam

3.1.4.1. Thành tựu của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm ở Việt Nam

Sau gần 15 năm hoạt động nhượng quyền phát triển ở Việt Nam cũng đã có

những thành tựu nhất định, dù chưa thật sự nổi bật và Việt Nam là một đất nước

tiềm năng cho hoạt động nhượng quyền phát triển. Trong đó hoạt động nhượng

quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm đóng vai trò khá lớn so với

các ngành nghề khác. Một số thành tựu mà hoạt động nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm đạt được như:

Thứ nhất, đã xuất hiện ngày càng nhiều hệ thống nhượng quyền, đặc biệt là

các hệ thống này hầu hết đều ở các thành phố lớn như: Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng,

Hải Phòng, Cần Thơ do điều kiện phát triển kinh tế và môi trường xã hội của những

thành phố này. Chỉ trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, hoạt động nhượng quyền

ngày càng trở thành một khái niệm quen thuộc với doanh nghiệp như: Phở 24 (Nam

An Group), KFC, Pizza Hut, Lotteria, cà phê Trung Nguyên, Kinh Đô Bakery,

Gloria Jeans Coffees…Đáng lưu ý là các hệ thống nhượng quyền thương mại phát

triển mạnh mẽ trong những năm gần đây có sự góp mặt rất ấn tượng của các hệ

thống nhượng quyền như Phở 24, Kinh Đô Bakery, ngoài ra còn có những thương

hiệu bên cạnh nước ngoài đã, đang xây dựng và bắt đầu nhượng quyền như Nước

mía siêu sạch, cà phê Passio (Take away). Điều đó rõ ràng thể hiện sự quan tâm của

các thương nhân trong nước đến mô hình kinh doanh này. Một số các hệ thống của

Việt Nam đã “lấn sân” sang thị trường nước ngoài khá thành công như Phở 24 đã

mở ở Malaysia, Philippine, Úc, Hàn Quốc còn Trung Nguyên cũng đã mở ở Mỹ,

Nhật Bản, Úc. Các hệ thống nhượng quyền trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

của thương hiệu nước ngoài thông qua công ty liên doanh hay công ty trong nước

cũng gia tăng, ngoài ra là sự tìm hiểu, chuẩn bị cho hoạt động xâm nhập vào thị

trường cho thấy Việt Nam có rất nhiều ưu điểm và thu hút nhiều mối quan tâm của

61

các hệ thống nhượng quyền nước ngoài.

Thứ hai, các hệ thống nhượng quyền ở Việt Nam đều hoạt động khá thành

công với tỷ lệ cao và đều tiếp tục ký hợp đồng nhượng quyền sau khi kết thúc hợp

đồng. Chẳng hạn hơn 90% các quán cà phê Trung Nguyên đều tiếp tục kinh doanh

nhượng quyền sau khi hết hạn hợp đồng. Doanh thu của hoạt động nhượng quyền từ

đó mà tăng lên rất nhiều so với những năm 1999 - 2000 thời điểm nhượng quyền

thương mại mới xuất hiện tại Việt Nam, đồng thời cũng tạo điều kiện cho nhiều

người lao động có công ăn việc làm, góp phần thúc đẩy an sinh - xã hội,…

Thứ ba, các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến việc nhận quyền từ các

thương hiệu nổi tiếng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm như một phương án lựa

chọn thông mình để kinh doanh hiệu quả dựa trên thương hiệu đã được xây dựng

thành công; một mô hình kinh doanh hiệu quả. Gần đây, tại các cuộc hội thảo, các

triển lãm hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm, có rất nhiều các doanh nghiệp nhỏ và vừa quan tâm đến việc làm thế nào để

được kinh doanh nhượng quyền đối với các thương hiệu nổi tiếng nhượng quyền

trong và ngoài nước. Nhiều chuyên gia kinh tế dự đoán, trong những năm tới sẽ

bùng nổ hoạt động kinh doanh nhượng quyền ở khắp đất nước.

3.1.4.2. Những tồn tại, bất cập của nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm ở Việt Nam

Bên cạnh những thành tựu thì hoạt động nhượng quyền thương mại trong

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại Việt Nam vẫn còn khá nhiều hạn chế như:

Thứ nhất, việc nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực này còn mang tính

tự phát, chưa có sự chuyên nghiệp cao. Doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm

đúng mức đến việc xây dựng mô hình kinh doanh mẫu và còn hạn chế kinh nghiệm

trong việc đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ. Việc tìm hiểu kiến thức về nhượng quyền

thương mại của các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm cũng còn

hạn chế do nhượng quyền thương mại vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam.

