BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM

_______________________

TRẦN THỊ KIM NGA

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC

HÀ NỘI, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM

_______________________

TRẦN THỊ KIM NGA

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA

CHO HỆ CAO ĐẲNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG NAI

Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc phổ thông

Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI HUYỀN NGA

HÀ NỘI, NĂM 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả thực nghiệm nêu

trong luận văn là trung thực và chưa được ai công

bố trong bất kì công trình nào khác. Nếu có điều gì

trái với lời cam đoan, tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2013

Tác giả luận văn

Trần Thị Kim Nga

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin cảm ơn tới các thầy cô giáo, các cán bộ của học viện

âm nhạc Quốc gia và học viện âm nhạc Huế đã giúp đỡ và trang bị cho tôi

những kiến thức quý báu trong quá trình học tập.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Bùi Huyền Nga –

Người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên

cứu và hoàn thiện đề tài.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các đồng nghiệp

và sinh viên trường Đại học Đồng Nai đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá

trình thực hiện đề tài.

Thành công này của tôi, cũng nhờ có sự động viên, khuyến khích tạo

mọi điều kiện của những người thân yêu và bạn bè đã luôn bên tôi để tôi hoàn

thành tốt công việc.

Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong được

sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn đồng nghiệp.

Tác giả luận văn

Trần Thị Kim Nga

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANDG : Âm nhạc dân gian

CĐ : Cao đẳng

CĐSP : Cao đẳng sư phạm

CNTT : Công nghệ thông tin

ĐH : Đại học

ĐHSP : Đại học sư phạm

GV : Giảng viên

KHXH : Khoa học xã hội

NCKH : Nghiên cứu khoa học

NXB : Nhà xuất bản

PPDH : Phương pháp dạy học

QHBN : Quan họ Bắc Ninh

SV : Sinh viên

TCSP : Trung cấp sư phạm

UBND : Uỷ ban nhân dân

Mục lục

Phần mở đầu 1

Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca ở 6

trường Đại học Đồng Nai

1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam 6

1.2. Việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai 22

* Tiểu kết chương 1 39

Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn 41

dân ca ở trường Đại học Đồng Nai

2.1. Giải pháp về xây dựng nội dung chương trình và giáo trình 41

2.2. Giải pháp về phương pháp dạy môn dân ca 47

2.3. Dạy hát dân ca kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác 53

2.4. Giải pháp thực tập sư phạm 56

2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác 67

* Tiểu kết chương 2 74

Kết luận 75

Tài liệu tham khảo 77

Phụ lục 79

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, vì vậy Việt Nam có một kho tàng

dân ca rất phong phú và đa dạng. Mỗi vùng miền đều có những thể loại dân ca

với những làn điệu mang âm hưởng khác nhau. Những thể loại, những làn

điệu này luôn gắn liền với cuộc sống của người dân lao động xưa. Vì thế, qua

những bài dân ca, người nghe có thể cảm nhận được những tâm tư tình cảm,

những hoạt động lao động của người dân ở mỗi vùng miền.

Dân ca Việt Nam là một kho tàng lớn, để nắm bắt được cái hồn và thể

hiện được nó đòi hỏi cần có một quá trình, và Hát là con đường tiếp cận dễ

nhất. Có thể nói, chỉ cần nắm bắt được cái hồn và tính chất vùng miền, đặc

trưng của bài dân ca thì ai cũng có thể hát được. Nhưng với cuộc sống hiện

nay dân ca đang dần bị lãng quên, thay vào đó là những “làn gió mới” của âm

nhạc nước ngoài như thể loại Rock, Jazz, hay những ca khúc nhạc ngoại lời

Việt. Đây là những thể loại nhạc mà trong thời đại mở cửa này phù hợp với

tâm lý của tuổi trẻ. Bởi vậy, lớp trẻ ngày nay thường say mê các ca khúc nước

ngoài hơn là dân ca. Dân ca được xem là lỗi thời, không hợp mốt và nếu họ có

hát thì các bài dân ca đó được cách điệu với phong cách biểu diễn hiện đại,

sống động, náo nhiệt khác với truyền thống. Dân ca là một di sản văn hóa lớn

mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Vậy, phải làm sao để lớp trẻ yêu môn dân

ca và thông qua môn dân ca để hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Nói cách khác

làm thế nào để giữ gìn, bảo tồn và phát huy dân ca Việt Nam trong đời sống

đương đại. Và, với thực trạng như vậy thì cách làm hiệu quả nhất hiện nay là

đưa dân ca vào giảng dạy trong nhà trường.

Trường Đại học Đồng Nai với bề dày 35 năm truyền thống đã và đang

góp phần vào việc đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trong

toàn tỉnh. Đối với việc đào tạo hệ sư phạm, mục tiêu đưa ra là cung cấp một

2

đội ngũ giáo viên tương lai có đầy đủ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp về các

cơ sở giáo dục từ mầm non, tiểu học cho đến trung học cơ sở. Đây là công

việc rất khó khăn cho những người làm công tác giáo dục tại trường. Đặc biệt

là chuyên nghành Hát của các em sinh viên sư phạm âm nhạc cần phải được

quan tâm. Là giảng viên giảng dạy âm nhạc của trường, chúng tôi hiểu rất rõ

được những điều kiện cần và đủ của các sinh viên, hiểu được tầm quan trọng

của việc giáo dục âm nhạc nói chung và giảng dạy hát nói riêng. Đặc biệt vốn

kiến thức, kỹ năng thực hành và thể hiện bài hát dân ca của các em sinh viên

còn rất hạn chế, chính vì thế mà rất cần thiết cung cấp cho các em những kiến

thức cơ bản, những vốn hiểu biết về dân ca các vùng miền, cần thực hiện

được kỹ năng, kỹ xảo hát dân ca; tính chất, tâm hồn của những bài dân ca,…

Qua đó các em có thể tìm hiều về văn hóa, phong tục của các địa phương khác

nhau.

Môn dân ca cũng được đưa vào giảng dạy cho hệ cao đẳng của trường

Đại học Đồng Nai. Tuy nhiên, chương trình cũng như phương pháp giảng dạy

còn nhiều điều bất cập và hạn chế nên chưa đáp ứng được mục tiêu đào mà

môn học hướng tới.

Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giảng dạy

môn dân ca cho hệ Cao đẳng tại trường Đại học Đồng Nai” làm đối tượng

nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Phương pháp và lý luận dạy

học phổ thông cho mình.

2. Lịch sử đề tài:

Các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục dân ca và âm nhạc dân

gian nói chung cho trường học hay tầm quan trọng, sức sống của âm nhạc dân

gian trong lịch sử … đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu:

Trong cuốn “Sức sống của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam” của PGS

Tô Vũ xuất bản năm 1996, tác giả có đề cấp đến vấn đề “Xây dựng khoa

3

thanh nhạc cổ truyền” trong hệ thống đào tạo chuyên nghiệp và đặc biệt nhấn

mạnh đến tầm quan trọng của nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy

cũng như đội ngũ giáo viên.

Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền có bài viết “Giáo dục cổ

nhạc Việt Nam – những bài học thực tiễn từ giảng đường” (hội khảo khoa

học – viện Âm nhạc – năm 2003) đã nêu lên sự “thờ ơ” đối với âm nhạc cổ

truyền của công chúng và đặc biệt là giới trẻ. Bài viết nêu rõ vai trò của giáo

dục – đào tạo trong việc truyền bá vốn âm nhạc truyền thống cho các em, nhất

là tầng lớp thanh niên, những chủ nhân tương lai của đất nước.

Tháng 3 năm 2010, tại Hà Nội Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức hội thảo

Tăng cường năng lực cho giảng viên các trường, khoa sư phạm đào tạo giáo

viên thể dục, âm nhạc, mỹ thuật cho tất cả các trường cao đẳng sư phạm và

đại học sư phạm. Hội thảo đã đưa ra rất nhiều ý kiến, quan điểm về nhu cầu

cần thay đổi chương trình, phương pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tế

giáo dục hiện nay.

Năm 2010, tác giả Lại Thị Phương Thảo đã hoàn thành luận văn cao

học văn hóa với tiêu đề: Âm nhạc dân gian trong công tác đào tạo tại trường

Đại học sư phạm Nghệ thuật trung ương nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan

và chi tiết về diện mạo của việc đưa âm nhạc dân gian vào công tác giảng dạy,

đào tạo sinh viên hệ Đại học sư phạm Nghệ thuật trung ương nhằm góp phần

nâng cao hiệu quả… Bên cạnh đó, đề tài còn hướng đến giữ gìn, phát triển các

giá trị âm nhạc dân gian cổ truyền thông qua việc đào tạo các lớp sinh viên là

những thầy cô giáo dạy nhạc tương lai [20, tr7]. Và, nhiều luận văn khác có

đề cập đến việc đưa dân ca địa phương vào chương trình môn hát nhạc ở các

trường phổ thông trên địa bàn đất nước.

4

Những công trình nghiên cứu, những bài viết trên có sự liên quan gián

tiếp đến đề tài của chúng tôi. Đây sẽ là những gợi ý, tài liệu để chúng tôi có

thể tham khảo hướng phát triển luận văn của mình.

Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập đến việc

nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ cao đẳng tại trường Đại

học Đồng Nai.

Song, các tập dân ca do tác giả Trần Viết Bính sưu tầm, ghi âm gồm:

“51 bài dân ca Mạ, Chau Ro, S`Tiêng ở Đồng Nai”, hay, “Dân ca Chau Ro ở

Bà Rịa – Vũng Tàu” gồm 32 bài dân ca của tác giả Trần Viết Bính – Võ Lê

khảo cứu và sưu tầm… đã khẳng định được giá trị to lớn của âm nhạc dân

gian và dân ca của các tộc người bản địa tại khu vực Đồng Nai sẽ là tư liệu

quí giá để chúng tôi có thể tham khảo và đưa vào sử dụng trong luận văn.

3. Mục đích nghiên cứu:

Dựa trên cơ sở phân tích thực tế về nội dung chương trình, phương

pháp giảng dạy, đối tượng học,… kết hợp với những kiến thức đã được học,

tôi hy vọng sẽ đưa ra được những giải pháp cụ thể góp phần vào việc nâng

cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ cao đẳng trường Đại Học Đồng

Nai trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng:

+ Thực trạng giảng dạy môn dân ca trong trường Đại học Đồng Nai,

những mặt được và chưa được cùng những nguyên nhân.

+ Vai trò của dân ca trong cuộc sống đương đại và việc truyền dạy môn

dân ca trong hệ thống các trường cao đẳng ở nước ta hiện nay.

+ Yếu tố vùng miền trong việc giảng dạy môn dân ca cho hệ Cao đẳng

sư phạm âm nhạc tại trường Đại học Đồng Nai.

- Phạm vi: Việc truyền dạy dân ca ở trường Đại học Đồng Nai.

5

5. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp khảo sát, thâm nhập thực tế.

- Phương pháp phân tích tổng hợp.

Ngoài ra, ở một mức độ nhất định có sử dụng phương pháp thống kê, so

sánh đối chiếu và kế thừa những tư liệu của các tác giả đi trước.

6. Đóng góp của đề tài:

- Đề tài là công trình nghiên cứu về những vấn đề giảng dạy môn dân

ca hệ Cao đẳng trường Đại học Đồng Nai.

- Đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả vào chất lượng đào tạo, góp phần giữ gìn những giá trị văn hóa cổ truyền.

7. Bố cục luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

gồm có hai chương.

- Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca

ở trường Đại học Đồng Nai.

- Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy

môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai.

6

Chương 1

VÀI NÉT VỀ DÂN CA VIỆT NAM VÀ VIỆC GIẢNG DẠY MÔN

DÂN CA Ở ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI

1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam

1.1.1. Giới thiệu một số thể loại dân ca Việt Nam tiêu biểu

Trong kho tàng âm nhạc dân gian của nước ta, dân ca được xem như

một tài sản vô giá và lâu đời nhất. Dân ca nói lên được tập tục sinh hoạt,

phong cách, đặc điểm riêng của từng dân tộc bằng những câu ca hết sức mộc

mạc, giản dị nhưng lại hết sức mượt mà phong phú.

Dân ca là sản phẩm của người dân lao động, là tiếng nói tình cảm, sản

phẩm tinh thần, nguồn nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam từ thế hệ này

đến thế hệ khác và có sức sống mãnh liệt.

Dân ca gắn liền với con người từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời.

Khi vừa chào đời chúng ta được nghe những bài hát ru ngọt ngào từ những

người mẹ (hát ru, ru con,…), lớn hơn một chút thì ta được hát cùng bạn bè

những bài đồng dao, đến tuổi cập kê thì hát tặng nhau những bài hát giao

duyên, khi nhắm mắt xuôi tay thì có những bài hát đưa tiễn. Khi lao động thì

có những bài hát lao động (hò giã gạo, hò đua thuyền, hò kéo gỗ,…). Đến các

dịp lễ cũng có các bài hát lễ nghi phong tục (như trong hát Xoan có: Hát chúc,

giáo trống, giáo pháo,… và bài hát Dậm như: Dâng hương, hoa sắc,…).

Ở miền Bắc âm nhạc dân ca giàu chất trữ tình, lãng mạn; miền Trung

thì dịu dàng kín đáo, mang nhiều tự sự; miền Nam dí dỏm, tình cảm đậm đà

tình làng nghĩa xóm bởi những điệu lý câu hò; còn dân ca của các dân tộc ít

người ở Tây Nguyên, Tây Bắc,… do ảnh hưởng của thiên nhiên nên âm nhạc

mộc mạc, chân chất và đầy huyền bí,…

Hát dân ca là tìm đến cội nguồn dân tộc để hiểu rõ hơn về đời sống

phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa của ông cha ta.

7

Ngày nay các giá trị cao đẹp của kho tàng dân ca, là nguồn sáng tạo để

các nhạc sĩ nghiên cứu sử dụng vào các ca khúc góp phần xây dựng nền âm

nhạc hiện thực xã hội chủ nghĩa dân tộc và hiện đại.

- Hát ru:

Là thể loại dùng để ru trẻ ngủ. Lần đầu tiên cảm nhận được hơi ấm là

được nghe tiếng ru của người mẹ. Hát ru là tiếng lòng người mẹ, là hạt nhân

cơ bản của gia đình. Người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn không phải chỉ bằng

dòng sữa ngọt ngào mà còn bằng những sáng tạo của mình đó là tiếng hát ru.

Bài hát ru đặt nền móng cho cuộc sống sinh vật và tâm hồn. Lời ru là bản sắc

văn hóa dân tộc.

“Âm điệu của hát ru khá phong phú. Hát ru của mỗi dân tộc lại có

những âm điệu ru mang âm hưởng khác nhau. Những bài hát ru ở Miền Bắc

thường có nội dung ngụ ngôn. Hình ảnh những con vật thân thuộc gần với

cuộc sống của người nông dân như hình ảnh con cò, con vạc, con tôm, con

kiến, con mèo,… được đưa vào bài hát để dỗ trẻ con ngủ. Lời của các bài hát

ru này thường ở các loại thơ bốn chữ, lục bát, lục bát biến thể, song thất lục

bát, bảy chữ, tám chữ,… Những bài hát ru miền Trung là những bài hát kết

hợp giữa hát nói và hát ngâm, sử dụng nhiều loại thơ dân gian và thơ tự do.

Những bài hát ru này là tiếng nói tâm tình của các bà mẹ, các chị, các bà nên

nội dung mang tính chất tâm tình, trữ tình, đôi khi mang nội dung giáo dục

nhân cách, lịch sử, ca ngợi quê hương đất nước, thời sự. Đó là những bài hát

với nội dung nhắn gửi tâm sự của người phụ nữ, của người vợ với người

chồng, của mẹ với con,… Điệu hát có nhịp điệu dịu dàng đong đưa của nhịp

võng. Thường sử dụng thang âm ngũ cung, thể thơ thông thường được dùng

làm lời hát ru là thơ lục bát”. [11,tr. 22,94,111]

Thật vậy, hát ru không chỉ bày tỏ tình cảm trực tiếp đối với đứa trẻ

đang ôm ru trong lòng mà nội dung hát ru còn mang tâm sự của người vợ đối

8

với chồng, của người con đối với cha mẹ ông bà, hay những câu than thân

trách phận hoặc giải bày nỗi niềm chua xót với tình duyên lận đận lao đao do

lễ giáo phong kiến áp đặt. Lời lẽ hát ru còn để tự nói với mình về lòng chung

thủy, về mối tình nghèo, về lòng hiếu thảo, về tính nhân ái, về cách dạy con,

về cách đối nhân xử thế, về những bài học rút ra từ cuộc sống,...

“Thể loại hát ru hình thành từ rất sớm, được lưu truyền một cách mạnh

mẽ, dai dẳng và lâu bền... từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng được phân

bổ đều khắp, rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam, từ đất tổ Hùng Vương xuống

đồng bằng sông Hồng, chạy dọc theo miền duyên hải Trung Bộ, vô đến khu

vực đồng bằng sông Cửu Long.

Hát ru cũng có mặt lâu đời trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, từ

Đông Bắc và Tây Bắc Bộ, dài theo dải Trường Sơn, tích tụ trên các buôn làng

Tây Nguyên, thẳng vô núi rừng miền Đông Nam Bộ và trong các phum sóc

Khmer...”. [26, tr.bìa]

Hát ru miền Bắc thường sử dụng dạng 5 âm điệu thức Bắc, sắc thái có

khi khỏe khoắn, sáng sủa, tươi vui tình tứ như trong 1 số bài như Hát ru con

(Đồng bằng bắc Bộ), Hát ru (Hà Nam), Ru con (Việt Trì), có khi lại dịu dàng

duyên dáng, sâu lắng như: Giọng ru (Hát ghẹo Phú Thọ), Hát ru (Phú Thọ)...

Hát ru miền Trung đặc biệt là vùng Bình - Trị - Thiên, gọi hát ru là Hát

ru con, thường sử dụng trên thơ lục bát, là loại diễn xướng cá nhân đơn lẻ, lời

chứa đựng nhiều tâm trạng và thường bộc lộ cảm xúc của người mẹ đang ru

con ngủ. Nhịp điệu chậm rãi, sắc thái thiết tha dịu dàng, đều đặn chất chứa

nỗi buồn.

Ở miền Nam, thể loại hát ru được gọi là Hát đưa em hoặc Hát ầu ơ.

Chúng mang sắc thái âm nhạc độc đáo. Nhịp điệu lúc khoan thai, buông lơi

rơi đều theo nhịp võng, tao nôi và khi dỗ đứa trẻ khóc thì dồn dập, khẩn

9

trương. Âm điệu Hát đưa em nghe buồn man mác, dịu êm, có khi thảm thiết ai

oán, mùi mẫn, có lúc vui tươi yêu đời...

Với dân tộc thiểu số hát ru gắn liền với những chiếc địu trên lưng các

bà mẹ đi làm nương rẫy. Bởi vậy những bài hát ru của các tộc người thiểu số

gắn với công việc lao động thường ngày. Nếu như ở dân tộc Thái, hát ru là

những làn điệu Ulúknón thì với dân tộc mường lại đa dạng hơn. Hát ru của

người Mường được chia làm hai loại riêng biệt: loại dành riêng để ru ban

ngày và loại chỉ để ru ban đêm. Phụ nữ Khmú lại dùng Pí tót để ru con ngủ.

Âm hưởng của nó rất độc đáo đó là xen lẫn tiếng sáo là những âm thanh giọng

người và trong cung bậc luyến láy trầm bổng của âm nhạc là tiếng dỗ dành

êm ái của người mẹ. Có vùng trẻ em Khơ mú lại được ru bằng những nét nhạc

thì thào lẫn trong âm sắc rè rè của tiết tấu đao (ví dụ bài Li hem sih - Ru em

ngủ). Với dân tộc Khmer, “Hát ru con (Bomke Kôn) vốn phổ biến lâu đời

trong dân gian được lưu truyền từ các bà mẹ, ông bà hoặc chị. Loại hát ru này

có rất nhiều dị bản với những biến hóa phát triển ít nhiều khác biệt. Nhịp điệu

của chúng thường chậm rãi, phù hợp với nhịp võng đong đưa kẽo kẹt hoặc

theo nhịp đẩy đưa của hai cánh tay người hát ru đang ôm ghì con vào lồng

ngực. Giai điệu hát ru chạy theo đường nét dợn sóng, bắt đầu từ thấp uốn

cong lên rồi đổ dần xuống về âm chủ của thang âm điệu thức.” [ 27, tr.68].

