BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ MỸ NHI QUAN HỆ VĂN HÓA PHÁP – VIỆT TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở NAM KỲ ( 1867 – 1945)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

1TMỤC LỤC1T ........................................................................................................................................... 2

1TMỞ ĐẦU1T .............................................................................................................................................. 4

1T1) Mục đích nghiên cứu1T................................................................................................................................. 4

1T2) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu1T ............................................................................................................. 4

1T3)Lịch sử nghiên cứu vấn đề1T ......................................................................................................................... 4

1T4) Phương pháp nghiên cứu1T ........................................................................................................................... 6

1TCHƯƠNG 1: NAM KỲ TRƯỚC SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP1T ................................ 7

1T1.1. Những con đường tiếp xúc văn hóa với Pháp và phương Tây1T.................................................................. 7

1T1.1.1. Con đường truyền giáo 1T .................................................................................................................... 7

1T1.1.1.1. Các cuộc phát kiến địa lí – tiền đề cho công cuộc truyền giáo 1T .................................................. 7

1T1.1.1.2 Cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam1T ...................................................................... 10

1T1.1.2.Con đường buôn bán1T ...................................................................................................................... 21

1T1.2. Thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ1T ..................................................................................................... 24

1T1.3. Nội dung văn hóa trong chính sách đô hộ của Pháp đối với Nam Kỳ1T .................................................... 29

1T1.3.1 Giai đoạn 1867-18971T ...................................................................................................................... 29

1T1.3.2 Giai đoạn 1897 – 19141T ................................................................................................................... 31

1T1.3.3 Giai đoạn 1914-19181T ...................................................................................................................... 33

1T1.3.4 Giai đoạn 1918-19391T ...................................................................................................................... 34

1T1.3.5 Giai đoạn 1939-19451T ...................................................................................................................... 36

MỤC LỤC

1TCHƯƠNG 2: QUAN HỆ VIỆT-PHÁP TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở NAM KỲ ( 1867 – 1945)1T ................................................................................................................................................... 38

1T2.1. Yếu tố văn hóa tác động đến nền giáo dục1T ............................................................................................ 38

1T2.1.1 Đạo Thiên Chúa1T ............................................................................................................................. 38

1T2.1.2 Chữ quốc ngữ1T ................................................................................................................................ 40

1T2.1.3 Văn học1T ......................................................................................................................................... 42

1T2.1.4 Báo chí1T .......................................................................................................................................... 44

1T2.1.5 Nội dung giáo dục trong các trào lưu canh tân, cải cách1T ................................................................. 50

1T2.1.5.1 Các cuộc canh tân cuối thế kỷ XIX1T ......................................................................................... 50

1T2.1.5.2 Các cuộc canh tân ở đầu thế kỷ XX1T ........................................................................................ 54

1T2.2. Quan hệ Việt – Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ1T ....................................................................... 59

1T2.2.1 Giáo dục Nho học ở Nam Kỳ1T ......................................................................................................... 59

1T2.2.2 Tác động của giáo dục Nho học đến mọi lĩnh vực xã hội ở Nam Kỳ1T ............................................... 62

1T2.2.3 Các yếu tố Pháp và Việt trong lĩnh vực giáo dục1T ............................................................................ 65

1T2.2.4 Chính sách giáo dục và hệ thống giáo dục của Pháp tại Nam Kỳ1T .................................................... 67

1T2.2.4.1 Từ 1867 – 18971T ...................................................................................................................... 67

1T2.2.4.2 Từ 1897 đến 19181T ................................................................................................................... 73

1T2.2.4.3 Từ 1918 - 19451T ....................................................................................................................... 75

1T2.2.5 Ảnh hưởng văn hóa Pháp đến văn hóa Việt trong lĩnh vực giáo dục1T .............................................. 78

1T2.2.6. Vai trò của chính quyền thực dân trong nền giáo dục ở Nam Kỳ1T ................................................... 81

1TKẾT LUẬN1T ........................................................................................................................................ 89

1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T ................................................................................................................. 90

1TPHỤ LỤC1T........................................................................................................................................... 94

MỞ ĐẦU

1) Mục đích nghiên cứu

Đất nước ta bước vào thế kỷ XXI trong bối cảnh một thế giới văn minh và xu hướng toàn

cầu hóa (globalisation). Các quốc gia có xu hướng hòa nhập vào một cộng đồng, “một nền kinh

tế toàn cầu không biên giới”. Những thành tựu về khoa học kỹ thuật, sự phát triển của kinh tế

thế giới làm tăng cường sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc. Những

tiến bộ của trao đổi quốc tế, sự bùng nổ thông tin cùng với những ưu việt của hệ thống truyền

thông sẽ tạo điều kiện cho tính toàn cầu của nền văn hóa nhân loại. Xu thế đó đặt mỗi quốc gia

trước yêu cầu phải kết hợp hài hòa yếu tố toàn cầu của văn hóa thế giới với yếu tố bản sắc của

văn hóa dân tộc. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa thế giới (UNESCO) đã ra tuyên bố

toàn cầu về đa dạng văn hóa vào tháng 11 năm 2001 và lấy ngày 21 tháng 5 hằng năm là “Ngày

đa dạng văn hóa vì đối thoại và phát triển”. Nghị quyết năm 1998 của UNESCO lấy năm 2001

là năm đối thoại giữa các nền văn minh.

Sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc là một vấn đề thuộc lịch sử của tất cả các

nước trên thế giới. Trong nhiều nội dung của lịch sử Việt Nam, đề tài “Quan hệ văn hóa Việt -

Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867-1945)” là một vấn đề có ý nghĩa khoa học, thực

tiễn và thời sự trong bối cảnh Việt Nam hội nhập với thế giới.

Việc nghiên cứu đề tài này còn góp phần hệ thống hóa, bổ sung, nâng cao nhận thức về

lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử vùng đất Nam Kỳ thời Cận đại nói riêng, góp phần phục

vụ cho công tác giáo dục và đào tạo.

2) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Như tên đề tài đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu và phạm vi về nội dung, không gian, thời

gian của đề tài nghiên cứu là: Quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ

từ khi Nam Kỳ trở thành thuộc địa của thực dân Pháp (1867) đến khi Cách mạng tháng Tám

thành công (1945).

3)Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trước đây những công trình của các nhà hoạt động chính trị và các nhà hoạt động nghiên

cứu khoa học – xã hội tiến bộ chỉ tập trung vào đối tượng là những người da trắng đi khai thác

thuộc địa và tội ác dã man của họ, gần đây có một khuynh hướng nghiên cứu mới lấy đối tượng

là những người da màu, những người dân tộc thuộc địa qua ứng xử với nền văn hóa đô hộ đã

tiếp biến văn hóa phương Tây để tạo ra những giá trị mới có nghĩa là không đặt trọng tâm vào

tác động phá hoại và dã man của chế độ thực dân nhưng chắc chắn vấn đề không phải đặt ra

theo kiểu ca ngợi “sứ mệnh truyền bá văn minh” hay “gánh nặng nhiệm vụ của người da trắng

đối với da màu”, các công trình nghiên cứu nhằm phát hiện về mặt văn hóa, những phản ứng đa

dạng và phức tạp của dân tộc bị trị đối với nền văn hóa của kẻ đi chinh phục như David Marr,

Pierre, Brocheux, Daniel Hémery, Trịnh Văn Thảo, Nguyễn Văn Ký,…(thời Pháp thuộc) hay

tác phẩm của giáo sư Heinz Schuette “Nguồn gốc dao và rìu”. Bài viết của Lương Thị Thoa

đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 4/1998 cũng đã nêu lên một vài ý kiến về giao lưu văn

hóa Đông – Tây trong tình hình hiện nay hay Sakurai Kiyohiko trong bài viết ở tạp chí “Xưa và

Nay” số 71B, 1/2000 cũng đã nêu vấn đề về giao lưu văn hóa Đông – Tây qua con đường tơ lụa

trên biển,…

Tác phẩm “Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây phương trong ngôn ngữ và văn

chương” của Vũ Bội Liêu (một liệt sĩ hy sinh vào đầu kháng chiến chống Pháp) sách in lần đầu

năm 1944 và mới vừa được tái bản và trong tác phẩm Vũ Bội Liêu cũng đã rất thích thú về sự

gặp gỡ văn chương Việt – Pháp, trong mỹ từ Pháp, sự đối ngẫu của người Pháp và văn biền

ngẫu của ta. Tác giả cũng đưa ra nhiều ví dụ so sánh giống nhau như “nhanh như chớp”, “nói

như vẹt”, “ngọt như mật”,…Tác phẩm của ông cũng là một minh chứng cho sự gặp gỡ giữa văn

hóa Đông – Tây.

Đã có nhiều bài viết của các học giả liên quan đền nội dung về giáo dục Việt từ khi Pháp

xâm lược đến sau cách mạng tháng Tám như “ Chính sách giáo dục của Pháp ở Việt Nam” của

tác giả Nguyễn Trọng Hoàng, khởi đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 96 năm 1967 và “

Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ nhất”

của Ngyễn Anh, đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 98 ( tháng 5 – 1967) đã nêu một cách

khái quát những bước đi của thực dân Pháp trong lĩng vực giáo dục ở Việt Nam từ những ngày

đầu cho đến khi Pháp bỏ hẳn nền giáo dục cũ với chế độ khoa cử của nó và thay thế bằng nền

giáo dục thực dân.

Tác giả Nguyễn Q. Thắng với tác phẩm “Khoa cử và giáo dục ở Việt Nam” đề cập đến hệ

thống giáo dục Việt Nam từ thời phong kiến sang đến thời Pháp thuộc và khi Việt Nam được

độc lập.

“Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945” Nguyễn Đăng Tiến

chủ biên là công trình nghiên cứu giá trị, khái quát toàn bộ nền giáo dục Việt Nam từ cách

mạng tháng Tám trở về trước.

“Giáo dục Việt Nam thời Cận đại của Phan Trọng Báu” nghiên cứu hai hệ thống giáo dục

chính: nền giáo dục của Pháp trên đất nước ta và dòng giáo dục yêu nước và cách mạng do

những nhà yêu nước tổ chức.

Tiếp theo những bài trên diễn đàn văn hóa thế giới và một số nghiên cứu riêng biệt về ảnh

hưởng của văn hóa Pháp lên văn hóa Việt, nội dung của luận văn này cũng muốn góp phần tìm

hiểu thêm quá trình quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867-

1945) để thấy sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam và thế giới vì trong bối cảnh toàn cầu hóa

hiện nay sự đa dạng hóa về văn hóa là chìa khóa cho sự hòa bình.

4) Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình làm đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:

- Phương pháp tiếp cận hệ thống: trong hoàn cảnh nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, trong sự

giao lưu với văn hóa Pháp, văn hóa Việt nói chung và văn hóa Việt ở Nam Kỳ nói riêng trong

lĩnh vực giáo dục là quá trình vừa đối đầu, đề kháng vừa tiếp thu, tiếp biến, vừa mang tính áp

đặt - “Tây hóa”, vừa mang tính chọn lọc - “Việt hóa”… Lĩnh vực giáo dục được đặt trong hệ

thống các yếu tố văn hóa được tiếp thu từ phía văn minh phương Tây nói chung và Pháp nói

riêng.

- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Nghiên cứu vấn đề theo nội dung lịch sử và

trình tự thời gian, nêu những nhận định khái quát về bản chất của các sự kiện lịch sử.

CHƯƠNG 1: NAM KỲ TRƯỚC SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP

1.1. Những con đường tiếp xúc văn hóa với Pháp và phương Tây

1.1.1. Con đường truyền giáo

1.1.1.1. Các cuộc phát kiến địa lí – tiền đề cho công cuộc truyền giáo

Ở Tây Âu từ thế kỷ XV, trong lòng nền phong kiến suy yếu đã manh nha kinh tế tư bản

chủ nghĩa. Nền kinh tế manh nha ấy đang đòi hỏi phải có sự tích lũy tư bản nguyên thủy. Sự

tước đoạt tư liệu sản xuất tại chỗ cũng như lợi nhuận thương mại trong vùng chỉ đáp ứng một

cách chậm trể nhu cầu trên. Thương nhân phương Tây muốn vươn đến những vùng đất mới hơn

giàu tài nguyên, hàng hóa quí hiếm để đưa đến lợi nhuận cao và nhanh nhằm xúc tiến sự định

hình của tư bản chủ nghĩa và nâng cao địa vị chính trị của giai cấp tư sản.

Đúng thời điểm này các nước sớm phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu, đặc biệt là

Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có công nghệ đóng tàu và kỹ thuật hàng hải đã có những tiến bộ

lớn. Những tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải cho phép các nhà thám hiểm tổ chức những chuyến

đi xa nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế mới.

Đó là các cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha như thám hiểm của Vax – co đơ Ga - ma năm

1497, của Tây Ban Nha như cuộc thám hiểm của C. Cô – lôm - bô vào các năm

1492,1493,1498,1502…Những cuộc thám hiểm trên đã khẳng định sự tồn tại của tân lục địa “

America” và phát hiện nhiều con đường khác nhau để đi tới tân lục địa đó, cũng như các con

đường ngắn nhất để đi đến vùng Viễn Đông xa xôi.

Cuộc phát kiến đó đã thúc đẩy các nhà chinh phục, các thương nhân đi tìm thị trường mới

béo bở và trong các cuộc thám hiểm và chạy đua xâm lược thuộc địa đó còn có mặt thường

xuyên và đông đảo của các giáo sĩ của nhiều dòng tu lớn của các nước phương Tây được phái đi

theo để thực hiện sứ mạng truyền bá đạo Thiên Chúa khiến cho Đạo thiên Chúa cùng với sự

hình thành hệ thống thuộc địa của Phương Tây đã có mặt ở những mức độ khác nhau ở hầu

khắp hệ thống thuộc địa nói trên.

Như vậy những phát kiến địa lí đã tạo điều kiện cho việc truyền bá đạo Thiên Chúa ra bên

ngoài.

Về động cơ của việc mở rộng việc truyền bá đạo Thiên Chúa ra bên ngoài thì phần lớn các

nhà Thiên chúa cho rằng chỉ có một động cơ tôn giáo và coi đó như một sự tiếp nối tự nhiên của

sứ mạng truyền giáo của đạo Thiên Chúa từ khi nó mới ra đời. Còn nếu một lúc nào đó, ở nơi

nào đó chịu sự tác động của động cơ ngoài tôn giáo thì đó cũng là những trường hợp bất thường

và nhất thời mà thôi.

Không ai phủ nhận động cơ nói trên , mỗi tôn giáo sau khi định hình phải truyền bá tôn

giáo khi có cơ hội và điều kiện. Đó cũng là lý do khiến tôn giáo tồn tại và phát triển. Sự mở

rộng truyền bá đạo Thiên Chúa ra phạm vi toàn thế giới từ những phát kiến địa lý cũng nằm

trong thông lệ đó.

Cuộc truyền giáo từ phát kiến địa lý ( thế kỷ XV đến thế kỷ XIX) nằm trong bối cảnh tư

bản đã thắng thế ở Tây Âu, giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh, đóng vai trò quyết định trên

chính trường. Quyền lực chính trị và kinh tế của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã bị hạn chế

nhưng giai cấp tư sản không thể thủ tiêu giáo hội nhưng không thể vì chính quyền của tư sản

vẫn cần có sự quy phục của nhân dân ở chính quốc cũng như các thuộc địa và Thiên Chúa giáo

là công cụ tích cực để duy trì sự quy phục đó.Vì lý do đó mà chính quyền mới đã thỏa hiệp với

Giáo hội. Không những vẫn để cho giáo hội tự do hành đạo ở chính quốc mà còn tài trợ cho các

tổ chức truyền giáo ra bên ngoài.

Theo ý kiến của nhiều giáo sĩ thừa sai thì tôn giáo cùng ngôn ngữ ( sự thay thế ngôn ngữ

bản địa bằng ngôn ngữ chính quốc) là phương thức hữu hiệu nhất để đồng hóa và biến những

vùng đất này trở thành những vùng đất vĩnh viễn của chính quốc. Đó cũng là lý do vì sao các

cuộc thám hiểm, xâm lược thuộc địa cũng như cuộc thực dân ở vùng đất bên ngoài bao giờ

cũng gắn liền mật thiết với việc truyền bá đạo Thiên Chúa.

Thêm nữa từ phát kiến địa lý, giáo hội Thiên Chúa mà cơ quan đầu não là tòa thánh La Mã

thấy được tiềm năng của việc mở rộng nước Chúa. Nếu những vùng đất này được Thiên Chúa

giáo hóa, các vua chúa ở đây được cải giáo và phục tùng tòa thánh La Mã thì đó sẽ là hậu thuẫn

vô cùng to lớn cho địa vị của giáo hội Thiên Chúa, có tác dụng như một đối trọng trước sức ép

ngày càng lớn của giai cấp tư sản phương Tây.

Song cuộc truyền giáo ra nước ngoài lại chỉ có thể được thực hiện với sự hỗ trợ vật chất

của các quốc gia có nền kinh tế phát triển như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ở thế kỷ XV, XVI

đầu thế kỷ XVII và sau đó là Pháp ở giữa thế kỷ XVII.

Các quốc gia này đã chủ động đứng ra tổ chức và tài trợ cho các đoàn truyền giáo, chuyên

chở các giáo sĩ thừa sai đến những vùng đất xa xôi để truyền đạo, nuôi dưỡng, bảo vệ họ, cung

cấp cho họ tiền bạc, những tặng phẩm quý để lấy lòng các vua bản địa.

Để đáp lại, các giáo sĩ thừa sai, dù muốn hay không vẫn phải làm một số việc cho quốc gia

đã cử họ đi và tài trợ cho họ như làm môi giới buôn bán cho thương nhân nước đó với bản địa,

cung cấp thông tin cho nhà chức trách về miền đất truyền đạo qua thư từ, báo cáo hoặc các tập

du ký, hồi ký, tạo ra trong giáo dân lòng biết ơn và cảm tình đối với quốc gia đã cử họ tới và

trong nhiều trường hợp trong đó có Việt Nam tạo cớ cho cuộc xâm lược vũ trang.

Như vậy cuộc truyền đạo Thiên Chúa ngoài động cơ thiêng liêng là truyền giảng Phúc Âm

còn có những động cơ xuất phát từ lợi ích của tòa thánh La Mã muốn củng cố thế lực của mình

và lợi ích của các quốc gia đã tổ chức cho cuộc truyền giáo này.

Việc mở rộng truyền giáo ra phạm vi thế giới từ phát kiến địa lí đã ảnh hưởng sâu sắc của

tư tưởng thực dân chủ nghĩa tư bản vừa mới hình thành ở phương Tây, đó là tư tưởng của giai

cấp tư sản tự cho mình có nhiệm vụ khai hóa văn minh. Mặc dù Giáo hội Thiên Chúa giáo La

Mã đã nhắc nhở các giáo sĩ thừa sai tôn trọng các nền văn hóa bản địa và phong tục địa phương,

thực hiện phương thức truyền đạo mềm dẻo, kiên trì , không dính đến chính trị nhằm tránh sự

chống trả của dân bản địa và chính quyền nhưng lời nhắc nhở không có hiệu quả vì cuộc truyền

giáo đã không tránh khỏi sự chi phối của yếu tố lịch sử và thời đại.

Thiên chúa giáo ngay khi trở thành quốc giáo trong Đế quốc La Mã đã mang nặng tính tự

cao được thể hiện ở thái độ miệt thị đối với các niềm tin của tôn giáo khác và coi đó là mê tín.

Ở Châu Mỹ và châu Phi dân bản xứ khi được cải giáo bắt buộc phải đoạn tuyệt với tất cả hệ

thống tôn giáo tín ngưỡng truyền thống, thậm chí cả nếp sống văn hóa cổ truyền, khiến họ trở

nên xa lạ với cộng đồng đã sinh ra họ. Ở Châu Á thì cuộc “ xâm lược văn hóa” gặp nhiều khó

khăn hơn. Phần lớn các quốc gia ở đây là các quốc gia phong kiến đã định hình từ nhiều thế kỷ

với những thể chế kinh tế, chính trị cùng với đời sống văn hóa tinh thần tương đối ổn định. Để

có thể xâm nhập vào các quốc gia này các giáo sĩ dòng Jésuites của Bồ Đào Nha có lúc chủ

trương mềm dẻo, chấp nhận một số lễ tục như cho phép một số người cải giáo quỳ lại trước bàn

thờ tổ tiên…nhưng chủ trương này bị giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã phản đối. Phương thức

truyền giáo phổ biến là là các giáo sĩ thừa sai dùng nguồn vật chất để quyến rũ người bản xứ

chủ yếu là dân nghèo theo đạo gây cho họ niềm hi vọng sẽ đổi đời khi theo tôn giáo một quốc

gia giàu mạnh phương Tây. Cùng lúc dùng lễ vật lấy lòng vua chúa để được tự do truyền đạo,

thậm chí cải giáo các vua chúa với hi vọng các vua chúa sau khi cải giáo sẽ đưa Thiên Chúa

giáo lên địa vị độc tôn. Khi chính quyền các quốc gia này cản trở cuộc “ xâm lược văn hóa” thì

các giáo sĩ sẽ nắm lấy cơ hội đó nêu ra vấn đề bảo vệ giáo dân cũng như bảo vệ sự an toàn của

công dân các nước phương Tây thành cái cớ cho cuộc xâm lược.

Như vậy việc mở rộng truyền bá Thiên Chúa giáo ra phạm vi thế giới từ thế kỷ XV đến thế

kỷ XIX đã có sự gắn kết chặt chẽ với sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, thể

hiện ở động cơ của nó và vai trò của nó trong sự hợp thức hóa chủ nghĩa thực dân và có phần

đóng góp quan trọng vào sự bành trướng thực dân này.

Sự truyền đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam nằm trong một bộ phận truyền bá đạo Thiên

Chúa ra phạm vi thế giới cũng phải tuân thủ quy luật lịch sử, thời đại đã chi phối cuộc truyền

giáo đó.

1.1.1.2 Cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam

1.1.2.1 Thời kỳ của các giáo sĩ dòng Tên ( Jésuites )

Từ thế kỷ XV nhất là thế kỷ XVI, vùng Viễn Đông là nơi lui tới của nhiều nhà thám hiểm,

thương nhân và các giáo sĩ phương Tây để buôn bán, truyền đạo và qua đó chiếm đất đai vùng

này làm thuộc địa. Ấn Độ rơi vào vòng kiểm soát của Anh, Philippin thành thuộc địa của Tây

Ban Nha, Inđônêxia bị Hà Lan chiếm….Bồ Đào Nha lúc này suy yếu chỉ chiếm được một vài

thương điếm quan trọng nhất là Goa ( Ấn Độ) và Ma Cao. Cùng lúc Nhật bản và Trung Quốc là

hai quốc gia mà các nước phương Tây đặc biệt quan tâm và tìm cách xâm nhập. Song song với

quá trình bành trướng nói trên là sự mở rộng việc truyền bá đạo Thiên Chúa vào các vùng đất

này. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha chủ yếu thuộc dòng Jésuites đã thâm nhập Ấn Độ, Trung Quốc,

Nhật Bản mà Goa, Ma Cao là nơi đặt bộ phận điều hành.

Việt Nam tuy nằm trong vùng Viễn Đông nhưng ít được chú ý đến thỉnh thoảng các giáo sĩ

Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có dừng chân giảng đạo nhưng chưa đạt kết quả gì đáng kể. Từ

năm 1615 trở đi khi trung tâm truyền giáo của Bồ Đào Nha cử hai giáo sĩ Francois Bujomi và

Diego Carvalho sang Hải Phố, thuộc Quảng Nam ( Đàng Trong), việc truyền bá đạo Thiên

Chúa mới thực sự bắt đầu.

Vào thời điểm nói trên nhiều giáo sĩ Jésuites truyền giáo ở Nhật Bản đang phải dừng chân

ở Ma Cao vì ở Nhật đang có sự cấm đạo rất gắt gao. Trong khi đó Hải Phố nơi buôn bán sấm

uất ở Đàng Trong với nước` ngoài có mặt nhiều thương nhân Nhật Bản có đạo và cùng với họ là

nhiều giáo dân Nhật Bản đến cư trú để tránh bắt đạo trong nước. Họ đang cần sự có mặt của các

giáo sĩ thừa sai để duy trì đời sống đạo của mình, hai giáo sĩ trên thuộc biên chế các thừa sai đi

Nhật Bản, được cử sang Hải Phố trước hết để đáp ứng yêu cầu này sau đó là có nhiệm vụ khai

thác các cơ hội thuận lợi để tiến hành cuộc truyền giáo ở đây.

Ngay sau khi đến hai giáo sĩ đã làm một Thánh lễ với một số giáo dân Nhật Bản. Một năm

sau họ cải giáo được 300 người Việt các vùng xung quanh. Tiếp đó Ma Cao lại cử hai giáo

Francois Barreto và Francois de Pina sang tăng viện và mở rộng địa bàn truyền giáo. Họ rất

được quan trấn thủ Bình Định tại Qui Nhơn quan tâm nên các giáo sĩ đi lại truyền giáo được dễ

dàng. Số giáo dân cứ tăng dần.

Trước sự thuận lợi đó, 1624 Ma Cao gửi tiếp sang Đàng Trong thêm 6 giáo sĩ do Gabriel

de Mattos đứng đầu, trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes, người có vai trò đặc biệt quan

trọng trong việc xây dựng nền móng cho giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã ở Việt Nam trong

1

nữa đầu thế kỷ XVII.

P song lại có tác dụng đặc

A. de Rhodes có mặt ở Việt nam từ tháng 12 năm 1624 đến 1645P0F

1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 52

biệt trong việc mở mang việc đạo ở đây.

A. de Rhodes có năng khiếu đặc biệt trong việc học các thứ tiếng nước ngoài. Sau sáu

tháng đến Đàng Trong đã có thể giảng đạo bằng tiếng Việt. Sau đó A. de Rhodes kế tục các

giáo sĩ đến trước hoàn chỉnh dạng chữ viết tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh và trong thời gian ở

Việt Nam A. de Rhodes đã hoàn chỉnh cuốn từ điển Việt – Bồ Đào Nha – La Tinh. A. de

Rhodes cũng là giáo sĩ áp dụng thành công phương pháp tiếp cận vua chúa, qua lại bằng lễ vật

quí, nhất là những người thân thích của vua chúa, quan lại để được tự do truyền đạo và lôi kéo

thêm nhiều người theo đạo. Sau khi đến Hội An A. de Rhodes đã tiếp xúc với Sãi Vương và cải

giáo cho một người bà con của chúa có tên thành là Maria Madeleine, Maria Madeleine đã

thuyết phục những người xung quanh theo đạo và che chở cho các giáo sĩ, lại lập một nhà

nguyện tại nhà của mình.

Vào năm 1627, ở Đàng Ngoài A. de Rhodes cũng dùng lễ vật quí dâng Trịnh Tráng ở cửa

Bạng ( Thanh Hóa) và được phép về Hà Nội giảng đạo và được chúa Trịnh cho dựng ngôi nhà

lớn ở gần dinh mình để vừa làm nhà ở vừa làm nhà thờ. A. de Rhodes cải giáo cho người chị

của chúa và kéo thêm 17 người trong gia đình theo đạo.

Song song với truyền đạo A. de Rhodes quan tâm đến việc đào tạo tầng lớp cốt cán để hổ

trợ cho mình trong việc truyền đạo và giúp duy trì đời sống cho giáo dân khi vắng thừa sai hay

linh mục.

Cho đến trước khi rời khỏi Việt Nam A. de Rhodes cùng với các cộng sự gây dựng nền

móng đầu tiên cho giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Ở Đàng Trong Thiên Chúa giáo được

truyền bá rộng rãi ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Thuận Hóa, Quảng Bình với

số giáo dân khoảng 50.000 người.

Thành tích của A. de Rhodes không chỉ dừng lại đó. Khi rời Ma Cao về Châu Âu A. de

Rhodes còn nhận nhiệm vụ trọng đại do các cha bề trên không phải quốc tịch Bồ Đào Nha giao

cho nhiệm vụ là vận động tòa thánh La Mã chọn một nước bảo trợ mới, đủ sức phục vụ cho việc

phát triển đạo đang thuận lợi ở Viễn Đông, nhất là ở Việt Nam để thay thế cho Bồ Đào Nha

không còn đủ sức đảm đương.

Cuộc vận động này đã dẫn đến việc Tòa thánh La mã cử các Thế diện Tông tòa người Pháp

đảm đương việc điều hành truyền giáo ở Viễn Đông và sự ra đời của Hội Thừa sai Pari nhằm

đào tạo các thừa sai Pháp làm nhiệm vụ truyền giáo ở vùng này.

1.1.2.2 Thời kỳ các thế diện Tông tòa Pallu, Lambert.

Cuộc vận động tòa thánh Vatican tìm một quốc gia khác thay thế Bồ Đào Nha ở Viễn

Đông gặp nhiều khó khăn vì bị nước này phản đối. Đến 1658 với áp lực và nhiệt tình của nước

Pháp, Giáo hoàng đồng ý cho giáo sĩ Pháp sang Viễn Đông với điều kiện tự lo liệu chi phí và

phương tiện đi lại. Các giáo sĩ quốc tịch Pháp là Pallu, Lambert, Cotolendi được cử làm thế diện

Tông tòa ở Viễn Đông. Các giáo sĩ thuộc quốc tịch Pháp nếu hoạt động ở Viễn Đông đều phải

phục tùng giám mục Pháp.

Trước khi sang Viễn đông Pallu đã cùng giáo sĩ Pháp nhiệt tình với cuộc truyền giáo ở

Viễn Đông, đứng ra thành lập tổ chức lấy tên là Hội thừa sai Pari lo việc đào tạo các giáo sĩ để

gửi sang Viễn Đông. Hội được vua Louis XIV và các quý tộc nhiệt liệt ủng hộ cả về vật chất lẫn

tinh thần, chính thức ra mắt vào ngày 27/10/1663, trụ sở đặt tại phố Bac, Paris “ Người ta khâm

phục lòng nhiệt thành của các vị yếu nhân này cho việc Chúa đồng thời cũng là cho sự bành

Tây Ban Nha hay người Bồ Đào Nha trước đây”P1F trướng thế lực Pháp” và “ nước Pháp sang Á Châu, mang theo đạo Thiên Chúa giống như người 1

Hai sự kiện lớn trên đã đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc truyền bá Thiên Chúa giáo vào

Việt Nam. Kể từ đây, nước Pháp nắm độc quyền truyền giáo cũng như bành trướng thế lực ở

đây. Hai phương diện đó không tách rời trong nhận thức và hành động của các giáo sĩ thừa sai

Pháp đến truyền giáo ở Việt Nam.

Năm 1662, Pallu cùng 9 đạo sĩ lên đường sang Viễn Đông và tới Juthia thủ đô cũ của Thái

Lan năm 1664. Tại đây Pallu cùng với Lambert tổ chức cuộc với các giáo sĩ thừa sai Pháp tổ

chức họ thành giáo đoàn, đề ra một qui chế hoạt động nghiêm ngặt. Một chủng viện cũng được

lập ở đây thu nhận chủng sinh người Việt và người Trung Hoa, Pallu cũng định ra cho các giáo

1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 57

sĩ Pháp phương hướng ứng xử hòa nhã đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha. Do có khó khăn không

thể ra Đàng Ngoài làm nhiệm vụ, năm 1665 Pallu ủy nhiệm cho thừa sai Deydier ra Bắc làm Cố

chính điều hành việc đạo, rồi trở về Châu Âu, đến Rô -ma vận động Giáo hoàng xác định quyền

hành của giám mục Pháp đối với thừa sai thuộc các quốc tịch khác. Năm 1681, Pallu cử hai

giáo sĩ Lefebre và Geffrard đem lễ vật và thư đến Đàng Ngoài yêu cầu cho phép công ty Ấn Độ

được phép lập thương điếm ở Bắc Kỳ cho phép được tự do truyền đạo, giáo dân được tự do theo

đạo và mong mỏi nhà vua cải giáo. Trong khi Pallu lo việc truyền đạo thì ở Pháp một công ty

thương mại lấy tên công ty Ấn Độ được thành lập năm 1664 với quy mô và hoạt động đúng như

dự kiến của Pallu đã phác thảo trước khi đi Viễn Đông. Công ty này sau đó đã hỗ trợ đắc lực

cho các giáo sĩ Pháp trong cuộc truyền giáo ở Viễn Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng.