Thứ hai, nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại

Việt Nam hiện nay còn chưa thực sự dựa trên cơ sở phân tích đánh giá của các

doanh nghiệp dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp đã xây dựng được hệ thống

62

nhượng quyền thành công nhưng lại không duy trì được tính đồng bộ và chất lượng

của toàn hệ thống. Do đó, đã rơi vào tình trạng khó kiểm soát hoặc nhiều doanh

nghiệp khi mua nhượng quyền thành công nhưng khi triển khai kinh doanh lại vi

phạm những chuẩn mực của hệ thống gây ảnh hưởng đến uy tín của người làm chủ

thương hiệu. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa quan tâm đúng mức việc xây

dựng một thương hiệu mạnh, một mô hình kinh doanh hiệu quả, bảo hộ nó và tiến

hành nhượng quyền thương mại. Duy nhất chỉ có Phở 24 là khá chuyên nghiệp

trong các quy trình trên còn lại là khá mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ ba, tại Việt Nam cũng chưa có sự kết hợp giữa bên nhượng quyền và các

ngân hàng trong việc tạo điều kiện cho việc vay vốn phục vụ cho hoạt động nhượng

quyền được dễ dàng và nhanh chóng. Chưa có sự hỗ trợ của Nhà nước và các doanh

nghiệp trong việc thành lập hiệp hội các doanh nghiệp trong hoạt động nhượng quyền

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm để kết nối, tạo điều kiện cho sự gặp gỡ, giao lưu,

hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp có nhu cầu tham gia hoạt động này.

Thứ tư, về vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định tại Điều 16

Nghị định 35/2006/NĐ-CP về đơn phương chấm dứt hợp đồng chưa được thật hợp

lý. Theo quy định tại Khoản 1, bên nhận quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp

đồng nhượng quyền thương mại trong trường hợp bên nhượng quyền vi phạm nghĩa

vụ được quy định tại Điều 287, Luật Thương Mại năm 2005. Như vậy, dù bên

nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ ở mức độ nặng hay nhẹ, vi phạm đó là cơ bản hay

không cơ bản thì bên nhận quyền đều có quyền chấm dứt hợp đồng. Quy định này

không chỉ không hợp lý mà còn trái với quy định của Luật Thương mại năm 2005

về các chế tài thương mại. Bên cạnh đó, cũng trong Khoản 2 Điều 16 của Nghị định

35/2006/NĐ-CP, trong 4 trường hợp bên nhượng quyền được quyền đơn phương

chấm dứt hợp đồng, không thấy trường hợp bên nhận quyền vi phạm các nghĩa vụ

trong hợp đồng như được quy định trong Điều 289 Luật Thương mại năm 2005.

Thứ năm, nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm

đòi hỏi quy mô kinh doanh nhằm hoạt động hiệu quả hoặc theo yêu cầu của bên

nhận quyền; còn đối với những hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ, ví dụ thức ăn

nhanh chẳng hạn, thì không nên yêu cầu như vậy. Chủ thể nhượng quyền hoàn toàn

63

có thể là cá nhân, hoặc thương nhân không đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp

nếu như được bên nhượng quyền chấp nhận và đảm bảo các yêu cầu của về hoạt

động kinh doanh của hệ thống nhượng quyền. Như vậy, từ phân tích ở trên, pháp

luật nên trao cho bên nhượng quyền sự tự do trong quá trình lựa chọn đối tượng để

mở rộng hệ thống nhượng quyền của mình. Điều này đồng nghĩa với việc mở rộng

sự tiếp cận thương mại với các đối tượng mong muốn nhận quyền.

3.2. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm ở Việt Nam cũng như hoàn thiện quy

định pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này

3.2.1. Khuyến nghị đối với các nhà nhượng quyền

Các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực thực phẩm cần chú trọng đến

việc thiết lập tính chuẩn mực và đồng bộ cho mô hình kinh doanh từ việc chọn lựa

mặt bằng, thiết kế bố trí cửa hàng đến việc đào tạo nhân viên, chế biến món ăn thức

uống, phục vụ khách hàng, quảng cáo khuyến mại; từ các logo, biển quảng cáo đến

đồng phục nhân viên, các vật dụng trong nhà hàng, các tài liệu, ấn phẩm phát

hành… ngay từ những bước đi đầu tiên trước khi bắt đầu nhượng quyền. Để thiết

lập được những tiêu chuẩn đồng bộ cho hệ thống, các doanh nghiệp nên tìm đến các

chuyên gia tư vấn, trợ giúp trong công ty tư vấn nhượng quyền có uy tín cả trong và

