BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

B O U N K E O M A N Y X A Y K H A M S O U K

BOUNKEOMANYXAY KHAMSOUK

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ CÔNG CỘNG TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA

DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

N Ư Ớ C C Ộ N G H Ò A D Â N C H Ủ N H Â N D Â N L À O

Q U Ả N L Ý N H À N Ư Ớ C V Ề D Ị C H V Ụ C Ô N G C Ộ N G T R Ê N Đ Ị A B À N T Ỉ N H X I Ê N G K H O Ả N G

H À N Ộ

HÀ NỘI, NĂM 2017

I

2 0 1 7

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là Luận văn của riêng tôi, do tôi thực hiện. Các

số liệu, thông tin đưa ra trong luận văn chính xác và trung thực, có nguồn gốc

rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Người viết luận văn

BounKeomanyxay KhamSouk

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập và nghiên cứu về khoa học hành chính ở Học

viện Hành chính Quốc gia, trong chương trình học Thạc sĩ với chuyên ngành

Quản lý công. Để hoàn thành Luận văn của mình, với tình cảm chân thành,

tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. NGUYỄN HOÀNG

HIỂN, người đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong thời gian qua, cảm ơn các

thầy giáo, cô giáo và cán bộ của Học viện Hành chính Quốc gia, Sở Nội vụ

tỉnh Xiêng Khoảng và đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành luận văn này./.

Người viết luận văn

BounKeomanyxay KhamSouk

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................. 5

6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu .................................................................... 6

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

DỊCH VỤ CÔNG CỘNG................................................................................ 8

1.1. Tổng quan về dịch vụ công cộng ............................................................... 8

1.1.1. Khái niệm dịch vụ công cộng ............................................................. 8

1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ công cộng ...................................................... 10

1.1.3. Phân loại dịch vụ công cộng ............................................................. 13

1.1.4. Vai trò của dịch vụ công cộng .......................................................... 15

1.2. Quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng .......................................... 16

1.2.1. Khái niệm .......................................................................................... 16

1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ........ 18

1.2.3. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng .................... 19

1.2.4. Nguyên tắc cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội ........................ 21

1.2.5. Các công cụ quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ............... 23

1.2.6. Nội dung quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng .................... 25

1.2.7. Bộ máy quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ...................... 28

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở một số tỉnh,

thành phố và bài học cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào ............................................................................................................ 29

1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở Thành

phố Hồ Chí Minh, nước CHXHCN Việt Nam ............................................ 29

1.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở thủ đô

Viên Chăn, nước CHDCND Lào ................................................................ 31

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào

về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ......................................... 32

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 34

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH

VỤ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ............................................... 36

2.1. Khái quát chung về tỉnh Xiêng Khoảng ................................................... 36

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở tỉnh Xiêng

Khoảng, nước CHDCND Lào ......................................................................... 39

2.2.1. Bộ máy quản lý nhà nước của Xiêng Khoảng .................................. 39

2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy QLNN về DVCC chung ở tỉnh Xiêng Khoảng 41

2.2.2. Khía cạnh pháp lý của quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng của

Xiêng Khoảng ............................................................................................. 42

2.2.3. Đội ngũ cán bộ quản lý ..................................................................... 44

2.2.4. Các loại dịch vụ công cộng của Xiêng Khoảng ................................ 49

2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng của Xiêng Khoảng .... 58

2.3.1. Những thành công và nguyên nhân................................................... 58

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ............................................ 62

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 66

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA

BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN

DÂN LÀO ....................................................................................................... 68

3.1 Phương hướng của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển dịch vụ công

cộng ................................................................................................................. 68

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ....... 72

3.2.1. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước đối

với các dịch vụ công cộng ........................................................................... 72

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý dịch vụ

công cộng .................................................................................................... 75

3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công

chức quản lý về dịch vụ công cộng ............................................................. 76

3.2.4. Xã hội hóa dịch vụ công cộng trên các lĩnh vực ............................... 80

3.2.5. Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công cộng

..................................................................................................................... 83

3.2.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và tài chính cho các cơ quan có

chức năng quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng .................................... 85

3.2.7. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng

dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh ............................................................ 87

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 88

KẾT LUẬN .................................................................................................... 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước với vai trò là chủ thể của quản lý đối với toàn bộ các mặt của

đời sống xã hội trên phạm vi lãnh thổ. Như vậy, Nhà nước với tư cách là chủ

thể cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, đóng vai trò quan trọng đối với sự

phát triển của quốc gia và với đời sống của người dân. Các loại hình dịch vụ

công do các cơ quan hành chính nhà nước được trao quyền tiến hành thực

hiện để phục vụ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân và tổ chức. Xuất

phát từ yêu cầu và vai trò của Nhà nước, Nhà nước đã ban hành hệ thống thể

chế, các văn bản về quản lý nhà nước, về cải cách hành chính gắn với cung

cấp các dịch vụ công cho toàn xã hội. Trong các dịch vụ công đó thì dịch vụ

công cộng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là

các dịch vụ thiết yếu như văn hóa, giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường,… chất

lượng cung ứng dịch vụ này phụ thuộc rất nhiều vào hiệu lực, hiệu quả của

quản lý nhà nước.

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong những năm qua, dịch vụ công

cộng do nhà nước cung ứng cơ bản đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên,

hoạt động này còn tồn tại nhiều bất cập như các loại dịch vụ chưa thực sự

phong phú, chất lượng cung ứng chưa cao, công tác quản lý nhà nước còn

mang nặng tính áp đặt đơn phương,… do đó đã gây ra những khó khăn cho

người dân và tổ chức khi tiếp cận sử dụng dịch vụ. Bên cạnh đó, do thiếu các

chế tài, quy định trong quản lý nó cũng gây ra không ít khó khăn trong thực

thi công vụ của cán bộ, công chức nhà nước. Xuất phát từ thực tế đó, cần phải

có giải pháp phù hợp để tăng cường quản lý nhà nước đối với dịch vụ công

cộng cho xã hội trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường hướng tới

1

những giá trị thiết thực, đáp ứng tối đa những đòi hỏi của người dân trong

nước và hướng đến một nền hành chính phục vụ.

Tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có nhiều

điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong những năm

qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh có nhiều biện pháp, các thức tổ chức nhằm

nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như các loại hình dịch vụ công cộng cho

người dân và các tổ chức trên địa bàn tỉnh. Chương trình về cải cách hành

chính nhà nước được triển khai sâu rộng, tỉnh Xiêng Khoảng cũng là một

trong số các tỉnh có những thành tựu đáng kể về nâng cao chất lượng cung

ứng, quản lý dịch vụ công cộng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức không

ngừng nâng cao về chất lượng, trình độ, đẩy mạnh hoàn thiện các thủ tục

trong xây dựng và ban hành văn bản,… Kết quả chung được đánh giá là các

cơ quan hành chính trên địa bàn đã có bước chuyển đáng kể trong điều hành

và cung ứng dịch vụ công cộng, góp phần ổn định kinh tế, xã hội trên địa bàn,

nâng cao đời sống xã hội của người dân. Bên cạnh những kết quả đạt được,

vẫn còn tồn tại nhất định trong công tác quản lý nhà nước đối với cung cấp và

sử dụng dịch vụ công cộng, nhất là thể chế quản lý chưa đầy đủ, chưa đồng

bộ; chất lượng quản lý, cung ứng dịch vụ công cộng của các đơn vị chưa đảm

bảo; thái độ, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu kém…,

điều này làm cho người dân chưa hài lòng, than phiền.

Như vậy, để góp phần nâng tăng cường quản lý nhà nước về cung ứng

dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh, em quyết định lựa chọn đề tài: “Quản lý

nhà nước về dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, làm đề tài tốt nghiệp cho mình, nhằm xây

dựng một số giải pháp tích cực phục vụ công tác quản lý nhà nước cũng như

nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng

Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời gian tới.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động cung ứng dịch vụ công,

dịch vụ công cộng cũng như về quản lý nhà nước đối với loại hình dịch vụ

này ở nhiều góc độ khác nhau.

- Sách “Dịch vụ công cộng và khu vực quốc doanh” của Elie Cohen,

Claude Henry và Francois Morin, Paul Champsaur (2000), Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia đã trình bày về cơ sở và các bước phát triển về dịch vụ

công cộng ở Pháp và Liên minh châu Âu, trong đó chỉ rõ sự thay đổi của dịch

vụ công cả về phạm vi, cách thức cung cấp từ những năm sau Chiến tranh thế

giới lần thứ hai đến năm 2000.

- Sách “Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - Nhận

thức, thực trạng và giải pháp” của TS. Nguyễn Ngọc Hiến (2002), Nhà xuất

bản Văn hoá - Thông tin đã tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về vai trò

của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công, các mô hình cung ứng dịch vụ

công, thực trạng và giải pháp.

- Sách “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam” của PGS.TS Lê Chi Mai

(2003), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã nghiên cứu khá toàn diện về dịch

vụ công dưới các góc độ kinh tế, quản lý. Tác giả đã có sự so sánh giữa dịch

vụ công cộng, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ hành chính công để từ đó

đưa ra những đặc trưng riêng của từng nhóm dịch vụ công. Tác giả cũng đánh

giá thực trạng cung cấp dịch vụ hành chính công vào thời điểm bấy giờ, về

những thành tựu đã đạt được.

- Sách “Dịch vụ công – Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt

Nam hiện nay” của TS. Chu Văn Thành (2007), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội. Ngoài những nội dung có tính chất lý luận về dịch vụ công thì tác giả

tập trung nghiên cứu về cung ứng dịch vụ và quản lý dịch vụ công dưới góc

nhìn đổi mới của cải cách hành chính. Trong cuốn sách này tác giả trình bày

3

có hệ thống về các vấn đề có liên quan đến dịch vụ công, dịch vụ công cộng,

dịch vụ hành chính công, mô hình cung cấp theo phương thức Quận hội hóa,

mô hình quản lý dịch vụ khi vừa có sự tham gia của cơ quan nhà nước, sự

tham gia của cá nhân, tổ chức vào cung cấp dịch vụ.

- Sách“Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công ở Thành phố Hà

Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập” của GS.TS Nguyễn Đình Phan (2010), Nxb

Đại học Kinh tế Quốc dân đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về dịch

vụ công, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính, làm rõ về tổ chức thực hiện

các dịch vụ hành chính công trong điều kiện thực tiễn của Hà Nội, bao gồm

hoạt động của một số cơ quan hành chính cấp quận, phường trong giải quyết

yêu cầu của nhân dân trên địa bàn.

Nhìn chung các công trình nghiên đều tập trung làm rõ những nội dung,

bản chất của dịch vụ công, dịch vụ công cộng và đưa ra cơ sở xác định nội

dung, tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ. Các tác giả cũng chỉ ra các

phương hướng và giải pháp nhất nhằm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ.

Tuy nhiên, các công trình chưa nghiên cứu cụ thể về tình hình, thực trạng

công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh nói

riêng, đặc biệt là ở một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển như ở tỉnh Xiêng

Khoảng. Chính vì vậy, Luận văn hy vọng sẽ làm rõ những khái niệm cơ bản

và các giải pháp thiết thực đóng góp cho công tác quản lý nhà nước đối với

dịch vụ công cộng ở tỉnh hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận quản lý nhà nước về dịch vụ

công cộng; đánh giá sâu sắc, toàn diện thực trạng quản lý nhà nước trong việc

cung ứng dịch vụ công cộng ở tỉnh Xiêng Khoảng; trên cơ sở đó, học viên

4

nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với

dịch vụ công cộng ở Xiêng Khoảng trong thời gian tới.

- Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu tổng quan về dịch vụ công cộng và vấn đề quản lý nhà

nước đối với dịch vụ công cộng; Nghiên cứu lý luận chung về quản lý nhà

nước đối với dịch vụ công cộng;

- Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý dịch vụ công ở một số quốc gia để

có thể rút được những bài học kinh nghiệm cho tỉnh Xiêng Khoảng;

- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với dịch

vụ công cộng của tỉnh Xiêng Khoảng.

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với

dịch vụ công cộng của tỉnh Xiêng Khoảng trong những năm tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước

đối với dịch vụ công cộng thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Xiêng Khoảng, nước

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đồng thời, nghiên cứu thực tế tiếp cận và sử

dụng dịch vụ công cộng của cá nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh.

- Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước đối với dịch vụ

công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân

Lào

Về thời gian: Nghiên cứu tình hình quản lý nhà nước đối với dịch vụ

công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng từ năm 2011 đến năm 2016.

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Dựa trên cơ sở thế giới quan của chủ nghĩa Mác -

Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để xem xét vấn đề. Bên

5

cạnh đó, luận văn căn cứ vào đường lối chủ trương của Đảng nhân dân cách

mạng Lào, chính sách, pháp luật của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và

sự chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh Xiêng Khoảng để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu

mà luận văn đề ra.

- Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các tài liệu, số liệu

được thu thập, xử lý thông tin để từ đó tạo ra cơ sở khoa học, mang tính

thuyết phục trong quá trình thực hiện đề tài.

- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này nhằm tham khảo ý kiến

của các chuyên gia nghiên cứu, các nhà quản lý hành chính có kinh nghiệm

thực tiễn cao trong lĩnh vực quản lý cung ứng dịch vụ công cộng.

- Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp khác như phương

pháp thống kê, khảo sát thực tế, so sánh,....

6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu

- Về mặt lý luận: Luận văn đóng góp hoàn thiện thêm cơ sở lý luận về

hoạt động quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công cộng nói chung và quản

lý nhà nước của UBND tỉnh đối với dịch vụ công cộng ở nước nước Cộng hòa

dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay.

- Về mặt thực tiễn: Luận văn cung cấp một số vấn đề về thực trạng

công tác quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng cho cán bộ, công chức của

tỉnh để từng bước đổi mới cách thức điều hành, quản lý và cung ứng dịch vụ

nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công cộng của tỉnh

Xiêng Khoảng.

7. Bố cục của Luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận

văn được cấu trúc thành 3 chương:

6

- Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công

cộng

- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng trên

địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối

với dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa

dân chủ nhân dân Lào

7

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG CỘNG

1.1. Tổng quan về dịch vụ công cộng

1.1.1. Khái niệm dịch vụ công cộng

Dịch vụ công công trong tiếng Việt thường được gọi là dịch vụ công.

Theo từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những

nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công. Như vậy: Dịch

vụ chính là sản phẩm hàng hóa giữa một bên cung ứng và một bên thụ hưởng

thông qua các hoạt động nhất định và có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa

các bên.

Từ quan niệm về dịch vụ như trên, tác giả cho rằng:“Dịch vụ công

chính là dịch vụ do Nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm

cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng

xã hội, phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của

các tổ chức và công dân”.

Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về dịch vụ công cộng.

Mỗi cách tiếp cận khác nhau sẽ có những cách hiểu khác nhau. Ở một số quốc

gia phát triển, tốc độ đô thị hóa cao, khi tiếp cận khái niệm dịch vụ công cộng

các nhà quản lý đô thị có định nghĩa về dịch vụ công cộng như sau: Dịch vụ

công cộng là từ thường được dùng để chỉ các dịch vụ mà chính phủ cung ứng

cho các công dân của mình, có thể là trực tiếp thông qua khu vực công hay là

cấp tài chính cho khu vực tư nhân cung ứng. Vấn đề này kết hợp với một sự

đồng thuận xã hội rằng một số dịch vụ trong đó phải đến được với tất cả mọi

người, bất kể thu nhập bao nhiêu. Cho dù DVCC không phải do chính phủ

cung ứng hay cấp tài chính đi nữa những các lý do xã hội và chính trị mà

8

chúng vẫn có khuôn khổ pháp lý khác với phần lớn các ngành kinh tế khác,…

và chúng có thể gắn liền với quyền cơ bản của con người, chẳng hạn như

quyền được cung cấp nước sạch, ánh sáng,…

Trong khi đó ở các nước đang phát triển như ở Lào và Việt Nam thì khi

nghiên cứu về DVCC, trong sách “Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công –

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Chu Văn Thành chủ biên, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội, năm 2004) định nghĩa là: “Những hoạt động của các tổ

chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà

nước ủy quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực

tiếp những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không

vụ lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội”, và cho rằng: Dịch vụ công

bao gồm dịch vụ sự nghiệp công (hoặc phúc lợi xã hội), dịch vụ công ích và

dịch vụ hành chính công, đồng thời nhấn mạnh là không được lẫn lộn với hoạt

động công vụ (civil services) là hoạt động hàng ngày của bộ máy công quyền.

Như vậy, với cách hiểu trên thì chúng ta thấy dịch vụ công cộng

chính là một bộ phận nằm trong dịch vụ công.

Dịch vụ công cộng là loại dịch vụ phục vụ các nhu cầu, lợi ích chung,

thiết yếu của đa số hay của cả cộng đồng. Có thể hiểu cụ thể hơn về dịch vụ

công công, đó là các dịnh vụ có thu phí nhằm đáp ứng các nhu cầu bức thiết

của công dân mang tính phi lợi nhuận do các cơ sở thực hiện theo yêu cầu của

cơ quan nhà nước (thông qua hợp đồng hoặc nhiệm vụ phân giao) như: Cung

cấp nước sinh hoạt; thoát nước; vệ sinh môi trường (thu gom rác thái); cây

xanh đô thị; hệ thống chiếu sáng; giao thông vận tải công cộng; tài chính;

ngân hàng; kho bạc nhà nước; bảo hiểm (y tế, xã hội v.v..); nhà ở theo chính

sách xã hội v.v...

Ở một khía cạnh khác các DVCC lại có thể hiểu là dịch vụ xã hội và

dịch vụ kinh tế - kỹ thuật. Dịch vụ xã hội liên quan đến những nhu cầu và

9

quyền lợi cơ bản đối với sự phát triển con người về thể lực và trí lực như y tế,

giáo dục, văn hóa, thông tin, thể thao... ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân

Lào, cũng như ở Việt Nam, các dịch vụ này thường được gọi là hoạt động sự

nghiệp.

Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật là loại dịch vụ gắn với các nhu cầu vật chất

phục vụ lợi ích chung của xã hội, bao gồm cung ứng điện, nước, giao thông

vận tải, vệ sinh mội trường, thủy lợi, xây dựng đường sá, giao thông, cầu

cống, trường, trạm,... Ở Lào các dịch vụ này do các doanh nghiệp công ích

cung ứng và còn gọi “là dịch vụ công ích”.

1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ công cộng

Khi đề cấp tới đặc điểm của dịch vụ công cộng, ta nhận thấy loại hình

này có đầy đủ các đặc điểm của loại hình dịch vụ công, bên cạnh đó, nó cũng

có những điểm đặc thù, riêng biệt:

Thứ nhất, dịch vụ công cộng phục vụ trực tiếp cho nhu cầu, lợi ích cơ

bản, thiết yếu của xã hội. Một cá nhân, một cộng đồng, một tổ chức có thể

hưởng lợi ích do dịch vụ công cộng đem lại, nhưng nhà nước chỉ thực hiện

cung ứng dịch vụ công cộng khi có nhu cầu của toàn xã hội. Tức là khi phát

sinh nhu cầu, nhất là nhu cầu của số đông trong xã hội, khi đó Nhà nước sẽ là

đơn vị cung ứng, đáp ứng các nhu cầu, thoả mãn yêu cầu của nhân dân và tổ

chức.

Thứ hai, dịch vụ công cộng là hàng hóa, dịch vụ do nhà nước chịu

trách nhiệm tổ chức cung ứng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua

các tổ chức được ủy quyền. Điều này cho thấy rằng các loại hình dịch vụ do

nhà nước cung ứng đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân và tổ chức

trong xã hội. Dù muốn hay không thì nhà nước vẫn cung cấp bởi đó là chức

năng của nhà nước nhằm quản lý toàn xã hội, cung ứng những gì mà xã hội

cần.

10

Thứ ba, dịch vụ công cộng được cung ứng trước hết là vì nghĩa vụ của

Nhà nước và vì quyền lợi lợi được thụ hưởng của người dân. Bên cạnh đó,

dịch vụ công cộng cũng mang lại những giá trị lợi nhuận nhất định cho đơn vị

cung ứng và cho toàn xã hội. Tuy nhiên, về cơ bản thì các dịch vụ này cũng

giống như dịch vụ công, là không vì mục tiêu lợi nhuận, việc cung cấp DVCC

không hoàn toàn diễn ra theo quan hệ của thị trường; mà hoạt động cung ứng

mang tính chất phục vụ. Thông thường, người sử dụng dịch vụ công cộng

không trực tiếp trả tiền, hay nói đúng hơn là đã trả tiền dưới hình thức đóng

thuế vào ngân sách nhà nước. Cũng có những dịch vụ mà người sử dụng vẫn

phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí. Tuy nhiên, nhà nước vẫn phải có

trách nhiệm bảo đảm cung ứng các dịch vụ này không nhằm vào mục tiêu lợi

nhuận. Nghĩa là các dịch vụ công cộng được cung ứng ra là cam kết của nhà

nước đối với xã hội nhằm đảm bảo cho xã hội vận hành theo khuôn khổ nhất

định.

Thứ tư, cũng giống như dịch vụ công, dịch vụ công cộng không phân

biệt đối tượng được thụ hưởng, điều đó cho thấy tính chất rộng lớn, hướng

đến toàn thể các đối tượng trong xã hội (dịch vụ công cộng mang tính xã hội).

Mọi người dân đều có quyền bình đẳng trong việc tiếp nhận và sử dụng các

dịch vụ công cộng do Nhà nước cung ứng. Nhà nước cam kết cung ứng các

loại hình dịch vụ công cộng cho xã hội dựa trên cơ sở những nhu cầu trong xã

hội, mục tiêu hướng đến là toàn thể người dân, tổ chức có nhu cầu trên

nguyên tắc công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối tượng thụ hưởng dịch

vụ.

Thứ năm, Nhà nước quản lý và bảo đảm tính công bằng, tính hiệu quả

trong cung ứng DVCC nhằm đáp ứng nhu cầu của dân. Đây cũng chính là

đặc trưng cơ bản của việc cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội của Nhà

nước. Nhà nước với tư cách là đơn vị quản lý chung tất cả các lĩnh vực của

11

đời sống xã hội trên địa bàn lãnh thổ nhất định. Và để quản lý có hiệu quả các

lĩnh vực đó thì nhà nước phải cam kết với xã hội rằng các dịch vụ mà mình

cung ứng đều là những dịch vụ tốt nhất, đáp ứng nhu cầu cơ bản của toàn xã

hội và tất cả đều công bằng trong việc thụ hưởng các dịch vụ đó. Nhà nước

đảm bảo sự công bằng và hiệu quả thông qua bộ máy nhà nước và hệ thống

văn bản pháp luật quy định.

Căn cứ vào khái niệm và đặc điểm trên của DVCC, có thể thấy các hoạt

động quản lý và cung ứng DVCC của các cơ quan HCNN ở Lào hiện nay bao

gồm các loại hình cơ bản như sau: hoạt động lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế,

thể dục, thể thao, nước sạch và vệ sinh môi trường, giao thông công cộng, hệ

thống chiếu sáng đô thị, phát triển nông thôn,…. Đều được chú trọng và đầu

tư phát triển.

Như vậy, qua các đặc điểm kể trên, chúng ta nhận thấy DVCC có thể

được cung cấp bởi cả các tổ chức thuộc khu vực công và khu vực tư nhân.

Tuy nhiên, dù các dịch vụ công cộng đó được cung ứng bởi chủ thể nào thì

Nhà nước vẫn phải đứng ra chịu trách nhiệm về chất lượng của các dịch vụ

công cộng được cung úng. Chẳng hạn, mặc dù các bậc phụ huynh cho con cái

học ở trường tư thục, nhưng khi chất lượng giảng dạy của trường không đảm

bảo, phụ huynh có quyền đòi hỏi Nhà nước phải chịu trách nhiệm vì đã cấp

phép cho trường hoạt động mà không kiểm soát được hoạt động giảng dạy

thực tế của trường học đó. Đối với các loại DVCC khác đã được chuyển giao

cho tư nhân, vấn đề trách nhiệm của Nhà nước cũng được xác định trên cơ sở

lập luận tương tự, đó chính là việc cấp phép và cho phép các đơn vị tư nhân

không đủ năng lực cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội. Chính vì vậy, vấn

đề quản lý nhà nước đối với các DVCC càng đặt ra những vấn đề cần giải

quyết.