Sau Pallu là Lambert. Tháng 6 – 1664, Lambert cử thừa sai Chevreuil sang thăm dò mang

theo thư ủy nhiệm và một tiền khá lớn cùng với một thông ngôn người Nhật đến Hải Phố rồi lên

huế. Nhân buổi lễ Đức Mẹ lên trời do giáo sĩ Dòng tên tổ chức, Chevreuil tuyên bố là giám mục

chính thức của địa phận rồi sau đó trở lại cửa Hàn. Tại nơi này, Chevreuil bị các giáo sĩ Dòng

Tên tẩy chay và làm khó dễ. Năm 1665, có lệnh cấm đạo của Hiền Vương cả các giáo sĩ Dòng

Tên và Chevreuil bị trục xuất. Tháng 8 năm 1665 Chevreuil cùng với thừa sai Hainques mang

theo giấy xác nhận của Lambert cử hai người làm giám mục Đàng Trong. Chevreuil bị ốm nằm

ở Bà Rịa rồi sau đó về Thái Lan. Hainques cùng Brindeau ra miền Trung ra sức hoạt động

truyền giáo bất chấp sự cấm đạo của chính quyền. Vào thời điểm này Hainques gửi hai thầy

giảng là Trang và Bền sang Thái chịu chức linh mục và trở về cùng Hainques tham gia truyền

đạo. Năm 1670 cả hai linh mục Hainqueus và Brindeau mất. Hai linh mục Trang và Bền trốn

sang Thái Lan. Đàng Trong trong một thời gian dài không có linh mục.

Cũng vào năm này Lambert đi kinh lý Đàng Ngoài. Trước đó vào năm 1665, Pallu cử thừa

sai Deydier ra Bắc với tư cách là Cố chính. Deydier giả làm lái buôn, ẩn náu trong nhà các giáo

dân và làm việc đạo rất tích cực, có hiệu quả. Deydier triệu tập các thầy giảng ngày ngày bồi

dưỡng thêm về giáo lý. Năm 1669, Lambert cùng thừa sai Bourges và một thừa sai khác ra kinh

lý Đàng Ngoài, đến Phố Hiến trốn lên đất liền gặp Deydier tiến hành một số việc quan trọng,

trước hết Lambert truyền chức thêm 7 thầy cả, 20 thầy bổn, 20 thầy chịu phép cắt tóc, được coi

như hàng giáo sĩ khởi đầu cho Đàng Ngoài. Ngày 14/2/1670, Lambert triệu tập Công đồng Nam

Định nhằm lập lại kỹ luật địa phận. Cùng lúc Lambert lập một dòng nữ tu bản xứ lấy tên là

dòng chị em mến Câu Rút sau đổi tên Dòng chị em mến Thánh giá. Chính những nữ tu của

Dòng chị em mến Thánh giá trong suốt thời kỳ truyền giáo đã có những đóng góp hết sức to lớn

cho việc củng cố, phát triển đạo và gây dựng uy tín với người dân. Ngoài việc ngắm nguyện,

đọc kinh, tự kiểm và sám hối, các nữ tu còn hoạt động xã hội nhất là chữa bệnh cho dân, tự

nguyên phục vụ trong cô nhi viện, các trại hủi do giáo hội mở.

Tháng 4 năm 1670 Lambert trở về Thái sau đó cùng các thừa sai khác vào Đàng Trong để

thực hiện chức vụ giám mục của mình. Sau khi đi kinh lí ở các tỉnh phía nam, Lambert lập tu

viện Dòng chị em mến Thánh giá ở Quảng Ngãi rồi về Hải Phố. Ở đây Lambert kêu gọi sự hòa

hợp trong giáo hội và. Tháng 2 năm 1672 Lambert về Thái Lan mang theo 12 học dinh người

Việt và trở lại Đàng Trong gặp chúa Hiền Vương nhưng không gặp được vì có tang. Lambert

gữi lễ vật cho chúa rồi về Hải Phố. Năm 1679 qua đời tại Thái Lan.

Lambert là giám mục tiền khởi của Tòa thánh La Mã và giáo sĩ thừa sai Paris có những

đóng góp cụ thể và thiết thực cho cuộc truyền bá của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Bằng những

hành động của mình, Lambert khẳng định quyền truyền giáo của pháp ở Việt Nam trước sự

kháng cự bền bỉ của Thừa sai dòng Tên. Với hai công đồng Nam Định và Hải Phố, Lambert đã

củng cố đội ngũ các thừa sai Pháp, đội ngũ các linh mục và thầy giảng bản xứ đưa cuộc truyền

giáo vào nề nếp, tạo đà cho các giám mục địa phận sau đó đẩy mạnh việc phát triển đạo.Ngoài

ra việc lập dòng chị em Mến Thánh giá càng tô điểm thêm công lao của Lambert trong công

cuộc truyền giáo ở Việt Nam.

Nhờ công lao của Pallu và Lambert, việc truyền giáo ở Việt Nam vào nề nếp và có tổ chức.

Từ thế kỷ XVII – XVIII là thời kì truyền giáo của các giám mục địa phận. mặc dù bối cảnh Việt

Nam thời kỳ này là chiến tranh, nội chiến và cấm đạo nhưng việc truyền giáo vẫn duy trì khi có

cớ hội.

Ở Đàng Trong, năm 1670 khi Lambert mất ở Thái Lan, thừa sai Mahot được cử làm giám

mục địa phận Đàng Trong. Thời gian tại chức, Mahot triệu tập công đồng Hải Phố để chỉnh đốn

việc đạo và bàn việc đào tạo linh mục bản xứ.

Năm 1684, giám mục Mahot mất, thừa sai Joseph Duchêne thay thế nhưng cũng qua đời

sau hai ngày nhậm chức.

Từ 1684 đến 1691, Đàng Trong không có giám mục. Pérez thừa sai Tây Ban Nha được cử

làm giám mục Đàng Trong năm 1891 nhưng không được thừa sai Pháp chấp nhận. Pérez chết

năm 1727, Alexander ( Thừa sai người Ý) thay thế nhưng gặp nhiều khó khăn về tranh chấp

quyền hành và bất đồng về lễ nghi tôn giáo. Trong khi các giáo sĩ Dòng Tên muốn tha cấm việc

thờ cúng tổ tiên thì các giáo sĩ Thừa sai Paris kiên quyết phản đối và xung đột xảy ra. Alexander

mất năm 1728, Đàng Trong lại một thời gian dài không có giám mục. Trong khi đó sự xung đột

các dòng kéo dài và căng thẳng tới mức Tổng hội truyền giáo cử cha Achards de la Baume với

cương vị Khâm sai Tòa thánh đến để dàn xếp.

Tháng 5 năm 1739, Baume đi thẳng đến Hải Phố rồi Huế triệu tập giáo sĩ các dòng kí giấy

hoàn toàn tuân thủ các quyết định của Khâm sai Tòa thánh, tiếp đó phân chia Đàng Trong làm

các địa phận nhỏ và giao cho mỗi dòng cai quản một địa phận .

Tuy có những rắc rối nội bộ trên nhưng giáo hội Đàng Trong may mắn được hưởng 10

năm tha cấm dưới thời chúa Ninh Vương ( 1721 – 1737) nên việc đạo vẫn tiến triển. Năm 1743

địa phận Đàng Trong có 300 nhà thờ, 70.000 bổn đạo với 29 linh mục ngoại quốc và 200 thầy

1

giảng. Riêng ở Huế có 5 nhà thờP2F

Năm 1743, thừa sai Lefebre được cử làm giám mục Đàng Trong. Theo lệnh Giáo hoàng,

Lefebre triệu tập công đồng Huế bàn về việc thống nhất quan điểm về lễ nghi tôn giáo tồn tại

dai dẳng nhưng không đi đến kết quả. Năm 1750 Võ Vương ban hành việc cấm đạo, có 26 thừa

sai bị bắt rồi trục xuất. Lefebre trốn qua Cao Miên rồi mất ở đó năm 1760. Việc đạo ở Đàng

Trong phó mặc trong tay 3 linh mục và các thầy giảng bản xứ.

Thừa sai Piguel được cử thay thế Lefebre, nhưng không đến Đàng Trong được do chính

sách cấm đạo. Đến khi Võ Vương mất, Huệ Vương lên ngôi việc cấm đạo có phần nới lỏng,

Piguel mới đến Đàng Trong, đi thăm các xứ đạo sau 15 năm không có giám mục. Do sức yếu

Piguel trở về Cao Miên và mất năm 1771. Trước khi mất đã chỉ định thừa sai Pigneau de

Béhaine ( Bá Đa Lộc) làm phó giám mục Đàng Trong. Pigneau đến Đàng Trong từ 1767, được

1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 67

cử làm giám đốc chủng viện Hòn Đất. Đầu năm 1770 tình hình Hà Tiên bất ổn, Pigneau đem

chủng viện qua Pondicheri ( Ấn Độ). Năm 1774 được phong làm giám mục rồi trở về Hà Tiên

năm 1775.

Thời gian này ở Đàng Trong bùng nổ phong trào nông dân Tây Sơn, tình hình khá hỗn

loạn, Pigneau đã cứu thoát hậu duệ duy nhất của chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh và từ đó giữa

Pigneau và Nguyễn Ánh có mối quan hệ khắng khít cho đến khi Pigneau từ trần 1899. Trong

khoảng 20 năm đó Pigneau có vai trò đặc biệt trong việc tồn tại và trở lại ngôi vua của Nguyễn

Ánh

Cuộc truyền giáo trong ba thập kỷ cuối thế thế kỷ XVIII không được tiến triển nhiều vì

trong thực tế với khởi nghĩa Tây Sơn Đàng Trong bị chia cắt làm hai phần: miền Nam ( Nam

Kỳ sau này) và Bắc ( Trung Kỳ sau này). Từ 1775 Pigneau phong cho Labartette làm giám mục

phó phụ trách miền Trung. Song việc đạo không tiến triển do ở những vùng Tây Sơn kiểm soát

đều bị cấm đạo.

Tuy nhiên từ 1789 trở đi khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định thì việc đạo được khôi

phục ở những vùng đất Nguyễn Ánh kiểm soát.

Tính đến năm 1800, ở Đàng Trong có: 1 giám mục Thế diện Tông Tòa, 5 thừa sai, 15 linh

1

mục bản xứ, 50.000 giáo dânP3F

Khi chủ động cứu vớt Nguyễn Ánh vào khoảng 1777 và sau đó tích cực giúp đỡ Nguyễn

Ánh, Pigneau nuôi hi vọng Nguyễn Ánh sẽ cải giáo và Thiên chúa giáo hóa Việt Nam. Nhưng

điều mong đợi của Pigneau không hề xảy ra vì dù chịu ơn Pigneau nhưng Nguyễn Ánh không

thích đạo Thiên chúa, không chấp nhận đạo này vì những tín ngưỡng truyền thống của dân tộc

nhất là việc thờ cúng ông bà tổ tiên không được duy trì ở Thiên chúa giáo.. Trong nhiều lần

tranh luận Nguyễn Ánh cũng đã bày tỏ thái độ kiên quyết của mình với Pigneau. Trong sắc lệnh

về tôn giáo năm 1804 Gia Long công khai Thiên Chúa giáo là thứ dị đoan và ra lệnh “ …từ nay

trong các tổng , các làng có nhà thờ của Thiên chúa giáo cấm sửa chữa hoặc xây lại những ngôi

1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 67

nhà thờ bị hư nát, còn cất nhà thờ mới ở những nới chưa có tuyệt nhiên cấm hẳn”.

Tuy nhiên trong suốt thời gian ở ngôi Gia Long không hề ra một sắc chỉ cấm đạo nào và

Thiên Chúa giáo được bình yên. Tuy nhiên ở những năm này Giáo hội Pháp vừa trải qua cơn

bão táp của cách mạng tư sản nên không đủ sức cung cấp cho Việt Nam những giáo sĩ thừa sai

cần thiết. Năm 1812, ở phía Nam chỉ còn giám mục Labartette, cha chính địa phận Jarot và thừa

sai Audemar. Vì thế trong thời gian dài ấy việc truyền đạo không phát triển mà chỉ là thời gian

để Giáo hội Việt Nam củng cố và ổn định tổ chức để đối phó với những đợt cấm đạo ngày càng

gay gắt từ thời Minh Mạng trở đi.

Khoảng thời gian 20 năm dưới thời Minh Mạng, lực lượng truyền giáo được tăng cường.

Các giám mục như Labartette mất năm 1822 rồi Taberd nhận chức giám mục 1827 ở Trung và

Nam Kỳ, Havard nhận chức năm 1829, Retord được phong giám mục 1839, đều là những người

có năng lực và tận tụy.

Cùng thời gian này nhiều giáo sĩ thừa sai được cử đến tăng cường nhất là cho miền Trung

và miền Nam. Nhưng cũng trong thời gian này giáo hội ở Việt Nam chịu nhiều tổn thất do các

đợt cấm đạo của Minh Mạng.

Là người có học vấn và có những đóng góp trong việc trị nước, Minh Mạng coi việc đi đến

hạn chế Thiên chúa giáo cũng là cách để bình ổn trật tự xã hội và phòng ngừa sự dòm ngó của

phương Tây nhất là thực dân Pháp.

Ngày 12 – 02 – 1825 Minh Mạng cấm tất cả thương nhân nước ngoài để các giáo sĩ ở lại

Việt Nam sau mỗi lần đến buôn bán “Phải canh chừng mọi nẻo cửa khẩu trên núi, trên đường

bộ cũng như đường thủy, không cho một Tây Dương đạo trưởng nào có thể lén lút xâm nhập rồi

trà trộn trong dân, rao giảng những điều tà giáo ở trong nước”.

Cuối năm 1832 nhân vụ án Lê Văn Duyệt – nhân vật trước đó dám công khai lên tiếng bảo

vệ một số giáo sĩ mà ông cho là đã ít nhiều có công với triều đình. Minh Mạng liền hạ lệnh bắt

kế khai tất cả những người lính nào là tín đồ Thiên Chúa giáo. Kết quả có 12 ngưới bị bắt.

Ngày 6 – 1 – 1833 lần đầu tiên Minh Mạng ban chiếu chỉ cấm đạo với lời lẽ rất kiên quyết:

“Trẫm truyền cho tất cả những ai đã theo tà đạo, từ quan lại cho đến thứ dân, nếu còn biết sợ uy

quyền của Trẫm thì phải thật lòng cải tà quy chính. Các khanh đều phải kiểm soát đạo này trong

địa hạt của mình xem chúng có tuân thượng lệnh hay không và bắt chúng phải đạp lên cây thập

tự. Các nhà và quán của đạo này đều phải triệt hạ hết. Sau này nếu còn ai theo đạo thì phải

nghiêm trị. Trẫm muốn tiêu diệt tận gốc tà đạo. Đó là thành ý của Trẫm, thần dân phải nghe

theo và thi hành”.

Ngày 15-7-1834, nhân cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1832-1835) và của Nông Văn Vân (

1833-1835), Minh Mạng đã ban hành Thập điều huấn dụ. Trong đó điều thứ bảy có nội dung

phê phán rất gay gắt với Thiên Chúa giáo: “ Thứ đạo ấy quy tụ rất nhiều điều sai trái mà ta

không nên làm theo, đạo ấy phi lý và vô luân hơn mọi thú đạo xấu xa khác, vì đàn ông và đàn

bà chung sống như thú vật, đua nhau phạm tội ác, gieo rắc sự bất hòa, ngu muội đâm đầu vào

chốn cực hình và vào chổ chết, phá hoại lời giáo huấn chân chính và gây thương tổn cho nhân

bản”

Ngày 25 – 01 – 1836, Minh Mạng lại ban chỉ dụ cấm đạo lần thứ hai và lần này việc cấm

đạo còn có vẻ nghiêm ngặt hơn lần trước: “Trẫm cấm việc mở cửa biển cho tàu bè của bọn mọi

rợ vào, trừ cửa Hàn. Hễ bắt được bọn đạo trưởng của Tây Dương theo tàu vào nước thì phải

đem xử tử ngay. Hễ bắt được đạo trưởng nào của Tây Dương lén lút ở lại trong nước thì củng

phải đưa đi xử tử. Xử tử luôn những kẻ đã chứa chấp bọn đạo trưởng ấy trong nhà mình. Địa

phương nào có bọn đạo trưởng ẩn náo thì quan lại của địa phương ấy cũng bị xử tử vì đã không

cố sức tìm hết cách để bắt”

Ngày 18 – 01 – 1839, một lần nữa Minh Mạng lại ban chiếu cấm đạo. Lần này Minh Mạng

ra sức đốc thúc các quan địa phương phải ráo riết thực hiện những tờ chiếu cấm đạo mà Min h

Mạng đã ban hành trước đó

Thời Thiệu Trị (1841-1847) thái độ chung của triều Nguyễn đối với Thiên Chúa giáo có

phần dễ chịu hơn. Trong một giới hạn nhất định nào đó hiện tượng bài xích tuy vẫn tiếp tục

nhưng không khí căng thẳng đã giảm bớt rất nhiều.

Thời Tự Đức (1848-1883)là thời triều đình nhà Nguyễn ban hành nhiều chiếu chỉ cấm đạo

nhất. Hiện tượng này cò lẽ xuất phát từ hai nguyên nhân khác nhau. Một là thực dân Pháp đã đi

từ chỗ dòm ngó đến can thiệp rồi cuối cùng là nổ súng xâm lược nước ta. Giáo sĩ và cả giáo dân

bị nghi ngờ là lực lượng đã cam tâm hợp tác với thực dân Pháp nên bị triều đình trấn áp. Hai là

ngoài sự thiếu tỉnh táo và sâu sắc của triều đình, Tự Đức còn chịu áp lực mạnh mẽ của lối tư

duy cực đoan trong một bộ phận những giáo sĩ yêu nước. Chính họ là nhưng người đã hô ban

khẩu hiệu “Bình Tây sát tả” và một số chủ trương vội vã khác. Tất nhiên là còn có rất nhiều

nguyên nhân khác nữa nhưng người chịu trách nhiệm cao nhất và trước hết vẫn là Tự Đức.

Chiếu chỉ cấm đạo của Tự Đức ban hành khá nhiều nhưng tinh thần và mức độ cấm đạo thì

cũng tương tự nhau. Từ năm 1848 đến 1861 Tự Đức đã ban hành 6 chiếu chỉ cấm đạo

Với những sắc lệnh này đã làm các địa phận Thiên chúa giáo trong cả nước phải trải qua

giai đoạn sóng gió và thiệt hại lớn.

Sóng gió chỉ tạm yên khi triều đình Huế ký điều ước 1862, trong đó có hai khoản quy định

“ Những thần dân của hai quốc gia Pháp và Tây Ban Nha được phép truyền bá đạo Thiên chúa

trong vương quốc An Nam và các thần dân của vương quốc này, bất kể ai, muốn đi theo đạo

Thiên chúa giáo thì đều tự do và không có sự ép buộc, nhưng cũng không ai được ép buộc mọi

người đi theo đạo này nếu họ không muốn.”

Từ sau điều ước 1862, thái độ của vua Tự Đức đối với Thiên Chúa giáo có phần bớt gay

gắt. Một phần do thấy không đủ sức chống đối với Pháp ở Nam Kỳ, lại lo Bắc Kỳ rơi vào tay

các cuộc khởi nghĩa nên Tự Đức và đa số các đình thần chủ trương hòa hoãn với Pháp để tập

trung đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, mặc khác dùng biện pháp thương lượng với Pháp

để Pháp không mở rộng việc chiếm đóng sang các tỉnh Miền Tây Nam Kỳ. Do đó, vào dịp sinh

nhật của mình ngày 4 tháng 7 năm 1862 Tự Đức ra lệnh ân xá cho các giáo dân đang bị giam

cầm nhất là những người già, phụ nữ và trẻ em, trả lại cho họ nhà cửa, ruộng vườn, cho miễn

thuế thân, đồng thời vẫn còn giữ lại một số điều lệnh quản thúc các giáo sĩ thừa sai.

Năm 1863, Tự Đức cử phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp để thương lượng chuộc lại

ba tỉnh miền Đông. Được chính phủ Pháp tiếp đón hứa sẽ cử người sang thương lượng ngay tại

Huế. Đại tá Aubaret được cử cầm đầu phái đoàn của Pháp. Ngày 15 tháng 7 năm 1864, hai bên

đã tạm thời nhất trí một dự thảo điều ước mới thay thế cho điều ước 1862. Trong khi điều ước

mới đang chờ chính phủ Pháp phê duyệt thì ở kinh thành Huế, nhân kì thi năm đó đã nổ ra cuộc

phản đối kịch liệt của văn thân, sĩ tử, chống lại sự nhượng bộ của triều đình với Pháp.

Sợ rằng hành động của văn thân ảnh hưởng đến cuộc điều đình, Tự Đức ra lệnh đàn áp họ

và ngay sau đó ra chỉ dụ kêu gọi sự bình tĩnh của văn thân và sự hòa hợp lương giáo. Tháng 4

năm 1865, Tự Đức ra chỉ dụ chính thức cho phép các giáo sĩ được tự do truyền giáo và dân

chúng được tự do theo đạo.

Sự nhượng bộ của Tự Đức và triều đình đã khuyến khích cho dã tâm xâm lược của thực

dân Pháp, sau khi quân đội Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, củng cố lực lượng tấn

công ra Bắc, ép triều đình ký điều ước 1874, thừa nhận chủ quyền của pháp ở Nam Kỳ và công

khai thừa nhận Thiên chúa giáo được truyền bá tự do và được bảo vệ.

Trong thời gian này, tại giáo phận Sài Gòn do Lefebre làm gám mục và sau đó là giám mục

Miche được hoàn toàn yên tĩnh và phát triển. Giáo phận mở chủng viện Sài Gòn, trại cô nhi,

nhà thương Chợ Quán, mở trường dạy học ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, phát huy thanh thế

của đạo.

Riêng các giáo phận ở Bắc và Trung Kỳ còn gặp khó khăn do sự chống đối của văn thân,

những người chủ chiến chống lại sự nhượng bộ của triều đình và cho đến khi phong trào Cần

Vương bị đàn áp hoàn toàn mới được bình an.

Mặc dù trải qua rất nhiều sóng gió, cuộc truyền bá đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam cho

đến những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn đạt được những thành tựu. Các địa phận

lớn được hình thành, ở địa phận Sài Gòn ( Biên Hòa, Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ,

Sa Đéc, Long Xuyên, một phần Châu Đốc) do Hội thừa sai Paris cai quản, tòa giám mục đặt ở

Sài Gòn.

Sự truyền bá đạo Thiên chúa giáo đến thế kỷ XIX đã hoàn thành cơ bản, nó đã trở thành

một bộ phận của tôn giáo Việt Nam. Qua cuộc truyền đạo của Thiên chúa giáo đã chuyển tới

Việt Nam nhiều thành tựu của văn minh phương Tây, là con đường giao lưu của hai nền văn

minh Đông – Tây nhất là trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục. Sẽ thiếu công bằng và khách quan

nếu chúng ta phủ nhận hoặc không đề cập đến những đóng góp của cuộc truyền bá đạo Thiên

chúa giáo vào Việt Nam

1.1.2.Con đường buôn bán

Ngoài truyền giáo, việc buôn bán giữa Việt Nam với các nước phương Tây cũng đã mở ra

con đường tiếp xúc với phương Tây từ rất sớm.

Vào đầu thế kỷ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội Đại Việt mất dần sự thịnh

trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống cực khổ, các thế lực phong kiến tranh chấp lẫn nhau mở đầu

cho một giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt Nam. Năm 1572, Mạc Đăng Dung lập ra nhà

Mạc mở ra thời kỳ chia cắt đất nước, tình trang Nam – Bắc triều kéo dài

Đến cuối thế kỷ XVI, tiếp đó từ năm 1627 đến năm 1672 chiến tranh Trịnh – Nguyễn

không phân thắng bại, cuối cùng hai bên giảng hòa lấy sông Gianh làm ranh giới, đất nước tiếp

tục bị chia cắt là Đàng Ngoài và Đàng Trong cho đến cuối thế kỷ XVIII. Sự sụp đố của nhà Lê

và cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến đã làm thay đổi khá nhiều tình hình kinh tế và

đời sống của nhân dân. Trong khi Đại Việt bị chia cắt thì trên thế giới có nhiều biến động mới:

sự phát triển của công thương nghiệp ở Tây Âu dẫn đến sự kiện “phát kiến lớn về địa lý”,

thương nhân Châu Âu bắt đầu mở rộng buôn bán với các nước phương Đông. Đồng thời thương

nhân các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản,…cũng hoạt động rầm rộ. Vì vậy hình thành

sự giao lưu buôn bán quốc tế giữa Đại Việt với các nước. Nhu cầu hàng hóa tăng lên. Tác động

nhiều mặt của nông nghiệp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất thủ công và trao đổi buôn

bán.

Trong lĩnh vực thương nghiệp do nhu cầu thoát khỏi sự gò bó của nông nghiệp cũng như

do sự phát triển tự thân của nó (chủ yếu là ở Đàng Trong), do điều kiện giao thông đi lại thuận

tiện hơn trước, do nhu cầu của cuộc sống hằng ngày tăng lên nên sự trao đổi hàng hóa là cần

thiết. Mặt khác sự hình thành của luồng giao lưu buôn bán quốc tế cũng tác động mạnh đối với

Đại Việt. Thế kỷ XVI – XVIII việc buôn bán với nước ngoài phát triển rầm rộ. Bên cạnh các

thương nhân Giava, Trung quốc, Xiêm quen thuộc thì có sự xuất hiện ngày càng đông đảo của

thuyền buôn Nhật Bản, đặc biệt là thuyền buôn Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp.

Đông Ấn công ty Hà Lan được thiết lập ở Amsterdam vào năm 1602. Vào năm 1605, các

thương gia Hà Lan đã đặt chân lên cửa khẩu quan trọng ở miền Đông Nam Á và đã lập thương

quán trong quần đảo Nam Dương, trung tâm hoạt động của họ là Batavia tức là Giacacta ngày

nay.

Ngay từ đầu thế kỷ XVII đã có sự tiếp xúc giữa công ty Đông Ấn Hà Lan đã có sự tiếp xúc

với chúa Nguyễn. Năm 1617, chúa Nguyễn có gửi thư mới các công ty ở Patani và Ligor ( Mã

Lai) tới buôn bán trong các thị trường thuộc lãnh thổ Đàng Trong. Song các sự tiếp xúc đầu tiên

đã không được hòa hảo, các phương pháp buôn bán gần như cướp bóc của các con buôn Hà Lan

đã gây nên sự bất bình. Vì những sự xung đột đó mà mãi tới sau 1633 chúa Nguyễn mới cho

phép công ty đặt thương quán tại Qui Nhơn và tự do buôn bán ở Hội An. Tuy nhiên thương

quán này bị nghi ngờ của quan lại và sự cạnh tranh dữ dội bởi các nhà buôn Bồ Đào Nha và

Nhật Bản. Công ty đã muốn tìm một lĩnh vực hoạt động dễ dãi hơn. Vào năm 1637, công ty

được chúa Trịnh cho phép mở thương quán ở Phố Hiến, sau đó là Kẻ Chợ. Các điều kiện buôn

bán thuận lợi ở Đàng Ngoài đã khiến các công ty Hà Lan tuyệt giao với chúa Nguyễn vào năm

1638. Công ty còn giúp thuyền chiến cho chúa Trịnh trong cuộc chiến tranh với chúa Nguyễn

vào năm 1642. Đến 1700 công ty Đông Ấn chỉ còn buôn bán với Đàng Ngoài.

Đông Ấn công ty Anh được thiết lập ở Luân Đôn vào năm 1600 và có độc quyền buôn bán

ở Ấn Độ, Trung quốc và cả Viễn Đông. Trong quần đảo Nam Dương vì sự cạnh tranh quyết liệt

với thương nhân Hà Lan để kiểm soát những vùng sản xuất gia vị. Công ty đặt căn cứ ngay bên

cạnh Batavia. Các bước đầu của công ty Anh ở Việt Nam gặp thất bại: nhân vật được công ty

phái tới Hội An là Richard Carwarden để xin chúa Nguyễn cho phép thông thương vào năm

1613 đã bị dân chúng giết chết. Vài năm sau các sự cố gắng buôn bán với Đàng Ngoài cũng bị

cản trở bởi người Hà Lan và Bồ Đào Nha. Đến năm 1672, công ty Đông Ấn Anh mới được

phép mở một thương quán ở Phố Hiến, 5 năm sau công ty được buôn bán ở Kẻ Chợ nhưng

thương quán của công ty không được thịnh vượng lắm và các sự khó khăn buộc công ty đóng

cửa thương quán này vào năm 1697. Trước đó công ty cũng tìm cách thông thương với Đàng

Trong nhưng bị chúa Nguyễn từ chối.

Công ty Đông Ấn Pháp tới Việt Nam chậm nhất, Người Pháp đến buôn bán với Đại Việt

khá muộn. Cho đến giữa thế kỷ XVII, Viễn Đông đối với Pháp là lĩnh vực truyền bá Thiên

Chúa mà thôi. Nhưng để đưa các nhà truyền đạo tới đây, Pháp không thể nhờ thuyền của Anh

hay Bồ Đào Nha, còn đường bộ thì quá dài và đầy nguy hiểm. Vì thế sau khi hội Ngoại quốc

truyền giáo được thiết lập vào năm 1660 mới nẩy ra ý kiến thành lập một công ty buôn bán

Pháp, có mục đích trước tiên là để che chở các cố đạo tới nơi truyền đạo, sau là để buôn bán,

nhưng công ty này đã chết yểu và độc quyền của nó được giao phó cho công ty Đông Ấn Pháp.

Năm 1671 Đông Ấn công ty phái một thuyền buôn tới Đàng ngoài nhưng vì thiếu phương tiện,

đã không muốn lập thương quán, tuy được chúa Trịnh cho phép cất nhà ở Phố Hiến và ban cho

những đặc quyền giống như đặc quyền của các thương gia Hà Lan. Năm 1681, thuyền trưởng

Sappolanh được chúa Trịnh cho phép lập thương điếm và buôn bán ở phố Hiến. Năm 1682 một

chiếc tàu khác sang nhưng không được đón tiếp niềm nở như trước, nhân đó công ty Đông Ấn

Pháp tạm đình chỉ việc buôn bán với Đàng Ngoài, chỉ để lại các giáo sĩ truyền đạo ở Đàng

Trong, Năm 1740, Pháp mới chở thương nhân kiêm giáo sĩ Roavrơ đến thăm dò, Roavro đã gởi

về nước một bản báo cáo khá tỉ mĩ về chính trị, kinh tế, văn hóa của Đàng Trong rồi được bộ

Hải quân Pháp giao nhiệm vụ liên lạc buôn bán với Đàng Trong, xin làm một số việc, xin thuê

người, mua nô lệ và mua các thứ tơ lụa, lâm sản chở đi.

Nếu nhìn váo các hoạt động của các công ty Đông Ấn ở thế kỷ XVII thì chỉ có công ty

Đông Ấn Hà Lan là tương đối thành công. Tới sớm hơn công ty Hà Lan đã lợi dụng được tình

trạng phân tranh giữa Bắc Hà và Nam Hà. Cả chúa Trịnh và chúa Nguyễn.

Qua con đường truyền giáo và buôn bán Việt Nam đã có những tiếp xúc đầu tiên với

phương Tây, sự tiếp xúc này đã đặt Việt Nam trước thách thức thức rất lớn của thời đại đó là

đảm bảo nền độc lập của quốc gia, bởi vì mục đích chính của cả hai con đường trên là nhằm

thăm dò thị trường, tạo tiền đề cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam sau này.

1.2. Thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ

Thế kỷ XIX đã đánh dấu sự thắng lợi chủa chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu và châu Mĩ. Ở

Pháp đầu thế kỉ XIX đã tiến hành cách mạng công nghiệp sau khi cuộc chiến tranh với các nước

Châu Âu kết thúc vào năm 1815. Vào khoảng thời gian từ 1850 – 1870 cách mạng công nghiêp

phát triển mạnh và đưa nền kinh tế Pháp vươn lên mạnh mẽ, công nghiệp đứng hàng thứ hai

trên thế giới sau nước Anh. Bộ mặt Pari và các thành phố ở Pháp thay đổi rõ rệt.