ngoài nước. Những chuyên gia này sẽ tư vấn cho các doanh nghiệp về việc làm thế

nào để xây dựng hợp đồng nhượng quyền vững mạnh, cách lựa chọn đối tác để bán

nhượng quyền, các biện pháp giám sát chặt chẽ và duy trì tính đồng bộ của hệ

thống. Đối với những doanh nghiệp đã và đang thực hiện hoạt động nhượng quyền

thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm cần rà soát, đánh giá lại tính

chuẩn mực, đồng bộ của hệ thống. Nếu tính đồng bộ chưa được bảo đảm các doanh

nghiệp cũng nên mời các chuyên gia hoặc các công ty tư vấn về nhượng quyền

thương mại để nhằm giúp đỡ trong vấn đề tái thiết lập lại hệ thống. Trong giai đoạn

phát triển nhượng quyền như bây giờ, rất nhiều công ty Việt Nam thực hiện cung

cấp dịch vụ này. Thêm vào đó là nhiều công ty tư vấn của nước ngoài đã và đang

“lấn sân” sang Việt Nam để mở chi nhánh. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh

nhượng quyền thương mại tại Việt Nam sẽ có nhiều lựa chọn khác nhau để tìm một

64

công ty tư vấn phù hợp với mục tiêu và khả năng tài chính của doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có chiến lược, tầm nhìn dài hạn khi

đăng ký bảo hộ thương hiệu và tài sản trí tuệ. Trên thực tế, việc triển khai đăng ký

thương hiệu, đặc biệt là đăng ký thương hiệu ở thị trường nước ngoài, nơi có sự

khác biệt về ngôn ngữ, chính sách, pháp luật, không hề dễ dàng đối với các chủ

doanh nghiệp Việt Nam, nhất là chủ doanh nghiệp thường là những người có

chuyên môn quản lý, điều hành, chứ không chuyên sâu vào lĩnh vực sở hữu trí tuệ

và sở hữu công nghiệp. Chính vì vậy, các chủ thương hiệu nên thông qua các công

ty tư vấn pháp lý để được hướng dẫn đăng ký cho hợp pháp cả về hình thức và nội

dung. Công ty tư vấn pháp lý sẽ giúp chủ thương hiệu tất cả các công đoạn, từ

chuẩn bị, hoàn tất, trình nộp hồ sơ và tài liệu liên quan đến việc đăng ký bảo hộ đến

việc tư vấn xử lý các vấn đề phát sinh trong suốt quá trình đăng ký bảo hộ.

Ngoài ra, các chủ thương hiệu Việt Nam cũng cần nhận thức toàn diện và sâu

sắc hơn về khái niệm tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ không chỉ bó buộc ở kiểu dáng

công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, giải pháp hữu ích, chỉ dẫn địa lý. Chẳng

hạn, trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam cần

chú trọng hơn đến việc xây dựng và đăng ký “tên miền” (domain name), một dạng

mới của tài sản trí tuệ và cũng là một công cụ quảng cáo hữu hiệu ngày nay. Những

doanh nghiệp nào có ý định kinh doanh nhượng quyền mà chưa xây dựng và đăng

ký tên miền thì nên xúc tiến ngay nếu không muốn xảy ra nguy cơ bị các tổ chức, cá

nhân khác giành trước quyền sở hữu các tên miền phù hợp, sau này khi doanh nghiệp

có nhu cầu sử dụng sẽ phải mua lại, chi phí mua lại tốn kém hơn rất nhiều so với chi

phí bỏ ra đăng ký. Bên cạnh đó, khi đăng ký tên miền các doanh nghiệp Việt Nam nên

đăng ký luôn các tên phụ gần giống với tên miền chính để tránh bị các công ty khác lợi

dụng tên miền gần giống quảng cáo cho những sản phẩm, dịch vụ “nhái”.

