BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
B O U N K E O M A N Y X A Y K H A M S O U K
BOUNKEOMANYXAY KHAMSOUK
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ CÔNG CỘNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
N Ư Ớ C C Ộ N G H Ò A D Â N C H Ủ N H Â N D Â N L À O
Q U Ả N L Ý N H À N Ư Ớ C V Ề D Ị C H V Ụ C Ô N G C Ộ N G T R Ê N Đ Ị A B À N T Ỉ N H X I Ê N G K H O Ả N G
H À N Ộ
HÀ NỘI, NĂM 2017
I
2 0 1 7
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là Luận văn của riêng tôi, do tôi thực hiện. Các
số liệu, thông tin đưa ra trong luận văn chính xác và trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Người viết luận văn
BounKeomanyxay KhamSouk
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu về khoa học hành chính ở Học
viện Hành chính Quốc gia, trong chương trình học Thạc sĩ với chuyên ngành
Quản lý công. Để hoàn thành Luận văn của mình, với tình cảm chân thành,
tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. NGUYỄN HOÀNG
HIỂN, người đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong thời gian qua, cảm ơn các
thầy giáo, cô giáo và cán bộ của Học viện Hành chính Quốc gia, Sở Nội vụ
tỉnh Xiêng Khoảng và đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành luận văn này./.
Người viết luận văn
BounKeomanyxay KhamSouk
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................. 5
6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu .................................................................... 6
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
DỊCH VỤ CÔNG CỘNG................................................................................ 8
1.1. Tổng quan về dịch vụ công cộng ............................................................... 8
1.1.1. Khái niệm dịch vụ công cộng ............................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ công cộng ...................................................... 10
1.1.3. Phân loại dịch vụ công cộng ............................................................. 13
1.1.4. Vai trò của dịch vụ công cộng .......................................................... 15
1.2. Quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng .......................................... 16
1.2.1. Khái niệm .......................................................................................... 16
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ........ 18
1.2.3. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng .................... 19
1.2.4. Nguyên tắc cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội ........................ 21
1.2.5. Các công cụ quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ............... 23
1.2.6. Nội dung quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng .................... 25
1.2.7. Bộ máy quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ...................... 28
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở một số tỉnh,
thành phố và bài học cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào ............................................................................................................ 29
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở Thành
phố Hồ Chí Minh, nước CHXHCN Việt Nam ............................................ 29
1.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở thủ đô
Viên Chăn, nước CHDCND Lào ................................................................ 31
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào
về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ......................................... 32
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 34
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH
VỤ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ............................................... 36
2.1. Khái quát chung về tỉnh Xiêng Khoảng ................................................... 36
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở tỉnh Xiêng
Khoảng, nước CHDCND Lào ......................................................................... 39
2.2.1. Bộ máy quản lý nhà nước của Xiêng Khoảng .................................. 39
2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy QLNN về DVCC chung ở tỉnh Xiêng Khoảng 41
2.2.2. Khía cạnh pháp lý của quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng của
Xiêng Khoảng ............................................................................................. 42
2.2.3. Đội ngũ cán bộ quản lý ..................................................................... 44
2.2.4. Các loại dịch vụ công cộng của Xiêng Khoảng ................................ 49
2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng của Xiêng Khoảng .... 58
2.3.1. Những thành công và nguyên nhân................................................... 58
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ............................................ 62
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 66
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO ....................................................................................................... 68
3.1 Phương hướng của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển dịch vụ công
cộng ................................................................................................................. 68
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ....... 72
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước đối
với các dịch vụ công cộng ........................................................................... 72
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý dịch vụ
công cộng .................................................................................................... 75
3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý về dịch vụ công cộng ............................................................. 76
3.2.4. Xã hội hóa dịch vụ công cộng trên các lĩnh vực ............................... 80
3.2.5. Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công cộng
..................................................................................................................... 83
3.2.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và tài chính cho các cơ quan có
chức năng quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng .................................... 85
3.2.7. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng
dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh ............................................................ 87
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước với vai trò là chủ thể của quản lý đối với toàn bộ các mặt của
đời sống xã hội trên phạm vi lãnh thổ. Như vậy, Nhà nước với tư cách là chủ
thể cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển của quốc gia và với đời sống của người dân. Các loại hình dịch vụ
công do các cơ quan hành chính nhà nước được trao quyền tiến hành thực
hiện để phục vụ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân và tổ chức. Xuất
phát từ yêu cầu và vai trò của Nhà nước, Nhà nước đã ban hành hệ thống thể
chế, các văn bản về quản lý nhà nước, về cải cách hành chính gắn với cung
cấp các dịch vụ công cho toàn xã hội. Trong các dịch vụ công đó thì dịch vụ
công cộng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là
các dịch vụ thiết yếu như văn hóa, giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường,… chất
lượng cung ứng dịch vụ này phụ thuộc rất nhiều vào hiệu lực, hiệu quả của
quản lý nhà nước.