Những bài hát ru trong sinh hoạt đã được nhiều thế hệ các bà mẹ trau

chuốt với tất cả tấm lòng yêu thương trìu mến đối với đứa con đang được ru.

Trải qua bao đời và qua bao nhiêu nghệ sĩ dân gian những bài hát ru được trau

chuốt dần dần hình thành những bài dân ca mang tính nghệ thuật cao. Bởi

vậy, có những bài hát ru dần dần tách rời khỏi môi trường diễn xướng ban đầu

để trở thành những tiết mục trình diễn trong những cuộc sinh hoạt văn hóa

nghệ thuật và cả trong một số lễ hội. Ví dụ những điệu hát trong ca trù, hát

xoan,…

10

“Xét cho cùng thì hát ru là loại hát trữ tình, chất chứa tình thương của

người mẹ đối với con, ước mong sao cho con mau lớn nên người. Và hơn thế

nữa, cứ mỗi lần hát ru là mỗi lần người mẹ ôn lại những chuỗi ngày đã qua

mà bộc lộ bao nỗi niềm ngọt bùi cay đắng, Hát ru vẫn là những khúc ca vỗ về,

nựng nịu, ru ngủ nhằm “thuyết phục” và quyến rũ đối tượng bé bỏng. Có phải

vì vậy mà hình tượng âm nhạc của hát ru nghe uyển chuyển và dễ nhớ? Mặc

dầu người nghe có thể chưa biết rõ tiếng tộc người này hoặc tiếng tộc người

khác, nhưng vẫn cảm nhận một cách trực quan và phân biệt được hát ru với

loại hát khác trong dân ca.” [27, tr.69]

Một bà lão tên Trần thị Ba, xã Trung Nhất, huyện Thốt Nốt đã nói một

câu rất hay từa tựa với lời người cha của nhà thơ lỗi lạc Rasun - Gamzatov

rằng “kẻ nào không được nghe tiếng mẹ hát ru thì cũng thể như mồ côi. Và ai

lớn lên dù thiếu cha thiếu mẹ nhưng được nghe hát từ trong nôi thì không thể

gọi là mồ côi”.

“Mặc dầu trong thời đại ngày nay cuộc sống đã có nhiều thay đổi

những điệu hát ru trong cuộc đời vẫn là món ăn tinh thần quý giá cho trẻ nhỏ

cần được kế thừa và phát triển. Đó là cả tấm lòng trìu mến thiết tha mà trẻ

nhỏ cần ở người lớn. Đó cũng là tầm hồn của dân tộc từ ngàn xưa qua tiếng

hát của những người bà, người mẹ, những người chị hoặc anh thẩm thấu dần

vào tiềm thức của các bé ngay từ thủa còn nằm trên nôi để rồi sau này sẽ

cùng với những yếu tố khác nảy nở thành nhân cách và tình yêu quê hương

đất nước trong mỗi con người Việt Nam,…” [9, tr.82-83].

- Đồng dao:

Là thể loại ca nhạc dùng cho thiếu niên nhi đồng như một hình thức

vừa học vừa chơi. Một số trò chơi dùng kèm với nhạc khí. Đây là một hình

thức vừa chơi vừa học rất bổ ích. Đồng dao có tác dụng rất lớn trong việc giáo

dục nhân cách trẻ. Trước hết là nội dung lời ca của các bài đồng dao rất đa

11

dạng. Lời ca mang tính giáo dục trẻ ở nhiều khía cạnh khác nhau: Giữ vệ sinh,

gần gũi với thiên nhiên, dạy các em cách quan sát các sự vật hiện tượng tự

nhiên xảy ra xung quanh hoặc hình ảnh của một số loài vật.

Con Công hay múa

Nó múa làm sao

Nó rụt cổ vào

Nó xèo cánh ra

Nhiều bài đồng dao có tác dụng rèn luyện sự nhanh nhẹn và phản xạ

chính xác cho các em.

Chi chi chành chành

Cái đanh thổi lửa

Con ngựa chết trương

Ba vương ngũ đế

Bắt dế đi tìm

Ù à ù ập

Đóng sập cửa lại

[18,tr.168]

Đồng dao đã mở rộng cánh cửa tâm hồn của trẻ nhỏ giúp các em dễ

dàng tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bằng ngôn ngữ mang phong cách trẻ

thơ, đồng dao cung cấp cho các em nhiều kiến thức về tự nhiên, về cuộc sống.

Lại có những bài dạy cho các em sử dụng gia vị cho thích hợp với từng loại

thực phẩm.

Con gà cục tác lá chanh

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

Con chó khóc đứng khóc ngồi

Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.

[Đồng dao, 23, 693]

12

Đồng dao còn là những bài luyện phát âm cho trẻ. Những câu nói ngắn

gọn với âm điệu phức tạp, đồng dao không những giúp trẻ em rèn luyện phát

âm tròn vành rõ chữ mà còn làm cho tiếng nói của trẻ thêm giàu nhạc điệu.

Tháng năm nắng lắm

Ốc bám cọc cầu ao

Nồi đồng nấu ốc

Nồi đất nấu ếch.

Đồng dao là những bài học thực hành âm nhạc thậm chí “dù ở dạng

đơn giản nhất, nghĩa là khi nó chưa phải là những bài hát thực sự mà chỉ là

những câu thơ được đọc cách điệu theo thanh điệu của lời thơ và một vài kiểu

tiết tấu nào đó, cũng là những bài học đầu tiên rèn luyện mĩ cảm âm nhạc và

năng lực diễn xướng cho các em” [9, tr.85]

Tính giản dị, khúc chiết gọn gàng dễ nhớ dễ thuộc và yếu tố nội trội là

tính tiết tấu. Đó là những đặc trưng phổ biến của các bài đồng dao.

Đồng dao không chỉ có mặt ở người Kinh mà còn có mặt ở các tộc

người thiểu số khác như ở vùng Hà Giang thì có “Tình củm cắp tình cay”.

Ngoài lời ca và nhạc điệu phần trò chơi gắn với các bài đồng dao có tác

dụng quan trọng trong việc tập luyện và chuẩn bị những năng lực cần thiết

cho các em để sau này có thể vững vàng bước vào đời. Qua những bài hát trò

chơi này các em làm quen và rèn luyện những phản xạ nhanh chính xác, khả

năng giữ thăng bằng, sự phối hợp tập thể, sự nhanh nhẹn, khéo léo, sức khỏe.

Các em có thể tự làm đồ chơi cho mình như thế sẽ phát triển được tính sáng

tạo, không những thế còn rèn luyện được sự khéo léo, tỉ mỉ và lòng kiên trì.

Tập sử dụng những trò chơi này vừa là những bài học đầu tiên về sử dụng

nhạc khí đồng thời là những bài học chuẩn bị cho các em gia nhập các sinh

hoạt văn hóa cộng đồng. “Quả thật các bài hát kèm theo trò chơi này không

những là bài học đầu tiên về ca nhạc mà còn là những bài học vỡ lòng về thế

13

giới tự nhiên và cuộc sống xã hội vẫn còn lạ lẫm với tuổi thơ. Đó cũng là

những bài tập giúp các em rèn luyện một số khă năng và tập quán cần thiết

cho cuộc sống trong tương lai. Vì vậy, các bài đồng dao không chỉ thuần túy

là những trò vui giải trí cho các em mà còn là những hình thức chơi mà học

tổng hợp rất bổ ích và cần thiết cho lứa tuổi thiếu niên nhi đồng chẳng những

ở các thời đại xa xưa mà ở cả thời đại ngày nay” [9, tr. 88-89].

- Hát giao duyên: Là thể loại hát đối đáp giữa nam và nữ. Đây là thể

loại khá phong phú phổ biến khắp các dân tộc. Người Việt thì có Ví, Đúm, Cò

lả, hát ghẹo Phú Thọ, Quan họ Bắc Ninh, người Tày thì có hát Phong slư, hát

Cọi ở Hà Giang, hát giao duyên Sli, Lượn của người Tày, Nùng các tỉnh Cao

Bằng, Bắc Kạn, người Dao có hát Páo dung, người Mường có hát Đúm, người

Thái có hát Khắp Tua…

Ở người Hmông có những bài hát tình yêu (Gầu Phlềnh) và những hình

thức trao đổi tình cảm trong những ngày hội đầu xuân Gầu tào, Sải sán bằng

lối hát tương tự như người Chăm, Việt, Mường… Và đặc biệt là bằng tiếng

đàn môi, kèn lá mô phỏng tiếng người nhờ đó “đối tượng” nghe hiểu được

chàng trai hay cô gái muốn nói điều gì. Mỗi loại có rất nhiều làn điều khác

nhau, dùng để đối đáp thăm hỏi trao đổi tình cảm, ước hẹn… trong những

ngày hội, ngày tết, đám cưới, chợ phiên… đặc biệt là đồng bào Nùng có lối

hát đối đáp hai bè giữa từng đôi nam với đôi nữ. Hát đối đáp của đồng bào

Mường phong phú về thể loại: thường, rang, bộ mẹng, bỉ, túm... Nhạc cụ đi

kèm với các làn điệu ấy cũng rất đa dạng. Các chàng trai dân tộc Lự có Pí Lự,

có khen (khèn) hoặc các cặp Pí Me Lụ làm nhạc cụ cho những cuộc hát đối

đáp nam nữ. Các chàng trai Khmú lại dùng Pí tót nhỏ xinh để “hát” giao

duyên với các cô gái. Còn ở người Tày hát giao duyên của mỗi vùng lại có

cách thể hiện và trình diễn khác nhau như: Cọi, Lượn Nàng ới ở Bắc Cạn, hát

lếu ở Hà Giang, điệu phong Slư ở Cao Bằng… Nét đặc trưng của dân ca giao

14

duyên Tày, Nùng là âm nhạc mộc mạc nhưng không đơn điệu, lời hát bay

lượn, mềm mại du dương, lời hát đối đáp có sự pha trộn tiếng hán việt.

Ở người Việt thể loại này thể hiện ở nhiều loại hình khác nhau như hát

Ghẹo, hát Đúm, Cò lả, ví, Trống quân, Quan họ ….

- Dân ca lễ nghi phong tục:

Ngay từ thời nguyên thủy, những sinh hoạt lễ nghi tín ngưỡng đã xuất

hiện và đôi khi phục vụ cho sản xuất. Dân ca lễ nghi phong tục là dân ca dùng

trong nghi lễ cúng bái gồm các nghi lễ cộng đồng và nghi lễ gia đình.

Nghi lễ cộng đồng có hát cửa đình, hát văn,… Hát văn là lối hát thờ

gắn với tục lên đồng và một phức hợp tín ngưỡng của người Việt, trong đó

nổi bật nhất là tín ngưỡng Tứ phủ. Hát Văn do các cung văn thể hiện ở các

đền, phủ hoặc trong chùa (nhung chỉ hát trước Điện thờ hệ thống thần linh của

phức hợp tín ngưỡng này ở trong khuôn viên chùa). Nhiều làn điệu bài bản có

sắc thái tình cảm đa dạng, song Cờn Dọc Xá là những điệu hát riêng độc đáo

của hát văn. Nét nổi bật nhất của thể loại này là tính tiết tấu.

Ca trù (hát ả Đào): Đây là lối hát thờ của người Việt dùng ở đình đền,

vì vậy nó nằm trong thể loại hát cửa đình. Các cuộc hát cổ xưa có nhiều nhạc

khí về sau chúng dần được tinh giảm chỉ còn một trống chầu do quan viên

cầm chầu dùng để thưởng phạt và hai nhạc khí đệm đặc trưng chỉ có trong hát

ả đào: Đàn đáy và phách bàn với bộ dù ba lá dùng trong lối hát chơi.

Hát xoan (khúc đình môn): Chỉ có ở Vĩnh Phú, là thể loại diễn xướng

tổng hợp sôi nổi gồm cả hát – múa và trò diễn. Nó có một hệ bài bản phong

phú được trình diễn theo lề lối quy định với ba chặng chính có đặc trưng khác

nhau. Tiết mục đặc sắc nhất của hát xoan là một trò diễn vui và sôi nổi: Đánh

cá. Tuy nhiên đó là một nghi thức có liên quan đến tín ngưỡng dùng để kết

thúc lễ hội.

15

Với tộc người thiểu số điển hình cho lễ nghi phong tục đó là hát Then.

Nó có nhiều làn điệu phục vụ các nghi lễ cúng tế, phổ biến trong một số tộc

người miền núi phía Bắc đặc biệt là người Tày, Nùng. Có thể xem hát Then

như một cuộc diễn xướng trường ca mang tính chất tâm linh tín ngưỡng tường

thuật lại cuộc hành trình của pháp sư đưa đoàn âm binh lên biên giới để cầu

xin Ngọc Hoàng giải quyết một số vấn đề gì đó theo yêu cầu của giai điệu

hoặc chính vì người làm Then. Mặc dầu vậy, từ xưa đồng bào cũng đã sử

dụng hát Then vào những mục đích khác ngoài mục đích cầu cúng. Nhạc khí

phổ biến trong các cuộc hát Then là tính tẩu và chùm nhạc xóc.

Hát đám cưới là thể loại phổ biến ở khá nhiều tộc miền núi phía Bắc

như Tày, Nùng, Thái, Cao Lan – Sán chỉ, Dao, Lô lô,… như hát Cò lẩu ở

người Nùng phàn Slình, Nai của người Nùng cháo, Xướng quan làng của

người Tày. Đồng bào Nùng có nhiều bái hát do thân nhân của người quá cố và

thầy Tào thực hiện trong quá trình lễ tang: Hát khóc, cầu siêu, tế,… Người

Mường thì có hát Mo, hát Rằng,… Đặc biệt phải kể đến dân ca trong các nghi

lễ người Chăm Bàlamôn âm nhạc đều tham gia một cách tích cực và trở thành

nhân tố quan trọng trong nhiều nghi lễ, lễ hội. Dàn nhạc Chăm với trống Gi-

năng, Baranưng, kèn Saranai, đàn Kanhi. Vùng Tây nguyên là nơi có các tộc

người sinh sống lâu đời như banar, Êđê, Gia rai,… Giai điệu trong những bài

dân ca của các tộc người Tây nguyên thường sử dụng nửa cung trong đầu câu

hát và gần cuối câu hát tạo cảm giác mênh mang. Họ sử dụng cồng chiêng và

mọi người nhảy múa khi làm lễ. Loại hình hát kể được sử dụng phổ biến ở

đây.

- Dân ca sinh hoạt:

Dân ca sinh hoạt của người Việt là những câu hát phản ánh đời sống

sinh hoạt của người dân, đó là câu hát trong lao động sản xuất, trong đời sống

thường nhật. Miền bắc có thể kể đến các làn điệu hát ngâm như sa mạc, bồng

16

mạc; miền trung có hát giặm, có lý, vè,…; nam bộ có nói thơ, lý,… và hát ru

có ở mọi miền của tổ quốc. Trong đó, “… Xẩm là một loại dân ca đặc biệt của

người khiếm thị miền Bắc, thường thấy ở đồng bằng và trung du Bắc bộ, hát

xẩm có nhiều tiếng đưa hơi và đi kèm đệm theo là tiếng đàn bầu hay tiếng nhị

với Xênh và phách” [19,tr.617]. Với diễn xướng của hát xẩm rất thoải mái, tự

do không cần sân khấu biểu diễn hay nghệ sĩ tài hoa thể hiện. Hay, hát Giặm

là thể loại dân ca đặc sắc của Nghệ - Tĩnh. Nó cấu trúc đặc biệt: Đó là mô

hình tiết tấu cơ bản hình thành trên thể thơ năm chữ làm cơ sở cho sự triển

khai toàn bộ dân ca, câu cuối khổ hoặc cuối bài bao giờ cũng kết thúc bằng sự

láy lại mấy từ cuối của câu trước nó. [9, tr.109].

Thể hiện rõ nhất trong dân ca lao động đó là Hò. Hò phổ biến rộng rãi

khắp đất nước. Hò khá đa dạng: Hò sông nước, hò trên cạn. Những điệu hò

phản ánh toàn bộ cuộc sống của người dân lao động. Những sinh hoạt đời

thường được thể hiện nhiều nhất qua những bài hát ru “loại dân ca này phổ

biến khắp trong nước, mỗi miền hát một cách khác nhau nhưng có chung một

phong thái là ngân nga, êm dịu” [19,tr.735]. Bên cạnh đó là ngâm thơ và Vè

là những thể loại dân ca mô tả rất chân thật cuộc sống lao động và sinh hoạt

của người dân Việt Nam.

Dân ca sinh hoạt của các tộc người thiểu số cũng có các thể loại khác

nhau. Những sinh hoạt thường ngày, những công việc nương rẫy lúc địu con

đều được thể hiện qua những bài hát ru, hát giao duyên của dân tộc thiểu số

mặc dù không được phổ biến nhưng lại có những nét đặc sắc riêng. Ví dụ như

hát giao duyên người Tày có Phong Slư, hát Cọi ở vùng sông Chảy, người

Thái có Khắp Loong toong, hát trên cánh đồng,…

- Dân ca phong tục khác:

17

“Hát Sắc bùa là một thể loại được dùng với mục đích tống quỷ trừ tà,

chúc phúc lộc cho các gia đình nhân dịp năm mới. Tục này phổ biến ở người

Mường và người Việt từ bắc chí nam. [9,tr.129]

Hát Bả Trảo: “Là một thể loại diễn xướng phổ biến ở các cư dân Việt

vùng ven biển miền trung và một số nơi ở nam bộ. Nó gắn với tục thờ các

Ông tên gọi biểu lộ sự kính trọng mà những người đi biển dành cho loài cá

voi” [9, tr.130]

Hát múa đội đèn: Là một trong những trò thuộc hệ thống trò Đông Anh.

Hát múa đội đèn là hình thức nghệ thuật phản ánh lịch tiết của nông dân trong

một thời vụ trồng lúa.

Hát múa bóng rỗi: Thể loại dân ca nghi lễ phổ biến ở Nam Trung Bộ và

Nam Bộ.

1.1.2. Vai trò và giá trị của dân ca trong cuộc sống xưa và nay

Theo Âm nhạc cổ truyền Việt Nam của PGS-TS.Nguyễn Thị Loan thì:

“Âm nhạc dân gian là một bộ phận ra đời sớm nhất và có sức bền vững nhất.

Nó đã xuất hiện ngay từ thời nguyên thủy và tiếp tục tồn tại cho đến tận ngày

nay. Bởi vậy, kể từ thuở dựng nước tới nay, bộ phận âm nhạc này đã có tuổi

đời trên dưới bốn ngàn năm. Trong suốt chặng đường dài ấy âm nhạc dân gian

đã không ngừng phát triển ngày càng phong phú đa dạng và nhiều thể loại đã

đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Dân ca chính là một trong những hợp phần

của bộ phận này. Nó cũng mang trong mình bề dày lịch sử và những đặc

trưng bao quát nhất của âm nhạc dân ca nói chung” [9, tr.153,154].

Dân ca là những tác phẩm được tập thể nhân dân cùng góp phần sáng

tạo và biểu diễn để phục vụ nhu cầu tinh thần của chính mình trong đời sống

thường ngày cũng như trong các sinh hoạt tập thể cộng đồng. Vì vậy, tác giả

của những bài dân ca chủ yếu là những người dân lao động bình dị. Họ

18

thường ứng tác tại chỗ - đặc biệt là phần lời ca - trong những dịp gặp gỡ đông

người hay dịp lễ tết hội hè…

Những bài dân ca đó được truyền khẩu cho nhau từ nơi này đến nơi

khác, từ đời này đến đời khác. Qua mỗi địa phương, mỗi thế hệ, mỗi con

người cụ thể, dân ca đã được sửa sang, gọt giũa rồi dần trở thành những sáng

tạo mang tính tập thể và luôn tồn tại dưới dạng dị bản. Những dị bản này vừa

mang nét chung của cả tộc người lại vừa có những nét riêng của từng địa

phương (ví dụ bài “lý con sáo” của người Việt với 19 dị bản có mặt khắp từ

bắc tới nam). Với khả năng biến hóa tài tình, kết hợp với những sáng tạo

không ngừng của nhân dân trong quá trình phát triển của lịch sử, ngày nay

kho tàng dân ca vẫn được lưu giữ với hàng ngàn bài ca lời hay, ý đẹp và giàu

sức truyền cảm trong nhạc điệu. Đây chính tài sản quý báu của đất nước mà

chúng ta đang được nắm giữ, kế thừa từ biết bao thế hệ cha ông.