Đặc thù của các doanh nghiệp Việt Nam là quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính

chưa mạnh, chính vì vậy cần phải chọn cho mình những hình thức marketing nào vừa

hiệu quả, vừa tiết kiệm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham khảo một số phương

thức marketing sau: Quảng cáo qua mạng (đây là phương thức rẻ nhất và tương đối hiệu

quả hiện nay). Các doanh nghiệp có thể tham khảo một số website chuyên mua hoặc bán

65

franchise nổi tiếng trên thế giới như: www.franchise.org, www.franchiseworks.com,

www.franchiseopportunities.com,...); Ghi danh vào sổ niên giám nhượng quyền; Gia

nhập các hiệp hội, tổ chức nhượng quyền thương mại quốc tế (Hội đồng Nhượng

quyền thương mại thế giới (World Franchise Council), Hiệp hội Nhượng quyền

thương mại quốc tế (International Franchise Association)…; Tham gia hội chợ,

triển lãm quốc tế về nhượng quyền thương mại; Quảng cáo trên các phương tiện

truyền thông; Thuê công ty tư vấn,…

3.2.2. Khuyến nghị đối với các nhà nhận quyền

Các nhà nhận quyền cần tận dụng cơ hội mua nhượng quyền trong lĩnh vực

thực phẩm từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhiều doanh nghiệp kinh

doanh nhượng quyền trong lĩnh vực thực phẩm ở trong và ngoài nước đang muốn

tìm kiếm đối tác nhận quyền tại Việt Nam. Đây là cơ hội tốt và các doanh nghiệp

trong nước nên tận dụng cơ hội này để mua nhượng quyền của các thương hiệu

mạnh, học hỏi kinh nghiệm, bí quyết thành công từ những mô hình kinh doanh

chuẩn. Ngoài ra, các doanh nghiệp hoặc thương nhân Việt Nam đang có nhu cầu

mua nhượng quyền trong lĩnh vực thực phẩm nếu có điều kiện nên tham gia các hội

chợ triển lãm quốc tế về nhượng quyền thương mại, tại đó các doanh nghiệp sẽ có

cơ hội gặp gỡ và trao đổi với nhiều chủ thương hiệu.

Thực phẩm là một ngành kinh doanh nhạy cảm, nên các doanh nghiệp nhận

quyền Việt Nam phải xem xét, tìm hiểu kỹ xem sản phẩm định mua nhượng quyền

có phù hợp với văn hoá, khẩu vị, sở thích của thị trường địa phương hay không,

nhất là hiện nay phần lớn các thương hiệu đang tìm đến Việt Nam để bán nhượng

quyền trong lĩnh vực thực phẩm đều có nguồn gốc từ các quốc gia phương Tây

trong khi văn hoá ẩm thực Việt Nam lại đậm nét Á Đông. Nếu cần, trước khi ký hợp

đồng, các doanh nghiệp có thể đàm phán với chủ thương hiệu để thay đổi, bổ sung một

số yếu tố cho phù hợp với điều kiện của địa phương. Sau khi hợp đồng đã được ký kết

mọi cái gần như không thể thay đổi được nên các doanh nghiệp phải tìm hiểu thật kỹ

trước khi đặt bút ký. Nếu có điều kiện các doanh nghiệp nên thông qua một văn phòng

luật sư để được giúp đỡ trong việc đàm phán và ký kết hợp đồng.

Các chủ nhà hàng nhượng quyền tại Việt Nam cần nâng cao ý thức chấp

66

hành tính chuẩn mực của hệ thống. Mọi quy định về tính đồng bộ được ghi trong

hợp đồng nhượng quyền và cẩm nang hoạt động của hệ thống phải được tuyệt đối

tuân thủ. Bên cạnh đó, chủ nhà hàng nhượng quyền nên tích cực hợp tác với chủ

thương hiệu trong hoạt động đào tạo nhân viên và quảng cáo tiếp thị cho hệ thống

nhượng quyền. Ngoài việc tự nâng cao nhận thức, các chủ nhà hàng nhượng quyền

nên trang bị cho mình kiến thức cơ bản về quản trị kinh doanh để có thể điều hành

nhân viên làm đúng theo các tiêu chuẩn đồng bộ của hệ thống. Trong trường hợp

chủ thương hiệu còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản trị thì nên thuê một

người quản lý có đủ chuyên môn, năng lực giúp điều hành cửa hàng.

3.2.3. Khuyến nghị đối với Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật

về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực thực phẩm

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam cần sớm quy định rõ mức thuế, cách tính thuế

đối với phí nhượng quyền và các khoản thu khác liên quan đến nhượng quyền cũng

như các quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại.

Liên quan đến pháp luật kinh doanh thực phẩm, cần có những quy định chặt chẽ và

cụ thể hơn về điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các cơ sở kinh doanh, đặc

biệt cần quy định hình phạt nghiêm khắc hơn đối với các cơ sở vi phạm. Ngoài ra,

pháp luật nước ta cần có những điều chỉnh hợp lý về việc đăng ký kinh doanh trong

lĩnh vực thực phẩm và cần quy định rõ ràng cơ sở có quy mô như thế nào, có những

điều kiện gì thì buộc phải có giấy phép kinh doanh mới được hoạt động.