Ở Đức cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đến giữa thế kỷ

XIX tốc độ phát triển của Đức đạt mức kỷ lục.

Cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt các nước tư bản: nhiều trung tâm công

nghiệp mới và thành thị đông dân xuất hiện. Sản xuất bằng máy đã nâng cao năng suất lao động

và ngày càng xã hội hóa trình độ lao động của các nước tư bản.

Trong thập niên 50 – 60 của thế kỷ XIX nhiều cuộc cách mạng tư sản đã diễn ra dưới nhiều

hình thức khác nhau ở Châu Âu và Bắc Mỹ như thống nhất ở Đức, Italia. Cải cách nông nô ở

Nga, nội chiến ở Mĩ… Điều này cũng khẳng định sự toàn thắng của phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ. Đến khoảng 30 năm cuối

thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất ở các nước tư bản phương Tây đã đạt đến trình độ phát triển

cao. Nhờ những phát minh trong lĩnh vực Vật lí, Hóa học, Sinh học…Cùng với những phát

minh khoa học những sáng kiến về kỹ thuật trong thời kỳ này mở ra khả năng rộng lớn trong

việc thúc đẩy sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu mới, sản xuất công nghiệp đã tăng lên

nhanh chóng ở các nước tư bản.

Những thành tựu khoa học – kỹ thuật cuối thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa thực

dân cũ chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Việc sử dụng các nguồn năng lượng mới cùng

với những tiến bộ kỹ thuật tạo ra khả năng xây dựng các ngành công nghiệp trên quy mô lớn.

Để tập trung nguồn vốn lớn đủ sức cạnh tranh, các nhà tư bản thành lập các công ti độc quyền.

Các công ti nhỏ bị thu hút vào công ti lớn. Nhiều tổ chức độc quyền ra đời, ngày càng lũng đoạn

đời sống kinh tế ở các nước tư bản.

Sự tập trung sản xuất cũng diễn ra trong lĩnh vực ngân hàng. Một vài ngân hàng lớn khống

chế mọi hoạt động kinh doanh trong cả nước. Với số vốn khổng lồ, nhiều chủ ngân hàng không

chỉ là người cho vay mà còn có thể tham gia vào hoạt động của các xí nghiệp, tạo nên tầng lớp

tư bản tài chính. Các nhà tư bản tài chính còn đẩy mạnh việc xuất khẩu tư bản, bằng cách

chuyển vốn ra đầu tư sang các nước kém phát triển hoặc thuộc địa để khai thác nguyên liệu, sử

dụng nhân công giá rẻ hoặc cho vay để thu được nhiều lãi.

Nhu cầu mở rộng thị trường khiến chủ nghĩa thực dân đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Các

thuộc địa có vai trò đặc biệt đối với các nước đế quốc, là nơi đầu tư và tiêu thụ hàng hóa của

chính quốc, nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẽ mạt, cung cấp binh lính cho các cuộc

chiến tranh…và với sự chuẩn bị từ trước đó qua công cuộc truyền giáo và buôn bán chính

quyền thực dân đã vươn tầm mắt đến các nước Châu Á, châu Phi và Mỹ La Tinh – nơi mà

phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu hơn các nước phương Tây và Việt Nam giữa thế kỷ

XIX cũng nằm trong bối cảnh nhạy cảm đó.

Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền,

đạt được một số thành tựu nhất định về kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ

phong kiến đang có những biểu hiện khủng hoảng.

Từ Gia Long đến Minh Mạng đều duy trì bộ máy chính quyền nhà nước quân chủ chuyên

chế tuyệt đối, tập trung cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu. Mọi quyền hành đều tập trung

vào tay nhà vua, thực chất là tiếp tục thiết chế quân chủ thời Lê sơ nhưng được nâng lên mức

cao hơn, Mỗi tỉnh đều có Tổng đốc, tuần phủ cai quản cùng hai ti, hoạt động theo kiểu điều

hành của triều đình. Các phủ, châu, huyện xã vẫn như cũ. Chia cả nước thành nhiều tỉnh, mỗi

tỉnh đều có Tổng đốc, tuần phủ cai quản cùng hai ti, hoạt động theo kiểu điều hành của triều

đình. Các phủ, châu, huyện xã vẫn như cũ.

Về kinh tế, đầu thế kỉ XIX, khi đất nước tạm trở lại yên bình trong thống nhất. Nền kinh tế

tuy có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng gặp khômg ít khó khăn. Nông nghiệp lạc hậu,

không có gì đổi mới, ruộng đất hoang hóa nhiều. Ngay từ năm 1804, nhà nước đã ban hành lại

chính sách quân điền nhưng ruộng đất công chỉ còn khoảng 20 % tổng diện tích ruộng đất. Hơn

nữa, theo chính sách, việc chia ruộng phải ưu tiên cho quan lại, quý tộc và binh lính. Nhà nước

khuyến khích khai hoang bằng nhiều hình thức làm diện tích ruộng đất có tăng thêm nhưng

không nhiều.

Người nông dân ra sức tăng gia sản xuất, duy trì cuộc sống làng quê , hầu hết đều không

có hoặc ít ruộng đất và chịu bóc lột nặng nề.

Thủ công nghiệp cũng có khởi sắc nhưng do sự khắc khe của chế độ công tượng nên bị hạn

chế nhiều.

Việc buôn bán trong nước phát triển chậm chạp và mang tính địa phương. Thuyền buôn đi

xa bị đánh thuế nhiều lần. Hơn nữa, hàng năm nhà nước trưng dụng một số thuyền tư nhân để

chuyên chở. Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương.

Các đô thị như Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà đều tàn lụi. Thăng Long vẫn còn giữ các phố

phường nhưng buôn bán sút kém.

Với việc duy trì chế độ chuyên chế với mức độ tập trung cao, quyền lực tập trung cao độ

vào tay hoàng đế cùng với duy trì quan hệ sản xuất phong kiến, chính sách bế quan tỏa cảng đã

làm cho tiềm lực quốc gia bị suy yếu nghiêm trọng, giảm sức đề kháng trước sự dòm ngó của

chủ nghĩa thực dân phương Tây. Tạo điều kiện cho thực dân phương Tây xâm lược nước ta, mở

màng bằng chiến cuộc ở Đà Nẵng năm 1858 của thực dân Pháp.

1

Người Phương Tây, đầu tiên là các giáo sĩ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, đã biết đến Việt

P nhưng không

Nam từ thế kỷ XVI. Đến thế kỷ XVII, người Anh đã định chiếm đảo Côn LônP4F

thành.

Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc truyền đạo

Thiên Chúa để chuẩn bị tiến hành xâm lược.

Trong lịch sử, đã từng có sự dính líu giữa Nguyễn Ánh và người Pháp thông qua một cố

đạo người Pháp đó là giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine ), Nguyễn Ánh cầu cứu các thế

lực nước ngoài để khôi phục thế lực. Giám mục Bá Đa Lộc đã nắm cơ hội đó, tạo điều kiện cho

tư bản Pháp vào Việt Nam.

Đến thế kỷ XIX nước Pháp phát triển mạnh trên con đường tư bản chủ nghĩa, càng ráo riết

tìm cách đánh chiếm Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực Châu Á.

Năm 1857, Napôlêông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta, tiếp

đó cho sứ quán tới Huế đòi được tự do buôn bán và truyền đạo. Cùng lúc, Bộ trưởng Bộ Hải

quân và Thuộc địa tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương và ra lệnh cho Phó đô đốc

hải quân Pháp đành Việt Nam ngay sau khi chiếm được Quảng Châu ( Trung Quốc)

Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31/8/1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha

với khoảng 3000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiến thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa

biển Đà Nẵng. Âm mưu của Pháp là đánh chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế,

nhanh chóng buộc nhà Nguyễn đầu hàng.

Sáng 1/9/1858, Pháp gởi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ.

Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn

Trà.

Quân dân ta đã anh dũng đánh trả quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của Pháp, sau đó

tích cực thực hiện “ vườn không nhà trống” gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. liên quân Pháp

– Tây Ban Nha bị cầm chân suốt năm tháng ( từ cuối tháng 8/1858 đến đầu tháng 2/1859) trên

1 Nay thuộc huyện Côn Đảo ( Bà Rịa – Vũng Tàu)

bán đảo Sơn Trà. Về sau Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược.

Khí thế kháng chiến sôi sục trong nhân dân cả nước. Cuộc kháng chiến của quân dân ta đã

bước đầu thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.

Thấy không thể chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định - nơi có vị

trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt. Ngày 9 – 2 – 1859, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo

sông Sài Gòn lên Cần Giờ. Do vấp phải sức chống cự quyết liệt của quân dân ta nên mãi tới

16/2/1859 quân Pháp mới đến Gia Định. Ngày 17/2, chúng nổ súng đánh thành. Quân đội triều

đình tan rã nhanh chóng. Trái lại các đội dân binh chiến đấu rất dũng cảm, ngày đêm bám sát

địch để gây rối và tiêu điệt chúng. Cuối cùng, quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi

mọi kho tàng và rút quân xuống tàu chiến. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” một lần nữa bị

thất bại, buộc địch phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”.

Từ đầu năm 1860 đến đầu năm 1863 cục diện chiến trường có sự thay đổi có lởi cho ta

nhưng triều đình Huế đã bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt Pháp, để rồi cuối cùng một số tỉnh Nam Kỳ đã rơi

vào tay Pháp như Định Tường ( 12/4/1861), Biên Hòa ( 18/2/1861), Vĩnh long ( 23/3/1862),

ngày 5/6/1862 triều đình Huế kí với Pháp điều ước Nhâm Tuất nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh

miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa ).

Đồng thời, để thực hiện những điều đã cam kết với Pháp trong hiệp ước 1862, triều đình

Huế ra lệnh giải tán nghĩa binh chống Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa.

Mặc cho sự thỏa hiệp của triều đình phong trào kháng Pháp trong nhân dân Nam Kì vẫn

diễn ra sôi nổi như khởi nghĩa Trương Định, Trần Thiện Chính, Lê Huy…chiến đấu rất anh

1

dũng, lập nhiều chiến công. Ngày 10/2/1861, đội quan của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm

P làm nức lòng nhân dân ta. Sau đó là

tàu chiến Hi Vọng của địch trên sông Vàm Cỏ ĐôngP5F

phong trào “ tị địa” diễn ra rất sôi nổi, khiến cho Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ

chức, quản lí các vùng đất mới chiếm được.

Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc tổ chức bộ máy cai

trị và chuẩn bị phạm vi chiếm đóng.

Năm 1863, Pháp dùng vũ lực áp đặt nền bảo hộ trên đất Campuchia. Sau đó chúng vu

khống triều đình Huế vi phạm các điều khoản đã cam kết trong hiệp ước 1862 yêu cầu triều

1 Đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo

đình giao nốt cho chúng quyền kiểm soát cả ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Trước yêu cầu này, triều

đình vô cùng lúng túng và lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, trong vòng 5 ngày từ 20

đến 24/6/1867, thực dân Pháp đã chiếm gọn ba tỉnh miền Tây Nam Kì ( Vĩnh Long, An Giang,

Hà Tiên) mà không tốn một viên đạn.

Khi ba tỉnh miền Tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, phong trào kháng chiến trong nhân dân

vẫn tiếp tục dâng cao. Một số văn thân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biển

ra vùng Bình Thuận nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số khác ở lại bám đất, bám dân,

tiếp tục tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp. Tiêu biểu cho cuộc kháng chiến chống Pháp của

nhân dân Nam Kỳ là cuộc kháng chiến của Trương Quyền. Năm 1867, tại vùng dọc theo sông

Cửu Long có căn cứ Ba Tri ( Bến Tre) do hai anh em Phan Tôn, Phan Liêm, Nguyễn Hữu Huân

ở Tân An, Thân Văn Nhíp ở Mĩ Tho, anh em Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tự ở Tân An, Phan Tòng

ở Ba Tri, Lê Công Thành, Phan Văn Đạt, Phạm Văn Đồng, Âu Dương Lân ở Vĩnh Long, Long

Xuyên, Cần Thơ. Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực.

Ngay từ khi Pháp đặt chân đến Gia Định đến khi triều đình kí các hòa ước giao Nam Kì

Lục Tỉnh cho Pháp phong trào kháng chiến của nhân dân không lúc nào ngừng. Tuy nhiên sau

hơn hai mươi năm nhân dân Nam Kì đã anh dũng kháng chiến chống lại Pháp nhưng cuối cùng

với sự bạc nhược dẫn tớii thái độ thỏa hiệp của triều đình thì cuộc kháng chiến của nhân dân

Nam Kỳ đã lần lượt thất bại, cuộc xâm lược Nam Kỳ của Pháp đã hoàn tất. Từ năm 1967, Pháp

từng bước thiết lập bộ máy cai trị, thực hiện các chính sách văn hóa – giáo dục trên vùng đất

thuộc địa đầu tiên này.

1.3. Nội dung văn hóa trong chính sách đô hộ của Pháp đối với Nam Kỳ

1.3.1 Giai đoạn 1867-1897

Từ khi Pháp xâm lược Nam Kì rồi mở rộng ra thôn tính cả nước ta, nền giáo dục Việt Nam

chịu nhiều biến động to lớn.

Ở Nam Kì chỉ 5 năm sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông đã bỏ thi chữ Nho. Việc dạy

chữ Pháp và Quốc ngữ đã có ở các nhà thờ trước đó, bí mật hay nửa công khai do các nhà

truyền giáo bí mật giảng dạy cho các con chiên từ những thế kỉ trước, đến 1867 trở đi được

chính thức thi hành theo chế độ chính quy. Những trường thông ngôn, tham biện đã mở ra, đào

tạo người làm việc cho Pháp. Các trường học chữ Nho vẫn còn, âm thầm ở các vùng Pháp

chiếm hay gắng gượng ở các vùng tị địa. Các trường học phổ thông theo chương trình Pháp do

chính quyền thực dân hay do giáo hội mở ra thêm nhiều, thay đổi hẳn diện mạo giáo dục của

nhà nước Việt Nam phong kiến.

Chính phủ thực dân, theo đà tiến chung của thế giới, theo nhu cầu phục vụ cho quyền lợi

của thực dân, không thể không cải cách giáo dục. Ở Nam Kì là vùng đất đầu tiên Pháp chiếm

được đã trở thành thí điểm của những cải cách giáo dục của các nhà cầm quyền. Mở trường và

định ra chương trình học mới. Song mục đích của Pháp không phải để khai hóa, để mở mang

dân trí cho Nam Kì nên trong giáo dục chính quyền cai trị đã tiến hành cải cách theo kiểu cầm

chừng, nhỏ giọt, chế biến và uốn nắng nội dung giáo dục.

Từ 1861 – 1867, một số trường đã mở ra ở Nam Kì, với chủ trương của Charner, trường Bá

Đa Lộc ( Pigneau de Béhaine) được mở ra vào ngày 21-9-1861 để đào tạo thông dịch viên.

Ngoài thông dịch viên Pháp còn cần những người trí thức làm tay sai cho mình trong các ngành

kinh tế, chính trị. Nhưng chủ trương trên của Charner vấp phải khó khăn do sự bất hợp tác của

những người trí thức Nho học. Sau Bonard cho khôi phục lại chế độ khoa cử ở các tỉnh đã

chiếm được nhưng vẫn không thực hiện được.

Trước tình hình đó, thực dân Pháp chủ trương phổ biến sâu rộng chữ Quốc ngữ và chữ

Pháp. Ngày 16-7-1864 Pháp ra nghị định thành lập các trường tiểu học ở các tỉnh để dạy chữ

quốc ngữ và dạy toán. Đến năm 1866 Pháp mở được 47 trường với tổng số học sinh là 1238.

Từ 1868-1885, Pháp có những thay đổi về tổ chức và nội dung giáo dục ở Nam Kì.

Ngày 10-7-1871, Pháp cho thành lập trường sư phạm thuộc địa để đào tạo giáo viên và

nhân viên công sở. Học chữ Pháp là chính, chữ quốc ngữ và chữ Nho là phụ. Những giáo viên

tốt nghiệp trường này sẽ tỏa ra các trường tiểu học được lập ở các thị trấn.

Năm 1873, Pháp cho mở trường hậu bổ nhằm đào tạo những người thanh tra dân sự cho

Pháp. Cũng trong năm này Pháp cũng cho thay thế các trường chữ Nho thành trường mới gọi là

trường quốc ngữ, dạy chữ quốc ngữ, chữ Pháp và một số ít kiến thức khoa học.

Năm tháng 11 – 1874 ban hành qui chế giáo dục – đây là bản qui chế đầu tiên, cấm các

trường tư không được mở cửa nếu không được sự cho phép của nhà cầm quyền Pháp đồng thời

bản qui chế này chia nền giáo dục ra làm hai bậc: tiểu học và trung học. Mặc dù đã ra qui chế

nhưng kết quả giáo dục vẫn tăng lên không nhiều. Bản qui chế năm 1874 được thay thế bằng

qui chế mới do La Font ký ngày 17 – 3 – 1979. Theo đó tổ chức giáo dục cũ được thay thế

bằng tổ chức giáo dục mới chia làm ba cấp: cấp I ( trường tổng), cấp II ( trường quận ) và cấp

III ( trường trung học).

Le Myre de Villers đồng ý với nghị định của La Font và cho bãi bỏ hoàn toàn chữ Nho và

đưa giáo viên từ Pháp sang để dạy chữ Pháp nhưng vẫn không thu được kết quả như mong

muốn.

Trong 20 năm đầu tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ, người Pháp đã tìm mọi cách từ dò dẫm

từng bước đi đến chỗ đưa ra nhiều qui chế về giáo dục, chính quyền Pháp đã tập trung vào hai

mục tiêu cơ bản: một là đào tạo thông dịch viên và nho sĩ phục vụ cho đội quân xâm lược và bộ

máy chính quyền trong các vùng đất mới chiếm đóng, hai là tổ chức một nền giáo dục để phổ

cập để truyền bá chữ Pháp, chữ Quốc ngữ và xóa bỏ chữ Hán. Người Pháp đã thất bại trong

công cuộc truyền bá nền văn minh châu Âu mà họ tưởng rằng rất đơn giản và dễ dàng bởi vì

người dân và các sĩ phu Nam Kì bất hợp tác với nền giáo dục của chính quyền thực dân – người

đã cướp đi nền độc lập trên quê hương, đất nước của họ, trường học của Pháp luôn thiếu học

sinh, nhân dân Nam Kì và các sĩ phu đã đấu tranh bằng nhiều hình thức để bài trừ ảnh hưởng

của Pháp và chiến đấu cho nền giáo dục dân tộc độc lập. Sau hiệp ước Pa – tơ – nôt , Pháp cử

Paul Bert sang làm thống sứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Song song với việc mở rộng củng cố và mở

rộng bộ máy cai trị, về phương diện văn hóa cũng được chú ý hơn, thành lập cơ quan giáo dục

nhằm cải tổ và phát triển giáo dục, do đó giáo dục đã bước vào thời kỳ mới.

1.3.2 Giai đoạn 1897 – 1914

Sau một phần tư thế kỷ đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp đã đặt viên gạch đầu tiên cho

nền giáo dục mới.

Sau khi đã đàn áp xong các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương tiêu biểu là khởi

nghĩa do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo ( 1885 – 1896) Pháp bắt đầu khai thác nước

ta với quy mô lớn. Mặt khác họ bắt đầu củng cố bộ máy chính quyền phong kiến làm trung gian

giữa nhân dân và nhà nước bảo hộ, giáo dục trong giai đoạn này là để phục vụ cho mục đích đó.

Từ tháng 2/1897 đến tháng 3/1902 Paul Doumer toàn quyền Đông Dương. Để phục vụ cho

công cuộc khai thác, Paul Doumer đẩy mạnh giáo dục hơn nữa. Năm 1898, Paul Doumer lập

trường Viễn Đông ( Ecole francaise d’ Extrême Orient) nhằm mục đích lãnh đạo cuộc cải cách

giáo dục khi thời cơ đến. Cũng trong năm này, Paul Doumer ra một nghị định là trong chương

trình các kì thi Hương phải có môn quốc ngữ và chữ Pháp nhưng chưa bắt buộc.

Tiếp theo Paul Doumer là toàn quyền Paul Beau đã tích cực đẩy mạnh công tác giáo dục

hơn, mở đầu thời kỳ gọi là “chinh phục tinh thần” của thực dân Pháp và quyết định từ 1903 chữ

quốc ngữ và chữ Pháp phải bắt buộc trong các kì thi trường Nam. Tháng 11/ 1905 toàn quyền

Paul Beau ra nghị định thành lập Nha học chính Đông Dương để nghiên cứu, sửa đổi chương

trình giáo dục .

Năm 1906 toàn quyền Paul Beau đưa ra kế hoạch cải cách giáo dục mạnh mẽ hơn nữa qua

các nghị định nhày 8-3 và 6-5-1906, chủ trương của Paul Beau thực hiện ở Nam Kì và Bắc Kì,

còn ở Trung Kì Pháp để cho vua quan nhà Nguyễn thực hiện.

Ngày 3/3/1906, toàn quyền Paul Beau ra nghị định thành lập Hội đồng hoàn thiện nền giáo

dục bản xứ nhằm cải tổ lại nền giáo dục bản xứ, lập lại các trường chữ Nho ở Nam Kỳ, đưa

môn tiếng Pháp và khoa học thường thức vào kỳ thi Hương ở Bắc và Trung Kỳ. Duyệt các sách

giáo khoa và từ điển…Ngày 15/5/1906 Hội đồng hoàn thiện giáo dục Nam Kỳ được thành. Hội

đồng hoàn thiện giáo dục Nam Kỳ cùng với Hội đồng hoàn thiện giáo dục ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ,

Lào và Cao Miên sẽ trực tiếp làm việc với Ủy ban thường trực của Hội đồng hoàn thiện nền

giáo dục bản xứ toàn Đông Dương.

Tháng 4/ 1913 Hội đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ đã quyết định bãi bỏ hẳn việc học chữ

Hán trong các trường Pháp – Việt ở hệ cấp I và cấp bổ túc.

Ngày 30/6/1914, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thiết lập ở Đông Dương một loại văn bằng giáo

dục tương đương với Tú Tài phần I, phần II của Pháp dành riêng cho con em quan cai trị và

kiều dân Pháp.

Như vậy đến những năm cuối của chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã áp dụng

cho Việt Nam hai nền giáo dục: nền giáo dục cũ có cải cách và nền giáo dục mới gọi là giáo dục

Pháp – Việt. Cùng với hai nền giáo dục này đã xuất hiện hai lớp người tân học và cựu học. Hai

lớp người này đã bài xích lẫn nhau. Hiện tượng song song tồn tại hai nền giáo dục như trên là

điều bất hợp lý và bị dư luận không tán thành.

1.3.3 Giai đoạn 1914-1918

Ngày 1/8/1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ ở Châu Âu, rồi nhanh chóng lan ra

khắp thế giới, lôi cuốn vào vòng chiến hầu hết các nước đế quốc và thuộc địa. Nước Pháp tham

chiến vì vậy phải huy động tối đa sức người, sức của trong nước và các thuộc địa để cung cấp

cho nhu cầu chiến tranh. Việt Nam cũng chịu chung số phận đó.

Chiến tranh đã làm thay đổi chính sách của Pháp đối với Việt Nam về mọi mặt để phục vụ

trực tiếp cho mục đích tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực trong nhân dân ta, cung cấp cho

nhu cầu ngày càng lớn và cấp bách của chiến tranh đế quốc.

Chính sách về văn hóa –tư tưởng trong chiến tranh của Pháp không năm ngoài mục đích

trên. Trong chính sách giáo dục, chính quyền Đông Dương gắn việc đào tạo trong nhà trường

với yêu cầu phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc đang diễn ra ngày ác liệt. Các trường kỹ thuật

được đặc biệt chú trọng, như các trường kĩ nghệ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa. Các trường

này được tăng ngân sách, bổ sung thêm giáo viên chuyên môn người Pháp. Ngoài việc đào tạo

thợ kĩ thuật theo chương trình đã định, nhà trường còn mở các khóa đào tạo cấp tốc để đưa sang

làm việc tại các công binh xưởng ở Pháp.

Từ năm 1915, chính quyền Đông Dương mở rộng các trường tiểu học Pháp – Việt ở các

tỉnh lị, tăng cường các trường sư phạm ở Sài Gòn để đào tạo công chức người Việt cho bộ máy

chính quyền. Hệ thống các trường tiểu học thay thế dần dần nền Hán học cũ. Năm 1917, Pháp

cho mở các trường nữ học Sài Gòn.

Cuối năm 1917, sau khi bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut đã đề nghị

ban hành “Học chính tổng quy” để cải cách hệ thống giáo dục. Đây là cuộc cải cách lần thứ hai

tiếp theo cải cách của tòan quyền Paul Beau vào năm 1906. Trong thời kì thực hiện cải cách

giáo dục lần hai ( 1917 – 1929), thực dân Pháp chủ trương nhanh chóng xóa bỏ hoàn toàn nền

giáo dục Nho học.

Song song với chủ trương trên chính quyền Đông Dương bắt đầu mở rộng trường Đại học

để đáp ứng nhu cầu của nền thống trị thực dân trong hoàn cảnh mới. Năm 1917, toàn quyền

Albert Sarraut lập “Đại học cục” nhằm mở rộng trường Đại học phổ thông để khai dẫn cho kẻ

thượng lưu Việt Nam biết văn minh học thuật quý quốc” và gây cơ sở truyền bá thuyết Pháp –

Việt hợp tác.

Để thủ tiêu và thay thế các trường đào tạo quan lại theo kiểu phong kiến, thực dân Pháp đã

giải tán hai trường “ Sĩ hoạn” ở Hà Nội, “ Hậu bổ” ở Huế, Sài Gòn năm 1917 và quyết định

thành lập trường Pháp Chính để đào tạo các quan lại cai trị cho chính quyền thuộc địa ở Việt

Nam và Đông Dương. Trường Pháp Chính trong Đại học cục làm nhiệm vụ đào tạo “ ngạch

quan cai trị” làm việc trong các công sở thực dân hoặc Nam triều.

Sau khi có các bước cải cách trên, tháng 5/1918 chính quyền thuộc địa ban hành “ Học

chính tổng quy” được xem như là văn bản pháp lí chính thức của nền giáo dục toàn Liên bang.

Chính quyền Đông Dương cũng mở thêm các trường thực nghiệm nông nghiệp ở Bến Cát (

Nam Kì), khoa Cao Đẳng nông nghiệp ở “Đại học cục” để phục vụ cho việc khai thác nông

nghiệp Đông Dương sau chiến tranh. Đồng thời với các công việc trên, “ Phổ thông giáo khoa

thư xã” cũng được thành lập có nhiệm vụ ra tạp chí Học báo, cho biên soạn sách giáo khoa các

trường tiểu học sơ đẳng, tiểu học v.v…

Nhìn chung chính sách của chính quyền thực dân trong những năm chiến tranh thế giới thứ

nhất được thể hiện nhất quán trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Chính sách

mới của Pháp đã tác động mạnh và làm thay đổi đến mọi mặt đời sống của nhân dân Đông

Dương nói chung và Nam Kì nói riêng.

Chính sách mới đó là kết quả của sự tính toán xảo quyệt của chủ nghĩa thực dân Pháp đối

với nhân dân thuộc địa.

1.3.4 Giai đoạn 1918-1939

Dù là nước thắng trận trong chiến tranh nhưng Pháp bước khỏi cuộc chiến với những tổn

thất nặng nề về kinh tế và tài chính. Chiến tranh đã phá hoại hàng loạt các nhà máy, cầu cống,

đường sá và làng mạc trên khắp cả nước. Nhiều ngành sản xuất công nghiệp bị đình trệ, hoạt

động thương mại bị sa sút nghiêm trọng. Sau chiến tranh, Pháp đã trở thành con nợ lớn, trước

hết là của Mĩ. Số nợ quốc gia vào năm 1920 đã lên đến 300 tỉ Phrăng.

Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng đã tiêu hủy hàng triệu Phrăng đầu tư của Pháp ở nước

ngoài. Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, thị trường đầu tư lớn nhất của

nước Pháp tại châu Âu cũng không còn nữa, thêm vào đó là nạn lạm phát, sự leo thang của giá

cả và đời sống khó khăn làm nổi dậy các phong trào đấu tranh của các tầng lớp lao động Pháp

chống lại chính phủ.

Trước tình hình đó để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục nền kinh

tế, chính quyền Pháp một mặt ra sức tìm cách thúc đẩy sản xuất trong nước, mặt khác tăng

cường đầu tư khai thác thuộc địa, trước hết và chủ yếu ở các nước Châu Phi và Đông Dương.

Trong đợt khai thác lần hai ở Đông Dương Pháp tiến hành đầu tư ồ ạt vào các ngành kinh

tế Việt Nam với tốc độ nhanh hơn và quy mô rộng lớn hơn đợt khai thác lần thứ nhất làm biến

đổi kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam. Cùng với sự biến đổi kinh tế - xã hội, tình hình

giáo dục, đời sống tư tưởng, văn hóa và tâm lí ở Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến.

Năm 1923, M. Merlin thay thế Albert Sarraut lên làm Toàn quyền Đông Dương đã có một

số thay đổi và điều chỉnh trong chương trình cải cách giáo dục Việt Nam. Theo quy định mới

của chính quyền M. Merlin. Từ 1924 trở đi với chương trình “bình diện” nhằm mục đích hạn

chế việc học của thanh niên và học sinh Việt Nam, học sinh sau khi học xong ba năm bậc sơ

đẳng phải thi lấy bằng Sơ học yếu lược, rồi mới được lên lớp trên, học hết hai năm nữa lại thi

lấy bằng Tiểu học bổ túc bản xứ, trước cách mạng thường được gọi là “ Rime”. Nhưng ở ba

năm học sơ đẳng này, học sinh phải học bằng tiếng Pháp rất nhiều nên trẻ em nông thôn không

thể học được.

Để củng cố và hoàn chỉnh một bước giáo dục trung học, năm 1927 Toàn quyền Đông

Dương ra nghị định đặt thêm bằng tú tài bản xứ, tức bằng trung học đệ nhị cấp. Bằng tú tài bản

xứ được coi tương đương Tú tài thời đó quen gọi là Tú tài Tây học theo đúng chưong trình dạy

bên Pháp. Những người có bằng Tú tài bản xứ có thể thi vào các trường cao đẳng, đại học ở

Đông Dương và cả Pháp. Bên cạnh các trường phổ thông chính quyền thực dân còn chú ý xây

dựng các trường chuyên nghiệp và dạy nghề như các trường Bách công, Bách nghệ. Ở một số

thành phố lớn ở Nam Kì các học sinh có bằng tốt nghiệp tiểu học được quyền thi vào các trường

này.

Cùng với trường Pháp Chính, trong thời kì này một số trường Cao Đẳng khác được thành

lập. Giáo dục chuyên nghiệp cũng được chú ý hơn trong thời kì này nhằm mục đích đào tạo thợ

chuyên môn hoặc đốc công, đáp ứng cho nhu cầu mở rộng công nghiệp của Pháp ở Việt Nam .

Như vậy so với đầu thế kỷ XX, nền giáo dục Việt Nam trong những năm sau chiến tranh

thế giới thứ nhất có nhiều thay đổi về hệ thống tổ chức, cơ cấu ngành nghề và nội dung đào tạo

1.3.5 Giai đoạn 1939-1945

Cuộc khủng hoảng kinh tế giới 1929 – 1933 đã dẫn đến sự hình thành phe chủ nghĩa phát

xít và nguy cơ chiến tranh do chủ nghĩa phát xít gây ra. Ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan

mở đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 3/9/1939 Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến

tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lợi dụng tình thế chiến tranh, Chính phủ Đaladier mạnh tay thi

hành hàng loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở

thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp bị tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật.

Tháng 7/1939, J. Catroux được cử làm toàn quyền Đông Dương.Trong cuộc chiến tranh

Pháp chỉ chú ý khai thác bóc lột nhân dân Đông Dương về kinh tế nên chính sách văn hóa –

giáo dục trong giai đoạn này không được chú ý nhiều. Năm 1940 , J. Decoux được cử làm toàn

quyền Đông Dương thay J. Catroux. J. Decoux tiến hành cải cách bộ máy cai trị, tăng cường lực

lượng cảnh sát, mật thám nhằm phát xít hóa bộ máy cai trị nhân dân Đông Dương.