Dân ca cho dù ở mức độ nào cũng luôn chứa đựng trong mình những

giá trị quí báu, bởi nó không chỉ có giá trị về âm nhạc cũng như lời ca mà cao

hơn chính là giá trị phản ảnh cuộc sống và làm thỏa mãn nhu cầu cảm xúc của

con người.

Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng hơn một lần nghe khúc hát quan họ

của vùng quê Kinh Bắc hay cũng đã từng được nghe những câu Hò, Ví, Giặm

Nghệ Tĩnh, cùng những điệu Lý, câu hò khoan nhặt trên sông nước Nam bộ

hay ở nhiều vùng miền khác của đất nước. Những điệu hát Then, những câu

Sli, Lượn thật quyến rũ, độc đáo của người Tày - Nùng; những câu hát giao

duyên của người Thái - Mèo - Dao…; những câu hát ru em cùng nhiều làn

điệu dân ca khác của các tộc người ở Tây Nguyên… Tất cả những giai điệu,

lời ca ấy đã không chỉ làm nên nét đặc trưng của văn hóa vùng miền, mà còn

đem lại cho người nghe biết bao sự rung động khiến bất kỳ ai cứ mỗi khi nghe

thấy làn điệu dân ca quê hương lại không thể kìm được cảm xúc, để rồi sống

19

tốt hơn sao cho xứng đáng với quê hương - nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng ta

thành người. Giá trị và vẻ đẹp bình dị, mộc mại của dân ca đã được một nhà

phê bình Nghệ Thuật người Nga ghi nhận và mô tả: “Cũng như một đóa hoa

huệ, trong vẻ tráng lệ hoàn mãn của nó đã làm mờ cả màu gấm vẻ ngọc, âm

nhạc dân gian với cái giản dị tươi tắn của nó, còn trăm ngàn lần phong phú

hơn, đẹp đẽ hơn tất cả các kĩ xảo kinh viện”. [13, tr.67]

Thật vậy, sự trường tồn của nền âm nhạc dân gian nói chung, dân ca

nói riêng không chỉ bởi nó gần gũi thân thiết với người con người mà còn bởi

những giá trị mà nó mang lại.

Dân ca là nơi lưu trữ những dấu ấn văn hóa tinh thần hàng ngàn năm

của dân tộc. Đó là tiếng nói bình dị của người lao động các tộc người cùng

sống trên dải đất Việt Nam, là cốt cách tâm hồn, là lối sống nhân hậu của con

người Việt Nam được chắt lọc qua năm tháng để trở thành tinh hoa văn hóa

của dân tộc Việt Nam. Qua dân ca chúng ta sẽ cảm nhận được những phẩm

chất tốt đẹp, cao quý của dân tộc được biểu hiện qua sự đa dạng của đề tài

như: Tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, ca ngợi đức tính thủy chung son sắt,

tình nghĩa bạn bè, lòng biết ơn đối với cha mẹ, với những người có công với

đất nước…

Dân ca Việt Nam chứa đựng những giá trị giáo dục đa chiều. Chúng ta

có thể tìm thấy trong dân ca những bài học về đạo lý làm người, uống nước

nhớ nguồn, khắc nhớ công lao trời biển của những người sinh thành của bao

thế hệ cha ông:

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông

Núi cao biển rộng mênh mông

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.

(Hát ru - người Việt)

20

Những lời ru của mẹ như mạch nước ngầm tinh khiết, làm nảy nở trong

tâm hồn trẻ thơ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp.

Thờ cha mẹ, ở hết lòng

Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường.

(Hát ru - người Việt)

Chúng ta có thể bắt gặp những câu hát là những bài học về tinh thần tập

thể và ý thức đùm bọc lẫn nhau:

Bầu ơi thương nhớ bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một già.

(Hát ru - người Việt)

Hay những bài hát mang ý nghĩa giáo dục con cháu rất cụ thể về việc

phải biết chia xẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh.

Bà còng đi chợ trời mưa

Cái tôm cái tép đi đưa bà còng

Đưa bà đến đoạn đường cong

Đưa bà về tận ngõ trong nhà bà.

(Đồng dao)

Không chỉ dừng lại ở việc răn dạy con cháu, dân ca còn là tấm gương

phản chiếu cuộc sống, tâm hồn, tính cách của dân tộc. Do gắn bó chặt chẽ với

cuộc sống và đáp ứng nhu cầu tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân

nên dân ca trở thành tiếng nói tình cảm của người dân ở các góc độ cuộc sống

khác nhau.

Nghe dân ca chúng ta có thể cảm nhận được tâm tư, tình cảm, ước vọng

hay những diễn biến trong cuộc sống của người dân. Cũng qua dân ca chúng

ta dễ dàng cảm nhận nhiều phẩm chất tốt đẹp của dân tộc như: Yêu thiên

nhiên, yêu Tổ quốc, nghĩa thủy chung, tình bạn bè, ý thức uống nước nhớ

21

nguồn, lòng biết ơn đối với cha mẹ, những anh hùng dân tộc, những người có

công với đất nước,…

Nước sông Lam dào dạt

Đây cảnh đẹp Nam Đàn

Ai đi chở Sa Nam

Mà xem thuyền xem bến

Ngày xưa Mai Hắc Đế

Quyết cứu nước dựng cờ

Vàn Sơn núi lô nhô

Rồng bên mây ấp ờ…

(Hò bơi thuyền - dân ca Nghệ Tĩnh)

Qua dân ca chúng ta có thể thấy được bản chất giàu tình cảm, tâm hồn

thơ mộng trữ tình, tình yêu cuộc sống cũng như nét hồn nhiên hóm hỉnh trong

tính cách Việt Nam.

Bập bềnh sóng nước đêm trăng

Thuyền băng sóng bạc lướt dòng cuộn trôi

Trăng in mặt nước sáng ngời

Tiếng hò vang vọng nước non tâm tình

Ước gì có lưới giăng vông

Có thuyền chú lái buông lòng nhớ thương…

(Đò đưa - dân ca Bắc bộ)

Hay, đức tính cần cù, gan dạ trong lao động cũng như tinh thần lạc

quan yêu đời của nhân dân ta.

Ra đi sóng biển mịt mù

Trời cho lưới nặng dô hò kéo lên

(Hò giựt chì - Quảng Nam)

22

Hoặc thông qua câu hát giao duyên, trai gái có thể bày tỏ tình yêu, sự

gắn bó thủy chung với nhau như:

Yêu nhau tam tứ núi anh cũng trèo

Ngũ lục giang anh cũng lội, thất bát đèo anh cũng qua

(hát Vĩ Nghệ Tĩnh)

Nguyệt gác bên thềm

Chén son chưa cạn sao tình đã say

(dân ca Quan họ)

Và, cũng có khi là những câu than vãn cho tình yêu lận đận bởi lễ giáo

phong kiến.

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Tại cha tại mẹ buông cần đứt dây

(Dân ca Nam bộ)

Có thể nói tiếp xúc với dân ca chúng ta không chỉ học được nghệ thuật

sáng tác văn thơ, âm nhạc của cha ông mà còn hiểu được nhiều phẩm chất và

truyền thống tốt đẹp của ông cha ta để kế thừa và phát huy.

“Dân ca Việt Nam giống như một khu vườn với muôn vàn loài hoa.

Mỗi loài hoa một hương sắc, một vẻ đẹp. Nó cung cấp cho chúng ta một

nguồn nguyên liệu dồi dào mà dựa vào đó các nhà soạn nhạc Việt Nam đã

từng sáng tác nên biết bao ca khúc, bản nhạc đậm đà bản sắc dân tộc và đầy

sức cuốn hút. Dân ca Việt Nam đã và sẽ là nguồn nguyên liệu quý báu cho

những sáng tác hôm nay và mai sau. Trong kho tàng dân ca ấy, ngoài những

nguyên liệu đặc sắc còn tàng chứa những mẫu mực, những nguyên tắc sáng

tạo của nghệ thuật đáng được học hỏi, kế thừa. Chúng sẽ là bệ phóng cho

những sáng tạo mới của những thế hệ tương lai”. [9, tr.159].

1.2. Việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai

1.2.1. Vài nét về trường Đại học Đồng Nai

23

Trường Đại học Đồng Nai là trường đại học công lập đầu tiên trên địa

bàn tỉnh Đồng Nai, được thành lập theo quyết định số 1572/QĐ-TTg ngày

20/8/2010 của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở nâng cấp từ trường Cao đẳng

sư phạm Đồng Nai.

Trường CĐSP Đồng Nai được thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm

1976, ban đầu có tên gọi là trường Sư phạm cấp 2 Đồng Nai theo Quyết định

của Bộ Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) từ việc tách cơ sở 4 của

trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày

28/03/1987, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định nâng cấp trường thành

trường CĐSP Đồng Nai trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo. Ngày

15/09/1997, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Đồng Nai quyết định

hợp nhất 2 trường Sư phạm của tỉnh (Trung học Sư phạm và Cao đẳng Sư

phạm). Trường có chức năng, nhiệm vụ chính là đào tạo giáo viên Mầm non,

Tiểu học, Trung học cơ sở (THCS); đào tạo cán bộ quản lý cho các bậc học;

liên kết với các trường Đại học Sư phạm được Bộ giao để đào tạo, chuẩn hóa

giáo viên có trình độ đại học, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo,

đáp ứng yêu cầu đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục.

Sau 35 năm không ngừng phấn đấu xây dựng và phát triển, trường

CĐSP Đồng Nai đã đào tạo gần 40.000 giáo viên từ mầm non đến THCS,

trường cũng đã liên kết đào tạo hơn 1.000 giáo viên trung học phổ thông, liên

kết đào tạo nâng chuẩn cho hơn 5.000 giáo viên ở các cấp học khác cho tỉnh

Đồng Nai cũng như các tỉnh lân cận.

Hiện nay, số lượng sinh viên chính qui đang theo học tại trường là

3.180 sinh viên từ năm thứ nhất đến năm thứ ba ở 2 nhóm ngành sư phạm và

ngoài sư phạm. Trong đó có 6 ngành hệ đại học như: ĐHSP toán, ĐHSP vật

lý, ĐHSP anh văn, ĐHSP ngữ văn, ĐH kế toán, ĐH quản trị kinh doanh và 19

ngành hệ cao đẳng như cao đẳng sư phạm toán, CĐSP vật lý, CĐSP hoá –

24

sinh, CĐSP văn, CĐSP địa, CĐSP sử, CĐSP giáo dục công dân, CĐSP anh

văn, CĐSP mầm non, CĐSP tiểu học, CĐSP âm nhạc, CĐSP Mỹ thuật, CĐSP

thể dục, CĐ tiếng anh thương mại, CĐ quản trị văn phòng, CĐ quản trị kinh

doanh, CĐ kế toán, CĐ tài chính – ngân hàng, CĐ công nghệ thông tin. Ngoài

ra hiện nay có gần 7.000 học viên đang theo học tại trường thuộc các loại hình

đào tạo liên thông, vừa học vừa làm, đào tạo từ xa,…

Trong tổng số 3.180 sinh viên hệ chính quy đang học tại trường ở 2 hệ

đại học và cao đẳng thuộc các ngành trong và ngoài sư phạm, có 2.754 sinh

viên là nữ giới, chiếm 86,6% sinh viên toàn trường. Sinh viên của trường đa

phần là con em của các gia đình có hộ khẩu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Riêng

đối với ngành sư phạm 100% sinh viên là người có hộ khẩu ở Đồng Nai.

Trong số đó có hơn 100 sinh viên là người dân tộc, một số sinh viên theo đạo

Phật, Tin lành,… đặc biệt là nhiều sinh viên của trường là con em của đồng

bào công giáo, tập trung chủ yếu ở khu vực như Hố Nai, Tân Mai, Tân Biên,

Gia Kiệm (Thống Nhất), Phú Lâm (Tân Phú),… Tất cả góp phần tạo nên bức

tranh đa màu sắc của sinh viên Đại Học Đồng Nai.

Về cơ cấu tổ chức, nhà trường bao gồm có các phòng ban và các khoa

như sau: Ban Giám hiệu, Phòng Tổ chức hành chính, Phòng Đào tạo, Phòng

Công tác sinh viên, Phòng Nghiên cứu khoa học – Sau đại học & Quan hệ

quốc tế, Phòng Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục, Phòng Kế hoạch

tài chính, Phòng Thanh tra – Pháp chế và Trung tâm thư viện. Hiện nay nhà

trường có 6 khoa: SP Tự nhiên, SP Xã hội, SP Tiểu học – Mầm Non, Thể Dục

– Nhạc – Hoạ, Ngoại Ngữ, Tổng Hợp và 2 tổ bộ môn trực thuộc trường: Tổ

bộ môn Quản lý giáo dục và Lý luận chính trị.

Về nhân sự, tính đến nay (năm học 2011 – 2012), lực lượng nhân sự

của trường là 251 cán bộ, giảng viên, công nhân viên. Số giảng viên trực tiếp

25

đứng lớp giảng dạy là 168; trong đó có 4 tiến sĩ, 8 nghiên cứu sinh và 78 thạc

sĩ, 34 giảng viên đang học cao học.

Về cơ sở vật chất, tổng diện tích đất đai nhà trường được quản lý và sử

dụng là trên 9 ha, với 120 phòng học, 2 giảng đường, 1 hội trường, 1 nhà tập

thể dục thể thao đa năng, 1 sân vận động thể thao, 1 xưởng thực hành hiện đại

và các phòng thí nghiệm Lý, Hoá, Sinh với các thiết bị đáp ứng yêu cầu các

giờ học thí nghiệm thực hành, 10 phòng máy vi tính, trên 300 máy nối mạng

internet tốc độ cao, hệ thống mạng wifi phủ khắp khuôn viên của nhà trường. Trung tâm Thông tin - Thư viện với diện tích 1.600 m2, với trên 150.000 đầu

sách nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của sinh viên, cán bộ giảng

viên trong nhà trường. Khu nội trú sinh viên có 4 dãy nhà 4 tầng với sức chứa

1.800 sinh viên, nằm ngay trong khuôn viên của nhà trường đáp ứng nhu cầu

chỗ ở cho sinh viên ở xa.

1.2.2. Đội ngũ giáo viên âm nhạc và đối tượng sinh viên âm nhạc ở

trường Đại học Đồng Nai

- Năng lực đội ngũ giảng viên

Lực lượng giảng viên giảng dạy môn Âm nhạc ở trường Đại học Đồng

Nai có nhiệm vụ cung cấp những kỹ năng thực hành và phương pháp giảng

dạy bộ môn âm nhạc cho giáo sinh hệ cao đẳng chuyên nhạc, cao đẳng tiểu

học. Giảng viên tổ nhạc giữ vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục

tiêu đào tạo giáo viên Nghệ thuật. Ngoài việc giảng dạy giảng viên âm nhạc

còn là lực lượng quan trọng trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật góp phần

tạo không khí vui tươi, sôi nổi trong nhà trường.

Trường Đại học Đồng Nai hình thành chuyên ngành đào tạo âm nhạc từ

năm 2000 cùng với các môn đào tạo khác về năng khiếu là Mỹ thuật và Thể

dục. Trải qua 10 khóa đào tạo giáo viên âm nhạc đã tốt nghiệp, nhà trường đã

26

góp phần không nhỏ trong việc cung cấp nguồn nhân lực giáo viên giảng dạy

năng khiếu cho các trường phổ thông trong toàn tỉnh.

Từ những khó khăn trong bước đầu thành lập và gây dựng, đến nay nhà

trường đã có 4 phòng âm nhạc lắp đạt trang thiết bị, có đội ngũ giảng viên đầy

kinh nghiệm, yêu nghề và đầy nhiệt huyết. Tuy nhiên vẫn còn một số mặt tồn

tại cần khắc phục.

+ Về công nghệ thông tin: Đã được đưa vào giảng dạy và ứng dụng

trong học đường cách đây hơn chục năm, nhưng gần đây CNTT mới thực sự

phổ biến trong giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, việc biên soạn giáo án bằng

CNTT còn rất hạn chế ở tổ Nhạc, điều đó cũng làm ảnh hưởng tới chất lượng

giảng dạy.

+ Xét về năng lực lí luận: Năng lực lí luận là rất quan trọng và cần thiết

cho mỗi giảng viên trong việc vận dụng để tìm hiểu, lập luận và giải quyết

vấn đề trong việc NCKH. Nhưng, việc trang bị năng lực lí luận cho các giảng

viên còn rất hạn chế. Các cuộc hội thảo, tọa đàm chuyên môn hầu như là

không được tổ chức.

+ Năng lực ngoại ngữ: Trường Đại học Đồng Nai luôn phát động việc

học ngoại ngữ, bồi dưỡng ngoại ngữ để thông qua ngoại ngữ mở rộng tầm

hiểu biết, góp phần cho bài giảng thêm sinh động và hấp dẫn hơn.

+ Về việc thực hiện giảng dạy: Tổ âm nhạc của trường Đại học Đồng

Nai nay trực thuộc khoa Thể Dục - Nhạc Họa, đây là khoa chuyên đào tạo

những ngành năng khiếu nên có nhiều thuận lợi trong việc hướng dẫn sáng

tạo nghệ thuật, phát huy năng lực cho sinh viên. Về đội ngũ giảng viên hiện

nay có 8 giảng viên, trong đó có 1 thạc sĩ, 2 giảng viên đang theo học cao học.

Các giảng viên tổ âm nhạc phải đảm nhận việc giảng dạy, hướng dẫn

sinh viên thực hành và lí luận những chuyên ngành âm nhạc, những học phần

27

của lớp sư phạm âm nhạc chính quy, ngoài ra còn phải đảm nhận những học

phần của các lớp đào tạo hệ CĐSP Tiểu học, TCSP Mầm non.

Có những phân môn giảng viên được giao dạy không đúng với năng lực

chuyên môn của mình gây nhàm chán cho sinh viên. Bên cạnh đó những môn

thực hành chưa tách nhóm chia nhỏ số lượng người dẫn đến chất lượng giảng

dạy không đảm bảo, không hiểu quả.

+ Về việc nghiên cứu khoa học: Hằng năm nhà trường đều đề ra chương

trình nghiên cứu khoa học, đưa về các khoa để thực hiện có kiểm định và

kiểm nghiệm đánh giá. Đây là nhiệm vụ cần thiết cho mỗi cán bộ giảng viên

âm nhạc cũng như các bộ môn. Tất cả các nghiên cứu khoa học đều gắn liền

với công tác đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn.

- Đối tượng sinh viên âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai

Sinh viên âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai đều đang độ tuổi

thanh niên nên việc tiếp cận và học hỏi rất nhanh và nhạy bén nhất là trong

các lĩnh vực khoa học công nghệ và kỹ thuật. Bởi vậy sinh viên là những đối

tượng năng động sáng tạo thể hiện được sự tích cực chủ động trong học tập.

Chuyên ngành âm nhạc là một môn học đặc thù đòi hỏi không phải chỉ

có năng khiếu mà phải có cả sự nổ lực phấn đấu thì mới đạt được kết quả tốt.

Đối tượng sinh viên chuyên ngành âm nhạc của trường Đại học Đồng

Nai, ngoài những sinh viên yêu thích ngành học hay đam mê âm nhạc thì còn

có những sinh viên của các ngành khác được xét tuyển năng khiếu để vào

ngành âm nhạc, mà những đối tượng này lại chiếm đa số trong lớp học. Bởi

vậy việc học tập của các em rất khó khăn và hạn chế. Nhược điểm này phải có

thời gian mới khắc phục được mà thời lượng dành cho âm nhạc chưa tương

xứng với yêu cầu của chương trình.