Thứ hai, đối với khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại hệ thống pháp

luật nước ta hiện nay chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể nào. Việc đưa ra định nghĩa

hợp đồng nhượng quyền thương mại tạo cơ sở pháp lý phân biệt hợp đồng này với

các loại hợp đồng thương mại khác, đồng thời qua đó, làm rõ định nghĩa về các loại

hợp đồng nhượng quyền thương mại cụ thể. Định nghĩa hợp đồng nhượng quyền

thương mại cần đảm bảo sự phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự về hợp

đồng và chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của hoạt động nhượng quyền thương

mại. Bên cạnh đó, dù chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng nhượng quyền

thương mại nhưng trong các quy định pháp luật có đưa ra phân loại các loại hợp

đồng nhượng quyền thương mại trong Khoản 8 và Khoản 10 Điều 3 Nghị định

67

35/2006/NĐ-CP: Hợp đồng phát triển quyền thương mại và Hợp đồng nhượng

quyền thương mại thứ cấp. Các loại hợp đồng này được giải thích thông qua khái

niệm về quyền thương mại và hợp đồng nhượng quyền thương mại. Sự phân loại

một cách gián tiếp và nội dung của các loại hợp đồng này không được làm rõ,

không chỉ rõ được quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền thứ cấp cũng như bên

nhượng quyền thứ cấp. Do đó, khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng

như phân loại về hợp đồng nhượng quyền thương mại cần được làm rõ theo hướng:

Đưa ra định nghĩa “Hợp đồng nhượng quyền thương mại” trên cơ sở các quy định

của pháp luật về hợp đồng và những đặc trưng cơ bản của hoạt động nhượng quyền

thương mại đã được chỉ ra; từ định nghĩa “Hợp đồng nhượng quyền thương mại”,

có thể đưa ra sự phân loại một cách trực tiếp hay gián tiếp hợp đồng nhượng quyền

thương mại.

Thứ ba, về đối tượng của hợp đồng là “Quyền thương mại”: Quyền thương

mại là một trong những khái niệm cơ bản được quy định trong hệ thống pháp luật.

Trong Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP có đưa ra khái niệm về Quyền thương mại

tuy nhiên khái niệm này được đưa ra nhưng vẫn chưa nêu bật được những đặc trưng

của “Quyền thương mại”. Theo khái niệm “quyền thương mại” (franchise) của Hiệp

ước Cộng đồng chung Châu Âu thì: “Quyền thương mại là một gói các quyền sở

hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ có liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, tên

thương mại, dấu hiệu cửa hàng, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế, bản quyền, bí

quyết kinh doanh hoặc bằng sáng chế, được khai thác nhằm phân phối hàng hóa

hoặc cung ứng dịch vụ tới người tiêu dùng”. Như vậy, khi quy định về “quyền

thương mại” cần có sự học hỏi từ định nghĩa của các quy định quốc tế từ đó nêu bật

được đặc trưng cơ bản của quyền thương mại. Thêm vào đó, cần nêu ra các yếu tố

cụ thể có trong quyền thương mại như “các quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở

hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, thiết kế, bản quyền,

bí quyết kinh doanh, sáng chế, kiếu dáng công nghiệp”. Đặc biệt đối với lĩnh vực

kinh doanh thực phẩm, nhượng quyền thương mại không chỉ là việc chuyển giao về

tên thương mại, công thức chế biến, cách bài trí cửa hàng mà còn ảnh hưởng tới

nhiều đối tượng khác như chất lượng, hương vị nhà hàng, thái độ phục vụ của nhân

68

viên, vấn đề quản lý. Nên việc đưa ra định nghĩa về “quyền thương mại” không

những đưa ra được những đặc trưng cơ bản, yếu tố chính, những vấn đề có thể gây

khó khăn cho các bên tham gia trong hoạt động nhượng quyền thương mại trong

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm mà còn để xác định rõ đối tượng của Hợp đồng

nhượng quyền thương mại.

