BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
_______________________
TRẦN THỊ KIM NGA
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC
HÀ NỘI, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
_______________________
TRẦN THỊ KIM NGA
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA
CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc phổ thông
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI HUYỀN NGA
HÀ NỘI, NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả thực nghiệm nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được ai công
bố trong bất kì công trình nào khác. Nếu có điều gì
trái với lời cam đoan, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận văn
Trần Thị Kim Nga
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin cảm ơn tới các thầy cô giáo, các cán bộ của học viện
âm nhạc Quốc gia và học viện âm nhạc Huế đã giúp đỡ và trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu trong quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Bùi Huyền Nga –
Người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các đồng nghiệp
và sinh viên trường Đại học Đồng Nai đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
Thành công này của tôi, cũng nhờ có sự động viên, khuyến khích tạo
mọi điều kiện của những người thân yêu và bạn bè đã luôn bên tôi để tôi hoàn
thành tốt công việc.
Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong được
sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Tác giả luận văn
Trần Thị Kim Nga
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANDG : Âm nhạc dân gian
CĐ : Cao đẳng
CĐSP : Cao đẳng sư phạm
CNTT : Công nghệ thông tin
ĐH : Đại học
ĐHSP : Đại học sư phạm
GV : Giảng viên
KHXH : Khoa học xã hội
NCKH : Nghiên cứu khoa học
NXB : Nhà xuất bản
PPDH : Phương pháp dạy học
QHBN : Quan họ Bắc Ninh
SV : Sinh viên
TCSP : Trung cấp sư phạm
UBND : Uỷ ban nhân dân
Mục lục
Phần mở đầu 1
Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca ở 6
trường Đại học Đồng Nai
1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam 6
1.2. Việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai 22
* Tiểu kết chương 1 39
Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn 41
dân ca ở trường Đại học Đồng Nai
2.1. Giải pháp về xây dựng nội dung chương trình và giáo trình 41
2.2. Giải pháp về phương pháp dạy môn dân ca 47
2.3. Dạy hát dân ca kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác 53
2.4. Giải pháp thực tập sư phạm 56
2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác 67
* Tiểu kết chương 2 74
Kết luận 75
Tài liệu tham khảo 77
Phụ lục 79
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, vì vậy Việt Nam có một kho tàng
dân ca rất phong phú và đa dạng. Mỗi vùng miền đều có những thể loại dân ca
với những làn điệu mang âm hưởng khác nhau. Những thể loại, những làn
điệu này luôn gắn liền với cuộc sống của người dân lao động xưa. Vì thế, qua
những bài dân ca, người nghe có thể cảm nhận được những tâm tư tình cảm,
những hoạt động lao động của người dân ở mỗi vùng miền.
Dân ca Việt Nam là một kho tàng lớn, để nắm bắt được cái hồn và thể
hiện được nó đòi hỏi cần có một quá trình, và Hát là con đường tiếp cận dễ
nhất. Có thể nói, chỉ cần nắm bắt được cái hồn và tính chất vùng miền, đặc
trưng của bài dân ca thì ai cũng có thể hát được. Nhưng với cuộc sống hiện
nay dân ca đang dần bị lãng quên, thay vào đó là những “làn gió mới” của âm
nhạc nước ngoài như thể loại Rock, Jazz, hay những ca khúc nhạc ngoại lời
Việt. Đây là những thể loại nhạc mà trong thời đại mở cửa này phù hợp với
tâm lý của tuổi trẻ. Bởi vậy, lớp trẻ ngày nay thường say mê các ca khúc nước
ngoài hơn là dân ca. Dân ca được xem là lỗi thời, không hợp mốt và nếu họ có
hát thì các bài dân ca đó được cách điệu với phong cách biểu diễn hiện đại,
sống động, náo nhiệt khác với truyền thống. Dân ca là một di sản văn hóa lớn
mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Vậy, phải làm sao để lớp trẻ yêu môn dân
ca và thông qua môn dân ca để hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Nói cách khác
làm thế nào để giữ gìn, bảo tồn và phát huy dân ca Việt Nam trong đời sống
đương đại. Và, với thực trạng như vậy thì cách làm hiệu quả nhất hiện nay là
đưa dân ca vào giảng dạy trong nhà trường.
Trường Đại học Đồng Nai với bề dày 35 năm truyền thống đã và đang
góp phần vào việc đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trong
toàn tỉnh. Đối với việc đào tạo hệ sư phạm, mục tiêu đưa ra là cung cấp một
2
đội ngũ giáo viên tương lai có đầy đủ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp về các
cơ sở giáo dục từ mầm non, tiểu học cho đến trung học cơ sở. Đây là công
việc rất khó khăn cho những người làm công tác giáo dục tại trường. Đặc biệt
là chuyên nghành Hát của các em sinh viên sư phạm âm nhạc cần phải được
quan tâm. Là giảng viên giảng dạy âm nhạc của trường, chúng tôi hiểu rất rõ
được những điều kiện cần và đủ của các sinh viên, hiểu được tầm quan trọng
của việc giáo dục âm nhạc nói chung và giảng dạy hát nói riêng. Đặc biệt vốn
kiến thức, kỹ năng thực hành và thể hiện bài hát dân ca của các em sinh viên
còn rất hạn chế, chính vì thế mà rất cần thiết cung cấp cho các em những kiến
thức cơ bản, những vốn hiểu biết về dân ca các vùng miền, cần thực hiện
được kỹ năng, kỹ xảo hát dân ca; tính chất, tâm hồn của những bài dân ca,…
Qua đó các em có thể tìm hiều về văn hóa, phong tục của các địa phương khác
nhau.
Môn dân ca cũng được đưa vào giảng dạy cho hệ cao đẳng của trường
Đại học Đồng Nai. Tuy nhiên, chương trình cũng như phương pháp giảng dạy
còn nhiều điều bất cập và hạn chế nên chưa đáp ứng được mục tiêu đào mà
môn học hướng tới.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giảng dạy
môn dân ca cho hệ Cao đẳng tại trường Đại học Đồng Nai” làm đối tượng
nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Phương pháp và lý luận dạy
học phổ thông cho mình.
2. Lịch sử đề tài:
Các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục dân ca và âm nhạc dân
gian nói chung cho trường học hay tầm quan trọng, sức sống của âm nhạc dân
gian trong lịch sử … đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu:
Trong cuốn “Sức sống của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam” của PGS
Tô Vũ xuất bản năm 1996, tác giả có đề cấp đến vấn đề “Xây dựng khoa
3
thanh nhạc cổ truyền” trong hệ thống đào tạo chuyên nghiệp và đặc biệt nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy
cũng như đội ngũ giáo viên.
Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền có bài viết “Giáo dục cổ
nhạc Việt Nam – những bài học thực tiễn từ giảng đường” (hội khảo khoa
học – viện Âm nhạc – năm 2003) đã nêu lên sự “thờ ơ” đối với âm nhạc cổ
truyền của công chúng và đặc biệt là giới trẻ. Bài viết nêu rõ vai trò của giáo
dục – đào tạo trong việc truyền bá vốn âm nhạc truyền thống cho các em, nhất
là tầng lớp thanh niên, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Tháng 3 năm 2010, tại Hà Nội Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức hội thảo
Tăng cường năng lực cho giảng viên các trường, khoa sư phạm đào tạo giáo
viên thể dục, âm nhạc, mỹ thuật cho tất cả các trường cao đẳng sư phạm và
đại học sư phạm. Hội thảo đã đưa ra rất nhiều ý kiến, quan điểm về nhu cầu
cần thay đổi chương trình, phương pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tế
giáo dục hiện nay.
Năm 2010, tác giả Lại Thị Phương Thảo đã hoàn thành luận văn cao
học văn hóa với tiêu đề: Âm nhạc dân gian trong công tác đào tạo tại trường
Đại học sư phạm Nghệ thuật trung ương nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan
và chi tiết về diện mạo của việc đưa âm nhạc dân gian vào công tác giảng dạy,
đào tạo sinh viên hệ Đại học sư phạm Nghệ thuật trung ương nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả… Bên cạnh đó, đề tài còn hướng đến giữ gìn, phát triển các
giá trị âm nhạc dân gian cổ truyền thông qua việc đào tạo các lớp sinh viên là
những thầy cô giáo dạy nhạc tương lai [20, tr7]. Và, nhiều luận văn khác có
đề cập đến việc đưa dân ca địa phương vào chương trình môn hát nhạc ở các
trường phổ thông trên địa bàn đất nước.
4
Những công trình nghiên cứu, những bài viết trên có sự liên quan gián
tiếp đến đề tài của chúng tôi. Đây sẽ là những gợi ý, tài liệu để chúng tôi có
thể tham khảo hướng phát triển luận văn của mình.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập đến việc
nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ cao đẳng tại trường Đại
học Đồng Nai.
Song, các tập dân ca do tác giả Trần Viết Bính sưu tầm, ghi âm gồm:
“51 bài dân ca Mạ, Chau Ro, S`Tiêng ở Đồng Nai”, hay, “Dân ca Chau Ro ở
Bà Rịa – Vũng Tàu” gồm 32 bài dân ca của tác giả Trần Viết Bính – Võ Lê
khảo cứu và sưu tầm… đã khẳng định được giá trị to lớn của âm nhạc dân
gian và dân ca của các tộc người bản địa tại khu vực Đồng Nai sẽ là tư liệu
quí giá để chúng tôi có thể tham khảo và đưa vào sử dụng trong luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phân tích thực tế về nội dung chương trình, phương
pháp giảng dạy, đối tượng học,… kết hợp với những kiến thức đã được học,
tôi hy vọng sẽ đưa ra được những giải pháp cụ thể góp phần vào việc nâng
cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ cao đẳng trường Đại Học Đồng
Nai trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng:
+ Thực trạng giảng dạy môn dân ca trong trường Đại học Đồng Nai,
những mặt được và chưa được cùng những nguyên nhân.
+ Vai trò của dân ca trong cuộc sống đương đại và việc truyền dạy môn
dân ca trong hệ thống các trường cao đẳng ở nước ta hiện nay.
+ Yếu tố vùng miền trong việc giảng dạy môn dân ca cho hệ Cao đẳng
sư phạm âm nhạc tại trường Đại học Đồng Nai.
- Phạm vi: Việc truyền dạy dân ca ở trường Đại học Đồng Nai.
5
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát, thâm nhập thực tế.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
Ngoài ra, ở một mức độ nhất định có sử dụng phương pháp thống kê, so
sánh đối chiếu và kế thừa những tư liệu của các tác giả đi trước.
6. Đóng góp của đề tài:
- Đề tài là công trình nghiên cứu về những vấn đề giảng dạy môn dân
ca hệ Cao đẳng trường Đại học Đồng Nai.
- Đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả vào chất lượng đào tạo, góp phần giữ gìn những giá trị văn hóa cổ truyền.
7. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm có hai chương.
- Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca
ở trường Đại học Đồng Nai.
- Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai.
6
Chương 1
VÀI NÉT VỀ DÂN CA VIỆT NAM VÀ VIỆC GIẢNG DẠY MÔN
DÂN CA Ở ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam
1.1.1. Giới thiệu một số thể loại dân ca Việt Nam tiêu biểu
Trong kho tàng âm nhạc dân gian của nước ta, dân ca được xem như
một tài sản vô giá và lâu đời nhất. Dân ca nói lên được tập tục sinh hoạt,
phong cách, đặc điểm riêng của từng dân tộc bằng những câu ca hết sức mộc
mạc, giản dị nhưng lại hết sức mượt mà phong phú.
Dân ca là sản phẩm của người dân lao động, là tiếng nói tình cảm, sản
phẩm tinh thần, nguồn nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam từ thế hệ này
đến thế hệ khác và có sức sống mãnh liệt.
Dân ca gắn liền với con người từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời.
Khi vừa chào đời chúng ta được nghe những bài hát ru ngọt ngào từ những
người mẹ (hát ru, ru con,…), lớn hơn một chút thì ta được hát cùng bạn bè
những bài đồng dao, đến tuổi cập kê thì hát tặng nhau những bài hát giao
duyên, khi nhắm mắt xuôi tay thì có những bài hát đưa tiễn. Khi lao động thì
có những bài hát lao động (hò giã gạo, hò đua thuyền, hò kéo gỗ,…). Đến các
dịp lễ cũng có các bài hát lễ nghi phong tục (như trong hát Xoan có: Hát chúc,
giáo trống, giáo pháo,… và bài hát Dậm như: Dâng hương, hoa sắc,…).
Ở miền Bắc âm nhạc dân ca giàu chất trữ tình, lãng mạn; miền Trung
thì dịu dàng kín đáo, mang nhiều tự sự; miền Nam dí dỏm, tình cảm đậm đà
tình làng nghĩa xóm bởi những điệu lý câu hò; còn dân ca của các dân tộc ít
người ở Tây Nguyên, Tây Bắc,… do ảnh hưởng của thiên nhiên nên âm nhạc
mộc mạc, chân chất và đầy huyền bí,…
Hát dân ca là tìm đến cội nguồn dân tộc để hiểu rõ hơn về đời sống
phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa của ông cha ta.
7
Ngày nay các giá trị cao đẹp của kho tàng dân ca, là nguồn sáng tạo để
các nhạc sĩ nghiên cứu sử dụng vào các ca khúc góp phần xây dựng nền âm
nhạc hiện thực xã hội chủ nghĩa dân tộc và hiện đại.
- Hát ru:
Là thể loại dùng để ru trẻ ngủ. Lần đầu tiên cảm nhận được hơi ấm là
được nghe tiếng ru của người mẹ. Hát ru là tiếng lòng người mẹ, là hạt nhân
cơ bản của gia đình. Người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn không phải chỉ bằng
dòng sữa ngọt ngào mà còn bằng những sáng tạo của mình đó là tiếng hát ru.
Bài hát ru đặt nền móng cho cuộc sống sinh vật và tâm hồn. Lời ru là bản sắc
văn hóa dân tộc.
“Âm điệu của hát ru khá phong phú. Hát ru của mỗi dân tộc lại có
những âm điệu ru mang âm hưởng khác nhau. Những bài hát ru ở Miền Bắc
thường có nội dung ngụ ngôn. Hình ảnh những con vật thân thuộc gần với
cuộc sống của người nông dân như hình ảnh con cò, con vạc, con tôm, con
kiến, con mèo,… được đưa vào bài hát để dỗ trẻ con ngủ. Lời của các bài hát
ru này thường ở các loại thơ bốn chữ, lục bát, lục bát biến thể, song thất lục
bát, bảy chữ, tám chữ,… Những bài hát ru miền Trung là những bài hát kết
hợp giữa hát nói và hát ngâm, sử dụng nhiều loại thơ dân gian và thơ tự do.
Những bài hát ru này là tiếng nói tâm tình của các bà mẹ, các chị, các bà nên
nội dung mang tính chất tâm tình, trữ tình, đôi khi mang nội dung giáo dục
nhân cách, lịch sử, ca ngợi quê hương đất nước, thời sự. Đó là những bài hát
với nội dung nhắn gửi tâm sự của người phụ nữ, của người vợ với người
chồng, của mẹ với con,… Điệu hát có nhịp điệu dịu dàng đong đưa của nhịp
võng. Thường sử dụng thang âm ngũ cung, thể thơ thông thường được dùng
làm lời hát ru là thơ lục bát”. [11,tr. 22,94,111]
Thật vậy, hát ru không chỉ bày tỏ tình cảm trực tiếp đối với đứa trẻ
đang ôm ru trong lòng mà nội dung hát ru còn mang tâm sự của người vợ đối
8
với chồng, của người con đối với cha mẹ ông bà, hay những câu than thân
trách phận hoặc giải bày nỗi niềm chua xót với tình duyên lận đận lao đao do
lễ giáo phong kiến áp đặt. Lời lẽ hát ru còn để tự nói với mình về lòng chung
thủy, về mối tình nghèo, về lòng hiếu thảo, về tính nhân ái, về cách dạy con,
về cách đối nhân xử thế, về những bài học rút ra từ cuộc sống,...
“Thể loại hát ru hình thành từ rất sớm, được lưu truyền một cách mạnh
mẽ, dai dẳng và lâu bền... từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng được phân
bổ đều khắp, rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam, từ đất tổ Hùng Vương xuống
đồng bằng sông Hồng, chạy dọc theo miền duyên hải Trung Bộ, vô đến khu
vực đồng bằng sông Cửu Long.
Hát ru cũng có mặt lâu đời trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, từ
Đông Bắc và Tây Bắc Bộ, dài theo dải Trường Sơn, tích tụ trên các buôn làng
Tây Nguyên, thẳng vô núi rừng miền Đông Nam Bộ và trong các phum sóc
Khmer...”. [26, tr.bìa]
Hát ru miền Bắc thường sử dụng dạng 5 âm điệu thức Bắc, sắc thái có
khi khỏe khoắn, sáng sủa, tươi vui tình tứ như trong 1 số bài như Hát ru con
(Đồng bằng bắc Bộ), Hát ru (Hà Nam), Ru con (Việt Trì), có khi lại dịu dàng
duyên dáng, sâu lắng như: Giọng ru (Hát ghẹo Phú Thọ), Hát ru (Phú Thọ)...
Hát ru miền Trung đặc biệt là vùng Bình - Trị - Thiên, gọi hát ru là Hát
ru con, thường sử dụng trên thơ lục bát, là loại diễn xướng cá nhân đơn lẻ, lời
chứa đựng nhiều tâm trạng và thường bộc lộ cảm xúc của người mẹ đang ru
con ngủ. Nhịp điệu chậm rãi, sắc thái thiết tha dịu dàng, đều đặn chất chứa
nỗi buồn.
Ở miền Nam, thể loại hát ru được gọi là Hát đưa em hoặc Hát ầu ơ.
Chúng mang sắc thái âm nhạc độc đáo. Nhịp điệu lúc khoan thai, buông lơi
rơi đều theo nhịp võng, tao nôi và khi dỗ đứa trẻ khóc thì dồn dập, khẩn
9
trương. Âm điệu Hát đưa em nghe buồn man mác, dịu êm, có khi thảm thiết ai
oán, mùi mẫn, có lúc vui tươi yêu đời...
Với dân tộc thiểu số hát ru gắn liền với những chiếc địu trên lưng các
bà mẹ đi làm nương rẫy. Bởi vậy những bài hát ru của các tộc người thiểu số
gắn với công việc lao động thường ngày. Nếu như ở dân tộc Thái, hát ru là
những làn điệu Ulúknón thì với dân tộc mường lại đa dạng hơn. Hát ru của
người Mường được chia làm hai loại riêng biệt: loại dành riêng để ru ban
ngày và loại chỉ để ru ban đêm. Phụ nữ Khmú lại dùng Pí tót để ru con ngủ.
Âm hưởng của nó rất độc đáo đó là xen lẫn tiếng sáo là những âm thanh giọng
người và trong cung bậc luyến láy trầm bổng của âm nhạc là tiếng dỗ dành
êm ái của người mẹ. Có vùng trẻ em Khơ mú lại được ru bằng những nét nhạc
thì thào lẫn trong âm sắc rè rè của tiết tấu đao (ví dụ bài Li hem sih - Ru em
ngủ). Với dân tộc Khmer, “Hát ru con (Bomke Kôn) vốn phổ biến lâu đời
trong dân gian được lưu truyền từ các bà mẹ, ông bà hoặc chị. Loại hát ru này
có rất nhiều dị bản với những biến hóa phát triển ít nhiều khác biệt. Nhịp điệu
của chúng thường chậm rãi, phù hợp với nhịp võng đong đưa kẽo kẹt hoặc
theo nhịp đẩy đưa của hai cánh tay người hát ru đang ôm ghì con vào lồng
ngực. Giai điệu hát ru chạy theo đường nét dợn sóng, bắt đầu từ thấp uốn
cong lên rồi đổ dần xuống về âm chủ của thang âm điệu thức.” [ 27, tr.68].