Trong chính sách văn hóa J. Decoux hô hào khẩu hiệu “ Pháp Việt phục hưng”, J. Decoux

cho rằng ở Việt Nam cần phải kiến thiết một xã hội dựa trên cơ sở giá trị của những truyền

thống dân tộc, họ chủ trương “ trung thành tuyệt đối với tư tưởng mới của cuộc cách mạng quốc

gia về giáo dục”. Đó là sự trở về với giáo dục luân lý, tuân theo những nguyên lý cổ truyền

đang sống trong xã hội Đông dương đưới sự chỉ đạo chung của những khái niệm cơ bản: cần

lao, gia đình, tổ quốc” mà khẩu hiệu này lại rất gần với tư tưởng tu, tề, trị, bình của Khổng Tử.

Do đó Pháp cho mở ban “ Cổ điển Viễn Đông” chính là để phục vụ cho những chủ trương chính

trị nói trên.. Cũng trong năm này J. Decoux ký nghị định chia bằng tú tài thành hai ban toán học

và triết học, đến đây chấm dứt ranh giới về pháp lý giữa tú tài Pháp và tú tài Bản xứ.

Tiểu kết chương I

Cuộc tấn công vào cửa biển Đà Nẵng năm 1858 mở màn cho cuộc xâm lược Việt Nam của

thực dân Pháp. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp đã thực hiện nhiều chính sách văn

hóa trong từng giai đoạn nhằm đáp ứng cho mục tiêu cai trị của Pháp ở Việt Nam, có ảnh hưởng

trực tiếp đến nền giáo dục ở Nam Kỳ thời kỳ 1867-1945.

Khi thực thi nền giáo dục mới ở Nam Kỳ, Pháp đã có những mục tiêu rõ ràng, đó là loại trừ

nền giáo dục bản xứ, du nhập nền giáo dục hiện đại của phương Tây, nhằm đồng hóa Nam Kỳ,

sau đó là cả Việt Nam.

Tuy nhiên điều mà Pháp không mong đợi là qua các chính sách văn hóa của Pháp, đã nảy

sinh mối quan hệ Việt – Pháp về văn hóa. Thông qua những chính sách giáo dục của chính

quyền thực dân Pháp người Việt Việt đã tiếp thu những kiến thức mới của văn minh phương

Tây một cách có chọn lọc và làm phong phú thêm nền văn hóa của mình.

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ VIỆT-PHÁP TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở NAM KỲ ( 1867 – 1945)

2.1. Yếu tố văn hóa tác động đến nền giáo dục

2.1.1 Đạo Thiên Chúa

Trong quá trình truyền bá vào xã hội Việt Nam, sau chút bỡ ngỡ bởi sự lạ lẫm ban đầu,

Thiên Chúa giáo đã nhanh chóng được xã hội tiếp nhận.Thiên Chúa giáo còn góp phần Latinh

hóa chữ Việt tạo ra một chữ viết hoàn toàn mới, một thành tố rất độc đáo và có vị trí rất quan

trong đối với đặc trưng cũng như cấu trúc của lịch sử văn học và văn học Việt Nam. Tác động

sâu sắc đến giáo dục Việt Nam cận hiện đại, từ khi chữ Việt được Latinh hóa thành thứ chữ

được gọi là quốc ngữ ( tất nhiên quá trình này diễn ra trong một thời gian rất dài) đã làm cho

nội dung giáo dục của Việt Nam thay đổi, từ hệ thống giáo dục phong kiến coi trọng chữ Hán

chuyển sang giáo dục Pháp – Việt, chú trọng chữ quốc ngữ và chữ Pháp, tạo điều kiện cho Việt

Nam tiếp cận dễ dàng hơn với văn minh phương Tây.

Trong thời Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ đã cho truyền bá chữ

Hán vào nước ta và coi đây là một trong những bước đi rất quan trọng của quá trình thực hiện

âm mưu đồng hóa. Nhưng với ý nghĩa là một phương tiện văn hóa , chữ viết bao giờ cũng có tác

động đa dạng và trong nhiều trường hợp còn vượt ngoài tầm kiểm soát của lực lượng truyền bá.

Trải qua hơn một nghìn năm tuy chỉ tiếp cận một cách dè dặt và chậm chạp nhưng cuối cùng

chữ Hán cũng được sử dụng rộng rãi trong mọi khế ước giao dịch của xã hội. Trong kỷ nguyên

độc lập tự chủ và thống nhất chữ Hán được coi là văn tự chính thức của nước nhà. Tất cả văn

kiện của chính quyền từ triều đình trung ương đến địa phương và phần lớn các trước tác lúc bấy

giờ đều được viết bằng chữ Hán.

Khi chữ Hán đã được tôn là chữ thánh hiền và thói quen sử dụng tiếng Hán đã rất phổ biến

thì tổ tiên ta lại sáng tạo ra chữ Nôm. Từ vị trí rất khiêm nhượng của một loại văn tự chỉ được

dùng để bổ sung cho chữ Hán khi ghi chép về các phẩm vật tự nhiên, về tên người và tên đất,

chữ Nôm đã dần dần vươn lên vị trí có thể thay thế chữ Hán. Một dòng văn học chữ Nôm đã

chính thức được khai sinh với những cây bút tài hoa.

Từ cuối thế kỷ XVI đặc biệt là đầu thế kỷ XVII, tức là chỉ mới một thời gian ngắn truyền

bá tôn giáo vào nước ta, các giáo sĩ phương Tây đã tìm cách Latinh hóa chữ Việt. Thực ra đây

là việc làm mà trước đó họ đã thử nghiệm tiến hành ở một số nước phương Đông như Trung

Quốc, Nhật Bản nhưng lại không thành công. Ở Việt Nam thì khác hẳn, mục tiêu ban đầu của

họ rất đơn giản: các giáo sĩ chỉ mong làm sao có thể ký âm chữ Việt theo cách riêng của họ để

tự học tiếng Việt và sau cùng có thể truyền giáo và giao tiếp. Nói là Latinh hóa nhưng gắn chặt

với toàn bộ quá trình Latinh hóa là và có vị trí không nhỏ trong quá trình đặt biệt này là hàng

loạt những sáng tạo có ý nghĩa rất lớn. Chính điều này nên chữ Việt mặc dù có nguồn gốc từ

Latinh nhưng lại khác hẳn với chữ của những nước thuộc khối tiếng La Tinh. Nổi bật nhất là ba

sáng tạo sau đây

- Bỏ bớt 4 trong số 24 chữ cái của Latin: W, J, Z, F

- Tạo ra 6 chữ mới, hoàn toàn không có trong Latinh: ă, â,đ, ê, ô, ơ.

- Tạo ra 6 thanh điệu hay 6 dấu giọng không hề có trong Latinh là: thanh bằng, thanh

huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã và thanh nặng.

Xưa nay chữ Việt viết theo kiểu Latinh từng được nhiều người gọi là chữ quốc ngữ. Sáng

tạo ra chữ viết theo mẫu tự Latinh là một trong những cống hiến có tầm vóc vĩ đại nhất và có

ảnh hưởng tốt đẹp lâu dài nhất đối với lịch sử văn hóa Việt Nam. Có ảnh hưởng rất lớn lao đến

nền giáo dục của ta. Đó là kỳ tích kết tinh công sức và trí tuệ của rất nhiều thế hệ tiên phong là

các giáo sĩ phương Tây, nhờ có loại hình văn tự rất khoa học này, toàn bộ chặng đường cực kỳ

gian nan là xóa nạn mù chữ được rút ngắn lại. Cũng nhờ loại hình văn tự rất khoa học này,

đường tiếp cận với các nền văn minh cũng như các trào lưu văn hóa phương Tây trở nên thuận

tiện và rộng mở. Tất nhiên khi đã coi chữ Việt viết theo mẫu tự Latinh là văn tự chính thức của

nước nhà thì càng về sau số lượng người có khả năng đọc được, hiểu được các trước tác của tổ

tiên bằng chữ Hán và chữ Nôm sẽ ít đi, kho di sản văn hóa đồ sộ của người xưa sẽ có nguy cơ

bị quên lãng. Song nếu không có loại hình chữ viết Việt theo mẫu tự Latinh thì bước tiến của

dân tộc sẽ vấp phải hàng loạt những trở lực lớn lao.

Đối với xã hội, thông qua đức tin của giáo dân, đạo Thiên Chúa cũng đã góp phần giáo dục

con người, dạy con người biết thương yêu nhau.Biết sống tiết kiệm, giản dị ví dụ như trong việc

tổ chức tang lễ của giáo dân. Nhìn chung thì tang lễ của người theo đạo luôn được tổ chức gọn

gàng nhưng vẫn rất trang nghiêm, tang phục giản dị, lễ nghi không phiền phức, không khí trong

tang gia nhẹ nhàng và hầu như rất hiếm người phung phí tiền của cho đám tang. Đó chính là

một trong những nét văn hóa rất đáng được trân trọng , giáo dục lối sống mới cho mọi người

nhưng rất tiếc là do ảnh hưởng nặng nề của lề xưa thói cũ, cho nên, một bộ phận không nhỏ của

xã hội đã không chú ý đầy đủ đến điều này.

2.1.2 Chữ quốc ngữ

Trước khi xuất hiện Chữ quốc ngữ ở Việt Nam đã tồn tại các chữ viết Hán, chữ Nôm, chữ

của các dân tộc thiểu số ( chữ Thái, chữ Chăm, Khơme…). Lần tìm lại dấu vết lịch sử thì những

người phương Tây đến truyền giáo và buôn bán ở châu Á và Việt Nam đã có công tạo ra chữ

viết mới cho Việt Nam: Chữ quốc ngữ. Những giáo sĩ là những người được học hành thông tuệ,

đi các nơi và nhanh chóng học được các tiếng nói của các dân tộc.

Việc các nhà truyền giáo đến Đàng Trong và bắt đầu áp dụng dần dần mẫu tự LaTinh cho

tiếng Việt, thực ra là cách bắt chước các nhà truyền giáo Dòng Tên ở Nhật Bản, vì đầu thế kỷ

XVII họ cũng đã cho xuất bản vài cuốn sách ngữ vựng và ngữ pháp Nhật theo mẫu tự abc.

Ở Việt Nam ngày 6/1/1615 khi các giáo sĩ đến Việt Nam truyền giáo đều phải học tiếng

Việt mới có thể tiếp xúc với người Việt Nam. Nhờ biết tiếng Việt nên ngay từ năm 1620 các tu

sĩ Dòng Tên tại Việt Nam đã soạn thảo một sách giáo lý bằng “chữ Đàng Trong” . Người có

công đầu tiên tạo ra Chữ quốc ngữ là thừa sai Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha. Pina là

nhà truyền giáo đầu tiên biết tiếng Việt, cũng là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên soạn một tập nhỏ về

1

chính tả cùng các dấu thinh của tiếng Việt và năm 1622 bắt đầu soạn ngữ pháp tiếng ViệtP6F

2

Sau đó các giáo sĩ như Gaspar Amaral và Antoine Barbore người Bồ Đào Nha đã viết tự

P và nhất là khi giáo sĩ Alexandre

điển Bồ Đào Nha – AnNam và tự điển AnNam – Bồ Đào NhaP7F

de Rhodes là một nhà bác học rất giỏi về khoa ngôn ngữ đã tới Việt Nam, học tiếng Việt và

1 Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc Ngữ 1620 – 1659, tủ sách Ra Khơi - Sài Gòn, 1972, trang 22. 2 Nguyễn Phước Tương, Giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco de Pina – người tiên phong sáng tạo ra Chữ quốc ngữ. Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 5 – 2001, trang 29

giảng đạo bằng tiếng Việt.

Sau một thời gian trở về La Mã, mở trường dạy các nói tiếng Việt của Vatican. Đào tạo các

giáo sĩ sẽ sang phương Đông Nam Á truyền giáo. Đến năm 1651 ông đã cho xuất bản hai cuốn

sách: tự điển AnNam - LaTinh - Bồ Đào Nha và Giáo lý cương yếu bằng tiếng LaTinh và tiếng

AnNam.

Đó là những cuốn sách tạo nền tảng cho chữ Quốc ngữ sau này. Như vậy giáo sĩ Alexandre

de Rhodes là người đã có công khai sinh ra Chữ quốc ngữ, tất nhiên là việc tạo ra Chữ quốc ngữ

có công sức đóng góp của nhiều người nhưng ông là đại diện và giữ công đầu.

Thời kỳ đầu chữ Quốc ngữ chỉ dùng để truyền giáo, phát triển đạo như dịch, soạn các kinh

bổn giáo lý. Nó cũng là phương tiện để ghi chép các hoạt động của các giáo sĩ và hoạt động của

giáo dân. Từ lúc manh nha đến cuối thế kỷ XVIII Chữ quốc ngữ chỉ là phương tiện ngôn ngữ

của cộng đồng giáo dân Việt Nam.

Sang thế kỷ XIX, Chữ quốc ngữ dần dần vươn ra khỏi cộng đồng giáo dân Việt Nam nhỏ

hẹp, tác động đến cộng đồng dân Việt. Đến năm 1862, thực dân Pháp chiếm xong ba tỉnh Đông

Nam Kỳ buộc triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất 1862 nhường cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa,

Gia Định, Định Tường.

Người Pháp đã sớm nhận thấy chữ Hán là một chướng ngại ngăn cách họ với dân bản xứ,

sau chữ Hán là thế lực tinh thần của các nhà Nho Việt Nam đang tổ chức vũ trang chống lại họ

và ảnh hưởng lâu đời của nước Trung Hoa láng giềng. Cuộc tranh cãi nên dùng hay bỏ chữ Hán

đã kết thúc bằng nghị định ngày 22 thàng 2 năm 1869 của Thống đốc Nam Kỳ quy định rằng “

chữ viết của tiếng An Nam bằng mẫu tự Âu Châu trở thành bắt buộc trong các giấy tờ hành

chính” Sau đó tại vùng đất Pháp chiếm cứ, Chữ quốc ngữ chính thức được dạy ở các trường “

tân học” trong xứ Nam Kỳ . Cùng lúc,cũng ngay trên đất Nam Kỳ người Pháp ra tờ công báo

ban bố những chính sách cai trị với dân bản xứ, đó là tờ Gia Định báo ( 1865 – 1897) sáng lập

là Potteaux, chủ bút là Trương Vĩnh Ký. Đó là tờ báo dùng Chữ quốc ngữ sớm nhất ở Việt

Nam. Đó chính là điều kiện đầu tiên để Chữ quốc ngữ được dịp truyền bá. Cái lợi trước mắt của

chính quyền thực dân đã trở thành cái lợi lâu dài của dân tộc Việt Nam.

Lớp trí thức Tây học, người Công giáo ở Nam Kỳ như Trương Vĩnh Ký ( tên Thánh là

Pétrus Ký) và Huỳnh Tịnh Trai ( tên thánh Paulus Của) đã dùng Chữ quốc ngữ đầu tiên để

truyền bá học thuật và tư tưởng Âu Tây, soạn từ điển Việt – Pháp để người Việt Nam có thể

dùng mà học tiếng Pháp.

Vinh dự sáng tạo ra Chữ quốc ngữ thuộc về các giáo sĩ Dòng Tên của đạo Thiên chúa ,

trước hết là của các giáo sĩ Bồ Đào Nha và các thầy dòng người Việt nhưng vinh dự phổ cập, sử

dụng, hoàn thiện Chữ quốc ngữ lại thuộc về nhân dân Việt Nam như Hội truyền bá chữ Quốc

ngữ

Sự ra đời của chữ Quốc ngữ cùng với các chính sách về giáo dục của Pháp giữa thế kỷ XIX

đã tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục Việt Nam, mở ra trang sử mới cho lịch

sử giáo dục, văn học, báo chí…của Nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung.

2.1.3 Văn học

Trước khi Pháp chiếm Nam Kỳ, các thừa sai đã sử dụng chữ quốc ngữ trong phạm vi giáo

dân. Khi Pháp chiếm Nam Kỳ, các phái bộ truyền giáo muốn phổ biến chữ quốc ngữ để thuận

lợi cho việc truyền đạo.

Những viên cai trị người Pháp thay chỗ người Việt đã không tiếp xúc được với người dân

bản xứ vì ngôn ngữ bất đồng vì vậy các nhà cầm quyền mới hướng về các phái bộ truyền giáo

đã có mặt từ lâu ở Nam Kỳ trước khi mảnh đất này trở thành thuộc địa. Đây cũng là một cơ hội

tốt để các giáo hội có thể nhờ đó mà mở rộng ảnh hưởng của mình.

Trường nhà Dòng được mở ra tiếp theo là trường nhà nước. Từng bước nhà cầm quyền

thuộc địa thay thế chữ Hán bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Điều này tất yếu đã tác động mạnh

mẽ đến xã hội và văn học.

Với việc chữ quốc ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi, đi đôi với sự chyển biến xã hội,

làm nảy sinh những nhu cầu, thị hiếu mới của các tầng lớp công chúng thành thị và sự ra đời

của những phương tiện vật chất mới như nhà in, báo chí, nhà xuất bản, nền văn học Quốc ngữ

dần dần hình thành, trong đó có bộ phận mới lạ nhất, hiện đại nhất là văn xuôi Quốc ngữ. Một

chương mới của lịch sử văn học Việt Nam bắt đầu. Nhờ sử dụng chữ quốc ngữ, văn học hiện

đại Việt Nam phát triển mạnh mẽ.

Chữ quốc ngữ được dùng đầu tiên ở Nam Kỳ và người dùng chữ quốc ngữ đầu tiên để sáng

tác có thể kể đến là Trương Vĩnh Ký. Trương Vĩnh Ký đã sử dụng Chữ quốc ngữ trên hàng trăm

công trình, thuộc nhiều thể loại nhưng nếu nói về sáng tác văn chương thì có các tác phẩm tiêu

biểu: “Chuyện đời xưa lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích” xuất bản lần đầu năm 1866,

“Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi” in năm 1881, “Kiếp phong trần” in năm 1882. Ông đã có 118

( đến nay con số này vẫn đang là vấn đề tranh cãi) tác phẩm đủ thể loại được viết bằng chữ

quốc ngữ . Ông cũng là người viết buổi sơ khai của nền văn học chính thức bằng chữ quốc ngữ

kể từ lúc Nam Kỳ thuộc Pháp.

Ngoài Trương Vĩnh Ký, ở Nam Kỳ còn có các nhà văn, khoa học chuyên sử dụng chữ quốc

ngữ trong các tác phẩm của mình như Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản,

Trần Chánh Chiếu với bút danh Trần Thiên Trung, Trần Phong Sắc, Lê Hoằng Mưu, Trần Hữu

Độ, Phạm Minh Kiên…

Tuy nhiên ở Nam Kỳ trong thời gian đầu , chữ quốc ngữ chỉ làm nhiệm vụ như chiếc cầu

nối để bước sang học tiếng Pháp dễ dàng hơn, để dễ dàng được nhận vào làm việc và dễ dàng

được du học tại Pháp. Đó cũng là điều dễ hiểu vì mục đích thực dụng, Pháp muốn phổ biến chữ

quốc ngữ nhưng lại rẽ rúng nó, điều đó không thuận lợi cho sự phát triển văn học quốc ngữ..

Nền giáo dục bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp mới ở bước đầu hình thành. Pháp chiếm trọn

Nam Kỳ năm 1867. Khoảng 20 năm sau, kể từ năm 1886, không ai giữ chức Hương thân,

Hương hào nếu không biết đủ chữ quốc ngữ ( theo nghị định ngày 6/4/1878 của Thống đốc

Nam Kỳ La Font ). Giới nho sĩ nói chung thì không thích chữ quốc ngữ. Pháp chiếm được đất

nhưng lòng dân thì không. Trên mảnh đất giáo dục còn non yếu thì khó nảy nở được những tác

phẩm văn học quốc ngữ ở vùng đất này

Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, việc sử dụng chữ Quốc ngữ trong sáng tác văn học

thật sự là một cuộc cách mạng, một phong trào quần chúng háo hức và sôi nổi, đón nhận cái

mới, từ bỏ cái cũ. Trong lĩnh vực văn học chữ Quốc ngữ đã làm được việc là chuyển dịch

những tư tưởng cao siêu cũng như những án văn chương lỗi lạc của nước ngoài. Những nhà

cách mạng chữ viết đầu thế kỷ đã làm được một việc khiến cho Pháp phải kinh ngạc là dịch từ

Pháp văn ra văn Quốc ngữ , như “Tuồng Joseph” của Trương Minh Ký lấy hứng từ Kinh Thánh

được khởi đăng ở Gia Định báo từ 26/4/1867, được trình diễn ở Chợ Lớn lần đầu ngày

13/7/1887 và năm sau được in thành sách. Đến đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết bằng quốc ngữ bắt

đầu có chỗ đứng ở Nam Kỳ, phần lớn các tiểu thuyết này đều từ truyện Tàu dịch ra chữ quốc

ngữ và truyện thơ.

Chính sách giáo dục của Pháp ở Nam Kỳ đã là tiền đề cho văn học quốc ngữ và cả báo chí

ra đời và phát triển ở vùng đất này, văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ mặc dù không phát triển rầm

rộ như ở Bắc Kỳ nhưng lại có đóng góp quan trọng, mở đầu cho một nền văn học mới – văn học

quốc ngữ, qua những tác phẩm bằng thứ chữ mới mẻ này đã chuyển tải những thông điệp,

những kiến thức, tư tưởng mới mẻ đến cho nhân dân, thổi một làn gió mới cho đời sống tinh

thần ở vùng đất thuộc địa đầu tiên này.

2.1.4 Báo chí

Từ những truyền thống xa xưa như những câu vè lưu truyền trong dân gian, tiếng mõ làng,

những cuộc giảng thập điều trong sinh hoạt đình làng…đến những hình thức thông tin “ chính

thức” của nhà nước phong kiến tổ chức ra Quảng Văn Đình thời Lê Thánh Tông hay Quảng

Minh Đình thời Gia Long, đây chính là những hình thức chuẩn bị thực sự cho sự ra đời của báo

chí. Khâm Định Việt sử ( quyển 14 tờ 15a) chép lại rằng “ Nguyên trước, những chiếu lệnh của

nhà vua, lâm thời bộ đem yết bảng, đến năm Tân Hợi ( 1491) vua Lê Thánh Tông cho dựng một

cái đình ở ngoài cửa Đại Hưng ( tức cửa Nam thành Thăng Long) để làm nơi niêm yết những

phép tắc trị dân, đặt tên là Quảng Văn Đình…” Ba chữ Quảng Văn Đình nghĩa là một cơ sở để

thu nhặt giấy tờ ở các nơi. Đến thời Gia Long làm đình ở phường Nam Hưng ( tức cửa Nam bây

giờ), trên có đặt tên là Quảng Minh Đình…cũng để dán những huấn lệnh của nhà vua.

Như vậy thì cái đình tức là báo chí, có định lệ mùng một và rằm tức là nhật báo hoặc tuần

báo…Báo chí tức là những tờ huấn lệnh dán ở đình làng.

Có một vài lần các sĩ phu tiến bộ và thức thời, có tầm mắt vượt ra ngoài những chính sách

hẹp hòi bế quan tỏa cảng của triều Nguyễn, đã nhắc tới sự cần thiết của việc ấn hành một tờ

báo. Trong bảng điều trần “Tám điều cấp cứu” Nguyễn Trường Tộ đã từng lên tiếng đề nghị

…ấn hành một tờ nhật báo, đăng những chiếu, sớ, dụ và những hành sự của các vị danh thần,

công cụ của quốc gia hiện thời cho học sinh đọc để biết được công việc trong nước, đó cũng là

công việc ích lợi, lợi ích của các tờ nhật báo rộng rãi thấm nhuần như mưa móc, nhưng không

1

thể chỉ rõ ra hết được, để làm sẽ thấyP8F

Những đề nghị cải cách ấy bị khước từ. Điều đáng nói là vào thời điểm ấy, ở Nam Kỳ đã

bắt đầu hé lộ một nền báo chí thuộc địa như nhiều dấu ấn văn minh phương Tây khác nhưng

triều đình vẫn bịt mắt, bưng tai.

Để xuất hiện một nền báo chí, nghề làm báo, người ta thường nói đến ba điều kiện sau đây:

Thứ nhất là điều kiện kỹ thuật, điều này trước hết là nghề in chữ rời, in hoạt bản. Tờ báo

khác với những hình thức thông tin sơ khai, trước hết ở tính định kỳ. Phải có máy móc kỹ thuật

mới đảm bảo việc in ấn, phát hành đúng kỳ hạn.

Đối với báo chí nước ta, còn phải kể đến vấn đề Chữ Quốc ngữ. Khi thực dân Pháp chiếm

Nam Kỳ lục tỉnh ( 1867), sau gần 3 thế kỷ chế tác, chữ Quốc ngữ đã hoàn chỉnh về cơ bản và có

khả năng đi vào đời sống.

Trong âm mưu xâm lược văn hóa, thực dân Pháp sớm có kế hoạch loại bỏ chữ Hán, chữ

Nôm để chữ Pháp, chữ Quốc ngữ dần dần độc chiếm trong sinh hoạt văn hóa, giáo dục.

Ở Nam Kỳ việc này kết thúc ngay từ năm 1888, với việc cấm dạy chữ Hán và bắt buộc sử

dụng chữ Quốc ngữ và Pháp ngữ

Điều kiện thứ hai là điều kiện người làm báo, báo chí là một nghề mới, nghề hiện đại.

Chính Sài Gòn và xứ Nam Kỳ là nơi nảy sinh ra thế hệ những người làm báo đầu tiên.

Điều kiện cuối cùng là giới độc giả, ở nước ta những tờ báo đầu tiên, kể cả báo Quốc ngữ

là báo phát không, do nhu cầu tuyên truyền của chủ nghĩa thực dân.

Ở Nam Kỳ dần dần có một giới độc giả mặc dù với số lượng rất ít chủ yếu ở các đô thị và

giới quan lại, viên chức. Lúc đầu là hàng trăm, đến đầu thế kỷ XX đến hàng ngàn như có một số

tờ có được số bạn đọc mua báo thường xuyên: Nông cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn.

Nam Kỳ là nơi có đủ ba điều kiện trên nên Nam Kỳ là cái nôi đầu tiên của báo chí Việt

1 Đặng Huy Vận, Chương Thâu – Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ - NXB Giáo dục Hà Nội, 1961, trang 212

Nam

Lịch sử nghề in cho chúng ta thấy ngay từ thời nhà Lý đã có nghề in mộc bản. Cho đến khi

thực dân Pháp đặt chân trên đất nước của ta thì kỷ thuật in mộc bản tuy có nhiều cải tiến nhưng

vẫn là kỹ thuật in duy nhất và kỹ thuật in mộc bản rõ ràng là không đáp ứng được với tính chất

thời sự và rộng rãi của tờ báo. Vì vậy, ở trên thế giới sự cải cách nghề in từ kỹ thuật khắc chữ

trên gỗ, đá thành kỹ thuật in rời ( hoạt bản) thực sự là một cuộc cách mạng không những có ảnh

hưởng lớn trong nghề in nói chung mà nó còn bật đèn xanh cho báo chí thật sự ra đời và phát

triển nhảy vọt.

Những ấn phẩm đầu tiên in bằng hoạt bản xuất hiện ở nước ta là kinh bổn của các giáo sĩ

phương Tây lưu hành trong giáo dân. Những bản kinh Thánh in bằng chữ LaTinh cải tiến ( tiền

thân của chữ Quôc ngữ) phần lớn được in tại tòa thánh Vatican hay của Hội truyền giáo nước

ngoài ( Paris, Hồng Kông hoặc Băng Cốc). Cuối thế kỷ XIX sau những nhà in công của chính

quyền thực dân thì những nhà in của Hội truyền giáo ở các tỉnh Nam Kỳ xuất hiện sớm hơn cả.

Lẫn trong đống hành lí của đội quân xâm lược, những phương tiện đầu tiên của kỹ thuật in hoạt

bản được nhập vào nước ta. Dường như được chuẩn bị từ trước, trên chiếc thuyền chở đầy súng

ống và lính đánh thuê của đô đốc Bonard đã sắp sẵn một cổ máy in và thợ sử dụng. Những thiết

bị này đã kịp thời giúp cho Pháp kịp thờ in chỉ thị, công văn và bằng những phương tiện đó viên

đô đốc đã cho lên khuôn tờ công báo đầu tiên ( Bulletin officiel d’ Expedition de la

Cochinchine 1861). Cũng từ những thiết bị đó năm 1861, một nhà in chính thức được thành lập

trực thuộc Tổng hành dinh đội quân viễn chinh và được bảo trợ về kỹ thuật của nhà in quốc gia

Paris. Nhà in này đảm nhận việc in hầu hết các tờ công báo sau này của chính quyền thực dân ở

Nam Kỳ.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở các trung tâm hành chính và các khu đông dân cư như

Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng…xuất hiện hàng loạt các nhà in tư nhân.

Như vậy trước khi được tiếp xúc với văn hóa phương Tây, người Việt cũng đã viết sách, in

sách chữ Hán. Nhưng về báo chí thì mãi đến khi người Pháp sang mới thấy ra đời với chữ Pháp,

chữ Quốc ngữ và cách in hoạt bản.

Với các hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884), Nam Kỳ thực sự là xứ trực trị, một

“ hạt” của nước Pháp ở Viễn Đông. Điều này có sẵn trong âm mưu tách Nam Kỳ khỏi vấn đề

Việt Nam ngay khi Pháp mới nổ súng xâm lược.

Nhưng cũng chính vì thế, đáng lẽ Nam Kỳ phải được hưởng luật báo chí 29/7/1881, luật

thừa nhận tự do báo chí vì luật này cho phép áp dụng ở chính quốc cũng như tại Angiêri và các

xứ thuộc địa khác. Nhưng bọn thực dân sớm thấy ngay sự nguy hiểm của Bộ luật nói trên nên

một mặt thừa nhận báo chí được tự do xuất bản, mặc khác Pháp ra sắc lệnh ngày 30/12/1898

buộc tất cả các báo tiếng Việt, tiếng Trung Hoa và các tiếng khác phải có giấy phép trước khi

xuất bản

Chính sự khắc nghiệt này ngay ở Nam Kỳ, nhiều tờ báo đều do nhiều nhà báo đứng tên.

Ách thuộc địa về báo chí là thống nhất và cũng từ đó, cuộc đấu tranh đòi tự do báo chí luôn là

mục tiêu chung của các phong trào yêu nước và cũng chính của giới báo chí.

Ở Sài Gòn những người đầu tiên cầm bút viết báo ngoài những quản lý báo chí, người làm

báo người Pháp còn xuất hiện những nhà trí thức Việt như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký,

Ngyễn Văn Của, Trần Chánh Chiếu, Lương khắc Ninh, Lê Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt,

Nguyễn Đồng Trụ…

Nam Kỳ trở thành cái nôi đầu tiên của báo chí Việt Nam bởi lẽ đơn giản, báo chí là con đẻ

đầu tiên của nền văn minh phương Tây cưỡng chế mà mảnh đất này chịu ách thực dân trước hết

ở nước ta.

Ngay trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai ( 1882-1883), giới thượng lưu ở Sài

Gòn có thể vận đồ Tây, ăn bánh mì sáng với cà phê sữa và vào tiệm sách đường Catina để mua

báo, sách truyện, thơ văn dịch bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ pháp…

Những tờ báo tiếng Pháp đầu tiên bắt đầu từ thời đô đốc Bonard, chủ yếu dành cho giới

độc giả quân sự và dân sự Pháp, rất ít người Việt sử dụng được. Đầu năm 1865, Soái phủ Nam

Kỳ thấy đến lúc cần mở mang giáo dục, truyền bá học thuật và tư tưởng Pháp nhất là tạo cho

việc đưa chữ Quốc ngữ thực sự đi vào quỹ đạo xâm lăng văn hóa, đánh bạt chữ Nho nên quyết

định cho xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Sài Gòn là tờ Gia Định báo, mỗi tháng ra một số,

số đầu tiên ngày15/4/1865.