Thứ tư, pháp luật của Việt Nam hiện nay về nhượng quyền thương mại

không quy định cụ thể về thời hạn tối thiểu đối với hợp đồng nhượng quyền thương

mại. Căn cứ theo Điều 13 Nghị định 35/2006/NĐ-CP thì thời hạn hợp đồng nhượng

quyền thương mại do các bên tự thỏa thuận. Nhưng trên thực tế thì vấn đề này rất

khó thỏa thuận bởi bên nhận quyền luôn muốn kéo dài thời hạn hợp đồng để thu hồi

vốn trong khi bên nhượng quyền lại muốn hợp đồng nhượng quyền có thời hạn

ngắn hơn để thêm các điều khoản trong trường hợp bên nhận quyền vẫn tiếp tục

muốn nhận quyền thương mại. Đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại trong

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, việc đưa ra khung thời gian tối thiểu của hợp đồng

nhượng quyền thương mại lại càng quan trọng do đặc điểm của ngành kinh doanh

thực phẩm cần một khoảng thời gian nhất định để thâm nhập và bước chân vào thị

trường. Hơn nữa tùy thuộc vào từng nhãn hiệu kinh doanh thực phẩm lại có thời

gian để nghiên cứu và xoay vòng vốn khác nhau. Do đó, việc đề ra khung thời gian

tối thiểu cho hợp đồng nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm, chia ra thành từng loại ngành, từng mức độ nhãn hiệu, từng khung thời gian

riêng sẽ đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia nhượng quyền trong hoạt động

nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm. Hiện nay, thông lệ

quốc tế cũng thường đặt ra một khung thời gian tối thiểu cho việc thực hiện hợp

đồng nhượng quyền thương mại. Vì thế, pháp luật nước ta cũng nên đặt ra một

khung thời gian tối thiểu đối với thời hạn của Hợp đồng nhượng quyền thương mại

để đảm bảo quyền lợi các bên trong quan hệ hợp đồng và phù hợp với thực tế, thông

lệ quốc tế.

Thứ năm, về vấn đề giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhượng quyền

thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại là một hợp đồng khá đặc trưng,

phức tạp và rất có khả năng xảy ra tranh chấp. Điều này càng thể hiện rõ hơn trong

69

trường hợp nếu như có một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng thì việc tranh chấp

trong vấn đề bồi thường, hoàn trả tài sản là rất phức tạp. Chính vì phức tạp nên việc

thoả thuận trong hợp đồng hay các quy định của pháp luật về vấn đề này chính là

căn cứ pháp lý gần nhất để giải quyết các tranh chấp phát sinh (nếu có). Tuy nhiên,

pháp luật Việt Nam lại chưa có các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này - đây

được cho là một thiếu sót khá lớn. Hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về hoạt

động nhượng quyền thương mại cần bổ sung các điều khoản về vấn đề giải quyết

tranh chấp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Điều này nhằm mục tiêu nếu

như có xảy ra tranh chấp thì sẽ được xử lý nhanh chóng hiệu quả và bảo vệ quyền

lợi chính đáng của các bên. Đặc biệt với lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, việc sao

chép nói khó mà lại dễ. Các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ các bên, vấn đề phát

sinh trong quá trình nhượng quyền, việc một bên nhận quyền sau khi được đào tạo,

hướng dẫn các quá trình kinh doanh từ bên nhượng quyền sau khi có đủ kinh

nghiệm lại đột ngột bỏ ngang hợp đồng và sử dụng các bí quyết của bên nhượng

quyền để tự mở cửa hàng kinh doanh thì phải giải quyết như thế nào ? Chính vì vậy,

pháp luật Việt Nam cần xây dựng một hành lang pháp lý chắc chắn để giải quyết

các vấn đề tranh chấp phát sinh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại trong

70

lĩnh vực này.

Tiểu kết chương 3

Căn cứ vào những phân tích trong Chương 2 về việc phân tích các quy định

của pháp luật Việt Nam về hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh

doanh thực phẩm, chương 3 đã nêu lên một số thực tiễn hoạt động nhượng quyền

thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại Việt Nam. Các doanh nghiệp

kinh doanh xây dựng thương hiệu nhượng quyền đã có nhiều kinh nghiệm, phát

triển thương hiệu từng bước, chậm mà chắc. Đi từ tái cấu trúc doanh nghiệp mình,

nhượng quyền trong nước rồi tiên tới nhượng quyền ra nước ngoài. Nhượng quyền

thành công ra nước ngoài là mục tiêu của mọi doanh nghiệp không chỉ riêng doanh

nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nhượng quyền.