Những bài hát ru trong sinh hoạt đã được nhiều thế hệ các bà mẹ trau
chuốt với tất cả tấm lòng yêu thương trìu mến đối với đứa con đang được ru.
Trải qua bao đời và qua bao nhiêu nghệ sĩ dân gian những bài hát ru được trau
chuốt dần dần hình thành những bài dân ca mang tính nghệ thuật cao. Bởi
vậy, có những bài hát ru dần dần tách rời khỏi môi trường diễn xướng ban đầu
để trở thành những tiết mục trình diễn trong những cuộc sinh hoạt văn hóa
nghệ thuật và cả trong một số lễ hội. Ví dụ những điệu hát trong ca trù, hát
xoan,…
10
“Xét cho cùng thì hát ru là loại hát trữ tình, chất chứa tình thương của
người mẹ đối với con, ước mong sao cho con mau lớn nên người. Và hơn thế
nữa, cứ mỗi lần hát ru là mỗi lần người mẹ ôn lại những chuỗi ngày đã qua
mà bộc lộ bao nỗi niềm ngọt bùi cay đắng, Hát ru vẫn là những khúc ca vỗ về,
nựng nịu, ru ngủ nhằm “thuyết phục” và quyến rũ đối tượng bé bỏng. Có phải
vì vậy mà hình tượng âm nhạc của hát ru nghe uyển chuyển và dễ nhớ? Mặc
dầu người nghe có thể chưa biết rõ tiếng tộc người này hoặc tiếng tộc người
khác, nhưng vẫn cảm nhận một cách trực quan và phân biệt được hát ru với
loại hát khác trong dân ca.” [27, tr.69]
Một bà lão tên Trần thị Ba, xã Trung Nhất, huyện Thốt Nốt đã nói một
câu rất hay từa tựa với lời người cha của nhà thơ lỗi lạc Rasun - Gamzatov
rằng “kẻ nào không được nghe tiếng mẹ hát ru thì cũng thể như mồ côi. Và ai
lớn lên dù thiếu cha thiếu mẹ nhưng được nghe hát từ trong nôi thì không thể
gọi là mồ côi”.
“Mặc dầu trong thời đại ngày nay cuộc sống đã có nhiều thay đổi
những điệu hát ru trong cuộc đời vẫn là món ăn tinh thần quý giá cho trẻ nhỏ
cần được kế thừa và phát triển. Đó là cả tấm lòng trìu mến thiết tha mà trẻ
nhỏ cần ở người lớn. Đó cũng là tầm hồn của dân tộc từ ngàn xưa qua tiếng
hát của những người bà, người mẹ, những người chị hoặc anh thẩm thấu dần
vào tiềm thức của các bé ngay từ thủa còn nằm trên nôi để rồi sau này sẽ
cùng với những yếu tố khác nảy nở thành nhân cách và tình yêu quê hương
đất nước trong mỗi con người Việt Nam,…” [9, tr.82-83].
- Đồng dao:
Là thể loại ca nhạc dùng cho thiếu niên nhi đồng như một hình thức
vừa học vừa chơi. Một số trò chơi dùng kèm với nhạc khí. Đây là một hình
thức vừa chơi vừa học rất bổ ích. Đồng dao có tác dụng rất lớn trong việc giáo
dục nhân cách trẻ. Trước hết là nội dung lời ca của các bài đồng dao rất đa
11
dạng. Lời ca mang tính giáo dục trẻ ở nhiều khía cạnh khác nhau: Giữ vệ sinh,
gần gũi với thiên nhiên, dạy các em cách quan sát các sự vật hiện tượng tự
nhiên xảy ra xung quanh hoặc hình ảnh của một số loài vật.
Con Công hay múa
Nó múa làm sao
Nó rụt cổ vào
Nó xèo cánh ra
Nhiều bài đồng dao có tác dụng rèn luyện sự nhanh nhẹn và phản xạ
chính xác cho các em.
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương ngũ đế
Bắt dế đi tìm
Ù à ù ập
Đóng sập cửa lại
[18,tr.168]
Đồng dao đã mở rộng cánh cửa tâm hồn của trẻ nhỏ giúp các em dễ
dàng tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bằng ngôn ngữ mang phong cách trẻ
thơ, đồng dao cung cấp cho các em nhiều kiến thức về tự nhiên, về cuộc sống.
Lại có những bài dạy cho các em sử dụng gia vị cho thích hợp với từng loại
thực phẩm.
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
[Đồng dao, 23, 693]
12
Đồng dao còn là những bài luyện phát âm cho trẻ. Những câu nói ngắn
gọn với âm điệu phức tạp, đồng dao không những giúp trẻ em rèn luyện phát
âm tròn vành rõ chữ mà còn làm cho tiếng nói của trẻ thêm giàu nhạc điệu.
Tháng năm nắng lắm
Ốc bám cọc cầu ao
Nồi đồng nấu ốc
Nồi đất nấu ếch.
Đồng dao là những bài học thực hành âm nhạc thậm chí “dù ở dạng
đơn giản nhất, nghĩa là khi nó chưa phải là những bài hát thực sự mà chỉ là
những câu thơ được đọc cách điệu theo thanh điệu của lời thơ và một vài kiểu
tiết tấu nào đó, cũng là những bài học đầu tiên rèn luyện mĩ cảm âm nhạc và
năng lực diễn xướng cho các em” [9, tr.85]
Tính giản dị, khúc chiết gọn gàng dễ nhớ dễ thuộc và yếu tố nội trội là
tính tiết tấu. Đó là những đặc trưng phổ biến của các bài đồng dao.
Đồng dao không chỉ có mặt ở người Kinh mà còn có mặt ở các tộc
người thiểu số khác như ở vùng Hà Giang thì có “Tình củm cắp tình cay”.
Ngoài lời ca và nhạc điệu phần trò chơi gắn với các bài đồng dao có tác
dụng quan trọng trong việc tập luyện và chuẩn bị những năng lực cần thiết
cho các em để sau này có thể vững vàng bước vào đời. Qua những bài hát trò
chơi này các em làm quen và rèn luyện những phản xạ nhanh chính xác, khả
năng giữ thăng bằng, sự phối hợp tập thể, sự nhanh nhẹn, khéo léo, sức khỏe.
Các em có thể tự làm đồ chơi cho mình như thế sẽ phát triển được tính sáng
tạo, không những thế còn rèn luyện được sự khéo léo, tỉ mỉ và lòng kiên trì.
Tập sử dụng những trò chơi này vừa là những bài học đầu tiên về sử dụng
nhạc khí đồng thời là những bài học chuẩn bị cho các em gia nhập các sinh
hoạt văn hóa cộng đồng. “Quả thật các bài hát kèm theo trò chơi này không
những là bài học đầu tiên về ca nhạc mà còn là những bài học vỡ lòng về thế
13
giới tự nhiên và cuộc sống xã hội vẫn còn lạ lẫm với tuổi thơ. Đó cũng là
những bài tập giúp các em rèn luyện một số khă năng và tập quán cần thiết
cho cuộc sống trong tương lai. Vì vậy, các bài đồng dao không chỉ thuần túy
là những trò vui giải trí cho các em mà còn là những hình thức chơi mà học
tổng hợp rất bổ ích và cần thiết cho lứa tuổi thiếu niên nhi đồng chẳng những
ở các thời đại xa xưa mà ở cả thời đại ngày nay” [9, tr. 88-89].
- Hát giao duyên: Là thể loại hát đối đáp giữa nam và nữ. Đây là thể
loại khá phong phú phổ biến khắp các dân tộc. Người Việt thì có Ví, Đúm, Cò
lả, hát ghẹo Phú Thọ, Quan họ Bắc Ninh, người Tày thì có hát Phong slư, hát
Cọi ở Hà Giang, hát giao duyên Sli, Lượn của người Tày, Nùng các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn, người Dao có hát Páo dung, người Mường có hát Đúm, người
Thái có hát Khắp Tua…
Ở người Hmông có những bài hát tình yêu (Gầu Phlềnh) và những hình
thức trao đổi tình cảm trong những ngày hội đầu xuân Gầu tào, Sải sán bằng
lối hát tương tự như người Chăm, Việt, Mường… Và đặc biệt là bằng tiếng
đàn môi, kèn lá mô phỏng tiếng người nhờ đó “đối tượng” nghe hiểu được
chàng trai hay cô gái muốn nói điều gì. Mỗi loại có rất nhiều làn điều khác
nhau, dùng để đối đáp thăm hỏi trao đổi tình cảm, ước hẹn… trong những
ngày hội, ngày tết, đám cưới, chợ phiên… đặc biệt là đồng bào Nùng có lối
hát đối đáp hai bè giữa từng đôi nam với đôi nữ. Hát đối đáp của đồng bào
Mường phong phú về thể loại: thường, rang, bộ mẹng, bỉ, túm... Nhạc cụ đi
kèm với các làn điệu ấy cũng rất đa dạng. Các chàng trai dân tộc Lự có Pí Lự,
có khen (khèn) hoặc các cặp Pí Me Lụ làm nhạc cụ cho những cuộc hát đối
đáp nam nữ. Các chàng trai Khmú lại dùng Pí tót nhỏ xinh để “hát” giao
duyên với các cô gái. Còn ở người Tày hát giao duyên của mỗi vùng lại có
cách thể hiện và trình diễn khác nhau như: Cọi, Lượn Nàng ới ở Bắc Cạn, hát
lếu ở Hà Giang, điệu phong Slư ở Cao Bằng… Nét đặc trưng của dân ca giao
14
duyên Tày, Nùng là âm nhạc mộc mạc nhưng không đơn điệu, lời hát bay
lượn, mềm mại du dương, lời hát đối đáp có sự pha trộn tiếng hán việt.
Ở người Việt thể loại này thể hiện ở nhiều loại hình khác nhau như hát
Ghẹo, hát Đúm, Cò lả, ví, Trống quân, Quan họ ….
- Dân ca lễ nghi phong tục:
Ngay từ thời nguyên thủy, những sinh hoạt lễ nghi tín ngưỡng đã xuất
hiện và đôi khi phục vụ cho sản xuất. Dân ca lễ nghi phong tục là dân ca dùng
trong nghi lễ cúng bái gồm các nghi lễ cộng đồng và nghi lễ gia đình.
Nghi lễ cộng đồng có hát cửa đình, hát văn,… Hát văn là lối hát thờ
gắn với tục lên đồng và một phức hợp tín ngưỡng của người Việt, trong đó
nổi bật nhất là tín ngưỡng Tứ phủ. Hát Văn do các cung văn thể hiện ở các
đền, phủ hoặc trong chùa (nhung chỉ hát trước Điện thờ hệ thống thần linh của
phức hợp tín ngưỡng này ở trong khuôn viên chùa). Nhiều làn điệu bài bản có
sắc thái tình cảm đa dạng, song Cờn Dọc Xá là những điệu hát riêng độc đáo
của hát văn. Nét nổi bật nhất của thể loại này là tính tiết tấu.
Ca trù (hát ả Đào): Đây là lối hát thờ của người Việt dùng ở đình đền,
vì vậy nó nằm trong thể loại hát cửa đình. Các cuộc hát cổ xưa có nhiều nhạc
khí về sau chúng dần được tinh giảm chỉ còn một trống chầu do quan viên
cầm chầu dùng để thưởng phạt và hai nhạc khí đệm đặc trưng chỉ có trong hát
ả đào: Đàn đáy và phách bàn với bộ dù ba lá dùng trong lối hát chơi.
Hát xoan (khúc đình môn): Chỉ có ở Vĩnh Phú, là thể loại diễn xướng
tổng hợp sôi nổi gồm cả hát – múa và trò diễn. Nó có một hệ bài bản phong
phú được trình diễn theo lề lối quy định với ba chặng chính có đặc trưng khác
nhau. Tiết mục đặc sắc nhất của hát xoan là một trò diễn vui và sôi nổi: Đánh
cá. Tuy nhiên đó là một nghi thức có liên quan đến tín ngưỡng dùng để kết
thúc lễ hội.
15
Với tộc người thiểu số điển hình cho lễ nghi phong tục đó là hát Then.
Nó có nhiều làn điệu phục vụ các nghi lễ cúng tế, phổ biến trong một số tộc
người miền núi phía Bắc đặc biệt là người Tày, Nùng. Có thể xem hát Then
như một cuộc diễn xướng trường ca mang tính chất tâm linh tín ngưỡng tường
thuật lại cuộc hành trình của pháp sư đưa đoàn âm binh lên biên giới để cầu
xin Ngọc Hoàng giải quyết một số vấn đề gì đó theo yêu cầu của giai điệu
hoặc chính vì người làm Then. Mặc dầu vậy, từ xưa đồng bào cũng đã sử
dụng hát Then vào những mục đích khác ngoài mục đích cầu cúng. Nhạc khí
phổ biến trong các cuộc hát Then là tính tẩu và chùm nhạc xóc.
Hát đám cưới là thể loại phổ biến ở khá nhiều tộc miền núi phía Bắc
như Tày, Nùng, Thái, Cao Lan – Sán chỉ, Dao, Lô lô,… như hát Cò lẩu ở
người Nùng phàn Slình, Nai của người Nùng cháo, Xướng quan làng của
người Tày. Đồng bào Nùng có nhiều bái hát do thân nhân của người quá cố và
thầy Tào thực hiện trong quá trình lễ tang: Hát khóc, cầu siêu, tế,… Người
Mường thì có hát Mo, hát Rằng,… Đặc biệt phải kể đến dân ca trong các nghi
lễ người Chăm Bàlamôn âm nhạc đều tham gia một cách tích cực và trở thành
nhân tố quan trọng trong nhiều nghi lễ, lễ hội. Dàn nhạc Chăm với trống Gi-
năng, Baranưng, kèn Saranai, đàn Kanhi. Vùng Tây nguyên là nơi có các tộc
người sinh sống lâu đời như banar, Êđê, Gia rai,… Giai điệu trong những bài
dân ca của các tộc người Tây nguyên thường sử dụng nửa cung trong đầu câu
hát và gần cuối câu hát tạo cảm giác mênh mang. Họ sử dụng cồng chiêng và
mọi người nhảy múa khi làm lễ. Loại hình hát kể được sử dụng phổ biến ở
đây.
- Dân ca sinh hoạt:
Dân ca sinh hoạt của người Việt là những câu hát phản ánh đời sống
sinh hoạt của người dân, đó là câu hát trong lao động sản xuất, trong đời sống
thường nhật. Miền bắc có thể kể đến các làn điệu hát ngâm như sa mạc, bồng
16
mạc; miền trung có hát giặm, có lý, vè,…; nam bộ có nói thơ, lý,… và hát ru
có ở mọi miền của tổ quốc. Trong đó, “… Xẩm là một loại dân ca đặc biệt của
người khiếm thị miền Bắc, thường thấy ở đồng bằng và trung du Bắc bộ, hát
xẩm có nhiều tiếng đưa hơi và đi kèm đệm theo là tiếng đàn bầu hay tiếng nhị
với Xênh và phách” [19,tr.617]. Với diễn xướng của hát xẩm rất thoải mái, tự
do không cần sân khấu biểu diễn hay nghệ sĩ tài hoa thể hiện. Hay, hát Giặm
là thể loại dân ca đặc sắc của Nghệ - Tĩnh. Nó cấu trúc đặc biệt: Đó là mô
hình tiết tấu cơ bản hình thành trên thể thơ năm chữ làm cơ sở cho sự triển
khai toàn bộ dân ca, câu cuối khổ hoặc cuối bài bao giờ cũng kết thúc bằng sự
láy lại mấy từ cuối của câu trước nó. [9, tr.109].
Thể hiện rõ nhất trong dân ca lao động đó là Hò. Hò phổ biến rộng rãi
khắp đất nước. Hò khá đa dạng: Hò sông nước, hò trên cạn. Những điệu hò
phản ánh toàn bộ cuộc sống của người dân lao động. Những sinh hoạt đời
thường được thể hiện nhiều nhất qua những bài hát ru “loại dân ca này phổ
biến khắp trong nước, mỗi miền hát một cách khác nhau nhưng có chung một
phong thái là ngân nga, êm dịu” [19,tr.735]. Bên cạnh đó là ngâm thơ và Vè
là những thể loại dân ca mô tả rất chân thật cuộc sống lao động và sinh hoạt
của người dân Việt Nam.
Dân ca sinh hoạt của các tộc người thiểu số cũng có các thể loại khác
nhau. Những sinh hoạt thường ngày, những công việc nương rẫy lúc địu con
đều được thể hiện qua những bài hát ru, hát giao duyên của dân tộc thiểu số
mặc dù không được phổ biến nhưng lại có những nét đặc sắc riêng. Ví dụ như
hát giao duyên người Tày có Phong Slư, hát Cọi ở vùng sông Chảy, người
Thái có Khắp Loong toong, hát trên cánh đồng,…
- Dân ca phong tục khác:
17
“Hát Sắc bùa là một thể loại được dùng với mục đích tống quỷ trừ tà,
chúc phúc lộc cho các gia đình nhân dịp năm mới. Tục này phổ biến ở người
Mường và người Việt từ bắc chí nam. [9,tr.129]
Hát Bả Trảo: “Là một thể loại diễn xướng phổ biến ở các cư dân Việt
vùng ven biển miền trung và một số nơi ở nam bộ. Nó gắn với tục thờ các
Ông tên gọi biểu lộ sự kính trọng mà những người đi biển dành cho loài cá
voi” [9, tr.130]
Hát múa đội đèn: Là một trong những trò thuộc hệ thống trò Đông Anh.
Hát múa đội đèn là hình thức nghệ thuật phản ánh lịch tiết của nông dân trong
một thời vụ trồng lúa.
Hát múa bóng rỗi: Thể loại dân ca nghi lễ phổ biến ở Nam Trung Bộ và
Nam Bộ.
1.1.2. Vai trò và giá trị của dân ca trong cuộc sống xưa và nay
Theo Âm nhạc cổ truyền Việt Nam của PGS-TS.Nguyễn Thị Loan thì:
“Âm nhạc dân gian là một bộ phận ra đời sớm nhất và có sức bền vững nhất.
Nó đã xuất hiện ngay từ thời nguyên thủy và tiếp tục tồn tại cho đến tận ngày
nay. Bởi vậy, kể từ thuở dựng nước tới nay, bộ phận âm nhạc này đã có tuổi
đời trên dưới bốn ngàn năm. Trong suốt chặng đường dài ấy âm nhạc dân gian
đã không ngừng phát triển ngày càng phong phú đa dạng và nhiều thể loại đã
đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Dân ca chính là một trong những hợp phần
của bộ phận này. Nó cũng mang trong mình bề dày lịch sử và những đặc
trưng bao quát nhất của âm nhạc dân ca nói chung” [9, tr.153,154].
Dân ca là những tác phẩm được tập thể nhân dân cùng góp phần sáng
tạo và biểu diễn để phục vụ nhu cầu tinh thần của chính mình trong đời sống
thường ngày cũng như trong các sinh hoạt tập thể cộng đồng. Vì vậy, tác giả
của những bài dân ca chủ yếu là những người dân lao động bình dị. Họ
18
thường ứng tác tại chỗ - đặc biệt là phần lời ca - trong những dịp gặp gỡ đông
người hay dịp lễ tết hội hè…
Những bài dân ca đó được truyền khẩu cho nhau từ nơi này đến nơi
khác, từ đời này đến đời khác. Qua mỗi địa phương, mỗi thế hệ, mỗi con
người cụ thể, dân ca đã được sửa sang, gọt giũa rồi dần trở thành những sáng
tạo mang tính tập thể và luôn tồn tại dưới dạng dị bản. Những dị bản này vừa
mang nét chung của cả tộc người lại vừa có những nét riêng của từng địa
phương (ví dụ bài “lý con sáo” của người Việt với 19 dị bản có mặt khắp từ
bắc tới nam). Với khả năng biến hóa tài tình, kết hợp với những sáng tạo
không ngừng của nhân dân trong quá trình phát triển của lịch sử, ngày nay
kho tàng dân ca vẫn được lưu giữ với hàng ngàn bài ca lời hay, ý đẹp và giàu
sức truyền cảm trong nhạc điệu. Đây chính tài sản quý báu của đất nước mà
chúng ta đang được nắm giữ, kế thừa từ biết bao thế hệ cha ông.