Mặt khác năng lực của các sinh viên chênh lệch nhau vì các sinh viên ở

các tỉnh thành phố thuận lợi hơn là do các em được tiếp cận với âm nhạc

28

thông qua nhiều nguồn khác nhau như: Thông tin đại chúng, truyền thanh,

truyền hình hay các chương trình ca nhạc,... trong khi các sinh viên dân tộc

thiểu số lại ít có điều kiện tiếp xúc với âm nhạc nên việc tiếp thu các môn học

âm nhạc tỏ ra khó khăn hơn.

Nhiều sinh viên khi đi thực tập ở trường phổ thông đã bộc lộ những

điểm yếu về dạy hát cho học sinh, đặc biệt là khi dạy hát dân ca. Ngoài các ca

khúc thì vốn dân ca của sinh viên rất nghèo nàn, chưa được rèn luyện trong

việc hát cũng như dạy dân ca. Chẳng hạn khi dạy hát, sinh viên hát giai điệu

chưa chuẩn đặc biệt là những bài hát dân ca có luyến, láy, chưa giới thiệu

được các đặc điểm vùng miền của bài dân ca đó. Nếu như thực tập những tiết

dạy nội khóa, sinh viên tỏ ra lúng túng với các bài dân ca thì trong tổ chức

sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh cũng có nhiều nhược điểm.

Nhìn chung khả năng tiếp thu âm nhạc của các sinh viên âm nhạc chịu

ảnh hưởng của nhiều yếu tố như năng khiếu, điều kiện kinh tế xã hội... do đó

giảng viên cần lựa chọn phương pháp phù hợp để giúp sinh viên đạt kết quả

học tập tốt hơn...

1.2.3. Chương trình, giáo trình và việc dạy học môn dân ca tại trường

1.2.3.1. Chương trình và giáo trình

a. chương trình chung

Chương trình cho ngành sư phạm âm nhạc của trường Đại học Đồng

Nai - hệ Cao đẳng sư phạm được thực hiện theo chương trình khung của Bộ

Giáo dục và Đào tạo ban hành cho các trường CĐSP trên cả nước. Tuy nhiên

trường Đại học Đồng Nai ngoài việc đào tạo chuyên môn âm nhạc còn đào

tạo thêm Công tác đội. Về giáo trình được thực hiện với những phân môn đã

được ban hành, ngoài ra giáo viên có thể xây dựng thêm cho phù hợp với kiến

thức của người học và điều kiện cơ sở vật chất nhưng vẫn dựa trên những

chương trình đào tạo cơ bản.

29

- Kiến thức Giáo dục đại cương:

NGÀNH ĐÀO TẠO: CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ÂM NHẠC

Môn học Số tín chỉ STT

Kiến thức giáo dục đại cương chung cho khối ngành I CĐSP 19

1 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin 5

2 Tư tưởng Hồ Chí Minh 2

3 Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam 3

4 Quản lý HCNN và quản lý ngành GDĐT 2

5 Tiếng Anh 1 3

6 Tiếng Anh 2 2

7 Tiếng Anh 3 2

8 Giáo dục thể chất 3

9 Giáo dục quốc phòng 165t

Kiến thức giáo dục đại cương riêng cho ngành SP II Âm nhạc 15

10 Cơ sở văn hóa Việt Nam 2

11 Tiếng Việt thực hành 2

12 Nhập môn Logic học 2

13 Đại cương Mỹ học 2

14 Nhập môn Tin học 3

15 Dân số, môi trường, AIDS, ma túy 2

16 Thường thức Mỹ thuật 2

III Kiến thức nghiệp vụ chung cho khối ngành 15

17 Tâm lý học 1 2

18 Tâm lý học 2 3

30

19 Giáo dục học 1 2

20 Giáo dục học 2 3

21 Rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên 3

22 Công tác Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh 2

- Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp:

NGÀNH ĐÀO TẠO: CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ÂM TT Số tín chỉ NHẠC

Kiến thức ngành Sư phạm Âm nhạc 48

23 Lý thuyết Âm nhạc cơ bản 3

24 Hòa âm ứng dụng và phối bè 3

25 Hình thức và thể loại Âm nhạc 3

26 Lịch sử Âm nhạc thế giới và Việt Nam 3

27 Đọc và ghi nhạc 1 2

28 Đọc và ghi nhạc 2 2

29 Đọc và ghi nhạc 3 2

30 Đọc và ghi nhạc 4 2

31 Đọc và ghi nhạc 5 2

32 Hát 1 2

33 Hát 2 2

34 Hát dân ca 2

35 Nhạc cụ 1 2

36 Nhạc cụ 2 2

37 Đệm đàn 2

38 Chỉ huy và dàn dựng hát tập thể 3

39 Múa 2

31

40 Phương pháp dựng chương trình tổng hợp 2

41 Âm nhạc cổ truyền Việt Nam 2

42 Phương pháp dạy học Âm nhạc 1 3

43 Phương pháp dạy học Âm nhạc 2 2

V Học phần tự chọn 2

Chọn 1 học phần trong 3 học phần sau:

44 Tin học Âm nhạc 2

45 Thực hành sư phạm âm nhạc 2

46 Lịch sử văn minh thế giới 2

VI Thực tập sư phạm 6

47 Thực tập sư phạm 1 2

48 Thực tập sư phạm 2 4

VII Khóa luận tốt nghiệp hoặc học phần thay thế 5

Học phần thay thế khóa luận

49 Thực hành Âm nhạc tổng hợp 2

50 Lý thuyết Âm nhạc tổng hợp 3

Nhìn vào chương trình đào tạo giáo viên CĐSP âm nhạc trên cho thấy:

- Giáo sinh được học các môn lý luận âm nhạc như: Lý thuyết âm nhạc

cơ bản, lịch sử âm nhạc thế giới và Việt Nam,... Đồng thời ở hệ CĐSP, giáo

sinh còn được trang bị các kỹ năng hoạt động âm nhạc qua các môn học: Đọc

và ghi nhạc, hát, nhạc cụ, chỉ huy dàn dựng hát tập thể, múa,... tất cả các môn

học trên để rèn luyện cho sinh viên về khả năng thực hành chuyên môn để

hoạt động tốt các phong trào của trường phổ thông. Đây là những kiến thức

quan trọng để hình thành kỹ năng nghề cho sinh viên âm nhạc. Các môn học

giúp các em hiểu biết đầy đủ hơn về ngành nghề của mình nhằm hoàn thiện

hơn các kỹ năng, kỹ xảo chuyên ngành âm nhạc. Kiến thức giáo dục chuyên

32

nghiệp nhằm bổ trợ cho các em thêm nhiều kiến thức giúp các em tự tin hơn

trong hoạt động giảng dạy sau này. Ví dụ, môn Lịch sử âm nhạc giúp các em

hiểu biết về các trường phái âm nhạc trên thế giới, lịch sử dòng nhạc Việt

nam, các tác giả, tác phẩm nổi tiếng,... bổ trợ kiến thức cho các em dạy phần

âm nhạc thường thức ở trường phổ thông, môn Hòa âm giúp các em trong

phần đệm nhạc để dạy hát...

Sau khi tốt nghiệp ra trường, sinh viên âm nhạc phải đảm nhiệm các

giờ giảng trên lớp và các hoạt động âm nhạc ngoại khóa nên chuyên ngành

âm nhạc chiếm nhiều thời gian hơn và lượng kiến thức hơn với 55 tín chỉ.

Những học phần chuyên ngành là để rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp chuyên

sâu nên cần thiết phải được chú trọng và dành nhiều thời lượng hơn.

- Có thể nhận thấy số tín chỉ thuộc kiến thức giáo dục đại cương tương

đối nhiều trong khi kiến thức chuyên ngành lại quá ít đã tạo sự chênh lệch

trong chương trình đào tạo. Thực tế cho thấy với những lớp đã tốt nghiệp ra

trường các em chưa thực sự đủ năng lực hoạt động tại các cơ sở, kỹ năng đàn

và hát của các em còn rất hạn chế, kiến thức âm nhạc còn hạn hẹp. Do vậy

việc điều chỉnh chương trình đào tạo theo hướng giảm tải phần kiến thức đại

cương, tăng cường thời lượng cho kiến thức chuyên ngành là rất cần thiết để

có thể cung cấp kiến thức và kỹ năng cho mỗi em sinh viên khi tốt nghiệp ra

trường. Bởi, phần kiến thức chuyên ngành bao gồm những phân môn chuyên

ngành được đào tạo sâu rất cần trải qua một quá trình rèn luyện nhất định chứ

không chỉ gói gọn trong một thời gian ngắn mà đòi hỏi hình thành kỹ năng và

kỹ xảo được.

Học phần Hát là học phần quan trọng nhất trong việc rèn luyện kỹ năng

hát cho sinh viên, và cũng là phân môn quan trọng của âm nhạc ở các trường

phổ thông. Song, thực tế cho thấy, môn hát có thời lượng không nhiều. Nếu

kể cả hát dân ca thì tổng số đơn vị học trình cho toàn khóa học của SV CĐSP

33

âm nhạc chỉ có 6 tín chỉ (2 tín chỉ cho phần hát dân ca). Có thể nói môn thanh

nhạc là chuyên ngành đào tạo cần phải thực hiện trong cả 3 năm học (6 kỳ),

nhưng hiện nay chỉ thực hiện trong 2 năm (4 tín chỉ) dẫn đến sinh viên chưa

hình thành được kỹ năng hát, chưa thực hiện được kỹ xảo thành thói quen

nghề nghiệp. Đó là chưa kể tiết học được học theo kiểu tập thể, mỗi nhóm

sinh viên từ 12 - 15 em. Với số lượng sinh viên đông như vậy, giảng viên

không thể hướng dẫn cụ thể từng sinh viên và định hướng năng lực cho từng

em được. Bên cạnh đó là học phần Nhạc cụ - một học phần đòi hỏi kỹ năng

cao và thời gian tập luyện rất nhiều. Học phần này cũng chỉ còn được thực

hiện trong 2 năm (4 tín chỉ). Trong khi ở các cơ sở mà sau này các em làm

việc thì đánh đàn và hát nhạc lại là những môn trọng yếu.

b. Nội dung chương trình môn dân ca và giáo trình môn học

* Nội dung chương trình môn dân ca

Chương 1

- Vai trò của dân ca trong nhà trường.

- Học một số bài dân ca đồng bằng Bắc bộ.

- Học một số bài dân ca vùng núi phía Bắc.

- Học một số bài dân ca miền Trung.

Chương 2

- Học một số bài dân ca vùng Tây Nguyên.

- Học một số bài dân ca vùng đồng bằng Nam bộ.

- Giới thiệu một số điệu chèo, cải lương phổ biến.

Các bài Dân ca đang được giảng dạy:

1. Ra ngõ mà trông.

2. 36 thứ chim

3. Cây trúc xinh

4. Hát ghẹo - Phú Thọ

34

5. Bà Rí

6. Hát chèo thuyền

7. Hò đắp đê

8. Lý 10 thương

9. Lý Hoài Nam

10. Ví dặm

11. Lý con sáo sang sông

12. Lý kéo chài

13. Lý con cóc

14. Lý cây khế

15. Kiên Giang mình đẹp lắm

Nhìn vào chương trình đào tạo trên và nội dung giảng dạy môn dân ca

tại trường cho thấy:

Với 3 năm đào tạo tại trường, sinh viên sư phạm âm nhạc được đào tạo

với tổng số 110 tín chỉ, được chia ra cho các học phần bao gồm cả kiến thức

đại cương và kiến thức chuyên ngành như vậy chưa thật hợp lý. Số học phần

chuyên ngành sâu vẫn chưa được chú trọng. Hơn nữa, nhìn vào thực tế thì

năng lực của sinh viên chưa đáp ứng được nhu cầu của các cơ sở. Trong thực

tế, ngoài việc giảng dạy trên lớp thì tất cả các giáo viên âm nhạc đều phụ

trách các hoạt động ngoại khóa, đặc biệt là âm nhạc. Các em chưa có đủ kỹ

năng để thực hiện một chương trình lớn có tính nghệ thuật, các chương trình

văn nghệ mà các em đảm nhận mới chỉ dừng ở mức tham gia phong trào. Vậy

nên rất cần thiết phải thay đổi lại chương trình đào tạo, cần quan tâm chú

trọng và dành nhiều thời gian thời lượng cho những môn chuyên ngành. Có

thể giảm bớt những học trình của khối kiến thức giáo dục đại cương, khối

kiến thức các chuyên nhành khác, thậm chí mạnh dạn bổ sung thêm thời

lượng vào chương trình đào tạo nói chung và các môn chuyên ngành nói

35

riêng. Bên cạnh đó, cũng cần lắng nghe từ phía người học để bổ sung chỉnh

sửa những kiến thức đáp ứng nhu cầu cho người học.

Về chương trình môn Dân ca theo tôi 2 tín chỉ (30 tiết) là quá ít. Nếu có

thể được thì tăng thêm thời lượng cho môn Dân ca đồng thời cần phải đổi mới

chương trình giảng dạy thì mới giúp cho sinh viên hiểu biết được các làn điệu

các dân tộc Việt Nam và còn giúp các em thấm được cái hồn của cha ông để

mà yêu mến, bảo tồn và phát triển những di sản đó. Mặt khác chương trình

chưa phù hợp với nhu cầu tại các cở sở mà các em giảng dạy sau này và cũng

chưa giới thiệu được nhiều về các vùng miền của các dân tộc Việt Nam. Việc

giảng dạy chưa đúng với chương trình giảng dạy đó là trong các bài hát được

giảng dạy không có các bài dân ca Tây Nguyên và các bài dân ca của các dân

tộc miền núi phía Bắc. Bên cạnh đó các bài hát chưa được phân đều: Ví dụ

các bài hát miền Bắc nhiều, các bài hát của miền Trung, Nam bộ lại ít mà

hoàn toàn thiếu vắng các bài hát địa phương: Châu Ro, Mạ, Kơ Ho, S’Tiêng.

Đối với môn Dân ca, việc cải tiến chương trình 10% phần mền ở địa

phương chính là điều kiện thuận lợi để đưa dân ca Châu Ro, Mạ, S’Tiêng, Kơ

Ho vào chương trình đào tạo môn dân ca cho giáo sinh hệ CĐSP âm nhạc ở

trường Đại học Đồng Nai.

* Giáo trình môn học

Học liệu bắt buộc gồm có:

+ Giáo trình Hát dân ca, đào tạo giáo viên THCS hệ Cao đẳng Sư

phạm.

+ Nguyễn Thị Mỹ Liêm, (2008), Hát dân ca, Nxb Âm nhạc

+ Sách giáo khoa âm nhạc lớp 6,7,8,9.

Học liệu tham khảo:

+ Các tuyển tập dân ca các vùng, miền, các dân tộc.

+ Tuyển tập dân ca 3 miền, Nxb Trẻ.

36

Như vậy, hiện trường cũng chưa có giáo trình giảng dạy riêng cho môn

học này tại trường để phù hợp với một trường SP tại địa phương.

1.2.3.2. Việc giảng dạy môn Dân ca tại trường Đại Học Đồng Nai

Môn Dân ca mới được đưa vào chương trình giảng dạy cho hệ CĐSP

tại trường Đại học Đồng Nai năm vừa qua. Với 2 tín chỉ được dạy trong một

học kỳ, như vậy 1 tuần sinh viên được học 2 tiết. Trong quá trình học tập, mặc

dù Thầy và trò đã cố gắng rất nhiều song kết quả vẫn còn chưa tốt, bởi xuất

phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau đã tác động ảnh hưởng đến quá trình

dạy học dẫn đến chất lượng dạy môn dân ca chưa cao.

Trong suốt quá trình giảng dạy, tổ Nhạc đã xác định rõ tầm quan trọng

của môn dân ca trong đào tạo giáo sinh hệ CĐSP âm nhạc, nhưng trong thực

tế dạy học môn dân ca vẫn còn nhiều hạn chế.

+ Về giảng viên: Giảng viên không chuyên nên việc giảng dạy môn dân

ca trở nên khó khăn, tạo cảm giác nhàm chán cho sinh viên.

Trong quá trình giảng dạy, giảng viên thường chú ý đến trình tự dạy

một bài hát hơn là truyền đạt những ý tưởng để sinh viên có thể cảm nhận cái

hay, cái đẹp của bài hát, hay phong tục tập quán, vùng miền đặc trưng của các

vùng dân ca đó. Dân ca có rất nhiều loại, mỗi vùng miền có một cách hát khác

nhau. Trước khi dạy một bài dân ca nào đó thì giảng viên cần giới thiệu về

vùng miền đó, vì vậy giảng viên phải thực sự hiểu biết về vùng miền đó, mà

vốn hiểu biết về các làn điệu dân ca của giảng viên chưa phong phú. Đây cũng

là những đặc điểm khó khăn trong việc giảng dạy các bài dân ca.

+ Về sinh viên: Khả năng hát dân ca của các em rất hạn chế, nhất là

những bài dân ca các vùng miền khác, vì khi học dân ca yêu cầu phải thể hiện

phong cách, giọng, tiếng nói địa phương của các vùng dân ca. Do sinh viên ít

tiếp cận thực tế, ít nghe dân ca nên chất liệu dân ca vùng miền chưa ngấm vào

các em do vậy việc học dân ca với các em không dễ dàng.

37

+ Về phương pháp dạy, giáo viên sử dụng phương pháp dạy giống như

môn dạy xướng âm (tập đọc nhạc), nghĩa là cho học sinh xướng âm phần giai

điệu xong rồi mới đến giai đoạn ghép lời để hoàn thành bài học đã dẫn đến

những khó khăn trong việc học dân ca của các em, chưa đáp ứng được mục

tiêu mà môn học đề ra. Cụ thể là:

-> Với âm tô điểm: Do phải tập trung tính trường độ của âm tô điểm

nên việc thực hành luyện tập những mẫu tô điểm không nhiều, hơn nữa lối ký

âm trên 5 dòng kẻ đâu có ghi hết được tinh thần của bài dân ca.

-> Với chùm âm luyến: Các em còn nhầm lẫn giữa âm tô điểm và âm

luyến. Ví dụ như khi hát quãng hai của âm luyến thì nhầm là âm tô điểm hoặc

ngược lại do kiến thức về lý thuyết âm nhạc còn hạn chế. Để giải quyết được

vần đề này cũng đòi hỏi khá nhiều thời gian, như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp

đến giờ dạy hát.

-> Với các quãng nhảy: Đa số các em đọc quãng nhảy chưa chính xác

vì khi học theo hình thức đọc xướng âm các em chưa tìm được các âm tựa để

đọc cho đúng. Song khi học theo hình thức truyền khẩu thì các em ít bị mắc

lỗi hơn do các em hát chỉ cần có năng khiếu tai nghe chuẩn là có thể hát được.

Ngoài ra, tài liệu sách giáo khoa và thiết bị phục vụ học tập của giáo

sinh chưa đầy đủ để cho các em tham khảo và học tập. Trong các giờ lên lớp,

số lượng sinh viên rất đông nên khi dạy giảng viên không thể chú ý sửa sai

cho từng cá nhân mà chỉ có thể sửa chung cho tập thể.

Quá trình dạy và học dân ca ở trường Đại học Đồng Nai cho thấy chất

lượng học môn hát dân ca chưa đảm bảo với yêu cầu đặt ra là các em chưa hát

đúng các làn điệu dân ca cơ bản của các vùng miền.

Qua nghiên cứu thực trạng dạy và học môn dân ca hệ CĐSP âm nhạc

trường Đại học Đồng Nai còn cho thấy thiếu vắng các bài dân ca một số dân

tộc địa phương Choro, Châu Mạ,…

38

Tiểu kết chương 1:

Việt Nam có một kho tàng dân ca phong phú. Đó là sự kết tinh những

tinh hoa văn hóa đời sống của nhân dân ta. Qua dân ca chúng ta không những

thấy được phong tục tập quán, cuộc sống lao động thường ngày của người dân

mà còn cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước, tình yêu trai gái, tình

yêu của người mẹ dành cho đứa con yêu dấu của mình. Dân ca len lỏi đến

từng ngõ ngách trong đời sống con người từ cái ăn cái mặc (được thể hiện

trong Lí), cho đến những trò chơi dân gian dành cho trẻ nhỏ, những bài hát

giao duyên dành cho lứa tuổi thanh niên, hay những bài hát ru của những

người mẹ, người chị, từ quá trình lao động (trong các điệu Hò) cho đến những

lễ nghi phong tục phục vụ cho nhu cầu tinh thần của con người.