Cùng với đó, chương 3 cũng đưa ra những khuyến nghị như: khuyến nghị

cho bên nhượng quyền và bên nhận quyền, cùng với khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh

hệ thống pháp luật về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm. Từ việc đưa ra những định hướng, đánh giá phương hướng phát triển của mô

hình kinh doanh nhượng quyền thương mại tại Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh

thực phẩm để thấy tầm quan trọng của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều

71

chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu, luận văn đã giải quyết được các vấn đề cơ bản sau đây: Một

là, khái quát được lược sử hình thành và khái niệm nhượng quyền thương mại trong

lĩnh vực kinh doanh thực phẩm. Hai là, làm rõ các hình thức nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm dựa trên các tiêu chí như: Phạm vi lãnh

thổ, Nội dung của hoạt động kinh doanh, cách thức tiến hành nhượng quyền, phát

triển hoạt động. Ba là, phân tích được các đặc điểm của nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm như: đặc điểm của nhượng quyền thương mại,

sự phát triển của ngành kinh doanh thực phẩm, đặc trưng của nhượng quyền thương

mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm. Bốn là, làm rõ vai trò của hình thức

nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm đối với bên

nhượng quyền và bên đối với bên nhận quyền. Năm là, khái quát được pháp luật

điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm qua việc

phân tích các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam và một

số các quy định pháp luật ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh thực phẩm.

Chương 2 của bài Luận văn tập trung nghiên cứu phân tích về các quy định

của pháp luật nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm tại

Việt Nam hiện nay. phân tích dựa trên hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến

hoạt động nhượng quyền thương mại như: Luật Dân sự 2015; Luật Thương mại

2005; Nghị định 35/2006/NĐ-CP, Nghị định 102/2011/NĐ-CP…Cùng với đó là

nghiên cứu phân tích các quy định pháp luật về nội dung của hoạt động nhượng

quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm như: Điều kiện đối với bên

nhượng quyền và bên nhận quyền; Quy định về bản giới thiệu nhượng quyền

thương mại. Việt Nam không chỉ sử dụng luật riêng về nhượng quyền thương mại

để điều chỉnh mà hệ thống luật này còn đóng vai trò giống một công cụ để thúc đẩy

sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại; Quy định về hợp đồng

nhượng quyền thương mại. Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải có chung ý

chí thống nhất và phải đạt được sự đồng thuận của các chủ thể tham gia ký kết hợp

đồng; Quy định về quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền;

Quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền; Quy định về

72

nhà nhượng quyền nước ngoài.

Tóm lại luận văn đã phân tích, làm rõ bản chất về nhượng quyền thương mại

trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm và khái quát pháp luật Việt Nam, từ việc phân

tích thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực

phẩm tại Việt Nam luận văn đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp

luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm. Hy

vọng rằng với những nghiên cứu trong luận văn, phần nào đóng góp cho sự hoàn thiện

của hệ thống pháp luật, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhượng quyền

thương mại trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm ở Việt Nam ngày càng phát triển.

Mặc dù đã cố gắng nhưng khả năng còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những

73

tiếu sót. Rất mong được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Phạm Tấn Ánh (2017), “Pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt đông

nhượng quyền thương mại tại Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Đại

học Huế

2. Báo Công Thương (2019), “Việt Nam đứng thứ 8/12 thị trường nhượng quyền

hàng đầu thế giới”, 19/09/2019

3. Nguyễn Bá Bình (2008), “Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố

nước ngoài theo pháp luật Việt Nam”, tạp chí Luật học

4. Bộ công thương (2014), Văn bản hợp nhất số 15/VBHN-BCT ngày 25 tháng 4

năm 2014 hợp nhất nghị định hướng dẫn luật thương mại về hoạt động

nhượng quyền thương mại.

5. Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (2004), “Bộ nguyên tắc Unidroit

về hợp đồng thương mại quốc tế”.

6. Chính phủ (1998 - 1999), Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCCNMT ngày

12/07/1999 Hướng dẫn thực hiện nghị định 45/1998/ NĐ-CP ngày 1/7/1998.

7. Chính phủ (1999), Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCCNMT ngày 12/07/1999

Hướng dẫn thực hiện nghị định 45/1998/ NĐ-CP ngày 1/7/1998 về chuyển

giao công nghệ.

8. Chính phủ (2005), Nghị định 11/2005/ NĐ-CP về chuyển giao công nghệ.

9. Chính phủ (2006), Nghị định số 35/2006/NĐ - CP của Chính phủ ban hành

ngày 31/03/2006 quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động nhượng quyền

thương mại.

10. Chính phủ (2011), Nghị định số 120/2011/NĐ-CP để hướng dẫn, sửa đổi một

số vấn đề liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại.

11. Chính phủ (2018), Nghị định 08/2018/NĐ-CP về sửa đổi Nghị định liên quan

đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công

thương.