Dân ca cho dù ở mức độ nào cũng luôn chứa đựng trong mình những
giá trị quí báu, bởi nó không chỉ có giá trị về âm nhạc cũng như lời ca mà cao
hơn chính là giá trị phản ảnh cuộc sống và làm thỏa mãn nhu cầu cảm xúc của
con người.
Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng hơn một lần nghe khúc hát quan họ
của vùng quê Kinh Bắc hay cũng đã từng được nghe những câu Hò, Ví, Giặm
Nghệ Tĩnh, cùng những điệu Lý, câu hò khoan nhặt trên sông nước Nam bộ
hay ở nhiều vùng miền khác của đất nước. Những điệu hát Then, những câu
Sli, Lượn thật quyến rũ, độc đáo của người Tày - Nùng; những câu hát giao
duyên của người Thái - Mèo - Dao…; những câu hát ru em cùng nhiều làn
điệu dân ca khác của các tộc người ở Tây Nguyên… Tất cả những giai điệu,
lời ca ấy đã không chỉ làm nên nét đặc trưng của văn hóa vùng miền, mà còn
đem lại cho người nghe biết bao sự rung động khiến bất kỳ ai cứ mỗi khi nghe
thấy làn điệu dân ca quê hương lại không thể kìm được cảm xúc, để rồi sống
19
tốt hơn sao cho xứng đáng với quê hương - nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng ta
thành người. Giá trị và vẻ đẹp bình dị, mộc mại của dân ca đã được một nhà
phê bình Nghệ Thuật người Nga ghi nhận và mô tả: “Cũng như một đóa hoa
huệ, trong vẻ tráng lệ hoàn mãn của nó đã làm mờ cả màu gấm vẻ ngọc, âm
nhạc dân gian với cái giản dị tươi tắn của nó, còn trăm ngàn lần phong phú
hơn, đẹp đẽ hơn tất cả các kĩ xảo kinh viện”. [13, tr.67]
Thật vậy, sự trường tồn của nền âm nhạc dân gian nói chung, dân ca
nói riêng không chỉ bởi nó gần gũi thân thiết với người con người mà còn bởi
những giá trị mà nó mang lại.
Dân ca là nơi lưu trữ những dấu ấn văn hóa tinh thần hàng ngàn năm
của dân tộc. Đó là tiếng nói bình dị của người lao động các tộc người cùng
sống trên dải đất Việt Nam, là cốt cách tâm hồn, là lối sống nhân hậu của con
người Việt Nam được chắt lọc qua năm tháng để trở thành tinh hoa văn hóa
của dân tộc Việt Nam. Qua dân ca chúng ta sẽ cảm nhận được những phẩm
chất tốt đẹp, cao quý của dân tộc được biểu hiện qua sự đa dạng của đề tài
như: Tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, ca ngợi đức tính thủy chung son sắt,
tình nghĩa bạn bè, lòng biết ơn đối với cha mẹ, với những người có công với
đất nước…
Dân ca Việt Nam chứa đựng những giá trị giáo dục đa chiều. Chúng ta
có thể tìm thấy trong dân ca những bài học về đạo lý làm người, uống nước
nhớ nguồn, khắc nhớ công lao trời biển của những người sinh thành của bao
thế hệ cha ông:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
(Hát ru - người Việt)
20
Những lời ru của mẹ như mạch nước ngầm tinh khiết, làm nảy nở trong
tâm hồn trẻ thơ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
Thờ cha mẹ, ở hết lòng
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường.
(Hát ru - người Việt)
Chúng ta có thể bắt gặp những câu hát là những bài học về tinh thần tập
thể và ý thức đùm bọc lẫn nhau:
Bầu ơi thương nhớ bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một già.
(Hát ru - người Việt)
Hay những bài hát mang ý nghĩa giáo dục con cháu rất cụ thể về việc
phải biết chia xẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh.
Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tôm cái tép đi đưa bà còng
Đưa bà đến đoạn đường cong
Đưa bà về tận ngõ trong nhà bà.
(Đồng dao)
Không chỉ dừng lại ở việc răn dạy con cháu, dân ca còn là tấm gương
phản chiếu cuộc sống, tâm hồn, tính cách của dân tộc. Do gắn bó chặt chẽ với
cuộc sống và đáp ứng nhu cầu tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân
nên dân ca trở thành tiếng nói tình cảm của người dân ở các góc độ cuộc sống
khác nhau.
Nghe dân ca chúng ta có thể cảm nhận được tâm tư, tình cảm, ước vọng
hay những diễn biến trong cuộc sống của người dân. Cũng qua dân ca chúng
ta dễ dàng cảm nhận nhiều phẩm chất tốt đẹp của dân tộc như: Yêu thiên
nhiên, yêu Tổ quốc, nghĩa thủy chung, tình bạn bè, ý thức uống nước nhớ
21
nguồn, lòng biết ơn đối với cha mẹ, những anh hùng dân tộc, những người có
công với đất nước,…
Nước sông Lam dào dạt
Đây cảnh đẹp Nam Đàn
Ai đi chở Sa Nam
Mà xem thuyền xem bến
Ngày xưa Mai Hắc Đế
Quyết cứu nước dựng cờ
Vàn Sơn núi lô nhô
Rồng bên mây ấp ờ…
(Hò bơi thuyền - dân ca Nghệ Tĩnh)
Qua dân ca chúng ta có thể thấy được bản chất giàu tình cảm, tâm hồn
thơ mộng trữ tình, tình yêu cuộc sống cũng như nét hồn nhiên hóm hỉnh trong
tính cách Việt Nam.
Bập bềnh sóng nước đêm trăng
Thuyền băng sóng bạc lướt dòng cuộn trôi
Trăng in mặt nước sáng ngời
Tiếng hò vang vọng nước non tâm tình
Ước gì có lưới giăng vông
Có thuyền chú lái buông lòng nhớ thương…
(Đò đưa - dân ca Bắc bộ)
Hay, đức tính cần cù, gan dạ trong lao động cũng như tinh thần lạc
quan yêu đời của nhân dân ta.
Ra đi sóng biển mịt mù
Trời cho lưới nặng dô hò kéo lên
(Hò giựt chì - Quảng Nam)
22
Hoặc thông qua câu hát giao duyên, trai gái có thể bày tỏ tình yêu, sự
gắn bó thủy chung với nhau như:
Yêu nhau tam tứ núi anh cũng trèo
Ngũ lục giang anh cũng lội, thất bát đèo anh cũng qua
(hát Vĩ Nghệ Tĩnh)
Nguyệt gác bên thềm
Chén son chưa cạn sao tình đã say
(dân ca Quan họ)
Và, cũng có khi là những câu than vãn cho tình yêu lận đận bởi lễ giáo
phong kiến.
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Tại cha tại mẹ buông cần đứt dây
(Dân ca Nam bộ)
Có thể nói tiếp xúc với dân ca chúng ta không chỉ học được nghệ thuật
sáng tác văn thơ, âm nhạc của cha ông mà còn hiểu được nhiều phẩm chất và
truyền thống tốt đẹp của ông cha ta để kế thừa và phát huy.
“Dân ca Việt Nam giống như một khu vườn với muôn vàn loài hoa.
Mỗi loài hoa một hương sắc, một vẻ đẹp. Nó cung cấp cho chúng ta một
nguồn nguyên liệu dồi dào mà dựa vào đó các nhà soạn nhạc Việt Nam đã
từng sáng tác nên biết bao ca khúc, bản nhạc đậm đà bản sắc dân tộc và đầy
sức cuốn hút. Dân ca Việt Nam đã và sẽ là nguồn nguyên liệu quý báu cho
những sáng tác hôm nay và mai sau. Trong kho tàng dân ca ấy, ngoài những
nguyên liệu đặc sắc còn tàng chứa những mẫu mực, những nguyên tắc sáng
tạo của nghệ thuật đáng được học hỏi, kế thừa. Chúng sẽ là bệ phóng cho
những sáng tạo mới của những thế hệ tương lai”. [9, tr.159].
1.2. Việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai
1.2.1. Vài nét về trường Đại học Đồng Nai
23
Trường Đại học Đồng Nai là trường đại học công lập đầu tiên trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai, được thành lập theo quyết định số 1572/QĐ-TTg ngày
20/8/2010 của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở nâng cấp từ trường Cao đẳng
sư phạm Đồng Nai.
Trường CĐSP Đồng Nai được thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm
1976, ban đầu có tên gọi là trường Sư phạm cấp 2 Đồng Nai theo Quyết định
của Bộ Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) từ việc tách cơ sở 4 của
trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày
28/03/1987, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định nâng cấp trường thành
trường CĐSP Đồng Nai trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo. Ngày
15/09/1997, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Đồng Nai quyết định
hợp nhất 2 trường Sư phạm của tỉnh (Trung học Sư phạm và Cao đẳng Sư
phạm). Trường có chức năng, nhiệm vụ chính là đào tạo giáo viên Mầm non,
Tiểu học, Trung học cơ sở (THCS); đào tạo cán bộ quản lý cho các bậc học;
liên kết với các trường Đại học Sư phạm được Bộ giao để đào tạo, chuẩn hóa
giáo viên có trình độ đại học, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo,
đáp ứng yêu cầu đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục.
Sau 35 năm không ngừng phấn đấu xây dựng và phát triển, trường
CĐSP Đồng Nai đã đào tạo gần 40.000 giáo viên từ mầm non đến THCS,
trường cũng đã liên kết đào tạo hơn 1.000 giáo viên trung học phổ thông, liên
kết đào tạo nâng chuẩn cho hơn 5.000 giáo viên ở các cấp học khác cho tỉnh
Đồng Nai cũng như các tỉnh lân cận.
Hiện nay, số lượng sinh viên chính qui đang theo học tại trường là
3.180 sinh viên từ năm thứ nhất đến năm thứ ba ở 2 nhóm ngành sư phạm và
ngoài sư phạm. Trong đó có 6 ngành hệ đại học như: ĐHSP toán, ĐHSP vật
lý, ĐHSP anh văn, ĐHSP ngữ văn, ĐH kế toán, ĐH quản trị kinh doanh và 19
ngành hệ cao đẳng như cao đẳng sư phạm toán, CĐSP vật lý, CĐSP hoá –
24
sinh, CĐSP văn, CĐSP địa, CĐSP sử, CĐSP giáo dục công dân, CĐSP anh
văn, CĐSP mầm non, CĐSP tiểu học, CĐSP âm nhạc, CĐSP Mỹ thuật, CĐSP
thể dục, CĐ tiếng anh thương mại, CĐ quản trị văn phòng, CĐ quản trị kinh
doanh, CĐ kế toán, CĐ tài chính – ngân hàng, CĐ công nghệ thông tin. Ngoài
ra hiện nay có gần 7.000 học viên đang theo học tại trường thuộc các loại hình
đào tạo liên thông, vừa học vừa làm, đào tạo từ xa,…
Trong tổng số 3.180 sinh viên hệ chính quy đang học tại trường ở 2 hệ
đại học và cao đẳng thuộc các ngành trong và ngoài sư phạm, có 2.754 sinh
viên là nữ giới, chiếm 86,6% sinh viên toàn trường. Sinh viên của trường đa
phần là con em của các gia đình có hộ khẩu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Riêng
đối với ngành sư phạm 100% sinh viên là người có hộ khẩu ở Đồng Nai.
Trong số đó có hơn 100 sinh viên là người dân tộc, một số sinh viên theo đạo
Phật, Tin lành,… đặc biệt là nhiều sinh viên của trường là con em của đồng
bào công giáo, tập trung chủ yếu ở khu vực như Hố Nai, Tân Mai, Tân Biên,
Gia Kiệm (Thống Nhất), Phú Lâm (Tân Phú),… Tất cả góp phần tạo nên bức
tranh đa màu sắc của sinh viên Đại Học Đồng Nai.
Về cơ cấu tổ chức, nhà trường bao gồm có các phòng ban và các khoa
như sau: Ban Giám hiệu, Phòng Tổ chức hành chính, Phòng Đào tạo, Phòng
Công tác sinh viên, Phòng Nghiên cứu khoa học – Sau đại học & Quan hệ
quốc tế, Phòng Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục, Phòng Kế hoạch
tài chính, Phòng Thanh tra – Pháp chế và Trung tâm thư viện. Hiện nay nhà
trường có 6 khoa: SP Tự nhiên, SP Xã hội, SP Tiểu học – Mầm Non, Thể Dục
– Nhạc – Hoạ, Ngoại Ngữ, Tổng Hợp và 2 tổ bộ môn trực thuộc trường: Tổ
bộ môn Quản lý giáo dục và Lý luận chính trị.
Về nhân sự, tính đến nay (năm học 2011 – 2012), lực lượng nhân sự
của trường là 251 cán bộ, giảng viên, công nhân viên. Số giảng viên trực tiếp
25
đứng lớp giảng dạy là 168; trong đó có 4 tiến sĩ, 8 nghiên cứu sinh và 78 thạc
sĩ, 34 giảng viên đang học cao học.
Về cơ sở vật chất, tổng diện tích đất đai nhà trường được quản lý và sử
dụng là trên 9 ha, với 120 phòng học, 2 giảng đường, 1 hội trường, 1 nhà tập
thể dục thể thao đa năng, 1 sân vận động thể thao, 1 xưởng thực hành hiện đại
và các phòng thí nghiệm Lý, Hoá, Sinh với các thiết bị đáp ứng yêu cầu các
giờ học thí nghiệm thực hành, 10 phòng máy vi tính, trên 300 máy nối mạng
internet tốc độ cao, hệ thống mạng wifi phủ khắp khuôn viên của nhà trường. Trung tâm Thông tin - Thư viện với diện tích 1.600 m2, với trên 150.000 đầu
sách nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của sinh viên, cán bộ giảng
viên trong nhà trường. Khu nội trú sinh viên có 4 dãy nhà 4 tầng với sức chứa
1.800 sinh viên, nằm ngay trong khuôn viên của nhà trường đáp ứng nhu cầu
chỗ ở cho sinh viên ở xa.
1.2.2. Đội ngũ giáo viên âm nhạc và đối tượng sinh viên âm nhạc ở
trường Đại học Đồng Nai
- Năng lực đội ngũ giảng viên
Lực lượng giảng viên giảng dạy môn Âm nhạc ở trường Đại học Đồng
Nai có nhiệm vụ cung cấp những kỹ năng thực hành và phương pháp giảng
dạy bộ môn âm nhạc cho giáo sinh hệ cao đẳng chuyên nhạc, cao đẳng tiểu
học. Giảng viên tổ nhạc giữ vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu đào tạo giáo viên Nghệ thuật. Ngoài việc giảng dạy giảng viên âm nhạc
còn là lực lượng quan trọng trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật góp phần
tạo không khí vui tươi, sôi nổi trong nhà trường.
Trường Đại học Đồng Nai hình thành chuyên ngành đào tạo âm nhạc từ
năm 2000 cùng với các môn đào tạo khác về năng khiếu là Mỹ thuật và Thể
dục. Trải qua 10 khóa đào tạo giáo viên âm nhạc đã tốt nghiệp, nhà trường đã
26
góp phần không nhỏ trong việc cung cấp nguồn nhân lực giáo viên giảng dạy
năng khiếu cho các trường phổ thông trong toàn tỉnh.
Từ những khó khăn trong bước đầu thành lập và gây dựng, đến nay nhà
trường đã có 4 phòng âm nhạc lắp đạt trang thiết bị, có đội ngũ giảng viên đầy
kinh nghiệm, yêu nghề và đầy nhiệt huyết. Tuy nhiên vẫn còn một số mặt tồn
tại cần khắc phục.
+ Về công nghệ thông tin: Đã được đưa vào giảng dạy và ứng dụng
trong học đường cách đây hơn chục năm, nhưng gần đây CNTT mới thực sự
phổ biến trong giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, việc biên soạn giáo án bằng
CNTT còn rất hạn chế ở tổ Nhạc, điều đó cũng làm ảnh hưởng tới chất lượng
giảng dạy.
+ Xét về năng lực lí luận: Năng lực lí luận là rất quan trọng và cần thiết
cho mỗi giảng viên trong việc vận dụng để tìm hiểu, lập luận và giải quyết
vấn đề trong việc NCKH. Nhưng, việc trang bị năng lực lí luận cho các giảng
viên còn rất hạn chế. Các cuộc hội thảo, tọa đàm chuyên môn hầu như là
không được tổ chức.
+ Năng lực ngoại ngữ: Trường Đại học Đồng Nai luôn phát động việc
học ngoại ngữ, bồi dưỡng ngoại ngữ để thông qua ngoại ngữ mở rộng tầm
hiểu biết, góp phần cho bài giảng thêm sinh động và hấp dẫn hơn.
+ Về việc thực hiện giảng dạy: Tổ âm nhạc của trường Đại học Đồng
Nai nay trực thuộc khoa Thể Dục - Nhạc Họa, đây là khoa chuyên đào tạo
những ngành năng khiếu nên có nhiều thuận lợi trong việc hướng dẫn sáng
tạo nghệ thuật, phát huy năng lực cho sinh viên. Về đội ngũ giảng viên hiện
nay có 8 giảng viên, trong đó có 1 thạc sĩ, 2 giảng viên đang theo học cao học.
Các giảng viên tổ âm nhạc phải đảm nhận việc giảng dạy, hướng dẫn
sinh viên thực hành và lí luận những chuyên ngành âm nhạc, những học phần
27
của lớp sư phạm âm nhạc chính quy, ngoài ra còn phải đảm nhận những học
phần của các lớp đào tạo hệ CĐSP Tiểu học, TCSP Mầm non.
Có những phân môn giảng viên được giao dạy không đúng với năng lực
chuyên môn của mình gây nhàm chán cho sinh viên. Bên cạnh đó những môn
thực hành chưa tách nhóm chia nhỏ số lượng người dẫn đến chất lượng giảng
dạy không đảm bảo, không hiểu quả.
+ Về việc nghiên cứu khoa học: Hằng năm nhà trường đều đề ra chương
trình nghiên cứu khoa học, đưa về các khoa để thực hiện có kiểm định và
kiểm nghiệm đánh giá. Đây là nhiệm vụ cần thiết cho mỗi cán bộ giảng viên
âm nhạc cũng như các bộ môn. Tất cả các nghiên cứu khoa học đều gắn liền
với công tác đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn.
- Đối tượng sinh viên âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai
Sinh viên âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai đều đang độ tuổi
thanh niên nên việc tiếp cận và học hỏi rất nhanh và nhạy bén nhất là trong
các lĩnh vực khoa học công nghệ và kỹ thuật. Bởi vậy sinh viên là những đối
tượng năng động sáng tạo thể hiện được sự tích cực chủ động trong học tập.
Chuyên ngành âm nhạc là một môn học đặc thù đòi hỏi không phải chỉ
có năng khiếu mà phải có cả sự nổ lực phấn đấu thì mới đạt được kết quả tốt.
Đối tượng sinh viên chuyên ngành âm nhạc của trường Đại học Đồng
Nai, ngoài những sinh viên yêu thích ngành học hay đam mê âm nhạc thì còn
có những sinh viên của các ngành khác được xét tuyển năng khiếu để vào
ngành âm nhạc, mà những đối tượng này lại chiếm đa số trong lớp học. Bởi
vậy việc học tập của các em rất khó khăn và hạn chế. Nhược điểm này phải có
thời gian mới khắc phục được mà thời lượng dành cho âm nhạc chưa tương
xứng với yêu cầu của chương trình.