Khách quan mà xét, tờ Gia Định Báo đã mở đường cho việc phổ biến chữ quốc ngữ, để khi

các nhà Nho yêu nước đã giành lấy vũ khí này thì nó có tác động thật sự to lớn “ Thầy Ký (

Trương Vĩnh Ký) dạy học, có làm sách mẹo dạy học tiếng Lang Sa, có làm ra chữ Quốc Ngữ

cho người dễ học, những người kế tục giỏi cũng siêng năng sẽ lo mà học chữ Quốc Ngữ vì có

hai mươi bốn chữ mà viết đặng muôn vàn chuyện, chữ chi mắc rẽ cũng viết đặng, không phải

như chữ ta, học già đời mà có chữ lạ viết không ra…Chữ ấy không khó đâu, ra công học một

1

đôi tháng thì thuộc hết…”P9F

Ngoài Gia Định Báo còn có Phan Yên Báo, Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn

Phan Yên Báo là một trong những tờ báo tư nhân đầu tiên do Diệp Văn Cương lập ra. Ông

Cương đặt tên tờ báo như vậy vì đó là cổ danh của thành Gia Định là Phan Yên trấn. Phan yên

2

Báo xuất bản hàng tuần, số đầu tháng 12/1898, chỉ ra được 7,8 số thì bị cấm, đây là tờ báo Quốc

P.

Ngữ đầu tiên bị cấm ở Nam KỳP10F

Nông Cổ Mín Đàm ( 1901 – 1924), có số đầu tiên ra mắt ngày 1/8/1901, là tờ báo kinh tế

đầu tiên ở Nam Kỳ, đúng như cái tên của nó là trà đàm về nghề nông do một người Pháp là

Canavaggio, Ủy viên Hội đồng quản hạt làm Giám đốc và Lương Khắc Ninh, một cây bút tên

tuổi làm chủ bút.

Báo xuất bản hàng tuần, kéo dài 115 số ( số cuối, tháng 5/1924), thường in 8 trang, có khi

12 trang. Nông Cổ Mín Đàm đúng là tờ báo kinh tế có vị trí quan trọng, giới thiệu kinh nghiệm,

cổ vũ đi vào thương trường, canh nông, kỹ nghệ…

Dần dần thêm mục lời rao, chứa dựng nhiều thông tin kinh tế, phác họa sự chuyển biến

kinh tế - xã hội xứ Nam Kỳ.

Tuy là báo kinh tế nhưng Nông Cổ Mín Đàm dành 3, 4 trang đăng tải truyện dịch, truyện

dài, truyện ngắn và mục Thi phổ. Chính Nông Cổ Mín Đàn là tờ báo đầu tiên tổ chức cuộc thi

1 Gia Định Báo số 4 ngày 15/4/1867 2 Bằng Giang, Văn học Quốc Ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, NXB Trẻ TPHCM, 1992, trang 132

truyện ngắn trong lịch sử Văn học Việt Nam hiện đại.

Là người trực tiếp phụ trách “Thương cổ luận”, Lương Khắc Ninh có công lớn trong cuộc

cổ động cho phong trào Minh Tân, cổ súy giới chủ, thương gia người Việt đang hình thành đua

chen với người Hoa, với ngoại kiều khác ở lục tỉnh.

Ngoài ra còn có Báo Lục Tỉnh Tân Văn, ra đời trong phong trào vận động Duy Tân đầu thế

kỷ XX, ở Nam Kỳ có tên là cuộc vận động Minh Tân. Các phong trào này trực tiếp hay gián

tiếp đều chịu ảnh hưởng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

Lục Tỉnh Tân Văn ra số đầu tiên ngày 14/11/1907, 16 trang. Sau này ra tuần 3 số ( Thứ

hai, tư, sáu). Năm 1921 khi tờ Nam Trung Nhật Báo sát nhập vào, nó chuyển thành nhật báo.

Báo ngừng sản xuất cuối 1944.

Giai đoạn đầu của Lục Tỉnh Tân Văn là tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân theo

khuynh hướng cải cách, tự cường đang sôi động ở Bắc và Trung Kỳ. Lục Tỉnh Tân Văn có

nhiều kinh nghiệm trong việc cổ vũ chấn hưng dân khí, hợp quần kinh doanh chống lại độc

quyền của tư bản Pháp, Hoa, Ấn…

Như vậy ta thấy Nam Kỳ là cái nôi đầu tiên của báo chí nước ta. Số phận đặc biệt của

mảnh đất cực Nam của Tổ quốc ta đã khiến nó trở thành vùng đất đầu tiên chịu ách thực dân

nhưng cũng chính ở mảnh đất này nền văn min phương Tây đã nhanh chóng được thiết lập mới

mẻ choáng lộn về kỹ thuật, vừa có tính cưỡng bức, đe dọa với nền văn hiến của dân tộc.

Ngay từ khi cho xuất bản những tờ báo đầu tiên ở Nam Kỳ cùng với việc đặt nền móng cho

chế độ thuộc địa, Pháp đã công khai bộc lộ ý định đưa vũ khí lợi hại này của văn minh phương

Tây vào nước ta với mục đích tuyên truyền cho các chính sách Soái phủ Nam Kỳ và của chính

phủ phổ biến chữ Quốc Ngữ, qua đó chinh phục bằng trái tim, khối óc bằng sức mạnh của văn

minh kỹ thuật mới lạ, trước hết là giới trí thức và quan lại bản xứ.

Dần dần những mục tiêu đặt ra với báo chí còn thăm độc hơn, đặc biệt từ khi A. Sarraut

sang làm toàn quyền Đông Dương lần đầu tiên, trong chiến tranh thế giới thứ nhất.

Đó là mưu đồ qua phương tiện báo chí góp phần loại bỏ hoàn toàn chữ Hán, phương Tây

hóa giới Nho sĩ vốn luôn coi văn hóa Trung Hoa là hệ thông qui chiếu duy nhất, đồng thời hạn

chế những ảnh hưởng của Tân Thư, Tân báo và của chính tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây.

Tuy nhiên về vai trò, vị trí văn hóa của báo chí thời thuộc địa có gì đó thực sự mâu thuẩn

Về cơ bản báo chí lúc đó là con đẻ của chế độ thuộc địa, nằm trong mưu đồ khai hóa của chủ

nghỉa thực dân mà về bản chất là thực thi chính sách của thực dân về văn hóa, sự mở mang văn

hóa giáo dục chỉ năm trong khuôn khổ lợi ích của chế độ thuộc địa và luôn bị khống chế.

Nhưng ngay trong bước đi ban đầu này, báo chí nước ta cùng với giáo dục bắt đầu lộ ra một

phương tiện, một công cụ văn hóa tư tưởng mà những người yêu nước có thể vận dụng cho

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

2.1.5 Nội dung giáo dục trong các trào lưu canh tân, cải cách

2.1.5.1 Các cuộc canh tân cuối thế kỷ XIX

Khuynh hướng canh tân xuất hiện ở nước ta cuối thế kỷ XIX, được hình thành bởi những

điều kiện khách quan từ bối cảnh quốc tế đồng thời nảy sinh từ yêu cầu phát triển nội tại.

Các đại biểu xuất sắc góp phần hình thành khuynh hướng canh tân ở nước ta có Phạm Phú

Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Phan Bội Châu, Phan

Châu Trinh, Lương Văn Can…

Trong các nội dung cải cách được các nhà canh tân chú ý đến là nội dung cải cách về mặt

giáo dục. Điều đó được thể hiện rõ ràng qua các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn

Lộ Trạch

Điều đầu tiên Nguyễn Trường Tộ nêu lên “ học là gì”? Theo ông là học những gì chưa biết

mà đem ra thực hành. Và thực hành là gì, thực hành ở đâu? Đó là thực hành những gì thực tế

trước mắt mà còn để lợi ích trước mắt cho đời sau.

1

Nguyễn Trường Tộ cho rằng “không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục ngày

P Từ đó ông nhìn lại sự học

một bại hoại, lòng người ngày một giả dối, phù phiếm trống rỗng”P11F

của ta ngày xưa, những điều thầy dạy, những điều học trò học, đều là những chuyện xưa. Ông

viết “ Ngày ta chúng ta lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ, phú; lớn lên ra làm quan thì lại luật, lịch,

binh, hình. Lúc nhỏ học nào là Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên thì đến Nam

1 Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ:con người và di thảo, NXB TPHCM, 1988, trang 248

Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ thì học nào là thiên văn, địa lí, chính sự, phong tục tận bên Tàu ( mà nay

họ đã đổi hết rồi), lớn lên ra làm quan thì phải dùng đến thiên văn, địa lí, chính sự, phong tục

của người nước Nam, hoàn toàn khác hẳn” “ Xưa nay trên thế giới trên thế giới chưa có một

nước nào có nền học thuật như vậy. Quả thực lạ đời!”.

Nguyễn Trường Tộ đã đặt ra vấn đề là “ Nước chưa giàu, sao không đặt kế hoạch làm

giàu? Binh chưa mạnh sao không chăm lo võ bị cho mạnh? Dân chưa khôn sao không đem đạo

lý ra giáo dục? Nhân dân đói sao không lập kế mưu sinh để cứu? Kẻ địch bên ngoài sắp muốn

nô dịch, cướp bóc của cải của ta, tại sao không hỏi han, nhắc nhở nhau tìm mưu lập kế ngăn

ngừa? Dân gian không biết luật lệ, phạm nhiều sai lầm sao không chỉ dạy rõ ràng để biết mà

1

tránh? Tại sao không đem tâm lực ra mà lo những việc cần kíp trước mắt, lại đem vào chuyện

P nghĩa là phải áp dụng một nền giáo dục dạy và học mang tính thực

xa xôi không thiết thực?” P12F

dụng.

Muốn vậy trong các trường quốc học, tỉnh học, triều đình phải:

Mở khoa nông chính: phải sưu tập và cho xuất bản bộ sách “ Nông chính toàn thư”, phải

thành lập bộ canh nông như các nước phương Tây để trông coi nông nghiệp. Bởi vì ngành trồng

trọt, chăn nuôi của ta đều phó mặt cho tự nhiên, không có quan viên bày vẽ, giáo dục đốc suất,

dân chúng cứ theo lề thói cũ mà làm không có gì mới mẻ cả thì làm sao có thể hi vọng mỗi ngày

một giàu thịnh để đóng góp thuế khóa cho nhà nước. Cần phải tìm phương pháp nông nghiệp

thích hợp với đất đai, thời tiết sớm muộn ra sao, báo cáo tất cả về tỉnh, tỉnh báo cáo về Bộ để

phối hợp vào sách nông chính. Nếu thấy những gì phát minh được thì soạn thành sách học.

Muốn phát triển nông nghiệp, không chỉ tổng kết kinh nghiệm nông nghiệp ở trong nước

mà phải học tập những thành tự khoa học nông nghiệp, thủy lợi của phương Tây. Chỉ có như

vậy dân mới không thiếu ăn, lễ nghĩa mới bảo đảm, thuế khóa với nhà nước mới được bảo đảm.

Mở khoa công nghệ: nhiệm vụ của khoa này là tìm trong các sách Nho từ trước tới nay

xem chỗ nào nói đến cơ xảo dù chỉ một vài câu cũng phải nhặt hết, thu thập sửa lại cho đúng.

Ngoài ra phải học trong các sách Tây viết về máy móc, về nguồn lợi khoáng sản…cho dịch

1 Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ:con người và di thảo, NXB TPHCM, 1988, trang 254

thuật, biên soạn rồi xuất bản.

Phải lập khoa công nghệ, đặt thể lệ cho nó hẳn hoi để dân thấy rõ rằng triều đình xem việc

này là quan trọng, ai học sẽ thành danh lập nghiệp. Nếu không, họ vẫn đua nhau miệt mài văn

tự theo lối học khoa cử mà thôi.

Để hình thành và phát triển một nền kỹ nghệ mới, Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình đi

học tập kỹ thuật từ các nước phương Tây. Vừa học kỹ thuật vừa học khoa học cơ bản. Đó là

quan điểm rất đúng trong sự phát triển khoa học kỹ thuật.

Ta thấy ngay từ thế kỷ XIX Nguyễn Trường Tộ rất quan tâm đến việc mở mang dân trí,

nhưng đả phá lối học “tự kỷ”, tức chủ quan, lấy con người làm trung tâm mà đo lường vũ trụ.

Ông đả kích lối học kinh viện, đề cao kết hợp giữa học lý thuyết với thực hành cùng việc mua

sắm khí cụ. Nội dung học tập không chỉ văn chương mà bao gồm cả các khoa học khác. Vấn đề

đặt ra của ông về các cách giáo dục mang tầm chiến lược. Ông tự nhận mình kiến thức không

sâu nhưng phải thấy rõ sự uyên bác và tính tổng hợp của ông. Có thể nói những đề xuất về chủ

trương lớn cần phải giải quyết lúc đó được tóm tắt trong di thảo số 27: “ Tám việc cần làm gấp”

( Tế cấp bát điều) dài mấy chục nghìn chữ nhưng trong từng mục, với đầu óc thực tiễn ông đã

phân tích hiện trạng và đề xuất ý kiến cụ thể chứ không nói chung chung.

Ngoài Nguyễn Trường Tộ còn có nhà canh tân lỗi lạc Nguyễn Lộ Trạch với quan điểm yêu

nước đổi mới lúc này là: muốn chống Pháp, bảo vệ đất nước phải tự cường, canh tân đất nước.

Năm 20 tuổi ông đã tiếp xúc với sách giáo khoa của phương Tây và tân thư của Trung

Quốc truyền vào nước ta. Những quan lại, nho sĩ ưu thời mẫn thế ân cần đón nhận chúng như

một khát khao của thời đại. Đây cũng là thời kỳ ông đã nghe, đã tiếp cận với các bản điều trần

đầy nhiệt huyết, sôi nổi của Nguyễn Trường Tộ, người đã nổ phát đại bác đầu tiên vào thành trì

bảo thủ của Vương triều Tự Đức với những bản điều trần đầy tâm huyết nhưng đã bị chế độ nhà

Nguyễn thờ ơ lạnh lùng cuối cùng bị bỏ rơi trong im lặng.

Sau khi Nguyễn Trường Tộ qua đời, tình hình nước ta càng trở nên nguy cấp. Năm 1873,

Pháp đưa quân đánh ra Bắc Kỳ, Năm 1874, nhà Nguyễn phải ký hòa ước Giáp Tuất, Triều đình

Huế chịu nhượng bộ nhục nhã nhưng lại giữ một thái độ tự mãn, cấu an. Năm 1875, Pháp cử

Rheinart làm khâm sứ Bắc Kỳ, năm sau cử Philastre thay. Trước tình thế đó năm 1877 Nguyễn

Lộ Trạch soạn bản điều trần mang tên thời vụ sách, nhờ Trần Tiễn Thành ( Thượng thư Bộ Binh

– người tích cực ủng hộ canh tân đất nước cũng là nhạc phụ của Nguyễn Lộ Trạch) gửi trực tiếp

lên Tự Đức.

Tuy không được thực thi theo ý muốn nhưng gây được tiếng vang lớn trong công luận và

có ảnh hưởng nhất định đến triều đình.

Tháng 4 năm 1882, đại tá Henri Rivie đem quân đánh Hà Nội lần thứ 2, thành Hà nội bị

thất thủ, tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Nguyễn Lộ Trạch viết tiếp bản điều trần thứ hai gọi là “

Thời vụ thượng sách hạ” nhờ Lê Đại chuyển lên triều đình nhưng triều đình vẫn làm ngơ.

Do trăn trở về các giải pháp cứu nước khôn nguôi, Nguyễn Lộ Trạch lại giành nhiều tâm

sức nghiên cứu tình hình thế giới và trong nước. Nhân khoa thi Hội năm Nhâm Thìn ( 1892)

đầu đề thi có hỏi về tình hình thế giới. Tuy không đi thi như Nguyễn Lộ Trạch đã viết một bài

luận nhan đề “Thiên hạ đại thế luận” nhằm cung cấp những hiểu biết của mình về thế giới,

những dự báo trong tương lai và đề ra các biện pháp để cứu nước cấp thời.

“Thiên hạ đại thế luận” là một hồi chuông cảnh tỉnh triều đình, khích lệ giới sĩ phu, gây

được phấn chấn trong nhân dân. Ảnh hưởng và uy tín của Nguyễn Lộ Trạch qua bài bài “Thiên

hạ đại thế luận” đã nâng ông lên tầm vóc mới.

Ông chủ trương vận động Duy tân, cải cách thực nghiệp, mở rộng tài chính. Trong lĩnh vực

giáo dục chủ trương xuất dương du học, hoạt động ở nước ngoài, học kỹ thuật để chống giặc (

Thời vụ thượng sách hạ). ông đề nghị “ Tôi xin hãy chọn con em các quan đại thần cùng các cử

nhân, tú tài, đã làm quan hoặc chưa làm quan sao cho được những người anh tài, tuấn kiệt để rồi

dùng lễ nhiều lương hậu, phái ra nước ngoài học tập, định kỳ hạn đi về cho nghiêm minh, khen

thưởng cho đầy đủ, thì người ta sẽ vui lòng vì được khuyến khích, chỉ mấy năm mà thành tài”

Biện pháp học kỹ thuật phương Tây để tự cường, canh tân đất nước rất thiết thực phù hợp

với trào lưu công nghệ của thế giới nhưng rất tiếc triều đình Nguyễn không lấy đó là quyết sách

để phát triển đất nước. Cuối cùng để chủ nghĩa thực dân nhấn chìm con thuyền tự chủ của dân

tộc.

Ngoài Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch ở thế kỷ XIX còn có hàng loạt các nhà canh

tân khác như Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện…họ đã dành trọn đời mình dâng kế sách

hy vọng triều đình dùng nó nhưng đến cuối đời họ triều đình cũng không chịu thực thi.

Nhìn chung mục đích cuối cùng của chủ trương canh tân thế kỷ XIX là để bảo vệ chủ

quyền quốc gia đã và đang rơi vào tay Pháp, trước khi Pháp xâm lược chế độ phong kiến rơi

tình trạng suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội đã đẩy nhà Nguyễn dưới thời Tự Đức vào tình

trạng tiến thoái lưỡng nan khi vừa phải đối phó với yêu cầu khắc phục sự suy thoái vừa phải đối

phó với thực dân Pháp. Cũng phải thừa nhận rằng chính tiếng súng của kẻ xâm lược đã làm thức

tỉnh Tự Đức và triều đình về tình trạng bi thảm của đất nước. Từ thực tế đó một bộ phận tri thức

phong kiến có tư tưởng cấp tiến đã nhận thấy nguyên nhân dẫn tới mất chủ quyền quốc gia là

khoảng cách khá xa của hai quốc gia trên thước đo của sự phát triển. Cải cách trong lĩnh vực

giáo dục và các mặt khác một cách toàn diện theo mẫu hình phương Tây đã trở thành một biện

pháp, một phương tiện để có thể hy vọng làm cho quốc gia hùng mạnh hòng giành lại chủ

quyền và đảm bảo cho một nền độc lập tự chủ lâu dài.

Canh tân là mục đích hay phương tiện? Canh tân cải cách đòi hỏi phải có thời gian, trong

khi đó sự sống còn của quốc gia đang được tính bằng ngày giờ. Canh tân để chống Pháp nhưng

nước xa không cứu được lửa gần đó là tất cả những đòi hỏi phải có lời giải đáp. Dù sao đi nữa

cũng phải thừa nhận những người đại diện cho khuynh hướng canh tân đã lựa chọn sự hòa hoãn

với thực dân Pháp, có lẽ đây là sự lựa chọn cho một phương án duy nhất đúng với thời điểm

lịch sử hiện tại. Nghịch lý canh tân cuối thế kỷ XIX nằm ở chổ canh tân theo mẫu hình phương

Tây nhằm chống lại người đã sản sinh ra nó. Ngoài ra còn nguyên nhân nữa khiến các cuộc

canh tân không thực hiện được đó là việc dựa vào nàh nước phong kiến và thông qua chính nhà

nước phong kiến để canh tân, nghịch lý ở chỗ canh tân theo mô hình phương Tây là đụng chạm

tới cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước phong kiến, hơn thế nữa nó không giải quyết trực tiếp

nhu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia trong đó có lợi ích của tầng lớp vua quan phong kiến.

2.1.5.2 Các cuộc canh tân ở đầu thế kỷ XX

Sang đầu thế kỷ XX, chủ trương canh tân của các sĩ phu phong kiến đã bước đầu tiếp cận

với yêu cầu dân chủ, chống chuyên chế phong kiến bằng các biện pháp mở mang dân trí, giác

ngộ quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước. Vì vậy có nhiều ảnh hưởng

và tác động sâu sắc đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Đại diện xuất sắc cho trào

lưu canh tân thế kỷ XX đó là hai sĩ phu yêu nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

Trong khoảng mười năm cuối thế kỷ XIX, Phan Bội Châu vừa là một thầy dạy học để nuôi

cha già, vừa tìm đọc thêm tân thư, tân báo và mở rộng giao du, tìm người đồng tâm, đồng chí

chuẩn bị cho cuộc canh tân cứu nước. Năm 1900, ông dự kỳ thi hương và đỗ thủ khoa trường

Nghệ, thế là đã có hư danh để che mắt đời, Phan Bội Châu chính thức bước vào cuộc đời hoạt

động cách mạng. Cùng với bạn bè đồng chí Phan Bội Châu thành lập Duy Tân ( 1904), chủ

trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt

Nam, lập chính phủ độc lập.

Mặc dù ông thiên về xu hướng bạo động để giải phóng dân tộc nhưng trong xu hướng bạo

động lại hết sức chú ý đến cải cách trước hết là ở lãnh vực giáo dục. Đầu năm 1805, Phan Bội

Châu đã lãnh đạo phong trào Đông Du, từ 1805 – 1908, Phan đã tổ chức cho ngót 200 thanh

niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập ở các trường Đồng văn thư viện, Chấn phủ học

hiệu. Ở đây Phan đã lập ra Công hiệp hội để quản lý việc học tập, tu dưỡng tư tưởng, đạo đức

của lưu học sinh. Tháng 3 năm 1909 tổ chức Đông Du bị giải tán nhưng phong trào thực sự là

tiến vang lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong trào lưu cải cách đầu thế kỷ XX. Ông ý thức rất rõ cần

phải phát triển giáo dục vì nó là gốc rễ của nền chính trị, muốn thực hiện dân chủ nhân dân phải

có hiểu biết. Ông viết “ Giáo dục là gốc rễ để xây dựng nền chính trị". Tư tưởng khai dân trí

thực sự làm cho dân tộc thay đổi tư duy cũ kỹ để vươn lên tầm nhận thức mới cao hơn, phù hợp

với sự phát triển của thời đại.

Cùng với Phan Bội Châu, nhà cách mạng Phan Châu Trinh cũng là người chịu ảnh hưởng

của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản ( qua các sách báo “ Tân thư” của Trung Quốc). Năm

1900, ông thi đỗ cử nhân, năm 1901 thi hội, đổ phó bảng, được bổ nhiệm làm thừa biện bộ Lễ,

nhưng sau khi tiếp thu được tư tưởng dân chủ tư sản phương tây ông nhanh chóng từ quan, liên

lạc với các nhà yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đề xướng phong trào Duy tân

và bắt đầu hoạt động khá tích cực ở các tỉnh miền Trung như lập trường học kiểu mới, lập các

hội nông, công, thương… Ông vạch ra nguyên nhân sự hèn kém của dân tộc, ông khảo cứu lịch

sử nước nhà và đi đến kết luận “ Lấy lịch sử mà nói dân tộc Việt Nam không phải là một dân

tộc hèn hạ, mà cũng không phải là mộ dân tộc không thông minh, thế thì lẽ nào ở dưới quyền

1 không chịu học cái hay, cái khéo của người”P13F

P

bảo hộ hơn 60 năm nay mà vẫn còn mê mê muội muội, bịt mắt, vít tay không chịu xem xét,

Chiếm một vị trí quan trọng trong các trào lưu canh tân cải cách thế kỷ XX bởi sự thức

thời, tầm nhìn xa trông rộng của những người tổ chức cơ sở giáo dục có tính chất cách mạng đó

là sự ra đời của mô hình giáo dục mới ở Hà Nội năm 1907 đó là Đông Kinh nghĩa thục.

Đông kinh nghĩa thục là một chủ trương cụ thể của phong trào duy tân, đã có những cải

cách giáo dục hết sức tiến bộ, đóng góp cực kỳ quan trọng trong hai lĩnh vực văn hóa, giáo dục.

Đó là mô hình giáo dục mới và tinh thần tự phê phán dân tộc.

Trong hoạt động cách mạng cứu nước, những nhà cải cách hiểu rằng con đường cứu nước

rất gian nan, kéo dài do chủ trương, tương quan lực lượng quá chênh lệch và muốn giành thắng

lợi phải kết hợp giữa đấu tranh vũ trang và hòa bình, hợp pháp, đấu tranh trong nước và nước

ngoài, dựa vào sức mình nhưng phải biết khai thác sự giúp đỡ ở nước ngoài, đồng thời coi trọng

mở mang dân trí, bồi dưỡng dân khí.

Sáng kiến thành lập một nghĩa thục, một trường học dạy làm việc nghĩa, không lấy tiến,

nhằm đào tạo lớp trẻ là do sáng kiến của cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh nghĩ ra đầu tiên

từ kinh nghiệm của Khánh Ứng nghĩa thục ở Đông Kinh – Nhật Bản, khi hai cụ đang ở đây trên

đường tìm đường cứu nước. Và chính sự gặp gỡ sau đó hai nhà yêu nước cùng với Lương Văn

Can và Tăng Bạt Hổ đã quyết định thành lập nghĩa thục.

Nghĩa thục lấy tên là Đông Kinh tức tên gọi thành Hà Nội thời Hồ, một triều đại tuy tồn tại

ngắn ngủi nhưng có những cải cách quan trọng về giáo dục – văn hóa, do đó việc gợi lại ký ức

về nhà Hồ chắc là việc làm không phải ngẫu nhiên. Và tên Đông Kinh trùng với tên thủ đô của

Nhật Bản cũng có thể là một dụng ý của những người sáng lập nghĩa thục.

Mục tiêu của nhà trường được xác định là:

1 Nguyễn Văn Dương, tuyển tập Phan Châu Trinh, NXB Đà Nẵng, 1995, trang 787

Nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc và chí tiến thủ cho quần chúng. -

Truyền bá một nền học thuật mới và một nếp sống văn minh, tiến bộ. -

Phối hợp hành động cùng các sĩ phu đã xuất dương và hỗ trợ cho phong trào Đông -

Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh đang phát triển

khắp ba kỳ.

Ban lãnh đạo của Đông kinh nghĩa thục do Lương Văn Can làm Thục trưởng, Nguyễn

Quyền làm Giám học. Ban sáng lập của trường gồm có 4 người: Lương Văn Can, Nghiêm Xuân

Quảng, Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Vĩnh. Đó là những nhà nho yêu nước, lớp nho sĩ tây

học và người làm việc trong bộ máy chính quyền thực dân.

Nội dung hoạt động Đông kinh nghĩa thục hết sức phong phú, tập trung vào các lĩnh vực

giáo dục, văn hóa, đi vào hoạt động chống nền cựu học, hủ nho, chống chữ Hán, chống khoa cử,

vận động học chữ Quốc ngữ, dạy và học theo phương pháp mới, sửa đổi phép thi, phương pháp

học.

Đông kinh nghĩa thục đã có những đóng góp đột phá, sớm xác định được nguyên lý giáo

dục mới và khác với nền giáo dục Nho học đã tồn tại lâu dài ở Việt Nam. Đó là Đông kinh

nghĩa thục đã phác họa và bước đầu thực hiện một mô hình giáo dục mới: xây dựng Đông kinh

nghĩa thục thành nhà trường đa ngành, đa lĩnh vực mặc dù đang trong thời kỳ manh nha. Đông

kinh nghĩa thục cũng đã đặt vấn đề phổ cập giáo dục thể hiện ở đối tượng được hưởng nền giáo

dục mới này là toàn dân, không phân biệt giàu nghèo, tuổi tác, không phân biệt về giời, đào tạo

và học theo yêu cầu người học.

Đông kinh nghĩa thục đề cao lối học mới, phá bỏ lối học “tầm chương trích cú”, đề cao

việc học chữ Quốc ngữ. Giáo dục toàn diện, người học tùy theo cấp, theo trình độ được học các

môn địa lý, lịch sử, toán pháp, quốc ngữ, trong trường học sinh được phát huy trí lực và dân chủ

của học sinh trong quá trình học.

Trong văn minh Tân học sách, tài liệu được coi là cương lĩnh hoạt động của Đông kinh

nghĩa thục, có đoạn ghi như sau “ cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không phải

1

1 Chương Thâu, Đông kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997 trang 57

nề hà, không cần thể cách gì hết”P14F

Quan điểm mới của Đông kinh nghĩa thục còn thể hiện ở đề cao nhân cách, phát huy óc

sáng tạo, giúp đỡ nhau trong học tập, học để làm người hữu dụng cho đất nước.Đề cao tinh thần

1 khuyến khích học nghề “ Học để làm người dân, chứ không học lối từ chương khoa cử”P15F

dân tộc, lòng yêu nước, óc sáng tạo, thực hiện giáo dục sơ đẳng và giáo dục chuyên môn,

Những yếu tố về vật chất phục vụ cho việc dạy và học cũng được Đông kinh nghĩa thục

chú ý đến như lập Ban tài chính, Ban Tu thư, Thư viện, dịch thuật, in ấn, ký túc xá cho học sinh.

Trong trường còn chú ý dạy chữ Pháp, không cản trở việc dạy và học chữ Hán

Đông kinh nghĩa thục được lập ở Hà Nội nhưng do đáp ứng đúng nhu cầu học hỏi, cầu tiến

của toàn dân nên đã nhanh chóng lan rộng ảnh hưởng đến các tỉnh của cả nước. Giám mục

Nguyễn Quyền đã nêu lên kế hoạch “ chúng tôi lập Đông kinh nghĩa thục ở Hà Nội là cốt thử

nghiệm. nếu thấy thành hiệu thì trong ít lâu ở mỗi kỳ: Trung, Nam, Bắc sẽ có một đại học

đường như thế rồi tính lần lần về sau, mỗi tỉnh, mỗi phủ, huyện cũng có một Đông kinh nghĩa

2 P Song ngay từ đầu, thời gian còn đang thí nghiệm, hoạt động của Đông kinh nghĩa

thục nữaP16F

thục đã có tiếng vang và gây được tiếng vang và gây được ảnh hưởng và phát huy tác dụng của

mình khắp ba kỳ Bắc – Trung – Nam.

Đông kinh nghĩa thục là hạt nhân, là hạt nhân, là đầu não của một cuộc vận động chính trị,

một quá trình chuẩn bị về tư tưởng, tinh thần cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng dân tộc, dân

chủ trong thời kỳ mới.

Đông kinh nghĩa thục không phải là một trường học thuần túy và cũng không đơn thuần là

phong trào cải cách văn hóa – xã hội mà thực chất là một cuộc vận động cách mạng công khai,

hợp pháp. Thực dân Pháp lúc đầu cho phép nhà trường hoạt động nhưng sau vài tháng chúng

nhận ra tính chất nguy hiểm của trường. Trong báo cáo của toàn quyền Klobakowsky gởi về

Pháp có nhận xét về hoạt động tuyên truyền giáo dục của Đông kinh nghĩa thục “ Trong những

1 Đào Trinh Nhất, Đông kinh nghĩa thục, NXB Mai Linh, Hà Nội, 1938, trang 22 2 Nguyễn Hiến Lê, Đông kinh nghĩa thục, NXB Lá Bối, SG năm 1968, trang 22

buổi nói chuyện hay diễn thuyết, bọn họ xúi dục nhân dân thôn quê chống lại chính phủ Pháp và

1

P Trước khi bị thực dân Pháp đóng

bọn quan lại lâu nay cộng tác với sự nghiệp của chúng ta” P17F

cửa Đông kinh nghĩa thục đã kịp thời truyền bá những cái mới cho nhân dân, thổi luồng sinh

khí mới cho văn hóa – giáo dục nước nhà bởi vì người Pháp đã đem văn hóa của họ sang ta, cho

đến 1907 đã có trên bốn mười năm, nhưng chủ yếu là chương trình đào tạo tai sai, những người

giúp việc, nhờ có các nhà Duy tân, chúng ta mới làm quen được với lý thuyết mới, những nhân

vật mới trên khắp toàn cầu. Cho đến thập kỷ 30 trở về sau thì cái mới theo Âu hóa, theo văn

minh tư sản, cũng không phải là những cái mới tiến bộ nhất, phù hợp với cuộc tiến hóa của lịch

sử dân tộc. Công lao của phái duy tân đầu thế kỷ XX chính là ở đó.