12

1.1.3. Phân loại dịch vụ công cộng

Ở các quốc gia khác nhau có nhiều cách phân loại DVCC khác nhau.

Việc phân loại các loại hình dịch vụ này tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm

của từng loại hình dịch vụ. Ở các nước phát triển, các loại hình dịch vụ phát

triển ở mức độ chuyên nghiệp hóa cao, các lĩnh vực được cụ thể và khá chi

tiết. Trong những loài hình dịch vụ cụ thể lại có nhiều dịch vụ đi kèm để

mang lại sự hài lòng cho người sử dụng. Chẳng hạn như dịch vụ bưu chính,

viễn thông thì tách nhỏ ra thành các dịch vụ chuyển phát, dịch vụ viễn thông,

truyền thanh, truyền hình,… dịch vụ nước sạch và vệ sinh môi trường có dịch

vụ quản lý rác thải, dịch vụ cấp, thoát nước,… dịch vụ vận tải có giao thông

công cộng, vận tải tư nhân, hệ thống chiếu sáng,… Tuy nhiên, sự phân loại

này chỉ mang tính chất tương đối. Trong những năm qua ở nước CHDCND

Lào cũng như ở Việt Nam và một số nước đang phát triển khác thì cách phân

loại này về cơ bản cũng giống như các nước trên thế giới, mặc dù vậy, nó vẫn

có những điểm khác biệt và sự phân loại này vẫn đang ở trong giai đoạn đầu

của sự chuyên nghiệp, chuyên môn hóa chưa cao. Về cơ bản DVCC được

chia ra thành hai nhóm chính:

Thứ nhất, nhóm dịch vụ xã hội là các loại hình dịch vụ phục vụ lợi ích

công cộng tập trung ở các lĩnh vực như giáo dục, văn hóa, y tế, thể thao,

truyền thanh, truyền hình, viễn thông, nhà ở xã hội,… các loại hình dịch vụ

này đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển chung của toàn xã hội. Hiện

nay, các tổ chức tư nhân, các đơn vị ngoài nhà nước tham gia khá nhiều trong

các lĩnh vực kể trên, bởi chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công mà nhà nước

đưa ra trong thời gian qua. Sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình này góp

phần làm phong phú, đa dạng các hình thức, tổ chức cung ứng dịch vụ công.

Qua đó, có sự cạnh tranh mạnh mẽ, góp phần nâng cao chất lượng cung ứng

các loại hình dịch vụ trong thời gian qua. Đối với các loại hình này, vài trò

13

quản lý của Nhà nước ngày càng được thể hiện ở sự uốn nắn và định hướng

các hoạt động trên bằng các tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể đối với từng loại

hình, giảm tải gánh nặng cho các đơn vị sự nghiệp công.

Thứ hai, nhóm dịch vụ công ích là các hoạt động phục vụ lợi ích chung,

thiết yếu của cộng đồng đa phần là về lợi ích vật chất, đa phần là có tính chất

kinh tế hàng hóa do các doanh nghiệp công ích thực hiện theo yêu cầu của

Nhà nước, không nhằm mục tiêu lợi nhuận để phục vụ nhân dân như cung cấp

điện, nước, kết cấu hạ tầng, vệ sinh môi trường, vận tải công cộng, hệ thống

chiếu sáng, phòng cháy,… Các loại hình dịch vụ này là những loại hình dịch

vụ thiết yếu và cơ bản đảm bảo duy trì cuộc sống của người dân và của toàn

xã hội. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, nhu cầu hưởng thụ của người

dân được đáp ứng nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cung ứng

các loại hình dịch vụ công ích này. Chính vì lẽ đó, mà Nhà nước với vai trò là

người quản lý chung toàn bộ xã hội, để thúc đẩy xã hội phát triển, đáp ứng

nhu cầu của nhân dân thì vấn đề quản lý, định hướng hoạt động này trở thành

yêu cầu cấp thiết.

Sơ đồ 1.1: Phân loại dịch vụ công cộng

DỊCH VỤ CÔNG CỘNG

Trường học, bệnh viện, thể thao,

Cung cấp điện, nước sạch sinh hoạt, vệ

truyền thanh, truyền hình, thư viện,

sinh môi trường, giao thông vận tải, hệ

viễn thông,…

thống chiếu sáng, phòng cháy,,..

DỊCH VỤ XÃ HỘI DỊCH VỤ CÔNG ÍCH

(Nguồn: PGS.TS Lê Chi Mai “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam” năm 2003)

14

1.1.4. Vai trò của dịch vụ công cộng

Đối với người dân, cảm thụ tính ưu việt của xã hội chính là thông qua

những gì họ được thụ hưởng từ dịch vụ công cộng mang lại. Nền kinh tế xã

hội của một quốc gia càng phát triển thì nhu cầu đối với dịch vụ công cộng

ngày càng cao và đòi hỏi Nhà nước cần phải chú trọng nhiều hơn nhằm tạo ra

sự công bằng, ổn định và phát triển xã hội một cách bền vững. Xuất phát từ

nhu cầu thực tế đó, mà vai trò của dịch vụ công cộng ngày càng được thể hiện

rõ rệt hơn. Về nguyên tắc, Nhà nước phải chịu trách nhiệm cao nhất và cuối

cùng đối với việc cung ứng kịp thời, đầy đủ, đảm bảo chất lượng, có hiệu quả

các loại dịch vụ công cho người dân và xã hội. Do đó, có thể thấy vai trò của

DVCC trên một số khía cạnh sau :

Thứ nhất, dịch vụ công cộng ra đời để đáp ứng các nhu cầu của xã hội,

của người dân. Đây là những dịch vụ công do nhà nước cung ứng hoặc ủy

quyền cho đơn vị ngoài nhà nước cung ứng và có sự quản lý chặt chẽ của nhà

nước. Với vai trò của mình đối với xã hội, Nhà nước có trách nhiệm cung ứng

đầy đủ tất cả các loại hình dịch vụ và không ngừng nâng cao chất lượng dịch

vụ đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Chính vì vậy, có thể thấy rằng DVCC có

vai trò to lớn tỏng việc đảm bảo cho các hoạt động của người dân trên tất cả

các lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, vệ sinh môi

trường, nước sạch,…

Thứ hai, các loại hình DVCC phát triển sẽ mang lại sự thuận tiện,

nhanh chóng và bảo đảm cho người dân, tổ chức trong việc thụ hưởng dịch

vụ. Chúng ta đang sống trong xã hội có sự phát triển nhanh chóng và mạnh

mẽ của khoa hoc, công nghệ. Sự giao lưu hợp tác giữa các quốc gia trở nên

đơn giản và dễ dàng hơn nhờ công nghệ thông tin, hệ thống giao thông vận tải

đường bộ, đường thủy, đường hàng không,… tất cả những ưu thế đó đã tạo

nên một thế giới phẳng, thế giới đa sắc mầu và phát triển. Các loại hình dịch

15

vụ công cộng phát triển mạnh mẽ, không chỉ Nhà nước cung ứng, mà một số

tổ chức tư nhân được Nhà nước ủy quyền cung ứng cũng đang hoạt động và

mang lại kết quả khả quan.

Thứ ba, dịch vụ công cộng mang tính linh hoạt, nhanh nhạy do đó nó

thuận lợi trong việc đổi phương thức và cách tiếp cận sử dụng được dễ dàng,

phù hợp với sự thay đổi của xã hội ở những giai đoạn khác nhau. Các loại

hình dịch vụ phong phú và đa dạng, cho nên khi tiếp cận và sử dụng thì đặc

tính này đóng vai trò quan trọng đối với người sử dụng DVCC.

Thứ tư, vai trò của DVCC còn được thể hiện ở tính cộng đồng của nó.

Điều đó cho thấy khi sử dụng các loại hình dịch vụ công cộng thì các cá nhân,

công dân, tổ chức có sự gắn kết lại, tạo thành mối liên hệ trong tiếp cận và thụ

hưởng dịch vụ. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, … điều này được thể hiện rõ

nét, vì dụ: Các dịch vụ y tế là hướng tới toàn thể người dân, nhằm nâng cao

chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân, cho cộng đồng và toàn xã hội.

Thứ năm, DVCC có vai trò nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân

dân. Đây là những dịch vụ hướng tới số đông, toàn thể mọi người trong xã

hội, đáp ứng những nhu cầu cấp thiết, thiết yếu của người dân như sủ dụng

nước sạch, vệ sinh môi trường, hệ thống đèn điện chiếu sáng, giáo dục, y

tế,… chính vì vậy mà DVCC có vai trò rất lớn đối với xã hội.

1.2. Quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

1.2.1. Khái niệm

DVCC là dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng về chất

lượng, số lượng và loại hình. Việc làm rõ những nội dung cụ thể của trách

nhiệm quản lý Nhà nước đối với DVCC là rất cần thiết, giúp cho việc cung

ứng DVCC có hiệu quả, đặc biệt là khi Nhà nước đang trong quá trình chuyển

đổi về chức năng, nhiệm vụ và huy động sự tham gia của các chủ thể trong xã

16

hội đối với những công việc của Nhà nước nói chung và việc cung ứng

DVCC nói riêng.

Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính

cho rằng dịch vụ công cộng là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong

việc thực thi chức năng quản lý nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa

công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn

mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp

hàng hóa, dịch vụ công cộng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng

đồng.

Theo cách tiếp cận này có thể hiểu quản lý nhà nước về dịch vụ công

cộng là sự tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước đến các

chủ thể cung cấp và đối tượng thụ hưởng dịch vụ công trong xã hội.

Trong đó chủ thể quản lý là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có

chức năng sử dụng quyền lực và các công cụ vĩ mô để quản lý. Đối tượng

quản lý là các tổ chức, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công

cộng, bao gồm cơ quan nhà nước và các tổ chức được nhà nước ủy quyền hay

tham gia cung cấp dịch vụ theo chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công cộng,

cùng với các đối tượng thụ hưởng gồm các tổ chức và công dân trong xã hội.

Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò, chức năng của nhà nước và đặc điểm

của dịch vụ công cộng, trên cơ sở kết quả của việc nghiên cứu về khoa học tổ

chức và quản lý, tác giả cho rằng: Quản lý nhà nước đổi vói dịch vụ công

cộng là sự tác động có tổ chức và bằng quyền lực của bộ máy nhà nước lên

đối tượng bị quản lý (các cơ quan chức năng quản lý cung cấp DVCC được

uỷ quyền và công dân sử dụng DVCC) trong việc đảm bảo các dịch vụ công

cộng cho mọi người dân một cách công bằng, ổn định, hiệu qủa và phi lợi

nhuận.

17

1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

Sự cần thiết phải có sự quản lý nhà nước đối với DVCC trước hết do

DVCC có vai trò quan trọng, liên quan đến sự tồn tại và phát triển của nhà

nước, của toàn xã hội, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu phát triển đất

nước. QLNN đối với DVCC có hiệu quả sẽ tạo ra được niềm tin, sẽ gắn kết

mọi người dân với nhà nước và xã hội. Từ thực tiễn phát triển DVCC, nhiều

nước Phương Tây đã nêu lý luận rằng: Sự tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc

đô thị hóa, sự cải thiện về công nghệ và cơ sở hạ tầng; sẽ dẫn đến sự gia tăng

số cá nhân có đủ thời gian, kiến thức, thông tin và tiền bạc để tham gia các

hoạt động chính trị, thúc đẩy dân chủ hóa đòi hỏi phải có nền dân chủ cách

mạng tự do.

Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, là nhà nước pháp quyền, của

dân, cho dân và vì dân thì việc quản lý nhà nước đối với DVCC sẽ tạo ra niềm

tin, vừa gắn kết giữa công dân với nhà nước và chế độ là hết sức cần thiết.

QLNN đối với DVCC có hiệu quả sẽ đã tạo thêm nhiều việc làm, phát

triển mạng lưới y tế, giáo dục, giao thông vận tải, vệ sinh môi trường,… làm

cho người dân có thêm động lực, tích cực góp phần bảo vệ, xây dựng đất

nước, ổn định xã hội, nâng cao mức sống và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Sự phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng (giao thông, điện lưới, giáo dục, y tế,

phát thanh truyền hình, bưu chính, viễn thông…) đã giúp đưa các vùng lạc

hậu, xa xôi, hẻo lánh của đất nước hội nhập với tiến trình phát triển chung,

củng cố, tăng cường an ninh, quốc phòng. QLNN đối với DVCC có hiệu quả

còn tạo ra nguồn lực to lớn cho xã hội, phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao. Đây chính là tài nguyên vô giá cho sự phát triển trong tương lai. Như

vậy, quản lý nhà nước đối với DVCC có hiệu quả sẽ góp phần điều chỉnh sự

phát triển chênh lệch trong nước, tạo thế phát triển bền vũng.

18

Quản lý nhà nước đối với DVCC có hiệu quả sẽ tạo ra môi trường

thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc tạo lập môi

trường đầu tư an toàn, hiệu quả cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế

ngoài nhà nước hoạt động. Trong thời gian qua, các đơn vị này tham gia cung

ứng nhiều loại hình dịch vụ công cộng, góp phần tạo lên sực cạnh tranh mạnh

mẽ đối với khu vực công, từ đó đã tạo ra lợi thế cho sự tăng trưởng kinh tế,

khơi dậy mọi nguồn lực trong phát triển. Tuy nhiên, chính sự đa dang và

phong phú về chủ thể cung ứng và các hình thức DVCC được cung ứng, Nhà

nước cần phải đảm bảo vai trò quản lý của mình một cách tốt nhất, có như vậy

mới đảm bảo cho hoạt động cung ứng DVCC được hiệu quả và theo đúng

hướng.

QLNN đối với DVCC tốt chính là thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của

công cuộc cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính mang tính phục vụ.

CCHC ở Lào đang được tiến hành mạnh mẽ, hướng tới các lĩnh vực và trên

diện rộng, trong đó các lĩnh vực cung ứng các hoạt động, các dịch vụ công

cộng góp phần thiết yếu và thể hiện rõ sự chuyển biến của cải cách hành

chính trong thời gian qua. Chính vì lẽ đó mà tăng cường QLNN đối với

DVCC là một yêu cầu bức thiết của CCHC trong giai đoạn mới

1.2.3. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với DVCC mang nhiều nét tương

đồng với mục tiêu của QLNN đối với toàn xã hội. Mục tiêu chung của QLNN

đối với DVCC chính là trạng thái mong đợi, cần có của nhà nước trong việc

thực hiện trách nhiệm cung ứng DVCC cho xã hội một cách hiệu quả nhất

trong khả năng cho phép thông qua việc tạo ra các DVCC có chất lượng, đủ

về lượng, cơ cấu, chủng loại theo đúng yêu cầu của xã hội và với giá cả hợp

lý nhất; các DVCC được cung ứng một cách tốt nhất theo đúng các nguyên

tắc và thể chế đã định; thu được sự cảm nhận hài lòng của người dân trong

19

việc sử dụng DVCC; góp phần tích cực nhất vào việc đạt được mục tiêu quản

lý chung của Nhà nước. Các mục tiêu cơ bản trong quản lý DVCC của nhà

nước phải hướng đến ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, tạo được lòng tin nhân dân đối với nhà nước nói riêng, với

chế độ xã hội nói chung. Đây được xem là mục tiêu mang tính định tính, khá

trừu tượng, thế nhưng đây lại chính là mục tiêu mang tính bền vững, tạo dựng

lòng tin trong nhân dân và toàn xã hội.

Thứ hai, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân

dân (dân trí, sức khỏe, việc làm, tổ chức đời sống, …). Các DVCC mà nhà

nước hướng tới đều là vì người dân, các biện pháp tổ chức triển khai, quản lý,

cung ứng đều vì mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.

Thứ ba, góp phần thúc đẩy sức sản xuất phát triển, xây dựng đất nước

giàu có, văn minh (tạo môi trường kinh doanh sản xuất lành mạnh,…). Khi

các DVCC được triển khai mạnh và sâu rộng, các chủ thể cung ứng tăng lên,

các loại hình DVCC phong phú, người dân có nhiều sự lựa chọn, sức cạnh

tranh của loại hàng hóa này tăng cao,… đây chính là động lực thúc đẩy các

doanh nghiệp, các đơn vị cung ứng phát triển.

Thứ tư, tạo mọi cơ hội cho công dân phát triển (học hành, việc làm, sản

xuất kinh doanh, giao lưu quốc tế, phát triển tư duy sáng tạo,…). Bên cạnh

việc thúc đẩy các doanh nghiệp, các đơn vị cung ứng phát triển thì công dân

thụ hưởng cũng có nhiều điều kiện phát triển hơn, bởi chất lượng dịch vụ tốt,

đa dang và phong phú thì cơ hội học hành, giao lưu, sử dụng dịch vụ sẽ tốt

hơn.

Thứ năm, thu hút mọi nguồn lực, mọi mối quan hệ tích cực từ bên

ngoài, từng bước nâng cao uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Bên cạnh đó

thì các doanh nghiệp, các tổ chức nước ngoài cũng có điều kiện phát triển,

20

mang lại vẻ tươi mới và sự phát triển mạnh mẽ trong quá trình hội nhập của

đất nước.

1.2.4. Nguyên tắc cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội

Xã hội có phát triển ở mức độ nào, dù ở chế độ xã hội nào thì Nhà nước

cũng phải có trách nhiệm bảo đảm cung ứng DVCC cho người dân và toàn xã

hội. Trên thế giới hiện nay, xu hướng phổ biến là nhà nước chỉ trực tiếp cung

ứng những DVCC mà các tổ chức xã hội không thể làm, hoặc không muốn

làm. Trong điều kiện ở nước CHDCND Lào hiện nay, Nhà nước đang đẩy

mạnh xã hội hóa việc cung ứng các DVCC như dịch vụ trường học, bệnh

viện, văn hóa, xã hội;.... đồng thời, phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền

địa phương trực tiếp quản lý và cung ứng các loại DVCC liên quan trực tiếp

đến đời sống của người dân.

Về nguyên tắc, Nhà nước phải chịu trách nhiệm cao nhất và cuối cùng

đối với việc cung ứng kịp thời, đầy đủ, đảm bảo chất lượng, có hiệu quả các

loại dịch vụ công cộng cho người dân và xã hội. Vì vậy, Nhà nước là người

quản lý, định hướng, giám sát và kiểm tra đối với tất cả các chủ thể cung ứng

dịch vụ công cộng hiện nay. Về cơ bản, các nguyên tắc trong cung ứng

DVCC cũng giống như các nguyên tắc trong cung ứng DVC, vì DVCC chính

là một bộ phận nằm trong DVC, các nguyên trong cung ứng DVCC là :

Nguyên tắc công bằng: Đòi hỏi DVCC phải đảm bảo cung ứng cho xã

hội các hàng hoá công cộng với ý nghĩa và đặc trưng vốn có của các hàng hoá

công cộng. Đó chính là sự thụ hưởng của mọi đối tượng đều như nhau, các

đơn vị cung ứng chất lượng phải theo những chuẩn mực nhất định và đảm bảo

hướng đến mọi đối tượng đáp ứng mọi nhu cầu trong thụ hưởng và dựa trên

cơ sở công bằng.

Nguyên tắc công khai, minh bạch: Đây là yêu cầu chính đáng của

người dân và xã hội, đòi hỏi Nhà nước và các tổ chức cung ứng DVCC cho

21

biết có việc tổ chức thực hiện cung cấp DVCC như thế thế nào? Quy trình

cung ứng DVCC ra sao? Các khó khăn cung ứng? cách tiếp cận và sử dụng

dịch vụ?,…. Tất cả đều phải được công khai, minh bạch, trên nguyên tắc tổ

chức của Nhà nước để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra và cân nhắc trong việc

sử dụng.

Nguyên tắc dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt

động của các đơn vị cung ứng DVCC. Cả Nhà nước và các đơn vị ngoài nhà

nước khi tiến hành cung ứng dịch vụ đều phải lấy dân làm đối tượng và là

mục tiêu hướng đến, tất cả là để phục vụ nhân dân. Sự hài lòng của người dân

là thước đo cho sự phát triển của dịch vụ. Ở đây người dân là chủ và người

dân chính là khách hàng cần được cung ứng. Đó cũng là nguyên tắc đảm bảo

cho sự phát triển thực sự, hướng nền hành chính nước nhà theo hướng phục

vụ, chuyển sang nền hành chính phục vụ, đó là định hướng mà các nước phát

triển luôn hướng tới.

Nguyên tắc pháp chế: Đòi hỏi tổ chức và hoạt động cung ứng các

DVCC cho xã hội phải dựa trên cơ sở hiến pháp và các quy định của pháp

luật, các cam kết mà Nhà nước đã hứa thực hiện trước dân chúng và các cam

kết mà Nhà nước tham gia ký kết với quốc tế trong việc cung ứng DVCC trên

toàn quốc.

Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả: Đòi hỏi DVCC cung ứng cho xã hội

phải là nhwungx dịch vụ có chất lượng tốt, hiệu quả cao và là những dịch vụ

tiết kiệm nhất. Điều đó đòi hỏi các đơn vị cung ứng luôn tìm tòi, sáng tạo và

luôn thay đổi để có được những dịch vụ tốt nhất với chi phí hợp lý nhất. Hiệu

quả tiết kiệm phải đạt được sự thống nhất của 3 yêu cầu: Kinh tế có nghĩa là

cung cấp DVCC chất lượng tốt bằng chi phí hợp lý nhất; Hiệu quả, có nghĩa

là làm được nhiều việc trong phạm vi cho phép, mang lại nhiều lợi ích cho xã

hội một cách công bằng và đúng đắn; Chất lượng, có nghĩa là thuận tiện cho

22

dân, công khai và làm cho người dân luôn luôn hài lòng về các sản phẩm và

dịch vụ mình sử dụng.

1.2.5. Các công cụ quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

Công cụ quản lý của nhà nước đối với dịch vụ công cộng chính là các

phương tiện hữu hình hoặc vô hình mà nhà nước sử dụng để tác động lên các

đối tượng trong hoạt động quản lý cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội.

Thứ nhất, đó là chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát

triển về DVCC để thực hiện các cam kết của Nhà nước với xã hội. Có thể nói

chiến lược phát triển của Nhà nước đóng vai trò quyết định đối với sự phát

triển của các loại hình DVCC. Khi DVCC được định hướng, được quy hoạch

phát triển thì đây sẽ là những dịch vụ hữu hiệu, trực tiếp đáp ứng yêu cầu của

Nhà nước để quản lý xã hội. Các kế hoạch phát triển trong ngắn hạn, trung

hạn và dài hạn luôn là các giai đoạn phát triển cụ thể, mang tính đình lượng,

định tính trong phát triển DVCC ở Lào.

Thứ hai, đó chính là những cam kết của Nhà nước đối với toàn xã hội.

Mỗi một Nhà nước khác nhau, chế độ khác nhau sẽ có những biện pháp, công

cụ quản lý nhà nước khác nhau. Tuy nhiên, nhà nước nào cũng phải đảm bảo

và cam kết với người dân và xã hội rằng Nhà nước sẽ đảm bảo trên thực tế

cung ứng đầy đủ các loại hình dịch vụ cho xã hội, trong đó có các dịch vụ

công cộng để ổn định và đảm bảo sự phát triển của Nhà nước, của xã hội.

Thứ ba, Nhà nước dựa vào hệ thống pháp luật để điều chỉnh các vấn đề

có liên quan đến hoạt động cung ứng và sử dụng DVCC trong xã hội. Đây

chính là các ràng buộc mang tính bắt buộc chung mà nhà nước đặt ra, bảo vệ,

thực hiện nhằm đảm bảo cho các hoạt động được diễn ra trên thực tế theo

định hướng. Bên cạnh đó, Nhà nước còn sử dụng công cụ là các chính sách cụ

thể để quản lý, thức đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của loại hình dịch vụ nào

đó đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước đối với xã hội.