Mặt khác năng lực của các sinh viên chênh lệch nhau vì các sinh viên ở
các tỉnh thành phố thuận lợi hơn là do các em được tiếp cận với âm nhạc
28
thông qua nhiều nguồn khác nhau như: Thông tin đại chúng, truyền thanh,
truyền hình hay các chương trình ca nhạc,... trong khi các sinh viên dân tộc
thiểu số lại ít có điều kiện tiếp xúc với âm nhạc nên việc tiếp thu các môn học
âm nhạc tỏ ra khó khăn hơn.
Nhiều sinh viên khi đi thực tập ở trường phổ thông đã bộc lộ những
điểm yếu về dạy hát cho học sinh, đặc biệt là khi dạy hát dân ca. Ngoài các ca
khúc thì vốn dân ca của sinh viên rất nghèo nàn, chưa được rèn luyện trong
việc hát cũng như dạy dân ca. Chẳng hạn khi dạy hát, sinh viên hát giai điệu
chưa chuẩn đặc biệt là những bài hát dân ca có luyến, láy, chưa giới thiệu
được các đặc điểm vùng miền của bài dân ca đó. Nếu như thực tập những tiết
dạy nội khóa, sinh viên tỏ ra lúng túng với các bài dân ca thì trong tổ chức
sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh cũng có nhiều nhược điểm.
Nhìn chung khả năng tiếp thu âm nhạc của các sinh viên âm nhạc chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố như năng khiếu, điều kiện kinh tế xã hội... do đó
giảng viên cần lựa chọn phương pháp phù hợp để giúp sinh viên đạt kết quả
học tập tốt hơn...
1.2.3. Chương trình, giáo trình và việc dạy học môn dân ca tại trường
1.2.3.1. Chương trình và giáo trình
a. chương trình chung
Chương trình cho ngành sư phạm âm nhạc của trường Đại học Đồng
Nai - hệ Cao đẳng sư phạm được thực hiện theo chương trình khung của Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành cho các trường CĐSP trên cả nước. Tuy nhiên
trường Đại học Đồng Nai ngoài việc đào tạo chuyên môn âm nhạc còn đào
tạo thêm Công tác đội. Về giáo trình được thực hiện với những phân môn đã
được ban hành, ngoài ra giáo viên có thể xây dựng thêm cho phù hợp với kiến
thức của người học và điều kiện cơ sở vật chất nhưng vẫn dựa trên những
chương trình đào tạo cơ bản.
29
- Kiến thức Giáo dục đại cương:
NGÀNH ĐÀO TẠO: CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ÂM NHẠC
Môn học Số tín chỉ STT
Kiến thức giáo dục đại cương chung cho khối ngành I CĐSP 19
1 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin 5
2 Tư tưởng Hồ Chí Minh 2
3 Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam 3
4 Quản lý HCNN và quản lý ngành GDĐT 2
5 Tiếng Anh 1 3
6 Tiếng Anh 2 2
7 Tiếng Anh 3 2
8 Giáo dục thể chất 3
9 Giáo dục quốc phòng 165t
Kiến thức giáo dục đại cương riêng cho ngành SP II Âm nhạc 15
10 Cơ sở văn hóa Việt Nam 2
11 Tiếng Việt thực hành 2
12 Nhập môn Logic học 2
13 Đại cương Mỹ học 2
14 Nhập môn Tin học 3
15 Dân số, môi trường, AIDS, ma túy 2
16 Thường thức Mỹ thuật 2
III Kiến thức nghiệp vụ chung cho khối ngành 15
17 Tâm lý học 1 2
18 Tâm lý học 2 3
30
19 Giáo dục học 1 2
20 Giáo dục học 2 3
21 Rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên 3
22 Công tác Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh 2
- Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp:
NGÀNH ĐÀO TẠO: CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ÂM TT Số tín chỉ NHẠC
Kiến thức ngành Sư phạm Âm nhạc 48
23 Lý thuyết Âm nhạc cơ bản 3
24 Hòa âm ứng dụng và phối bè 3
25 Hình thức và thể loại Âm nhạc 3
26 Lịch sử Âm nhạc thế giới và Việt Nam 3
27 Đọc và ghi nhạc 1 2
28 Đọc và ghi nhạc 2 2
29 Đọc và ghi nhạc 3 2
30 Đọc và ghi nhạc 4 2
31 Đọc và ghi nhạc 5 2
32 Hát 1 2
33 Hát 2 2
34 Hát dân ca 2
35 Nhạc cụ 1 2
36 Nhạc cụ 2 2
37 Đệm đàn 2
38 Chỉ huy và dàn dựng hát tập thể 3
39 Múa 2
31
40 Phương pháp dựng chương trình tổng hợp 2
41 Âm nhạc cổ truyền Việt Nam 2
42 Phương pháp dạy học Âm nhạc 1 3
43 Phương pháp dạy học Âm nhạc 2 2
V Học phần tự chọn 2
Chọn 1 học phần trong 3 học phần sau:
44 Tin học Âm nhạc 2
45 Thực hành sư phạm âm nhạc 2
46 Lịch sử văn minh thế giới 2
VI Thực tập sư phạm 6
47 Thực tập sư phạm 1 2
48 Thực tập sư phạm 2 4
VII Khóa luận tốt nghiệp hoặc học phần thay thế 5
Học phần thay thế khóa luận
49 Thực hành Âm nhạc tổng hợp 2
50 Lý thuyết Âm nhạc tổng hợp 3
Nhìn vào chương trình đào tạo giáo viên CĐSP âm nhạc trên cho thấy:
- Giáo sinh được học các môn lý luận âm nhạc như: Lý thuyết âm nhạc
cơ bản, lịch sử âm nhạc thế giới và Việt Nam,... Đồng thời ở hệ CĐSP, giáo
sinh còn được trang bị các kỹ năng hoạt động âm nhạc qua các môn học: Đọc
và ghi nhạc, hát, nhạc cụ, chỉ huy dàn dựng hát tập thể, múa,... tất cả các môn
học trên để rèn luyện cho sinh viên về khả năng thực hành chuyên môn để
hoạt động tốt các phong trào của trường phổ thông. Đây là những kiến thức
quan trọng để hình thành kỹ năng nghề cho sinh viên âm nhạc. Các môn học
giúp các em hiểu biết đầy đủ hơn về ngành nghề của mình nhằm hoàn thiện
hơn các kỹ năng, kỹ xảo chuyên ngành âm nhạc. Kiến thức giáo dục chuyên
32
nghiệp nhằm bổ trợ cho các em thêm nhiều kiến thức giúp các em tự tin hơn
trong hoạt động giảng dạy sau này. Ví dụ, môn Lịch sử âm nhạc giúp các em
hiểu biết về các trường phái âm nhạc trên thế giới, lịch sử dòng nhạc Việt
nam, các tác giả, tác phẩm nổi tiếng,... bổ trợ kiến thức cho các em dạy phần
âm nhạc thường thức ở trường phổ thông, môn Hòa âm giúp các em trong
phần đệm nhạc để dạy hát...
Sau khi tốt nghiệp ra trường, sinh viên âm nhạc phải đảm nhiệm các
giờ giảng trên lớp và các hoạt động âm nhạc ngoại khóa nên chuyên ngành
âm nhạc chiếm nhiều thời gian hơn và lượng kiến thức hơn với 55 tín chỉ.
Những học phần chuyên ngành là để rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp chuyên
sâu nên cần thiết phải được chú trọng và dành nhiều thời lượng hơn.
- Có thể nhận thấy số tín chỉ thuộc kiến thức giáo dục đại cương tương
đối nhiều trong khi kiến thức chuyên ngành lại quá ít đã tạo sự chênh lệch
trong chương trình đào tạo. Thực tế cho thấy với những lớp đã tốt nghiệp ra
trường các em chưa thực sự đủ năng lực hoạt động tại các cơ sở, kỹ năng đàn
và hát của các em còn rất hạn chế, kiến thức âm nhạc còn hạn hẹp. Do vậy
việc điều chỉnh chương trình đào tạo theo hướng giảm tải phần kiến thức đại
cương, tăng cường thời lượng cho kiến thức chuyên ngành là rất cần thiết để
có thể cung cấp kiến thức và kỹ năng cho mỗi em sinh viên khi tốt nghiệp ra
trường. Bởi, phần kiến thức chuyên ngành bao gồm những phân môn chuyên
ngành được đào tạo sâu rất cần trải qua một quá trình rèn luyện nhất định chứ
không chỉ gói gọn trong một thời gian ngắn mà đòi hỏi hình thành kỹ năng và
kỹ xảo được.
Học phần Hát là học phần quan trọng nhất trong việc rèn luyện kỹ năng
hát cho sinh viên, và cũng là phân môn quan trọng của âm nhạc ở các trường
phổ thông. Song, thực tế cho thấy, môn hát có thời lượng không nhiều. Nếu
kể cả hát dân ca thì tổng số đơn vị học trình cho toàn khóa học của SV CĐSP
33
âm nhạc chỉ có 6 tín chỉ (2 tín chỉ cho phần hát dân ca). Có thể nói môn thanh
nhạc là chuyên ngành đào tạo cần phải thực hiện trong cả 3 năm học (6 kỳ),
nhưng hiện nay chỉ thực hiện trong 2 năm (4 tín chỉ) dẫn đến sinh viên chưa
hình thành được kỹ năng hát, chưa thực hiện được kỹ xảo thành thói quen
nghề nghiệp. Đó là chưa kể tiết học được học theo kiểu tập thể, mỗi nhóm
sinh viên từ 12 - 15 em. Với số lượng sinh viên đông như vậy, giảng viên
không thể hướng dẫn cụ thể từng sinh viên và định hướng năng lực cho từng
em được. Bên cạnh đó là học phần Nhạc cụ - một học phần đòi hỏi kỹ năng
cao và thời gian tập luyện rất nhiều. Học phần này cũng chỉ còn được thực
hiện trong 2 năm (4 tín chỉ). Trong khi ở các cơ sở mà sau này các em làm
việc thì đánh đàn và hát nhạc lại là những môn trọng yếu.
b. Nội dung chương trình môn dân ca và giáo trình môn học
* Nội dung chương trình môn dân ca
Chương 1
- Vai trò của dân ca trong nhà trường.
- Học một số bài dân ca đồng bằng Bắc bộ.
- Học một số bài dân ca vùng núi phía Bắc.
- Học một số bài dân ca miền Trung.
Chương 2
- Học một số bài dân ca vùng Tây Nguyên.
- Học một số bài dân ca vùng đồng bằng Nam bộ.
- Giới thiệu một số điệu chèo, cải lương phổ biến.
Các bài Dân ca đang được giảng dạy:
1. Ra ngõ mà trông.
2. 36 thứ chim
3. Cây trúc xinh
4. Hát ghẹo - Phú Thọ
34
5. Bà Rí
6. Hát chèo thuyền
7. Hò đắp đê
8. Lý 10 thương
9. Lý Hoài Nam
10. Ví dặm
11. Lý con sáo sang sông
12. Lý kéo chài
13. Lý con cóc
14. Lý cây khế
15. Kiên Giang mình đẹp lắm
Nhìn vào chương trình đào tạo trên và nội dung giảng dạy môn dân ca
tại trường cho thấy:
Với 3 năm đào tạo tại trường, sinh viên sư phạm âm nhạc được đào tạo
với tổng số 110 tín chỉ, được chia ra cho các học phần bao gồm cả kiến thức
đại cương và kiến thức chuyên ngành như vậy chưa thật hợp lý. Số học phần
chuyên ngành sâu vẫn chưa được chú trọng. Hơn nữa, nhìn vào thực tế thì
năng lực của sinh viên chưa đáp ứng được nhu cầu của các cơ sở. Trong thực
tế, ngoài việc giảng dạy trên lớp thì tất cả các giáo viên âm nhạc đều phụ
trách các hoạt động ngoại khóa, đặc biệt là âm nhạc. Các em chưa có đủ kỹ
năng để thực hiện một chương trình lớn có tính nghệ thuật, các chương trình
văn nghệ mà các em đảm nhận mới chỉ dừng ở mức tham gia phong trào. Vậy
nên rất cần thiết phải thay đổi lại chương trình đào tạo, cần quan tâm chú
trọng và dành nhiều thời gian thời lượng cho những môn chuyên ngành. Có
thể giảm bớt những học trình của khối kiến thức giáo dục đại cương, khối
kiến thức các chuyên nhành khác, thậm chí mạnh dạn bổ sung thêm thời
lượng vào chương trình đào tạo nói chung và các môn chuyên ngành nói
35
riêng. Bên cạnh đó, cũng cần lắng nghe từ phía người học để bổ sung chỉnh
sửa những kiến thức đáp ứng nhu cầu cho người học.
Về chương trình môn Dân ca theo tôi 2 tín chỉ (30 tiết) là quá ít. Nếu có
thể được thì tăng thêm thời lượng cho môn Dân ca đồng thời cần phải đổi mới
chương trình giảng dạy thì mới giúp cho sinh viên hiểu biết được các làn điệu
các dân tộc Việt Nam và còn giúp các em thấm được cái hồn của cha ông để
mà yêu mến, bảo tồn và phát triển những di sản đó. Mặt khác chương trình
chưa phù hợp với nhu cầu tại các cở sở mà các em giảng dạy sau này và cũng
chưa giới thiệu được nhiều về các vùng miền của các dân tộc Việt Nam. Việc
giảng dạy chưa đúng với chương trình giảng dạy đó là trong các bài hát được
giảng dạy không có các bài dân ca Tây Nguyên và các bài dân ca của các dân
tộc miền núi phía Bắc. Bên cạnh đó các bài hát chưa được phân đều: Ví dụ
các bài hát miền Bắc nhiều, các bài hát của miền Trung, Nam bộ lại ít mà
hoàn toàn thiếu vắng các bài hát địa phương: Châu Ro, Mạ, Kơ Ho, S’Tiêng.
Đối với môn Dân ca, việc cải tiến chương trình 10% phần mền ở địa
phương chính là điều kiện thuận lợi để đưa dân ca Châu Ro, Mạ, S’Tiêng, Kơ
Ho vào chương trình đào tạo môn dân ca cho giáo sinh hệ CĐSP âm nhạc ở
trường Đại học Đồng Nai.
* Giáo trình môn học
Học liệu bắt buộc gồm có:
+ Giáo trình Hát dân ca, đào tạo giáo viên THCS hệ Cao đẳng Sư
phạm.
+ Nguyễn Thị Mỹ Liêm, (2008), Hát dân ca, Nxb Âm nhạc
+ Sách giáo khoa âm nhạc lớp 6,7,8,9.
Học liệu tham khảo:
+ Các tuyển tập dân ca các vùng, miền, các dân tộc.
+ Tuyển tập dân ca 3 miền, Nxb Trẻ.
36
Như vậy, hiện trường cũng chưa có giáo trình giảng dạy riêng cho môn
học này tại trường để phù hợp với một trường SP tại địa phương.
1.2.3.2. Việc giảng dạy môn Dân ca tại trường Đại Học Đồng Nai
Môn Dân ca mới được đưa vào chương trình giảng dạy cho hệ CĐSP
tại trường Đại học Đồng Nai năm vừa qua. Với 2 tín chỉ được dạy trong một
học kỳ, như vậy 1 tuần sinh viên được học 2 tiết. Trong quá trình học tập, mặc
dù Thầy và trò đã cố gắng rất nhiều song kết quả vẫn còn chưa tốt, bởi xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau đã tác động ảnh hưởng đến quá trình
dạy học dẫn đến chất lượng dạy môn dân ca chưa cao.
Trong suốt quá trình giảng dạy, tổ Nhạc đã xác định rõ tầm quan trọng
của môn dân ca trong đào tạo giáo sinh hệ CĐSP âm nhạc, nhưng trong thực
tế dạy học môn dân ca vẫn còn nhiều hạn chế.
+ Về giảng viên: Giảng viên không chuyên nên việc giảng dạy môn dân
ca trở nên khó khăn, tạo cảm giác nhàm chán cho sinh viên.
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên thường chú ý đến trình tự dạy
một bài hát hơn là truyền đạt những ý tưởng để sinh viên có thể cảm nhận cái
hay, cái đẹp của bài hát, hay phong tục tập quán, vùng miền đặc trưng của các
vùng dân ca đó. Dân ca có rất nhiều loại, mỗi vùng miền có một cách hát khác
nhau. Trước khi dạy một bài dân ca nào đó thì giảng viên cần giới thiệu về
vùng miền đó, vì vậy giảng viên phải thực sự hiểu biết về vùng miền đó, mà
vốn hiểu biết về các làn điệu dân ca của giảng viên chưa phong phú. Đây cũng
là những đặc điểm khó khăn trong việc giảng dạy các bài dân ca.
+ Về sinh viên: Khả năng hát dân ca của các em rất hạn chế, nhất là
những bài dân ca các vùng miền khác, vì khi học dân ca yêu cầu phải thể hiện
phong cách, giọng, tiếng nói địa phương của các vùng dân ca. Do sinh viên ít
tiếp cận thực tế, ít nghe dân ca nên chất liệu dân ca vùng miền chưa ngấm vào
các em do vậy việc học dân ca với các em không dễ dàng.
37
+ Về phương pháp dạy, giáo viên sử dụng phương pháp dạy giống như
môn dạy xướng âm (tập đọc nhạc), nghĩa là cho học sinh xướng âm phần giai
điệu xong rồi mới đến giai đoạn ghép lời để hoàn thành bài học đã dẫn đến
những khó khăn trong việc học dân ca của các em, chưa đáp ứng được mục
tiêu mà môn học đề ra. Cụ thể là:
-> Với âm tô điểm: Do phải tập trung tính trường độ của âm tô điểm
nên việc thực hành luyện tập những mẫu tô điểm không nhiều, hơn nữa lối ký
âm trên 5 dòng kẻ đâu có ghi hết được tinh thần của bài dân ca.
-> Với chùm âm luyến: Các em còn nhầm lẫn giữa âm tô điểm và âm
luyến. Ví dụ như khi hát quãng hai của âm luyến thì nhầm là âm tô điểm hoặc
ngược lại do kiến thức về lý thuyết âm nhạc còn hạn chế. Để giải quyết được
vần đề này cũng đòi hỏi khá nhiều thời gian, như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến giờ dạy hát.
-> Với các quãng nhảy: Đa số các em đọc quãng nhảy chưa chính xác
vì khi học theo hình thức đọc xướng âm các em chưa tìm được các âm tựa để
đọc cho đúng. Song khi học theo hình thức truyền khẩu thì các em ít bị mắc
lỗi hơn do các em hát chỉ cần có năng khiếu tai nghe chuẩn là có thể hát được.
Ngoài ra, tài liệu sách giáo khoa và thiết bị phục vụ học tập của giáo
sinh chưa đầy đủ để cho các em tham khảo và học tập. Trong các giờ lên lớp,
số lượng sinh viên rất đông nên khi dạy giảng viên không thể chú ý sửa sai
cho từng cá nhân mà chỉ có thể sửa chung cho tập thể.
Quá trình dạy và học dân ca ở trường Đại học Đồng Nai cho thấy chất
lượng học môn hát dân ca chưa đảm bảo với yêu cầu đặt ra là các em chưa hát
đúng các làn điệu dân ca cơ bản của các vùng miền.
Qua nghiên cứu thực trạng dạy và học môn dân ca hệ CĐSP âm nhạc
trường Đại học Đồng Nai còn cho thấy thiếu vắng các bài dân ca một số dân
tộc địa phương Choro, Châu Mạ,…
38
Tiểu kết chương 1:
Việt Nam có một kho tàng dân ca phong phú. Đó là sự kết tinh những
tinh hoa văn hóa đời sống của nhân dân ta. Qua dân ca chúng ta không những
thấy được phong tục tập quán, cuộc sống lao động thường ngày của người dân
mà còn cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước, tình yêu trai gái, tình
yêu của người mẹ dành cho đứa con yêu dấu của mình. Dân ca len lỏi đến
từng ngõ ngách trong đời sống con người từ cái ăn cái mặc (được thể hiện
trong Lí), cho đến những trò chơi dân gian dành cho trẻ nhỏ, những bài hát
giao duyên dành cho lứa tuổi thanh niên, hay những bài hát ru của những
người mẹ, người chị, từ quá trình lao động (trong các điệu Hò) cho đến những
lễ nghi phong tục phục vụ cho nhu cầu tinh thần của con người.