2.2. Quan hệ Việt – Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ

2.2.1 Giáo dục Nho học ở Nam Kỳ

Trước khi bị Pháp đô hộ, nền giáo dục ở Việt Nam là nền giáo dục cũ của Nho gia. Nền

giáo dục cũ này chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Hoa, từ chương trình, sách vở, lối học đến

cách thức thi cử. Tổ chức giáo dục xưa được Đào Duy Anh ghi lại như sau trong quyển Việt

Nam Văn Hóa Sử Cương: “Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ

Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao đẳng. Ở Kinh

đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc

bộ Học. Trong dân gian thì xưa nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học thì có thầy khóa,

thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có

người dạy đến trăm nghìn học trò.”

Ba năm mới có một khoa, thi đậu được thì có thể ra làm quan, không thì lui về làm thầy đồ

thầy khóa “tiến vi quan, thối vi sư”. Chữ viết chính thức dùng trong các kỳ thi và trong phạm vi

công quyền là chữ Nho. Lớp người được đào tạo từ lò Nho học cũ là lớp trí thức “Sĩ Phu”, Giới

sĩ phu là giới sát cạnh nhà vua, giúp vua trị nước, thuộc hàng ngũ lãnh đạo quốc gia, là bậc thầy

trong xã hội, đóng vai dẫn đầu, điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong mọi sinh hoạt bảo vệ và

phát triển đất nước. Nước giàu dân mạnh hay suy nhược đói nghèo, trách nhiệm ở giới lãnh đạo,

1 Chương Thâu, Đông kinh nghĩa thụcvà phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997 trang 91, 92

ở kẻ sĩ, nhà Nho.

Lớp trí thức nho sĩ cũng như cái học cũ của nho gia ngự trị trong xã hội Việt Nam từ thời

Lý Trần cho đến khi người Pháp đô hộ ở cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ và đầu thế kỷ XX ở Bắc

Kỳ và Trung Kỳ. Riêng ở Nam Kỳ vì Nam Kỳ Lục Tỉnh chỉ mới được thành hình trọn vẹn từ

giữa thế kỷ XVIII cho nên giáo dục ở đây chưa được tổ chức rộng rãi, chưa có cội rễ ăn sâu vào

lòng đất như ở chốn ngàn năm văn vật của Thăng Long - Hà Nội.

Nho học ở Nam Kỳ hình thành và phát triển là do nhu cầu học tập của nhân dân để hiểu

đạo lí làm người và do yêu cầu của chính quyền nhằm đạo tạo một số người ra làm chính sự và

quản lí xã hội. Nho học ở Nam Kỳ trải qua các giai đoạn: sơ khai ( 1698 – 1788), giai đoạn xây

dựng ( 1789 – 1801) và giai đoạn phát triển ( 1802 – 1858) và giai đoạn suy tàn ( 1859 –

1878).Tuy Nho học Nam Kỳ phát triển muộn hơn các vùng khác nhưng tốc độ phát triển nhanh

nhất là ở Gia Định. Ngay kỳ thi Hương thứ hai dưới triều Nguyễn đã có trường Gia Định. Gia

Định đã có nhiều danh Nho và đào tạo được nhiều nhân tài trên lĩnh vực quản lý xã hội. Nho sĩ

nam Kỳ và Gia Định nói riêng gần gũi với người lao động, có phẩm chất trong sáng, có tiết tháo

và lòng yêu nước, đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm.

Các triều đình phong kiến nói chung và triều Nguyễn nói riêng chọn người làm việc thông

qua thi cử với trường qui nghiêm ngặt và khắc khe “ Triều đình không phải là nhóm cận thần để

hầu hạ và làm việc riêng cho nhà vua mà chính là một hội nghị chung cho cả nước, do sự kén

chọn những người xứng đáng bằng cách thi cử mà đặt ra. Cách thi cử không phân biệt sang hèn,

miễn là ai có học, có hạnh và có đủ tài năng thì ra ứng thí. Người nào đã đỗ rối ra làm quan thì

1

người ấy có chân trong triều đình”P18F

Nho học tuy có những ưu điểm nhất định nhưng giáo dục Nho học lúc bấy giờ đã lỗi thời,

khoa cử đã làm cho người ta sai lầm, những văn cử nghiệp chỉ để khoe khoang với nhau, biệt

lập mỗi nhà một lối. Khi nền cai trị của chính quyền đô hộ Pháp được thiết lập xong thì Nho

học cũng bước vào thời kỳ suy tàn, song Pháp vẫn duy trì được một thời gian do thiếu đội ngũ

giáo viên, chưa chuẩn bị được nội dung, chương trình giáo dục Pháp – Việt. Mặt khác , Pháp

1 Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, quyển II, Bộ giáo dục, Trung tâm học liệu xuất bản, trang 243

phải ưu tiên chuẩn bịngay đội ngũ thôn ngôn để giúp họ giao tiếp, đồng thời Pháp phải đào tạo

một số người Việt dần thay thếnhững thơ lại của triều đình nhà Nguyễn ở Nam Kỳ. Sau thời

gian ổn định Nho học đã bị xóa bỏ để nhường chỗ cho cái học mới hay Tây Học.

Tây học diễn ra ở Nam Kỳ trước nhất vào cuối thế kỷ XIX sau khi người Pháp đặt xong

nền đô hộ ở đây. Nền giáo dục mới này lấy giáo dục Pháp làm khuôn mẫu, dùng tiếng Pháp làm

chuyển ngữ. Trường học gồm có các trường công do chính phủ xây cất, đài thọ chi phí và kiểm

soát, và một số trường tư của Thiên Chúa giáo hoặc của tư nhân. Hệ thống giáo dục mới này

được thiết lập nhằm hai mục tiêu: mục tiêu thực tiễn là đào tạo một số người biết tiếng Pháp,

chữ Quốc Ngữ, và có chút kiến thức về văn minh Tây phương để làm công chức ở ngạch trật

thấp phục vụ cho chính phủ thuộc địa và mục tiêu lý tưởng là đồng hóa người bản xứ biến họ

thành những người Pháp về phương diện văn hóa. Một số nhà trí thức Pháp tự cho họ cái sứ

mạng cao cả là đem văn minh khoa học Âu Tây phổ biến khắp nơi. Đó là sứ mạng văn minh

hóa tức là đi khai hóa các nước chậm tiến, kém văn minh, kém mở mang. Người đầu tiên thực

hiện chính sách đồng hóa văn hóa đó ở Miền Nam là Thống Đốc Le Myre de Vilers.

Le Myre de Vilers là người dân sự đầu tiên được cử sang làm Thống Đốc Nam Kỳ từ năm

1879 đến 1892. Các ông thống đốc trước ông đều là những người bên quân đội, nhất là bên hải

quân. Để thực hiện sứ mạng văn minh hóa dân bản xứ, ông cho mở rất nhiều trường ở mỗi làng

và mỗi tổng cho cấp sơ và tiểu học.

Tuy nhiên vì thiếu hụt ngân sách và không đủ giáo chức cho nên nhiều trường chỉ được mở

ra rồi liền sau đó lại đóng cửa thôi. Sang đầu thế kỷ XX chế độ giáo dục mới mới được thiết lập

ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ sau một vài sửa đổi theo quyết định của Toàn Quyền Paul Beau thời kỳ

1906 - 1907. Theo quyết định này thì một hội đồng cải tổ giáo dục được thành lập để đem chữ

Quốc Ngữ, chữ Pháp và nền tân học vào chương trình học và chế độ khoa cử mới. Các thầy đồ,

thầy khóa ở xã thôn, các quan giáo huấn, đốc học ở phủ, huyện, tỉnh, phải dạy thêm chữ Quốc

Ngữ cho học trò ngoài việc dạy chữ Hán như trước. Các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình đều có

có chút đổi mới từ 1909. Bài luận chữ Quốc Ngữ và bài dịch Pháp văn ra Việt văn được thêm

vào các kỳ thi nhưng chỉ là môn phụ và có tính cách tự nguyện. Trong kỳ thi Hội và thi Đình

năm 1910 có thêm bài thi cách trí, địa dư nước nhà, sử Thái Tây, nhân vật nước nhà và thời sự.

Đặc biệt là bài thi được chấm điểm theo lối mới của Pháp với thang điểm từ 0 đến 20. Triều

đình tựa trên thang điểm đó mà định làm 6 hạng trúng tuyển: Trạng Nguyên (20 điểm), Bảng

Nhãn (18-19 điểm), Thám Hoa (16-17 điểm), đệ nhị giáp Tiến Sĩ (từ 12 đến 15 điểm), Đồng

Tiến Sĩ (từ 10 đến 12 điểm), và Phó Bảng (từ 7 đến 9 điểm).

Song song với việc thành lập hội đồng cải cách giáo dục, một trường sư phạm cũng sẽ

được thiết lập để đào tạo giáo viên tiểu học người Việt. Ngoài ra, trong mục đích tuyên truyền,

Toàn Quyền Paul Beau cũng cho mở một trường đại học hồi năm 1907 ở Hà Nội để thu phục

nhân tâm (sau khi chính quyền cho đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục và bắt giam một số nhà

cách mạng). Nhưng đại học chỉ được mở ra mà không hoạt động, phải đến năm 1918, dưới thời

Toàn Quyền Albert Sarraut, trường mới thật sự mở cửa. Trước đó một năm, năm 1917, chánh

quyền thuộc địa đã cho ban hành một hệ thống giáo dục mới có qui cũ, thống nhất trên toàn

quốc, về tất cả các phương diện tổ chức hành chánh, chương trình học, qui chế giáo chức và tổ

chức thi cử. Đến đây nền Nho học ở Nam Kỳ nói riêng và trên toàn quốc nói chung hoàn toàn

lui vào bóng tối nhường chổ cho nền giáo dục mới.

2.2.2 Tác động của giáo dục Nho học đến mọi lĩnh vực xã hội ở Nam Kỳ

Truyền thống lâu đời của người Việt rất coi trọng gia đình, coi trọng nhân phẩm, rèn dũa

đạo đức, lối sống. Ảnh hưởng của Nho giáo càng làm cho truyền thống này được củng cố, bền

chặt nâng cao thêm một bậc.

Nho giáo thâm nhập sâu rộng trong mọi tầng lớp xã hội, làm phong phú đời sống văn hoá

cộng đồng, mà ngày nay vẫn có vai trò nhất định trong công cuộc xây dựng làng văn hóa, góp

phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Đóng góp nổi bật khác của Nho giáo là chú trọng giáo dục. Giáo dục Nho học chủ trương

lấy đức dục làm gốc, lấy trí dục làm ngọn.

Ảnh hưởng của Nho giáo tại Nam Kỳ ngoài các các vấn đề mang tính chính thống như quá

trình truyền bá kinh điển; ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học, sử học, giáo dục và khoa

cử, đạo đức và luật pháp, chính trị v.v. thì một vấn đề không kém phần quan trọng đó là nghiên

cứu ảnh hưởng và tác động của Nho giáo, Nho học đối với văn hóa dân gian.

Ý thức về dòng họ đi liền với việc xây dựng và duy trì nền nếp gia phong rất được các nhà

Nho quan tâm.

Trí thức Nho giáo ở Việt Nam luôn sống giữa cộng đồng làng xã. Con đường vào đời của

họ là dùi mài kinh sử, theo nghiệp bút nghiên, trải qua các kỳ thi và “tiến vi quan, thoái vi sư”.

Nếu đỗ đạt, họ ra làm quan theo sự điều động của nhà vua, nếu không đỗ đạt, họ suốt đời ở lại

chốn hương thôn, trở thành những trí thức của làng quê. Họ trở thành thầy đồ dạy học, thầy lang

bốc thuốc, họ như những lãnh tụ tinh thần của cộng đồng, trở thành chỗ dựa của xóm làng. Họ

tham gia vào các sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng bằng việc văn bản hóa các truyền thuyết, sự

tích ở địa phương.

Tuy nhiên một tác động rõ ràng, dễ thấy của Nho học đối với đời sống xã hội ở Nam Kỳ từ

khi Pháp mở màng xâm lược Nam Kỳ 1859 là cách phản ứng, hành xử của người dân Nam Kỳ

trước cảnh nước mất nhà tan.

Trong lịch sử chống xâm lăng nửa sau thế kỷ XIX ở Nam Kỳ nổi bật lên vai trò quan trọng

của nhân dân mà chủ yếu là nông dân từ rất sớm như ngay sau khi thành Gia Định thất thủ đã có

5.800 quân ứng nghĩa từ Hóc Môn dưới sự chỉ huy của Trần Thiện Chánh và Lê Huy kéo về Sài

Gòn chặn giặc, liền sau đó là cơ binh của đồn điền Gia Thuận do trương Định lãnh đạo từ Gò

Công kéo lên đóng giữ ở Thuận Kiều…Quan trọng hơn từ chổ là một lực lượng nhân dân đã

mau chóng thành một động lực của cuộc chiến tranh giữ nước, động lực này ngày càng chiếm

một vị trí chủ đạo khi quân đội triều đình ngày càng vắng mặt dần trên chiến trường sau ngày

Đại đồn Chí Hòa bị thất thủ, từ 1862 trở đi trở thành động lực duy nhất của phong trào võ trang

chống Pháp. Suốt 60 năm thống trị của nhà Nguyễn ( 1802 – 1862) ở Nam Kỳ hoàn toàn không

có một cuộc khởi nghĩa nào nhưng từ 1862 trở đi, một phong trào kháng chiến đã bùng lên ở

khắp ba tỉnh miền Đông. Ở đây chống Pháp cũng là chống triều đình. Lịch sử đã buộc người

dân Nam Kỳ đi đầu trong các cuộc kháng chiến và dẫn đầu cả nước trong việc giải quyết hai

mâu thuẩn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với chủ

nghĩa đề quốc và mâu thuẩn giữa nông dân với địa chủ - phong kiến. Ngay sau hòa ước 1862 thì

hai mâu thuẫn này chưa xuất hiện ở dạng hoàn chỉnh trong xã hội ở Nam Kỳ, càng chưa phản

ánh trọn vẹn trong nhận thức của những người dân yêu nước. Song trong thực tế thì cái dáng vẻ

độc đáo của phong trào vũ trang chống Pháp ở Nam Kỳ sau hòa ước 1862 là nơi giải quyết một

phần mâu thuẩn xã hội của quốc gia phong kiến Việt Nam. Bối cảnh chính trị đặc biệt này đã

tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa của Nho học ở địa phương, tạo ra sự thay đổi sâu sắc và

toàn diện về ý thức chính trị cũng như đời sống tư tưởng của bộ phận ưu tú nhất trong tầng lớp

các nhà nho ở Nam Kỳ, nhất là Gia Định. Tập hợp lại phong trào chống Pháp chẳng nghe theo

Thiên tử chiếu. Các nhà Nho cay đắng trước số phận ngang trái của những anh hùng kháng lệnh

vua mà đi đến con đường chống Pháp. Như nhà Nho Nguyễn Đình Chiểu “ Cuộc trung nghĩa

hai năm làm đại tướng, nhọc nhằn vì nước nào sờn tiếng thị tiếng phi; Cõi An hà một chức chịu

lãnh binh, lây lất theo thời chưa chắc đâu thành đâu bại” ( Điếu Trương tướng quân văn).

Qua đó ta thấy rằng nơi những biểu hiện văn chương nói trên, các Nho sĩ yêu nước Nam

Kỳ trong thực tế đã tách rời chuẩn mực chính trị chính thống “ trung quân” kiểu một chiều của

Nho học. Nổ lực để nhất hóa lý tưởng xã hội Nho học vào truyền thống độc lập dân tộc thông

qua thực tiễn tham gia cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân, các nhà Nho yêu nước

Nam Kỳ trên cương vị là đại biểu lí thuyết của phong trào võ trang chống Pháp kháng mệnh

triều đình đã dấy lên một trào lưu tư tưởng mới trên căn bản truyền thống của nhận thức cũ.

Đây là một trào lưu nảy sinh nhằm giải quyết nhiệm vụ tư tưởng đặt ra trước những nhà nho

yêu nước tại địa phương khi chính quyền phong kiến chính thức bỏ rơi ngọn cờ chống Pháp,

một trào lưu mà trong đó nhiều quan niệm Nho gia được hòa tan và chảy theo dòng ý thức nhân

dân yêu nước, một trào lưu bị triều đình phong kiến đầu hàng cô lập và thực dân đàn áp nên thất

bại nhưng vẫn không bị tiêu diệt, vẫn tồn tại với những biến thái thẩm mỹ và đạo đức đặc biệt

có ảnh hưởng một cách đáng kể tới nhiều mặt của sinh hoạt xã hội ở vùng Nam Kỳ. Và chính

qua sự phát triển vận động của trào lưu này mà họ đã dần dần thừa nhận sự đối lập giữa chuẩn

mực đạo đức của Nho học chính thống với quyền lợi dân tộc và nguyện vọng nhân dân để rồi đi

đến chổ đối kháng với giai cấp phong kiến. Các nhà Nho như Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Đình

Chiểu, Nguyễn Thông…lên án gay gắt triều đình Tự Đức. Chống lại Pháp và nhà Nguyễn nhìn

về phương diện nhận thức lẫn tình cảm thì đây là hành động dũng cảm vì khác với các nhà Nho

Trung và Bắc, các nhà Nho yêu nước ở Nam Kỳ bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược là

tôn phò triều Nguyễn và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sự từ bỏ nhà Nguyễn cũng có ý

ngghĩa như chống lại chính mình nhưng sự từ bỏ một truyền thống đã trở nên lạc hậu ấy là bằng

chứng về tinh thần năng động và khả năng sáng tạo của các nhà Nho trong việc kế tục truyền

thống, họ đã phần nào bức khỏi xiềng xích của đạo lý trung quân.

Tuy nhiên qua thời gian nhất là sau hòa ước Nho học ở Nam Kỳ không còn đáp ứng được

các yêu cầu của xã hội. Sau hòa ước 1862 thực dân Pháp đã khẳng định chế độ trực trị ở Nam

Kỳ trong việc quản lý xã hội đồng thời hướng tới chủ trương khai hóa với nội dung tiêu diệt

Nho học. Sau các trường Dòng là các trường thông ngôn, trường tham biện hậu bổ và nhất là

các trường theo hệ thống giáo dục Pháp – Việt nhằm đào tạo tai sai phục vụ cho chính quyền

thuộc địa. Chữ quốc ngữ ngày càng trở nên phổ biến trong sinh hoạt xã hội và được coi như chữ

viết chính thức. hệ thống chính trị của Pháp ở Nam Kỳ hoàn chỉnh dần theo thời gian thay thế

cho các chuẩn mực phong kiến. các chuẩn mực về giao tiếp ứng xử, phong tục, lối sống thẩm

mỹ và đạo đức cổ truyền của Nho học dần mất đi địa vị độc tôn trước xã hội thị dân kiểu tư bản

đặc biệt là tại Sài Gòn.

2.2.3 Các yếu tố Pháp và Việt trong lĩnh vực giáo dục

Giáo dục ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc là một biểu hiện rõ nét nhất của sự giao lưu văn hóa

Việt – Pháp, có hai yếu tố trong giáo dục Nam Kỳ trong thời gian này là đó là yếu tố Pháp và

Việt, hai yếu tố có sự tác động hữu cơ với nhau, là hai bộ phận ghép thành một chỉnh thể thống

nhất, điều đó được thể hiện rõ nét trong ở các trường học của hệ thống giáo dục Pháp ở Nam Kỳ

trước hết là ở các trường Dòng của đạo Thiên Chúa.

Trước khi Pháp mở trường ở Nam Kỳ thì các nhà truyền giáo đạo Thiên Chúa đã mở

trường dạy học để truyền bá giáo lý. Sau khi Pháp đánh chiếm Gia Định triều đình Huế ký điều

ước 1862 Pháp không thể thay thế một sớm một chiều tất cả hệ thống hành chánh và giáo dục

của triều đình nhà Nguyễn ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

Lúc đầu trẻ em Pháp được gởi vào học trong các trường do các sơ nhà Dòng và các sư

huynh Thiên Chúa giáo giảng dạy. Năm 1862, các sơ nhà Dòng Saint Paul lập một nhà nuôi trẻ

con Pháp và trẻ em lai và một ký túc xá dạy nữ sinh con nhà khá giả người Việt gọi là Trường

Nhà Trắng

Năm 1864, Cha Puginier mở trường Collège d'Adran ở Sài Gòn, địa điểm ở gần Sở thú

hiện nay. Trường do các sư huynh trường Thiên Chúa giáo quản lý. Trường dạy trung học đệ

nhất cấp, tức là chấm dứt ở bằng Thành chung thời bấy giờ. Năm 1866, trường được trao lại cho

các tu sĩ dòng La San. Đây là các tu sĩ dòng La San đầu tiên đến Đông Dương. Năm 1867, dòng

La San mở thêm chi nhánh ở Chợ Lớn, Mỹ tho, rồi Vĩnh Long và Sóc Trăng, vào năm 1869.

Trong thời gian đầu, mọi chi phí của trường D’Adran do Hội Thừa sai đài thọ. Sau đó,

chính quyền thuộc địa tài trợ chi phí trường dòng và học bổng cho học sinh.

Tuy nhiên, tới năm 1879, chính quyền ở Pháp thay đổi chính sách, ngưng tài trợ trường tư.

Do đó, chính quyền thuộc địa ngưng tài trợ các trường dòng La San tại Việt Nam. Trường hoạt

trường trung học công lập đầu tiên ở Việt NamP19F động đến năm 1882 thì đóng cửa vì Hội đồng quản hạt Nam Kỳ ngưng cấp kinh phí. Đây là 1

Trong thời gian hoạt động hơn 20 năm, trường D'Adran Sài Gòn đã đi tiên phong trong

việc dạy học bằng 1Tchữ quốc ngữ1T thay vì 1Tchữ nho1T. Tiếng Pháp cũng chỉ dạy như một ngoại ngữ

và để thi Thành chung.

Ngoài D'Adran Sài Gòn, vào năm 1874 cha Henri de Kerlan xây trường Taberd dạy các

Tây lai, sau đó trường mở rộng cho các học sinh Việt Nam lương và giáo ( 1887). Thầy dạy lúc

đầu các truyền giáo sư rồi đến các Sư huynh trường Thiên Chúa giáo ( 1889). Trường là sản

nghiệp riêng của Hội truyền giáo.

Các trường Thiên Chúa giáo đã bước đầu cung cấp nguồn đào tạo giáo viên cho các trường

trung học trong thời kỳ quá độ từ Nho học sang giáo dục Pháp – Việt và sau này.

Một biểu hiện của yếu tố Pháp – Việt trong giáo dục thời Pháp thuộc nữa là người dạy và

học.

Cho đến năm 1886 ở Nam Kì có 17 trường người Âu đứng đầu, có 10 trường nam, 7

trường nữ. Có 48 giáo viên người Pháp và 78 giáo viên Việt Nam dạy cho 1.829 học sinh của

10 trường Nam 25 giáo viên nam nữ người Pháp và 13 giáo viên Việt Nam dạy cho 992 học

1 Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, NXB TPHCM, trang 228 - 230

sinh của 7 trường nữ.

Các trường quận do xứ thuộc địa đài thọ, một số lớn trường làng do ngân sách địa phương

tài trợ và một số trường khác tồn tại nhờ tiền phụ cấp của các làng và tư nhân.

Có 16 trường hàng quận với 24 giáo viên người Pháp và 51 giáo viên Việt Nam dạy 1663

học sinh, 219 hàng tổng với 270 giáo viên Việt Nam dạy 10.441 học sinh, 91 trường xã vớ 91

1

giáo viên học sinh và 3416 học sinh.P20F

Nội dung giáo dục cũng tồn tại song song yếu tố Pháp – Việt, nội dung chương trình học từ

1879 – 1917 ở Nam Kỳ là nền giáo dục song song Pháp – Việt, nội dung chương trình học ở

thời kỳ này chủ yếu dực vào chương trình Pháp, trong đó phần giáo trình có hai loại giáo trình

tiếng Pháp và giáo trình tiếng Việt ở cả ba cấp học

2.2.4 Chính sách giáo dục và hệ thống giáo dục của Pháp tại Nam Kỳ

2.2.4.1 Từ 1867 – 1897

Sau khi thôn tính xong Nam Kỳ Pháp đã sử dụng giáo dục như một công cụ để phục vụ cho

chính sách cai trị của mình. Vì vậy mục đích giáo dục của Pháp tại Nam Kỳ là nhằm:

Đào tạo những người bản xứ phục vụ cho bộ máy cai trị. -

Đồng hóa người dân Việt Nam nhằm biến họ thành những người ngoan ngoãn, phục -

tùng sự thống trị của Pháp.

Giới thiệu mẫu quốc và sự văn minh của nước mẹ. -

Ca tụng công ơn của mẫu quốc. -

Tuyên truyền phổ biến chính sách của thực dân Pháp. -

Dạy chữ quốc ngữ thay dần chữ Hán, chữ Pháp được đưa vào trường học. -

2

Với mục đích và nội dung giáo dục kể trên, Pháp đã đề ra nhiệm vụ cho giáo dục “ Dạy

P. Người cộng tác lúc

chữ Pháp để người ta hiểu mình và đào tạo những người cộng tác bản xứ”P21F

này chủ yếu là thôn ngôn. Việc đào tạo thôn ngôn trở thành vấn đề sinh tử lúc bấy giờ, không

1 Nguyễn Đăng Tiến chủ biên, Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – 1945, NXB Giáo Dục, 1996, trang 193 2 Nguyễn Anh, Vài nét về giáo dục ở Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, NCLS số 98, tháng 5- 1967, trang 40

thể thiếu được của thực dân Pháp nên ngay khi Pháp chiếm được Chí Hòa ngày 21/9/1861 đô

đốc Nam Kỳ Charner đã chủ trương thành lập một trường để đào tạo thông dịch viên và thư ký

nhằm phục vụ cho công cuộc viễn chinh đó là trường Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine ). Lúc

đầu đây chỉ là một cơ sở đào tạo nhân viên phục vụ cho quân đội viễn chinh và sự chiếm đóng

của Pháp, giáo dục thời gian này tuy chưa mang tính chất rộng rãi nhưng trường Bá Đa Lộc là

nơi đào tạo ra các thầy giáo cho các trường học sau này.

Tuy nhiên trong chủ trương này Pháp gặp phải sự bất hợp tác của các sĩ phu và nhân dân

Nam Kỳ vì họ cho rằng học trường Pháp là phản bội lại dân tộc nên trường đã mở nhưng ngay

từ đầu đã thiếu học sinh trầm trọng trong khi các trường của các thầy đồ ở nông thôn vẫn thu

hút nhiều học sinh.

Sau Charner, thống đốc Nam Kỳ Bonard trong thời kỳ 1861 – 1864 hy vọng sẽ nắm được

các sĩ phu bằng cách chủ trương duy trì hoàn toàn nền giáo dục như cũ ở ba tỉnh Biên Hòa, Gia

Định, Định Tường trừ việc khuyến khích học trò học thêm chữ Pháp. Và một lần nữa dự định

của Bonard không thực hiện được vì trong nội bộ chính quyền Pháp đã cho rằng dự định trên sẽ

khôi phục lại trên đất Nam Kỳ những trường học hoàn toàn chống đối lại nền thống trị của Pháp

lại thêm các sĩ phu cũng tẩy chay, không hưởng ứng nên chủ trương của Bonard không thực

hiện được

Ngày 16/7/1864 đô đốc De la Grandière ra nghị định thành lập một số trường tiểu học ở

các tỉnh để dạy chữ Quốc ngữ và dạy toán nhưng vẫn không thu được nhiều học sinh. Do đó

chính quyền Pháp lại chủ trương “kéo về trường của chúng ta những trẻ em bản xứ ở các vùng

1

lân cận bằng các phần thưởng, các khuyến khích và bằng viễn cảnh những quyền lợi gắn liền

P Năm 1866 Pháp dùng tiền thưởng và mở triển

với một nền giáo dục chắc chắn và thực dụng”P22F

lãm trưng bày những bài luận của học sinh.. Với những việc làm mua chuộc dụ dỗ đó nên đến

2

1866 Pháp đã mở được 47 trường với tổng số học sinh là 1238 ngườiP23F

Ngoài ra chính quyền thực dân còn gởi sang Pháp một số học sinh từ con cái của những tay

sai trung thành. Năm 1867 họ gởi sang Pháp 12 học sinh, sau đó De la Grandière gởi thêm 15

1 Nguyễn Anh, Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, NCLS số 98 tháng 5 năm 1967 trang 41 2 Nguyễn Đăng Tiến chủ biên, Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – 1945, NXB Giáo Dục - 1996

học sinh và đô đốc Ohier càng chú ý đến vấn đề này, Ohier đã gởi đến 80 học sinh nhưng số

1 Pháp cũng là con đường chống lại nước Pháp”P24F

P.

lượng học sinh Việt Nam sang Pháp cũng rất bị hạn chế vì chúng cho rằng “con đường sang

Trước tình thế khó khăn ở Việt Nam, Pháp phải tìm phương án mới trong giáo dục. Ngày

10/7/1871 đô đốc Duprê lại cho thành lập ở Sài Gòn một trường sư phạm thuộc địa ( École

normale coloniale ) để đào tạo giáo viên và nhân viên công sở.

Năm 1873, nhà cầm quyền tổ chức hội nghị giáo dục toàn Nam Kỳ mong tìm một giải

pháp cụ thể cho việc định ra đường lối giáo dục mới hơn . Một điểm mà hội nghị đều phải thừa

nhận là việc tổ chức giáo dục hơn 10 năm qua đã bị thất bại, nhân dân Nam Kỳ vẫn học chữ

Hán và không thiết tha đến chữ quốc ngữ và chữ Pháp.

Năm 1874, nhà cầm quyền Pháp cho tổ chức cơ quan Học chính Nam Kỳ để nghiên cứu và

chỉ đạo giáo dục trong toàn xứ, ngoài ra theo phương án của Luro, Pháp cho mở trường Hậu bổ

do chính Luro làm hiệu trưởng. Trường này nhằm đào tạo đội ngũ tay sai không những cho

2

Nam Kì mà còn chuẩn bị cho việc xâm chiếm Bắc Kì và Trung Kì sau này. Nhưng vẫn không

P nên phải tuyển cả hạ sĩ quan và

đủ số học sinh do “ rất ít người có đủ điều kiện mong muốn”P25F

lính tập vào học. Kết quả với 4 năm tồn tại Pháp đã đào tạo được 50 thanh tra dân sự cho Nam

Kì. Pháp còn lập ở Sài Gòn trường nho sĩ để thu hút nhà nho đầu hàng, chuyên dạy chữ Hán và

duy trì trường dạy chữ Hán đã có từ trước.

Các giải pháp trên nhằm định ra một đường lối giáo dục để đưa công tác này lên một bước

mới hơn nhưng nhân dân Nam Kỳ vẫn tiếp tục học chữ Hán mà không mấy ai đến trường học

chữ Quốc ngữ và chữ Pháp và đây thực sự là mối lo ngại của Pháp. Trước tình hình đó, chính

quyền thực dân ban hành quy chế giáo dục mới vào tháng 11- 1874. Đây là bản quy chế đầu

tiên.

Với bản qui chế này, Pháp cấm các trường tư không được mở cửa nếu không được phép

của chính quyền. Các trường này phải đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân.

Ngày 17 – 3 – 1879, La Font đề ra bản qui chế mới, theo đó tổ chức giáo dục cũ được thay

hàng tổng ( écoles cantonnales), trường cấp II gọi là trường hàng quận ( écoles d’ P

P

1 Sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa ( 1930 – 1945), NXB Sự Thật, Hà Nội, 1960, trang 13 2 Nguyễn Anh, Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất NCLS số 98 tháng 5 năm 1967 trang 41

thế bằng hệ thống giáo dục mới, chia làm ba cấp: cấp I, II và III. Các trường cấp I gọi là trường

arrondissements), trường cấp III gọi là trường trung học, có hai trường trung học là Chaseloup

Laubat và Bá – Đa – Lộc. Trong thời gian chưa có cấp III thì Chaseloup Laubat tạm dạy cấp II.