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong những năm qua, dịch vụ công
cộng do nhà nước cung ứng cơ bản đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên,
hoạt động này còn tồn tại nhiều bất cập như các loại dịch vụ chưa thực sự
phong phú, chất lượng cung ứng chưa cao, công tác quản lý nhà nước còn
mang nặng tính áp đặt đơn phương,… do đó đã gây ra những khó khăn cho
người dân và tổ chức khi tiếp cận sử dụng dịch vụ. Bên cạnh đó, do thiếu các
chế tài, quy định trong quản lý nó cũng gây ra không ít khó khăn trong thực
thi công vụ của cán bộ, công chức nhà nước. Xuất phát từ thực tế đó, cần phải
có giải pháp phù hợp để tăng cường quản lý nhà nước đối với dịch vụ công
cộng cho xã hội trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường hướng tới
1
những giá trị thiết thực, đáp ứng tối đa những đòi hỏi của người dân trong
nước và hướng đến một nền hành chính phục vụ.
Tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có nhiều
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong những năm
qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh có nhiều biện pháp, các thức tổ chức nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như các loại hình dịch vụ công cộng cho
người dân và các tổ chức trên địa bàn tỉnh. Chương trình về cải cách hành
chính nhà nước được triển khai sâu rộng, tỉnh Xiêng Khoảng cũng là một
trong số các tỉnh có những thành tựu đáng kể về nâng cao chất lượng cung
ứng, quản lý dịch vụ công cộng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức không
ngừng nâng cao về chất lượng, trình độ, đẩy mạnh hoàn thiện các thủ tục
trong xây dựng và ban hành văn bản,… Kết quả chung được đánh giá là các
cơ quan hành chính trên địa bàn đã có bước chuyển đáng kể trong điều hành
và cung ứng dịch vụ công cộng, góp phần ổn định kinh tế, xã hội trên địa bàn,
nâng cao đời sống xã hội của người dân. Bên cạnh những kết quả đạt được,
vẫn còn tồn tại nhất định trong công tác quản lý nhà nước đối với cung cấp và
sử dụng dịch vụ công cộng, nhất là thể chế quản lý chưa đầy đủ, chưa đồng
bộ; chất lượng quản lý, cung ứng dịch vụ công cộng của các đơn vị chưa đảm
bảo; thái độ, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu kém…,
điều này làm cho người dân chưa hài lòng, than phiền.
Như vậy, để góp phần nâng tăng cường quản lý nhà nước về cung ứng
dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh, em quyết định lựa chọn đề tài: “Quản lý
nhà nước về dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, làm đề tài tốt nghiệp cho mình, nhằm xây
dựng một số giải pháp tích cực phục vụ công tác quản lý nhà nước cũng như
nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng
Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời gian tới.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động cung ứng dịch vụ công,
dịch vụ công cộng cũng như về quản lý nhà nước đối với loại hình dịch vụ
này ở nhiều góc độ khác nhau.
- Sách “Dịch vụ công cộng và khu vực quốc doanh” của Elie Cohen,
Claude Henry và Francois Morin, Paul Champsaur (2000), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia đã trình bày về cơ sở và các bước phát triển về dịch vụ
công cộng ở Pháp và Liên minh châu Âu, trong đó chỉ rõ sự thay đổi của dịch
vụ công cả về phạm vi, cách thức cung cấp từ những năm sau Chiến tranh thế
giới lần thứ hai đến năm 2000.
- Sách “Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - Nhận
thức, thực trạng và giải pháp” của TS. Nguyễn Ngọc Hiến (2002), Nhà xuất
bản Văn hoá - Thông tin đã tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về vai trò
của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công, các mô hình cung ứng dịch vụ
công, thực trạng và giải pháp.