Mỗi vùng miền có những làn điệu dân ca khác nhau. Ngữ điệu và quá
trình lao động của các vùng miền khác nhau cũng tạo nên những làn điệu
mang đặc trưng riêng của vùng miền đó. Nơi thì dân ca mang tính tự sự, nơi
thì dí dỏm vui tươi, nơi thì duyên dáng trữ tình,…
Dân ca là nơi chúng ta có thể thấy được sự phong phú về văn hóa tinh
thần của cha ông ta. Nghe những làn điệu dân ca chúng ta sẽ thấy được cuộc
sống lao động, hay những phong tục lễ nghi của cha ông, dần dần tạo cho
người nghe dân ca tình yêu quê hương đất nước và con người.
Trường Đại học Đồng Nai mặc dù đã đưa dân ca vào chương trình
giảng dạy nhưng quá trình đào tạo vẫn chưa đạt kết quả theo yêu cầu đề ra do
có nhiều yếu tố bất cập. Sự bất cập đó được thể hiện ở nhiều khâu như: Thời
gian học không nhiều (30 tiết), cơ cấu tổ chức lớp lớn (45 SV/lớp), nội dung
chương trình đào tạo chưa hợp lý (quá dài trải song lại thiếu vắng những bài
dân ca địa phương), phương pháp dạy học chưa khoa học,… Nhằm nâng cao
chất lượng của việc dạy học môn dân ca tại trường Đại học Đồng Nai, theo tôi
39
phải giải quyết được những bất cập đó và đây cũng là những nội dung sẽ được
chúng tôi đề cập ở chương 2.
40
Chương 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
2.1. Giải pháp về xây dựng nội dung chương trình và giáo trình
2.1.1. Quan tâm đến yếu tố địa phương trong nội dung chương trình
đào tạo môn hát dân ca tại trường
Đồng Nai là một tỉnh vùng miền Đông Nam Bộ nước ta, với diện tích
5.903.94 km2, dân cư đông đúc. Theo dòng lịch sử thì phần đất của Đồng Nai
xưa là thuộc vương quốc Chân Lạp, hoang sơ và chủ yếu là dân bản địa như
các dân tộc Mạ, Châu Ro, S’Tiêng,... và một số ít người Khơme sinh sống.
Đồng Nai có vị trí thuận lợi để phát triển về kinh tế, do quá gần với
thành phố Hồ Chí Minh nơi có nhiều trường Đại học lớn nhất nước nên hệ
thống giáo dục ở đây không nhiều.
Với sự phát triển của xã hội hiện nay, sinh viên có rất nhiều điều kiện
thuận lợi để tiếp cận những kiến thức xã hội. Đó là những sự đổi mới, phát
triển của thế giới. Cá nhân tôi muốn các em không chỉ biết đến những kiến
thức, những nền văn hóa mới mà còn phải luôn biết đến “cội nguồn” của dân
tộc mình. Đó là di sản văn hóa mà cha ông để lại cần được con cháu bảo tồn
và phát triển. Không những các em nên biết đến mà còn phải giữ gìn và yêu
mến những nét văn hóa đó, nhất là truyền thống văn hóa địa phương trong đó
có dân ca địa phương. Vì vậy, theo tôi nghĩ trong chương trình dạy dân ca cho
sinh viên hệ CĐSP trường Đại học Đồng Nai, với đặc thù là trường nằm trên
địa bản tỉnh - nơi có nhiều con em các dân tộc trong tỉnh học tập, thì ngoài
dân ca người Việt ba miền nhất thiết phải có những bài dân ca các dân tộc bản
địa để các sinh viên có hiểu biết hơn về cuội nguồn dân ca - nơi mình sinh
sống. Đó là các bài dân ca của các dân tộc Châu Mạ, Choro, S’Tiêng và Kơ
Ho…
41
Đặc biệt, trên cơ sở chương trình khung và kế hoạch đào tạo của Bộ
Giáo dục và đào tạo ban hành cho tất cả các cơ sở đào tạo của giáo viên hệ
Cao đẳng sư phạm âm nhạc, Bộ cho phép các địa phương có học sinh, sinh
viên dân tộc vùng sâu, vùng xa tùy theo đặc điểm tình hình thực tế của địa
phương mình mà có thể vận dụng 10% phần mềm để xây dựng chương trình
chi tiết mang tính thực tiễn phù hợp với địa phương, khoa sư phạm âm nhạc
trường CĐSP Đồng Nai cần vận dụng tốt qui định này của Bộ.
Đối với môn học hát dân ca, việc cải tiến chương trình để đưa dân ca
bản địa Châu Mạ, Choro, S’Tiêng, Kơ Ho… vào chương trình môn học dân
ca cho sinh viên hệ cao đẳng sư phạm âm nhạc ở trường Đại học Đồng Nai là
việc làm cần thiết. Việc làm này không những không làm mất đi tính logic về
chương trình của Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành mà thực chất là để làm
tăng thêm hiểu quả dạy hát dân ca trong nhà trường.
Tuy nhiên, việc lựa chọn một số bài bản dân ca của dân tộc bản địa để
đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường cần được chú ý đến tính hợp
lý, tính khoa học để đảm bảo việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn của dân
tộc, nâng cao hiệu quả giáo dục âm nhạc trong nhà trường.
2.1.2. Các bài dân ca bổ sung và thay thế trong chương trình đào tạo
môn hát dân ca tại trường
- Tiêu chí chọn dân ca:
Để đảm bảo cho chương trình được bổ sung một cách cần và đủ phải
chú trọng đến nội dung chương trình và phương pháp dạy với mục tiêu đã đề
ra. Việc lựa chọn dân ca trong chương trình dạy nhạc cho sinh viên khoa
Nhạc hệ Cao đẳng trường Đại học Đồng Nai phải dựa trên cơ sở thực tế trong
việc dạy và học dân ca của giáo viên và học sinh các trường phổ thông cũng
như sinh viên khoa Nhạc.
42
Khả năng lĩnh hội các tác phẩm âm nhạc nói chung và dân ca nói riêng
phụ thuộc vào trình độ tiếp thu của các đối tượng mà chúng ta cần hướng tới -
đó là học sinh Tiểu học, học sinh Phổ thông. Bởi vậy các bài hát lựa chọn vào
chương trình dạy không chỉ hay, đặc sắc có ý nghĩa giáo dục mà còn phải đảm
bảo tính vừa sức đối với trình độ của các em. Giai điệu bài hát đơn giản, âm
vực vừa phải, tiết tấu mạch lạc dễ hát, dễ nhớ phù hợp với các em mới phát
huy được hết tác dụng giáo dục thẩm mỹ, thu hút được sự yêu thích, say mê
học tập của sinh viên.
Các sinh viên, những người thầy giáo cô giáo tương lai cần học những
bài dân ca của quê hương để mở rộng và tăng cường thêm vốn kiến thức về
âm nhạc truyền thống dân tộc.
Nội dung lời ca của bài dân ca phải có giá trị giáo dục thẩm mỹ tích cực
về nhiều mặc, đáp ứng được nội dung của môn học, cũng như giáo dục đạo
đức lối sống lành mạnh cho sinh viên. Chủ đề của các bài hát dân ca phải là ca
ngợi tình yêu quê hương đất nước, tính đoàn kết, vẻ đẹp của thiên nhiên đạo lí
uống nước nhớ nguồn.
Các bài hát dân ca được lựa chọn để đưa vào chương trình giảng dạy
không chỉ hay, đặc sắc mà phải có ý nghĩa giáo dục nhân cách toàn diện cho
sinh viên nhưng phải đảm bảo tính vừa sức (không khó quá cũng không dễ
quá) đối với trình độ của sinh viên. Giai điệu bài hát phải đơn giản, âm vực
vừa phải, tiết tấu rõ ràng, mạch lạc, dễ hát, dễ nhớ phù hợp với các em mới
phát huy được hết tác dụng giáo dục thẩm mỹ, thu hút được sự yêu thích, say
sưa học tập của sinh viên.
Những bài hát được đưa vào chương trình giảng dạy cho hệ CĐSP âm
nhạc của trường Đại học Đồng Nai phải có tính ứng dụng cao để sau này các
em sinh viên ra trường có thể sử dụng giảng dạy và hoạt động phong trào văn
nghệ ở các trường trung học là phải đa dạng và phong phú.
43
Về bài bản: Không khó về mặt học thuật nhưng lại đa dạng về vùng
miền, đó là bởi vì cần phải thông qua các bài hát cho sinh viên thấy được sự
phong phú và những nét đẹp của dân ca Việt Nam. Ngoài ra giảng viên cần
dạy cho sinh viên học thêm nhưng bài dân ca khác nhằm mở rộng và tăng
cường hơn nữa vốn kiến thức và dân ca. Đặc biệt là không thể thiếu các bài
dân ca các dân tộc bản địa, bởi vì ngoài ý nghĩa thuần túy là học hát, nó còn
làm giàu thêm kiến thức về dân ca cho học sinh, sinh viên và mang ý nghĩa
gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc.
Khi lựa chọn, cần chọn những bài hát mang đến hiểu quả cao để rèn
luyện các kỹ thuật cần thiết và mang đến những kiến thức văn hóa đặc trưng
của từng vùng miền.
Dân ca Bắc bộ, tiêu biểu là những làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh,
chúng ta cần lựa chọn những bài hát tiêu biểu có thể giới thiệu được văn hóa
nơi đây, bên cạnh đó còn phải rèn luyện các kỹ thuật để phát triển giọng hát
của sinh viên nên có thể ưu tiên cho thể loại dân ca này.
Dân ca Trung bộ, với đặc trưng của vùng đất này là những làn điệu lý,
hò Huế, hát Giặm, hát Ví Nghệ Tĩnh,... những làn điệu này mang nhiều âm
hưởng vùng miền, giai điệu có nhiều quãng khó giúp phát triển tốt hơn trong
quá trình học hát của sinh viên.
Dân ca Nam bộ, với các điệu lý phong phú, âm nhạc của vùng này có
kỹ thuật hát dễ thực hiện hơn dân ca trung bộ.
Dân ca một số tộc người thiểu số như dân tộc Choro, Châu Mạ,
S’Tiêng,... ngoài tiếng dân tộc cần có phần lời đã được dịch ra tiếng phổ
thông để dễ phổ cập.
- Các bài dân ca bổ sung và thay thế:
Dựa trên các tiêu chí trên, chúng tôi đã chọn ra được một số bài dân ca
thay thế và bổ sung như sau:
44
Môn học có thời lượng 2 tín chỉ (30 tiết), trong 30 tiết đó, chúng ta chỉ
cần dành 2 tiết để dạy về vai trò của dân ca trong nhà trường và giới thiệu sơ
lược về các thể loại dân ca. Về phần giới thiệu một số làn điệu chèo, cải lương
phổ biến theo tôi nghĩ là không cần thiết vì chèo và cải lương là loại nhạc sân
khấu, nội dung này thuộc đối tượng của môn âm nhạc cổ truyền. Vậy với 28
tiết còn lại sẽ dùng để dạy hát các bài dân ca có trong chương trình và 10%
phần mền dân ca dân tộc bản địa.
Sau đây là những bài dân ca mà chúng tôi lựa chọn để đưa vào môn dạy
hát dân ca của trường:
* Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ
- Cây trúc xinh (dân ca Quan họ)
- Xe chỉ luồn kim (dân ca Quan họ)
- Lý cây đa (dân ca Quan họ) (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 8)
- Bà rí (Hát ghẹo – Phú Thọ)
* Dân ca vùng núi phía Bắc
- Mưa rơi (Dân ca Xá – Tây bắc) (bài hát trong chương trình hát - nhạc
lớp 6)
- Noọng nòn (Ru con – Dân ca Tày)
- Gà gáy le te (Dân ca Cống khao)
- Mời trầu (Dân ca Thái)
* Dân ca Miền Trung
- Đi cấy (Dân ca Thanh Hóa) (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 6)
- Ví, Dặm (Dân ca Nghệ An)
- Lý mười thương (Dân ca Huế)
- Lý hoài nam (Dân ca Huế)
- Lý thương nhau (Dân ca Quảng Nam)
45
- Hò ba lý (Dân ca Quảng Nam) (bài hát trong chương trình hát - nhạc
lớp 7)
* Dân ca các dân tộc Trung bộ
- Chim bay (dân ca Chăm). (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 6)
- Đi cắt lúa (dân ca Hơ Rê.)(bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 7)
- Gơxơvi (Chiều về - Dân ca Ba nar)
- Đi thăm mả (Dân ca Gia rai)
- Anh ở đâu (Dân ca Ê đê)
* Dân ca Nam Bộ
- Lý con sáo sang sông
- Lý kéo chài (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 9)
- Lý dĩa bánh bò (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 8)
- Lý con cóc
- Lý bằng lưu thủy
* Dân ca dân tộc bản địa
- Bretơlir (Rừng xanh – dân ca Mạ)
- Ỏ lọt ê pu ngan (Em đi chăn trâu – dân ca Mạ)
- Iêng con (Ru con – dân ca Kơ Ho)
- King tơ lơ thoang (Trống chiêng cầu thần – dân ca Choro)
- Vượt nhâu khuây (Đón Ông trăng – dân ca S’Tiêng)
2.1.3. Các tài liệu có thể dùng để tham khảo cho việc xây dựng giáo
trình giảng dạy môn dân ca tại trường
1. Dân ca Việt Nam, Nxb Mỹ thuật Âm nhạc, Hà Nội, 1970.
2. Dân ca Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 2001.
3. Dân ca Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001.
4. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam - Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1978.
46
5. Dân ca Bình Trị Thiên, Nxb Khoa học Xã Hội, 1994.
6. Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1974.
7. Tú Ngọc, Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1994.
8. Lư Nhất Vũ – Lê Giang, Tìm hiểu Dân ca Nam Bộ, Nxb TP. Hồ Chí
Minh, 1983.
9. Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ, Tập 1 và 2, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1983.
10. Dân ca Trung du, tập 1 và 2, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1961-1962.
11. Dân ca Tày, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1962.
12. Dân ca Tày, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1980.
13. Dân ca Thái, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1973, 1980.
14. Dân ca H’Mông, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1979.
15. Dân ca Tây Nguyên, tập 1 và 2, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1960, 1961.
16. Nông Thị Nhình, Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Dao,
Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000.
17. Trần Viết Bính – Nguyễn Thị tuyết hồng, Dân ca Mạ, Châu Ro,
S’Tiêng, Kơ Ho ở Đồng Nai, Nxb Đồng Nai, 2011.
2.2. Giải pháp về phương pháp dạy môn dân ca
2.2.1. Phương pháp giới thiệu về đặc điểm thể loại và làn điệu dân ca
a. Phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình còn được gọi là phương pháp giảng giải,
giảng thuật. Luôn được sử dụng rộng rãi trong các giờ học. Đối với dạy âm
nhạc, dùng lời không nhiều như dạy các môn Văn, Sử nhưng vẫn là phương
pháp cơ bản quan trọng không thể thiếu.
Khi dạy về đặc điểm thể loại môn dân ca và làn điệu dân ca không chỉ
dùng phương pháp thuyết trình mà còn phải dùng một số phương pháp khác
thì giờ học mới sinh động và sinh viên dễ tiếp thu bài. Chúng ta nên kết hợp
phương pháp này với phương pháp Nêu vấn đề, đó là giảng viên tổ chức
47
hướng dẫn, khơi gợi, dẫn dắt những kiến thức, kỹ năng mới. Không áp đặt các
kiến thức mới mà để sinh viên nêu lên những kiến thức mà các em hiểu biết.
Sau đó dẫn dắt để các em tiếp thu nhũng kiến thức mới mà giảng viên muốn
trình bày. Phương pháp này đòi hỏi giảng viên phải nắm rất vững sinh viên,
nắm vững kiến thức, kỹ năng cần dạy đồng thời phải tìm được mối liên hệ đó.
Đặc biệt phương pháp này chú trọng đến việc tạo hứng thú trong học tập của
sinh viên, như vậy sẽ tạo được động lực bên trong việc học tập của các em.
b. Phương pháp trực quan
Khi nhận thức sự vật, con người thường đi từ “trực quan sinh động”
đến “tư duy trừu tượng”. Điều này không chỉ đúng với quy luật nhận thức nói
chung mà trong dạy học người ta thường sử dụng triệt để nó với tư cách là
một phương pháp đầy hiệu lực. Trong dạy học âm nhạc, âm thanh vô cùng
trừu tượng, yêu cầu trực quan là tối cần thiết, các phương tiện đồ dùng dạy
học như nhạc cụ, máy nghe, băng hình rất tốt cho việc giới thiệu các làn điệu
dân ca ở các miền, bên cạnh đó là những hình ảnh bản đồ, giúp sinh viên thấy
và hiểu được phong tục tập quán các miền, từ đó hiểu hơn về đặc điểm thể
loại dân ca ở các miền.
2.2.2. Phương pháp dạy hát
Như đã trình bày ở chương 1, hiện môn hát đang sử dụng phương pháp
dạy hát dân ca theo cách đọc xướng âm trước, sau đó ghép lời đã làm giảm đi
vẻ mềm mại, mượt mà của các giai điệu dân ca các vùng miền. Hoặc dạy dân
ca giống như dạy các ca khúc mới nên hiệu quả chưa cao. Sau đây, là một số
phương pháp dạy hát dân ca mà tôi mạnh dạn đưa vào hy vọng phần nào thay
đổi chất lượng giảng dạy môn dân ca tại trường Đại học Đồng Nai.
a. Phương pháp trình bày tác phẩm
Trước khi dạy một bài dân ca nào đó, giảng viên sẽ trình bày bài hát đó
cho sinh viên nghe. Đây là bước cực kỳ quan trọng nhằm thu hút sự yêu thích
48
bài dân ca đối với sinh viên. Bởi, khi giảng viên trình bày tác phẩm sẽ đem
đến cho sinh viên toàn bộ vẻ đẹp của tác phẩm thông qua giọng hát của mình
bằng sự rung động thật sự, diễn cảm. Qua chính phần trình bày này, qua kỹ
năng biểu diễn các yếu tố âm nhạc mới được làm rõ nét, nổi bật thể hiện được
cái hồn của bài dân ca. Ở phương pháp này giảng viên kiêm luôn vai trò của
người “nghệ sĩ biểu diễn” bởi vậy muốn đạt được kết quả tốt giảng viên phải
nghiên cứu kĩ bài hát, tìm hiểu nội dung, phân câu, lấy hơi, xử lý những chỗ
khó, trau chuốt tiếng hát… và trước khi biểu diễn phải chuẩn bị tâm thế như
một nghệ sỹ trình bày trên sân khấu, kết hợp với một vài động tác nhẹ nhàng
phù hợp với bài hát thì sẽ sinh động hơn…
b. Phương pháp truyền khẩu trong quá trình thực hành - luyện tập hát
dân ca
Quá trình dạy học âm nhạc không chỉ có lý thuyết mà quan trọng nhất
là phải thực hành. Thực hành luyện tập bao gồm: Thực hành hát, thực hành
nghe nhạc, những hoạt động đó xuyên suốt trong quá trình học tập. Để thực
hiện các thao tác này, phương pháp truyền khẩu (giáo viên hát mẫu, sinh viên
hát nhắc lại) được đặt nên hàng đầu để đảm bảo tính truyền thống ẩn chứa
trong mỗi bài dân ca.
Thực hành rèn luyện chính là để hình thành kỹ năng thể hiện tốt các bài
dân ca, giúp sinh viên nắm bắt được sắc thái, cảm thụ tốt tính chất âm nhạc
của bài dân ca. Khi phát hiện chỗ sai, giảng viên có thể trình bày lại chỗ đó và
luyện tập nhiều lần để sinh viên hát đúng. Với bài hát dài, giảng viên chia
thành các đoạn, câu nhỏ cho sinh viên luyện tập được thuận lợi hơn.