Về tổ chức, các trường đặt dưới sự chỉ huy của giám đốc Sở nội vụ và chủ tỉnh như bản

quy chế năm 1874 đã quy định. Về thời gian, chương trình thi cấp I học trong 3 năm: học tiếng

Pháp, bốn phép tính, chữ quốc ngữ chỉ có yêu cầu đọc được. Cuối năm thứ ba có chương trình

thi lên cấp II. Cấp II cũng học ba năm: học tiếng Pháp, toán, chữ Nho, chữ quốc ngữ, lịch sử,

địa lí. Chữ nho và chữ quốc ngữ chỉ học hai ngày một tuần, còn các ngày khác học các môn

khác bằng chữ Pháp. Cuối năm thứ II có một kỳ thi lên cấp III, ai đậu được bằng sơ học. Cấp III

học bốn năm, các môn học như cấp II nhưng đi sâu hơn. Hết cấp III có kỳ thi, tốt nghiệp được

cấp bằng cao học.

Theo nghị định ngày 17 – 3 – 1879 Pháp thành lập Sở học chính Nam Kỳ và đặt chương

trình giáo dục đầu tiên ở Nam Kỳ Theo nghị định trên thì các trường công lập là tự nguyện và

miễn phí. Muốn mở trường tư phải có giấy phép của chính quyền. Trường công giáo thì mở

khỏi xin phép. Trường tiểu học dạy chữ Nho ở làng cũng khỏi xin phép và được khuyến khích,

các trường này cũng sẽ được các tham biện, Giám đốc học chính thanh tra và có thể được trợ

cấp tùy theo số học sinh và kết quả học tập. Các trường tiểu học, trường cấp II trước đây được

thay thế bằng trường cấp I, II, III.

Mở trường cấp I ( tiểu học ) ở mỗi trung tâm như sau: hạt Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho,

Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bến Tre, Biên Hòa, Long Xuyên, Gò Công, Trảng Bàng, Cần Thơ, Trà

Vinh, Sa Đéc, Tân An, Châu Đốc, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Rạch Giá, Hà Tiên và Cái Bè.

Năm 1908, Pháp cho thiết lập trường Dự bị mở thêm trường cấp II ( Cao đẳng tiểu học) ở

trung tâm hạt Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Bến Tre.

Trường Collège Chaseloup Laubat được chuyển thành trường cấp III ( ban tú tài Pháp)

Trường Chaseloup Laubat là trường lâu đời nhất trong số các trường Pháp lớn ở Dông

Dương. Trường thành lập theo nghị định 14/11/1874 của thống soái Nam Kỳ - Thiếu tướng hải

quân Krantj. Trường dạy từ tiểu học đến Tú tài chia làm hai khu: khu dành cho người châu Âu

dạy chương trình Pháp và khu dành cho người Việt có học thêm giờ tiếng Việt. Trường đã đào

tạo nhiều học sinh ưu tú thành đạt sau này như Phạm Ngọc Thạch, Trần Văn Giàu, Vương

Hồng Sển…

Về chương trình học:

Trường cấp I: học ba năm, nhận học sinh từ 10 đến 14 tuổi, học sinh phải qua kỳ thi tuyển

( bài thi bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ không bắt buộc)

Giáo trình tiếng Pháp:

- Ngữ pháp tiếng Pháp.

- Bốn phép tính và hệ thống đo lường. Tương quan giữa hai hệ thống đo lường Pháp – Việt.

Giáo trình chữ Hán và chữ quốc ngữ:

- Chữ Hán học Tứ Thư, giải thích, phát triển và làm luận văn chữ Hán

- Bắt đầu tường thuật bằng chữ quốc ngữ.

- Tập đọc chữ quốc ngữ.

Trường cấp II, học ba năm, nhận học sinh từ 12 đến 17 tuổi. Học sinh phải qua các kỳ thi tất

cả các môn học ở cấp I.

- Giáo trình tiếng Pháp: Tiếng Pháp, số học, hình học, địa lý, vẽ, vẽ nghệ thuật

- Giáo trình chữ Hán và chữ quốc ngữ: Tứ thư – phát trtiển, giải thích, luận, tường thuật

hoặc bằng chữ Hán hoặc bằng chữ quốc ngữ; lịch sử và địa lý Việt Nam.

Trường cấp III, học bốn năm.

- Giáo trình tiếng Pháp :tiếng Pháp, số học, hình học phẳng; đại số, lượng giác, phép đo đạc

mặt đất vẽ, cách quản lý sổ sách, hóa học, vật lý, lịch sử tự nhiên.

- Giáo trình chữ Hán và chữ quốc ngữ: tứ thư, luận viết bằng chữ Hán hay quốc ngữ, hôc

các loại văn từ thông dụng ở Việt Nam, lịch sử và địa lý Việt Nam.

Có hai loại bằng: bằng Cao đẳng tiểu học được cấp cho học sinh thi đỗ vào trường cấp III.

Ngững người có bằng này được bổ nhiệm làm giáo viên ( hạng thấp nhất), thông ngôn, thư ký (

hạng thấp nhất)

Bằng Brevet Supérieur ( tương đương bằng tú tài). Kỳ thi bằng này được tổ chức ở Sài Gòn

cho học sinh năm cuối trường cấp III. Học sinh thi đỗ có thể bổ nhiệm làm thôn ngôn, thư ký

hay Nho sĩ thực thụ hoặc làm giáo sư bản xứ

Nhưng “nghị định của La Font không vượt khỏi lĩnh vực lí thuyết. Le myre de Vilers

1

không đồng ý với La Font , Le myre de Vilers bãi bỏ gần như hoàn toàn chữ Nho và đưa giáo

P Có thể thấy người sốt sắng thực hiện mục tiêu văn

viên từ Pháp sang phổ biến tiếng Pháp”P26F

minh hóa người Việt Nam là Le Myre de Vilers. Để thực hiện sứ mạng văn minh hóa người

Việt Le Myre de Vilers cho mở rất nhiều trường học, từ trường sơ cấp ở làng đến trường tiểu

học ở quận và tỉnh, và đặc biệt nhất là mở một trường trung học (collège) ở Nam Kỳ. Đây là

trường trung học đầu tiên và vào cuối thế kỷ XIX đây là trường trung học duy nhất cho cả Nam

Kỳ. Trường chỉ có hai năm học và mang tên là Collège de Mỹ Tho. Nhà văn Hồ Biểu Chánh

(1885-1958) đã từng học ở trường này. Sang thế kỷ XX trường có đủ bốn năm học và được đổi

tên là Collège Le Myre de Vilers, do một số giáo sư của trường đề nghị để ghi nhớ ông Thống

Đốc dân sự đầu tiên đã mở ra trường này và cũng để ghi nhớ công lao của Le Myre de Vilers

đối với việc phát triển nền giáo dục mới ở Nam Kỳ. Đến giữa thập niên 1850 trường được phát

triển thêm, có các lớp đệ nhị cấp đủ để trở thành trường trung học đệ nhị cấp. Trường được đổi

thành Lycée và mang tên một danh nhân Miền Nam Việt Nam: cụ Đồ Chiểu. Danh xưng Lycée

Nguyễn Đình Chiểu rồi Trung Học Nguyễn Đình Chiểu ra đời từ đó và còn mãi đến bây giờ.

Trong hơn 20 năm Pháp đã có nhiều cố gắng để nắm lấy giáo dục nhằm phục vụ cho âm

mưu xâm lược ở vùng đất trực trị Nam Kỳ nhưng kết quả thu được vẫn không đạt được kết quả

giáo dục như mong muốn. Trường học của Pháp mở vẫn thiếu học sinh. Trong trường học sách

giáo khoa, giáo cụ đều thiếu. Hơn nữa chất lượng giáo viên kém...Cho đến 1886, đúng một phần

tư thế kỷ sau khi áp đặt nền giáo dục phục vụ xâm lược lên đất Nam Kỳ, thực dân Pháp dù đã

thay đổi nhiều phương pháp, đề án nhưng vẫn thu được kết quả khiêm tốn không như mong

muốn của nhà cầm quyền. Trong khi đó các trường của các thầy đồ ở nông thôn dù bị chèn ép

dụ dỗ và mua chuộc vẫn có đông học sinh. Nếu tính dân số của Nam kỳ lúc đó là 2 triệu thì số

1 Nguyễn Anh, Vài nét về giáo dục ở Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, tạp chí NCLS số 98 ( tháng 5 – 1967).

đi học chưa được 1 %. Trong khi đó các trường chữ Hán vẫn tồn tại với gần 9000 học sinh và

426 thầy đồ. Đem so với tổng số 27.473 học sinh ( trong đó có 3.567 học sinh của 68 trường

1

của giáo hội ) đi học thì con số học sinh của các thầy đồ chiếm con số đáng kể là 31 %P27F

Bắt đầu năm 1886, Paul Bert, thống sứ Bắc kì và Trung kì đã tiến hành củng cố và mở rộng

bộ máy cai trị về phương diện văn hóa, giáo dục được chú ý hơn.

Paul Bert chủ trương phổ cập chữ Pháp, chữ quốc ngữ, truyền bá ảnh hưởng của chúng

trong nhân dân nhưng cũng không quên chữ Nho cũng rất cần thiết vào lúc này, vì Paul Bert

muốn lợi dụng chữ Nho, duy trì nền giáo dục cũ, nếu xóa bỏ chữ Nho và chế độ khoa cử lúc này

là làm mất hết chỗ dựa căn bản của Pháp. Đó là chưa nói đến Pháp muốn dùng chữ Nho để “

câu” học sinh vào trường của Pháp. Như vậy Paul Bert chủ trương vừa phát triển mở rộng

trường lớp, vừa cải tổ dần dần giáo dục cũ để đi đến thủ tiêu hẳn với cách làm khôn khéo, êm

dịu.

Từ tháng 2 – 1897 đến tháng 3- 1902 Paul Doumer làm toàn quyền Đông Dương đã đẩy

mạnh cải cách giáo dục hơn nữa, quết định trong chương trình kỳ thi hương phải có môn quốc

ngữ và chữ Pháp nhưng chưa bắt buộc.

2.2.4.2 Từ 1897 đến 1918

Tiếp theo Doumer là toàn quyền Beau, theo vết cũ nhưng tích cực hơn.

Năm 1906 toàn quyền Bô thực hiện cải cách giáo dục lần thứ nhất. Theo đó, giáo dục tiểu

học trước đây phó mặc cho các thôn xã hay tư nhân nay trở thành của nhà nước lấy tên là đệ nhị

cấp ( tiểu học ) và đệ tam cấp (trung học). Chương trình học phải thay đổi, thêm vào việc học

của ngày trước những điều khẩn yếu của phương Tây và những tri thức thực hành thông dụng

nhất.

Ngày 15/5/1906 toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập Hội đồng Nam Kỳ, hội

đồng Nam Kỳ cùng với các hội đồng Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Campuchia, Lào sẽ làm việc với Ủy

ban thường trực của hội đồng toàn Đông Dương.

1 Nguyễn Anh, Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất NCLS số 98 tháng 5 năm 1967 trang 43

Nền giáo dục được chia làm ba bậc:

- Sơ cấp ( ấu học).

- Đệ nhị cấp ( tiểu học).

- Đệ tam cấp ( trung học).

Bậc ấu học là trường hàng tổng mở ra cho nam nữ sinh đặt dưới quyền kiểm soát của huấn

đạo và giáo thụ.

Bậc tiểu học: bậc này đặt ở phủ huyện, trong các trường của huấn đạo hay giáo thụ. Học

chữ Nho và chữ quốc ngữ.

Bậc trung học: bậc này đặt ở tỉnh lị trong nhà trường của đốc học. Chương trình học gồm

một phần chữ Nho, một phần chữ Việt và một phần chữ Pháp. Học sinh tốt nghiệp bậc trung

học được dự kì thi Hương ba năm có một khóa thi Hương, kì thi này vẫn theo hình thức và nghi

lễ như trước.

Thi Hội và thi Đình chưa có gì thay đổi.

Qua cuộc cải cách này ta thấy Pháp tích cực lợi dụng nền giáo dục phong kiến, kết hợp

giáo dục phong kiến với giáo dục thực dân. Dùng giáo dục phong kiến làm chỗ dựa, tạo điều

kiện cho giáo dục thực dân phát triển. Pháp đã tiến hành cải tổ về mặt hình thức, còn nội dung

vẫn duy trì hệ thống tư tưởng Nho giáo, đồng thời điểm một nội dung mới mẻ nhưng thực ra là

nội dung nô dịch nhân dân.

1

Theo con số thống kê không đầy đủ của Pháp để lại thì tình hình giáo dục cho người Việt ở

P:

Nam Kì năm 1916 như sauP28F

GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT NĂM 1916

Tiểu học Trung học

Trường học Học sinh Trường học Học sinh

Trường tiểu học ở các 51.137 3 trường: Mĩ Tho, Gia 353

1 Nguyễn Anh, Vài nét về giáo dục Nam Kỳ từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, NCLS, số 98 tháng 5-1967 trang 47

tỉnh, trường ở Sài Gòn Định, Satxơlu Lôba

khoảng 798 trường

1

HỌC SINH TRÚNG TUYỂN QUA CÁC KỲ THIP29F

Kỳ thi Nam Kỳ

Thí sinh Trúng tuyển

Trung học 82 45

2.2.4.3 Từ 1918 - 1945

Sự tồn tại hai nền giáo dục trên là điều bất hợp lí và bị dư luận của người bản xứ lẫn người

Pháp phản đối. Năm 1917 Albert Sarraut được bổ nhiệm làm toàn quyền Đông Dương và thời

gian thăm dò Albert Sarraut quyết định bãi bỏ nền giáo dục cũ cùng với chế độ khoa cử của nó.

Ngày 14-6-1919 nhà Nguyễn đã ra chỉ dụ bải bỏ hoàn toàn các trường chữ Nho và thay thế

bằng hệ thống trường Pháp – Việt, giao các trường và giao việc thi cử cho thực dân. Ngày

21/12/1917, Albert Sarraut đã ký quyết định ban hành “ Học chính tổng quy” .Quy chế này

được thay đổi năm 1926, chính quyền thuộc địa thiết lập chức tổng Thanh Tra học chính Đông

Dương đặt dưới quyền lãnh đạo tối cao của toàn quyền Đông Dương.

Ở cấp toàn quốc có Nha Học chính Đông Pháp, ở mỗi kỳ có Nha học chính của từng kỳ.

Nha học chính ở mỗi kỳ quản lý toàn bộ các trường trung và tiểu học thuộc phạm vi lãnh thổ, ở

các tỉnh có đốc học quản lý. Về mặt tổ chức giáo dục bao gồm giáo dục phổ thông và giáo dục

thực nghiệp.

Về hệ thống giáo dục chia làm ba cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng hay đại học. Lúc này ở

Việt Nam có hai loại trường: trường Pháp theo chương trình chính quốc và trường Pháp – Việt

theo chương trình bản xứ.

Trong thời kì cải cách giáo dục lần hai này các trường chuyên nghiệp cũng được Pháp chú

ý hơn trước. Đầu tiên chúng mở trường kĩ nghệ ở Sài Gòn sau đó Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Hà

1 Phan Trọng Báu, Giáo dục Việt Nam thời Cận Đại, NXB Khoa học xã hội , Hà Nội, 1994, trang 79

Tiên, Sa Đéc, Cần Thơ. Các loại trường chuyên nghiệp trên ngoài việc đáp ứng cho công cuộc

khai thác thuộc địa trong những năm hòa bình mà còn được Pháp sử dụng để phục vụ chiến

tranh trong những năm 1914 – 1918.

Nếu như chương trình cải cách giáo dục của toàn quyền Paul Beau tiến hành chậm chạp thì

việc thực hiện cải cách của Albert Sarraut được xúc tiến khá tích cực, một là do tình hình tương

đối ổn định, hai là về tổ chức và giảng dạy họ đã tích lũy một số kinh nghiệm thất bại cũng như

thành công, cho nên lần này làm có trọng điểm không chạy theo tuyên truyền chính trị như toàn

quyền Paul Beau đã từng làm. Mặt khác họ cũng phải gấp rút đào tạo một số công nhân và cán

bộ kỹ thuật phục vụ trong các xí nghiệp và đồng điền đang mở rộng. Nhược điểm của cuộc cải

cách này là thời gian học tiều học và trung học quá dài ( 13 năm), chương trình lại quá nặng nề,

đầy ắp những kiến thức hàn lâm không cần thết cho bậc trung học, đồng thời chương trình cũng

bị Pháp hóa cao độ khiến người học cảm thấy tiếng mẹ đẻ như một ngoại ngữ, một ngoại ngữ bị

coi thường, rẽ rúng từ cấu tạo chương trình đến nội dung học tập, còn tiếng Pháp mới là ngôn

ngữ chính. Những nhược điểm này Pháp không cần khắc phục khi nền giáo dục lúc đó chỉ có

mục đích phục vụ cho quyền lợi chủ nghĩa thực dân.

Cho đến những năm cuối của thập kỷ 20, nền giáo dục cơ bản đã ổn định về tổ chức và nội

dung nhưng từ 1930 đến 1945 do tình hình có nhiều biến động phực tạp nên nhà cầm quyền

Pháp phải có những cải cách để đối phó với những biến cố quan trọng trên trong đó bậc tiều học

được thể chế hóa, bậc trung học phổ thông được bổ sung chương trình, bậc đại học được mở

rộng và củng cố đã làm cho giáo dục Việt Nam được hoàn chỉnh hơn trước.

Hệ thống trường lớp bậc tiểu học được quy định lại như sau:

- Trường sơ đẳng yếu lược “ bản xứ” là trường có đủ ba lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng hoặc

chỉ có một hai lớp về bậc sơ đẳng.

- Trường tiểu học là trường ngoài bậc sơ đẳng yếu lược ra lớp nhì đệ nhất, nhì đệ nhị và lớp

nhất hoặc một hai lớp trên bậc tiểu học. Trường hợp này đặt ngoài phủ huyện hoặc tỉnh lị.

Sau khi học xong lớp sơ đẳng phải trải qua kì thi Sơ học yếu lược và học hết tiểu học học

sinh được thi lấy bằng tiểu học Pháp – Việt. Như vậy bậc tiểu học được chia làm hai: sơ học và

tiểu học.

Ở bậc trung học chương trình được hoàn chỉnh hơn, ở bậc này Pháp cho sửa đổi việc dạy

quốc văn và tái lập ban cổ điển. Ngày 31/8/1941, toàn quyền Đông Dương kí nghị định thành

lập ban cổ điển Pháp ở trường Petrus Ký. Ngày 5/5/1942, một nghị định ban bố thành lập ban

trung học cổ điển Viễn Đông. Đến đây việc biên soạn và hệ thống lại chương trình Việt văn bậc

trung học, tổ chức thêm ban cổ điển Pháp và cổ điển Viễn đông chia tú tài thành hai ban toán

học và triết học, thêm vào đó ở giai đoạn trước bằng tú tài bản xứ có giá trị tương đương với

bằng tú tài Pháp. Chương trình bậc trung học đã hoàn chỉnh.

Tuy nhiên về số lượng trường trung học thì không thêm, ở Nam Kỳ vẫn là bốn trường: Le

Myre de Vilers, Lycée Petrus Ký, Gia Long, và Collège de Cần Thơ

Trong bốn trường nói trên chỉ có trường Lycée Petrus Ký duy nhất là trường có ban Tú Tài

( như trung học đệ nhị cấp sau này).Từ năm 1936 – 1937 ở Nam Kỳ có số tỉnh là 24 thì số

trường trung học chỉ có một là Lycée Petrus Ký ở Sài Gòn. Các trường kia chỉ có đến Năm Thứ

Tư bậc Cao Đẳng Tiểu Học, trừ trường Le Myre de Vilers có được thêm các lớp Seconde và

Première từ giữa thập niên 1940. Tuy chỉ là trường trung học nhưng vào thời gian này (1920-

1945) các trường trung học là các trường cao cấp nhất trong xã hội Nam Kỳ, đóng vai những

trường quan trọng nhất trong lãnh vực đào tạo người trí thức tân học thay thế lớp người theo

nho học ngày trước. Hầu hết những người xem như hạng trí thức tân học đều có qua ngưỡng

cửa của các trường trung học này. Đây là nơi đào tạo những người trí thức mới thay thế cho lớp

sĩ phu cũ trong vai trò dạy học và làm quan. Ở thời trước năm 1945 người có học được tới bậc

trung học là kể như đã là người trí thức .Một số ít người học lên cao nữa thì có thể kể vào hàng

đại trí thức của xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh. Những người có học lên cao nữa thì cũng phải đi qua các

trường trung học nói trên trước khi tiếp tục việc học ở Hà Nội hay ở Pháp. Giáo viên các lớp sơ

cấp chỉ cần có bằng Sơ Tiểu (Certificat) là đủ tư cách để dạy ở các trường trong xã. Ở trong

làng có học được đến Certificat là kể như hạng trí thức tại địa phương. Có bằng diplôme là đã

có thể làm thầy giáo dạy các lớp Tiểu học của trường lớn ở quận hay tỉnh, hoặc làm thầy thông,

thầy ký trong cơ quan công quyền hay và các tư sở. Có Tú Tài là có thể làm giáo sư dạy Trung

học. Số người có Cử Nhân trở lên thì thật quý giá vô cùng, chỉ đếm được trên đầu ngón tay

trong cả Nam Kỳ.

Được chọn lựa vào học các trường này là thành phần ưu tú của xã hội Nam Kỳ. Không

mấy người được đi học ở các trường trung học này. So với tổng số thanh thiếu niên cùng lứa

tuổi ở Nam Kỳ có lẽ số người được đi học ở đây không hơn một phần trăm.

Nhìn chung trong giai đoạn từ 1930 đến 1945 là giai đoạn đầy biến động, nhà cầm quyền

Pháp đã không ngừng đối phó và giáo dục ở Nam Kỳ nói riêng và cả nước nói chung bị cuốn

hút theo quỹ đạo chung đó. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng sự sửa đổi đã làm cho nền giáo

dục hoàn chỉnh và một số mặt đã đạt đến trình độ hiện đại và vì là giáo dục thực dân nên nền

giáo dục ở Nam Kỳ và cả nước đều mang tính hai mặt, mặc tích cực như đã nói trên còn mặt

tiêu cực là mục đích của giáo dục là nhằm phục vụ lâu dài của chủ nghĩa đế quốc Pháp.

2.2.5 Ảnh hưởng văn hóa Pháp đến văn hóa Việt trong lĩnh vực giáo dục

Sự xâm lược của thực dân Pháp vào Việt Nam đã tạo ra một sự đứt đoạn lớn trong lịch sử

dân tộc. Một mặt, nó gây ra cho dân tộc ta nhiều đau khổ; mặt khác, với tư cách là một công cụ

vô ý thức của lịch sử, nó phá vỡ cái vòng phát triển luẩn quẩn của một xã hội nông nghiệp cổ

truyền...

Văn hóa Việt Nam tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ XVI,

khi các giáo sĩ Kitô đi truyền đạo, khi các thuyền buôn phương Tây đi tìm thị trường. Đây cũng

là thời gian ra đời chữ quốc ngữ, thứ chữ mượn chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt.

Nhưng văn hóa phương Tây chỉ thực sự ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam từ đầu thế kỷ

XX, sau những đợt khai thác thuộc địa. Lớp văn hóa phương Tây tuy mỏng, nhưng sức tác động

của nó là rất lớn. Đây là sự gặp gỡ của nông thôn và thành thị, của nông nghiệp và công nghiệp,

của phương Đông và phương Tây, của Việt Nam và thế giới. Kết quả của sự gặp gỡ này là văn

hóa Việt Nam rời quỹ đạo khu vực, chuyển sang quỹ đạo văn hóa thế giới. Con tàu văn hóa Việt

Nam bắt đầu rời vùng biển nhà để ra khơi.

Cùng với sự khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng hạ tầng cơ sở, như

hệ thống đường bộ xuyên Việt, đường sắt, cầu cống v.v...Ngoài ra, họ cũng khởi động các

ngành công nghiệp chế biến và tiêu dùng. Một số đô thị cũng được xây dựng theo kiến trúc của

các thành phố hiện đại với sự phát triển công thương nghiệp. Ở các thành phố này, dần dần hình

thành một tầng lớp thị dân hiện đại. Họ sẽ là chủ - khách thể của nền văn hóa đô thị đang dần dà

bỏ lại sau các định danh phương Đông và trung đại. Tuy nhiên, cơ sở công thương nghiệp còn

kém phát triển đã làm cho tầng lớp thị dân này chưa có một nhu cầu văn hóa cao, có tính chất

hiện đại. Và, để bù lại điều đó, lớp trí thức - những phần tử ưu tú nhất của tầng lớp thị dân - đã

phải vay mượn, học tập, tiếp nhận ở văn hóa phương Tây tiến bộ.

Cai trị Việt Nam, trước hết, thực dân Pháp dùng chính sách "chia để trị". Cả Đông Dương

chia thành 5 kỳ, Việt Nam có 3 kỳ trong đó: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngoài Tây Nguyên

tự trị, Nam Kỳ và một số thành phố (Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng) trực trị. Bắc Kỳ và

Trung Kỳ theo chế độ bảo hộ, tức người Pháp cai trị thông qua các chính phủ Nam triều. Chế độ

cai trị khác nhau, quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau, người Pháp nghĩ, sẽ dẫn đến sự chia rẽ trong

nội bộ dân chúng Việt Nam, có lợi cho Pháp.

Người Pháp còn bảo lưu chế độ "tự trị" của làng xã, chỉ kiểm soát thông qua bộ máy kỳ

hảo ở làng quê. Điều này, một mặt, tạo điều kiện gìn giữ được nền văn hóa dân gian quý báu

của người Việt, nhưng mặt khác, lại kìm giữ nông thôn Việt trong mối quan hệ phong kiến tối

tăm, cổ hủ, bảo lưu tình trạng bùn lầy nước đọng ở làng quê.

Về giáo dục, ban đầu ở Nam Kỳ người Pháp bảo lưu chế độ giáo dục và thi cử theo Nho

Giáo vì nghĩ rằng, với mục đích trị bình, Nho Giáo sẽ nhanh chóng ổn định nhanh chóng vùng

đất vừa mới bình định xong. Nhưng chẳng bao lâu sau, trước nhu cầu cần viên chức hành chính,

thông ngôn, thư ký cho các cơ quan, xí nghiệp, công ty..., họ đã bãi bỏ chế độ khoa cử và xây

dựng hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây: từ tiểu học, trung học tới đại học. Ngoài ra,

người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur ỏ Sài Gòn (1891).

Chữ quốc ngữ tuy xuất hiện đã lâu, nhưng chỉ tồn tại trong một phạm vi hẹp là cộng đồng

Kitô giáo. Mãi đến giữa thế kỷ XIX ở Nam Kỳ và đầu XX ở Bắc Kỳ, chữ quốc ngữ mới có cơ

hội phát triển tăng tốc. Điều tưởng như nghịch lý là bấy giờ người hô hào học chữ quốc ngữ lại

chính là những nhà nho, những người trước đây ghét cay ghét đắng thứ chữ không phải của

thánh hiền này. Có điều họ là những nhà nho duy tân, thấy quốc ngữ dễ học, dễ truyền bá tư

tưởng canh tân đất nước, nên họ nhảy qua được bóng của mình, dẹp được thành kiến cố hữu của

mình. Mặt khác, người Pháp cũng thấy sự tiện lợi này trong việc truyền bá tư tưởng của họ. Thế

là, các trường dạy tiếng quốc ngữ bắt đầu được thành lập, và chữ quốc ngữ được dùng trong văn

bản giấy tờ chính thức, được sử dụng trên báo chí ấn phẩm. Chữ quốc ngữ, vì thế, đã trở thành

phổ thông, một phương tiện hữu hiệu để lưu trữ và phát triển tiếng Việt hiện đại.

Chữ quốc ngữ ra đời cũng thúc đẩy sự phát triển của báo chí. Đầu tiên chỉ là những tờ công

báo in bằng chữ Pháp và chữ Hán, sau đó xuất hiện các tờ bằng chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ như

Gia định báo (1865), Phan Yên báo, Nông cổ mín đàm (1901), Lục tỉnh tân văn (1907)... Rồi

báo chí phát triển ở tất cả các địa phương, các ngành nghề, các giới. Trong đó những tờ báo có

đóng góp lớn vào xây dựng văn hóa dân tộc như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ

Nữ tân văn, Hữu Thanh, Thực nghiệp dân báo, Phong Hóa, Ngày Nay v.v... Sự phát triển của

báo chí đã thúc đẩy sự phát triển của tiếng Việt, khiến nó trở nên hoàn thiện hơn về ngữ pháp,

được bổ sung thêm những từ mới, nhất là những thuật ngữ khoa học, biến tiếng Việt thành một

ngôn ngữ hiện đại vừa mềm dẻo, tinh tế để có thể diễn tả được mọi sắc thái tình cảm tinh vi của

nội tâm con người, vừa đủ sáng sủa, khúc chiết để diễn đạt một cách logic những vấn đề khoa

học, triết học. Tiếng Việt, nhờ thế, sau cách mạng tháng Tám đã có thể được dùng để giảng dạy

ở cấp đại học. Đây là một điều hết sức kỳ lạ so với các nước ở Châu Phi sau khi dành độc lập

mà vẫn phải dùng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để viết văn, làm thơ và dạy học.

Những giá trị văn hóa phương Tây mang đến cho Việt Nam những giá trị mới như tự do

bình đẳng, dân chủ…là những giá trị nhân văn thuộc về con người mà tư tưởng triết học Ánh

sáng đã nêu ra. Nó giúp người Việt ý thức được giá trị cá nhân. Sự phát triển của cá nhân không

đối lập mà hỗ trợ cho sự phát triển xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong

những động lực phát triển của văn hóa – xã hội.

Cuối cùng, sự phát triển của báo chí và tiếng Việt đã thúc đẩy sự phát triển của văn học

nghệ thuật. Văn học nghệ thuật giai đoạn này ra đời như là kết quả của sự giao thoa văn hóa

Đông và Tây, Việt Nam và Pháp. Nó đã tiến một bước dài trên con đường hiện đại hóa, thế giới

hóa. Tất nhiên, đây chỉ là bước khởi đầu cho một cuộc "hành quân xa" của văn học nghệ thuật

Việt Nam. Nhưng thế nào là hiện đại hóa - thế giới hóa? Nói một cách thô thiển thì thế giới hóa,

hiện đại hóa là người ta có gì thì mình có nấy. Người có thiểu thuyết thì ta cũng có tiểu thuyết,

người có kịch nói thì ta cũng có kịch nói, người có điện ảnh thì ta cũng có điện ảnh. Rồi thì tân

nhạc, vẽ sơn dầu, sơn mài, thể thao, thời trang v.v... Tuy nhiên, một điều quan trọng khác là

chất lượng thẩm mỹ. Có thể nói, văn hóa nghệ thuật giai đoạn này đạt đến một chất lượng thẩm

mỹ rất cao. Nhiều tác phẩm văn học, hội họa, âm nhạc sẽ sống mãi với thời gian, nhiều tên tuổi

nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ sẽ lưu danh trong lịch sử văn hóa nước nhà như những nhà cách tân tiên

phong.

Tóm lại, khi Pháp đến xây dựng một hệ thống giáo dục mới ở Nam Kỳ sau đó thành một

nền giáo dục hoàn chỉnh ở khắp cả nước đã góp phần mang đến cho văn hóa Việt Nam những

giá trị mới như tự do, bình đẳng, dân chủ... là những giá trị tư tưởng Ánh sáng nêu ra. Sau đó,

nó giúp người Việt phát triển được ý thức cá nhân, coi cá nhân như một giá trị. Sự phát triển của

cá nhân không đối lập mà hỗ trợ cho sự phát triển của xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá

nhân đã là một trong những động lực phát triển của văn hóa giai đoạn này. Cuối cùng, thông

qua giáo dục, những nội dung của những giá trị văn hóa phương Tây góp phần đưa văn hóa

Việt Nam chuyển từ quỹ đạo văn hóa khu vực sang quỹ đạo văn hóa thế giới. Từ đây, văn hóa

Việt Nam bắt đầu tham gia vào quá trình hội nhập thế giới.