23

Thứ tư, là bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước

trong toàn hệ thống để bảo đảm cung ứng các DVCC. Hiện nay, tổ chức bộ

máy nhà nước ở nước CHDCND Lào đang thực hiện chức năng quản lý hiệu

quả và phát triển theo hướng tinh gọn, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ của Nhà

nước, trong đó có chức năng quản lý nhà nước về DVCC. Bên cạnh đó, đội

ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước không ngừng được nâng cao về

trình độ và chất lượng. Đây chính là công cụ quan trọng và mang tính quyết

định trong mọi công việc của Nhà nước, có cả công tác QLNN về DVCC, bởi

xét đến cùng thì con người vẫn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Thứ năm, là phương thức thu hút các nguồn lực của nhân dân trong xã

hội và của các quốc gia khác trong khả năng có thể. Đây được xem là công

cụ mang tính sáng tạo và là bước đột phá trong công tác quản lý nhà nước về

DVCC, để có được những nguồn lực tốt nhất thúc đẩy phát triển các loại hình

dịch vụ.

Thứ sáu, đó là tài sản của Nhà nước nắm trong tay (bao gồm: ngân

sách nhà nước, tài nguyên quốc gia, công khố, kết cấu hạ tầng xã hội, các tổ

chức trực tiếp cung ứng DVCC của nhà nước v.v..). Đây được xem là đòn

bẩy, nền tảng để tạo điều kiện cho DVCC phát triển.

Thứ bảy, nhà nước phải sử dụng tới hệ thống thông tin trong quản lý

DVCC một cách thông suốt, minh bạch, hai chiêu, thuận tiện cho việc quản lý

nhạy bén của nhà nước, loại bỏ được các ách tắc không đáng có và tiếp thu

kịp thời nhũng ý kiến phản hồi của nhân dân, của các đối tượng quản lý và cả

của những người, những tổ chức sử dụng dịch vụ.

Như vậy, việc sử các công cụ quản lý nhà nước như trên theo hướng

nào và cách nào nó còn phụ thuộc vào nhà quản lý, đặc biệt là nhà lý cấp cao.

Tuy nhiên, trên góc độ quản lý nhà nước, chúng ta có thể sử dụng công cụ

nào, mức độ ra sao còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song phổ biến hiện nay ở

24

các nhà nước, các chính quyền đều sử dụng đồng bộ các công cụ nói trên

thành tổng thể các công cụ để điều chỉnh các loại hình DVCC.

1.2.6. Nội dung quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

DVCC là dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm về chất lượng cung

ứng. Việc làm rõ những nội dung cụ thể của trách nhiệm quản lý của Nhà

nước đối với DVCC là rất cần thiết, giúp cho việc cung cấp DVCC có hiệu

quả, đặc biệt là khi Nhà nước đang trong quá trình chuyển đổi về chức năng,

nhiệm vụ và huy động sự tham gia của nhiều chủ thể trong xã hội đối với các

công việc của Nhà nước nói chung và việc cung ứng DVCC nói riêng.

- Hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng

ngành, lĩnh vực cụ thể như giáo dục, y tế, văn hóa..., làm cơ sở để định hướng

hoạt động của các chủ thể khác nhau cùng tham gia cung ứng các DVCC

trong từng lĩnh vực đó. Công tác hoạt định chiến lược đòi hỏi các cấp các

ngành cần có những chủ trương, đề xuất hợp lý để có được định hướng phát

triển tốt nhất. Ngoài ra, nguồn nhân lực chính thực hiện công tác này phải là

đội ngũ cán bộ có trình độ cao, am hiểu về lĩnh vực chuyên sâu. Có như vậy

mới có thể hoạch định được những kế hoạch phát triển trong ngắn hạn, trung

hạn và dài hạn một cách hợp lý, khoa học, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền

vững. Qua đó góp phần thiết thực trong quản lý nhà nước đối với DVCC.

- Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách trong việc cung ứng các

loại DVCC: Hiện nay, có nhiều chủ thể khác nhau cùng tham gia cung ứng

DVCC: Nhà nước, thị trường, các tổ chức xã hội và cá nhân. Việc cung ứng

DVCC của các chủ thể này nhằm những mục đích khác nhau. Chính vì vậy,

Nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống thể chế, chính sách đối với việc

cung ứng DVCC, làm căn cứ để quản lý thống nhất; đồng thời, là cơ sở để các

tổ chức xã hội và công dân có thể lựa chọn và tham gia vào việc cung ửng các

DVCC có hiệu quả.

25

Với quyền lực của mình, Nhà nước đề ra các thể chế quy định cụ thể

những vấn đề mà mọi tổ chức, cá nhân phải tuân theo (nghĩa vụ, trách nhiệm

quyền lợi...) khi tham gia cung ứng và sử dụng các DVCC - trên cơ sở bảo

đảm tính cạnh tranh và hiệu quả về kinh tế và tính công bằng về xã hội

- Thống nhất chỉ đạo cung cấp DVCC trong toàn xã hội, theo từng

ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Mọi đối tượng xã hội đều có quyền

thụ hưởng DVCC một cách bình đẳng, không phân biệt điều kiện, hoàn cảnh,

thành phần chính trị - xã hội. Tuy nhiên, do hoàn cảnh phát triển của đất nước

không đồng đều, các khu vực có sự phát triển khác nhau, đời sống kinh tế,

văn hóa khác nhau, nên mức độ nhu cầu đối với các dịch vụ không giống

nhau. Do đó, để có sự bình đẳng trên thực tế, Nhà nước cần có sự chỉ đạo tập

trung thống nhất để việc cung cấp DVCC thực sự đến với người hưởng thụ

một cách có hiệu quả. Đồng thời, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của

Chính phủ, các ngành và các địa phương lại phải có những điều chỉnh trong

việc cung ứng các DVCC về cả số lượng, loại hình và giá cả cho phù hợp với

đặc thù của ngành hoặc của địa phương mình.

- Nhà nước điều tiết cung cấp các dịch vụ công cộng

Nhà nước dùng quyền lực điều tiết việc cung ứng DVCC nhằm bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.Việc thụ hưởng các dịch vụ

công cộng của Nhà nước luôn diễn ra theo hai chiều, giữa một bên cung ứng

và một bên thụ hưởng. Đo đó, Nhà nước cần điều tiết làm sao cho quá trình

đó được diễn ra hài hòa, hợp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân và tổ chức, cũng như nghĩa vụ của công dân và tổ chức đối với Nhà nước.

Theo đó thì việc không ngừng cải tiến chất lượng cung ứng dịch vụ công

cộng; cung cấp thông tin, dự báo và kinh nghiệm trong nước và thế giới có

liên quan đến cung ứng dịch vụ công cộng là đòi hỏi không thể thiếu trong

hoạt động cung ứng dịch vụ của Nhà nước.

26

Để các hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng của nhà nước có hiệu

quả, nhà nước phải không ngừng có những điều chỉnh, cải cách hoạt động

cung cấp dịch vụ công cộng ở tầm vĩ mô; xác định rõ các loại dịch vụ công

cộng nào thực sự là dịch vụ nhà nước phải cung cấp cho xã hội, mức độ can

thiệp của nhà nước trực tiếp hay gián tiếp qua việc cấp tài chính hay chỉ đề ra

các tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả và mở rộng sự tham gia của các chủ thể

khác trong xã hội trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Nhà nước giữ vai trò

chủ đạo trong đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thông tin, lập kế hoạch phát

triển từng lĩnh vực trong cung ứng dịch vụ công cộng. Dịch vụ công cộng là

dịch vụ do Nhà nước chủ đạo và chịu trách nhiệm cung ứng, do vậy cần làm

rõ trách nhiệm cụ thể của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công cộng,

nhất là trong giai đoạn Nhà nước đang chuyển đổi theo hướng phục vụ, cần

huy động các nguồn lực xã hội tham gia cung ứng dịch vụ công cộng hiện

nay.

- Tổ chức thực hiện xã hội hoá các dịch vụ công cộng

Chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công cộng hiện nay đang là một chủ

trương đúng đắn của Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước. Sự phát

triển không ngừng của các loại hình dịch vụ trong xã hội đã và đang đặt ra

những yêu cầu mới đối với công tác quản lý của Nhà nước. Hòa chung với xu

hướng của thế giới, ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong những năm

qua đã có nhiều thay đổi trong vấn đề xã hội hóa các dịch vụ công cộng, nhà

nước khuyến khích và động viên, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tư

nhân, các tổ chức ngoài Nhà nước có năng lực và đáp ứng yêu cầu trong việc

cung ứng các dịch vụ công cộng cho xã hội, Nhà nước chỉ quản lý về chất

lượng và đặt ra các tiêu chuẩn đạt chuẩn để quản lý các đối tượng này Chính

vì vậy, trong những năm qua các ngành, lĩnh vực như y tế, giáo dục, giao

thông vân tải, vệ sinh môi trường nông thôn, đô thị,… đã có những thay đổi

27

đáng kể. Đó chính là sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân, các trường

học tư thục, các bệnh viện tư nhân, phòng khám tư nhân, các tổ chức giáo dục

quốc tế, các công ty tư nhân đảm trách vệ sinh môi trường ngày càng nhiều,…

từ đó mà chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng ngày càng tốt.

- Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm để việc cung ứng DVCC đáp ứng

yêu cầu của xã hội. Việc khu vực tư và các tổ chức xã hội tham gia cung ứng

DVCC là một xu thế khách quan, làm cho các sản phẩm, dịch vụ đa dạng hơn,

giá cả rẻ hơn và chất lượng được nâng cao. Tuy nhiên, điều này lại đòi hỏi

Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ hơn rất nhiều so với trước kia, khi Nhà

nước là chủ thể duy nhất cung ứng DVCC cho xã hội, bởi mục tiêu mà các

chủ thể ngoài Nhà nước hướng tới không chỉ là phục vụ, mà còn là lợi nhuận.

1.2.7. Bộ máy quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

Đề cập tới bộ máy quản lý nhà nước (QLNN) đối với DVCC cũng

chính là bộ máy QLNN đối với dịch vụ công (DVC), bởi lẽ DVCC chính là

một phần, một bộ phận nằm trong DVC. Theo đó thì các cơ quan QLNN đối

với DVC cũng chính là các cơ quan QLNN đối với DVCC. Ở nhiều quốc gia,

trong đó có CHDCND Lào hiện nay, chức năng này được giao cho các cơ

quan hành pháp, hay đúng hơn là các cơ quan hành chính nhà nước từ trung

ương đến địa phương. Theo phân cấp quản lý đối với hoạt động cung ứng

DVCC trên phạm vi toàn lãnh thổ.

Công tác QLNN đối với các DVCC được phân cấp quản lý giữa trung

ương và chính quyền địa phương. Các cơ quan Trung ương chính là Chính

phủ và các Bộ, ngành thực hiện quản lý các DVCC được phân cấp. Tuy nhiên,

trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến phân cấp quản lý nhà nước

đối với các DVCC ở cấp tỉnh, đó là các cơ quan trong bộ máy QLNN cấp tỉnh

gồm UBND và các Sở, trong bộ máy QLNN cấp huyện gồm UBND và các

phòng.

28

Theo cách hiểu được nhiều người thừa nhận thì: Phân cấp là một

phương pháp quản lý trong đó chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ

chức trong hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành pháp được phân chia,

phân công một cách cụ thể thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

theo nguyên tắc trao cho cơ quan cấp dưới nhiều quyền ra quyết định các vấn

đề có liên quan và tăng cường sự giám sát hoạt động của các cơ quan đó

thông qua hệ thống trách nhiệm báo cáo. Đồng thời, phân cấp là quá trình cải

cách hành chỉnh nhằm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách

nhiệm và chịu trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ

trung ương đến tận cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành

chính nhà nước và cơ chế chuyển giao nhiệm vụ cho các tổ chức bên ngoài

nhà nước.

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở

một số tỉnh, thành phố và bài học cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa

dân chủ nhân dân Lào

1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở

Thành phố Hồ Chí Minh, nước CHXHCN Việt Nam

Thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá là một trong những thành phố

có tốc độ phát triển kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam Á, là một trong

những thành phố phát triển bậc nhất ở Việt Nam, nơi đây trước kia được

mệnh danh là “Hòn ngọc viễn đông” và hiện nay thành phố cũng là đơn vị đi

đầu trong công tác QLNN về DVCC ở Việt Nam.

Trong công tác QLNN về cung ứng DVC nói chung và DVCC nói

riêng thì thành phố là đơn vị đi đầu với những cải cách mang tính đột phá cao.

Là đơn vị đầu tiên ở Việt Nam xây dựng cổng thông tin “một cửa điện tử” từ

15/12/2008 tại địa chỉ www.hochiminhcity.gov.vn. Thông qua hệ thống này,

người dân và doanh nghiệp biết được tình trạng giải quyết hồ sơ của toàn

29

thành phố, của từng quận/huyện, từng sở, ngành. “Một cửa điện tử” cung cấp

thông tin một cách tự động và trực tuyến từ hệ thống CNTT tại các đơn vị.

Người dân có thể dùng phương tiện liên lạc thông dụng nhất hiện nay là điện

thoại để được trả lời tự động về tình trạng hồ sơ bằng thoại, tin nhắn qua “một

cửa điện tử”. “Một cửa điện tử” là công cụ hữu hiệu để người dân và lãnh đạo

giám sát các DVCC. Các loại hình dịch vụ như văn hóa, giáo dục, y tế, hệ

thống giao thông vận tải,... đều được đăng tải và công khai về quy trình và

lịch trình, các mẫu hồ sơ, đấu thầu trong giải quyết các công việc đều được

minh bạch và công khai. Điều này giúp choi người dân và doanh nghiệp dễ

dàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ, nó cũng góp phần xã hội hóa các dịch vụ

công cộng nhanh và sâu rộng hơn.

Đến nay đã có 24 quận/huyện và 7 sở, ngành tham gia hệ thống “một

cửa điện tử”. Ngoài việc truy cập website và sử dụng điện thoại qua hệ thống

một cửa điện tử, người dân có thể tra cứu thông tin trực tiếp tại các

quận/huyện, sở, ngành qua hệ thống mã vạch với màn hình cảm ứng. Như

vậy, người dân được cung cấp thông tin ở mọi nơi, mọi lúc 24/7 và không phụ

thuộc vào tinh thần làm việc hay thái độ của cán bộ, công chức nhà nước.

Không những thế thành phố Hồ Chí Minh còn là đơn vị đi đầu trong

cấp phép trực tuyến. Cấp giấy phép qua mạng đối với giấy chứng nhận đăng

ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư và giấy phép thành lập văn phòng đại

diện. Hàng năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và có

trên 50% doanh nghiệp đăng ký trực tuyến. Hình thức phục vụ này đã làm

giảm thời gian chờ đợi, đi lại của người dân, giảm được áp lực lên cơ quan

cấp phép, đồng thời cũng được giảm áp lực lên giao thông.

Hiện nay, các quận, huyện cấp 52 loại giấy phép thì đã có 50 loại thuộc

6 lĩnh vực được ứng dụng CNTT. Từ lúc nhận hồ sơ, chuyển qua xử lý và cấp

giấy phép đều được thực hiện trên mạng máy tính.

30

Tất cả những sự thay đổi đó hướng đến một nền hành chính phát triển,

mang dáng vóc của một nền hành chính phục vụ nhân dân, lấy công dân và tổ

chức làm trọng tâm, lấy chất lượng cung ứng dịch vụ làm thước đo cho hiệu

quả công việc của các cơ quan công quyền.

1.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở thủ

đô Viên Chăn, nước CHDCND Lào

Hiện nay, thủ đô Viên Chăn với các ngành thế mạnh là du lịch, thương

mại, công nghiệp. Những ngành nghề đặc biệt phát triển là công nghệ thực

phẩm, dệt lụa, đóng đồ gỗ, làm thủ công mỹ nghệ,... Nhờ có đường lối đổi

mới nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý mà đã tạo ra luồng sinh khí mới cho

kinh tế phát triển, trong đó có các loại hình dịch vụ công với các hàng hóa

dịch vụ công cộng phát triển. Cũng từ đó thủ đô Viên Chăn có một hệ thống

cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải phát triển ( đường xá, cầu cống, sân bay, nhà

ga,...) và hệ thống thông tin liên lạc, các dịch vụ viễn thông không ngừng lớn

mạnh và phát triển. Vì vậy, đây sẽ là động lực rất quan trọng để phát triển các

ngành dịch vụ, trong đó có các dịch vụ hàng hóa công cộng thúc đẩy phát

triển kinh tế ở thủ đô Viên Chăn.

Trong QLNN đối với dịch vụ công nói chung, đối với các dịch vụ công

cộng nói riêng, thủ đô Viên Chăn giao cho các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND thực hiện, các đơn vị cung ứng dịch vụ phải tuân thủ các quy định của

pháp luật, của cơ quan quản lý cấp trên và tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực

của từng ngành, lĩnh vực cụ thể.

Đối với QLNN về văn hóa, giáo dục thì việc thành lập hay đóng cửa

một trường học do cơ quan quản lý và trách nhiệm thuộc về người đứng đầu

quyết định. Trách nhiệm cung cấp giáo dục bậc tiểu học và trung học thuộc về

Chính phủ trung ương. Ngoại trừ chuyển giao việc xây dựng và bảo dưỡng

trường học cho các cơ quan ở thủ đô Viên Chăn.

31

Đối với QLNN về y tế chính quyền ở thủ đô Viên Chăn chịu trách

nhiệm về những chức năng y tế đơn giản và thiết thực đối với địa phương (ví

dụ: dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản và ban đầu được giao cho cấp Phường,

Bản); còn cấp cao hơn chịu trách nhiệm đối với những chức năng hoặc những

vấn đề y tế có quy mô lớn hoặc có liên quan đến nhiều cấp thẩm quyền (ví dụ:

các bệnh viện cấp ba và bệnh viện chuyên khoa chủ yếu thuộc trách nhiệm

của Sở Y tế, Bộ Y tế, chính quyền trung ương). Đối với những nhu cầu thiết

thân của người dân như chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, kế hoạch hóa gia

đình, Chính phủ trung ương tiếp tục trực tiếp cung ứng với sự tham gia của

chính quyền địa phương các cấp.

Đối với chức năng QLNN về lĩnh vực thông tin liên lạc, giao thông vận

tải,… giao cho các Sở ban ngành chuyên môn phụ trách theo đúng chức năng

và nhiệm vụ quyền hạn được giao, trên cơ sở báo cáo chính quyền thủ đô

Viên Chăn mà trực tiếp là UBND thành phố để có sự chỉ đạo trực tiếp và sâu

sát nhất.

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND

Lào về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng

Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc học tập kinh nghiệm từ

các thành phố lớn, có nhiều thành tựu trong công tác QLNN đối với DVCC là

điều cần thiết, không chỉ ở trong nước mà còn ở các thành phố ở nước ngoài

có nhiều điểm tương đồng như Việt Nam. Thủ đô Viên chăn của nước Lào và

thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam là hai thành phố có bước phát triển

mạnh mẽ về các loại hình DVCC, điều đó cho thấy công tác QLNN đối với

DVCC ở hai thành phố này thực hiện tốt và rất đáng học tập, noi theo. Những

bài học đúc kết từ quá trình cải cách, đổi mới trong quản lý và cung ứng dịch

vụ công cộng sẽ mở ra hướng đi tiếp theo cho công tác quản lý Nhà nước đối

32

với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng. Sau đây là một số bài học kinh nghiệm rút

ra từ thực tiễn học tập công tác QLNN về DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng:

Một là, xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức nhà nước đủ năng lực,

trình độ, có khả năng đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao trong giai

đoạn mới, có tinh thần thái độ, có trách nhiệm trong thực thi công vụ. Đây là

nhân tố quan trọng nhất, hàng đầu hiện nay, bởi vì xét cho cùng thì đây chính

là lực lượng nhất quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động cung ứng

DVCC. Đồng thời, đội ngũ này cũng chính là những người quản lý các

DVCC theo định hướng.

Hai là, tăng cường cơ sở pháp lý, tạo hành lang pháp lý cơ bản và

hoàn thiện để điều chỉnh các quan hệ lên quan đến QLNN về DVCC ( ban

hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách chế độ thể lệ...) đảm bảo sự

ổn định và thúc đẩy sự phát triển của hệ thống cung ứng dịch vụ công cho

toàn xã hội; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển

mạng lưới cung ứng dịch vụ công cho toàn xã hội, đồng thời tổ chức chỉ đạo

thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ công...

Ba là, cần phân định rõ những dịch vụ công cộng do các cơ quan, tổ

chức nhà nước trực tiếp cung ứng và DVCC do các đơn vị, tổ chức tư nhân,

từ đó cơ cấu lại chi tiêu ngân sách theo hướng tập trung đầu tư thích đáng cho

việc cung ứng các DVCC cơ bản, thiết yếu nhất... còn dịch vụ nào có thể

chuyển giao thì sẽ chuyển giao cho đơn vị tư nhân thực hiện để giảm tải cho

ngân sách nhà nước.

Bốn là, tăng cường đầu tư xây dựng, thiết lập quy trình và phát triển cơ

sở hạ tầng, CNTT đồng bộ trong việc cung ứng các DVCC; hiện đại hoá công

sở nhằm nâng hiệu quả làm việc của CBCC và chất lượng cung ứng DVCC.

Hiện nay, mạng internet phát triển, cùng với việc khoa học kỹ thuật phát triển

không ngừng như hiện nay là xu thế hội nhập quốc tế thì việc tăng cường đầu

33

tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng phục vụ nền hành chính cần

được coi như một trong các giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng

DVCC.

Năm là, cải cách chất lượng cung ứng DVCC làm thay đổi nhận thức về

vai trò và chức năng của nhà nước từ quản lý sang hỗ trợ và phục vụ. Mục

tiêu của cải cách là lấy yêu cầu của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp

làm cơ sở cho những quyết sách của nhà nước với phương châm phục vụ là

tiêu chí hàng đầu trong cải cách nền HCNN theo hướng phát triển.

Sáu là, đẩy mạnh hơn nữa xã hội hóa dịch vụ công cộng. Xã hội hóa

dịch vụ công cộng đem lại những lợi ích không hề nhỏ. Việc thay đổi nhận

thức về vai trò của Nhà nước đối với các DVCC - lĩnh vực mà trước đây chỉ

có Nhà nước đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần cho các tổ

chức ngoài nhà nước. Có thể kể đến các DVCC như: dịch vụ sự nghiệp công,

cung ứng dịch vụ về văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao,… đã từng bước được

thừa nhận hiệu quả. Điều đó đã từng bước thể hiện tính đúng đắn của chủ

trương xã hội hóa mạnh mẽ dịch vụ công trên phạm vi rộng khắp.

Bảy là, tăng cường giám sát thường xuyên và nghiêm khắc quy trình xử

lý công việc và tinh thần, thái độ của CBCC trong quá trình thực thi công vụ,

nêu cao trách nhiệm giải trình và sử dụng các chế tài pháp luật để xử lý vi

phạm nhằm tạo ra một nền công vụ minh bạch.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Như vậy, trong chương 1 tác giả đã đi vào trình bày và chỉ ra những

khái niệm cơ bản nhất về dịch vụ công, dịch vụ công cộng; bản chất và đặc

trưng cũng như nét đặc thù trong công tác QLNN đối với loại hình dịch vụ

này; lý do vì sao phải tăng cường QLNN đối với DVCC và sự bức thiết phải

quản lý loại hình đặc thù này. Trên cơ sở đó thấy rõ vài trò của nó đối với sự

phát triển chung của ngành, lĩnh vực cũng như của địa phương, của mỗi quốc

34

gia nếu như muốn có được sự phát triển bền vững. Qua đó, có được cái nhìn

khái quát nhất về vấn đề QLNN đối với DVCC ở các nước láng giềng cũng

như ở thủ đô Viên Chăn. Rút ra được những bài học cơ bản và sát thực tế nhất

đối với công tác QLNN đối với DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng. Đây

sẽ là tiền đề quan trọng để tác giả đi vào phân tích thực trạng công tác QLNN

về DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng ở chương 2.