- Sách “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam” của PGS.TS Lê Chi Mai
(2003), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã nghiên cứu khá toàn diện về dịch
vụ công dưới các góc độ kinh tế, quản lý. Tác giả đã có sự so sánh giữa dịch
vụ công cộng, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ hành chính công để từ đó
đưa ra những đặc trưng riêng của từng nhóm dịch vụ công. Tác giả cũng đánh
giá thực trạng cung cấp dịch vụ hành chính công vào thời điểm bấy giờ, về
những thành tựu đã đạt được.
- Sách “Dịch vụ công – Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt
Nam hiện nay” của TS. Chu Văn Thành (2007), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Ngoài những nội dung có tính chất lý luận về dịch vụ công thì tác giả
tập trung nghiên cứu về cung ứng dịch vụ và quản lý dịch vụ công dưới góc
nhìn đổi mới của cải cách hành chính. Trong cuốn sách này tác giả trình bày
3
có hệ thống về các vấn đề có liên quan đến dịch vụ công, dịch vụ công cộng,
dịch vụ hành chính công, mô hình cung cấp theo phương thức Quận hội hóa,
mô hình quản lý dịch vụ khi vừa có sự tham gia của cơ quan nhà nước, sự
tham gia của cá nhân, tổ chức vào cung cấp dịch vụ.
- Sách“Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công ở Thành phố Hà
Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập” của GS.TS Nguyễn Đình Phan (2010), Nxb
Đại học Kinh tế Quốc dân đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về dịch
vụ công, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính, làm rõ về tổ chức thực hiện
các dịch vụ hành chính công trong điều kiện thực tiễn của Hà Nội, bao gồm
hoạt động của một số cơ quan hành chính cấp quận, phường trong giải quyết
yêu cầu của nhân dân trên địa bàn.
Nhìn chung các công trình nghiên đều tập trung làm rõ những nội dung,
bản chất của dịch vụ công, dịch vụ công cộng và đưa ra cơ sở xác định nội
dung, tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ. Các tác giả cũng chỉ ra các
phương hướng và giải pháp nhất nhằm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ.
Tuy nhiên, các công trình chưa nghiên cứu cụ thể về tình hình, thực trạng
công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh nói
riêng, đặc biệt là ở một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển như ở tỉnh Xiêng
Khoảng. Chính vì vậy, Luận văn hy vọng sẽ làm rõ những khái niệm cơ bản
và các giải pháp thiết thực đóng góp cho công tác quản lý nhà nước đối với
dịch vụ công cộng ở tỉnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận quản lý nhà nước về dịch vụ
công cộng; đánh giá sâu sắc, toàn diện thực trạng quản lý nhà nước trong việc
cung ứng dịch vụ công cộng ở tỉnh Xiêng Khoảng; trên cơ sở đó, học viên
4
nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với
dịch vụ công cộng ở Xiêng Khoảng trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về dịch vụ công cộng và vấn đề quản lý nhà
nước đối với dịch vụ công cộng; Nghiên cứu lý luận chung về quản lý nhà
nước đối với dịch vụ công cộng;
- Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý dịch vụ công ở một số quốc gia để
có thể rút được những bài học kinh nghiệm cho tỉnh Xiêng Khoảng;
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với dịch
vụ công cộng của tỉnh Xiêng Khoảng.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với
dịch vụ công cộng của tỉnh Xiêng Khoảng trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
đối với dịch vụ công cộng thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Xiêng Khoảng, nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đồng thời, nghiên cứu thực tế tiếp cận và sử
dụng dịch vụ công cộng của cá nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước đối với dịch vụ
công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào
Về thời gian: Nghiên cứu tình hình quản lý nhà nước đối với dịch vụ
công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Dựa trên cơ sở thế giới quan của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để xem xét vấn đề. Bên
5
cạnh đó, luận văn căn cứ vào đường lối chủ trương của Đảng nhân dân cách
mạng Lào, chính sách, pháp luật của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và
sự chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh Xiêng Khoảng để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
mà luận văn đề ra.
- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các tài liệu, số liệu
được thu thập, xử lý thông tin để từ đó tạo ra cơ sở khoa học, mang tính
thuyết phục trong quá trình thực hiện đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này nhằm tham khảo ý kiến
của các chuyên gia nghiên cứu, các nhà quản lý hành chính có kinh nghiệm
thực tiễn cao trong lĩnh vực quản lý cung ứng dịch vụ công cộng.
- Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp khác như phương
pháp thống kê, khảo sát thực tế, so sánh,....
6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Luận văn đóng góp hoàn thiện thêm cơ sở lý luận về
hoạt động quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công cộng nói chung và quản
lý nhà nước của UBND tỉnh đối với dịch vụ công cộng ở nước nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn cung cấp một số vấn đề về thực trạng
công tác quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng cho cán bộ, công chức của
tỉnh để từng bước đổi mới cách thức điều hành, quản lý và cung ứng dịch vụ
nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công cộng của tỉnh
Xiêng Khoảng.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được cấu trúc thành 3 chương:
6
- Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công
cộng
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng trên
địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG CỘNG
1.1. Tổng quan về dịch vụ công cộng
1.1.1. Khái niệm dịch vụ công cộng
Dịch vụ công công trong tiếng Việt thường được gọi là dịch vụ công.
Theo từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những
nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công. Như vậy: Dịch
vụ chính là sản phẩm hàng hóa giữa một bên cung ứng và một bên thụ hưởng
thông qua các hoạt động nhất định và có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
các bên.
Từ quan niệm về dịch vụ như trên, tác giả cho rằng:“Dịch vụ công
chính là dịch vụ do Nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm
cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng
xã hội, phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
các tổ chức và công dân”.
Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về dịch vụ công cộng.
Mỗi cách tiếp cận khác nhau sẽ có những cách hiểu khác nhau. Ở một số quốc
gia phát triển, tốc độ đô thị hóa cao, khi tiếp cận khái niệm dịch vụ công cộng
các nhà quản lý đô thị có định nghĩa về dịch vụ công cộng như sau: Dịch vụ
công cộng là từ thường được dùng để chỉ các dịch vụ mà chính phủ cung ứng
cho các công dân của mình, có thể là trực tiếp thông qua khu vực công hay là
cấp tài chính cho khu vực tư nhân cung ứng. Vấn đề này kết hợp với một sự
đồng thuận xã hội rằng một số dịch vụ trong đó phải đến được với tất cả mọi
người, bất kể thu nhập bao nhiêu. Cho dù DVCC không phải do chính phủ
cung ứng hay cấp tài chính đi nữa những các lý do xã hội và chính trị mà
8
chúng vẫn có khuôn khổ pháp lý khác với phần lớn các ngành kinh tế khác,…
và chúng có thể gắn liền với quyền cơ bản của con người, chẳng hạn như
quyền được cung cấp nước sạch, ánh sáng,…
Trong khi đó ở các nước đang phát triển như ở Lào và Việt Nam thì khi
nghiên cứu về DVCC, trong sách “Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Chu Văn Thành chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2004) định nghĩa là: “Những hoạt động của các tổ
chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà
nước ủy quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực
tiếp những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không
vụ lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội”, và cho rằng: Dịch vụ công
bao gồm dịch vụ sự nghiệp công (hoặc phúc lợi xã hội), dịch vụ công ích và
dịch vụ hành chính công, đồng thời nhấn mạnh là không được lẫn lộn với hoạt
động công vụ (civil services) là hoạt động hàng ngày của bộ máy công quyền.
Như vậy, với cách hiểu trên thì chúng ta thấy dịch vụ công cộng
chính là một bộ phận nằm trong dịch vụ công.
Dịch vụ công cộng là loại dịch vụ phục vụ các nhu cầu, lợi ích chung,
thiết yếu của đa số hay của cả cộng đồng. Có thể hiểu cụ thể hơn về dịch vụ
công công, đó là các dịnh vụ có thu phí nhằm đáp ứng các nhu cầu bức thiết
của công dân mang tính phi lợi nhuận do các cơ sở thực hiện theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước (thông qua hợp đồng hoặc nhiệm vụ phân giao) như: Cung
cấp nước sinh hoạt; thoát nước; vệ sinh môi trường (thu gom rác thái); cây
xanh đô thị; hệ thống chiếu sáng; giao thông vận tải công cộng; tài chính;
ngân hàng; kho bạc nhà nước; bảo hiểm (y tế, xã hội v.v..); nhà ở theo chính
sách xã hội v.v...