Để hát dân ca đạt chất lượng tốt, trong khi thực hành - luyện tập hát dân
ca, giảng viên cần quan tâm đến việc giúp sinh viên luyện tập một số kỹ năng
hát như:
49
- Kỹ năng hát liền giọng: Hát liền giọng (légatto) là kiểu hát cơ bản
nhất để thể hiện các bài hát ru, các bài Quan họ, một số điệu lý, hò… Hát liền
giọng đòi hỏi các âm thanh từ âm nọ sang âm kia phải liên kết, nối liền nhau,
không bị đứt quãng. Có sự điều tiết hài hòa của các cơ quan phát âm, kỹ thuật
hơi thở, giai điệu bài hát trở thành một dòng âm thanh trong sáng, mềm mại,
diễn cảm.
+ Khi tập hát chú ý lắng nghe, điều chỉnh để đưa âm thanh phát ra
vang, sáng, tròn tiếng, không thay đổi tính chất, có vị trí thống nhất, hơi thở
phải được khống chế, giữ đều, liên tục.
+ Trước khi vào tập các bài hát trữ tình nên cho sinh viên luyện các
mẫu câu luyện thanh bằng các từ thay đổi nhau để khởi động giọng.
Ma Mô
Ma Mô
Ma ma Mi ma Mi ma Mi ma
- Kỹ năng hát nẩy: Trong kỹ thuật ca hát, âm nẩy (Staccato) được sử
dụng để diễn tả tình cảm vui nhộn, rộn ràng, nhí nhảnh, mô phỏng tiếng cười,
tiếng chim hót, sự náo nhiệt, sôi động. Kỹ thuật hát âm nẩy có tác dụng mở
50
rộng âm vực, phát triển giọng hát, là biện pháp để khắc phục các cố tật như
giọng mũi, giọng cổ, hát sâu, gằn tiếng…
+ khi hát âm nẩy, giảng viên dạy các em cách khống chế hơi thở và đẩy
ra nhẹ nhàng. Cố gắng giữ cho bụng tương đối ổn định, mềm mại.
+ Âm thanh phát ra phải gọn, linh hoạt, nhẹ nhàng, rõ từng âm một.
Không được hét to, đẩy hơi ra ồ ạt.
+ Luyện giọng qua nét giai điệu dưới đây.
Ma a a a a
Ma a a a a
- Kỹ năng hát nhanh: Là kỹ thuật dùng để thể hiện những ca khúc mang
tính chất vui, hoạt, hài hước, dí dỏm, châm biếm. Những bài hát có phong
cách như vậy thường được viết ở tốc độ nhanh, đòi hỏi âm thanh phải linh
hoạt, sáng sủa, gọn, trôi chảy, nhấn đều vào các trọng âm, đảm bảo đúng tốc
độ.
+ Đầu tiên nên tập kỹ thuật hát nhanh bằng bài tập luyện thanh đơn
giản với tốc độ vừa phải, sau khi đã thuộc bài tập mới tăng tốc độ.
+ Lấy hơi phải nhanh, ngắt hơi phải chính xác theo quy định trong bài
hát.
+ Hơi thở hít vào vừa phải, không được lấy quá nhiều hơi.
Mi Mê Ma
51
ma Mi ma Mi
c. Phương pháp kiểm tra – đánh giá
Kiểm tra, cho điểm kết quả học tập của sinh viên nhằm đánh giá chủ
yếu ở những kiến thức, kỹ năng đạt được qua môn học, hoặc từng phân môn.
Kiểm tra, cho điểm kết quả học hát nhằm đánh giá ở sinh viên:
- Khả năng trình bày tác phẩm
- Mức độ thể hiện diễn cảm bài hát
- Mức độ hiểu biết về tác phẩm, đặc điểm vùng miền
- Mức độ hiểu, đánh giá sự trình bày, biểu diễn bài hát của sinh viên
Kết thúc một nội dung dạy học hoặc một phần của nội dung thì phải
tiến hành việc tổng kết, kiểm tra đánh giá và ôn tập. Đó là “chu trình khép
kín” của một công việc.
Trong dạy hát dân ca, ngoài việc kiểm tra đánh giá quá trình học như
trên, công việc này còn phải thực hiện thường xuyên trong mỗi giờ học. Sau
khi tập xong một câu hát hay một phần nào đó, giảng viên sẽ kiểm tra, đánh
giá, nhận xét và chính sửa cho từng cá nhân hoặc tổ, nhóm. Với thời lượng
của tiết học ít mà số sinh viên đông nên việc kiểm tra đánh giá nên dừng lại
theo nhóm, tổ (trừ trường hợp sinh viên cá biệt hát quá chênh phô) sẽ có kết
quả khả quan hơn.
Kiểm tra, đánh giá thường xuyên cũng là một hình thức tích cực làm
cho giờ học thêm sôi nổi. Kiểm tra cuối học kỳ hoặc cuối năm học, nên tổ
chức dưới hình thức chương trình biểu diễn nhẹ nhàng thì cuộc thi sẽ có hiểu
quả hơn.
2.3. Dạy hát dân ca kết hợp với các yếu tố khác
2.3.1. Hát dân ca gắn với múa (đối với dân ca các dân tộc thiểu số).
52
Múa và âm nhạc luôn luôn đi liền với nhau, âm nhạc của tộc người nào
thì có điệu múa riêng của tộc người đó. Hát gắn với vận động thân thể theo
điệu nhạc, điệu múa của các dân tộc thiểu số sẽ làm cho giờ học thêm nhiều
màu sắc và thú vị, sinh viên cũng sẽ hứng thú học hơn. Hát dân ca kết hợp với
học các điệu múa sẽ mang đến nhiều kiến thức cho sinh viên không chỉ về các
làn điệu dân ca mà còn bổ sung được cho các em kiến thức về âm điệu dân
gian của các tộc người.
Ví dụ, tộc người S’tiêng ở Đồng Nai có múa giã gạo (R’nay păl toong),
ở điệu múa này thường có từ 2 đến 3 người nữ múa. Người múa xoay quanh
cối giã gạo, động tác chủ đạo là hai tay cầm chày giơ lên cao trên đầu, ngực
ưỡn, lưng ngã ra phía sau, mông cong, chân kiễng cao, để tạo lực mạnh lao
chày xuống cối (giã) tạo đường cong lượn rất đẹp có yếu tố nghệ thuật. Khi
lao chày xuống (giã) thì hai chân khuỵu mạnh (tấn sâu), người gập (cúi) phía
trước, mông đẩy ra phía sau, hai tay khép sát hông. Khi dạy bài hát này, sau
khi sinh viên đã hát khá tốt bài hát, giáo viên nên cho các em hát kết hợp với
động tác múa mô phỏng kỹ thuật giã gạo của đồng bào. Việc làm này khiến
bài hát được trình bày sinh động, còn sinh viên hào hứng tham gia.
Ngoài ra người S’tiêng còn có các điệu múa chọc lỗ tra hạt (th.tuuel
đinh tút), múa gùi (săh, sơn tung), múa phát rừng (môi bri), múa đánh trống
Xagơ. Tộc người Mạ lại có các điệu múa cổ tay, múa nhún giật, múa tuyến
cong lượn, múa kết hợp nhạc cụ… Người Choro thì có múa dâng (bánh dày),
múa đánh chụm chõe, múa chim, múa dao (chà gạc dil), múa nỏ (aq), múa
sàng gạo (gha ney), múa cúng thần lúa (sa yang va), múa mừng lúa mới, múa
bóng (spăm tăm vly), múa cúng thần (spăm chlau).
Thật vậy, khi dạy hát các bài dân ca các dân tộc thiểu số, nếu giáo viên
có thể đưa thêm các động tác múa vào quá trình thể hiện sẽ đạt được hiểu quả
cao trong việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục bản sắc tộc người và trả lại giá trị
53
nguyên bản của bài dân ca. Có nghĩa là, chúng ta không bóc tách chúng ra
khỏi đời sống vốn có của nó là ca - múa - nhạc luôn đi kèm nhau trong một số
loại hình.
2.3.2. Hát dân ca gắn với việc giới thiệu sinh hoạt, phong tục tập
quán tộc người
Dân ca thể hiện đặc trưng nhất những nét văn hóa, phong tục tập quán
của các tộc người. Các bài hát dân ca thường mô tả chân thực cuộc sống hàng
ngày của người dân lam lũ. Hát một bài dân ca không phải là chỉ hát đúng giai
điệu mà phải thể hiện đúng cái hồn của bài hát, mà muốn vậy ta phải hiểu
được phong tục tập quán, cuộc sống sinh hoạt của tộc người đó.
Trước khi dạy hát một bài dân ca nào đó thì việc giới thiệu về phong
tục tập quán của tộc người đó cho sinh viên sẽ giúp các em sẽ hiểu biết và yêu
mến hơn các dân tộc đó, từ đó việc học sẽ nhanh hơn, việc cảm thụ của các
em cũng sẽ nhanh hơn... Có thể sử dụng các hình ảnh trên máy chiếu để sinh
viên được thấy các sinh hoạt của tộc người đó.
Ví dụ: Tộc người S’tiêng có rất nhiều phong tục gắn liền với vòng đời
của họ như phong tục dành cho phụ nữ khi sinh đẻ, tục đặt tên cho con trẻ, tục
cột chỉ tay cho con cái, tục cà răng căng tai, cưới hỏi, ma chay, chia của…
người S’tiêng còn có các lễ hội như lễ hội cầu mưa, lễ hội cúng thần lúa, lễ
hội phá bàu (còn gọi là tát bàu)… Còn với người Mạ những phong tục lại gắn
với sinh đẻ, đám cưới và tang ma như: Khi sinh con được vài ngày người mẹ
sẽ đem đứa trẻ ra suối gần nhà tắm với ý niệm: Bệnh tật sẽ trôi mau theo dòng
nước, đứa trẻ khỏe mạnh. Hay như về đám cưới của người Mạ, người ta làm
mổ trâu, làm heo đãi cả làng, ca hát nhảy múa, vui chơi… Hệ thống thần linh
của người Mạ cũng rất đa dạng song họ tin vào vị thần tối thượng là yang
N’du, ngoài ra người Mạ còn có lễ cúng thần lúa (Yang kòi), thần Núi (Yang
bơnơm)…
54
Vậy nên rất cần thiết dạy cân ca gắn liền với các sinh hoạt, phong tục
tập quán để sinh viên có cái nhìn tổng quan và hiểu biết của mình về văn hóa
các vùng miền và văn hóa các tộc người anh em trong cả nước. Cũng như
hiểu biết thêm về những bài dân ca mình sẽ được học có sự gắn kết như thế
nào trong cuộc sống cộng đồng: Hát ru phục vụ cho việc ru trẻ ngủ, hát giao
duyên dùng để tâm tình giữa các đôi trai gái v.v…
2.3.3. Dân ca kết hợp với việc giới thiệu trang phục các vùng miền
Trang phục là sự thể hiện nét văn hóa đặc trưng nhất của mỗi tộc người.
Chỉ cần nhìn vào trang phục chúng ta có thể phân biệt được là tộc người nào.
Vì vậy, việc kết hợp giới thiệu trang phục của các tộc người trong việc dạy
dân ca hay các chương trình biểu diễn sẽ làm rõ hơn nét đặc trưng văn hóa
của các tộc người.
Ví dụ: Khi dạy bài dân ca của tộc người S’tiêng nên giới thiệu cho sinh
viên về trang phục của họ như nam thì thường không mặc áo, đội nón mà chỉ
mặc chiếc khố - đây là nét đặc trưng cơ bản dành cho nam giới, phụ nữ
thường ở trần và mặc váy cao đến ngực. Váy được dệt theo từng tấm, tùy theo
người sử dụng mà chọn dệt những tấm thổ cẩm với cách mặc quay một vòng
quanh eo hông, sau đó giắt phần nút của váy vào cạp phía trên thắt lưng, loại
phức tạp hơn thì được máy nối từ đầu tấm thổ cẩm mặc trùm từ đầu xuống
thân, trên váy có nhiều hoa văn hoa lá, hình học… Với người Mạ thì đàn ông
thường đóng khố, ở trần. Áo thường rộng và hở tay vạt sau dài hơn vạt trước
và thường che kín mông. Trong các dịp lễ hội thì đàn ông thường quấn khăn
lên đầu và cài lông chim để làm duyên... phụ nữ thường mặc váy quần dài quá
bắp chân, hoa văn trên thổ cẩm của người Mạ rất phong phú: Hoa văn hình
học, mô phỏng hình người nhảy múa, các con vật, cây cối...
Hiện nay các trang phục truyền thống của các dân tộc không được
người dân mặc thường xuyên, họ chỉ mặc trong các dịp lễ tết. Vì thế, việc dạy
55
dân ca gắn liền với việc giới thiệu trang phục là một giải pháp góp phần giới
thiệu đặc trưng văn hóa dân tộc và bảo tồn trang phục rất đặc sắc của các dân
tộc Việt Nam nói chung.
Nếu điều kiện cho phép, trong một số giờ dạy học, giáo viên có thể mặc
trang phục dân tộc thì tính hấp dẫn của buổi dạy học cũng sẽ cao hơn.
2.4. Giải pháp thực tập sư phạm
2.4.1. Mục đích và yêu cầu của thực tập sư phạm
a. Mục đích
Nhằm cung cấp kiến thức âm nhạc dân tộc và những kỹ năng hát dân ca
cho sinh viên, đáp ứng mục tiêu đào tạo của trường và yêu cầu giáo dục âm
nhạc trong trường phổ thông.
Qua các làn điệu dân ca và kiến thức âm nhạc dân tộc hình thành ở sinh
viên sự yêu thích và thái độ trân trọng đối với nền âm nhạc truyền thống nước
nhà, giáo dục ý thức bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đào tạo ra giáo viên có đủ năng lực truyền dạy tốt dân ca ở các trường
phổ thông bên cạnh những kiến thức chung về âm nhạc và đồng thời nâng cao
chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp
giảng dạy hướng đến mục tiêu đào tạo con người mới phát triển toàn diện, hài
hòa phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b. Yêu cầu
- Nắm được các làn điệu dân ca trong chương trình.
- Chú trọng việc dạy hát dân một số dân tộc bản địa để từ đó hình thành
kỹ năng hát dân ca cho các em.
- Hiểu được tính chất đặc điểm của từng loại dân ca, phân biệt được các
làn điệu dân ca của các vùng miền, các dân tộc.
56
- Bồi dưỡng khả năng cảm thụ âm nhạc, biết quý trọng di sản văn hóa
dân tộc giúp sinh viên nhận thức được giá trị to lớn của việc học dân ca trong
giáo dục âm nhạc ở trường phổ thông.
2.4.2. Nắm vững đối tượng học và yêu cầu của bài học về nội dung
dân ca tại nơi thực tập sư phạm.
- Nắm vững đối tượng học:
Nơi thực tập là trường Đại học Đồng Nai, đối tượng là sinh viên tổ
Nhạc, khoa Thể dục - Nhạc họa. Như đã trình bày ở trên, đầu vào của các em
khá thấp vì vậy việc giảng dạy của giảng viên gặp nhiều khó khăn, mặt khác
sự chênh lệch trong khả năng cảm thụ âm nhạc của các em cũng là một vấn đề
cần khắc phục. Giảng viên cần nắm bắt đúng năng lực của các em để đưa các
phương pháp phù hợp cho môn dân ca.
Đại đa số các sinh viên tổ Nhạc đều ở khu vực miền nam nên khả năng
năng nắm bắt các ngữ điệu của các vùng miền rất thấp, nhất là các bài dân ca
của vùng miền Trung. Vì vậy, khi dạy giảng viên cần phải giải thích từ ngữ,
hát mẫu một số từ khó giúp sinh viên dễ tiếp thu hơn. Ngoài ra, giảng viên
cần gắn với các phong tục tập quán hay trang phục cùng với các điệu múa của
các dân tộc để nâng cao được kiến thức cho các em tốt nghiệp ra trường và
công tác tốt tại các cơ sở sau này.
- Yêu cầu của bài học về nội dung dân ca tại nơi thực tập sư phạm:
+ Qua các bài dân ca phải cung cấp được vốn kiến thức về phong tục
tập quán, văn hóa lối sống của các tộc người, thể hiện rõ đặc trưng từng vùng
miền.
+ Phải hình thành cho sinh viên các kỹ năng cần thiết về hát dân ca để
thể hiện đúng giai điệu bài hát và có thể hát truyền cảm bài hát.
+ Phát triển được tai nghe âm nhạc và nhạc cảm trên cơ sở rèn luyện
các kỹ năng ca hát thông qua từng thể loại dân ca.
57
+ Phát triển được giọng hát tự nhiên, củng cố và mở rộng âm vực của
giọng để thể hiện được các bài hát của vùng miền Trung hay các dân tộc thiểu
số.
+ Giúp sinh viên học thuộc, hát đúng ngữ điệu giai điệu các vùng miền
và biết trình bày các bài dân ca một cách chủ động, sáng tạo.
2.4.3. Giáo án và một số giờ thực dạy
* Xây dựng giáo án dạy hát dân ca một số dân tộc ở Đồng Nai
Giáo án 1
Bài hát: Iêng con (Ru con (6) - Dân ca Kơ Ho)
Sưu tầm và kí âm: Trần Viết Bính
1. Mục tiêu:
- Sinh viên làm quen với làn điệu dân ca dân tộc Kơ Ho.
- Sinh viên hiểu biết được những nét văn hóa của người Kơ Ho.
- Sinh viên hát đúng giai điệu và thuộc lời bài hát.
2. Chuẩn bị của Giảng viên:
- Nhạc cụ quen dùng.
- Tổng phổ bài hát Ru con (6).
- Một số hình ảnh về con người, phong tục tập quán của tộc người Kơ
Ho.
- Băng hình về bài hát Ru con (6).
3. Tiến trình dạy học:
Thời gian Hoạt động Hoạt động của Giảng viên 55’ của sinh viên
58
10 phút a. Kiểm tra bài cũ và luyện thanh (sử dụng
phương pháp thực hành – luyện tập).
- Kiểm tra 1 vài sinh viên cho hát lại bài cũ, - Sv thực hiện
Gv đánh giá và cho điểm
- Luyện thanh theo mẫu - Sv thực hiện
10 phút b. Giới thiệu đặc điểm vùng miền và làn điệu
dân ca dân tộc Kơ ho (dùng phương pháp
thuyết trình)
- Gv đặt câu hỏi để sv trả lời về những hiểu - Sv trả lời
biết của mình về đặc điểm vùng miền hay về
làn điệu dân ca sắp được học? (dùng phương
pháp nêu vấn đề)
- Gv cho các em xem 1 số hình ảnh về cuộc - Sv theo dõi
sống lao động, lễ tết, các dịp lễ hội âm nhạc
dân gian của người Kơ ho, trang phục, hệ
nhạc cụ nếu có (dùng phương pháp trực
quan)
- Từ những phát biểu của Sv, Gv bổ sung - Sv lắng nghe
25 phút c. Dạy hát (dùng phương pháp thực hành –
luyện tập)
- Cho Sv nghe qua băng đĩa bài hát Ru con - Sv lắng nghe
vài lần
- Gv hát cho Sv nghe bài hát kết hợp với một - Sv lắng nghe
số động tác minh họa cho việc ru con ngủ
+ Hát mẫu cho các em những câu chữ luyến
láy: “rồng”…
+ Gv hát mẫu lại cho Sv nghe
59
- Tập cho các em hát từng câu + Sv tập hát
+ Tập cho Sv hát các chữ luyến láy trong câu
nhạc
+ Tập cho Sv câu 2 và 3 tương tự như vậy
+ Nối hai câu hát lại với nhau
+ Kiểm tra từng nhóm hát, Gv nghe và sửa - Sv thực hiện
cho Sv (dùng phương pháp kiểm tra – đánh
giá)
- Gv cho Sv nghe lại bài hát một lần nữa + Sv thực
hiện
- Kiểm tra cá nhân hoặc một vài nhóm hát và + Sv hát
cho lớp nhận xét
+ Gv chỉnh sửa - Sv lắng nghe
và chỉnh sửa
5 phút d. Củng cố bài hát (dùng phương pháp thực + Sv lắng
hành – luyện tập) nghe
+ Cho Sv hát lại toàn bài, Gv đưa ra những
động tác giữ nhịp
+ Nếu còn thời gian, Gv cho Sv nghe thêm + Sv lắng
một số bài dân ca khác của người Kơ ho qua nghe
băng đĩa
- Dặn dò Sv về nhà hát thuộc bài và nghe
thêm một số bài dân ca Kơ ho khác
Giáo án 2
Bài hát: Kinh tơ lơ thoang (Trống chiêng cầu thần - Dân ca Choro)
Sưu tầm và kí âm: Trần Viết Bính
60
1. Mục tiêu:
- Sinh viên làm quen với làn điệu dân ca dân tộc Choro.