12. Bùi Ngọc Cường (2007), “Hoàn thiện khung pháp lý về nhượng quyền thương

78

mại”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 103/2007

13. Nguyễn Minh Dũng (2010), “Hoạt động nhượng quyền thương mại của hệ

thống nhà hàng pizza và kinh nghiệm cho các doanh nghiệp kinh doanh đồ ăn

nhanh Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ Đại học Ngoại thương

14. Nguyễn Thị Liên Phương (2018), “Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam”

– Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội

15. Quốc hội (2005), Luật thương mại 2015.

16. Quốc hội (2009), Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009

17. Quốc hội (2010), Luật An toàn thực phẩm 2010.

18. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư, sửa đổi bổ sung năm 2017

19. Quốc hội (2015), Luật dân sự 2015.

20. Quốc hội (2017), Luật chuyển giao công nghệ 2017

21. Quốc hội (2018), Luật cạnh tranh 2018.

22. Tạp chí công thương (ngày 03/08/2016), “Nhượng quyền thương mại trên thế

giới và những gợi mở cho Việt Nam”.

23. Tạp chí phát triển kinh tế (2007) “nhượng quyền thương hiệu đôi điều suy

nghĩ” – Tạp chí phát triển kinh tế số 202 tháng 8/2007.

24. Tạp chí tài chính (2016), “Thực trạng nhượng quyền thương mại tại Việt

Nam” – Tạp chí tài chính ngày 14/08/2016.

25. Tạp chí tài chính (2018), “Sôi động nhượng quyền thương mại” – Tạp chí tài

chính ngày 23/07/2018.

26. Tạp chí tài chính (2018), “Việt Nam mảnh đất màu mỡ cho nhượng quyền

thương hiệu” – Tạp chí tài chính ngày 21/11/2018.

27. Thông tấn xã Việt Nam, “Sẽ bùng nổ thị trường nhượng quyền thương mại”,

07/03/2006

28. Lý Quý Trung (2006), “Franchise - Bí quyết thành công bằng mô hình

nhượng quyền kinh doanh”, Nhà xuất bản trẻ

29. Nguyễn Khánh Trung, “Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam – Giải pháp

nào cho sự phát triển bền vững” Thời báo Kinh tế Sài Gòn.

30. Nguyễn Thanh Tú , “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh

79

tranh”,

31. Nguyễn Thị Vân (2011): “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp

luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Luận văn thạc sỹ Luật học,

Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

32. Vũ Đặng Hải Yến (2008), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật

điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt

Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

33. “Global Trends in Franchise Regulation and the Australian Experience:

Lessons for New Zealand” được trình bày bởi Giáo sư Andrew Terry (ĐH

New South Wales, Sydney, Australia) tại Hội nghị về cải cách pháp luật

nhượng quyền thương mại tại ĐH Aucland (New Zealand)

34. Dave Thomas, Michael Seid (2000). “Franchising For Dummies”. Wiley

Publishing INC, Canada.

35. Sherman Andrew J (1998). “Franchising and Licensing”. American

Management Association, USA, pp 78 – 100.

36. http://doanhnhan.net/cac-loai-hinh-nhuong-quyen-9943.html, Các loại hình

nhượng quyền thương mại (truy cập ngày 9/7/2020)

37. http://saga.vn/Thuonghieu/Nhuongquyenvagiatrithuonghieu/3148.saga,

Nhượng quyền và giá trị thương hiệu (truy cập ngày 8/7/2020).

38. http://vnexpress.net/

39. http://www.franchise.com

40. https://moit.gov.vn/nhuong-quyen-thuong-mai1, Bộ Công Thương, Nhượng

quyền thương mại vào Việt Nam (truy cập ngày 8/7/2020).

41. https://moit.gov.vn/web/guest/nhuong-quyen-thuong-

mai1?_nhuongquyenthuongmai_WAR_ECOITThongKeBCTportlet_INSTAN

CE_89tOi4yHAUFE_tabs1=vaoVietNam (Truy cập: 25/06/2020)

42. https://www.brandsvietnam.com/16957-Tiem-nang-nganh-thuc-pham-va-do-

uong-o-thi-truong-Viet-Nam Tiềm năng ngành thực phẩm và đồ uống ở thị

trường Việt Nam (truy cập ngày 10/02/2020).

43. https://www.mard.gov.vn/Pages/fao-gia-thuc-pham-the-gioi-thang-1-tang.aspx

80

Giá thực phẩm thế giới tháng 1 tăng (truy cập ngày 10/02/2020)

81