Ở một khía cạnh khác các DVCC lại có thể hiểu là dịch vụ xã hội và
dịch vụ kinh tế - kỹ thuật. Dịch vụ xã hội liên quan đến những nhu cầu và
9
quyền lợi cơ bản đối với sự phát triển con người về thể lực và trí lực như y tế,
giáo dục, văn hóa, thông tin, thể thao... ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, cũng như ở Việt Nam, các dịch vụ này thường được gọi là hoạt động sự
nghiệp.
Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật là loại dịch vụ gắn với các nhu cầu vật chất
phục vụ lợi ích chung của xã hội, bao gồm cung ứng điện, nước, giao thông
vận tải, vệ sinh mội trường, thủy lợi, xây dựng đường sá, giao thông, cầu
cống, trường, trạm,... Ở Lào các dịch vụ này do các doanh nghiệp công ích
cung ứng và còn gọi “là dịch vụ công ích”.
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ công cộng
Khi đề cấp tới đặc điểm của dịch vụ công cộng, ta nhận thấy loại hình
này có đầy đủ các đặc điểm của loại hình dịch vụ công, bên cạnh đó, nó cũng
có những điểm đặc thù, riêng biệt:
Thứ nhất, dịch vụ công cộng phục vụ trực tiếp cho nhu cầu, lợi ích cơ
bản, thiết yếu của xã hội. Một cá nhân, một cộng đồng, một tổ chức có thể
hưởng lợi ích do dịch vụ công cộng đem lại, nhưng nhà nước chỉ thực hiện
cung ứng dịch vụ công cộng khi có nhu cầu của toàn xã hội. Tức là khi phát
sinh nhu cầu, nhất là nhu cầu của số đông trong xã hội, khi đó Nhà nước sẽ là
đơn vị cung ứng, đáp ứng các nhu cầu, thoả mãn yêu cầu của nhân dân và tổ
chức.
Thứ hai, dịch vụ công cộng là hàng hóa, dịch vụ do nhà nước chịu
trách nhiệm tổ chức cung ứng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
các tổ chức được ủy quyền. Điều này cho thấy rằng các loại hình dịch vụ do
nhà nước cung ứng đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân và tổ chức
trong xã hội. Dù muốn hay không thì nhà nước vẫn cung cấp bởi đó là chức
năng của nhà nước nhằm quản lý toàn xã hội, cung ứng những gì mà xã hội
cần.
10
Thứ ba, dịch vụ công cộng được cung ứng trước hết là vì nghĩa vụ của
Nhà nước và vì quyền lợi lợi được thụ hưởng của người dân. Bên cạnh đó,
dịch vụ công cộng cũng mang lại những giá trị lợi nhuận nhất định cho đơn vị
cung ứng và cho toàn xã hội. Tuy nhiên, về cơ bản thì các dịch vụ này cũng
giống như dịch vụ công, là không vì mục tiêu lợi nhuận, việc cung cấp DVCC
không hoàn toàn diễn ra theo quan hệ của thị trường; mà hoạt động cung ứng
mang tính chất phục vụ. Thông thường, người sử dụng dịch vụ công cộng
không trực tiếp trả tiền, hay nói đúng hơn là đã trả tiền dưới hình thức đóng
thuế vào ngân sách nhà nước. Cũng có những dịch vụ mà người sử dụng vẫn
phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí. Tuy nhiên, nhà nước vẫn phải có
trách nhiệm bảo đảm cung ứng các dịch vụ này không nhằm vào mục tiêu lợi
nhuận. Nghĩa là các dịch vụ công cộng được cung ứng ra là cam kết của nhà
nước đối với xã hội nhằm đảm bảo cho xã hội vận hành theo khuôn khổ nhất
định.
Thứ tư, cũng giống như dịch vụ công, dịch vụ công cộng không phân
biệt đối tượng được thụ hưởng, điều đó cho thấy tính chất rộng lớn, hướng
đến toàn thể các đối tượng trong xã hội (dịch vụ công cộng mang tính xã hội).
Mọi người dân đều có quyền bình đẳng trong việc tiếp nhận và sử dụng các
dịch vụ công cộng do Nhà nước cung ứng. Nhà nước cam kết cung ứng các
loại hình dịch vụ công cộng cho xã hội dựa trên cơ sở những nhu cầu trong xã
hội, mục tiêu hướng đến là toàn thể người dân, tổ chức có nhu cầu trên
nguyên tắc công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối tượng thụ hưởng dịch
vụ.