35

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG

CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA

DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

2.1. Khái quát chung về tỉnh Xiêng Khoảng

Xiêng Khoảng (phiên âm tiếng Anh là Xieng Khuang) là một trong 18

tỉnh của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đồng thời đây là một trong 8

tỉnh miền Bắc của Lào. Cách thủ đô Viên Chăn 300km. Tỉnh Xiêng Khoảng

có diện tích 16,850 km2, độ cao bình quân là 1200m. Về vị trí địa lý, tỉnh

Xiêng Khoảng tiếp giáp với tỉnh Nghệ An của Việt Nam về phía Đông có

chiều dài khoảng 160km, giáp với tỉnh Viên Chăn của Lào về phía Tây Nam.

Phía Nam giáp với tỉnh Bo Ly Khăm Xay và tỉnh Xay Xôm Bun với chiều dài

220km. Phía bắc với tỉnh Hủa Phăn có chiều dài 160km. Tỉnh Xiêng Khoảng

có những đỉnh núi cao nhất nước Lào, như Phu bia (2.820 m), Phu xao (2.690

m), Phu xamxum (2.620 m), Phu sane (2.218 m), Phu leb (1.761 m). Các sông

Nậm Ngừm của Lào, sông Lam của Việt Nam bắt nguồn từ miền Bắc Xiêng

Khoảng. Phần lớn là núi cao chiếm 90%, cao bằng chiếm 8%, đồng bằng

chiếm 2% diện tích.

Xiêng Khoảng có di tích cánh đồng Chum nổi tiếng, trong thời kỳ

kháng chiến chống Mỹ, đây là tỉnh bị ném bom nặng nề nhất. Hiện nay, Cánh

đồng Chum Xiêng Khoảng đã trở thành địa điểm thu hút khách du lịch của địa

phương, hàng năm có hàng ngàn lượt khách ghé thăm, trong tương lại, đây sẽ

là thế mạnh phát triển của tỉnh nếu như được đầu tư, khai thác hiệu quả, dự

báo sẽ mang lại nguồn thu cho ngân sách địa phương, góp phần giải quyết

việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển dịch vụ công cộng.

36

Thời tiết Xiêng Khoảng có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Với

đặc điểm thời tiết này, đây sẽ là những tác động không nhỏ đến sản xuất nông

nghiệp của tỉnh, nền kinh tế của tỉnh vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nếu

biết tận dụng đặc tính này của thời tiết, kết hợp với cơ cấu câu trồng hợp lý

đây sẽ là thế mạnh đáng kể trong việc trồng và phát triển các loại cây, con

theo hướng đặc sản phát triển nông sản hàng hóa chất lượng cao.

Xiêng Khoảng có 07 huyện và 01 tỉnh lỵ trong đó có: Phonsavan (còn

có tên khác là Pek là tỉnh lỵ của Xiêng Khoảng), Kham, Nong Het,

Khoune (còn có tên khác là Xiêng Khoảng), Morkmay, Phou Kout, Phaxay.

Trong đó có 55 cụm Bản, 481 bản làng.

Tính đến 31/12/2015, Xiêng Khoảng có 481 bản, 41.443 hộ gia đình,

với 250.144 người, trong đó dân số nam khoảng 131.439 người, chiếm 52,54

%, dân số nữ khoảng 118.705 người, chiếm 47,46 %. Tỷ lệ tăng dân số tự

nhiên của tỉnh nhìn chung tương đối ổn định.

Toàn tỉnh có 3 dân tộc chính là Lào Lùm, Lào Sung và Lào Thâng,

trong đó dân tộc Lào Lùm chiếm đa số với khoảng 70% dân số toàn tỉnh, Lào

Thâng chiếm 25% dân số toàn tỉnh và Lào Thâng chiếm thiểu số với khoảng

5% dân số toàn tỉnh. Lối sống của 3 dân tộc này có sự khác nhau, Lào Lùm

phần lớn làm ruộng, làm vườn, trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán, làm công chức

nhà nước; dân tộc Lào Thâng làm nương, làm rẫy; còn dân tộc Lào Xủng

thích trồng trọt và chăn nuôi.

Về lao động, tổng lao động của tỉnh Xiêng Khoảng là 78.621 người,

chiếm khoảng 31,43% dân cư của tỉnh, trong đó lao động nam là 66.953

người, chiếm 85,16%; lao động nữ là 11.668 người, chiếm 14,84%.

Những năm gần đây, tỉnh tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, gắn với

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tạo điều kiện thu hút

37

các dự án vào đầu tư, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tăng cường công

nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, chú trọng đưa giống cây trồng, vật nuôi

mới năng suất chất lượng cao vào sản xuất nông nghiệp. Tăng hiệu quả kinh

tế trên diện tích đất, tăng tỷ trọng chăn nuôi và kinh tế trang trại để phát triển

một cách bền vững.

Kinh tế chủ yếu của Xiêng Khoảng là trồng lúa và nuôi bò. Thu nhập

cả tỉnh đạt 2,201,16 tỷ kíp/1năm, bình quân GDP đạt 1.328 đô la Mỹ/1

người/1 năm. Sản xuất thóc đạt 517,029,46 tấn/năm; sản xuất ngô đạt

454,097,93 tấn/năm; chăn nuôi trâu bò đạt 188,024 con, tăng lên 13%/năm.

Tuy nhiên, nhìn chung Xiêng Khoảng vẫn là tỉnh nghèo, hộ gia đình

nghèo chiếm 2,2%. Nộp ngân sách nhà nước hàng năm đạt 433,28 tỷ kip/năm,

trong khi tiêu ngân sách nhà nước là 1,841,54 tỷ kip/năm, nhà nước bù

khoảng 1,219,40 tỷ kip/năm.

Tỉnh cũng quan tâm đến công tác y tế, chăm sóc sức khỏe, nâng cao

trình độ phục vụ của cac bác sĩ, y tá, phát triển mạng lưới y tế tới nông thôn.

Hiện nay cả tỉnh có 12 bệnh viện, có 45 trạm y tế; hoạt động tiêm thuốc

phòng bệnh cho trẻ em đạt 35,2%; thực hiện kế hoạch hóa gia đình được

24,5%. Tuy nhiên, nhiều bản vẫn chưa có trạm xá, ở xa bệnh viện, đi lại khó

khăn, thiếu thuốc men nghiêm trọng.

Hoạt động văn hóa còn hạn chế, chương trình phát thanh và truyền

hình còn nhỏ lẻ, nghèo nàn, chưa thu hút được người dân. Điều này gây khó

khăn trong công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước trong nhân dân.

Như vậy, ở tỉnh Xiêng Khoảng hiện nay đã có gần như đầy đủ các loại

hình dịch vụ công cộng. Chính quyền tỉnh luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện

thúc đẩy, hỗ trợ cho các dịch vụ công cộng phát triển. Về nguyên tắc tổ chức

quản lý nhà nước thì chính quyền phải đảm bảo rằng sẽ cung ứng toàn bộ các

38

loại hình dịch vụ công cộng đáp ứng nhu cầu của người dân và tổ chức. Theo

đó, hiện nay ở tỉnh Xiêng Khoảng có các loại hình dịch vụ công cộng như:

Dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục, bảo hiểm xã hội, xây dựng đô thị, cung ứng

nước sạch, vệ sinh môi trường đô thị, nông thôn, các laoij hình dịch vụ về

kinh tế,….

2.2. Quản lý dịch vụ công cộng của chính quyền tỉnh Xiêng

Khoảng, nước CHDCND Lào

UBND tỉnh là cấp quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, thực

hiện chức năng QLNN trên địa bàn lãnh thổ nhất định. Việc tiến hành quản lý

chung, toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi, quy

mô địa phương, được cụ thể bởi địa giới quản lý hành chính nhất định. Ở

nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, chính quyền địa phương được chia làm

3 cấp để quản lý xã hội là: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

UBND quận, huyện và cấp Bản. Theo đó, thì UBND tỉnh là cấp quản lý cao

nhất, là cấp quản lý trực tiếp đối với các quan hệ xã hội, các dịch vụ công

cộng ở địa phương cũng được cung ứng đầy đủ nhất. Hiện nay, ở Ủy ban

Nhân dân tỉnh Xiêng Khoảng, phương thức tổ chức quản lý nhà nước đối với

gần như toàn bộ các dịch vụ công cộng trên địa bàn.

2.2.1. Bộ máy quản lý nhà nước của Xiêng Khoảng

Về cơ bản tổ chức chính quyền, bộ máy quản lý nhà nước cấp tỉnh ở

nước CHDCND Lào cũng giống như ở Việt Nam, chỉ có một vài điểm khác

biệt là người đứng đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là tỉnh trưởng. Theo

pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào, Bí thư

tỉnh ủy kiêm Chủ tịch UBND tỉnh, gọi là tỉnh trưởng. Đây là sự nhất thể hóa

thể hiện sự tập trung về quyền lực và sự thống nhất tuyệt đối giữa Đảng và

Chính quyền. Về tổ chức bộ máy giúp việc ở Lào chia ra làm các Khối cơ

39

bản, riêng khối Sở ở Lào khác với Việt Nam là chỉ có 18 sở, là các đơn vị

giúp việc cho UBND tỉnh. Dưới cấp tỉnh là cấp huyện, có các Phòng ban chức

năng và cấp thấp nhất là cấp Bản, là đơn vị hành chính nhỏ nhất ở chính

quyền địa phương của Lào.

Về tổ chức bộ máy giúp việc ở tỉnh:

Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm Văn

phòng ủy ban nhân dân và các sở, ban, ngành, chia thành các khối cơ bản sau:

Khối tổng hợp: Văn phòng ủy ban nhân dân, Sở Kế hoạch và Đầu tư,

Sở Nội vụ.

Khối nội chính: Sở Tư pháp, Ban Thanh tra. Ngoài ra, các cơ quan sau

đây chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc ủy ban nhân dân:

Công An tỉnh, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, Bộ Chỉ huy quân

sự tỉnh.

Khối lưu thông phân phối: Sở Thương mại, Sở Tài chính (trong đó có

Cục thuế, Kho bạc Nhà nước). Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành

chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc ủy ban nhân dân.

Khối nông lâm nghiệp: Sở Nông Lâm nghiệp, Sở Tài nguyên và môi

trường.

Khối công nghiệp: Sở Xây dựng, Sở Công nghiệp, Sở Giao thông vận

tải (hoặc Giao thông Công chính), Sở Bưu chính, Viễn thông, Sở Khoa học và

công nghệ (trong đó có Cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng), Sở khai thác

Mỏ

Khối văn hóa xã hội: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa, Thể thao và

Du lịch, Sở Y tế, Sở Lao động, Xã hội và Phúc lợi, Ủy ban Dân số, Gia đình

và Trẻ em.

Như vậy, qua sự mô tả trên chúng ta có thể hình dung được về tổ chức

bộ máy QLNN ở tỉnh Xiêng Khoảng cũng khá giống với bộ máy tổ chức

40

chính quyền địa phương ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong vấn đề quản lý nhà

nước đối với các DVCC hiện nay, chính quyền địa phương ở tỉnh Xiêng

Khoảng nói riêng, chính quyền địa phương các tỉnh ở nước CHDCND Lào

nói chung có thể hình dung qua sơ đồ sau:

2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy QLNN về DVCC chung ở tỉnh Xiêng

Khoảng

UBND TỈNH

Các cơ quan thuộc UBND tỉnh (các Ban Quản lý,… UBND các huyện, thị xã, thành phố (07 huyện và 1 tỉnh lỵ)

Các cơ quan ngang Sở (Cục thuế, Cục thống kê,..)

Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh gồm 18 Sở, ngành giúp UBND tỉnh QLNN về ngành, lĩnh vực

(Nguồn: Tổ chức chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào)

Sơ đồ 2.2. Tổ chức bộ máy QLNN về DVCC đối với một số dịch vụ

tuyến tỉnh

CHỦ TỊCH UBND TỈNH

GIÁM ĐỐC SỞ Y TẾ GIÁM ĐỐC SỞ TÀI CHÍNH GIÁM ĐỐC SỞ........ ..

GIÁM ĐỐC SỞ NỘI VỤ GIÁM ĐỐC SỞ GIÁO DỤC

41

Sơ đồ 2.3. Tổ chức bộ máy QLNN về DVCC đối với một số dịch vụ

tuyến huyện

CHỦ TỊCH UBND HUYỆN

PHÒNG Y TẾ

PHÒNG NỘI VỤ PHÒNG GIÁO DỤC

PHÒNG TÀI NGUYÊN, .........

PHÒNG TÀI CHÍNH, ( KẾ HOẠCHH

Nguồn: Tổ chức chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào)

2.2.2. Khía cạnh pháp lý của quản lý dịch vụ công cộng của chính

quyền tỉnh Xiêng Khoảng

Nhu cầu khách quan quy định trách nhiệm của Nhà nước đảm bảo các

dịch vụ công cộng xuất phát từ chức năng xã hội của Nhà nước. Bất kỳ Nhà

nước nào ra đời và tồn tại cũng có hai chức năng cơ bản là chức năng quản lý

(còn gọi là chức năng cai trị) và chức năng xã hội (hay chức năng phục vụ xã

hội). Xã hội càng phát triển thì chức năng xã hội càng mở rộng và được nhấn

mạnh hơn, theo đó cung ứng dịch vụ công trở thành một nhiệm vụ cơ bản của

Nhà nước. Đề cập tới khía cạnh pháp lý của quản lý về DVCC ở tỉnh Xiêng

Khoảng, nước CHDCND Lào là đề cập tới vấn đề pháp lý, các văn bản pháp

luật liên quan đến công tác quản lý về DVCC trên địa bàn tỉnh.

Hiện nay trong quản lý đối với dịch vụ công nói chung và đối với các

loại hình dịch vụ công cộng nói riêng ở Lào đã có sự phân biệt về chủ thể

cũng như đối tượng thụ hưởng. Theo quy định của pháp luật thì các cơ quan

QLNN ở địa phương (tuyến tỉnh) và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

có chức năng quản lý nhà nước đối với ngành và lĩnh vực mình phụ trách.

42

Điều này được quy định cụ thể trong luật tổ chức chính quyền địa phương

cũng như được quy định một cách rõ ràng trong chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của từng đơn vị. Việc thực hiện chức năng này chính là nội dung của

QLNN đối với DVCC. Riêng đối với các đối tượng thụ hưởng các loại hình

dịch vụ mà nhà nước cung cấp bao gồm cá nhân và các tổ chức phải tuân thủ

các quy tắc, quy định của pháp luật và được đối xử công bằng trong thụ

hưởng và sử dụng các dịch vụ công cộng do nhà nước mang lại. Các cơ quan

QLNN có chức năng quản lý và cung ứng dịch vụ, dựa vào quyền hạn và

nhiệm vụ của mình có quyền đề xuất những biện pháp, chính sách, những văn

bản để quản lý sao cho phù hợp với pháp luật hiện hành. Khi đề cập đến hiệu

quả của văn bản thì chúng ta dựa trên cơ sở chất lượng cũng như số lượng các

văn bản ban hành để đánh giá.

Như vậy, thực trạng ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật

đối với dịch vụ công cộng của các cấp chính quyền địa phương, nhất là ở

tuyến tỉnh cần đánh giá thực trạng ban hành chính sách phát triển các ngành,

lĩnh vực DVCC của các địa phương trên hai mặt: số lượng và nội dung (chất

lượng) của các văn bản mang tính chính sách do địa phương ban hành. Sau

khi sàng lọc và phân tích các văn bản có nội dung phù hợp với đối tượng và

phạm vi nghiên cứu của luận văn, cụ thể là:

Văn bản QLNN trong lĩnh vực giáo dục gồm các văn bân về quản lý

giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.

Văn bản QLNN trong lĩnh vực y tế gồm các văn bản về quản lý hoạt

động khám, chữa bệnh.

Có 4 nhóm văn bản: nhóm văn bản nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn

thi hành các quyết định, chính sách của trung ương; nhóm văn bản nhằm giải

quyết các công việc mang tính thủ tục như đổi tên trường học; nhằm giải

quyết các công việc mang tính thường xuyên như việc tổ chức các kỳ thi tốt

43

nghiệp; và nhóm văn bản thể hiện chính sách đặc thù của địa phương, do địa

phương chủ động ban hành. Trên cơ sở phân loại đó, có thể thấy số quyết

định chính sách do các địa phương ban hành không nhiều; và trong số quyết

định chính sách đó, đa phần là các văn bản nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn

thi hành các quyết định, chính sách của trung ương. Khi phân tích nội dung

của các văn bản do các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành, có thể

thấy: Đa phần chính sách của địa phương là sự “mô phỏng”, sự cụ thể hóa

chính sách của trung ương tại địa phương; rất ít địa phương có chính sách đặc

thù của mình.

Qua đó có thể hình dung được tính pháp lý trong công tác QLNN đối

với DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng trong thời gian qua. Về cơ bản ở

Xiêng Khoảng thực hiện tốt các quy định của Nhà nước trong vấn đề cung

ứng và quản lý các loại hình dịch vụ hiện nay. Chủ thể cung ứng cũng như đối

tượng thụ hưởng dịch vụ đều được quy đĩnh chức năng, nghĩa vụ và quyền cụ

thể. Từ đó tạo ra hành lang pháp lý cơ bản đảm bảo cho việc vận hành các

loại hình dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh thông suốt. Trên cơ sở đó lãnh

đạo tỉnh, cùng với các cơ quan chuyên môn thường xuyên đề xuất những giải

pháp và văn bản quản lý kịp thời khắc phục và không ngừng nâng cao chất

lượng công tác ban hành văn bản ở địa phương.

2.2.3. Đội ngũ cán bộ quản lý

Năng lực hoạt động quản lý nhà nước của cán bộ quản lý cấp tỉnh là

khả năng của cán bộ, công chức quản lý cấp tỉnh trong việc thực hiện các

nhiệm vụ được phân công. Để hoạt động quản lý nhà nước của cán bộ quản lý

cấp tỉnh phải có kiến thức và kỹ năng về quản lý nhà nước trong quá trình tiến

hành các hoạt động quản lý trên thực tiễn công tác.

Khi đề cập tới thực trạng của một vấn đề nào đó nghĩa là ta đề cập tới

nội dung của nó, đề cập tới cái nó đang có, đang tồn tại. Thực trạng đó là cái

44

hiện thực, hiện trạng, dù nó có tốt hay xấu. Khi trình bày về thực trạng đội

ngũ cán bộ quản lý của một tỉnh bất kỳ, chúng ta thường đề cập tới ba lĩnh

vực cơ bản là: về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ đó. Hiện nay,

thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý ở tỉnh Xiêng Khoảng cần chú ý tới các mặt

như:

Về số lượng: Hiện nay toàn tỉnh có tổng số 896 cán bộ đang giữ các

chức vụ quản lý (từ cấp huyện đến cấp tỉnh), trong đó đội ngũ cán bộ, quản lý

cấp tỉnh có 748 người, tỷ lệ nữ chiếm 230 người.

Về độ tuổi thì, số cán bộ trẻ, dưới 40 tuổi chiếm 25%; số cán bộ từ đổ

tưởi 41-55, chiếm 35%; số cán bộ từ 56 - 60, chiếm 40%. Trong đó, tỷ lệ cán

bộ quản lý của các huyện đa phần là tuổi cao, chiếm 45%, có 20% số cán bộ

trẻ có thể cống hiến lâu dài cho sự nghiệp quản lý nhà nước ở địa phương.

Về mặt chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý ở tỉnh: Trong những năm

qua (2011 - 2016) toàn tỉnh đã đào tạo, bồi dưỡng được 400 cán bộ, có trình

độ cao đẳng và đại học; có 30 người có trình độ sau đại học; có 150 có trình

độ cao cấp và cử nhân lý luận chính trị; trình độ trung cấp và sơ cấp lý luận

chính trị là 250 học viên. Tuy nhiên, trên thực tế thì trình độ của đội ngũ cán

bộ công chức nói chung, đội ngũ cán bộ công chức giữ chức vụ quản lý nói

riêng còn chưa cao. Khả năng đáp ứng nhu cầu công việc còn hạn chế. Công

tác đào tạo chưa chú trọng đúng mức đến lực lượng thực sự cần phải được

đào tạo, chưa cân đối giữa các cấp học và ngành học.

Như vậy, chúng ta có thể thấy bên cạnh những ưu điểm của đội ngũ cán

bộ công chức ở tỉnh Xiêng Khoảng như có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt

đối trung thành với lý tưởng của Đảng và Nhà nước, trình độ, năng lực, kiến

thức về quản lý nhà nước không ngừng được nâng cao,…thì hiện nay đội ngũ

này cũng gặp không ít những khó khăn, yếu kém. Nguyên nhân của nó một

phần do điều kiện lịch sử xã hội, nhất là khả năng nghiên cứu khoa học, tiếp

45

thu những thành tựu mới của bên ngoài, cùng với khả năng tiếp cận thị trường

hàng hoá chưa cao, kiến thức quản lý nhà nước còn hạn chế so với yêu cầu

của thời kỳ mới.

Về mặt cơ cấu cán bộ: Trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng hiện nay có 20

Sở, ban, ngành, có 04 đoàn thể và 04 phòng thuộc diện tỉnh trưởng, có 110

phòng cấp tỉnh và có 130 văn phòng cấp huyện (chưa kể đến lực lượng quân

đội và Công an tỉnh).

Khi đi so sánh đội ngũ cán bộ quản lý của tỉnh hiện nay với những

năm về trước ta thấy số lượng đội ngũ cán bộ công chức tăng lên rõ rệt; chất

lượng cũng được cải thiện đáng kể cả về trình độ văn hoá lẫn trình độ chuyên

môn nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Sơ cấp có 250 người, Chiếm

28.5%; Trung cấp có 400 người chiếm 44.6%; Cao đẳng và đại học có 150

chiếm 16.7%; sau đại học có 30 người, chiếm 3.34%; không có trình độ

chuyên môn có 66 người, Chiếm 7.4%.

Thông qua quá trình tiến hành đổi mới và phát triển, các cấp chính

quyền tỉnh Xiêng Khoảng nhận thức rõ đường lối, chủ trương của Đảng và

Nhà nước về công tác tổ chức cán bộ. Quán triệt tinh thần chung của công tác

cán bộ là ổn định đội ngũ để hướng đến phát triển lâu dài, bền vững. Từ đó,

tỉnh đã tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ trên cơ sở số cán bộ của tỉnh, công

tác quy hoạch cán bộ, tiến hành đào tao và đào tạo lại ở trong nước và ngoài

nước, thực hiện công tác bầu cử, bổ nhiệm, giải quyết chế độ, chính sách cho

đội ngũ cán bộ và dần hoàn thiện đội ngũ cán bộ công chức trong tỉnh cả về

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ lẫn đạo đức công vụ, để đáp ứng nhu cầu của

nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Trong công tác quy hoạch cán bộ thì Ban Tổ chức Tỉnh uỷ tham mưu,

được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ trực tiếp thông qua chính thức. Quá trình này

46

được triển khai xây dựng quy hoạch cán bộ các cấp, các ngành, các đơn vị đã

thực hiện chỉ đạo của Tỉnh uỷ và Ban Tổ chức Trung ương Đảng.

Công tác quy hoạch phải đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai trong

việc lựa chọn, đánh giá và định hướng sắp xếp cán bộ. Công tác này cần được

tiến hành kiểm tra chu đáo, cần có báo cáo tình hình để kịp thời điều chỉnh, bổ

sung. Những cán bộ, công chức, nhất là lực lượng được quy hoạch vào nhũng

vị trí cao trong bộ máy lãnh dạo, quản lý ở tỉnh cần phải là người thực sự có

phẩm chất tốt, vững vàng về tư tưởng chính trị, đạo đức. Những mặt chưa đáp

ứng về kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ thì cần được lưu ý, chú

trọng đào tạo, đào tạo lại để bổ sung kịp thời.

Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ công chức ở tỉnh trong

nhưng năm qua đã được quan tâm hơn và có sự đầu tư hợp lý nhằm nâng cao

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước,

năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức không ngừng được

nâng cao. Mặc dù ngân sách của tỉnh còn hạn chế, còn nhiều khó khăn do phải

đầu tư, giải quyết nhgiều vấn đề của tỉnh, tuy nhiên tỉnh vẫn dành những ưu

đãi đối với các cán bộ được cử đi học tập, tập huấn, nhằm khuyến khích, động

viên đối với các cán bộ tham gia học tập trong và ngoài nước.