- Sinh viên hát đúng giai điệu và lời bài hát Trống chiêng cầu thần.
- Sinh viên hiểu biết được thêm về phong tục tập quán của tộc người
Choro.
2. Chuẩn bị của Giảng viên:
- Nhạc cụ quen dùng
- Một số hình ảnh về tộc người Choro
- Băng hình bài “Trống chiêng cầu thần”
- Tổng phổ bài “Trống chiêng cầu thần”
3. Tiến trình dạy học:
Hoạt động của Thời gian Hoạt động của Gv Sv
10 phút a. Kiểm tra bài cũ và luyện thanh (sử dụng - Sv thực hiện
phương pháp kiểm tra đánh giá và phương
pháp thực hành – luyện tập)
+ Gọi 1 số Sv hát bài cũ, Gv đánh giá và cho - Sv thực hiện
điểm
+ Luyện thanh theo mẫu
10 phút b. Gv giới thiệu sơ lược về tộc người Choro - Sv lắng nghe
và một số phong tục tập quán cũng như trang
phục và nhạc cụ của tộc Choro (dùng phương
pháp thuyết trình và phương pháp trực quan
sinh động)
- Cho Sv xem 1 số hình ảnh cuộc sống lao - Sv xem hình
động của người Choro
25 phút c. Dạy bài hát (dùng phương pháp thực hành
61
– luyện tập và phương pháp kiểm tra – đánh
giá)
- Gv cho Sv nghe băng hình bài Trống Chiêng - Sv lắng nghe
cầu thần vài lần
- Gv hát mẫu cho sv nghe kết hợp với một số - Sv lắng nghe
động tác múa Choro
+ Hướng dẫn cho Sv hát những chữ luyến láy - Sv lắng nghe
khó hát: “nhiều”,”mùa”, “rẫy”, “hòa”…
- Gv hát mẫu câu 1 và tập cho Sv hát - Sv lắng nghe
và thực hiện
+ Sv thực hiện + Nghe và chỉnh sửa cho Sv
- Gv hát mẫu câu 2 và tập cho Sv hát - Sv lắng nghe
+ Nghe và chỉnh sửa cho Sv + Sv thực hiện
+ Cho từng nhóm hát và chỉnh sửa cho các + Sv thực hiện
em
+ Nối hai câu vừa tập lại với nhau
- Tập các câu tiếp theo theo lối móc xích như
vậy cho đến hết bài
+ Kiểm tra cá nhân hoặc nhóm, Gv nghe và + Sv thực hiện
chỉnh sửa
5 phút d. Củng cố (dùng phương pháp thực hành
luyện tập và phương pháp kiểm tra đánh giá)
Cho Sv hát lại bài hát, kiểm tra một số em, Gv
nghe và chỉnh sửa
- Gv gõ nhịp cho Sv hát - Sv thực hiện
- Nếu còn thời gian, Gv cho Sv nghe thêm 1 + Sv lắng nghe
số bài dân ca Choro khác để Sv có thể cảm
62
nhận rõ hơn phong cách âm nhạc dân gian - Sv lắng nghe
Choro
- Dặn dò Sv về hát thuộc giai điệu và lời bài
hát, nghe các bài dân ca Choro khác.
* Một số giờ thực dạy
Bài hát: Iêng con (Ru con (6) - Dân ca Kơ Ho)
Sưu tầm và ghi âm: Trần Viết Bính
Tiết học được thực hiện tại lớp Nhạc K34, vào học từ tiết 2 ngày 13
tháng 4 năm 2013 do thầy Hoàng Nguyễn Quang Huy giảng dạy.
Giảng viên gọi vài sinh viên lên kiểm tra bài cũ rồi đánh giá và cho
điểm.
Cho lớp luyện thanh 3 – 5 phút.
Sau khi treo bảng phụ bài hát lên bảng để sinh viên tiện theo dõi trong
quá trình học hát theo kiểu truyền khẩu, giảng viên giới thiệu về tộc người
Choro ở Đồng Nai và cho sinh viên xem một số tranh ảnh về cuộc sống lao
động, các lễ hội văn hóa, trang phục của người Choro.
Giảng viên giới thiệu bài hát, cấu trúc mô hình, nhịp điệu và phân tích
tác phẩm để sinh viên cảm nhận được phần nào bài dân ca trước khi bước vào
học hát.
Giảng viên cho sinh viên nghe bài hát trong băng hình vài lần để sinh
viên làm quen giai điệu.
Giảng viên hát mẫu bài hát kết hợp với động tác múa Choro.
Giảng viên tiến hành bài dạy theo trình tự các bước lên lớp. Sinh viên
rất hứng thú học hát. Sau mỗi câu hát, Giảng viên gọi từng nhóm, tổ lên hát
lại và chỉnh sửa lại những chỗ hát sai bằng cách phân tích những chỗ khó hát
trên bảng phụ. Sau khi dạy hết bài giảng viên cử đại diện của tổ lên trình bày
63
bài hát với một số điệu bộ minh họa cho bài hát. Cuối cùng giảng viên cho lớp
nghe lại bài hát rồi đệm đàn cho các em hát lại để củng cố bài hát. Kết thúc
tiết dạy giảng viên yêu cầu sinh viên ôn lại bài hát để tiết sau giảng viên kiểm
tra bài hát và cho điểm.
Bài hát: Kinh tơ lơ thoang (Trống chiêng cầu thần - Dân ca Choro).
Sưu tầm và kí âm: Trần Viết Bính.
Tiết dạy được thực hiện tại lớp Nhạc K34 vào tiết 4 ngày 6 tháng 4 năm
2013 do thầy Hoàng Nguyễn Quang Huy giảng dạy.
Giảng viên ổn định lớp rồi gọi vài sinh viên lên kiểm tra bài cũ, đánh
giá và cho điểm.
Cho lớp luyện thanh 3 - 5 phút.
Giảng viên treo bảng phụ bài dân ca lên bảng rồi giới thiệu sơ lược về
tộc người Choro. Cho sinh viên xem một số hình ảnh cuộc sống của tộc người
Choro, trang phục của nam và nữ Choro. Sau đó giảng viên giới thiệu bài hát,
cấu trúc mô hình nhịp điệu, phân tích tác phẩm.
Giảng viên mở băng hình cho sinh viên nghe bài hát “Trống chiêng cầu
thần” vài lần.
Giảng viên hát mẫu bài dân ca “Trống chiêng cầu thần” cho sinh viên
nghe. Tiếp đó giảng viên tập hát cho sinh viên theo lối truyền khẩu.
Giảng viên sau khi thực hiện bài dạy theo trình tự với lối móc xích thì
đưa ra câu hỏi mở rộng: Em nào biết bài dân ca nào của người Choro thì hát
cho các bạn nghe?
Sau khi sinh viên trả lời, giảng viên đệm đàn cho sinh viên hát.
Giảng viên cho lớp hát lại bài hát để củng cố bài rồi dặn dò các em về
học thuộc bài để tiết sau giảng viên kiểm tra và cho điểm.
2.4.4. Đánh giá kết quả thực tập sư phạm nội dung dạy phần dân ca
theo phương pháp mới
64
Qua 2 tiết dạy thực nghiệm theo phương pháp mới, chúng tôi thấy kết
quả thu được có phần khả quan hơn. Cụ thể là:
- Sinh viên cảm thấy hào hứng với môn học, giờ học hơn vì giờ học
sinh động hơn, các em không chỉ được học hát mà còn có thêm những hiểu
biết nhất định liên quan đến bài hát (tộc người, nội dung, tính chất, phong
cách âm nhạc của bài dân ca hay thể loại dân ca đó), hiểu được tầm quan
trọng của việc học hát dân ca không chỉ để sau này có thể làm tốt được công
việc giảng dạy môn âm nhạc ở trường phổ thông mà còn góp phần lưu giữ,
bảo tồn nét đẹp của âm nhạc truyền thống.
- Cách dạy truyền khẩu khiến sinh viên dễ nắm bắt bài hơn, dễ thể hiện
được những âm luyến láy, những lối phát âm nhả chữ theo phong cách vùng
miền.
- Khi hát tùy theo bài có thể có thêm một số động tác múa mô phỏng
nên giờ học trở nên sinh động hơn do sinh viên có dịp hiểu hơn về bài dân ca
cũng như hoàn cảnh ra đời của bài dân ca đó.
- So với cách dạy cũ (dạy hát dân ca theo kiểu dạy xướng âm), cách dạy
truyền khẩu đã có bước tiến bộ về độ chênh phô so với bản bản dân ca như
sau:
Âm luyến : Tỷ lệ Sv hát sai giảm 25%.
Âm tô điểm : Tỷ lệ Sv hát sai giảm 21%.
Quãng nhảy : Tỷ lệ Sv hát sai giảm 23%.
Sở dĩ có bước tiến bộ trên vì, khi học hát dân ca theo lối truyền khẩu,
các em không còn bị phụ thuộc vào lối ký âm trên bản phổ. Bản phổ chỉ được
coi là sơ đồ chỉ hướng đi của giai điệu, chỉ dẫn về trường độ hay những âm
hình luyến láy giúp người học dễ nắm bắt bài chứ không phải là yếu tố cố
định bắt buộc người học phải tuân thủ. Do đó, người học có thể tập trung vào
65
việc nghe giáo viên trình bày từng câu hát, cảm nhận câu hát đó và bắt chước
lại.
Đánh giá về 2 cách dạy đã thực hiện:
- Về cách dạy theo lối học xướng âm.
Cách dạy này giúp sinh viên rèn luyện và nâng cao kỹ năng đọc nhạc,
song mất khá nhiều thời gian. Với cách học này, các em phải đọc xướng âm
trôi chảy rồi mới bắt đầu ghép lời ca vào giai điệu vừa xướng âm được. Như
vậy để hát cho đúng, các em phải mất một khoảng thời gian nhất định để ghép
lời vào giai điệu. Ở tiết dạy này, sinh viên chỉ được giáo viên giúp trong việc
tìm hiểu tính chất của bài hát chứ ít được trực tiếp nghe giai điệu bài dân ca,
do vậy khi tiếp thu cũng như khi thể hiện sắc thái tình cảm của bài hát còn
lúng túng, hát không ra được phong cách của bài dân ca và chưa gây được sự
hứng thú trong khi học.
Với thời lượng 55 phút cho 1 tiết học, nếu sử dụng phương pháp này thì
giảng viên rất khó truyền đạt hết được ý nghĩa của bài hát, mặt khác lại không
có thời gian kiểm tra năng lực của sinh viên được.
- Về cách dạy theo lối truyền khẩu.
Cách dạy này mất ít thời gian hơn, giúp các em tiếp thu nhanh hơn và
gây được sự hứng thú trong khi học tập. Với cách dạy này các em được nghe
giai điệu của bài hát nhiều lần nên phần nào tính chất của bài hát đã ngấm vào
các em và nhờ đó đã thể hiện được tốt sắc thái tình cảm của bài hát.
Cả hai cách dạy vừa nêu đều có những ưu điểm riêng. Xong cách dạy
mà tôi cho rằng ưu việt hơn cả là cách dạy truyền khẩu. Đây là cách dạy giúp
các em học nhanh hơn, thuận lợi hơn và cũng chính là cách mà dân ca được
truyền từ đời cha ông ta đến nay. Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của băng hình,
đĩa... lối dạy này sẽ giúp cho giảng viên thuận lợi hơn trong khi dạy rất nhiều.
Bởi vì có những làn điệu dân ca nếu chỉ hát cho chính xác nốt nhạc đã được
66
ký âm thì chưa đủ, mà quan trọng hơn là làm sao thể hiện đặc trưng của bài
hát là cái hồn, tâm tư tình cảm mà cha ông ta muốn truyền lại, đồng thời qua
đó người nghe cảm nhận được những nét đẹp văn hóa của vùng miền đó.
Với hai tiết dạy thể nghiệm bằng lối dạy truyền khẩu chúng tôi thấy
sinh viên rất hứng thú, hăng say học. Các em không phải gò bó, lo lắng khi
phải đọc xướng âm bài dân ca mà thoải mái thể hiện bài hát theo những gì
nghe được và tập được. Kết quả của tiết học cũng rất khả quan. Các em rất
hào hứng tỏ ra thích thú khi được học theo lối truyền khẩu, tiếp thu bài nhanh,
đồng đều và thực hiện được những yêu cầu của giáo viên.
Với cách dạy này vai trò của người giảng viên là rất quan trọng trong
việc giúp các em thể hiện đúng tính chất của bài hát. Bởi vì khả năng thẩm âm
của sinh viên rất khác nhau nên có lúc nghe được nhưng bắt chước lại chưa
chính xác nên phải có sự chỉnh sửa của giảng viên để sinh viên thể hiện
những âm luyến, vuốt, ngân... được chính xác hơn.
Mặt khác việc kết hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau trong một
giờ học cũng làm sinh viên hứng thú học hơn và kết quả học tập cũng cao
hơn.
2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác
2.5.1. Cơ sở vật chất cho việc dạy môn dân ca
Trường Đại học Đồng Nai hiện nay tuy đào tạo đa ngành, đa cấp, mở
rộng quy mô đào tạo nhưng cơ sở vật chất còn chưa được nâng cấp kịp thời
đúng với yêu cầu của những phân môn. Hiện nay mới chỉ có phòng nhạc cụ
và những môn học lý thuyết còn phòng chuyên dụng đa năng âm nhạc lại
chưa có.
Để nâng cao chất lượng dạy và học cần có thêm một số phòng học
chuyên ngành đặc thù không sử dụng chung với các môn học khác. Phòng học
dân ca ngoài cây đàn organ dùng để luyện thanh, cần trang bị thêm các
67
phương tiện khác như: Máy vi tính, máy chiếu, đầu VCD, DVD… để phục vụ
cho việc trình chiếu tư liệu.
Cở sở vật chất, điều kiện để sử dụng nguồn tài liệu phục vụ cho việc
học tập môn Dân ca còn rất hạn chế. Chẳng hạn như, để trình bày một bài dân
ca một cách hấp dẫn, tương đối chuẩn xác về sắc thái, tính chất, thể hiện được
đặc trưng, thể loại thì phần diễn tả điệu bộ và đạo cụ đi kèm là điều hết sức
cần thiết. Tuy nhiên, vì điều kiện chưa cho phép nên trong giờ dạy cân ca
giảng viên mới chỉ sử dụng một vài băng đĩa tư liệu liên quan đến bài học cho
sinh viên xem và do thời gian cũng không nhiều nên sinh viên không được
thường xuyên tham khảo nguồn tư liệu này. Vì vậy, cần tăng cường bổ sung
thêm sách, tài liệu tham khảo về âm nhạc dân gian các vùng miền; băng đĩa
dân ca các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là dân ca các dân tộc ở tỉnh Đồng Nai
để thầy và trò có cơ hội được mở rộng thêm kiến thức.
Trang bị trang phục các dân tộc ở các vùng miền khác nhau để sinh
viên có thể thấy và cảm nhận được sự đặc sắc của các vùng miền, đồng thời
sử dụng vào các chương trình giao lưu văn nghệ hay ngoại khóa. Trong khi
biểu diễn dân ca vùng nào, dân tộc nào các em sẽ được mặc những bộ trang
phục của vùng đó, dân tộc đó sẽ khiến cho buổi biểu diễn thành công hơn, tác
dụng giáo dục và truyền bá văn hóa sẽ hiệu quả hơn.
Ngoài ra nên sưu tầm các nhạc cụ dân tộc để giảng viên có thể giới
thiệu cho sinh viên về nhạc cụ các dân tộc trong giờ dạy hoặc giảng viên có
thể sử dụng chúng để dạy thay cho các nhạc cụ điện tử nhằm thể hiện đúng
tính chất dân ca. Đó là cách trang bị thêm kiến thức rất bổ ích cho các em sau
này khi ra làm việc tại các cơ sở.
2.5.2. Tiếp cận dân ca qua việc điền dã tiếp xúc với nghệ nhân. Tham
dự các lễ hội âm nhạc dân gian trong vùng
68
Mỗi quốc gia dân tộc nền âm nhạc dân gian đều có nét đặc trưng riêng,
người ta phân biệt âm nhạc qua thang âm điệu thức, cách tiến hành giai điệu,
tiết tấu.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc vì vậy nền âm nhạc rất đa dạng và
phong phú. Trong nền âm nhạc đó, dân ca tàng trữ những dấu ấn văn hóa tinh
thần hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc. Đó là tiếng nói bình dị của người
dân lao động các tộc người cùng sống trên dải đất Việt Nam, là cốt cách tâm
hồn, là lối sống nhân hậu của con người Việt Nam được chắt lọc qua năm
tháng và trở thành sản phẩm văn hóa tinh thần, tinh hoa văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Vì vậy giáo dục âm nhạc trong nhà trường, đặc biệt là dân ca rất
quan trọng, nó không những cung cấp cho sinh viên kiến thức về âm nhạc cơ
sở, khơi gợi ở các em khả năng sáng tạo trong hoạt động âm nhạc mà còn có ý
nghĩa làm giàu nhân cách, nâng cao trình độ thẩm mỹ về âm nhạc cho sinh
viên, mặt khác cung cấp các kiến thức về văn hóa dân tộc cho các em để các
em từ yêu mến đến bảo tồn, gìn giữ và phát triển những di sản văn hóa mà cha
ông ta đã để lại.
Để sinh viên có thể dạy tốt những tiết dạy dân ca trong tương lai thì
chương trình không thể thiếu những kiến thức về dân ca một cách toàn diện
và đầu đủ hơn nhằm đạt được những yêu cầu của nhiệm vụ dạy âm nhạc ở các
cơ sở sau này. Điều cần thiết đó là sự hiểu biết dân ca, nét sinh hoạt vùng
miền của các thể loại dân ca, chính những điều này sẽ làm cho sinh viên tự tin
hơn khi hướng dẫn học sinh dân ca, khi giới thiệu nét đặc trưng văn hóa vùng
miền hay khi tổ chức hoạt động ngoại khóa ở các cơ sở mà các em làm việc
sau khi tốt nghiệp. Song, chỉ giảng dạy dân ca tại cở sở như vậy thì mới chỉ
dạy cho sinh viên được phần “lý thuyết” mà thôi. Thiết nghĩ nhà trường nên
tổ chức cho giảng viên và các em sinh viên đi thực tế tại các địa phương. Đây
là một trong những giải pháp giúp giảng viên và sinh viên nâng cao được chất
69
lượng dạy và học môn dân ca. Khi được trực tiếp điền dã ở các vùng miền,
chứng kiến cuộc sống lao động của các tộc người, được gặp các nghệ nhân và
nghe họ hát thì giảng viên và sinh viên mới thẩm thấu được cái hồn của bài
dân ca bản địa đó. Đây là giải pháp giúp cho giảng viên có “thực tế” hơn khi
giảng dạy bài dân ca cũng như khi giới thiệu về vùng miền hay phong tục tập
quán của tộc người nào đó. Ngoài ra khi điền dã tiếp xúc với nghệ nhân, sinh
viên còn được tham dự các lễ hội âm nhạc dân gian của vùng miền. Các em sẽ
thấy được sự đa dạng và phong phú trong âm nhạc dân gian của các tộc người
tại các vùng miền mà thời lượng giảng dạy về âm nhạc dân gian trong nhà
trường không đủ để cung cấp những kiến thức đó.