2.2.6. Vai trò của chính quyền thực dân trong nền giáo dục ở Nam Kỳ

Giáo dục, hiểu theo nghĩa xã hội, là cách thức xã hội hóa con người. Giáo dục có nhiệm vụ

dạy cho con người biết cách sống trong xã hội, biết nền văn hóa mà con người được sinh ra

trong đó để sống cho thích hợp. Cách ăn uống, lễ phép, cách đối xử, các nghề nghiệp sinh sống,

phong tục tập quán v v ... tất cả đều có trong xã hội đương thời và nhiệm vụ của giáo dục (từ

giáo dục trong gia đình đến giáo dục ngoài xã hội) là tập luyện cho con người thích nghi vào

trong xã hội văn hóa đó.

Pháp xâm lược Việt Nam và biến Nam Kỳ thành thuộc địa đầu tiên. Mục đích của chúng ở

vùng đất này là nô dịch. Nam Kỳ là thuộc địa nên thuộc quyền trực trị của Pháp, đứng đầu là

viên thống đốc đóng ở Sài Gòn và muốn đô hộ một dân tộc, nhất là một dân tộc có nền văn

minh lâu đời hơn nước Pháp thì chỉ có chinh phục đất đai thì chưa đủ mà cần phải chinh phục

tâm hồn nữa Và trong cuộc chinh phục tâm hồn đó, giáo dục là một công cụ mạnh nhất. Thực

dân Pháp cũng hiểu rõ pháp luật thì chỉ chinh phục trong thời gian ngắn, chỉ có giáo dục mới

chinh phục con người mãi mãi.

Trước tình hình mới của đất nước ta lúc đó, trước sự phát triển của khoa học và nền văn

hóa, giáo dục tiến bộ trên thế giới thì nền giáo dục phong kiến lúc đó đã đi vào con đường lạc

hậu và phản động, trở thành một trở ngại to lớn cho sự phát triển trí tuệ của dân tộc.

Trước khi Pháp sang xâm lược các nho sĩ thức thời như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ

Trạch, Phạm Huy Thứ… đã nhiều lần lên tiếng phản ánh và đề nghị cải cách giáo dục nhưng

các vua Nguyễn đã không nghe theo, họ vẫn duy trtì nền giáo dục cũ.

Đến khi Pháp hoàn thành xâm lược Nam Kỳ, biến vùng này thành thuộc địa, tiến hành vơ

vét thì nền giáo dục phong kiến đã trở nên lạc hậu không thể nào đáp ứng được nhu cầu của

Pháp. Bởi vì tiếng nói và chữ viết của ta không giúp Pháp giao dịch và tìm hiểu Việt Nam để

Pháp đi sâu vào công cuộc khai thác và bóc lột được.

Từ năm 1868 – 1885, khi Pháp mở rộng chiến tranh ra toàn quốc, thì ở Nam Kỳ, Pháp đã

đầu tư vào công thương nghiệp, khai thác một phần tài nguyên lúa gạo, nhân công dồi dào ở địa

phương. Về giáo dục, Pháp đã có những thay đổi về tổ chức và nội dung giáo dục. Pháp bằng

nhiều thay đổi đã cố gắng tổ chức một nền giáo dục phổ cập để truyền bá chữ quốc ngữ và chữ

Pháp đồng thời xóa bỏ chữ Hán. Người Pháp đã tập trung vào hai mục tiêu cơ bản: một là đào

tạo thông dịch viên và nho sĩ phục vụ cho đội quân xâm lược và bộ máy chính quyền .

Từ năm 1886 – 1905 ở ba kỳ tồn tại ba chế độ giáo dục khác nhau: Nam Kỳ đa số các tổng

xã đều có trường tiểu học Pháp – Việt dạy chữ Pháp và quốc ngữ, chữ Hán bị bãi bỏ hoàn toàn

hoặc chỉ là môn phụ. ở Bắc và trung Kỳ thì số trương dạy chữ Pháp và quốc ngữ còn ít, riêng

Trung Kỳ thì việc dạy chữ Hán vẫn còn tồn tại khắp nơi, sự khác biệt đó đã làm cho Pháp gặp

khó khăn trong việc chỉ đạo. Tuy nhiên những tiền đề cho cuộc cải cách đã xuất hiện đó là

chính trị dần đi vào ổn định, sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân

và cán bộ kỹ thuật có trình độ cao hơn nên về giáo dục Pháp cũng cần có sự thể nghiệm đường

lối giáo dục cao hơn sao cho phù hợp với đất nước có nền văn hóa lâu đời bước đầu tiếp xúc với

nền văn minh phương Tây.

Toàn quyền Paul Beau ký nghị định thành lập hội đồng nghiên cứu cải cách giáo dục và

sau ba năm hoạt động, đến 1906 một nghị định công bố nội dung cải cách ra đời. Ở cuộc cải

cách giáo dục lần thứ nhất 1906, có sự tồn tại song song hai nền giáo dục phong kiến và Pháp –

Việt. Cuộc cải cách này tác động vào những đối tượng chính là hệ thống trường Pháp – Việt, hệ

thống trường dạy chữ Hán và hệ thống trường chuyên nghiệp. Nhìn chung cuộc cải cách này có

những ưu điểm nổi bật đó là sự xâm nhập mạnh mẽ của nền giáo dục Pháp – Việt vào hệ thống

giáo dục phong kiến. Cải cách này mang tính chất toàn diện vì nó tác động đến cả hai hệ thống

giáo dục phong kiến và Pháp – Việt. Mục đích là cố dung hòa hai nền giáo dục nhưng kết quả

vẫn không như Pháp mong đợi, chất lượng giáo dục sau cải cách không đáp ứng được yêu cầu

Pháp đề ra vì thực dân Pháp hy vọng sau thời gian ngắn có thể đào tạo một số công nhân kỹ

thuật và viên chức giúp việc, đó là hướng của các trường Pháp – Việt, còn đối với hệ thống giáo

dục phong kiến sẽ có được một tầng lớp quan lại tuy vẫn lấy cựu học làm chính nhưng đã ít

nhiều có thể làm cầu nối giữa nhân dân với nước bảo hộ. tuy nhiên các trường Pháp – Việt với

14 môn dạy bằng tiếng Pháp trong tổng số 20 môn ngay từ những lớp đầu tiên của bậc tiều học

đã cho thấy sự mô phỏng hầu như hoàn toàn theo chương trình của bậc tiểu học bên Pháp nên

đã gây ra nhiều khó khăn về thầy, sách giáo khoa và cơ sở vật chất nên cuối cùng chất lượng và

hiệu quả không thể cao. Còn nội dung dạy chữ Hán và quốc ngữ ở hệ thống trường chữ Hán thì

tập trung nhiều về luật pháp, phong tục, đơn từ…đối với thi Hội vẫn chưa có gì thay đổi, thí

sinh vẫn phải làm thơ phú, riêng về chữ Pháp và quốc ngữ là thứ chữ còn xa lạ nên học sinh

phải mất rất nhiều thời gian mới có thể lọt qua kỳ thi hương, đến khi thi hội lại phải trình bày

những vấn đề nóng bỏng của xã hội mà họ chưa được học hỏi nhiều nên bài làm nông cạn và

hời hợt do lý giải chủ quan..

Chương trình giáo dục năm 1906 có thể nói là thời kỳ quá độ trên chặn đường phát triền

của giáo dục nước ta lúc đó, sự tồn tại song song hai nền giáo dục là điều bất đắc dĩ, khi chưa có

điều kiện xóa bỏ nền giáo dục phong kiến, hơn nũa kết quả giáo dục không như yêu cầu đề ra.

Lúc này chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Pháp có nhiều triển vọng thắng trận nhưng

tổn thất rất nhiều về người và của nên cần phải chuẩn bị cho một đợt khai thác lớn nhằm bù đắp

thiệt hại cho chiến tranh. Việtc mở rộng kinh tế đòi hỏi phải có thêm công nhân nhất là công

nhân kỹ thuật và nhiều nhân viên có trình độ chuyên môn vững vàng. Trong bối cảnh đó thì nền

giáo dục nữa củ nũa mới không đáp ứng được yêu cầu, họ đã quyết định bãi bỏ nền giáo dục

bản xứ với những thể chế của nó. Năm 1917 Pháp đề ra chương trình cải cách giáo dục lần thứ

hai, xóa bỏ nền giáo dục phong kiến, xác lập và củng cố nền giáo dục Việt Nam. Cải cách lần

này được thực hiện khá tích cực, làm có trọng điểm không chạy theo tuyên truyền chính trị như

trước kia. Mặt khác Pháp đã gấp rút đào tạo được đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ thuật phục vụ

cho các đồn điền và xí nghiệp đang được được mở rộng. Với cải cách này Pháp đã làm được hai

việc lớn là xóa bỏ nền gaió dục phong kiến là một việc làm cần thiết và phù hợp với việc phát

triển của xã hội. nền giáo dục được cũng cố và mở rộng từng bước nền giáo dục, bằng những

hình thức phù hợp như tổ chức các loại trường phổ cập giáo dục ở nông thôn, phát triển giáo

dục trong các cộng đồng dân tộc ít người, tăng cường chương trình và thời gian cho bậc trung

học và công nhận giá trị bằng cấp của nó, cũng cố các trường cao đẳng, tất cả khá đồng bộ làm

chất lượng giáo dục tăng lên rõ rệt.

Sang giai đoạn 1930 -1945 nước ta có nhiều biến động như ảnh hưởng của khủng hoảng

kinh tế thế giới, các phong trào cách mạng lớn nhất là các phongtrào cách mạng do Đảng Cộng

Sản Việt Nam lãnh đạo đã làm cho Pháp phải tìm cách đối phó, Khi Nhật vào cuộc cách cách

mạng ở nước ta đang ở cao trào tiền khởi nghĩa.

Pháp đã đưa ra một số cải cách để đối phó với những biến cố nghiêm trọng nói trên. Giáo

dục trong thời kỳ này cũng có nhiều thay đổi tuy không nhiều nhưng bậc tiểu học được thể chế

hóa, bậc trung học được bổ sung chương trình, bậc đại học được mở rộng và củng cố đã làm

cho nền giáo dục Việt Nam đã hoàn chỉnh hơn trước và một số mặt đã đạt được trình độ hiện

đại lúc đó.

Như vậy chúng ta thấy mặc dù với mục đích không lấy gì làm tốt đẹp nhưng qua những

chính sách giáo dục ở từng thời kỳ thực dân Pháp đã có vai trò lớn trong việc hoàn chỉnh nền

giáo dục Việt Nam thời Cận đại, trong chính sách giáo dục đầu tiên ngay khi Pháp chiếm xong

Nam Kỳ là tổ chức các trường học để đào tạo thông dịch viên và tai sai phục vụ cho công cuộc

viễn chinh, giải quyết bất đồng về ngôn ngữ và đào tạo thư ký làm việc trong các cơ quan hành

chính, kinh tế. Giai đoạn này giáo dục của Pháp chưa phát huy tác dụng nhiều nhưng ở các giai

đoạn sau nhất là qua hai cuộc cải cách thì giáo dục đã từng bước củng cố phát triển và hoàn

chỉnh ở mức độ nhất định, làm cho nền giáo dục Việt Nam thực sự là động lực thúc đẩy xã hội

tiến lên. Vai trò tổ chức đó của Pháp không thể chối cãi.

Trong chương trình học việc đưa chữ quốc ngữ vào bậc tiểu học mặc dù chỉ là ba năm lớp

dưới đã là một cải cách đối với trẻ em khi đến tuổi đến trường. Trước kia ta học chữ Hán là chữ

đã khó mà nghĩa càng khó nhớ hơn, đó là chưa nói đến những nội dung hết sức xa lạ với đầu óc

ngây thơ của lứa tuổi làm cho học trò trở thành những con vẹt. Với những chương trình chữ

quốc ngữ trẻ em sau ba năm đã có một số kiến thức tối thiểu bổ ích cho cuộc sống. Những điều

này trong nền giáo dục Nho học không có hoặc nếu có chỉ rải rác, thiếu hệ thống mà người học

đền độ tuổi nhất định mới có thể nhận thức được. Từ ba lớp trên bậc tiểu học trở đi, học trò

dùng hoàn toàn chữ Pháp, tiếng Việt bị coi như một ngoại ngữ và phải thừa nhận với việc tổ

chức và nội dung chương trình, nhất là các môn khoa học tự nhiên thì chương trình này mang

tính hệ thống cao và càng lên cao càng được mở rộng. Song song với các trường tiểu học và

trung học còn có các trường dạy nghề, đó cũng là điều mà nền giáo dục Nho giáo không có. Đối

với nền giáo dục mới học trò nếu chỉ học xong tiểu học đã có thể vào học nghề ở các xưởng

máy, còn học sinh trung học nếu không có điều kiện học hết tú tài có thể tạt ngang ở bất cứ năm

nào họ cũng có thể tìm bất cứ việc làm để kiếm sống.

Tiểu kết chương 2

Ngay từ khi bắt đầu công cuộc xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã tính đến việc mở trường,

nhằm đào tạo những nhân viên phục vụ cho việc chiếm đóng của Pháp như: thông dịch viên,

thư ký… Nhưng phải đến khi Pháp làm chủ được toàn bộ Nam Kỳ, việc thiết lập một mạng

lưới trường học mới được tiến hành một cách chính thức và bài bản.

Việc thành lập các trường trung học ở Nam Kỳ tiêu biểu là Collège Mỹ Tho, Collège Cần

Thơ… cũng nhằm thực hiện mục đích giáo dục của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Đó

là: chủ trương xoá bỏ nền Nho học cũ ở Việt Nam (theo Pháp, nền Nho học cũ ấy chỉ nhằm tạo

ra lớp người trung thành với chế độ quân chủ Việt Nam, không hề có lợi cho sự cai trị của

Pháp), mà thay thế vào đó bằng nền “Pháp học” để đào tạo nên một tầng lớp trí thức “Tây

học”, phục vụ cho sự vận hành của guồng máy thống trị của Pháp ở Đông Dương.

Thông qua nội dung giáo dục trong trường học là những tác động về mặt tư tưởng: gây cho

người học tâm lý nể phục văn hoá Pháp, ngưỡng mộ “nền văn minh” mà Pháp đem lại cho Việt

Nam, dẫn đến sự biết ơn công lao “khai hoá” của Pháp, từ đó sẽ hợp tác với Pháp, ủng hộ cho

chủ nghĩa “Pháp-Việt đề huề”…

Thực tế lịch sử khách quan cho thấy rằng, về cơ bản, thực dân Pháp đã đạt được mục đích

về đào tạo nhân lực khi các trường học do họ lập nên, các trường học dã liên tục “cho ra lò”

những trí thức “Tây học”, phục vụ hữu hiệu cho guồng máy cai trị thực dân. Nhưng cũng không

thể phủ nhận rằng bên cạnh đó, từ nền giáo dục thực dân mà Pháp áp đặt trên đất nước ta đã nảy

sinh những tác động hoàn toàn trái lại với sự mong đợi của họ.

Để nghiên cứu một hiện tượng văn hóa nào vào thời kỳ thực dân phải xét đến nhiều yếu tố

như chủ nghĩa thực dân, sự tiếp biến văn hóa và vai trò của nhân dân, con người có thể làm tăng

hay giảm hai yếu tố trên. Những yếu tố ấy gắn với nhau rất hữu cơ. Cụ thể trong vấn đề giáo

dục Pháp – Việt ở Nam Kỳ. Mục đích của chủ nghĩa thực dân đề ra ở vùng đất đầu tiên bị chiếm

đóng hoàn toàn không phải là để khai hóa( vì sau khi thết lập hệ thống giáo dục ở Nam Kỳ thì

số người mù chữ vẫn nhiều và tính chung cả nước sau 80 năm đô hộ, 95% dân số nước ta bị mù

chữ) mà để phục vụ cho công cuộc khai thác là chủ yếu. Công cụ giáo dục là chữ quốc ngữ và

chữ Pháp, nó tác động đến tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa Đông – Tây. Chữ quốc ngữ do các giáo

sĩ đặt ra với mục đích truyền giáo được chính quyền thực dân dùng thay cho chữ Hán để việc

cai trị dễ dàng hơn. Những nhà cách mạng ở nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung đã sử

dụng chữ quốc ngữ để nâng cao dân trí. Nha học chính Đông Pháp cho soạn bộ Quốc Văn giáo

khoa thư làm sách tập đọc cho trẻ em, nhằm truyền bà tư tưởng biết ơn Chính phủ bảo hộ.

Nhưng những trí thức Nam Kỳ Tây học có vốn quốc học đã đưa vào trong những bộ sách những

giá trị văn hóa truyền thống, dân tộc, quê hương, cùng với những kiến thức phương Tây và cách

hành văn, tư duy khúc chiết phương Tây.Thành tựu chữ quốc ngữ được nhân dân sử dụng làm

cơ sở hoạt động xã hội, chính trị, văn học, khoa học.

Tiếng Pháp được dạy ở trung học và đại học nhằm đào tạo những công chức trung và cao

cấp cho chế độ thực dân. Nhưng qua sử Pháp dạy ở nhà trường những học sinh ta đã áp dụng tư

tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái của cách mạng Pháp vào hoàn cảnh của đất nước. Vai trò của

không ít giáo sư Pháp gieo rắc tư tưởng tiến bộ không phải là không có. Qua văn chương Pháp,

các nhà văn ta đưa khái niệm cá nhân vào văn học. Một số trí thức đã kết hợp chữ quốc ngữ,

chữ Pháp, chữ Hán …để tạo ra danh từ khoa học, đặt cơ sở cho nền khoa học hiện đại…

Điều đặc biệt là không như các thuộc địa khác của Pháp, ở Nam Kỳ và Việt Nam nói

chung, tiếng Pháp chưa bao giờ trở thành ngôn ngữ của toàn thể dân ta,mặc cho Pháp dùng

nhiều biện pháp, nhiều cuộc cải cách dùng tiếng Pháp như ngôn ngữ chính thức trong công văn,

giấy tờ, trong giáo dục nhà trường để bắt ta học chữ Pháp, ảnh hưởng văn hóa Pháp và đồng hóa

ta.

Cũng như ở những trường học khác trên đất nước Việt Nam, học sinh Nam Kỳ tuy được

học hành theo chương trình “Pháp học” song đa phần họ vẫn không quên cội nguồn. Vốn cần

cù, hiếu học, lại được tiếp cận với kiến thức khoa học tự nhiên, xã hội, các thế hệ học sinh Nam

Kỳ đã một mặt say sưa học tập, nâng cao trình độ kiến thức của bản thân mình. Mặt khác, họ

vẫn hun đúc trong trái tim lòng yêu nước, căm thù giặc, vốn đã trở thành truyền thống bao đời

nay của dân tộc. Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, tận mắt chứng kiến tội ác của bọn thực

dân thống trị gieo rắc trên quê hương, lòng căm thù quân cướp nước trong học sinh nói riêng và

trí thức trẻ Việt Nam nói chung lại càng sôi sục.

Những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường trở thành hành trang quý báu của

những cựu học sinh ở Nam Kỳ trên con đường hoạt động cách mạng và họ đã có những đóng

góp không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau này. Trong số

những cựu học sinh Collège My Tho, có những người đã trở thành những nhà hoạt động cách

mạng lỗi lạc, những nhà khoa học thực tài, những nhà giáo dục lớn như: Đồng chí Phạm Hùng,

nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, nguyên Phó chủ tịch Hội

đồng Nhà nước; Giáo sư-Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Anh hùng lực lượng vũ trang; bác sĩ Nguyễn

Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế…

Tóm lại, việc chính quyền thuộc địa cho xây dựng những trường trung học đầu tiên của

Việt Nam, cũng nằm trong mục đích giáo dục chung mà Pháp đã dày công áp đặt ở Việt Nam.

Nhưng nằm ngoài mong muốn của giới cầm quyền Pháp, các thế hệ học sinh đã biết hấp thu có

chọn lọc những tinh hoa của nền văn minh phương Tây, tự trang bị sức mạnh tri thức cho mình

từ nền giáo dục thâm độc của kẻ thù. Những cựu học sinh, vốn yêu nước, căm thù giặc, lại

được trang bị kiến thức khoa học tiến bộ, đã trở thành những hạt nhân của phong trào yêu nước

kháng Pháp, có những đóng góp đáng kể trong phong trào Cách Mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX.

KẾT LUẬN

Chiến tranh Pháp - Việt kết thúc với Điện Biên Phủ đã qua được nữa thế kỷ. quan hệ Việt –

Pháp đã nối lại tốt đẹp, nhất là khi ta vào Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp. Vì vậy ta có thể

đánh giá quan hệ văn hóa Việt- Pháp một cách khách quan. Có thể khẳng định ngay văn hóa

Pháp là một nhân tố của văn hóa Việt Nam, cũng như văn hóa Trung Quốc và cả phần nào văn

hóa Ấn Độ.

Trong nhiều thế kỷ , dân tộc Việt Nam luôn tiếp thu văn hóa bên ngoài và sự hấp thu văn

hóa bên ngoài được tiến hành thông qua một công trình tinh luyện chuyển hóa làm cho nó thích

nghi và đồng thời những nét dân tộc chủ yếu không hề bị giản lược, đất nước ta đến nay vẫn giữ

nguyên được bản sắc văn hóa của mình.

Dưới góc độ này, ta có thể hiểu được ảnh hưởng quan trọng của văn hóa Pháp đối với văn

hóa Nam Kỳ trong lĩnh vực giáo dục từ khi Pháp bắt đầu đặt ách đô hộ ở vùng này và dĩ nhiên

loại trừ ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa thực dân nằm trong một phạm trù khác.

Tìm hiểu giao lưu văn hóa Pháp – Việt trong đề tài này chỉ mới đề cập đến lĩnh vực giáo dục.

Còn rất nhiều mảng trong lĩnh vực văn hóa chưa được đề cập đến như văn học, kiến trúc, nghệ

thuật. Những nghiên cứu tiếp theo của sự giao lưu văn hóa Pháp - Việt cần nghiên cứu ở những

mảng trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thế Anh, “ Việt Nam và các Đông Ấn công ty”, Tập san Sử - Địa, trang 3 – 11.

2. Nguyễn Thế Anh( 1970),” Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ”, Nhà xuất bản Lửa Thiêng, Sài

Gòn.

3. Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Nghiệp ( 1989), “ Văn học Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX –

1954”, NXB TPHCM.

4. Nguyễn Anh, “Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế

giới thứ nhất”, NCLS số 98, tháng 5 năm 1967.

5. Đỗ Bang ( 1999), “ Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn”, NXB Thuận Hóa.

6. J. Barrow ( 2008), “ Một chuyến du hành đến Nam Hà ( 1792 – 1793)”, NXB Thế Giới, Hà

Nội.

7. Trương Bá Cần, “Nguyễn Trường Tộ:con người và di thảo”, NXB TPHCM, 1988

8. Đỗ Quang Chính ( 1972), “ Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 – 1659”, Tủ sách ra khơi, Sài Gòn.

9. Đỗ Quang Chính ( 1972), “Trình độ chữ Quốc ngữ mới của linh mục Đắc Lộ, từ năm 1625

đến năm 1644”, Báo Phương Đông, số 7.

10. Nguyễn Văn Dương, “ Tuyển tập Phan Châu Trinh”, NXB Đà Nẵng, 1995, trang 787

11. Nhiều tác giả ( 2008), “ 100 năm Đông Kinh nghĩa thục”, NXB Tri Thức, Hà Nội.

12. Nhiều tác giả ( 2006), “Nho giáo ở Việt Nam”. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế.. Viện Nghiên cứu

Hán Nôm và Viện Harvard-YenChing tổ chức.Nxb. KHXH. Hà Nội.

13. Lê Văn Giạng ( 2003), “Lịch Sử Giản Lược, Hơn 1000 năm Nền Giáo Dục Việt Nam”, NXB

Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

14. Mai Cao Chương, Đoàn Lê Giang ( 1995), “ Nguyễn Lộ Trạch điều trần và thơ văn”, NXB

KHXH, Hà Nội.

15. Dương Quảng Hàm ( 1951), “ Việt Nam Văn học sử yếu”, Bộ QGGD, Hà Nội.

16.Đỗ Quang Hưng ( 1991), “Một số vấn đề Lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam”, Tủ sách Đại

học tổng hợp, Hà Nội.

17.Vũ Ngọc Khánh ( 1985), “ Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945”, NXB Giáo

Dục. Hà Nội.

18. Phan Khoang ( 1971), “Việt Nam Pháp thuộc sử”, Phủ QVKĐTVH xuất bản. Sài Gòn.

19. Nguyễn Văn Kiệm, Viện nghiên cứu tôn giáo, “Sự Du nhập của Đạo Thiên Chúa vào Việt

Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX”. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Trung tâm UNESCO bảo

tồn và phát triển Văn hóa dân tộc Việt Nam.

20. Lương Kiêm Toàn, Vũ Lân( 1960), “ Hội Truyền bá chữ quốc ngữ”, NXBGD.

21. Thanh Lãng, “Những chặng đường của chữ viết quốc ngữ”, báo Đại học, Năm thứ IV, số 1,

tháng 2 – 1961, trang 6 – 36.

22. Nguyễn Hiến Lê ( 1968), “ Đông Kinh nghĩa thục”, NXB Lá Bối, Sài Gòn.

23. Bằng Giang, “Văn học Quốc Ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930”, NXB Trẻ TPHCM, 1992.

24. Nhóm nghiên cứu Sử Địa Việt Nam ( 1972), “ Quốc triều chính biên toát yếu”, NXB Sài

Gòn.

25. Hữu Ngọc ( 2007), “Lãng du trong văn hóa Việt Nam”, Nhà xuất bản Thanh Niên, TPHCM.

26. Quốc sử quán triều Nguyễn ( 1978) “ Đại Nam thực lục”, tập 38, KHXH, Hà Nội

27. Léopold Pallu, Hoàng Phong dịch ( 2008), “ Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1961 ”,

Nhà xuất bản Phương Đông, TPHCM.

28. Đào Trinh Nhất ( 1938), “Đông kinh nghĩa thục”, NXB Mai Linh, Hà Nội.

29. Hồ Hữu Nhựt (1999), “Lịch sử giáo dục Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 1698 – 1998)”,

NXB Trẻ.

30. Vương Hồng Sển ( 1960), “Sài Gòn năm xưa”, NXB TPHCM.

31. Nguyễn Q. Thắng ( 1993), “Khoa cử và giáo dục Việt Nam”, NXB Văn hóa thông tin.

32. Chương Thâu, “Đông kinh nghĩa thụcvà phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX”, NXB

Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997.

33. Cao Tự Thanh ( 1996), “ Nho giáo ở Gia Định”, NXB TPHCM.

34. . Lương Thị Thoa, “Vài ý kiến về giao lưu văn hóa Đông- Tây trong tình hình hiện nay”,

Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 4, năm 1998, trang 59 – 64.

35. Nguyễn Tài Thư chủ biên ( 1997). “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con

người Việt Nam hiện nay”. NXB Chính trị quốc gia.

36. .Nguyễn Khắc Thuần ( 2 – 2006), “ Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ

XIX”, Nhà xuất bản Giáo dục, TPHCM.

37. Cao Huy Thuần, “Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam ( 1857-

1914)”. Nhà xuất bản Tôn giáo - Hà Nội.

38. Hoàng Tiến ( 2003), “ Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ XX , Nhà xuất

bản Thanh Niên, Hà Nội.

39. Lê Ngọc Trụ ( 1961), “Chữ quốc ngữ từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX”, Việt Nam khảo

cổ tập san, số 2, Sài Gòn.

40. Nguyễn Văn Trung ( 1987), “ Những án văn chương quốc ngữ đầu tiên”, Trường Đại học

Tổng hợp, TPHCM.

41. Trung tâm KHXH và NV Quốc gia – Viện ngôn ngữ học, “Giao lưu văn hóa và ngôn ngữ

Việt – Pháp”, NXB TPHCM.

42. Nguyễn Phước Tương, “Giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco de Pina – người tiên phong sáng

tạo ra Chữ quốc ngữ”. Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 5 – 2001.

43. Đặng Huy Vận, Chương Thâu – “Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ”, NXB

Giáo dục Hà Nội, 1961, trang 212

44. Viện Văn học ( 2002), “Trương Vĩnh Ký và việc khơi dòng quốc ngữ ở Việt Nam”, Hà Nội.

45. Nguyễn Văn Xuân ( 1970), “ Phong trào Duy Tân ở Sài Gòn”, NXB Lá Bối, Sài Gòn.

46. Nguyễn Khắc Xuyên ( 1960), “Chung quanh vấn đề thành lập chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ

vào năm 1645”, Văn hóa Nguyệt San, số 48, tháng 1 -2 ,

47. Nguyễn Khắc Xuyên, “Giáo sĩ Đắc Lộ với công việc xuất bản”, Việt Nam khảo cổ tập san,

số 2, Sài Gòn, 1961, trang 183 – 196

PHỤ LỤC

TRƯỜNG CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ HÁN ( 1883 ) - Nam

Địa hạt

Học chữ quốc ngữ

Học chữ Hán

Số tổng

Số làng

(Arrondissement)

Số

Số học

Số

Số trường

Số trường

học

sinh

thầy

Số thầy giáo

sinh

giáo

Bà Rịa

4

44

4

4

63

4

4

58

Bến Tre

21

183

31

31

1640

18

18

346

Biên Hòa

16

192

20

20

450

7

7

173

Cần Thơ

11

119

25

25

1500

Châu Đốc

10

99

10

10

599

3

3

51

Chợ Lớn

12

207

13

13

400

47

47

600

Gò Công

4

50

70

70

901

23

23

201

Hà Tiên

4

15

8

8

272

Long Xuyên

8

63

27

27

1047

Mỹ Tho

15

202

27

27

787

58

58

635

Rạch Giá

7

99

19

19

526

15

15

223

Sa Đéc

9

88

9

9

435

Sài Gòn

18

58

76

76

1828

Sóc Trăng

11

134

13

13

745

18

18

250

Tân An

10

120

61

61

1733

2

2

32

Tây Ninh

10

72

10

10

227

4

4

70

Thủ Dầu Một

10

102

8

8

306

11

11

65

Trà Vinh

13

200

25

25

800

Vĩnh Long

13

183

26

32

815

52

52

419

Bạc Liêu

2

29

3

3

252

8

8

100

Phú Quốc

1

3

1

1

7

TRƯỜNG CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ HÁN ( 1883 ) – Nữ

Địa hạt

Học chữ quốc ngữ

Học chữ Hán

Số tổng

Số làng

(Arrondissement)

Số học

Số

Số

Số trường

Số trường

sinh

thầy

học

Số thầy giáo

giáo

sinh

15

1

1

44

4

Bà Rịa

91

1

1

192

16

Biên Hòa

40

1

1

99

10

Châu Đốc

51

1

1

63

8

Long Xuyên

126

3

3

58

18

Sài Gòn

19

1

1

134

11

Sóc Trăng

65

2

2

72

10

Tây Ninh

223

3

3

102

10

Thủ Dầu Một

100

1

1

200

13

Trà Vinh

128

6

2

183

13

Vĩnh Long

CÁC TRƯỜNG PHÁP (NAM) NĂM 1883 Số trường

Số học sinh

Địa hạt ( Arrondissement)

Số giáo sư Pháp Việt

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

2 12 5 2 3 8 3 2 2 3 3

3 10 6 2 4 8 5 4 4 5 4 3

98 293 151 58 143 284 141 82 51 215 135 212

Sài Gòn: Trường thành phố - Collège Chasseloup Laubat , - Collège d P P Adran - Trường Taberd Trường Bình Hòa ( hạt Sài Gòn) Collège Mỹ Tho Trường Vĩnh Long Trường Biên Hòa Trường Sóc Trăng Trường Bến Tre Trường Hoa ở Chợ Lớn ( ngoại trú) Trường Chợ Lớn

TRƯỜNG COLLÈGE CHASSELOUP LAUBAT NĂM1925

TRƯỜNG COLLÈGE MỸ THO

BẢN ĐỒ SÀI GÒN THỜI PHÁP THUỘC