Lãnh đạo các cấp Đảng, chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng xác định công

tác quản lý, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ

công chức cần phải được đặc biệt chú trọng quan tâm. Các đồng chí lãnh đạo,

quản lý ở từng đơn vị, ở các cấp, các ngành phải chủ động tiến hành, không

được ỷ lại, trông chờ vào tổ chức. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ công chức luôn được Ban Tổ chức tỉnh uỷ và các cấp uỷ Đảng quan tâm

thường xuyên, nhằm tìm hiểu, khích lệ cán bộ công chức có năng lực, tạo

nguồn cho các cơ quan, đơn vị trong tỉnh. Hàng năm, tổ chức nhiều chương

47

trình đưa cán bộ đi đào tạo, tập huấn ngắn hạn, dài hạn trong và ngoài nước,

trình độ, năng lực của đội ngũ không ngừng được nâng cao.

Song song với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì việc

bố trí, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức trên đại bàn tỉnh nhìn

chung đã đảm bảo các tiêu chuẩn về sở trường, đề bạt cán bộ đúng người,

đúng việc, đúng chuyên môn, chuyên ngành được đào tạo. Đồng thời, có

chính sách đoàn kết rộng rãi đối với các loại các bộ, công chức, biết trọng

dụng người có tài, có đức trong đội ngũ cán bộ công chức, trong Đảng và

đoàn thể xã hội. Và phải có chế độ quản lý chặt chẽ cán bộ trong công tác.

Các cấp uỷ đảng, thủ trưởng cơ quan phải nắm được toàn bộ số cán bộ, công

chức và từng cán bộ công chức cụ thể, phải hiểu được họ về tài, đức, về trình

độ, chuyên môn, sức khoẻ,… Từ đó, mới có cơ sở để bố trí, sắp xếp, sử dụng,

đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Nếu cán bộ công chức nào có thành tích

tốt cần phải được khen thưởng, động viên. Ngược lại, cũng có những chế tài,

xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm pháp luật của Nhà nước, vi

phạm điều lệ Đảng.

Chính vì thực hiện tốt công tác cán bộ, đặc biệt là đối với đội ngũ cán

bộ quản lý trong thời gian qua tỉnh Xiêng Khoảng đã cơ bản hoàn thành mọi

nhiệm vụ được giao, nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ, đặc biệt là các

loại hình dịch vụ công cộng. Theo đó mà đã đạt được những kết quả khả

quan: Hệ thống trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, các công trình giao thông

trọng điểm, hệ thống đèn chiếu sáng rộng khắp, vấn đề nước sạch và vệ sinh

môi trường được quan tâm, đảm bảo cung cấp đủ nước sách cho dân cư khu

vực đô thị, khu vực nông thông đáp ứng được đa số các Bản,… Để đạt được

những kết quả nêu trên đó là sự nỗ lực của toàn thể đội ngũ cán bộ và người

dân trong toàn tỉnh, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý.

48

2.2.4. Các loại dịch vụ công cộng của Xiêng Khoảng

2.2.4.1. Quản lý trong cung ứng dịch vụ văn hóa - giáo dục

Trong thời gian qua các mặt văn hóa - xã hội, bảo đảm đời sống dân

sinh trên địa bàn tỉnh đã có những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện. Nổi bật

trong đó là công tác giáo dục - đào tạo đã có bước phát triển mới về cả quy

mô và chất lượng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, đáp ứng

nhu cầu ngày càng cao về học tập của người dân. Hiện nay, 90% số giáo viên

trên địa bàn tỉnh đạt chuẩn, trên chuẩn chiếm 77%. Về cơ sở vật chất, tỉnh đã

xây dựng 8 trường học đạt chuẩn quốc gia, xây dựng mới 12 trường học và

sửa chữa, nâng cấp các trường học trên địa bàn.

Việc thực hiện phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa" được triển khai sâu rộng, có hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng,

củng cố các mối quan hệ giàu tính nhân văn trong cộng đồng; đồng thời đẩy

mạnh xây dựng, thực hiện các quy định, quy ước, quy chế, các mô hình văn

hóa; đẩy mạnh đầu tư hạ tầng văn hóa xã hội.

Nhà nước kết hợp với nhân dân cùng làm và do nhân dân đầu tư. Bằng

nguồn vốn xã hội hóa, tỉnh đã xây dựng các khu vui chơi công cộng; 8 khu

vui chơi dành cho trẻ em tại các huyện. Đầu tư xây dựng, nâng cấp và cải tạo

nhiều dự án thoát nước, cơ bản đáp ứng nhu cầu về nước sạch và giải quyết

vấn đề ngập úng trên địa bàn tỉnh; xây mới nhiều trạm biến áp, nâng cấp và

cải tạo các trạm biến áp đã xuống cấp, bảo đảm cung cấp điện cho sản xuất,

kinh doanh và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của người dân.

Năm 2006 đến 2011 cả tỉnh có 51 trường mầm non, đến năm 2015 tăng

lên 77 trường mầm non, có 332 trường tiểu học năm 2015 là 429 trường, khu

vực tư 6 trường, trường trung học cơ sở có 65 trường, khu vực tư 1 trường

đến 2015 tăng lên 93 trường, trong đó khu vực tư 3 trường. Đội ngũ cán bộ

giáo dục có 2286 người, nữ 1096 người.

49

Với những cố gắng, nỗ lực nêu trên, thời gian qua tỉnh Xiêng Khoảng

đã có những bước phát triển đột phá về xây dựng hạ tầng gắn với các lĩnh vực

bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.

Đây là tiền đề để Đảng bộ và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng tổ chức thắng

lợi các nhiệm vụ và mục tiêu đề ra, quyết định những mục tiêu, phương

hướng và các giải pháp chủ yếu cho giai đoạn 2015-2020, xây dựng địa bàn

thành tỉnh có tốc độ tăng cường cao trong khu vực và cả nước, phù hợp với xu

thế phát triển theo hướng hiện đại.

2.2.4.2. Quản lý về lĩnh vực y tế

Hoạt động y tế là một trong những hoạt động thể hiện chính sách an

sinh xã hội của Đảng và Nhà nước Lào nên Nhà nước phải giữ vai trò nòng

cốt trong việc định hướng cũng như thực thi các chính sách, pháp luật về y tế.

Để thể hiện vai trò nòng cốt này, Nhà nước đã tập trung ngân sách trong khả

năng có thể cho lĩnh vực y tế để chi cho phát triển hệ thống y tế công, trong

đó có xây dựng cơ bản, trang thiết bị, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực y tế.

Tuy nhiên, do ngân sách không đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành y

tế nên Nhà nước đã thực hiện chủ trưởng xã hội hóa công tác y tế nhằm huy

động các nguồn lực của xã hội tham gia, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực khám

bệnh, chữa bệnh.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt

động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, tới nay, hầu hết các bệnh

viện công lập sẽ được chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ,

cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công cộng, không bao cấp tràn lan và không

nhằm mục đích lợi nhuận, đồng thời phát triển mạnh các cơ sở khám bệnh,

chữa bệnh tư nhân, trong đó có phát triển các bệnh viện tư nhân. Việc xã hội

hóa này đã tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông

qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của con người

50

nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng

quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm

vụ. Rõ ràng, chủ trương này chủ yếu dựa vào các lợi ích vật chất, các đòn bảy

kinh tế để dung hoà các lợi ích của đội ngũ CCVC y tế, của tập thể và của

Nhà nước bằng cách xác lập cơ chế tự chủ tài chính cho các cơ sở khám chữa

bệnh công, nâng cao chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh, phát

triển y tế tư nhân, từng bước thực hiện BHYT toàn dân để thúc đẩy việc dành

ngân sách y tế chi cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính

sách. Đây là phương pháp cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lý

trong lĩnh vực y tế.

Trong công tác QLNN về y tế ở tỉnh Xiêng Khoảng trong thời gian qua

đã và đang thực hiện theo đúng chủ trương và chỉ đạo của Chính phủ và của

Bộ Y tế. Hiện nay có hai bệnh viện cấp tỉnh: một là của lực lượng quân đội và

một bệnh viện dân sự của tỉnh. Cấp huyện có 7 bệnh viện ở 7 huyện, có 50

trạm y tế và có 267 tủ thuốc giải quyết nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân

dân. Đội ngũ cán bộ y tế ở tỉnh là 942 người, cấp tỉnh có 332 người, cấp

huyện 375 người, cán bộ ở trạm y tế có 235 người. Tuy nhiên, theo phân cấp

và tự chủ thì chính quyền địa phương, hay chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng có

hai tư cách:

Thứ nhất, là người thực hiện quyền làm chủ trực tiếp trong phạm vi địa

phương của nhân dân sống và làm việc trên đơn vị hành chính – lãnh thổ, đại

biểu cho quyền lợi của nhân dân ở địa phương.

Thứ hai, là một bộ phận của quyền làm chủ trên phạm vi cả nước của

nhân dân sống và làm việc trên lãnh thổ, là bộ phận của quyền lực nhà nước

thống nhất không phân chia, tức là người đại diện của Nhà nước trung ương ở

địa phương. Do đó, chính quyền địa phương vừa phải phục tùng vừa phải làm

chủ, tính chủ động sáng tạo rất cao của chính quyền và của nhân dân ở địa

51

phương; vừa phục tùng và bảo đảm lợi ích chung của Nhà nước, vừa bảo đảm

lợi ích của địa phương; hai mặt kết hợp hài hòa trên lãnh thổ, trong cùng một

thể thống nhất.

Thực hiện đúng chủ trương và đặt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho

người dân lên hàng đầu, trong thời gian qua ở tỉnh Xiêng Khoảng đã giải

quyết cơ bản và đảm bảo phục vụ tốt công tác khắm chữa bệnh cho nhân dân.

Bệnh viện đa khoa tỉnh không ngừng được nâng cấp và phát triển cả về chất

lượng khám chữa bệnh lẫn số lượng các thủ thuật mà bệnh viện đã đảm

nhiệm. Được sự quan tâm của chính quyền tỉnh, đặc biệt là của Sở Y tế tỉnh,

hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật không ngừng được đầu tư và nâng

cấp trở nên khang trang và hiện đại hơn. Hệ thống các trang thiết bị phục vụ

trong bệnh viện ngày càng hiện đại Đội ngũ y, bác sĩ không ngừng được đào

tạo và nâng cao trình độ. Đồng thời, các bệnh viên tuyến huyện cũng không

ngừng được đầu tư, phát triển, đã giải quyết tốt công tác chăm sóc sức khỏe

ban đầu và giảm tải cho bệnh viện tuyến tỉnh. Bênh cạnh đó, các bệnh viện,

phòng khám tư nhân cũng phát triển thoe hướng xã hội hóa các dịch vụ y tế

trong thời gian qua. Điều này góp phần giảm tải gánh năng và sức ép lên các

đơn vị sự nghiệp y tế công, góp phần chăm sóc sức khỏe cho người dân được

tốt hơn. Điều đó cho thấy tính đúng đắn trong công tác QLNN đối với dịch vụ

y tế ở Xiêng Khoảng trong thời gian qua.

2.2.4.3. Quản lý đối với dịch vụ Bảo hiểm xã hội

Theo con số thống kế của Bảo hiểm xã hội tỉnh Xiêng Khoảng, từ tháng

01 năm 2016, BHXH tỉnh tổ chức các đợt tuyên truyền rộng rãi bằng nhiều

hình thức tới các đơn vị sử dụng lao động, trong đó có nhiều Hội nghị với sự

tham dự của 900 đại diện đơn vị SDLĐ để giới thiệu, hướng dẫn quy trình

thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

(BHYT), bảo hiểm thất nghiệp; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT.

52

Nhận thức rõ lợi ích của giao dịch điện tử nên nhiều doanh nghiệp đã

đăng ký thực hiện. Riêng trong tháng 10 năm 2016 có thêm 40 doanh nghiệp

thực hiện phương thức giao dịch này, với hàng trăm lượt hồ sơ BHXH giao

dịch thành công. Để tiếp tục đẩy mạnh công tác này, BHXH tỉnh tiến hành tập

huấn trực tiếp cho hơn 800 đơn vị SDLĐ về giao dịch điện tử. Những đơn vị

SDLĐ nhỏ lẻ có nhu cầu, cơ quan BHXH sẵn sàng cấp phát tài liệu, tư vấn

hoặc cử cán bộ đến tận nơi hỗ trợ cài đặt, hướng dẫn sử dụng. Bên cạnh đó,

BHXH tỉnh đã tiếp nhận và trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu

chính cho hơn 500 đơn vị.

Với mục tiêu góp phần nâng cao nhận thức cho người dân và doanh

nghiệp về BHXH, BHYT, mới đây tỉnh đã phối hợp với BHXH các huyện tổ

chức đối thoại về chính sách pháp luật BHXH, BHYT. Dù luôn cố gắng, nỗ

lực tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ BHXH, BHYT, bảo

hiểm thất nghiệp, nhưng với những doanh nghiệp cố tình chây ỳ, chiếm dụng

quỹ, BHXH tỉnh sẽ phối hợp với cơ quan chức năng liên quan tiến hành thanh

tra, xử phạt, khởi kiện nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động, bảo toàn quỹ

BHXH và bảo đảm sự công bằng giữa các doanh nghiệp.

Đánh giá về công tác BHXH, BHYT trên địa bàn, Ban Tuyên giáo tỉnh

ủy tổng kết và báo cáo: Mặc dù BHXH tỉnh đã có nhiều nỗ lực nhưng diện

bao phủ BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.

Đặc biệt, số doanh nghiệp đăng ký tham gia BHXH nhiều nhưng cũng nhiều

doanh nghiệp đăng ký rồi để đó, chỉ đóng BHXH cho số ít lao động, hoặc chỉ

đóng BHXH trong thời gian đầu hoạt động, khiến số nợ BHXH ngày càng

tăng, ảnh hưởng quyền lợi của người lao động. Bên cạnh đó, tỷ lệ dân di cư,

lao động tự do trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng khá đông nhưng số tham gia

BHXH, BHYT chưa nhiều. Nguyên nhân do họ chưa được tìm hiểu, chưa

hiểu rõ những lợi ích mà chính sách BHXH, BHYT mang lại. Vì vậy, BHXH

53

tỉnh cần tiếp tục tuyên truyền, đối thoại, tăng cường sự hiểu biết giữa các bên

liên quan về BHXH, BHYT. Thông qua đối thoại, cơ quan BHXH lắng nghe

được ý kiến, đề xuất của người dân và doanh nghiệp để giải thích và tiếp tục

đổi mới, cải cách TTHC nhằm làm cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng

thực hiện các giao dịch BHXH, tiếp cận với chính sách an sinh xã hội.

2.2.4.4. Quản lý trong việc cung ứng dịch vụ xây dựng và phát triển

đô thị

Tỉnh Xiêng Khoảng là tỉnh có 1 tỉnh lỵ và 07 huyện, trong đó tốc độ đô

thị hóa phát triển khiến cho dân số tăng cao, trình độ dân trí không đồng đều,

trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân

trên địa bàn còn hạn chế đã gây khó khăn cho chính quyền các cấp trong công

tác quản lý Nhà nước. Việc tiếp nhận hồ sơ hành chính cũng như giải quyết

đơn thư, kiến nghị của tổ chức, công dân ngày càng cấp thiết với nhiều vấn đề

bức xúc nảy sinh. Từ năm 2011-2016 là giai đoạn tỉnh Xiêng Khoảng có quá

trình đô thị hóa mạnh mẽ với hàng loạt dự án cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng

xã hội được đầu tư, triển khai thực hiện. Cùng với đó, sự gia tăng dân số đặt

ra nhiều vấn đề dân sinh cần giải quyết. Để phát huy truyền thống đoàn kết

thống nhất, với tinh thần chủ động và quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo,

tổ chức thực hiện, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng đã hoàn thành

xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ, huy động và khai thác

có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển cũng như cải thiện, nâng cao

đời sống vật chất, và tinh thân cho người dân.

Với những kết quả mà tỉnh đã đạt được trong thời gian qua, điều đó cho

thấy rõ bước đột phá trong lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị hiện nay.

Trong 05 năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ

đạo toàn diện nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn, trong đó chú trọng

nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Thực hiện chuyển dịch

54

cơ cấu kinh tế, giá trị sản xuất ngành dịch vụ - thương mại có tốc độ tăng bình

quân 15,6%/năm, tỷ trọng bình quân chiếm 61,8% cơ cấu kinh tế địa bàn; giá

trị sản xuất công nghiệp, xây dựng bình quân tăng 13%/năm, tỷ trọng bình

quân trong cơ cấu kinh tế chiếm 38,2%. Đó là những dấu hiện khả quan,

khẳng định chủ trương, định hướng giải quyết của tỉnh Xiêng Khoảng là đúng

đắn và hiệu quả.

Quyết tâm tạo đột phá trong đầu tư xây dựng, quản lý và phát triển đô

thị, tỉnh đã tập trung quy hoạch và quản lý quy hoạch theo hướng nâng cao

chất lượng, hiệu lực và hiệu quả, bảo đảm thống nhất giữa quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng phát triển đô thị. Bằng nhiều nguồn

vốn khác nhau, tỉnh Xiêng Khoảng tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ, có

trọng tâm, trọng điểm nhiều dự án hạ tầng làm thay đổi cơ bản diện mạo

không gian kiến trúc, cảnh quan đô thị, tỉnh lỵ và thị trấn khang trang hơn.

Đặc biệt, hệ thống hạ tầng kỹ thuật khung, nhiều tuyến giao thông quan trọng

được xây dựng mới và hoàn thành có tính chất quyết định cho sự phát triển

như tuyến đường nối tỉnh lỵ với các huyện khác, rồi mạng lưới giao thông

thông suốt tới các bản… Điều đó góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng

cuộc sống của người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn toàn

tỉnh. Để có bước đột phá trên, thời gian qua, công tác giải phóng mặt bằng đối

với các công trình trọng điểm của tỉnh được quyết liệt thực hiện với sự vào

cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị.

Công tác quản lý trật tự xây dựng và quản lý xây dựng theo quy hoạch

có chuyển biến tích cực, việc đẩy mạnh cải cách hành chính đã giúp cho công

tác cấp giấy phép xây dựng đạt yêu cầu về chất lượng và thời hạn thụ lý hồ sơ

theo quy định. Cùng với đó đã hoàn thành công tác lập quy hoạch, kế hoạch

sử dụng đất đến năm 2020; tăng cường quản lý, giám sát sử dụng đối với các

55

tổ chức được giao đất, thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất, giải quyết

đơn thư liên quan tới việc quản lý và sử dụng đất…

Các hoạt động cung cấp điện, nước sạch, xử lý nước và chất thải, trồng

cây xanh, phục vụ chiếu sáng đô thị, … đều được Đảng bộ và chính quyền

tỉnh quan tâm và chú trọng phát triển. Những vấn đề lớn về mảng dịch vụ

công cộng đã được đáp ứng tốt (điện sản xuất và sinh hoạt, hệ thống cung cấp

nước sạch,… đã được tỉnh liên tục đầu tư xây dựng, tạo điều kiện ưu tiên

hàng đầu trong giải quyết các công việc, đáp ứng nhu cầu thiết yếu, cơ bản

của người dân và các tổ chức đóng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng. Đồng

thời, công tác quản lý nhà nước luôn được thực hiện và quán triệt chặt chẽ

trong mọi khâu từ cung ứng, đến sử dụng và kiểm tra kết quả, ý kiến phản hồi

của người dân trong sử dụng dịch vụ công cộng.

2.2.4.5. Quản lý đối với dịch vụ công cộng trong lĩnh vực kinh tế

Kinh tế là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có vai

trò quan trọng đối với sự sống và phát triển của xã hội loài người. Trong

QLNN cần có những biện pháp, công cụ và nguyên tắc để đảm bảo cho kinh

tế phát triển. Ở nước CHDCND Lào các ngành kinh tế đã có sự phát triển

đáng kể, góp phần ổn định cuộc sống của người dân ở khác các vùng miền

trong cả nước. Để đạt được kết quả đó, Nhà nước đã có những chính sách

thúc đẩy, hỗ trợ phát triển kinh tế ở tất cả các ngành, lĩnh vực trong phạm vi

cả nước, mở rộng hội nhập quốc tế, đa dang hóa thị trường xuất khẩu. Một

trong những công cụ và là biện pháp quan trọng mà nhà nước Lào thực hiện

đó là việc mở rộng các loại hình dịch vụ công cộng trong lĩnh vực kinh tế, có

sự kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ của Nhà nước.

Quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước Lào trong vấn đề đa dạng hóa và mở rộng hoạt động dịch vụ công

cộng trong lĩnh vực kinh tế, trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng trong những năm

56

qua đã có những thành tựu, kết quả đáng kể. Đảng ủy đã chú trọng phát huy

các tiềm lực của mọi thành phần kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại

hóa. Ở đô thị cũng như các vùng nông thôn ở Xiêng Khoảng hiện nay kinh tế

khá phát triển, các lĩnh vực vệ sinh môi trường đô thị, nông thôn đã được

quan tâm và thu hút đầu tư của tư nhân, từ đó mà thành phần kinh tế này phát

triển. Kết quả là đã giải quyết được 70% nhu cầu của người dân về vấn đè

nước sạch, vệ sinh môi trường, hệ thống điện chiếu sáng từ thành thị đến nông

thôn ở tất tỉnh lỵ và cả 07 huyện của tỉnh Xiêng Khoảng. Về chỉ số GDP tăng

9% trên năm.

Đến Đại hội lần thứ VIII năm 2015 tổng GDP toàn tỉnh đạt 2.201,16 tỷ

kíp. Bình quân đầu người năm 2015 là 1328 USD trên người trong 1 năm. So

với kế hoạch đề ra tại đại hội lần thứ VI vượt 158 USD trên người trong 1

năm. Trong lĩnh vực phát triển du lịch, các loại hình dịch vụ công cộng cũng

không ngừng phát triển, đáp ứng nhu cầu của người dân trong nước và quốc

tế. Với nhiều di tích nổi tiếng, đặc biệt là cách đồng Chum Xiêng Khoảng, nơi

ghi dấu ấn trong kháng chiến chống Mỹ, và là di tích đặc biệt, cấp quốc gia ở

Lào. Hàng năm, đón hàng vạn lượt du khách ghé thăm, mang lại nguồn thu

lớn về cho tỉnh, góp phần giải quyết việc làm cho người dân và tích cực

chuyển dịch cơ cấu lao động trong toàn tỉnh. Bên cạnh đó, các dịch vụ du lịch

nghỉ dưỡng, nhà vườn ở Xiêng Khoảng cũng có tín hiệu mới. Do môi trường,

khí hậu có ưu đãi nhất định, cây cối xanh tốt, môi trường trong lành, nhiều

công ty du lịch ra đời, quảng bá hình ảnh của địa phương tới nhân dân trong

nước và quốc tế. Thông qua các hoạt động này các nhà hàng, khách sạn mọc

lên, cung cấp dịch vụ, phục vụ du khách. Từ đó, các dịch vụ công cộng trong

lĩnh vực cũng được đẩy mạnh phát triển như dịch vụ vận tải hành khách, dịch

vụ hàng không, dịch vụ lưu trú,…. Một số kết quả về hạ tầng cơ sở ở Xiêng

Khoảng phát triển, đường huyện trong toàn tỉnh đều có đường nhựa, các nơi

57

trọng điểm chiếm 98,5%. Chỉ còn 6 làng bản là chưa có đường đến tận nơi.

Điện giải quyết 85% trong toàn tỉnh, viễn thông năm 2015 mạng lưới phát

triển đảm bảo 78% nhu cầu toàn tỉnh, so với năm 2010 tăng 30%

Đồng thời với dịch vụ này, các dịch vụ công cộng khác trong lĩnh vực

nông nghiệp sạch, công nghiệp chế biến, xuất khẩu hàng hóa, nông sản, thực

phẩm,… đến người tiêu dùng, đến các thị trường mới ngày càng nhiều. Cũng

từ đó có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư ở Xiêng Khoảng, giải

quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Ngoài ra, khi các doanh

nghiệp đầu tư, họ tích cực trang bị hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại,

có sự chung tay, góp sức giữa nhà nước và doanh nghiệp, người dân mà hệ

thống cầu cống, đường xá, giao thông được đầu tư và mở rộng, góp phần lưu

thông thông suốt.