2.5.3. Mời các nhà nghiên cứu về âm nhạc dân gian nói chuyện theo
chuyên đề
Âm nhạc dân gian - nơi ghi dấu quá trình phát triển lịch sử, văn hóa của
các cộng đồng tộc người, nhờ đó chúng ta có thể hiểu được những biến động
trong văn hóa, lối sống, tư duy và thẩm mỹ của con người ở từng thời kỳ và
đó cũng là thước đo trình độ về sự phát triển văn hóa nghệ thuật của cộng
đồng ấy theo diễn trình lịch sử. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với công tác
nghiên cứu, bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử của một quốc gia, một dân tộc.
Song, giá trị của các thể loại trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật thì vô vạn
nhưng kiến thức của con người lại hữu hạn, vì thế rất cần đến sự hỗ trợ của
nhiều người, mỗi người một lĩnh vực nghiên cứu để đem đến một cái nhìn
tổng thể về văn hóa dân tộc mà âm nhạc dân gian là một thành phần.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca tại trường Đại học Đồng
Nai, một trong những giải pháp mà tôi muốn đề cập đến đó là mời các nhà
nghiên cứu âm nhạc dân gian nói chuyện theo chuyên đề. Bởi, họ là những
người thực hiện nhiều chuyến đi thực tế, điền dã tại địa phương, gặp gỡ trực
70
tiếp, cùng ăn, cùng ở với các tộc người, am hiểu đời sống của họ và có các
công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về âm nhạc dân gian.
Nhà trường nên mời các nhà nghiên cứu về âm nhạc dân gian về tại
trường trực tiếp nói chuyện với sinh viên và giảng viên về các công trình
nghiên cứu khoa học đó nhằm truyền lại cho thế hệ sau biết những di sản văn
hóa mà cha ông ta đã để lại. Các cuộc trò chuyện như vậy sẽ giúp giảng viên
và sinh viên bổ sung được lượng kiến thức về âm nhạc dân gian trong và
ngoài nước.
2.5.4. Chuẩn hóa đội ngủ giảng viên dạy chuyên ngành nói chung,
giảng viên phụ trách các môn âm nhạc dân gian nói riêng
Cán bộ giảng dạy những môn học mang tính đặc thù này phải thật sự có
một nền tảng kiến thức lý luận chung vững chắc và am hiểu chuyên sâu về âm
nhạc dân gian. Đội ngũ giảng viên giỏi và say nghề, say mê nghiên cứu là
điều kiện quan trọng để truyền dạy và khơi nguồn đam mê, ham học hỏi đến
sinh viên trong điều kiện các môn học về âm nhạc dân gian và nhất là dân ca
chưa thực sự thu hút đông đảo sinh viên. Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng
thường xuyên để chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
của giảng viên cũng là một hình thứ cần thực hiện. Bên cạnh đó, việc đẩy
mạnh công tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu về giáo dục nghệ
thuật và âm nhạc dân gian cũng cần được lưu tâm vì các nghiên cứu khoa học
sẽ hỗ trợ tích cực để giảng viên có thêm nguồn tài liệu dạy học, có thêm
những sáng kiến, phương pháp dạy học phong phú đa dạng, từ đó thu hút,
kích thích sự tích cực và sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập.
2.5.5. Tổ chức ngoại khóa về Dân ca trong nhà trường
Hoạt động ngoại khóa là một việc làm nhằm tạo nên đời sống tinh thần
sôi nổi, sâu rộng cho sinh viên, đồng thời tạo điều kiện cho các em tham gia
vào nhiều hoạt động bổ ích. Qua đó, các em được hát những làn điệu dân ca
71
của quê hương mình, được nghe qua từng lời ca, giai điệu mang nhiều tính
nhân văn.
Thông qua các hoạt động ngoại khóa, các trò chơi, các cuộc thi sáng tạo
sẽ tạo điều kiện cho các em làm quen với các làn điệu dân ca của dân tộc
mình, tạo cho sinh viên những khả năng lĩnh hội trước các đẹp, cái hay của
âm nhạc với các làn điệu dân ca địa phương. Hoạt động này giúp sinh viên
mở rộng thêm tầm nhìn và có điều kiện để hiểu rõ hơn về những kiến thức
học trên lớp.
Sinh hoạt ngoại khóa cho sinh viên về dân ca là một trong những hoạt
động mang ý nghĩa tích cực, giúp các em tích lũy được những kinh nghiệm
thực tế. Đây cũng là cơ hội để các em trau dồi các kiến thức, kỹ năng trong
hoạt động tập thể cũng như giao lưu, rèn luyện khả năng của chính bản thân
mình.
Một trong những hoạt động ngoại khóa là tổ chức thi hát các ca khúc
sáng tác mới dựa theo làn điệu dân ca các vùng miền. Hoạt động này nhằm
rèn luyện kỹ năng hát và cảm nhận tác phẩm, khả năng biểu diễn của sinh
viên, giúp sinh viên mở rộng tầm nhìn và có điều kiện để hiểu biết nhiều hơn,
chắc hơn những kiến thức học trên lớp.
Hoạt động này khuyến khích các em trong việc tìm hiểu dân ca Việt
Nam và các dân tộc bản địa, làm giàu thêm vốn kiến thức về âm nhạc dân
gian truyền thống của dân tộc để dân ca ngày càng thấm sau vào các thế hệ
trẻ.
Trong các chương trình hội diễn văn nghệ, đặc biệt là trong các hội thi
tìm hiểu về dân ca, khi nghiệp vụ sư phạm cần cho mỗi nhóm sinh viên chuẩn
bị một thể loại bài khác nhau để rèn luyện thuần thục phương pháp giảng dạy
và dàn dựng những tiết mục mang tính tập thể sao cho phù hợp với từng thể
loại của bài. Như vậy, thông qua phương pháp giảng dạy đó, các em sẽ học
72
tập thêm được của nhau về những kiến thức, trao đổi cho nhau những kinh
nghiệm trong các hoạt động.
Hơn nữa, các hoạt động trên còn giúp cho các em sinh viên hiểu và
nhận thức sâu sắc về những giá trị văn hóa tinh thần, những tinh hoa dân tộc
của cha ông để lại. Cũng chính từ đây, các sẽ tiếp nhận, bảo tồn, gìn giữ và là
cây cầu nối cho những thế hệ mai sau.
* Tiểu kết chương 2
Qua tìm hiểu thực tế và khảo sát cho thấy, hiện nay trường đại học
Đồng Nai còn nhiều bất cập trong việc giảng dạy môn dân ca tại trường. Để
thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ
Cao đẳng sư phạm trường Đại học Đồng Nai phải được bắt đầu đổi mới từ nội
dung chương trình đến phương pháp dạy học; từ trang thiết bị cơ sở vật chất
đến nâng cao năng lực giảng viên, hay đề xuất những đổi mới trong việc
giảng dạy dân ca kết hợp với phương thức trình diễn vũ đạo đơn giản, với
trang phục; đưa sinh viên đi thực tế, gặp gỡ các nghệ nhân v.v…
Dân ca bản địa làm đa dạng sắc màu cho nền dân ca Việt Nam nhưng
trong chương trình đào tạo hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc của trường Đại học
Đồng Nai còn thiếu hụt mảng này. Để sinh viên có thể dạy tốt những tiết dạy
dân ca trong chương trình giáo dục phổ thông ở địa bàn tỉnh Đồng Nai thì
trong chương trình học ở ĐHSP Đồng Nai không thể thiếu những kiến thức
về dân ca một cách toàn diện và đặc biệt trong đó không thể thiếu các bài dân
ca các tộc người sống trên địa bàn này. Sự thiếu hụt về vốn dân ca cũng như
những hiểu biết vềt sinh hoạt văn hóa vùng miền sẽ khiến giáo viên gặp khó
khan, lúng túng khi hướng dẫn học sinh hát dân ca; lúng túng khi tổ chức các
hoạt động ngoại khóa cho sinh viên. Để khắc phục được những yêu cầu đó
cần phải có sự đổi mới trên mọi phương diện như đã đề cập.
73
Những ý kiến đóng góp của đề tài trước hết là nhằm khắc phục những
mặt còn hạn chế trong quá trình giảng dạy môn dân ca tại trường Đại học
Đồng Nai, hy vọng có thể góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân
ca tại trường trong thời gian tới.
74
KẾT LUẬN
Dân ca Việt Nam là một trong những di sản văn hóa tinh thần của dân
tộc. Những khúc hát ru, những bài đồng dao hay những bài hát giao duyên,
bài hát trong lễ nghi phong tục đều xuất phát từ đời sống lao động và là tiếng
nói của người dân lao động. Với sự phong phú về bài bản, đa dạng về đề tài,
sâu sắc về nội dung, Dân ca là tài sản quý giá mà ngày nay chúng ta được
thừa kế từ những sáng tạo trong quá trình phát triển lịch sử của cha ông ta.
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc, mỗi tộc người có một nền văn hóa
độc đáo riêng của mình nên đã tạo ra một bản sắc văn hóa Việt Nam vô cùng
phong phú và đa dạng. Bản sắc văn hóa bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp qua hàng ngàn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước, trong đó có nền âm nhạc dân gian.
Với sự phát triển của khoa học, nhất là công nghệ thông tin, việc mở
rộng giao lưu văn hóa trong thời kỳ hội nhập, Việt Nam càng có thêm nhiều
điều kiện tiệp cận với âm nhạc nước ngoài, bởi vậy việc bảo tồn và phát huy
tinh hoa của nên âm nhạc cổ truyền Việt Nam là việc làm cấp thiết hiện nay.
Và trong sự nghiệp bảo tồn nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam, giáo dục và đào
tạo là một khâu quan trọng của quá trình kế thừa, chuyển giao giưa các thế hệ.
Trong những năm qua, chất lượng đào tạo đội ngũ giảng viên môn nhạc
còn nhiều bất cập, giáo sinh sau khi ra trường còn thiếu nhiều kiến thức về âm
nhạc dân tộc, khả năng hát dân ca còn hạn chế. Mặt khác, môn dân ca trong
đào tạo hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc còn phiến diện, chưa đầy đủ về nội
dung, phương pháp học dân ca còn đơn điệu.
Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả dạy học môn dân ca cho giáo sinh
cao đẳng sư phạm âm nhạc ở Đồng Nai, luận văn đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu lý luận (phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu) và những
phương pháp nghiên cứu thực tiễn (điều tra, quan sát, tổng kết kinh nghiệm sư
75
phạm,…) để thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra như: Tìm hiểu
về tình hình đào tạo sinh viên hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc ở trường Đại
học Đồng Nai; xác định khả năng âm nhạc của giáo sinh; thực trạng dạy học
môn dân ca; phân tích chương trình môn dân để thấy đươc sự thiếu hụt nhiều
bài dân ca các dân tộc ở Đồng Nai… dẫn đến chất lượng dạy hát cho sinh
viên dân tộc thiểu số còn chưa hiệu quả.
Đồng Nai là một tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số, trong đó người Mạ,
Cho Ro, S’Tiêng, Kơ Ho chiếm đa số. Qua tìm hiểu cho thấy đời sống sinh
hoạt văn hóa, âm nhạc truyền thống của người Mạ, Cho Ro, S’Tiêng, Kơ Ho
có những nét riêng, rất đặc sắc. Đặc biệt những bài dân ca của dân tộc bản địa
rất phong phú về thể loại, đa dạng về giai điệu, nhưng đơn giản về cấu trúc
hình thức. Đó là nước suối nguồn dân tộc, văn hóa đã vượt qua thử thách của
thời gian để tồn tại đến nay.
Dựa vào phần mềm được quy định trong chương trình môn học dân ca
đào tạo hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, luận
văn đã lựa chọn những bài hát của tộc người bản địa Kơ Ho, Cho Ro, Mạ,
S’Tiêng để đưa vào đổi mới chương trình và phương pháp dạy học dân ca
trong đào tạo giáo sinh cao đẳng sư phạm ở Đồng Nai.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca thiết nghĩ nên thay đổi
phương pháp giảng dạy thông qua việc tổ chức hội thảo lấy ý kiến xây dựng
lại chương trình đào tạo, bổ sung thêm nội dung giảng dạy về dân ca và
phương pháp giảng dạy dân ca ở trường phổ thông cho sinh viên chuyên
nghành âm nhạc, đồng thời trang bị thêm các thiết bị dạy học cần thiết phục
vụ cho việc dạy học và học bộ môn âm nhạc trong nhà trường. Mặt khác, các
giảng viên của bộ môn âm nhạc cần chủ động thiết thực bổ sung kiến thức. Về
giảng dạy dân ca cho sinh viên chuyên ngành, đồng thời tích cực cải tiến
phương pháp giảng dạy âm nhạc nói chung, giảng dạy dân ca nói riêng, tăng
76
cường tự học tự bồi dưỡng nâng cao trình độ đồng thời không ngừng học hỏi
kinh nghiệm từ nhiều khía cạnh,…
77
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trọng Ánh (2000), Âm nhạc Quan họ, Viện Âm nhạc, Hà
Nội.
2. Nguyễn Hữu Ba (1961), Dân ca Việt Nam, Bộ Quốc gia giáo dục,
Sài Gòn.
3. Trần Viết Bính - Nguyễn Thị Tuyết Hồng (2011), Dân ca Mạ, Châu
Ro, S’Tiêng, Kơ Ho ở Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.
4. Nguyễn Thị Thanh Bình (2005), Đưa Dân ca vào chương trình dạy
nhạc cho sinh viên Khoa Tiểu học - Đại học Sư Phạm, Luận văn Thạc sỹ Văn
hóa học, Viện Nghiên cứu văn học, Hà Nội.
5. Đỗ Thị Linh Chi (2011), Dân ca trong đào tạo giáo viên âm nhạc
trường Cao Đẳng Hải Dương, Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, Học viện
KHXH.
6. Dân ca Trung Du (1961-1962), Tập 1 và 2, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
7. Phạm Duy (1972), Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam, Nxb Hiện Đại.
8. Đào Việt Hưng (2002), Tìm hiểu điệu thức dân ca người Việt Bắc
Trung bộ, Viện Âm nhạc, Nxb Âm nhạc.
9. Nguyễn Thụy Loan (2005), Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Nxb Đại
học Sư phạm.
10. Nguyễn Thụy Loan (2001), Thường thức về âm nhạc cổ truyền Việt
Nam, Viện Âm nhạc.
11. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2008), Hát dân ca, Nxb Âm nhạc.
12. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
13. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm nhạc,
Hà Nội.
14. Hoàng Lân - Văn Nhân (1995), Giáo trình giảng dạy âm nhạc, Nxb
Đại học sư phạm Hà Nội.
78
15. Dân ca Việt Nam (2011), Nxb Văn Hóa, Hà Nội.
16. Dân ca Quan họ Bắc Ninh (1974), Nxb Âm nhạc Hà Nội.
17. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc Dân gian các dân tộc Tày Nùng
Dao, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
18. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc.
19. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ - ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn
học.
20. Lại Thị Phương Thảo (2010), Âm nhạc dân gian trong công tác đào
tạo tại trường Đại học Sư Phạm Nghệ thuật Trung Ương, Luận văn Thạc sỹ
Văn hóa học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
21. Dân ca Tày (1962), Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
22. Dân ca Tày (1980), Nxb Văn Hóa, Hà Nội.
23. Dân ca Thái (1973, 1980), Tập 1 và 2, Nxb Văn Hóa, Hà Nội.
24. Dân ca Bình Trị Thiên (1981), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
25. Phạm Tuyên (1999), Âm nhạc với trẻ em, Nxb Âm nhạc.
26. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (1981), Dân ca Bến Tre, Ty VHTT Bến
Tre.
27. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (1983), Tìm hiểu Dân ca Nam Bộ, Nxb
TP.Hồ Chí Minh.
28. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (2005), Hát Ru, Nxb Trẻ.
29. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam – Truyền thống và hiện đại, Viện
Âm nhạc.
30. Tô Vũ (1996), Sức sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam,
Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
31. Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ (1983), tập 1 và 2, Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
79
PHỤ LỤC I
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ÂM NHẠC VÀ
THỬ NGHIỆM GIẢNG DẠY DÂN CA
Hình ảnh trường Đại học Đồng Nai
80
Hình ảnh trường Đại học Đồng Nai
81
Giảng viên hướng dẫn sinh viên trong giờ nhạc cụ
82
Giảng viên hướng dẫn sinh viên trong giờ Dân ca
83
Hình ảnh về hoạt động âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai
84
Hình ảnh về hoạt động âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai
85
PHỤ LỤC II MỘT SỐ TRANG PHỤC CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA ĐỒNG NAI
Thổ cẩm người Mạ ở Tà Lài, huyện Tân Phú
Thổ cẩm người Mạ ở Bon Gor, huyện Tân Phú
86
Thổ cẩm người Mạ ở Hiệp Nghĩa, huyện Định Quán
+
Thổ cẩm người S’tiêng ở Tà lài, huyện Tân Phú
87
Thổ cẩm người S’tiêng ở Tân Hiệp, huyện Long Thành
Khố và thổ cẩm của người S’tiêng ở huyện Xuân Lộc
88
Nghệ nhân thổi kèn Bầu ở Hiệp Nghĩa, huyện Định Quán
Già làng người S’tiêng ở Tà Lài, Tân Phú thổi kèn Môi
89
Đội Chinh S’tiêng ở Tà Lài, huyện Tân Phú
Dàn Chinh Choro ở Xuân Trường, huyện Xuân Lộc
90
Dàn Chiêng Choro ở Xuân Trường, huyện Xuân Lộc
Nhà văn hóa dân tộc Choro, xã Xuân Phú, huyện Xuân lộc
91
PHỤ LỤC III MỘT SỐ BÀI HÁT DÙNG TRONG LUẬN VĂN VÀ THAM KHẢO
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả thực nghiệm nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được ai công
bố trong bất kì công trình nào khác. Nếu có điều gì
trái với lời cam đoan, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận văn
Trần Thị Kim Nga
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin cảm ơn tới các thầy cô giáo, các cán bộ của học viện
âm nhạc Quốc gia và học viện âm nhạc Huế đã giúp đỡ và trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu trong quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Bùi Huyền Nga –
Người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các đồng nghiệp
và sinh viên trường Đại học Đồng Nai đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
Thành công này của tôi, cũng nhờ có sự động viên, khuyến khích tạo
mọi điều kiện của những người thân yêu và bạn bè đã luôn bên tôi để tôi hoàn
thành tốt công việc.
Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong được
sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Tác giả luận văn
Trần Thị Kim Nga
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANDG : Âm nhạc dân gian
CĐ : Cao đẳng
CĐSP : Cao đẳng sư phạm
CNTT : Công nghệ thông tin
ĐH : Đại học
ĐHSP : Đại học sư phạm
GV : Giảng viên
KHXH : Khoa học xã hội
NCKH : Nghiên cứu khoa học
NXB : Nhà xuất bản
PPDH : Phương pháp dạy học
QHBN : Quan họ Bắc Ninh
SV : Sinh viên
TCSP : Trung cấp sư phạm
UBND : Uỷ ban nhân dân
Mục lục
Phần mở đầu 1
Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca ở 6
trường Đại học Đồng Nai
1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam 6
1.2. Việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai 22
* Tiểu kết chương 1 39
Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn 41
dân ca ở trường Đại học Đồng Nai
2.1. Giải pháp về xây dựng nội dung chương trình và giáo trình 41
2.2. Giải pháp về phương pháp dạy môn dân ca 47
2.3. Dạy hát dân ca kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác 53
2.4. Giải pháp thực tập sư phạm 56
2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác 67
* Tiểu kết chương 2 74
Kết luận 75
Tài liệu tham khảo 77
Phụ lục 79