Mỗi vùng miền có những làn điệu dân ca khác nhau. Ngữ điệu và quá

trình lao động của các vùng miền khác nhau cũng tạo nên những làn điệu

mang đặc trưng riêng của vùng miền đó. Nơi thì dân ca mang tính tự sự, nơi

thì dí dỏm vui tươi, nơi thì duyên dáng trữ tình,…

Dân ca là nơi chúng ta có thể thấy được sự phong phú về văn hóa tinh

thần của cha ông ta. Nghe những làn điệu dân ca chúng ta sẽ thấy được cuộc

sống lao động, hay những phong tục lễ nghi của cha ông, dần dần tạo cho

người nghe dân ca tình yêu quê hương đất nước và con người.

Trường Đại học Đồng Nai mặc dù đã đưa dân ca vào chương trình

giảng dạy nhưng quá trình đào tạo vẫn chưa đạt kết quả theo yêu cầu đề ra do

có nhiều yếu tố bất cập. Sự bất cập đó được thể hiện ở nhiều khâu như: Thời

gian học không nhiều (30 tiết), cơ cấu tổ chức lớp lớn (45 SV/lớp), nội dung

chương trình đào tạo chưa hợp lý (quá dài trải song lại thiếu vắng những bài

dân ca địa phương), phương pháp dạy học chưa khoa học,… Nhằm nâng cao

chất lượng của việc dạy học môn dân ca tại trường Đại học Đồng Nai, theo tôi

39

phải giải quyết được những bất cập đó và đây cũng là những nội dung sẽ được

chúng tôi đề cập ở chương 2.

40

Chương 2

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

GIẢNG DẠY MÔN DÂN CA Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI

2.1. Giải pháp về xây dựng nội dung chương trình và giáo trình

2.1.1. Quan tâm đến yếu tố địa phương trong nội dung chương trình

đào tạo môn hát dân ca tại trường

Đồng Nai là một tỉnh vùng miền Đông Nam Bộ nước ta, với diện tích

5.903.94 km2, dân cư đông đúc. Theo dòng lịch sử thì phần đất của Đồng Nai

xưa là thuộc vương quốc Chân Lạp, hoang sơ và chủ yếu là dân bản địa như

các dân tộc Mạ, Châu Ro, S’Tiêng,... và một số ít người Khơme sinh sống.

Đồng Nai có vị trí thuận lợi để phát triển về kinh tế, do quá gần với

thành phố Hồ Chí Minh nơi có nhiều trường Đại học lớn nhất nước nên hệ

thống giáo dục ở đây không nhiều.

Với sự phát triển của xã hội hiện nay, sinh viên có rất nhiều điều kiện

thuận lợi để tiếp cận những kiến thức xã hội. Đó là những sự đổi mới, phát

triển của thế giới. Cá nhân tôi muốn các em không chỉ biết đến những kiến

thức, những nền văn hóa mới mà còn phải luôn biết đến “cội nguồn” của dân

tộc mình. Đó là di sản văn hóa mà cha ông để lại cần được con cháu bảo tồn

và phát triển. Không những các em nên biết đến mà còn phải giữ gìn và yêu

mến những nét văn hóa đó, nhất là truyền thống văn hóa địa phương trong đó

có dân ca địa phương. Vì vậy, theo tôi nghĩ trong chương trình dạy dân ca cho

sinh viên hệ CĐSP trường Đại học Đồng Nai, với đặc thù là trường nằm trên

địa bản tỉnh - nơi có nhiều con em các dân tộc trong tỉnh học tập, thì ngoài

dân ca người Việt ba miền nhất thiết phải có những bài dân ca các dân tộc bản

địa để các sinh viên có hiểu biết hơn về cuội nguồn dân ca - nơi mình sinh

sống. Đó là các bài dân ca của các dân tộc Châu Mạ, Choro, S’Tiêng và Kơ

Ho…

41

Đặc biệt, trên cơ sở chương trình khung và kế hoạch đào tạo của Bộ

Giáo dục và đào tạo ban hành cho tất cả các cơ sở đào tạo của giáo viên hệ

Cao đẳng sư phạm âm nhạc, Bộ cho phép các địa phương có học sinh, sinh

viên dân tộc vùng sâu, vùng xa tùy theo đặc điểm tình hình thực tế của địa

phương mình mà có thể vận dụng 10% phần mềm để xây dựng chương trình

chi tiết mang tính thực tiễn phù hợp với địa phương, khoa sư phạm âm nhạc

trường CĐSP Đồng Nai cần vận dụng tốt qui định này của Bộ.

Đối với môn học hát dân ca, việc cải tiến chương trình để đưa dân ca

bản địa Châu Mạ, Choro, S’Tiêng, Kơ Ho… vào chương trình môn học dân

ca cho sinh viên hệ cao đẳng sư phạm âm nhạc ở trường Đại học Đồng Nai là

việc làm cần thiết. Việc làm này không những không làm mất đi tính logic về

chương trình của Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành mà thực chất là để làm

tăng thêm hiểu quả dạy hát dân ca trong nhà trường.

Tuy nhiên, việc lựa chọn một số bài bản dân ca của dân tộc bản địa để

đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường cần được chú ý đến tính hợp

lý, tính khoa học để đảm bảo việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn của dân

tộc, nâng cao hiệu quả giáo dục âm nhạc trong nhà trường.

2.1.2. Các bài dân ca bổ sung và thay thế trong chương trình đào tạo

môn hát dân ca tại trường

- Tiêu chí chọn dân ca:

Để đảm bảo cho chương trình được bổ sung một cách cần và đủ phải

chú trọng đến nội dung chương trình và phương pháp dạy với mục tiêu đã đề

ra. Việc lựa chọn dân ca trong chương trình dạy nhạc cho sinh viên khoa

Nhạc hệ Cao đẳng trường Đại học Đồng Nai phải dựa trên cơ sở thực tế trong

việc dạy và học dân ca của giáo viên và học sinh các trường phổ thông cũng

như sinh viên khoa Nhạc.

42

Khả năng lĩnh hội các tác phẩm âm nhạc nói chung và dân ca nói riêng

phụ thuộc vào trình độ tiếp thu của các đối tượng mà chúng ta cần hướng tới -

đó là học sinh Tiểu học, học sinh Phổ thông. Bởi vậy các bài hát lựa chọn vào

chương trình dạy không chỉ hay, đặc sắc có ý nghĩa giáo dục mà còn phải đảm

bảo tính vừa sức đối với trình độ của các em. Giai điệu bài hát đơn giản, âm

vực vừa phải, tiết tấu mạch lạc dễ hát, dễ nhớ phù hợp với các em mới phát

huy được hết tác dụng giáo dục thẩm mỹ, thu hút được sự yêu thích, say mê

học tập của sinh viên.

Các sinh viên, những người thầy giáo cô giáo tương lai cần học những

bài dân ca của quê hương để mở rộng và tăng cường thêm vốn kiến thức về

âm nhạc truyền thống dân tộc.

Nội dung lời ca của bài dân ca phải có giá trị giáo dục thẩm mỹ tích cực

về nhiều mặc, đáp ứng được nội dung của môn học, cũng như giáo dục đạo

đức lối sống lành mạnh cho sinh viên. Chủ đề của các bài hát dân ca phải là ca

ngợi tình yêu quê hương đất nước, tính đoàn kết, vẻ đẹp của thiên nhiên đạo lí

uống nước nhớ nguồn.

Các bài hát dân ca được lựa chọn để đưa vào chương trình giảng dạy

không chỉ hay, đặc sắc mà phải có ý nghĩa giáo dục nhân cách toàn diện cho

sinh viên nhưng phải đảm bảo tính vừa sức (không khó quá cũng không dễ

quá) đối với trình độ của sinh viên. Giai điệu bài hát phải đơn giản, âm vực

vừa phải, tiết tấu rõ ràng, mạch lạc, dễ hát, dễ nhớ phù hợp với các em mới

phát huy được hết tác dụng giáo dục thẩm mỹ, thu hút được sự yêu thích, say

sưa học tập của sinh viên.

Những bài hát được đưa vào chương trình giảng dạy cho hệ CĐSP âm

nhạc của trường Đại học Đồng Nai phải có tính ứng dụng cao để sau này các

em sinh viên ra trường có thể sử dụng giảng dạy và hoạt động phong trào văn

nghệ ở các trường trung học là phải đa dạng và phong phú.

43

Về bài bản: Không khó về mặt học thuật nhưng lại đa dạng về vùng

miền, đó là bởi vì cần phải thông qua các bài hát cho sinh viên thấy được sự

phong phú và những nét đẹp của dân ca Việt Nam. Ngoài ra giảng viên cần

dạy cho sinh viên học thêm nhưng bài dân ca khác nhằm mở rộng và tăng

cường hơn nữa vốn kiến thức và dân ca. Đặc biệt là không thể thiếu các bài

dân ca các dân tộc bản địa, bởi vì ngoài ý nghĩa thuần túy là học hát, nó còn

làm giàu thêm kiến thức về dân ca cho học sinh, sinh viên và mang ý nghĩa

gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc.

Khi lựa chọn, cần chọn những bài hát mang đến hiểu quả cao để rèn

luyện các kỹ thuật cần thiết và mang đến những kiến thức văn hóa đặc trưng

của từng vùng miền.

Dân ca Bắc bộ, tiêu biểu là những làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh,

chúng ta cần lựa chọn những bài hát tiêu biểu có thể giới thiệu được văn hóa

nơi đây, bên cạnh đó còn phải rèn luyện các kỹ thuật để phát triển giọng hát

của sinh viên nên có thể ưu tiên cho thể loại dân ca này.

Dân ca Trung bộ, với đặc trưng của vùng đất này là những làn điệu lý,

hò Huế, hát Giặm, hát Ví Nghệ Tĩnh,... những làn điệu này mang nhiều âm

hưởng vùng miền, giai điệu có nhiều quãng khó giúp phát triển tốt hơn trong

quá trình học hát của sinh viên.

Dân ca Nam bộ, với các điệu lý phong phú, âm nhạc của vùng này có

kỹ thuật hát dễ thực hiện hơn dân ca trung bộ.

Dân ca một số tộc người thiểu số như dân tộc Choro, Châu Mạ,

S’Tiêng,... ngoài tiếng dân tộc cần có phần lời đã được dịch ra tiếng phổ

thông để dễ phổ cập.

- Các bài dân ca bổ sung và thay thế:

Dựa trên các tiêu chí trên, chúng tôi đã chọn ra được một số bài dân ca

thay thế và bổ sung như sau:

44

Môn học có thời lượng 2 tín chỉ (30 tiết), trong 30 tiết đó, chúng ta chỉ

cần dành 2 tiết để dạy về vai trò của dân ca trong nhà trường và giới thiệu sơ

lược về các thể loại dân ca. Về phần giới thiệu một số làn điệu chèo, cải lương

phổ biến theo tôi nghĩ là không cần thiết vì chèo và cải lương là loại nhạc sân

khấu, nội dung này thuộc đối tượng của môn âm nhạc cổ truyền. Vậy với 28

tiết còn lại sẽ dùng để dạy hát các bài dân ca có trong chương trình và 10%

phần mền dân ca dân tộc bản địa.

Sau đây là những bài dân ca mà chúng tôi lựa chọn để đưa vào môn dạy

hát dân ca của trường:

* Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ

- Cây trúc xinh (dân ca Quan họ)

- Xe chỉ luồn kim (dân ca Quan họ)

- Lý cây đa (dân ca Quan họ) (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 8)

- Bà rí (Hát ghẹo – Phú Thọ)

* Dân ca vùng núi phía Bắc

- Mưa rơi (Dân ca Xá – Tây bắc) (bài hát trong chương trình hát - nhạc

lớp 6)

- Noọng nòn (Ru con – Dân ca Tày)

- Gà gáy le te (Dân ca Cống khao)

- Mời trầu (Dân ca Thái)

* Dân ca Miền Trung

- Đi cấy (Dân ca Thanh Hóa) (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 6)

- Ví, Dặm (Dân ca Nghệ An)

- Lý mười thương (Dân ca Huế)

- Lý hoài nam (Dân ca Huế)

- Lý thương nhau (Dân ca Quảng Nam)

45

- Hò ba lý (Dân ca Quảng Nam) (bài hát trong chương trình hát - nhạc

lớp 7)

* Dân ca các dân tộc Trung bộ

- Chim bay (dân ca Chăm). (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 6)

- Đi cắt lúa (dân ca Hơ Rê.)(bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 7)

- Gơxơvi (Chiều về - Dân ca Ba nar)

- Đi thăm mả (Dân ca Gia rai)

- Anh ở đâu (Dân ca Ê đê)

* Dân ca Nam Bộ

- Lý con sáo sang sông

- Lý kéo chài (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 9)

- Lý dĩa bánh bò (bài hát trong chương trình hát - nhạc lớp 8)

- Lý con cóc

- Lý bằng lưu thủy

* Dân ca dân tộc bản địa

- Bretơlir (Rừng xanh – dân ca Mạ)

- Ỏ lọt ê pu ngan (Em đi chăn trâu – dân ca Mạ)

- Iêng con (Ru con – dân ca Kơ Ho)

- King tơ lơ thoang (Trống chiêng cầu thần – dân ca Choro)

- Vượt nhâu khuây (Đón Ông trăng – dân ca S’Tiêng)

2.1.3. Các tài liệu có thể dùng để tham khảo cho việc xây dựng giáo

trình giảng dạy môn dân ca tại trường

1. Dân ca Việt Nam, Nxb Mỹ thuật Âm nhạc, Hà Nội, 1970.

2. Dân ca Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 2001.

3. Dân ca Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001.

4. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam - Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội, 1978.

46

5. Dân ca Bình Trị Thiên, Nxb Khoa học Xã Hội, 1994.

6. Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1974.

7. Tú Ngọc, Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1994.

8. Lư Nhất Vũ – Lê Giang, Tìm hiểu Dân ca Nam Bộ, Nxb TP. Hồ Chí

Minh, 1983.

9. Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ, Tập 1 và 2, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1983.

10. Dân ca Trung du, tập 1 và 2, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1961-1962.

11. Dân ca Tày, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1962.

12. Dân ca Tày, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1980.

13. Dân ca Thái, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1973, 1980.

14. Dân ca H’Mông, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1979.

15. Dân ca Tây Nguyên, tập 1 và 2, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1960, 1961.

16. Nông Thị Nhình, Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Dao,

Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000.

17. Trần Viết Bính – Nguyễn Thị tuyết hồng, Dân ca Mạ, Châu Ro,

S’Tiêng, Kơ Ho ở Đồng Nai, Nxb Đồng Nai, 2011.

2.2. Giải pháp về phương pháp dạy môn dân ca

2.2.1. Phương pháp giới thiệu về đặc điểm thể loại và làn điệu dân ca

a. Phương pháp thuyết trình

Phương pháp thuyết trình còn được gọi là phương pháp giảng giải,

giảng thuật. Luôn được sử dụng rộng rãi trong các giờ học. Đối với dạy âm

nhạc, dùng lời không nhiều như dạy các môn Văn, Sử nhưng vẫn là phương

pháp cơ bản quan trọng không thể thiếu.

Khi dạy về đặc điểm thể loại môn dân ca và làn điệu dân ca không chỉ

dùng phương pháp thuyết trình mà còn phải dùng một số phương pháp khác

thì giờ học mới sinh động và sinh viên dễ tiếp thu bài. Chúng ta nên kết hợp

phương pháp này với phương pháp Nêu vấn đề, đó là giảng viên tổ chức

47

hướng dẫn, khơi gợi, dẫn dắt những kiến thức, kỹ năng mới. Không áp đặt các

kiến thức mới mà để sinh viên nêu lên những kiến thức mà các em hiểu biết.

Sau đó dẫn dắt để các em tiếp thu nhũng kiến thức mới mà giảng viên muốn

trình bày. Phương pháp này đòi hỏi giảng viên phải nắm rất vững sinh viên,

nắm vững kiến thức, kỹ năng cần dạy đồng thời phải tìm được mối liên hệ đó.

Đặc biệt phương pháp này chú trọng đến việc tạo hứng thú trong học tập của

sinh viên, như vậy sẽ tạo được động lực bên trong việc học tập của các em.

b. Phương pháp trực quan

Khi nhận thức sự vật, con người thường đi từ “trực quan sinh động”

đến “tư duy trừu tượng”. Điều này không chỉ đúng với quy luật nhận thức nói

chung mà trong dạy học người ta thường sử dụng triệt để nó với tư cách là

một phương pháp đầy hiệu lực. Trong dạy học âm nhạc, âm thanh vô cùng

trừu tượng, yêu cầu trực quan là tối cần thiết, các phương tiện đồ dùng dạy

học như nhạc cụ, máy nghe, băng hình rất tốt cho việc giới thiệu các làn điệu

dân ca ở các miền, bên cạnh đó là những hình ảnh bản đồ, giúp sinh viên thấy

và hiểu được phong tục tập quán các miền, từ đó hiểu hơn về đặc điểm thể

loại dân ca ở các miền.

2.2.2. Phương pháp dạy hát

Như đã trình bày ở chương 1, hiện môn hát đang sử dụng phương pháp

dạy hát dân ca theo cách đọc xướng âm trước, sau đó ghép lời đã làm giảm đi

vẻ mềm mại, mượt mà của các giai điệu dân ca các vùng miền. Hoặc dạy dân

ca giống như dạy các ca khúc mới nên hiệu quả chưa cao. Sau đây, là một số

phương pháp dạy hát dân ca mà tôi mạnh dạn đưa vào hy vọng phần nào thay

đổi chất lượng giảng dạy môn dân ca tại trường Đại học Đồng Nai.

a. Phương pháp trình bày tác phẩm

Trước khi dạy một bài dân ca nào đó, giảng viên sẽ trình bày bài hát đó

cho sinh viên nghe. Đây là bước cực kỳ quan trọng nhằm thu hút sự yêu thích

48

bài dân ca đối với sinh viên. Bởi, khi giảng viên trình bày tác phẩm sẽ đem

đến cho sinh viên toàn bộ vẻ đẹp của tác phẩm thông qua giọng hát của mình

bằng sự rung động thật sự, diễn cảm. Qua chính phần trình bày này, qua kỹ

năng biểu diễn các yếu tố âm nhạc mới được làm rõ nét, nổi bật thể hiện được

cái hồn của bài dân ca. Ở phương pháp này giảng viên kiêm luôn vai trò của

người “nghệ sĩ biểu diễn” bởi vậy muốn đạt được kết quả tốt giảng viên phải

nghiên cứu kĩ bài hát, tìm hiểu nội dung, phân câu, lấy hơi, xử lý những chỗ

khó, trau chuốt tiếng hát… và trước khi biểu diễn phải chuẩn bị tâm thế như

một nghệ sỹ trình bày trên sân khấu, kết hợp với một vài động tác nhẹ nhàng

phù hợp với bài hát thì sẽ sinh động hơn…

b. Phương pháp truyền khẩu trong quá trình thực hành - luyện tập hát

dân ca

Quá trình dạy học âm nhạc không chỉ có lý thuyết mà quan trọng nhất

là phải thực hành. Thực hành luyện tập bao gồm: Thực hành hát, thực hành

nghe nhạc, những hoạt động đó xuyên suốt trong quá trình học tập. Để thực

hiện các thao tác này, phương pháp truyền khẩu (giáo viên hát mẫu, sinh viên

hát nhắc lại) được đặt nên hàng đầu để đảm bảo tính truyền thống ẩn chứa

trong mỗi bài dân ca.

Thực hành rèn luyện chính là để hình thành kỹ năng thể hiện tốt các bài

dân ca, giúp sinh viên nắm bắt được sắc thái, cảm thụ tốt tính chất âm nhạc

của bài dân ca. Khi phát hiện chỗ sai, giảng viên có thể trình bày lại chỗ đó và

luyện tập nhiều lần để sinh viên hát đúng. Với bài hát dài, giảng viên chia

thành các đoạn, câu nhỏ cho sinh viên luyện tập được thuận lợi hơn.