2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng của chính

quyền tỉnh Xiêng Khoảng

2.3.1. Những thành công và nguyên nhân

2.3.1.1. Những thành công

Trong những năm qua, công tác QLNN đối với DVCC trên địa bàn tỉnh

Xiêng Khoảng có nhiều điểm mới, theo hướng tiến bộ, làm thay đổi diện mạo

của tỉnh cũng như thay đổi nết sống và sinh hoạt của người dân. Từ đó mà

chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt. Sự chỉ đạo sáng

suốt và đúng đắn của các cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh đã bước đầu mang

lại những kết quả khả quan, dự báo trong tương lai tỉnh sẽ phát triển theo

hướng hiện đại, với cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác được các tiềm năng thế

mạnh của địa phương. Sự đa dạng hóa các loại hình dịch vụ công cộng cùng

với sự quản lý chặt chẽ và theo những quy chuẩn khoa học đã làm nền hành

chính của địa phương trở nên nhanh, hiệu quả và thiết thực.

58

Ưu điểm đầu tiên phải kể đến đó là sự đa dạng về số lượng các loại

hình dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh từ công lập, đến bán công, đến tư

nhân hóa đều được đẩy mạnh và phát triển theo hướng linh động và hiệu quả.

Các loại hình dịch vụ y tế, giáo dục, thể thao, môi trường, vận tải,.. đều được

quan tâm đầu tư và phát huy hiệu quả thiết thực. Qua đó giúp cho người dân

tiếp cận và sử dụng dịch vụ được thuận tiện và dễ dàng.

Thứ hai đó chính là việc không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ

đếm đến cho người dân thụ hưởng chất lượng tốt nhất trong điều kiện có thể

trên địa bàn. Các dịch vụ đều được quản lý bởi hệ thống các tiêu chuẩn đáp

ứng đòi hỏi của từng ngành, lĩnh vực và được quản lý bởi cơ quan chức năng

có thẩm quyền. Ví dụ đối với yêu cầu của việc mở rộng trường học tư thục,

chính quyền tỉnh đưa ra những tiêu chỉ cụ thể về số lượng giáo viên có trình

độ là bao nhiêu? Hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất như thế nào? Đào tạo

trên những địa bàn và đối tượng hướng đến là ai?,.... Tổ chức và doanh nghiệp

đáp ứng được các tiêu chí trên, khi đó cơ quan quản lý nhà nước có thểm

quyền xem xét và phê duyệt, quản lý và cấp phép theo trình tự, thủ tục rõ ràng

của pháp luật. Điều đó cho thấy chất lượng của dịch vụ được nâng lên một

cách khách quan và tất yếu.

Thứ ba, khả năng đáp ứng của chủ thể quản lý và đối tượng thụ hưởng

được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Trong cùng một địa bàn, cùng một lĩnh vực

cung ứng có nhiều chủ thể cung ứng và đáp ứng nhiều đối tượng khác nhau có

nhu cầu. Điều này cho thấy dấu hiệu của một nền hành chính cởi mở, hành

chính phục vụ đã và đang được triển khai và dần trở thành hiện thực ở Xiêng

Khoảng.

Thứ tư, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, cung ứng các dịch

vụ công cộng được nhanh chóng và công khai rộng rãi. Với hệ thống thông

tin trong quản lý được khai thác triệt để, sự ứng công nghệ thông tin vào

59

QLNN đang được áp dụng ở Xiêng Khoảng với tốc độ cao, đặc biệt là tuyến

tỉnh. Các hồ sở hành chính được tiếp nhận và giải quyết bằng hệ thống cổng

thông tin điện tử, và công khai các bước, các quy trình cụ thể và rõ ràng để

người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ được thuận lợi hơn.

Thứ năm, mức độ hài lòng của người dân sử dụng dịch vụ không ngừng

được nhân rộng. Qua thực tế xã hội hóa các loại hình dịch vụ, đặc biệt là dịch

vụ công cộng ở Xiêng Khoảng trong thời gian qua, các tổ chức, cá nhân đều

tỏ ra hài lòng và thaoir mái khi tiếp cận và sử dụng, cung ứng dịch vụ. Điều

này chống độc quyền trong cung ứng dịch vụ, giảm tính quan liêu, nhũng

nhiễu của một số bộ phận cán bộ, công chức nhà nước.

2.3.1.2. Nguyên nhân

Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là do sự chỉ đạo đúng đắn và

khoa học của các cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng trong vấn

đề cung ứng DVC, và nhất là cung ứng và quản lý DVCC trong thời gian qua.

Căn cứ vào đường lối đổi mới của cả nước, vào chủ trương của Đảng và Nhà

nước Lào về cải cách hành chính, xã hội hóa các loại hình dịch vụ công mà

lãnh đạo và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng đã đề ra chủ trương, đường lối

thúc đẩy sự phát triển ở tỉnh. Dựa trên điều kiện và tình hình của địa phương,

các cấp lãnh đạo đã đề ra những giải pháp hợp lý, khoa học và mang lại

những kết quả tốt đẹp trong công tác QLNN đối với DVCC ở Xiêng Khoảng.

Thứ hai, đó chính là sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và chính

quyền, sự vào cuộc của các cấp các ngành trong tỉnh để thực hiện thắng lợi

các nhiệm vụ và mục tiêu đã đề ra trong công cuộc xây dựng và phát triển địa

phương, hướng đến những mục tiêu cao hơn trong phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh, hòa vào sự phát triển chung của cả nước.

Thứ ba, trong những năm qua chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

không ngừng được nâng lên cả về trình độ lý luận, trình độ học vấn lẫn kiến

60

thức quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, không ngừng trao dồi đạo đức công vụ,

không ngừng được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng và đủ sức đảm

đương các công việc được giao phó.

Thứ tư, việc không ngừng ứng khoa học công nghệ, thông tin liên lạc,

thực hiện mô hình chính phủ điện tự trong QLNN đối với DVCC đã mang lại

những kết quả tốt đẹp. Qua đó rút ngắn thời gian giải quyết công việc, rút

ngắn được các khâu rườm ra trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ. Từ đó mà

chất lượng sử dụng dịch vụ được nâng lên và công tác QLNN được chặt chẽ,

thuận lợi hơn.

Thứ năm, hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, hệ thống đường xá,

cầu cống, ánh sáng, nước sạch,... không ngừng được chính quyền quan tâm

và đầu tư đã trở thành động lực thúc đẩy trở lại sự phát triển của các lĩnh vực,

các ngành nghề trong tỉnh. Qua đó cho thấy sự tác động qua lại lẫn nhau giữa

chủ trương đẩy mạnh đa dạng hóa các loại hình dịch vụ với việc nâng cao

chất lượng các công trình, dịch vụ là biện chứng lẫn nhau.

Thứ sáu, chủ trương kêu gọi nguồn lực đầu tư từ phái quốc tế, từ phía

các đơn vị tỉnh lân cận và khơi dậy nguồn lực tại chỗ, nguồn lực trong nhân

đã đem lại nguồn sinh khí mới, thúc đẩy sự đa dạng hóa và sự tham gia của

mọi đối tượng trong phát triển dịch vụ công cộng, phát triển kinh tế, xã hội

của tỉnh là chủ trương hợp lý và hiệu quả.

Như vậy, để có sự phát triển như hiện nay, lãnh đạo và nhân dân trong

tỉnh đã khắc phục mọi khó khăn, dựa vào nguồn lực vốn có huy động mọi

nguồn lực trong dân, kêu gọi đâu tư từ các tỉnh, các nước khác trên thế giới

góp phần xây dựng tỉnh Xiêng Khoảng không ngừng phát triển. Để tỉnh

không ngừng phát triển trong những năm tiếp theo, chúng ta cần phải phát

huy mọi yếu tố và nhất là phải biết kết hợp mọi nguồn lực từ trong và ngoài

tỉnh, từ phía nhà nước và người dân để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,

61

hiện đại hóa, nâng cao chất lượng và đời sống của nhân dân. Cũng qua đó có

thể khẳng định vai trò QLNN của các cơ quan chức năng đối với DVCC là vô

cùng cần thiết và là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp cây dựng và phát

triển của tỉnh, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế

Cải cách hành chính đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong quan

hệ giữa tổ chức và nhân dân với chính quyền cơ sở. Tại Ủy ban nhân dân tỉnh

đã niêm yết công khai các thủ tục, thời gian, mức phí,… và cũng trên cơ sở đó

chuyển các huyện, bản cũng thực hiện công khai các thủ tục mà đơn vị mình

giải quyết, các Sở ban ngành trực thuộc tỉnh cũng thực hiện theo đúng chỉ đạo

của lãnh đạo tỉnh. Do đó tính minh bạch, công khai về quy định thủ tục giải

quyết công việc cho người dân được tăng lên. Trách nhiệm và mối quan hệ

giữa các CBCC, giữa các bộ phận về cơ bản được xác định một cách rõ ràng

và cụ thể góp phần tạo ra cơ chế phối hợp trong giải quyết các công việc, thúc

đẩy sự hợp tác và trách nhiệm vì mục tiêu chung. Quy trình quan hệ công việc

được tổ chức khoa học, chặt chẽ giúp lãnh đạo có điều kiện kiểm tra, giám sát

đội ngũ CBCC.

Bên cạnh đó, chất lượng hoạt động công vụ, hoạt động quản lý nhà

nước đối với dịch vụ công cộng, ý thức tổ chức kỷ luật cũng như tinh thần

trách nhiệm phục vụ tổ chức, công dân của CBCC được nâng lên rõ rệt. Vấn

đề này được khẳng định qua hầu hết các ý kiến nhận xét của nhân dân khi đến

giao dịch, sử dụng dịch vụ công cộng. Các biểu hiện tiêu cực như hạch sách,

đòi hối lộ phần nào được ngăn chặn, đẩy lùi, từng bước góp phần củng cố

niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan công quyền. Như vậy, thông qua

việc nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng, người dân được tôn

trọng và phục vụ tốt hơn, thực sự là khách hàng, lấy sự hài lòng của người

62

dân làm tiêu chí cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các

cơ quan HCNN. Tuy nhiên, trong chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng

hiện nay còn chưa cao, vần còn nhiều hạn chế. Những tồn tại, hạn chế trong

việc cung ứng dịch vụ công cộng ở tỉnh Xiêng Khoảng tương đối đa dạng gắn

với các đặc điểm của từng loại dịch vụ khác nhau, chủ yếu thể hiện như sau:

Thái độ phục vụ của công chức chưa đáp ứng yêu cầu đề ra: Trên thực

tế, vẫn còn không ít công chức có thái độ cửa quyền, lạnh nhạt, gây khó khăn,

phiền hà đối với người dân. Điều đó gây nên một tâm lý ức chế, nặng nề và

phổ biến trong xã hội về sự khó khăn trong việc tiếp cận đến các DVCC, tạo

thành một rào chắn về tâm lý trong mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ

chức và công dân, làm cho người dân ngại tiếp xúc với các cơ quan công

quyền, không có thiện cảm chính quyền.

Năng lực của CBCC còn chưa đáp ứng được mong đợi của công dân,

như sự am hiểu, thuần thục với quy trình giải quyết thủ tục; cách thức hướng

dẫn, giải thích thủ tục hồ sơ chưa phù hợp làm cho công dân khó hiểu để tiếp

nhận thông tin. Công tác tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định

hành chính và giải quyết TTHC của địa phương có khi chưa kịp thời, vẫn còn

tình trạng hồ sơ trễ hạn, mặc dù tỉ lệ trễ hạn rất thấp.

Công dân và tổ chức không lấy được các thông tin cần thiết ở đâu về

thủ tục, quy trình, các quy định cần thiết, một số người dân hoàn toàn không

được biết về cơ chế hoạt động, kết quả hoạt động của các cơ quan HCNN.

Điều đó đặt ra vấn đề là cần phải có cơ chế phối hợp, phản hồi giữa Nhà nước

và công dân chặt chẽ hơn, đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động hành chính,

nhất là trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cộng.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Những tồn tại, hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau,

tuy nhiên chúng ta có thể thấy rõ một số nguyên nhân cơ bản sau:

63

Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là do chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công

cộng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng, CBCC chưa có đủ động

cơ làm việc tốt với yêu cầu đặt ra như:

Về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ: Việc trang bị các kiến thức hành

chính cho đội cán bộ, ngũ công chức đã được triển khai song hiệu quả chưa

cao, các kiến thức được đào tạo mang tính lý luận chung, chưa phù hợp với

yêu cầu công việc, khó đi vào thực tiễn; một số trường hợp cán bộ, công chức

thực hiện việc cung ứng DVCC được đào tạo từ những chuyên ngành khác;

Ngoài kiến thức chuyên môn, đa số cán bộ, công chức thiếu những kiến thức

hành chính, làm cho bộ máy hành chính vận hành chưa hiệu quả; Các công

chức trưởng thành chủ yếu qua rèn luyện thực tế, nên nhiều khi thiếu tính

khoa học và chưa hợp lý trong xử lý công việc. Do đó, năng lực của cán bộ,

công chức còn nhiều hạn chế so với yêu cầu đặt ra.

Về kỹ năng hoạt động công vụ: điều còn tồn tại là cán bộ, công chức

thiếu các kỹ năng hoạt động cụ thể, hầu hết không có đủ kỹ năng cần thiết

trong hoạt động quản lý nhà nước cũng như cung ứng DVCC. Các chương

trình đào tạo, bồi dưỡng chưa chú trọng đến và chưa mang tính tính kỹ năng

thực hành, nên không thể hoàn thành tốt công việc được giao, như: Không

biết cách giao tiếp, ứng xử với khách hàng; xử lý công việc chậm, chưa khoa

học; chưa biết cách lập và lưu trữ hồ sơ; khả năng sử dụng công nghệ mới

trong công việc còn hạn chế; ... Thực tế đó đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải

trang bị các kỹ năng hành chính cần thiết cho đội ngũ cán bộ, công chức.

Về đạo đức công vụ: Trên thực tế, vẫn còn một số ít trong đội ngũ cán

bộ, công chức còn tư tưởng ban phát đối với người dân và tổ chức khi họ sử

dụng dịch vụ, lợi dụng vị trí công tác và thẩm quyền của mình để gây phiền

hà cho tổ chức, công dân, có thái độ đối xử không công bằng với khách hàng.

64

Thứ hai là công tác đánh giá cán bộ, công chức một cách chung chung,

mang tính hình thức không theo những tiêu chí cụ thể phù hợp với từng loại

công việc và từng chức danh, từ đó làm xói mòn sự nhiệt tình của cán bộ,

công chức, chưa tạo ra được động lực để công chức phát huy sáng kiến. Cùng

với cơ chế đánh giá không rõ ràng đó là cơ chế thưởng, phạt chưa phân minh,

không đủ mạnh để động viên sự tích cực cũng như để xử lý thích đáng và

ngăn chặn có hiệu quả đối với các hành vi tiêu cực.

Thứ ba là về chính sách tiền lương, thưởng, còn nhiều hạn chế cơ bản,

việc trả lương chưa tương xứng với sự đóng góp của mỗi người, không phân

biệt giữa người làm việc tốt và người làm việc chưa tốt. Điều đó làm cho một

số cán bộ, công chức thiếu động lực làm việc, chưa có đủ động cơ cống hiến

hết mình cho công việc, dẫn đến những hành vi tiêu cực như sách nhiễu khách

hàng, hối lộ,...

Thứ tư, là việc xã hội hóa dịch vụ công còn chậm so với sự phát triển

của xã hội. Hiện nay, trên thế giới nhiều quốc gia phát triển đã chuyên giao

những công việc, những dịch vụ công cho các tổ chức tư nhân, ngoài nhà

nước thực hiện và mang lại hiệu quả cao. Điều đó khơi dậy được sức mạnh

của toàn xã hội đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước. Yêu cầu đặt ra

đối với nước ta trong thời gian tới cần xã hội hóa với tốc độ mạnh mẽ hơn,

chuyển giao những DVC mà khu vực ngoài nhà nước có thể đảm đương được,

giảm tải gánh nặng cho Nhà nước.

Thứ năm, cơ cấu tổ chức và cơ chế cung cấp dịch vụ công còn nhiều

hạn chế như: Việc phân công công việc giữa các thành viên trong tổ chức còn

nhiều điểm chưa phù hợp, không khuyến khích được tính sáng tạo của CBCC

mà còn tạo ra những khó khăn do những bất cập trong sự phối hợp công tác

giữa các thành viên với nhau, vì thế cung ứng một số dịch vụ còn phức tạp,

kéo dài, không khoa học, dẫn đến chậm trễ.

65

Thứ sáu, là hoạt động giám sát, kiểm tra vẫn còn bị buông lỏng, chưa

được quan tâm đúng mức, thiếu cơ chế ngăn ngừa trong nội bộ. Từ đó dẫn

đến những tiêu cực trong hoạt động quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ

công cộng. Như vậy, gần như tất cả các vấn đề nêu trên đều liên quan đến

việc thực hiện chức năng bảo đảm các dịch vụ công cộng của Nhà nước. Có

nhiều nhận định đã chỉ ra rằng: Một Nhà nước có hiệu lực là nhân tố thiết yếu

cho việc cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như các quy định

và thể chế cho phép các thị trường phát triển mạnh mẽ và con người có đời

sống khoẻ mạnh hơn, hạnh phúc hơn. Nếu không có nó, sự phát triển bền

vững cả về mặt kinh tế và xã hội là không thể có được. Điều đó cho thấy tầm

quan trọng cũng như vai trò của công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ

công cộng trong giai đoạn hiện nay.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Đối với người dân, cảm thụ tính ưu việt của xã hội chính là thông qua

những gì họ được thụ hưởng từ dịch vụ xã hội mang lại. Khi con người ngày

càng ý thức rõ rệt hơn quyền lợi của mình, thì thụ hưởng dịch vụ xã hội, dịch

vụ công cộng với chất lượng tốt hơn, trách nhiệm cao hơn là thước đo trực

tiếp đảm bảo quyền con người trong xã hội. Nền kinh tế xã hội của một quốc

gia càng phát triển thì nhu cầu đối với dịch vụ công cộng ngày càng cao và

đòi hỏi cần phải chú trọng nhiều hơn nhằm tạo ra sự công bằng, ổn định và

phát triển xã hội một cách bền vững.

Trong chương 2, tác giả đã trình bày và phân tích thực trạng QLNN đối

với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng trên một số lĩnh vực cụ thể. Trong các lĩnh

vực QLNN về DVCC ở tỉnh thì vấn đề QLNN về quản lý và cung ứng các

loại hình dịch vụ tương đối tốt. Bên cạnh đó các lĩnh vực cung ứng dịch vụ

văn hóa, giáo dục, y tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, nước sạch và vệ

sinh môi trường nông thôn... cũng thực hiện khá tốt, công tác chăm sóc sức

66

khỏe cho người dân được thực đầy đủ và đạt hiệu quả cao, các vấn đề cần có

sự QLNN được đáp ứng kịp thời và đầy đủ. Không chỉ có vậy, trong chương

2, tác giả cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của vấn đề

liên quan đến công tác QLNN đối với DVCC ở tỉnh. Trong những nguyên

nhân đó có nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp tác động đến hiệu quả QLNN đối

với DVCC ở tỉnh. Tuy nhiên, đứng trên góc độ của QLNN thì có thể tách

bạch ra đâu là nguyên nhân chủ quan, đâu là nguyên nhân khách quan, để từ

đó có hướng phát triển điểm mạnh, khắc phục những tồn tại, yếu kém để góp

phần hoàn thiện QLNN đối với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng giai đoạn hiện

nay. Trên cơ sở nắm bắt được những nguyên nhân trên chúng ta có có sở để

đưa ra những giải pháp đúng đắn, góp phần tăng cường và hoàn thiện hơn nữa

công tác QLNN đối với DVCC trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.

Chương 2 chính là cơ sở thực tiễn để từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường

quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng sẽ được trình bày và phân tích

trong chương 3.

67

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1 Phương hướng của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển

dịch vụ công cộng

Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước Lào hiện nay, Đảng Nhân dân

cách mạng Lào đã đề ra những chủ trương, chú trọng phát triển hoạt động

dịch vụ công, các loại hình dịch vụ công cộng, du lịch, chỉ đạo, ban hành và

tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về dịch vụ công công, dịch vụ du lịch.

Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào VII xác định: Thúc đẩy đầu tư phát

triển các loại hình dịch vụ, địa điểm du lịch, phát triển nguồn nhân lực, củng

cố cơ chế quản lý, các ngành có liên quan; các địa phương phải có kế hoạch

phát triểndịch vụ phù hợp với điều kiện hiện nay. Nội dung này cũng được ghi

nhận trong Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào

(CHDCND) năm 2003.

Nghị quyết của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã chỉ rõ phải: Đẩy

mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực tiếp liên

quan đến đời sống nhân dân.

Cũng theo đó, các văn kiện của Đảng nhấn mạnh rằng: Đẩy mạnh cải

cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững

mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và

năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,

phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

68

nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của

đất nước.

Chính vì vậy mà trong những năm qua các cơ quan nhà nước, các đơn

vị thực hiện chức năng QLNN đối với các loại hình dịch vụ công không

ngừng đổi mới và hoàn thiện, các loại hình dịch vụ tăng lên cả về số lượng và

chất lượng, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Nhờ chính sách phát triển các

loại hình dịch vụ công cộng, nhiều tiềm năng phát triển của đất nước đã được

các địa phương đưa vào khai thác phát huy giá trị, giải quyết việc làm cho

nhiều lao động, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành khác như:

giao thông, hàng không, xây dựng, bưu điện, ngân hàng… theo đó các ngành

văn hóa, xã hội, y tế,… có bước phát triển phát triển để phục vụ khách nhân

dân. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã khẳng định: Dịch vụ công cộng là

một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, góp phần vào nâng cao dân trí, tạo

việc làm và phát triển kinh tế - xã hội và coi phát triển dịch vụ là chiến lược

quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực

hiện CNH, HĐH đất nước, phấn đấu đưa đất nước Lào trở thành trung tâm

phát triển trong khu vực. Nhà nước Lào đã xác định dịch vụ là một ngành

kinh tế hàng đầu, có những nét đặc thù riêng, mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc,

có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Thực hiện chủ trương trên, từ

khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế và hợp tác quốc tế, hoạt

động dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của

đất nước.

Như vậy, được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước tới công

tác cải cách hành chính, các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng cung ứng

dịch vụ công cộng ngày càng hoàn thiện cả về tổ chức bộ máy, cơ chế làm

việc, mục tiêu hướng tới,… điều này chính là cơ sở vững chắc cho việc tăng

69

cường hơn nữa công tác QLNN đối với DVCC trên thực tế ở các cơ quan, đơn

vị hiện nay trong bộ máy HCNN.

Có thể thấy tỉnh Xiêng Khoảng trong những năm qua đã có những phát

triển mạnh mẽ về các loại hình dịch vụ công, trong đó có các loại hình dịch vụ

công cộng. Đây là nơi diễn ra các hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng với

tần suất lớn và lượng nhu cầu nhiều, do đó đòi hỏi sự quản lý phải chặt chẽ,

thường xuyên, liên tục hoạt động cung ứng DVCC của các cơ quan và tình

hình sử dụng dịch vụ của đối tượng thụ hưởng. Điều đó đặt ra cho Đảng bộ và

chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng cần những chủ trương, định hướng cụ thể đáp

ứng nhu cầu của người dân và tổ chức.

Thứ nhất, về cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động của CQNN: Tổng

rà soát và định kỳ rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và

biên chế hiện có của các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp nhà nước.

Trên cơ sở đó, phân định chức năng QLNN và sự nghiệp công; xóa bỏ chồng

chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức

và hoạt động của chính quyền đô thị. Tiếp tục thực hiện phân cấp hợp lý giữa

UBND tỉnh cho các Sở ban ngành, cơ quan chuyên môn và UBND các huyện,

bản; bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả thẩm quyền

được phân cấp. Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá chất lượng cung ứng

dịch vụ công cộng của các đơn vị sự nghiệp, có so sánh với chất lượng của

các đơn vị do khu vực tư đảm nhiệm. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý,

điều hành của chính quyền cơ sở.

Thứ hai, không ngừng ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách

hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng

Tin học hóa các quy trình công việc trong nội bộ cơ quan hành chính,

trong giao dịch với các cơ quan hành chính với nhau và trong giao dịch với tổ

chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng. Công

70

bố danh mục các dịch vụ công, dịch vụ công cộng trực tuyến trên trang thông

tin điện tử của các cơ quan HCNN. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu

điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính, tổ chức và cá nhân. Bên

cạnh đó, hình thành các cơ sở dữ liệu chung, phục vụ cho công tác quản lý

hành chính nhà nước. Hệ thống một cửa điện tử được triển khai tại các sở,

ban, ngành và UBND các cấp; tích hợp và liên thông, liên kết đồng bộ vào

cổng thông tin điện tử trên toàn tỉnh.

Thứ ba, không ngừng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức thực hiện nhiệm vụ.

Xây dựng đội ngũ cán bộ CCVC có chuyên môn, nghiệp vu, hướng tới

chuyên nghiệp hoá, hợp lý về cơ cấu gắn với vị trí việc làm trên cơ sở xác

định rõ về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Từng bước xây

dựng hệ thống vị trí chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ CCVC, kể cả cán

bộ, công chức lãnh đạo, quản lý. Đi đôi với vấn đề này là tiếp tục hoàn thiện

chế độ tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực

và phẩm chất của CCVC trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo

nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí phù

hợp. Xây dựng cơ chế đánh giá cán bộ CCVC theo kết quả công việc; xây

dựng cơ chế trả thu nhập và khen thưởng theo kết quả hoàn thành công việc;

vinh danh cán bộ CCVC tiêu biểu. Đây cũng chính là chủ trương xây dựng và

phát triển người cán bộ mẫu mực trong chủ trương về công tác cán bộ ở tỉnh

Xiêng Khoảng trong thời gian qua.

Thứ tư, không ngừng cải cách thủ tục hành chính

Thường xuyên rà soát, đơn giản và kiến nghị cấp có thẩm quyền thực

hiện đơn giản hóa TTHC trên tất cả các lĩnh vực QLNN, trọng tâm là những

TTHC còn phiền hà, liên quan trực tiếp đến người dân. Những lĩnh vực tập

trung là: Đầu tư xây dựng; đất đai; y tế; giáo dục; việc làm;… và các lĩnh vực

71

khác theo yêu cầu thực tiễn. Cải cách TTHC trong nội bộ từng cơ quan, đơn

vị và giữa các cấp với nhau. Công khai minh bạch tất cả thủ tục hành chính

dưới các hình thức thiết thực và thích hợp.

Thứ năm, về cải cách thể chế hành chính: Thường xuyên rà soát, sửa

đổi và hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý hành chính của tỉnh trên nguyên

tắc đảm bảo tính thống nhất với các chủ trương, chính sách, pháp luật của

Trung ương, thông suốt trên toàn tỉnh và phù hợp với quá trình phát triển kinh

tế, xã hội của địa phương và cả nước; Xây dựng quy định về việc lấy ý kiến

của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách quan trọng và thực hiện

quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước; Nghiên

cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền cho phép triển khai các chính sách đặc thù

của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, hiện đại và phù

hợp với điều kiện thực tiễn về QLNN của chính quyền trên cơ sở điều kiện tự

nhiên và tính đặc thù của tỉnh Xiêng Khoảng trong phát triển hiện nay.

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với dịch vụ

công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào

3.2.1. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước

đối với các dịch vụ công cộng

Để nâng cao chất lượng cung ứng DVCC, cơ cấu tổ chức của cơ quan

cung ứng dịch vụ phải được sắp xếp hợp lý, gọn nhẹ trên cơ sở xác định số

lượng các đầu việc phù hợp. Tổ chức biên chế và cơ cấu các phòng ban khoa

học và hợp lý. Việc đổi mới cơ cấu tổ chức của các CQNN cung ứng DVCC

là yêu cầu tất yếu, các tổ chức cung ứng DVCC phải bảo đảm các nguyên tắc

hoạt động của bộ máy hành chính, bao gồm:

- Tuân thủ các quy tắc, quy trình và nhiệm vụ của tổ chức;

- Có sự phân công và chuyên môn hoá trong công việc;

72

- Xác định rõ vị trí công việc và trách nhiệm;

- Bảo đảm sự kiểm tra chặt chẽ của cấp trên đối với cấp dưới, cũng như

sự kiểm tra của người quản lý đối với từng nhân viên;

- Định hình tổ chức căn cứ vào quy mô, chức năng, khách hàng, kiến

thức và kỹ năng;

- Bảo đảm sự thống nhất theo chiều dọc và chiều ngang;

- Bảo đảm sự phối hợp giữa các bộ phận và các cá nhân.

Như vậy, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, nhất là trong

giai đoạn hiện nay ở tỉnh Xiêng Khoảng ngày càng năng động, đòi hỏi tổ chức

cung ứng DVCC phải linh hoạt, sáng tạo, hướng tới khách hàng nên cần được

đổi mới về tổ chức và cơ chế hoạt động theo xu hướng sau:

Thứ nhất, cần tăng cường sự phân công, phân cấp nhiệm vụ và quyền

hạn cho các tổ chức cung ứng DVCC, bảo đảm tính tự chủ hoạt động cho các

tổ chức, giảm bớt sự lưu chuyển hồ sơ giữa các khâu trong bộ máy. Việc phân

công, phân cấp cho các tổ chức cung ứng DVCC có các ưu thế như:

- Các tổ chức trực tiếp cung ứng dịch vụ có đầy đủ thẩm quyền trong

việc cấp các DVCC cho công dân. Vì các tổ chức gần dân nhất, nắm bắt được

các yêu cầu của dân và trực tiếp thực thi hoạt động cung ứng dịch vụ;

- Động viên và thúc đẩy tổ chức đó cũng như các công chức trong tổ

chức về mặt tinh thần, thể hiện sự tin tưởng của cấp trên vào cấp dưới, khẳng

định quyền hạn của tổ chức cung ứng DVCC trước xã hội;

- Các tổ chức phải chịu trách nhiệm cao hơn trước khách hàng. Đặt các

tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức trước một trách nhiệm trước khách

hàng và phải chịu trách nhiệm về những DVCC mà họ cung ứng cho người

dân và tổ chức;

- Tăng cường tính tự chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên, tự giải

quyết các vấn đề đặt ra trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm được giao.

73

Thứ hai, cần thiết lập tổ chức tinh gọn, có tính chuyên nghiệp, chuyên

môn hoá cao và hướng vào kết quả thiết thực

Các cơ quan, đơn vị, tổ chức cung ứng DVCC cần gọn nhẹ, càng ít tầng

nấc càng tốt. Các tổ chức cần xây dựng một cơ chế làm việc năng động hướng

vào kết quả, phải hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, tuân thủ

các thủ tục do pháp luật đề ra; đặt ra mục tiêu của tổ chức mình và khuyến

khích mọi biện pháp thực hiện để có kết quả tốt nhất đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ ba, tăng cường quản lý chặt chẽ chất lượng dịch vụ được cung

ứng.

Sản phẩm cuối cùng của DVCC là các loại hình dịch vụ do cơ quan

hành chính nhà nước cấp cho tổ chức, công dân. Chất lượng DVCC được đo

bằng sự thoả mãn của khách hàng, do đó kiểm tra chất lượng DVCC không

chỉ kiểm tra sản phẩm cuối cùng thu được mà là một quá trình kiểm tra chất

lượng toàn bộ, liên quan đến toàn bộ quy trình và các yếu tố tham gia vào

việc cung ứng dịch vụ. Vì vậy, cơ chế bảo đảm quản lý chất lượng DVCC cần

quán triệt các yếu tố và quá trình như:

- Tiếp nhận các hồ sơ đầu vào đủ và đúng yêu cầu quy định, bao gồm

cả việc xác định rõ các hồ sơ có thể thay thế;

- Xác định rõ các khâu xử lý và yêu cầu đặt ra đối với từng khâu;

- Bảo đảm cung ứng đầy đủ, rõ ràng các thông tin mà khách hàng cần;

- Bảo đảm điều kiện tiếp đón và thái độ của cán bộ, công chức, viên

chức trực tiếp giao dịch với khách hàng ở mức tốt nhất có thể được;

- Xây dựng bộ quy chuẩn, các thủ tục đơn giản, dễ thực hiện;

- Định mức thời gian chờ đợi ngắn, hoàn trả kết quả cho khách hàng

đầy đủ, đúng thời gian quy định, không bị sai sót và nhầm lẫn;

Như trên là các yêu cầu, các tiêu chí mà đơn vị cung ứng DVCC cần

quan tâm và lưu ý trong quá trình cung ứng dịch vụ. Các cơ quan QLNN cần

74

bám sát vào đó để có thể kiểm tra và giám sát việc cung ứng dịch vụ của đơn

vị có đúng và đạt yêu cầu hay không.

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý

dịch vụ công cộng

Trong công tác QLNN đối với các DVCC thì Nhà nước cần phải tỏ rõ

là người chủ, là nơi cung ứng gần như toàn bộ các DVCC cho xã hội, điều đó

có nghĩa là Nhà nước phải không ngừng tăng cường sự hiện diện của mình

trong công tác quản lý, cung ứng DVCC cho xã hội. Đồng thời, hệ thống pháp

luật cần đưa ra các quy định rõ ràng, cụ thể, chỉ ra những điều cấm và những

điều giới hạn cấm thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ ở những lĩnh vực

khác nhau. Quyền tự do, bình đẳng trong sử dụng và thụ hưởng dịch vụ của

các chủ thể phải được đảm bảo bằng một hệ thống các quyền tự do. Nhà nước

phải đảm bảo được tính thống nhất trong cả nước, tránh hạn chế đáng tiếc đối

với các quyền tự do của công dân và các tổ chức.

Trong quản lý xã hội hiện nay ở nước CHDCND Lào nói chung và tỉnh

Xiêng Khoảng nói riêng đặt ra yêu cầu cần có một loạt văn bản pháp luật quy

định về các loại hình dịch vụ, chủ thể cung ứng và đối tượng thụ hưởng,….

Như vậy, việc xây dựng cơ chế pháp lý phù hợp để đảm bảo các cơ quan hành

chính nhà nước thực hiện tốt chức năng QLNN đối với DVCC là nhu cầu cần

thiết và chính đáng. Ban hành và hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp luật

về DVCC là yêu cầu đảm bảo cho công tác QLNN đối với xã hội được tốt

hơn, hoàn thiện hơn.

Đối với công tác QLNN thì công cụ quản lý quan trọng nhất chính là hệ

thống pháp luật. Pháp luật là công cụ không thể thiếu được để Nhà nước thực

hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, đời

sống xã hội. Hiện nay, cơ chế thị trường đòi hỏi phải có luật cụ thể, rõ ràng,

đầy đủ và có hệ thống, có cơ chế tài phán phù hợp... Chính từ những yêu cầu

75

nói trên mà hiện nay tỉnh Xiêng Khoảng muốn quản lý các hoạt động cung

ứng DVCC được hiệu quả thì trước tiên cần có Luật điều chỉnh, sau đó cần có

các văn bản hướng dẫn thi hành trong công tác QLNN về DVCC. Ngoài ra,

tỉnh Xiêng Khoảng cũng cần có cơ chế riêng để các cơ quan QLNN có chức

năng ban hành những văn bản mang tính độc lập để giải quyết những công

việc đặc thù và chủ động hơn nữa trong việc thực hiện QLNN đối với DVCC

trên địa bàn tỉnh.

Để làm được điều đó, các cấp lãnh đạo đơn vị, cá nhân cán bộ, công

chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, trong quá trình quản lý cần nắm chắc các

dịch vụ mà cơ quan cung ứng cho xã hội, hiểu rõ và tường tận các thuận lợi,

khó khăn khi tiến hành quản lý. Từ đó có những báo cáo, rút kinh nghiệm

trong quá trình quản lý, đưa ra những ưu điểm và hạn chế cụ thể, để làm căn

cứ đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành văn bản, bổ sung và hoàn thiện hệ

thống văn bản QLNN đối với lĩnh vực DVCC còn chưa được điều chỉnh. Như

vậy, xuất phát từ tình hình thực tiễn công tác QLNN trên địa bàn tỉnh mà đề

xuất cấp có thẩm quyền ban hành văn bản QLNN, đây sẽ là con đường đúng

nhất, phản ánh chân thực nhất tình hình hiện nay đối với lĩnh vực quản lý.

3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán

bộ, công chức quản lý về dịch vụ công cộng

Nguồn nhân lực luôn là yếu tố đóng vai trò quyết định đến sự thắng lợi

của các hoạt động trên mọi lĩnh vực. Tăng cường QLNN, nâng cao chất lượng

cung ứng dịch vụ công cộng cũng không ngoại lệ, yếu tố con người luôn được

xem là yếu tố hàng đầu, có tính quyết định tới chất lượng của dịch vụ. Xét

đến cùng thì cho dù thủ tục đơn giản, quy trình được tổ chức khoa học, thuận

tiện như thế nào đi nữa nhưng nếu không có đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức (CBCCVC) đủ năng lực, phẩm chất đạo đức thì khó có thể thực hiện

thành công được. CBCCVC là người trực tiếp giao dịch với các tổ chức và

76

công dân, thể hiện hình ảnh của Nhà nước trước người dân. Thông qua kết

quả giải quyết công việc của họ, người dân có thể đánh giá chất lượng giải

quyết và năng lực của cơ quan hành chính. Ngoài ra, thái độ phụ vụ của

CBCCVC cũng ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, niềm tin, sự hài lòng của

nhân dân đối với bộ máy nhà nước, phản ánh một cách cụ thể mối quan hệ

của nhà nước đối với nhân dân. Vì vậy, việc nâng cao năng lực và thái độ

phục vụ của đội ngũ CBCCVC này là điệu kiện quan trọng để cơ chế vận

hành tốt, để Nhà nước phục vụ nhân dân được tốt hơn, xây dựng mối quan hệ

tốt đẹp giữa Nhà nước và nhân dân. Nâng cao năng lực, đạo đức và thái độ

phục vụ của CBCCVC ở tỉnh hiện nay là giải pháp quan trọng đối với công

tác QLNN nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng của UBND tỉnh

Xiêng Khoảng và của UBND các huyện, các Sở, Ban ngành trong tỉnh.

Thứ nhất, nâng cao đạo đức công vụ

Để không ngừng rèn luyện và nâng cao đạo đức của công chức, các tổ

chức cung ứng dịch vụ công cần quan tâm đến các biện pháp như: Đề ra các

tiêu chuẩn rõ ràng về đạo đức công chức, các tiêu chuẩn này cần được thể chế

hoá bằng các văn bản pháp luật; Tất cả công chức đều phải được giới thiệu

chi tiết về các tiêu chuẩn đạo đức; Công chức phải biết rõ quyền và trách

nhiệm của mình nếu để xảy ra sai phạm; Công chức phải có bản cam kết thực

hiện các tiêu chuẩn về đạo đức; Các quyết định đưa ra phải gắn với trách

nhiệm cá nhân cụ thể; Cần xây dựng cơ chế quy trách nhiệm rõ ràng trong

cung ứng dịch vụ công; Người quản lý cần biểu dương và khuyến khích các

tấm gương về đạo đức; Ý thức đạo đức của công chức phải được đề cao trong

các chính sách cũng như trên thực tế; Có các quy định và biện pháp xử lý

thích hợp đối với những vi phạm về đạo đức. Đặc biệt cần xử lý nghiêm minh

các hành vi nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ công chức thực thi các

dịch vụ công.

77

Thứ hai, nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho

CBCCVC

Đối với công tác cán bộ, tỉnh Xiêng Khoảng cần đặc biệt chú ý tới các

vấn đề như tuyển dụng, sử dụng và đào tạo cán bộ, công chức, viên chức,…

phải chọn lọc ngay từ khâu đầu tiên. Lựa chọn những người vững về chuyên

môn để xử lý các công việc liên quan đến dịch vụ công cộng theo yêu cầu của

khách hàng, bảo đảm tính chính xác và nhanh chóng; Bố trí công việc phù

hợp với chuyên môn và năng lực của mỗi người nhằm tạo điều kiện cho cán

bộ, công chức phát huy tốt nhất khả năng của mình. Nâng cao trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ: Định kỳ tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cho cán

bộ CCVC về kỹ năng ứng xử khi tiếp xúc với khách hàng, khả năng thực hiện

thành thạo công việc với kỹ thuật công nghệ hiện đại, kỹ năng xử lý công việc

khoa học, đồng thời lập kế hoạch cử cán bộ trẻ có năng lực đi đào tạo chuyên

sâu về nghiệp vụ nhằm xây dựng đội ngũ giỏi làm nòng cốt cho đơn vị. Quan

tâm, tạo điều kiện cử công chức đi học cập nhật các kiến thức mới, nắm bắt

kịp thời các quy định, nghiệp vụ và kỹ năng mới phục vụ cho công việc, nhất

là việc sử dụng máy vi tính, nhằm đáp ứng các yêu cầu mới về chuyên môn.

Có các biện pháp hướng dẫn, bồi dưỡng tại chỗ về chuyên môn đối với các

công chức trẻ dưới hình thức trao đổi, báo cáo, kèm cặp...Khuyến khích sự

tham gia của công chức vào hoạt động QLNN để tích lũy kinh nghiệm và phát

triển thế hệ kế cận.

Người quản lý có các biện pháp kiểm tra chất lượng hoạt động của

công chức, đánh giá công chức định kỳ về chất lượng chuyên môn, xây dựng

hệ thống tiêu chuẩn đánh giá công chức để bảo đảm ghi nhận đúng đắn công

lao đóng góp của mỗi người, kịp thời phát hiện và uốn nắn các sai sót, động

viên, khuyến khích đối với những kết quả tốt trong công việc. Tổ chức cần

thường xuyên khuyến khích và phát huy các sáng kiến của công chức trong

78

cải tiến chuyên môn, nghiệp vụ, ứng dụng và phổ biến rộng các sáng kiến

hay. Tăng cường sự tham gia và tính chủ động của công chức, tạo cho công

chức phạm vi hoạt động độc lập trong công việc và đánh giá họ dựa trên cơ sở

kết quả cuối cùng. Cách làm này có tác dụng: Nâng cao tính trách nhiệm của

công chức đối với kết quả cuối cùng; Tạo cho công chức sự chủ động lớn hơn

trong công việc; Mở rộng phạm vi hoạt động của công chức, làm cho mỗi

người có thể thực hiện nhiều công đoạn khác nhau chứ không bị giới hạn

trong một khâu nhất định; Dễ xác định kết quả, dễ kiểm tra đánh giá công

việc thực hiện của mỗi người căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm làm

ra.

Thứ ba, cần quan tâm, tạo động lực khuyến khích CBCCVC

Cần quan tâm, tạo động lực khuyến khích CBCCVC phát huy năng lực,

tận tâm phục vụ nhân dân vì lợi ích chung. Tiến hành xây dựng các tiêu chí

đánh giá kết quả thực hiện công việc của CBCCVC, trên cơ sở đó tiến hành

đánh giá CBCCVC hàng năm và xét khen thưởng hay kỷ luật. Mỗi đơn vị cần

xây dựng chế độ thưởng, phạt rõ ràng. Biểu dương và khuyến khích về vật

chất và tinh thần đối với những CBCCVC hoàn thành tốt nhiệm vụ, sáng tạo

và có nhiều đóng góp. Cơ quan, đơn vị, tổ chức nên tạo ra một môi trường

khuyến khích công chức phát huy năng lực và phẩm chất của mình. Cụ thể

như:

- Có các khuyến khích thoả đáng đối với công chức về vật chất và tinh

thần theo công lao đóng góp của công chức;

- Đề cao giá trị đạo đức của người công chức;

- Tạo cho công chức sự tự chủ trong công việc và khả năng ứng xử

trước những tình huống xảy ra;

- Tạo môi trường làm việc đoàn kết, tin tưởng, phối hợp và giúp đỡ lẫn

nhau;

79

- Tạo điều kiện làm việc đây đủ và tốt nhất có thể được cho công chức;

Tạo môi trường giao tiếp và bình đẳng trong đối xử với công chức;

- Quan tâm đến đời sống cá nhân của công chức (hoàn cảnh gia đình,

sức khoẻ, việc đi lại...);

Từng bước đổi mới chính sách tiền lương công chức, bảo đảm để công

chức có thể sống ở mức trung bình khá trong xã hội. Cần có chế độ chính sách

tiền lương, thưởng, phạt nghiêm minh, ghi nhận các nỗ lực đóng góp của cán

bộ CCVC để tôn vinh giá trị của họ, được như vậy, công chức mới yên tâm

công tác và dành tâm lực cho công việc.

Quan tâm đến các chính sách đãi ngộ, quyền lợi của cán bộ CCVC; các

chế độ bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, tham quan nghỉ mát hang năm cũng là

một trong những yếu tố góp phần động viên và tạo sự gắn bó lâu dài của cán

bộ CCVC với tổ chức.

3.2.4. Xã hội hóa dịch vụ công cộng trên các lĩnh vực

Xã hội hoá DVCC nằm trong sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản

lý các hoạt động xã hội hoá thông qua hệ thống chính sách và pháp luật, qua

hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống các cơ quan hành chính nhà

nước. Để xã hội hoá DVCC được hiệu quả, cần phải tăng cường QLNN đối

với hoạt động này. Trong những năm qua, vấn đề xã hội hóa DVC nói chung,

xã hội hóa DVCC nói riêng không chỉ được đề cập trong các văn bản mang

tính chất định hướng của Đảng và Nhà nước, mà còn được sự quan tâm phía

người dân. Trong đó, vai trò cung ứng DVCC của các đối tượng sẽ có sự thay

đổi: chuyển từ sự độc quyền của Nhà nước sang hướng mở rộng cung ứng các

dịch vụ này ra ngoài khu vực nhà nước nhằm khai thác nguồn lực của xã hội

để cùng thực hiện mục tiêu cải thiện chất lượng cung ứng DVCC. Phá bỏ sự

độc quyền của Nhà nước, một mặt sẽ giảm tải được gánh nặng cho các cơ

quan công quyền, mặt khác huy động được các nguồn lực trong xã hội.

80

Không chỉ vậy, xã hội hóa còn được hiểu là quá trình để mọi người

được tham gia bình đẳng vào môi trường lành mạnh, được thụ hưởng những

lợi ích công bằng do dịch vụ công cộng đem lại. Xã hội hóa dịch vụ công

cộng đem lại những lợi ích không hề nhỏ. Việc thay đổi nhận thức về vai trò

của Nhà nước đối với các DVCC - lĩnh vực mà trước đây chỉ có Nhà nước

đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần cho các tổ chức ngoài

nhà nước. Có thể kể đến các DVC như: dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự

nghiệp công, cung ứng dịch vụ về văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao,… đã từng

bước được thừa nhận hiệu quả. Điều đó đã từng bước thể hiện tính đúng đắn

của chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ DVCC trên phạm vi rộng khắp.

Tuy nhiên, chúng ta cần thiết phải xác định rõ mục tiêu mà công cuộc

cải cách DVCC hướng tới là chất lượng dịch vụ chứ không phải là mức độ xã

hội hóa. Xã hội hóa loại hình dịch vụ này chỉ là phương thức để đạt được chất

lượng DVCC như mong muốn. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm cung ứng

những lĩnh vực mà khu vực tư không tham gia hoặc chưa tham gia. Ở nước

CHDCND Lào hiện nay cung ứng DVCC vẫn phụ thuộc phần lớn vào Nhà

nước vì khu vực tư chưa đủ năng lực để cung cấp tốt các dịch vụ này. Do vậy,

cần phải xác định được lĩnh vực nào cần xã hội hóa và xã hội hóa ở cấp độ

nào thì đem lại hiệu quả tốt nhất cho người dân, chứ không vì tiêu chí xã hội

hóa mà không quan tâm tới chất lượng dịch vụ. Muốn đảm bảo chất lượng

cung ứng DVCC đồng thời mở rộng chuyển giao việc cung ứng dịch vụ này

cho khu vực tư nhân, Nhà nước cần phải có cơ chế thích hợp.