Để hát dân ca đạt chất lượng tốt, trong khi thực hành - luyện tập hát dân

ca, giảng viên cần quan tâm đến việc giúp sinh viên luyện tập một số kỹ năng

hát như:

49

- Kỹ năng hát liền giọng: Hát liền giọng (légatto) là kiểu hát cơ bản

nhất để thể hiện các bài hát ru, các bài Quan họ, một số điệu lý, hò… Hát liền

giọng đòi hỏi các âm thanh từ âm nọ sang âm kia phải liên kết, nối liền nhau,

không bị đứt quãng. Có sự điều tiết hài hòa của các cơ quan phát âm, kỹ thuật

hơi thở, giai điệu bài hát trở thành một dòng âm thanh trong sáng, mềm mại,

diễn cảm.

+ Khi tập hát chú ý lắng nghe, điều chỉnh để đưa âm thanh phát ra

vang, sáng, tròn tiếng, không thay đổi tính chất, có vị trí thống nhất, hơi thở

phải được khống chế, giữ đều, liên tục.

+ Trước khi vào tập các bài hát trữ tình nên cho sinh viên luyện các

mẫu câu luyện thanh bằng các từ thay đổi nhau để khởi động giọng.

Ma Mô

Ma Mô

Ma ma Mi ma Mi ma Mi ma

- Kỹ năng hát nẩy: Trong kỹ thuật ca hát, âm nẩy (Staccato) được sử

dụng để diễn tả tình cảm vui nhộn, rộn ràng, nhí nhảnh, mô phỏng tiếng cười,

tiếng chim hót, sự náo nhiệt, sôi động. Kỹ thuật hát âm nẩy có tác dụng mở

50

rộng âm vực, phát triển giọng hát, là biện pháp để khắc phục các cố tật như

giọng mũi, giọng cổ, hát sâu, gằn tiếng…

+ khi hát âm nẩy, giảng viên dạy các em cách khống chế hơi thở và đẩy

ra nhẹ nhàng. Cố gắng giữ cho bụng tương đối ổn định, mềm mại.

+ Âm thanh phát ra phải gọn, linh hoạt, nhẹ nhàng, rõ từng âm một.

Không được hét to, đẩy hơi ra ồ ạt.

+ Luyện giọng qua nét giai điệu dưới đây.

Ma a a a a

Ma a a a a

- Kỹ năng hát nhanh: Là kỹ thuật dùng để thể hiện những ca khúc mang

tính chất vui, hoạt, hài hước, dí dỏm, châm biếm. Những bài hát có phong

cách như vậy thường được viết ở tốc độ nhanh, đòi hỏi âm thanh phải linh

hoạt, sáng sủa, gọn, trôi chảy, nhấn đều vào các trọng âm, đảm bảo đúng tốc

độ.

+ Đầu tiên nên tập kỹ thuật hát nhanh bằng bài tập luyện thanh đơn

giản với tốc độ vừa phải, sau khi đã thuộc bài tập mới tăng tốc độ.

+ Lấy hơi phải nhanh, ngắt hơi phải chính xác theo quy định trong bài

hát.

+ Hơi thở hít vào vừa phải, không được lấy quá nhiều hơi.

Mi Mê Ma

51

ma Mi ma Mi

c. Phương pháp kiểm tra – đánh giá

Kiểm tra, cho điểm kết quả học tập của sinh viên nhằm đánh giá chủ

yếu ở những kiến thức, kỹ năng đạt được qua môn học, hoặc từng phân môn.

Kiểm tra, cho điểm kết quả học hát nhằm đánh giá ở sinh viên:

- Khả năng trình bày tác phẩm

- Mức độ thể hiện diễn cảm bài hát

- Mức độ hiểu biết về tác phẩm, đặc điểm vùng miền

- Mức độ hiểu, đánh giá sự trình bày, biểu diễn bài hát của sinh viên

Kết thúc một nội dung dạy học hoặc một phần của nội dung thì phải

tiến hành việc tổng kết, kiểm tra đánh giá và ôn tập. Đó là “chu trình khép

kín” của một công việc.

Trong dạy hát dân ca, ngoài việc kiểm tra đánh giá quá trình học như

trên, công việc này còn phải thực hiện thường xuyên trong mỗi giờ học. Sau

khi tập xong một câu hát hay một phần nào đó, giảng viên sẽ kiểm tra, đánh

giá, nhận xét và chính sửa cho từng cá nhân hoặc tổ, nhóm. Với thời lượng

của tiết học ít mà số sinh viên đông nên việc kiểm tra đánh giá nên dừng lại

theo nhóm, tổ (trừ trường hợp sinh viên cá biệt hát quá chênh phô) sẽ có kết

quả khả quan hơn.

Kiểm tra, đánh giá thường xuyên cũng là một hình thức tích cực làm

cho giờ học thêm sôi nổi. Kiểm tra cuối học kỳ hoặc cuối năm học, nên tổ

chức dưới hình thức chương trình biểu diễn nhẹ nhàng thì cuộc thi sẽ có hiểu

quả hơn.

2.3. Dạy hát dân ca kết hợp với các yếu tố khác

2.3.1. Hát dân ca gắn với múa (đối với dân ca các dân tộc thiểu số).

52

Múa và âm nhạc luôn luôn đi liền với nhau, âm nhạc của tộc người nào

thì có điệu múa riêng của tộc người đó. Hát gắn với vận động thân thể theo

điệu nhạc, điệu múa của các dân tộc thiểu số sẽ làm cho giờ học thêm nhiều

màu sắc và thú vị, sinh viên cũng sẽ hứng thú học hơn. Hát dân ca kết hợp với

học các điệu múa sẽ mang đến nhiều kiến thức cho sinh viên không chỉ về các

làn điệu dân ca mà còn bổ sung được cho các em kiến thức về âm điệu dân

gian của các tộc người.

Ví dụ, tộc người S’tiêng ở Đồng Nai có múa giã gạo (R’nay păl toong),

ở điệu múa này thường có từ 2 đến 3 người nữ múa. Người múa xoay quanh

cối giã gạo, động tác chủ đạo là hai tay cầm chày giơ lên cao trên đầu, ngực

ưỡn, lưng ngã ra phía sau, mông cong, chân kiễng cao, để tạo lực mạnh lao

chày xuống cối (giã) tạo đường cong lượn rất đẹp có yếu tố nghệ thuật. Khi

lao chày xuống (giã) thì hai chân khuỵu mạnh (tấn sâu), người gập (cúi) phía

trước, mông đẩy ra phía sau, hai tay khép sát hông. Khi dạy bài hát này, sau

khi sinh viên đã hát khá tốt bài hát, giáo viên nên cho các em hát kết hợp với

động tác múa mô phỏng kỹ thuật giã gạo của đồng bào. Việc làm này khiến

bài hát được trình bày sinh động, còn sinh viên hào hứng tham gia.

Ngoài ra người S’tiêng còn có các điệu múa chọc lỗ tra hạt (th.tuuel

đinh tút), múa gùi (săh, sơn tung), múa phát rừng (môi bri), múa đánh trống

Xagơ. Tộc người Mạ lại có các điệu múa cổ tay, múa nhún giật, múa tuyến

cong lượn, múa kết hợp nhạc cụ… Người Choro thì có múa dâng (bánh dày),

múa đánh chụm chõe, múa chim, múa dao (chà gạc dil), múa nỏ (aq), múa

sàng gạo (gha ney), múa cúng thần lúa (sa yang va), múa mừng lúa mới, múa

bóng (spăm tăm vly), múa cúng thần (spăm chlau).

Thật vậy, khi dạy hát các bài dân ca các dân tộc thiểu số, nếu giáo viên

có thể đưa thêm các động tác múa vào quá trình thể hiện sẽ đạt được hiểu quả

cao trong việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục bản sắc tộc người và trả lại giá trị

53

nguyên bản của bài dân ca. Có nghĩa là, chúng ta không bóc tách chúng ra

khỏi đời sống vốn có của nó là ca - múa - nhạc luôn đi kèm nhau trong một số

loại hình.

2.3.2. Hát dân ca gắn với việc giới thiệu sinh hoạt, phong tục tập

quán tộc người

Dân ca thể hiện đặc trưng nhất những nét văn hóa, phong tục tập quán

của các tộc người. Các bài hát dân ca thường mô tả chân thực cuộc sống hàng

ngày của người dân lam lũ. Hát một bài dân ca không phải là chỉ hát đúng giai

điệu mà phải thể hiện đúng cái hồn của bài hát, mà muốn vậy ta phải hiểu

được phong tục tập quán, cuộc sống sinh hoạt của tộc người đó.

Trước khi dạy hát một bài dân ca nào đó thì việc giới thiệu về phong

tục tập quán của tộc người đó cho sinh viên sẽ giúp các em sẽ hiểu biết và yêu

mến hơn các dân tộc đó, từ đó việc học sẽ nhanh hơn, việc cảm thụ của các

em cũng sẽ nhanh hơn... Có thể sử dụng các hình ảnh trên máy chiếu để sinh

viên được thấy các sinh hoạt của tộc người đó.

Ví dụ: Tộc người S’tiêng có rất nhiều phong tục gắn liền với vòng đời

của họ như phong tục dành cho phụ nữ khi sinh đẻ, tục đặt tên cho con trẻ, tục

cột chỉ tay cho con cái, tục cà răng căng tai, cưới hỏi, ma chay, chia của…

người S’tiêng còn có các lễ hội như lễ hội cầu mưa, lễ hội cúng thần lúa, lễ

hội phá bàu (còn gọi là tát bàu)… Còn với người Mạ những phong tục lại gắn

với sinh đẻ, đám cưới và tang ma như: Khi sinh con được vài ngày người mẹ

sẽ đem đứa trẻ ra suối gần nhà tắm với ý niệm: Bệnh tật sẽ trôi mau theo dòng

nước, đứa trẻ khỏe mạnh. Hay như về đám cưới của người Mạ, người ta làm

mổ trâu, làm heo đãi cả làng, ca hát nhảy múa, vui chơi… Hệ thống thần linh

của người Mạ cũng rất đa dạng song họ tin vào vị thần tối thượng là yang

N’du, ngoài ra người Mạ còn có lễ cúng thần lúa (Yang kòi), thần Núi (Yang

bơnơm)…

54

Vậy nên rất cần thiết dạy cân ca gắn liền với các sinh hoạt, phong tục

tập quán để sinh viên có cái nhìn tổng quan và hiểu biết của mình về văn hóa

các vùng miền và văn hóa các tộc người anh em trong cả nước. Cũng như

hiểu biết thêm về những bài dân ca mình sẽ được học có sự gắn kết như thế

nào trong cuộc sống cộng đồng: Hát ru phục vụ cho việc ru trẻ ngủ, hát giao

duyên dùng để tâm tình giữa các đôi trai gái v.v…

2.3.3. Dân ca kết hợp với việc giới thiệu trang phục các vùng miền

Trang phục là sự thể hiện nét văn hóa đặc trưng nhất của mỗi tộc người.

Chỉ cần nhìn vào trang phục chúng ta có thể phân biệt được là tộc người nào.

Vì vậy, việc kết hợp giới thiệu trang phục của các tộc người trong việc dạy

dân ca hay các chương trình biểu diễn sẽ làm rõ hơn nét đặc trưng văn hóa

của các tộc người.

Ví dụ: Khi dạy bài dân ca của tộc người S’tiêng nên giới thiệu cho sinh

viên về trang phục của họ như nam thì thường không mặc áo, đội nón mà chỉ

mặc chiếc khố - đây là nét đặc trưng cơ bản dành cho nam giới, phụ nữ

thường ở trần và mặc váy cao đến ngực. Váy được dệt theo từng tấm, tùy theo

người sử dụng mà chọn dệt những tấm thổ cẩm với cách mặc quay một vòng

quanh eo hông, sau đó giắt phần nút của váy vào cạp phía trên thắt lưng, loại

phức tạp hơn thì được máy nối từ đầu tấm thổ cẩm mặc trùm từ đầu xuống

thân, trên váy có nhiều hoa văn hoa lá, hình học… Với người Mạ thì đàn ông

thường đóng khố, ở trần. Áo thường rộng và hở tay vạt sau dài hơn vạt trước

và thường che kín mông. Trong các dịp lễ hội thì đàn ông thường quấn khăn

lên đầu và cài lông chim để làm duyên... phụ nữ thường mặc váy quần dài quá

bắp chân, hoa văn trên thổ cẩm của người Mạ rất phong phú: Hoa văn hình

học, mô phỏng hình người nhảy múa, các con vật, cây cối...

Hiện nay các trang phục truyền thống của các dân tộc không được

người dân mặc thường xuyên, họ chỉ mặc trong các dịp lễ tết. Vì thế, việc dạy

55

dân ca gắn liền với việc giới thiệu trang phục là một giải pháp góp phần giới

thiệu đặc trưng văn hóa dân tộc và bảo tồn trang phục rất đặc sắc của các dân

tộc Việt Nam nói chung.

Nếu điều kiện cho phép, trong một số giờ dạy học, giáo viên có thể mặc

trang phục dân tộc thì tính hấp dẫn của buổi dạy học cũng sẽ cao hơn.

2.4. Giải pháp thực tập sư phạm

2.4.1. Mục đích và yêu cầu của thực tập sư phạm

a. Mục đích

Nhằm cung cấp kiến thức âm nhạc dân tộc và những kỹ năng hát dân ca

cho sinh viên, đáp ứng mục tiêu đào tạo của trường và yêu cầu giáo dục âm

nhạc trong trường phổ thông.

Qua các làn điệu dân ca và kiến thức âm nhạc dân tộc hình thành ở sinh

viên sự yêu thích và thái độ trân trọng đối với nền âm nhạc truyền thống nước

nhà, giáo dục ý thức bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Đào tạo ra giáo viên có đủ năng lực truyền dạy tốt dân ca ở các trường

phổ thông bên cạnh những kiến thức chung về âm nhạc và đồng thời nâng cao

chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp

giảng dạy hướng đến mục tiêu đào tạo con người mới phát triển toàn diện, hài

hòa phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

b. Yêu cầu

- Nắm được các làn điệu dân ca trong chương trình.

- Chú trọng việc dạy hát dân một số dân tộc bản địa để từ đó hình thành

kỹ năng hát dân ca cho các em.

- Hiểu được tính chất đặc điểm của từng loại dân ca, phân biệt được các

làn điệu dân ca của các vùng miền, các dân tộc.

56

- Bồi dưỡng khả năng cảm thụ âm nhạc, biết quý trọng di sản văn hóa

dân tộc giúp sinh viên nhận thức được giá trị to lớn của việc học dân ca trong

giáo dục âm nhạc ở trường phổ thông.

2.4.2. Nắm vững đối tượng học và yêu cầu của bài học về nội dung

dân ca tại nơi thực tập sư phạm.

- Nắm vững đối tượng học:

Nơi thực tập là trường Đại học Đồng Nai, đối tượng là sinh viên tổ

Nhạc, khoa Thể dục - Nhạc họa. Như đã trình bày ở trên, đầu vào của các em

khá thấp vì vậy việc giảng dạy của giảng viên gặp nhiều khó khăn, mặt khác

sự chênh lệch trong khả năng cảm thụ âm nhạc của các em cũng là một vấn đề

cần khắc phục. Giảng viên cần nắm bắt đúng năng lực của các em để đưa các

phương pháp phù hợp cho môn dân ca.

Đại đa số các sinh viên tổ Nhạc đều ở khu vực miền nam nên khả năng

năng nắm bắt các ngữ điệu của các vùng miền rất thấp, nhất là các bài dân ca

của vùng miền Trung. Vì vậy, khi dạy giảng viên cần phải giải thích từ ngữ,

hát mẫu một số từ khó giúp sinh viên dễ tiếp thu hơn. Ngoài ra, giảng viên

cần gắn với các phong tục tập quán hay trang phục cùng với các điệu múa của

các dân tộc để nâng cao được kiến thức cho các em tốt nghiệp ra trường và

công tác tốt tại các cơ sở sau này.

- Yêu cầu của bài học về nội dung dân ca tại nơi thực tập sư phạm:

+ Qua các bài dân ca phải cung cấp được vốn kiến thức về phong tục

tập quán, văn hóa lối sống của các tộc người, thể hiện rõ đặc trưng từng vùng

miền.

+ Phải hình thành cho sinh viên các kỹ năng cần thiết về hát dân ca để

thể hiện đúng giai điệu bài hát và có thể hát truyền cảm bài hát.

+ Phát triển được tai nghe âm nhạc và nhạc cảm trên cơ sở rèn luyện

các kỹ năng ca hát thông qua từng thể loại dân ca.

57

+ Phát triển được giọng hát tự nhiên, củng cố và mở rộng âm vực của

giọng để thể hiện được các bài hát của vùng miền Trung hay các dân tộc thiểu

số.

+ Giúp sinh viên học thuộc, hát đúng ngữ điệu giai điệu các vùng miền

và biết trình bày các bài dân ca một cách chủ động, sáng tạo.

2.4.3. Giáo án và một số giờ thực dạy

* Xây dựng giáo án dạy hát dân ca một số dân tộc ở Đồng Nai

Giáo án 1

Bài hát: Iêng con (Ru con (6) - Dân ca Kơ Ho)

Sưu tầm và kí âm: Trần Viết Bính

1. Mục tiêu:

- Sinh viên làm quen với làn điệu dân ca dân tộc Kơ Ho.

- Sinh viên hiểu biết được những nét văn hóa của người Kơ Ho.

- Sinh viên hát đúng giai điệu và thuộc lời bài hát.

2. Chuẩn bị của Giảng viên:

- Nhạc cụ quen dùng.

- Tổng phổ bài hát Ru con (6).

- Một số hình ảnh về con người, phong tục tập quán của tộc người Kơ

Ho.

- Băng hình về bài hát Ru con (6).

3. Tiến trình dạy học:

Thời gian Hoạt động Hoạt động của Giảng viên 55’ của sinh viên

58

10 phút a. Kiểm tra bài cũ và luyện thanh (sử dụng

phương pháp thực hành – luyện tập).

- Kiểm tra 1 vài sinh viên cho hát lại bài cũ, - Sv thực hiện

Gv đánh giá và cho điểm

- Luyện thanh theo mẫu - Sv thực hiện

10 phút b. Giới thiệu đặc điểm vùng miền và làn điệu

dân ca dân tộc Kơ ho (dùng phương pháp

thuyết trình)

- Gv đặt câu hỏi để sv trả lời về những hiểu - Sv trả lời

biết của mình về đặc điểm vùng miền hay về

làn điệu dân ca sắp được học? (dùng phương

pháp nêu vấn đề)

- Gv cho các em xem 1 số hình ảnh về cuộc - Sv theo dõi

sống lao động, lễ tết, các dịp lễ hội âm nhạc

dân gian của người Kơ ho, trang phục, hệ

nhạc cụ nếu có (dùng phương pháp trực

quan)

- Từ những phát biểu của Sv, Gv bổ sung - Sv lắng nghe

25 phút c. Dạy hát (dùng phương pháp thực hành –

luyện tập)

- Cho Sv nghe qua băng đĩa bài hát Ru con - Sv lắng nghe

vài lần

- Gv hát cho Sv nghe bài hát kết hợp với một - Sv lắng nghe

số động tác minh họa cho việc ru con ngủ

+ Hát mẫu cho các em những câu chữ luyến

láy: “rồng”…

+ Gv hát mẫu lại cho Sv nghe

59

- Tập cho các em hát từng câu + Sv tập hát

+ Tập cho Sv hát các chữ luyến láy trong câu

nhạc

+ Tập cho Sv câu 2 và 3 tương tự như vậy

+ Nối hai câu hát lại với nhau

+ Kiểm tra từng nhóm hát, Gv nghe và sửa - Sv thực hiện

cho Sv (dùng phương pháp kiểm tra – đánh

giá)

- Gv cho Sv nghe lại bài hát một lần nữa + Sv thực

hiện

- Kiểm tra cá nhân hoặc một vài nhóm hát và + Sv hát

cho lớp nhận xét

+ Gv chỉnh sửa - Sv lắng nghe

và chỉnh sửa

5 phút d. Củng cố bài hát (dùng phương pháp thực + Sv lắng

hành – luyện tập) nghe

+ Cho Sv hát lại toàn bài, Gv đưa ra những

động tác giữ nhịp

+ Nếu còn thời gian, Gv cho Sv nghe thêm + Sv lắng

một số bài dân ca khác của người Kơ ho qua nghe

băng đĩa

- Dặn dò Sv về nhà hát thuộc bài và nghe

thêm một số bài dân ca Kơ ho khác

Giáo án 2

Bài hát: Kinh tơ lơ thoang (Trống chiêng cầu thần - Dân ca Choro)

Sưu tầm và kí âm: Trần Viết Bính

60

1. Mục tiêu:

- Sinh viên làm quen với làn điệu dân ca dân tộc Choro.

- Sinh viên hát đúng giai điệu và lời bài hát Trống chiêng cầu thần.

- Sinh viên hiểu biết được thêm về phong tục tập quán của tộc người

Choro.

2. Chuẩn bị của Giảng viên:

- Nhạc cụ quen dùng

- Một số hình ảnh về tộc người Choro

- Băng hình bài “Trống chiêng cầu thần”

- Tổng phổ bài “Trống chiêng cầu thần”

3. Tiến trình dạy học:

Hoạt động của Thời gian Hoạt động của Gv Sv

10 phút a. Kiểm tra bài cũ và luyện thanh (sử dụng - Sv thực hiện

phương pháp kiểm tra đánh giá và phương

pháp thực hành – luyện tập)

+ Gọi 1 số Sv hát bài cũ, Gv đánh giá và cho - Sv thực hiện

điểm

+ Luyện thanh theo mẫu

10 phút b. Gv giới thiệu sơ lược về tộc người Choro - Sv lắng nghe

và một số phong tục tập quán cũng như trang

phục và nhạc cụ của tộc Choro (dùng phương

pháp thuyết trình và phương pháp trực quan

sinh động)

- Cho Sv xem 1 số hình ảnh cuộc sống lao - Sv xem hình

động của người Choro

25 phút c. Dạy bài hát (dùng phương pháp thực hành

61

– luyện tập và phương pháp kiểm tra – đánh

giá)

- Gv cho Sv nghe băng hình bài Trống Chiêng - Sv lắng nghe

cầu thần vài lần

- Gv hát mẫu cho sv nghe kết hợp với một số - Sv lắng nghe

động tác múa Choro

+ Hướng dẫn cho Sv hát những chữ luyến láy - Sv lắng nghe

khó hát: “nhiều”,”mùa”, “rẫy”, “hòa”…

- Gv hát mẫu câu 1 và tập cho Sv hát - Sv lắng nghe

và thực hiện

+ Sv thực hiện + Nghe và chỉnh sửa cho Sv

- Gv hát mẫu câu 2 và tập cho Sv hát - Sv lắng nghe

+ Nghe và chỉnh sửa cho Sv + Sv thực hiện

+ Cho từng nhóm hát và chỉnh sửa cho các + Sv thực hiện

em

+ Nối hai câu vừa tập lại với nhau

- Tập các câu tiếp theo theo lối móc xích như

vậy cho đến hết bài

+ Kiểm tra cá nhân hoặc nhóm, Gv nghe và + Sv thực hiện

chỉnh sửa

5 phút d. Củng cố (dùng phương pháp thực hành

luyện tập và phương pháp kiểm tra đánh giá)

Cho Sv hát lại bài hát, kiểm tra một số em, Gv

nghe và chỉnh sửa

- Gv gõ nhịp cho Sv hát - Sv thực hiện

- Nếu còn thời gian, Gv cho Sv nghe thêm 1 + Sv lắng nghe

số bài dân ca Choro khác để Sv có thể cảm

62

nhận rõ hơn phong cách âm nhạc dân gian - Sv lắng nghe

Choro

- Dặn dò Sv về hát thuộc giai điệu và lời bài

hát, nghe các bài dân ca Choro khác.

* Một số giờ thực dạy

Bài hát: Iêng con (Ru con (6) - Dân ca Kơ Ho)

Sưu tầm và ghi âm: Trần Viết Bính

Tiết học được thực hiện tại lớp Nhạc K34, vào học từ tiết 2 ngày 13

tháng 4 năm 2013 do thầy Hoàng Nguyễn Quang Huy giảng dạy.

Giảng viên gọi vài sinh viên lên kiểm tra bài cũ rồi đánh giá và cho

điểm.

Cho lớp luyện thanh 3 – 5 phút.

Sau khi treo bảng phụ bài hát lên bảng để sinh viên tiện theo dõi trong

quá trình học hát theo kiểu truyền khẩu, giảng viên giới thiệu về tộc người

Choro ở Đồng Nai và cho sinh viên xem một số tranh ảnh về cuộc sống lao

động, các lễ hội văn hóa, trang phục của người Choro.

Giảng viên giới thiệu bài hát, cấu trúc mô hình, nhịp điệu và phân tích

tác phẩm để sinh viên cảm nhận được phần nào bài dân ca trước khi bước vào

học hát.

Giảng viên cho sinh viên nghe bài hát trong băng hình vài lần để sinh

viên làm quen giai điệu.

Giảng viên hát mẫu bài hát kết hợp với động tác múa Choro.

Giảng viên tiến hành bài dạy theo trình tự các bước lên lớp. Sinh viên

rất hứng thú học hát. Sau mỗi câu hát, Giảng viên gọi từng nhóm, tổ lên hát

lại và chỉnh sửa lại những chỗ hát sai bằng cách phân tích những chỗ khó hát

trên bảng phụ. Sau khi dạy hết bài giảng viên cử đại diện của tổ lên trình bày

63

bài hát với một số điệu bộ minh họa cho bài hát. Cuối cùng giảng viên cho lớp

nghe lại bài hát rồi đệm đàn cho các em hát lại để củng cố bài hát. Kết thúc

tiết dạy giảng viên yêu cầu sinh viên ôn lại bài hát để tiết sau giảng viên kiểm

tra bài hát và cho điểm.

Bài hát: Kinh tơ lơ thoang (Trống chiêng cầu thần - Dân ca Choro).

Sưu tầm và kí âm: Trần Viết Bính.

Tiết dạy được thực hiện tại lớp Nhạc K34 vào tiết 4 ngày 6 tháng 4 năm

2013 do thầy Hoàng Nguyễn Quang Huy giảng dạy.

Giảng viên ổn định lớp rồi gọi vài sinh viên lên kiểm tra bài cũ, đánh

giá và cho điểm.

Cho lớp luyện thanh 3 - 5 phút.

Giảng viên treo bảng phụ bài dân ca lên bảng rồi giới thiệu sơ lược về

tộc người Choro. Cho sinh viên xem một số hình ảnh cuộc sống của tộc người

Choro, trang phục của nam và nữ Choro. Sau đó giảng viên giới thiệu bài hát,

cấu trúc mô hình nhịp điệu, phân tích tác phẩm.

Giảng viên mở băng hình cho sinh viên nghe bài hát “Trống chiêng cầu

thần” vài lần.

Giảng viên hát mẫu bài dân ca “Trống chiêng cầu thần” cho sinh viên

nghe. Tiếp đó giảng viên tập hát cho sinh viên theo lối truyền khẩu.

Giảng viên sau khi thực hiện bài dạy theo trình tự với lối móc xích thì

đưa ra câu hỏi mở rộng: Em nào biết bài dân ca nào của người Choro thì hát

cho các bạn nghe?

Sau khi sinh viên trả lời, giảng viên đệm đàn cho sinh viên hát.

Giảng viên cho lớp hát lại bài hát để củng cố bài rồi dặn dò các em về

học thuộc bài để tiết sau giảng viên kiểm tra và cho điểm.

2.4.4. Đánh giá kết quả thực tập sư phạm nội dung dạy phần dân ca

theo phương pháp mới

64

Qua 2 tiết dạy thực nghiệm theo phương pháp mới, chúng tôi thấy kết

quả thu được có phần khả quan hơn. Cụ thể là:

- Sinh viên cảm thấy hào hứng với môn học, giờ học hơn vì giờ học

sinh động hơn, các em không chỉ được học hát mà còn có thêm những hiểu

biết nhất định liên quan đến bài hát (tộc người, nội dung, tính chất, phong

cách âm nhạc của bài dân ca hay thể loại dân ca đó), hiểu được tầm quan

trọng của việc học hát dân ca không chỉ để sau này có thể làm tốt được công

việc giảng dạy môn âm nhạc ở trường phổ thông mà còn góp phần lưu giữ,

bảo tồn nét đẹp của âm nhạc truyền thống.

- Cách dạy truyền khẩu khiến sinh viên dễ nắm bắt bài hơn, dễ thể hiện

được những âm luyến láy, những lối phát âm nhả chữ theo phong cách vùng

miền.

- Khi hát tùy theo bài có thể có thêm một số động tác múa mô phỏng

nên giờ học trở nên sinh động hơn do sinh viên có dịp hiểu hơn về bài dân ca

cũng như hoàn cảnh ra đời của bài dân ca đó.

- So với cách dạy cũ (dạy hát dân ca theo kiểu dạy xướng âm), cách dạy

truyền khẩu đã có bước tiến bộ về độ chênh phô so với bản bản dân ca như

sau:

Âm luyến : Tỷ lệ Sv hát sai giảm 25%.

Âm tô điểm : Tỷ lệ Sv hát sai giảm 21%.

Quãng nhảy : Tỷ lệ Sv hát sai giảm 23%.

Sở dĩ có bước tiến bộ trên vì, khi học hát dân ca theo lối truyền khẩu,

các em không còn bị phụ thuộc vào lối ký âm trên bản phổ. Bản phổ chỉ được

coi là sơ đồ chỉ hướng đi của giai điệu, chỉ dẫn về trường độ hay những âm

hình luyến láy giúp người học dễ nắm bắt bài chứ không phải là yếu tố cố

định bắt buộc người học phải tuân thủ. Do đó, người học có thể tập trung vào

65

việc nghe giáo viên trình bày từng câu hát, cảm nhận câu hát đó và bắt chước

lại.

Đánh giá về 2 cách dạy đã thực hiện:

- Về cách dạy theo lối học xướng âm.

Cách dạy này giúp sinh viên rèn luyện và nâng cao kỹ năng đọc nhạc,

song mất khá nhiều thời gian. Với cách học này, các em phải đọc xướng âm

trôi chảy rồi mới bắt đầu ghép lời ca vào giai điệu vừa xướng âm được. Như

vậy để hát cho đúng, các em phải mất một khoảng thời gian nhất định để ghép

lời vào giai điệu. Ở tiết dạy này, sinh viên chỉ được giáo viên giúp trong việc

tìm hiểu tính chất của bài hát chứ ít được trực tiếp nghe giai điệu bài dân ca,

do vậy khi tiếp thu cũng như khi thể hiện sắc thái tình cảm của bài hát còn

lúng túng, hát không ra được phong cách của bài dân ca và chưa gây được sự

hứng thú trong khi học.

Với thời lượng 55 phút cho 1 tiết học, nếu sử dụng phương pháp này thì

giảng viên rất khó truyền đạt hết được ý nghĩa của bài hát, mặt khác lại không

có thời gian kiểm tra năng lực của sinh viên được.

- Về cách dạy theo lối truyền khẩu.

Cách dạy này mất ít thời gian hơn, giúp các em tiếp thu nhanh hơn và

gây được sự hứng thú trong khi học tập. Với cách dạy này các em được nghe

giai điệu của bài hát nhiều lần nên phần nào tính chất của bài hát đã ngấm vào

các em và nhờ đó đã thể hiện được tốt sắc thái tình cảm của bài hát.

Cả hai cách dạy vừa nêu đều có những ưu điểm riêng. Xong cách dạy

mà tôi cho rằng ưu việt hơn cả là cách dạy truyền khẩu. Đây là cách dạy giúp

các em học nhanh hơn, thuận lợi hơn và cũng chính là cách mà dân ca được

truyền từ đời cha ông ta đến nay. Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của băng hình,

đĩa... lối dạy này sẽ giúp cho giảng viên thuận lợi hơn trong khi dạy rất nhiều.

Bởi vì có những làn điệu dân ca nếu chỉ hát cho chính xác nốt nhạc đã được

66

ký âm thì chưa đủ, mà quan trọng hơn là làm sao thể hiện đặc trưng của bài

hát là cái hồn, tâm tư tình cảm mà cha ông ta muốn truyền lại, đồng thời qua

đó người nghe cảm nhận được những nét đẹp văn hóa của vùng miền đó.

Với hai tiết dạy thể nghiệm bằng lối dạy truyền khẩu chúng tôi thấy

sinh viên rất hứng thú, hăng say học. Các em không phải gò bó, lo lắng khi

phải đọc xướng âm bài dân ca mà thoải mái thể hiện bài hát theo những gì

nghe được và tập được. Kết quả của tiết học cũng rất khả quan. Các em rất

hào hứng tỏ ra thích thú khi được học theo lối truyền khẩu, tiếp thu bài nhanh,

đồng đều và thực hiện được những yêu cầu của giáo viên.

Với cách dạy này vai trò của người giảng viên là rất quan trọng trong

việc giúp các em thể hiện đúng tính chất của bài hát. Bởi vì khả năng thẩm âm

của sinh viên rất khác nhau nên có lúc nghe được nhưng bắt chước lại chưa

chính xác nên phải có sự chỉnh sửa của giảng viên để sinh viên thể hiện

những âm luyến, vuốt, ngân... được chính xác hơn.

Mặt khác việc kết hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau trong một

giờ học cũng làm sinh viên hứng thú học hơn và kết quả học tập cũng cao

hơn.

2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác

2.5.1. Cơ sở vật chất cho việc dạy môn dân ca

Trường Đại học Đồng Nai hiện nay tuy đào tạo đa ngành, đa cấp, mở

rộng quy mô đào tạo nhưng cơ sở vật chất còn chưa được nâng cấp kịp thời

đúng với yêu cầu của những phân môn. Hiện nay mới chỉ có phòng nhạc cụ

và những môn học lý thuyết còn phòng chuyên dụng đa năng âm nhạc lại

chưa có.

Để nâng cao chất lượng dạy và học cần có thêm một số phòng học

chuyên ngành đặc thù không sử dụng chung với các môn học khác. Phòng học

dân ca ngoài cây đàn organ dùng để luyện thanh, cần trang bị thêm các

67

phương tiện khác như: Máy vi tính, máy chiếu, đầu VCD, DVD… để phục vụ

cho việc trình chiếu tư liệu.

Cở sở vật chất, điều kiện để sử dụng nguồn tài liệu phục vụ cho việc

học tập môn Dân ca còn rất hạn chế. Chẳng hạn như, để trình bày một bài dân

ca một cách hấp dẫn, tương đối chuẩn xác về sắc thái, tính chất, thể hiện được

đặc trưng, thể loại thì phần diễn tả điệu bộ và đạo cụ đi kèm là điều hết sức

cần thiết. Tuy nhiên, vì điều kiện chưa cho phép nên trong giờ dạy cân ca

giảng viên mới chỉ sử dụng một vài băng đĩa tư liệu liên quan đến bài học cho

sinh viên xem và do thời gian cũng không nhiều nên sinh viên không được

thường xuyên tham khảo nguồn tư liệu này. Vì vậy, cần tăng cường bổ sung

thêm sách, tài liệu tham khảo về âm nhạc dân gian các vùng miền; băng đĩa

dân ca các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là dân ca các dân tộc ở tỉnh Đồng Nai

để thầy và trò có cơ hội được mở rộng thêm kiến thức.

Trang bị trang phục các dân tộc ở các vùng miền khác nhau để sinh

viên có thể thấy và cảm nhận được sự đặc sắc của các vùng miền, đồng thời

sử dụng vào các chương trình giao lưu văn nghệ hay ngoại khóa. Trong khi

biểu diễn dân ca vùng nào, dân tộc nào các em sẽ được mặc những bộ trang

phục của vùng đó, dân tộc đó sẽ khiến cho buổi biểu diễn thành công hơn, tác

dụng giáo dục và truyền bá văn hóa sẽ hiệu quả hơn.

Ngoài ra nên sưu tầm các nhạc cụ dân tộc để giảng viên có thể giới

thiệu cho sinh viên về nhạc cụ các dân tộc trong giờ dạy hoặc giảng viên có

thể sử dụng chúng để dạy thay cho các nhạc cụ điện tử nhằm thể hiện đúng

tính chất dân ca. Đó là cách trang bị thêm kiến thức rất bổ ích cho các em sau

này khi ra làm việc tại các cơ sở.

2.5.2. Tiếp cận dân ca qua việc điền dã tiếp xúc với nghệ nhân. Tham

dự các lễ hội âm nhạc dân gian trong vùng

68

Mỗi quốc gia dân tộc nền âm nhạc dân gian đều có nét đặc trưng riêng,

người ta phân biệt âm nhạc qua thang âm điệu thức, cách tiến hành giai điệu,

tiết tấu.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc vì vậy nền âm nhạc rất đa dạng và

phong phú. Trong nền âm nhạc đó, dân ca tàng trữ những dấu ấn văn hóa tinh

thần hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc. Đó là tiếng nói bình dị của người

dân lao động các tộc người cùng sống trên dải đất Việt Nam, là cốt cách tâm

hồn, là lối sống nhân hậu của con người Việt Nam được chắt lọc qua năm

tháng và trở thành sản phẩm văn hóa tinh thần, tinh hoa văn hóa của dân tộc

Việt Nam. Vì vậy giáo dục âm nhạc trong nhà trường, đặc biệt là dân ca rất

quan trọng, nó không những cung cấp cho sinh viên kiến thức về âm nhạc cơ

sở, khơi gợi ở các em khả năng sáng tạo trong hoạt động âm nhạc mà còn có ý

nghĩa làm giàu nhân cách, nâng cao trình độ thẩm mỹ về âm nhạc cho sinh

viên, mặt khác cung cấp các kiến thức về văn hóa dân tộc cho các em để các

em từ yêu mến đến bảo tồn, gìn giữ và phát triển những di sản văn hóa mà cha

ông ta đã để lại.

Để sinh viên có thể dạy tốt những tiết dạy dân ca trong tương lai thì

chương trình không thể thiếu những kiến thức về dân ca một cách toàn diện

và đầu đủ hơn nhằm đạt được những yêu cầu của nhiệm vụ dạy âm nhạc ở các

cơ sở sau này. Điều cần thiết đó là sự hiểu biết dân ca, nét sinh hoạt vùng

miền của các thể loại dân ca, chính những điều này sẽ làm cho sinh viên tự tin

hơn khi hướng dẫn học sinh dân ca, khi giới thiệu nét đặc trưng văn hóa vùng

miền hay khi tổ chức hoạt động ngoại khóa ở các cơ sở mà các em làm việc

sau khi tốt nghiệp. Song, chỉ giảng dạy dân ca tại cở sở như vậy thì mới chỉ

dạy cho sinh viên được phần “lý thuyết” mà thôi. Thiết nghĩ nhà trường nên

tổ chức cho giảng viên và các em sinh viên đi thực tế tại các địa phương. Đây

là một trong những giải pháp giúp giảng viên và sinh viên nâng cao được chất

69

lượng dạy và học môn dân ca. Khi được trực tiếp điền dã ở các vùng miền,

chứng kiến cuộc sống lao động của các tộc người, được gặp các nghệ nhân và

nghe họ hát thì giảng viên và sinh viên mới thẩm thấu được cái hồn của bài

dân ca bản địa đó. Đây là giải pháp giúp cho giảng viên có “thực tế” hơn khi

giảng dạy bài dân ca cũng như khi giới thiệu về vùng miền hay phong tục tập

quán của tộc người nào đó. Ngoài ra khi điền dã tiếp xúc với nghệ nhân, sinh

viên còn được tham dự các lễ hội âm nhạc dân gian của vùng miền. Các em sẽ

thấy được sự đa dạng và phong phú trong âm nhạc dân gian của các tộc người

tại các vùng miền mà thời lượng giảng dạy về âm nhạc dân gian trong nhà

trường không đủ để cung cấp những kiến thức đó.