Trước hết, hoàn thiện pháp luật một cách đồng bộ về bộ máy nhà nước,

trao thẩm quyền cụ thể cho từng loại cơ quan thực hiện quản lý và cung ứng

dịch vụ công. Đặt ra chế tài xử lý vi phạm cùng với cơ chế bảo đảm thực hiện

các chế tài đó khi có hành vi vi phạm. Đồng thời với nó thì chế độ chịu trách

nhiệm phải được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên. Cùng với việc đặt ra

81

hệ thống tiêu chuẩn chất lượng thì trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong

cung ứng DVCC phải được nâng cao. Nên đề cao trách nhiệm cá nhân đồng

thời đặt ra cơ chế giải trình hợp lý.

Các DVCC hiện nay cần có cơ chế quản lý mới, mang tính chất đặc thù

để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Trên địa bàn tỉnh

Xiêng Khoảng hiên nay cần phải thúc đẩy và đẩy mạnh hơn nữa công tác xã

hội hóa dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ tác động đến số đông người dân và tổ

chức, mang lại hiệu quả sâu rộng như các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, vệ

sinh môi trường, giao thông vận tải,…

Đối với lĩnh vực y: tế cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của người dân

và doanh nghiệp, tổ chức có đủ năng lực tài chính, năng lực nhân sự, chuyên

môn để hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân, hoạt động khám chữa

bệnh được lan rộng và phát triển rộng khắp, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng

tính cạnh tranh trong lĩnh vực chắm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân.

Thông qua việc xã hội hóa này, chúng ta có thể quản lý tốt hơn các loại hình

dịch vụ y tế, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua hệ thống

các tiêu chuẩn của ngành. Đồng thời, sự phát triển của ngành góp phần giải

quyết gánh nặng, giảm tải sức ép cho các bệnh viện công hiện nay. Bên cạnh

đó, việc quản lý và thu thuế các cơ sở y tế tư nhân cũng mang lại nguồn thu

cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển.

Đối với lĩnh vực văn hóa, giáo dục: Ưu tiên phát triển các cơ sở giáo

dục các bậc học, đầu tư chú trọng phát triển ở các ngành học có xu hướng và

chất lượng cao như kinh tế, đầu tư, công nghệ, y dược,…Đẩy mạnh hơn nữa

công tác phát triển hệ thống trường học tư thục, các bậc học từ mầm non, đến

trung học cũng mở rộng thu hút nguồn lực từ phía ngoài nhà nước. Nhà nước

chỉ quản lý và giám sát hoạt động cảu các cơ sở này thông qua các công cụ

quản lý nhà nước. Đồng thời, khởi dậy và phát huy văn hóa bản sắc của dân

82

tộc, tiếp thu văn hóa tiến bộ của thế giới, tiếp thu nền giáo dục của tiên tiến

của nước ngoài thông qua các tổ chức giáo dục và thông qua con đường du

học.

Đối với lĩnh vực cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, công ty

chiếu sáng đô thị, vận tải hành khách,… Trong những năm qua bước đầu

được triển khai với nhiều kết quả khả quan. Các công ty tư nhân thực hiện

chức năng mọc lên khá nhiều, điều này đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nền

kinh tế - xã hội ở tỉnh, góp phần vào sự nghiệp chung của cả nước. Trực tiếp

thay đổi cơ cấu trong sản xuất và phát triển kinh tế của địa phương.

Như vậy, Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ chốt trong cung ứng DVCC.

Vấn đề đặt ra là đồng thời với việc thúc đẩy xã hội hóa DVCC, thì chính các

cơ quan hành chính nhà nước phải tự nâng cao chất lượng phục vụ người dân.

Nhà nước phải là người có trách nhiệm điều tiết DVCC. Trách nhiệm này

nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các vùng miền, giữa các huyện, các sở ban

ngành trong tỉnh bằng cách hỗ trợ cho những khu vực có điều kiện kinh tế,

môi trường sống khó khăn hơn như khu vực miền núi, vùng nông thôn, khu

vực có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống. Có như vậy mới thực hiện

thành công cuộc CCHC nhà nước. Điều đó cho thấy vai trò QLNN đối với

DVCC ở chính quyền tỉnh là hết sức quan trọng, nhất là đối với cấp huyện.

3.2.5. Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công

cộng

Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,

trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ dạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh

tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực

hiện ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực sản phẩm;

một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc phục

83

những rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa bởi vậy phương

thức tổ chức quản lý và cung ứng DVCC cũng phải chuyển sang hướng xã hội

hoá tiếp cận thị trường mới phù hợp.

Nhà nước và các cơ quan chức năng quản lý cung cấp DVCC phải là

người chịu trách nhiệm duy nhất việc bảo đảm cung cấp DVC cho xã hội theo

các nguyên tắc vốn có. Các cơ quan chức năng quản lý, cung cấp DVCC như

cấp tỉnh, cấp huyện, … phải chịu trách nhiệm, nhưng cuối cùng của việc đảm

bảo cung cấp DVCC cho xã hội vẫn phải là các cơ quan cao nhất ở tỉnh.

Trong một hoạt dộng cung cấp DVCC có nhiều cơ quan chức năng

tham gia, phải lấy kết quả cuối cùng làm căn cứ, phải quy định rõ một cơ

quan chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc bảo đảm cung cấp DVCC để một

khi có xảy ra các vấn đề bất ổn trong đảm bảo cung cấp DVCC thì cơ quan

chịu trách nhiệm cuối cùng phải là người chịu trách nhiệm toàn bộ; tránh tình

trạng có thành tích tốt thì cơ quan nào cũng tranh, nhận về mình, khi có sự cố

xấu thì đổ lỗi, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Để làm tốt việc đổi mới cơ chế

quản lý và phương thức hoạt động về DVCC, vấn đề cốt lõi là phải có cách

đánh giá chính xác kết quả của các quyết định QLNN đối với DVCC. Từ đó,

tác giả đề xuất hai hướng đánh giá kết quả của các quyết định cơ bản sau:

Thứ nhất, về các nguyên tắc đánh giá kết quả quản lý nhà nước đối với

DVCC khoa học, chuẩn xác. Để thực hiện tốt theo phương án này, chúng ta

cần thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản như:

Nguyên tắc các quyết định ban hành phải đảm bảo tính hợp pháp và

hợp lý. Điều đó có nghĩa là khi một quyết định ban hành của nhà quản lý phải

đảm bảo phù hợp với pháp luật hiện tại, phù hợp với các văn bản quản lý của

nhà nước đã có và không được đi ngược lại hoặc chồng chéo lên các văn bản

trước đó ban hành liên quan đến vấn đề. Đó là đảm bảo tính hợp pháp. Đồng

thời, quyết định ban hành ra cũng phải đảm bảo tính hợp lý, phù hợp với thực

84

tiễn cuộc sống, xuất phát từ thực tiễn của vấn đề cần có quyết định để giải

quyết, có hiệu quả nhất định trên thực tế. Có như vậy quyết định ban hành ra

mới có kết quả cao và chính xác nhất, khoa học nhất.

Nguyên tắc vê mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn đánh giá. Theo

nguyên tắc này, tiêu chuẩn đánh giá được định ra trên cơ sở mục tiêu. Mục

tiêu khác nhau, tiêu chuẩn đánh giá cũng khác nhau, mục tiêu thay đổi, tiểu

chuẩn đánh giá cũng thay đổi theo. Tiêu chuẩn đánh giá phải được xem như là

thước đo để thực hiện các mục tiêu.

Bên cạnh đó, để có một quyết định quản lý đối với DVCC phù hợp, đạt

kết quả cao còn cần lưu ý tới các nguyên tắc khác như: Nguyên tắc về sự

thống nhất lợi ích, nguyên tắc về tính khoa học và chính xác, nguyên tắc về

tính đơn giản và tính thực té, dễ hiểu dễ áp dụng, nguyên tắc so sánh,…

Thứ hai, là phương pháp đánh giá kết quả hoạt động QLNN đối với

DVCC và kết quả hoạt động của các tổ chức công chuẩn xác. Đây là tổng thể

các cách thức có thể và có chủ đích của người đánh giá trong việc vận dụng

các nguyên tắc đánh giá về và việc chính xác kết quả hoạt động QLNN đối

với DVCC và kết quả hoạt động của tổ chức công. Để thực hiện theo phương

pháp này, chúng ta cần lưu ý tới các vấn đề định lượng và định tính trong

đánh giá kết quả đạt được đối với việc QLNN đối với DVCC. Sự phối hợp

các đánh giá định lượng và định tính sẽ là một công cụ tốt nhất nhằm đáp ứng

nhu cầu thông tin của việc đánh giá kết quả hoạt động QLNN đối với DVCC

và đối với các tổ chức thực hiện cung ứng loại hình dịch vụ này.

3.2.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và tài chính cho các cơ quan

có chức năng quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng

Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác QLNN đối với DVCC thì

cần phải có một tổ hợp các giải pháp từ khâu đầu là xác định và phân loại

chính xác các DVCC, đến khâu cuối cùng là đổi mới hoạt động cung ứng

85

DVCC. Nhưng xuyên suốt là hệ thống thông tin trong quản lý. Trong các yêu

cầu về thông tin trong QLNN đối với DVCC thì yêu cầu về tính chính xác,

kịp thời, đầy đủ, công khai, hiệu quả,… là những yêu cầu cơ bản nhất cần

phải được hoàn thiện hiện nay.

Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống thông tin trong quản lý thì việc ứng

dụng các thành tựu khoa học, công nghệ trong QLNN đối với DVCC đóng vai

trò quan trọng. Việc QLNN đối với DVCC cũng giống như QLNN đối với xã

hội nói chung đòi hỏi phải nhanh chóng đưa vào sử dụng các thành tựu của

khoa học, công nghệ. Chỉ có đưa các thành tựu của khoa học, công nghệ vào

QLNN đối với DVCC mới có thể tạo ra chất lượng, số lượng hàng hóa dịch

vụ công cao và với chi phí hợp lý nhất,…Đồng thời việc sử dụng các thành

tựu khoa học, công nghệ còn giúp cho các hoạt động QLNN đối với DVCC

trở lên công khai và minh bạch hơn.

Chính vì lẽ đó mà không ngừng tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, lắp

đặt các trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin tại các đơn vị, phòng ban

cung ứng DVCC là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. Việc bố trí cơ sở vật chất

đầy đủ, hiện đại và ứng dụng công nghệ thông tin có tác dụng rất lớn trong

việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc. Nó giúp cho cán

bộ công chức rút ngắn được thời gian lao động, tiết kiệm công sức, tạo thuận

lợi cho việc xử lý, tổng hợp, theo dõi hồ sơ của công dân, tổ chức. Trụ sở làm

việc rộng rãi, thoáng mát, có nơi tiếp đón người dân đàng hoàng, lịch sự còn

thể hiện ý thức tôn trọng nhân dân, đồng thời mối quan hệ giao tiếp giữa

người dân và đội ngũ CBCCVC cũng trở nên gần gũi, thân thiện hơn trong

công việc.

Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh Xiêng Khoảng cần phải đẩy mạnh hơn

nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai phần mềm trong việc vận

hành, cung ứng các loại hình DVCC để đáp ứng yêu cầu của người dân và các

86

tổ chức. Xây dựng hệ thống thông tin mạng, liên kết giữa các bộ phận trong

toàn tỉnh, thiết lập quy trình giải quyết hồ sơ trực tuyến, thiết lập đường dây

nóng để giải quyết các thắc mắc và yêu cầu của người dân. Điều này sẽ giúp

quy trình tiếp nhận và giải quyết hồ sơ được thực hiện một cách thông suốt,

nhanh chóng, chính xác. Đồng thời nó còn giúp cho các cơ quan chuyên môn,

các cán bộ, công chức, viên chức có thể dễ dàng tiếp cận và quản lý, theo dõi

tình hình cung ứng và sử dụng DVCC được thuận lợi, nhanh chóng hơn.

Việc đầu tư ứng dụng CNTT đòi hỏi kinh phí lớn nên cần tham khảo,

học tập và rút kinh nghiệm của các địa phương đã thực hiện tốt nội dung này.

Đồng thời, cũng cần có lộ trình, kế hoạch thực hiện cụ thể và phù hợp với

điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ chuyên môn, trình độ CNTT của đội ngũ

CBCC trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, cũng cần có kế hoạch và có sự ưu tiên thực

hiện, ưu tiên đầu tư đối với những ngành, những huyện, những nơi mang tính

trọng điểm và cần được ưu tiên trong phát triển, làm điển hình cho các đơn vị

khác noi theo.

3.2.7. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động

cung ứng dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh

Về công tác thanh tra, tư pháp và xây dựng chính quyền, tăng cường

công tác QLNN; nắm chắc tình hình, báo cáo kịp thời những vụ việc mới phát

sinh tại cơ sở có khả năng khiếu kiện. Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các

ngành, các đơn vị của huyện và tỉnh trong công tác khiếu nại, tố cáo. Đây

cũng là một trong những giải pháp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng

công tác QLNN đối với DVCC. Các cơ quan cấp trên và bản thân lãnh đạo

mỗi đơn vị cần đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra, đôn đốc việc triển

khai thực hiện việc cung ứng các dịch vụ công. Phối hợp với Mặt trận, các

đoàn thể và UBND các cấp tăng cường giám sát việc giải quyết các thủ tục

hành chính ở các đơn vị. Qua kiểm tra có thể phát hiện và kịp thời giải quyết

87

những khó khăn, thiếu sót về quy trình, hình thức công khai, trình độ tác

nghiệp - xử lý hồ sơ của cán bộ, công chức tại các đơn vị cơ sở, đồng thời xử

lý nghiêm các hành vi sai phạm của CBCC.

Tiếp tục tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Chú ý nâng cao

trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân; CBCC tạo điều kiện tốt nhất cho

doanh nghiệp và người dân trong thủ tục hành chính. Chuẩn hóa các nội quy,

quy chế, quy trình. Triển khai thực hiện cơ chế phản hồi của nhân dân với

chính quyền cơ sở thông qua các hình thức như: hòm thư góp ý, phiếu góp ý,

đường dây nóng,… để nhân dân có điều kiện phản ánh những bức xúc, kiến

nghị đối với CBCC trong các hoạt động cung ứng DVCC mà họ thực hiện.

Hàng năm, các đơn vị cần tiến hành đánh giá kết quả hoạt động của các đơn

vị thực hiện chức năng QLNN đối với các DVCC trên địa bàn tỉnh. Việc đánh

giá kết quả này phải căn cứ trên những tiêu chí nhất định, vì vậy cần phải xây

dựng các căn cứ khách quan và khoa học. Thông qua đánh giá đúng mức kết

quả hoạt động của từng đơn vị, cá nhân chúng ta có thể xác định rõ mặt mạnh,

mặt yếu, từ đó đề ra các biện pháp phát huy thế mạnh và khắc phục các tồn tại

hiện có, giúp cho các cấp chính quyền địa phương không ngừng hoàn thiện và

nâng cao chất lượng cơ chế cung ứng DVCC.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Chương 3 luận văn đã trình bày các quan điểm và định hướng chỉ đạo

của Đảng và Nhà nước Lào trong QLNN đối với DVCC. Đồng thời, cũng đưa

ra những giải pháp mang tính định hướng đối với công tác QLNN đối với

DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng. Trong các giải pháp nêu trên, đặc biệt

lưu ý tới giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thực thi

nhiệm vụ, việc lựa chọn cán bộ, công chức có năng lực, trình độ và đạo đức là

một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi đối với QLNN. Từ đó,

không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn, trình độ,

88

uốn nắn về đạo đức công vụ,… Đây sẽ là động lực lớn cho sự phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh, nâng cao chất lượng hoạt động công vụ, nâng cao chất

lượng cung ứng dịch vụ và quản lý tốt dịch vụ công công. Cũng từ đó mà chất

lượng cuộc sống của người dân được nâng cao.

89

KẾT LUẬN

Để tăng cương công tác QLNN đối với DVC nói chung và với DVCC

nói riêng chúng ta cần có hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ, với những

bước đi thích hợp. Trên cơ sở những định hướng của Đảng, Nhà nước Lào và

các mục tiêu cụ thể của tỉnh Xiêng Khoảng, nhằm nâng cao chất lượng của

các loại hình DVCC trên địa bàn, nâng cao mức thụ hưởng của người dân cần

lựa chọn những giải pháp phù hợp, sát với tình hình thực tế tại địa phương

nhằm phát huy những thế mạnh và hạn chế những yếu kém để không ngừng

nâng cao công tác QLNN đối với DVCC được tốt hơn. Muốn làm được điều

này, trước hết cần thay đổi, nâng cao nhận thức của lãnh đạo, đội ngũ CBCC

trực tiếp thực thi công vụ, trực tiếp cung ứng dịch vụ công cộng chuyển từ tư

duy quản lý sang tư duy phục vụ. Từ việc nhận thức đúng, sẽ là cơ sở để có

những hành động đúng. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, ứng

dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ,…đó sẽ

là những giải pháp cơ bản nhất đưa kinh tế - xã hội của địa phương phát triển.

Như vậy, trên cơ sở thực trạng công tác QLNN đối với DVCC ở tỉnh Xiêng

Khoảng mà đề ra những giải pháp hợp lý góp phần xây dựng địa phương, xây

dựng tỉnh trở thành tỉnh đi dầu trong công tác cung cấp các loại hình dịch vụ

công cộng, góp phần xã hội hóa các loại hình dịch vụ này ở mức độ nhanh và

hiệu quả, bền vững.

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I/ Tài liệu tiếng Lào:

1. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ IV, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.

2. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng

Chăn.

3. Quốc hội (2003), Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm năm

1991 sửa đổi, bổ sung năm 2003.

4. Quốc hội (2003), Luật Quốc hội của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

5. Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND) năm 2003;

6. Quốc hội (2015), Luật Cán bộ, công chức.

7. Quy định của Bộ trưởng Nội vụ, số 119/TTg, ngày 8/3/2012 về bộ máy tổ

chức và hoạt động của Vụ Hành chính địa phương.

8. Sổ tay phân tích và phát triển bộ máy tổ chức, xuất bản do Cơ quan Hành

chính và Quản lý công chức, viên chức, năm 2009.

9. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, số 010/BCT, ngày

20/6/1981 về việc cải cách bộ máy tổ chức và sửa đổi quy định phương tức

làm việc của đảng trong thời kỳ mới.

10. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, số 07/BCT, ngày

9/8/2013 về việc chuẩn bị và tiến hành đại hội X của Đảng Nhân dân Cách

mạng Lào.

11. Từ điển tiếng Lào, số biên soạn và in ấn bởi Viện Khoa học và Xã hội

Quốc gia năm 2012.

12. Văn kiện Đại hội đảng lần thứ VI của Đảng, Nhà xuất bản nhà nước, năm

1996.

91

13. Văn kiện Đại hội đảng lần thứ IX của Đảng, Nhà xuất bản nhà nước, năm

2011.

14. Chỉ thị số 068/ BKTTW, của ban kiểm tra Trung ương đảng, về việc tổ

chức hoạt động thi lệnh số 09/ bộ chính trị Trung ương đảng

15. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Lào (2005 -

2010).

16. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Lào (2010-

2020).

17. Nghị quyết của bộ chính trị Trung ương Đảng số 09/NQBCTTW, ngày

17/02/2007.

18. Nghị quyết số 171-172 /TTCP ngày 11 tháng 11 năm 1993 của Thủ tướng

chính phủ về luật lệ cán bộ, công chức Lào.

19. Nghị quyết số 82/TTCP ngày 19 tháng 5 năm 2003 (sửa đổi năm 2003)

của thủ tướng chính phủ về luật lệ cán bộ, công chức Lào.

20. Tổng hợp, số liệu cán bộ, công chức hành chính tỉnh Xiêng Khoảng năm

(2010-2015).

21. Thống kê số lượng tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Xiêng

Khoảng tháng 6 năm 2010.

22. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm

2010

23. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm

2010

24. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm

2012.

25. Thống kê trình độ QLNN & lý luận chính trị của cán bộ, công chức tỉnh

Xiêng Khoảng năm 2009;

92

26. Tổng hợp 5 năm ( 2005- 2009) về trình độ, thâm niên công tác của cán bộ,

công chức tỉnh Xiêng Khoảng năm 2010.

27. Văn kiện Đại hộ IV của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1986), Nhà xuất

bản quốc gia, Viêng chăn;

28. Văn kiện đại hội V của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1991), Nhà xuất

bản quốc gia, Viêng Chăn;

29. Văn kiện đại hội VI của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1996), Nhà xuất

bản quốc gia, Viêng Chăn;

30. Văn kiện đại hội VII của Đảng nhân dân cách mạng Lào (2001), Nhà xuất

bản quốc gia, Viêng Chăn.

31. Văn kiện đại hội VIII của Đảng nhân dân cách mạnh Lào (2006), Nhà

xuất bản quốc gia, Viêng Chăn.

II/ Tài liệu tiếng Việt:

32. Lê Dân (2011), “Phương án đánh giá sự hài lòng về dịch vụ hành chính

công của công dân và tổ chức”, tạp chí Khoa học, công nghệ Đại học Đà

Nẵng số 3.

33. Giáo trình “Luật hành chính Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà

Nội, 2000, tr. 185

34. Giáo trình “Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân,

Hà Nội, 1997, tr. 262

35. Giáo trình “Quản lý hành chính nhà nước tập I”, Nxb. Giáo dục, Hà

Nội, 1994, tr. 391

36. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), “Giáo trình Hành chính công”,

Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.

37. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), “Kỹ năng và cách tiếp cận trong

việc cải tiến cung ứng dịch vụ công”, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

93

38. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), “Hành chính công – dùng cho

nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học”, Nxb. Khoa học và Kỹ

thuật, Hà Nội.

39. Phạm Ngọc Hà, Trần Việt Hoa, “Một số đề xuất triển khai thực hiện

đánh giá kết quả hoạt động cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay”.

40. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa (2010), “Tiêu chí đánh giá chất lượng

cung ứng dịch vụ hành chính công tại các cơ quan hành chính nhà

nước”, tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 3.

41. Nguyễn Ngọc Hiến (2001), “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính

ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Nguyễn Ngọc Hiến (2002),“Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch

vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp”, Nxb. Văn hoá-Thông tin.

43. TS. Nguyễn Khắc Hùng, TS. Lê Thị Vân Hạnh: “Cải tiến việc cung ứng

dịch vụ công trong tiến trình cải cách hành chính nước ta”, Kỷ yếu Hội

thảo “Dịch vụ công – nhận thức và thực tiễn”, Học viện Hành chính

Quốc gia, T9-2001.

44. Lê Chi Mai (2003), “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, tr. 12,13.

45. Lê Chi Mai (2006), “dịch vụ hành chính công”, Nxb. Lý luận Chính trị,

Hà Nội, tr. 49.

46. Đinh văn Mậu: “Bàn luận về thẩm quyền hành chính và dịch vụ công”,

Kỷ yếu hội thảo: “Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung ứng

dịch vụ công”, Học viện Hành chính Quốc gia, 2002.

47. Nguyễn Tuấn Minh, Nguyễn Thị Thanh Vân, “kinh nghiệm cải cách và

đo lường chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công của Hàn Quốc”.

94

48. Nghị quyết số 17/NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ năm Ban

chấp hành Trung ương khóa X: “về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Bộ máy nhà nước”.

49. Thang Văn Phúc (2001), “Cải cách hành chính nhà nước – Thực trạng,

nguyên nhân và giải pháp”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

50. Nguyễn Đình Phan (2010),“Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính

công ở Thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập”, Nxb. Đại học

Kinh tế Quốc dân.

51. Nguyễn Văn Thâm, Võ Kim Sơn (2002), “Thủ tục hành chính – Lý luận

và thực tiễn”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Chu Văn Thành (2004), “Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công một

số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Chu Văn Thành (2007), “Dịch vụ công – Đổi mới quản lý và tổ chức

cung ứng ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

54. Đoàn Trọng Truyến (chủ biên): “Hành chính học đại cương”, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 18.

55. Nguyễn Minh Tuấn (2002),“Bàn về dịch vụ hành chính công”, tạp chí

khoa học số tháng 4/2002.

56. Bùi Huy Khiên, Nguyễn Thị Vân Hương (2013), “Quản lý công”, Nxb

Chính trị Hành chính, Hà Nội.

95