2.5.3. Mời các nhà nghiên cứu về âm nhạc dân gian nói chuyện theo

chuyên đề

Âm nhạc dân gian - nơi ghi dấu quá trình phát triển lịch sử, văn hóa của

các cộng đồng tộc người, nhờ đó chúng ta có thể hiểu được những biến động

trong văn hóa, lối sống, tư duy và thẩm mỹ của con người ở từng thời kỳ và

đó cũng là thước đo trình độ về sự phát triển văn hóa nghệ thuật của cộng

đồng ấy theo diễn trình lịch sử. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với công tác

nghiên cứu, bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử của một quốc gia, một dân tộc.

Song, giá trị của các thể loại trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật thì vô vạn

nhưng kiến thức của con người lại hữu hạn, vì thế rất cần đến sự hỗ trợ của

nhiều người, mỗi người một lĩnh vực nghiên cứu để đem đến một cái nhìn

tổng thể về văn hóa dân tộc mà âm nhạc dân gian là một thành phần.

Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca tại trường Đại học Đồng

Nai, một trong những giải pháp mà tôi muốn đề cập đến đó là mời các nhà

nghiên cứu âm nhạc dân gian nói chuyện theo chuyên đề. Bởi, họ là những

người thực hiện nhiều chuyến đi thực tế, điền dã tại địa phương, gặp gỡ trực

70

tiếp, cùng ăn, cùng ở với các tộc người, am hiểu đời sống của họ và có các

công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về âm nhạc dân gian.

Nhà trường nên mời các nhà nghiên cứu về âm nhạc dân gian về tại

trường trực tiếp nói chuyện với sinh viên và giảng viên về các công trình

nghiên cứu khoa học đó nhằm truyền lại cho thế hệ sau biết những di sản văn

hóa mà cha ông ta đã để lại. Các cuộc trò chuyện như vậy sẽ giúp giảng viên

và sinh viên bổ sung được lượng kiến thức về âm nhạc dân gian trong và

ngoài nước.

2.5.4. Chuẩn hóa đội ngủ giảng viên dạy chuyên ngành nói chung,

giảng viên phụ trách các môn âm nhạc dân gian nói riêng

Cán bộ giảng dạy những môn học mang tính đặc thù này phải thật sự có

một nền tảng kiến thức lý luận chung vững chắc và am hiểu chuyên sâu về âm

nhạc dân gian. Đội ngũ giảng viên giỏi và say nghề, say mê nghiên cứu là

điều kiện quan trọng để truyền dạy và khơi nguồn đam mê, ham học hỏi đến

sinh viên trong điều kiện các môn học về âm nhạc dân gian và nhất là dân ca

chưa thực sự thu hút đông đảo sinh viên. Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng

thường xuyên để chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ

của giảng viên cũng là một hình thứ cần thực hiện. Bên cạnh đó, việc đẩy

mạnh công tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu về giáo dục nghệ

thuật và âm nhạc dân gian cũng cần được lưu tâm vì các nghiên cứu khoa học

sẽ hỗ trợ tích cực để giảng viên có thêm nguồn tài liệu dạy học, có thêm

những sáng kiến, phương pháp dạy học phong phú đa dạng, từ đó thu hút,

kích thích sự tích cực và sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập.

2.5.5. Tổ chức ngoại khóa về Dân ca trong nhà trường

Hoạt động ngoại khóa là một việc làm nhằm tạo nên đời sống tinh thần

sôi nổi, sâu rộng cho sinh viên, đồng thời tạo điều kiện cho các em tham gia

vào nhiều hoạt động bổ ích. Qua đó, các em được hát những làn điệu dân ca

71

của quê hương mình, được nghe qua từng lời ca, giai điệu mang nhiều tính

nhân văn.

Thông qua các hoạt động ngoại khóa, các trò chơi, các cuộc thi sáng tạo

sẽ tạo điều kiện cho các em làm quen với các làn điệu dân ca của dân tộc

mình, tạo cho sinh viên những khả năng lĩnh hội trước các đẹp, cái hay của

âm nhạc với các làn điệu dân ca địa phương. Hoạt động này giúp sinh viên

mở rộng thêm tầm nhìn và có điều kiện để hiểu rõ hơn về những kiến thức

học trên lớp.

Sinh hoạt ngoại khóa cho sinh viên về dân ca là một trong những hoạt

động mang ý nghĩa tích cực, giúp các em tích lũy được những kinh nghiệm

thực tế. Đây cũng là cơ hội để các em trau dồi các kiến thức, kỹ năng trong

hoạt động tập thể cũng như giao lưu, rèn luyện khả năng của chính bản thân

mình.

Một trong những hoạt động ngoại khóa là tổ chức thi hát các ca khúc

sáng tác mới dựa theo làn điệu dân ca các vùng miền. Hoạt động này nhằm

rèn luyện kỹ năng hát và cảm nhận tác phẩm, khả năng biểu diễn của sinh

viên, giúp sinh viên mở rộng tầm nhìn và có điều kiện để hiểu biết nhiều hơn,

chắc hơn những kiến thức học trên lớp.

Hoạt động này khuyến khích các em trong việc tìm hiểu dân ca Việt

Nam và các dân tộc bản địa, làm giàu thêm vốn kiến thức về âm nhạc dân

gian truyền thống của dân tộc để dân ca ngày càng thấm sau vào các thế hệ

trẻ.

Trong các chương trình hội diễn văn nghệ, đặc biệt là trong các hội thi

tìm hiểu về dân ca, khi nghiệp vụ sư phạm cần cho mỗi nhóm sinh viên chuẩn

bị một thể loại bài khác nhau để rèn luyện thuần thục phương pháp giảng dạy

và dàn dựng những tiết mục mang tính tập thể sao cho phù hợp với từng thể

loại của bài. Như vậy, thông qua phương pháp giảng dạy đó, các em sẽ học

72

tập thêm được của nhau về những kiến thức, trao đổi cho nhau những kinh

nghiệm trong các hoạt động.

Hơn nữa, các hoạt động trên còn giúp cho các em sinh viên hiểu và

nhận thức sâu sắc về những giá trị văn hóa tinh thần, những tinh hoa dân tộc

của cha ông để lại. Cũng chính từ đây, các sẽ tiếp nhận, bảo tồn, gìn giữ và là

cây cầu nối cho những thế hệ mai sau.

* Tiểu kết chương 2

Qua tìm hiểu thực tế và khảo sát cho thấy, hiện nay trường đại học

Đồng Nai còn nhiều bất cập trong việc giảng dạy môn dân ca tại trường. Để

thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca cho hệ

Cao đẳng sư phạm trường Đại học Đồng Nai phải được bắt đầu đổi mới từ nội

dung chương trình đến phương pháp dạy học; từ trang thiết bị cơ sở vật chất

đến nâng cao năng lực giảng viên, hay đề xuất những đổi mới trong việc

giảng dạy dân ca kết hợp với phương thức trình diễn vũ đạo đơn giản, với

trang phục; đưa sinh viên đi thực tế, gặp gỡ các nghệ nhân v.v…

Dân ca bản địa làm đa dạng sắc màu cho nền dân ca Việt Nam nhưng

trong chương trình đào tạo hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc của trường Đại học

Đồng Nai còn thiếu hụt mảng này. Để sinh viên có thể dạy tốt những tiết dạy

dân ca trong chương trình giáo dục phổ thông ở địa bàn tỉnh Đồng Nai thì

trong chương trình học ở ĐHSP Đồng Nai không thể thiếu những kiến thức

về dân ca một cách toàn diện và đặc biệt trong đó không thể thiếu các bài dân

ca các tộc người sống trên địa bàn này. Sự thiếu hụt về vốn dân ca cũng như

những hiểu biết vềt sinh hoạt văn hóa vùng miền sẽ khiến giáo viên gặp khó

khan, lúng túng khi hướng dẫn học sinh hát dân ca; lúng túng khi tổ chức các

hoạt động ngoại khóa cho sinh viên. Để khắc phục được những yêu cầu đó

cần phải có sự đổi mới trên mọi phương diện như đã đề cập.

73

Những ý kiến đóng góp của đề tài trước hết là nhằm khắc phục những

mặt còn hạn chế trong quá trình giảng dạy môn dân ca tại trường Đại học

Đồng Nai, hy vọng có thể góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân

ca tại trường trong thời gian tới.

74

KẾT LUẬN

Dân ca Việt Nam là một trong những di sản văn hóa tinh thần của dân

tộc. Những khúc hát ru, những bài đồng dao hay những bài hát giao duyên,

bài hát trong lễ nghi phong tục đều xuất phát từ đời sống lao động và là tiếng

nói của người dân lao động. Với sự phong phú về bài bản, đa dạng về đề tài,

sâu sắc về nội dung, Dân ca là tài sản quý giá mà ngày nay chúng ta được

thừa kế từ những sáng tạo trong quá trình phát triển lịch sử của cha ông ta.

Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc, mỗi tộc người có một nền văn hóa

độc đáo riêng của mình nên đã tạo ra một bản sắc văn hóa Việt Nam vô cùng

phong phú và đa dạng. Bản sắc văn hóa bao gồm những giá trị bền vững,

những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp qua hàng ngàn năm

lịch sử dựng nước và giữ nước, trong đó có nền âm nhạc dân gian.

Với sự phát triển của khoa học, nhất là công nghệ thông tin, việc mở

rộng giao lưu văn hóa trong thời kỳ hội nhập, Việt Nam càng có thêm nhiều

điều kiện tiệp cận với âm nhạc nước ngoài, bởi vậy việc bảo tồn và phát huy

tinh hoa của nên âm nhạc cổ truyền Việt Nam là việc làm cấp thiết hiện nay.

Và trong sự nghiệp bảo tồn nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam, giáo dục và đào

tạo là một khâu quan trọng của quá trình kế thừa, chuyển giao giưa các thế hệ.

Trong những năm qua, chất lượng đào tạo đội ngũ giảng viên môn nhạc

còn nhiều bất cập, giáo sinh sau khi ra trường còn thiếu nhiều kiến thức về âm

nhạc dân tộc, khả năng hát dân ca còn hạn chế. Mặt khác, môn dân ca trong

đào tạo hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc còn phiến diện, chưa đầy đủ về nội

dung, phương pháp học dân ca còn đơn điệu.

Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả dạy học môn dân ca cho giáo sinh

cao đẳng sư phạm âm nhạc ở Đồng Nai, luận văn đã sử dụng các phương

pháp nghiên cứu lý luận (phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu) và những

phương pháp nghiên cứu thực tiễn (điều tra, quan sát, tổng kết kinh nghiệm sư

75

phạm,…) để thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra như: Tìm hiểu

về tình hình đào tạo sinh viên hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc ở trường Đại

học Đồng Nai; xác định khả năng âm nhạc của giáo sinh; thực trạng dạy học

môn dân ca; phân tích chương trình môn dân để thấy đươc sự thiếu hụt nhiều

bài dân ca các dân tộc ở Đồng Nai… dẫn đến chất lượng dạy hát cho sinh

viên dân tộc thiểu số còn chưa hiệu quả.

Đồng Nai là một tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số, trong đó người Mạ,

Cho Ro, S’Tiêng, Kơ Ho chiếm đa số. Qua tìm hiểu cho thấy đời sống sinh

hoạt văn hóa, âm nhạc truyền thống của người Mạ, Cho Ro, S’Tiêng, Kơ Ho

có những nét riêng, rất đặc sắc. Đặc biệt những bài dân ca của dân tộc bản địa

rất phong phú về thể loại, đa dạng về giai điệu, nhưng đơn giản về cấu trúc

hình thức. Đó là nước suối nguồn dân tộc, văn hóa đã vượt qua thử thách của

thời gian để tồn tại đến nay.

Dựa vào phần mềm được quy định trong chương trình môn học dân ca

đào tạo hệ Cao đẳng sư phạm âm nhạc của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, luận

văn đã lựa chọn những bài hát của tộc người bản địa Kơ Ho, Cho Ro, Mạ,

S’Tiêng để đưa vào đổi mới chương trình và phương pháp dạy học dân ca

trong đào tạo giáo sinh cao đẳng sư phạm ở Đồng Nai.

Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn dân ca thiết nghĩ nên thay đổi

phương pháp giảng dạy thông qua việc tổ chức hội thảo lấy ý kiến xây dựng

lại chương trình đào tạo, bổ sung thêm nội dung giảng dạy về dân ca và

phương pháp giảng dạy dân ca ở trường phổ thông cho sinh viên chuyên

nghành âm nhạc, đồng thời trang bị thêm các thiết bị dạy học cần thiết phục

vụ cho việc dạy học và học bộ môn âm nhạc trong nhà trường. Mặt khác, các

giảng viên của bộ môn âm nhạc cần chủ động thiết thực bổ sung kiến thức. Về

giảng dạy dân ca cho sinh viên chuyên ngành, đồng thời tích cực cải tiến

phương pháp giảng dạy âm nhạc nói chung, giảng dạy dân ca nói riêng, tăng

76

cường tự học tự bồi dưỡng nâng cao trình độ đồng thời không ngừng học hỏi

kinh nghiệm từ nhiều khía cạnh,…

77

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Trọng Ánh (2000), Âm nhạc Quan họ, Viện Âm nhạc, Hà

Nội.

2. Nguyễn Hữu Ba (1961), Dân ca Việt Nam, Bộ Quốc gia giáo dục,

Sài Gòn.

3. Trần Viết Bính - Nguyễn Thị Tuyết Hồng (2011), Dân ca Mạ, Châu

Ro, S’Tiêng, Kơ Ho ở Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.

4. Nguyễn Thị Thanh Bình (2005), Đưa Dân ca vào chương trình dạy

nhạc cho sinh viên Khoa Tiểu học - Đại học Sư Phạm, Luận văn Thạc sỹ Văn

hóa học, Viện Nghiên cứu văn học, Hà Nội.

5. Đỗ Thị Linh Chi (2011), Dân ca trong đào tạo giáo viên âm nhạc

trường Cao Đẳng Hải Dương, Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, Học viện

KHXH.

6. Dân ca Trung Du (1961-1962), Tập 1 và 2, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

7. Phạm Duy (1972), Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam, Nxb Hiện Đại.

8. Đào Việt Hưng (2002), Tìm hiểu điệu thức dân ca người Việt Bắc

Trung bộ, Viện Âm nhạc, Nxb Âm nhạc.

9. Nguyễn Thụy Loan (2005), Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Nxb Đại

học Sư phạm.

10. Nguyễn Thụy Loan (2001), Thường thức về âm nhạc cổ truyền Việt

Nam, Viện Âm nhạc.

11. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2008), Hát dân ca, Nxb Âm nhạc.

12. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

13. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm nhạc,

Hà Nội.

14. Hoàng Lân - Văn Nhân (1995), Giáo trình giảng dạy âm nhạc, Nxb

Đại học sư phạm Hà Nội.

78

15. Dân ca Việt Nam (2011), Nxb Văn Hóa, Hà Nội.

16. Dân ca Quan họ Bắc Ninh (1974), Nxb Âm nhạc Hà Nội.

17. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc Dân gian các dân tộc Tày Nùng

Dao, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

18. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc.

19. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ - ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn

học.

20. Lại Thị Phương Thảo (2010), Âm nhạc dân gian trong công tác đào

tạo tại trường Đại học Sư Phạm Nghệ thuật Trung Ương, Luận văn Thạc sỹ

Văn hóa học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

21. Dân ca Tày (1962), Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

22. Dân ca Tày (1980), Nxb Văn Hóa, Hà Nội.

23. Dân ca Thái (1973, 1980), Tập 1 và 2, Nxb Văn Hóa, Hà Nội.

24. Dân ca Bình Trị Thiên (1981), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

25. Phạm Tuyên (1999), Âm nhạc với trẻ em, Nxb Âm nhạc.

26. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (1981), Dân ca Bến Tre, Ty VHTT Bến

Tre.

27. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (1983), Tìm hiểu Dân ca Nam Bộ, Nxb

TP.Hồ Chí Minh.

28. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (2005), Hát Ru, Nxb Trẻ.

29. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam – Truyền thống và hiện đại, Viện

Âm nhạc.

30. Tô Vũ (1996), Sức sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam,

Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

31. Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ (1983), tập 1 và 2, Nxb Văn hóa, Hà

Nội.

79

PHỤ LỤC I

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ÂM NHẠC VÀ

THỬ NGHIỆM GIẢNG DẠY DÂN CA

Hình ảnh trường Đại học Đồng Nai

80

Hình ảnh trường Đại học Đồng Nai

81

Giảng viên hướng dẫn sinh viên trong giờ nhạc cụ

82

Giảng viên hướng dẫn sinh viên trong giờ Dân ca

83

Hình ảnh về hoạt động âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai

84

Hình ảnh về hoạt động âm nhạc của trường Đại học Đồng Nai

85

PHỤ LỤC II MỘT SỐ TRANG PHỤC CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA ĐỒNG NAI

Thổ cẩm người Mạ ở Tà Lài, huyện Tân Phú

Thổ cẩm người Mạ ở Bon Gor, huyện Tân Phú

86

Thổ cẩm người Mạ ở Hiệp Nghĩa, huyện Định Quán

+

Thổ cẩm người S’tiêng ở Tà lài, huyện Tân Phú

87

Thổ cẩm người S’tiêng ở Tân Hiệp, huyện Long Thành

Khố và thổ cẩm của người S’tiêng ở huyện Xuân Lộc

88

Nghệ nhân thổi kèn Bầu ở Hiệp Nghĩa, huyện Định Quán

Già làng người S’tiêng ở Tà Lài, Tân Phú thổi kèn Môi

89

Đội Chinh S’tiêng ở Tà Lài, huyện Tân Phú

Dàn Chinh Choro ở Xuân Trường, huyện Xuân Lộc

90

Dàn Chiêng Choro ở Xuân Trường, huyện Xuân Lộc

Nhà văn hóa dân tộc Choro, xã Xuân Phú, huyện Xuân lộc

91

PHỤ LỤC III MỘT SỐ BÀI HÁT DÙNG TRONG LUẬN VĂN VÀ THAM KHẢO

92

93

94

95

96

97

98

99

100

101

102

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả thực nghiệm nêu

trong luận văn là trung thực và chưa được ai công

bố trong bất kì công trình nào khác. Nếu có điều gì

trái với lời cam đoan, tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2013

Tác giả luận văn

Trần Thị Kim Nga

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin cảm ơn tới các thầy cô giáo, các cán bộ của học viện

âm nhạc Quốc gia và học viện âm nhạc Huế đã giúp đỡ và trang bị cho tôi

những kiến thức quý báu trong quá trình học tập.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Bùi Huyền Nga –

Người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên

cứu và hoàn thiện đề tài.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các đồng nghiệp

và sinh viên trường Đại học Đồng Nai đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá

trình thực hiện đề tài.

Thành công này của tôi, cũng nhờ có sự động viên, khuyến khích tạo

mọi điều kiện của những người thân yêu và bạn bè đã luôn bên tôi để tôi hoàn

thành tốt công việc.

Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong được

sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn đồng nghiệp.

Tác giả luận văn

Trần Thị Kim Nga

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANDG : Âm nhạc dân gian

CĐ : Cao đẳng

CĐSP : Cao đẳng sư phạm

CNTT : Công nghệ thông tin

ĐH : Đại học

ĐHSP : Đại học sư phạm

GV : Giảng viên

KHXH : Khoa học xã hội

NCKH : Nghiên cứu khoa học

NXB : Nhà xuất bản

PPDH : Phương pháp dạy học

QHBN : Quan họ Bắc Ninh

SV : Sinh viên

TCSP : Trung cấp sư phạm

UBND : Uỷ ban nhân dân

Mục lục

Phần mở đầu 1

Chương 1: Vài nét về dân ca Việt Nam và việc giảng dạy môn dân ca ở 6

trường Đại học Đồng Nai

1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam 6

1.2. Việc giảng dạy môn dân ca ở trường Đại học Đồng Nai 22

* Tiểu kết chương 1 39

Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn 41

dân ca ở trường Đại học Đồng Nai

2.1. Giải pháp về xây dựng nội dung chương trình và giáo trình 41

2.2. Giải pháp về phương pháp dạy môn dân ca 47

2.3. Dạy hát dân ca kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác 53

2.4. Giải pháp thực tập sư phạm 56

2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác 67

* Tiểu kết chương 2 74

Kết luận 75

Tài liệu tham khảo 77

Phụ lục 79