Thứ năm, Nhà nước quản lý và bảo đảm tính công bằng, tính hiệu quả
trong cung ứng DVCC nhằm đáp ứng nhu cầu của dân. Đây cũng chính là
đặc trưng cơ bản của việc cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội của Nhà
nước. Nhà nước với tư cách là đơn vị quản lý chung tất cả các lĩnh vực của
11
đời sống xã hội trên địa bàn lãnh thổ nhất định. Và để quản lý có hiệu quả các
lĩnh vực đó thì nhà nước phải cam kết với xã hội rằng các dịch vụ mà mình
cung ứng đều là những dịch vụ tốt nhất, đáp ứng nhu cầu cơ bản của toàn xã
hội và tất cả đều công bằng trong việc thụ hưởng các dịch vụ đó. Nhà nước
đảm bảo sự công bằng và hiệu quả thông qua bộ máy nhà nước và hệ thống
văn bản pháp luật quy định.
Căn cứ vào khái niệm và đặc điểm trên của DVCC, có thể thấy các hoạt
động quản lý và cung ứng DVCC của các cơ quan HCNN ở Lào hiện nay bao
gồm các loại hình cơ bản như sau: hoạt động lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế,
thể dục, thể thao, nước sạch và vệ sinh môi trường, giao thông công cộng, hệ
thống chiếu sáng đô thị, phát triển nông thôn,…. Đều được chú trọng và đầu
tư phát triển.
Như vậy, qua các đặc điểm kể trên, chúng ta nhận thấy DVCC có thể
được cung cấp bởi cả các tổ chức thuộc khu vực công và khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, dù các dịch vụ công cộng đó được cung ứng bởi chủ thể nào thì
Nhà nước vẫn phải đứng ra chịu trách nhiệm về chất lượng của các dịch vụ
công cộng được cung úng. Chẳng hạn, mặc dù các bậc phụ huynh cho con cái
học ở trường tư thục, nhưng khi chất lượng giảng dạy của trường không đảm
bảo, phụ huynh có quyền đòi hỏi Nhà nước phải chịu trách nhiệm vì đã cấp
phép cho trường hoạt động mà không kiểm soát được hoạt động giảng dạy
thực tế của trường học đó. Đối với các loại DVCC khác đã được chuyển giao
cho tư nhân, vấn đề trách nhiệm của Nhà nước cũng được xác định trên cơ sở
lập luận tương tự, đó chính là việc cấp phép và cho phép các đơn vị tư nhân
không đủ năng lực cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội. Chính vì vậy, vấn
đề quản lý nhà nước đối với các DVCC càng đặt ra những vấn đề cần giải
quyết.
12
1.1.3. Phân loại dịch vụ công cộng
Ở các quốc gia khác nhau có nhiều cách phân loại DVCC khác nhau.
Việc phân loại các loại hình dịch vụ này tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm
của từng loại hình dịch vụ. Ở các nước phát triển, các loại hình dịch vụ phát
triển ở mức độ chuyên nghiệp hóa cao, các lĩnh vực được cụ thể và khá chi
tiết. Trong những loài hình dịch vụ cụ thể lại có nhiều dịch vụ đi kèm để
mang lại sự hài lòng cho người sử dụng. Chẳng hạn như dịch vụ bưu chính,
viễn thông thì tách nhỏ ra thành các dịch vụ chuyển phát, dịch vụ viễn thông,
truyền thanh, truyền hình,… dịch vụ nước sạch và vệ sinh môi trường có dịch
vụ quản lý rác thải, dịch vụ cấp, thoát nước,… dịch vụ vận tải có giao thông
công cộng, vận tải tư nhân, hệ thống chiếu sáng,… Tuy nhiên, sự phân loại
này chỉ mang tính chất tương đối. Trong những năm qua ở nước CHDCND
Lào cũng như ở Việt Nam và một số nước đang phát triển khác thì cách phân
loại này về cơ bản cũng giống như các nước trên thế giới, mặc dù vậy, nó vẫn
có những điểm khác biệt và sự phân loại này vẫn đang ở trong giai đoạn đầu
của sự chuyên nghiệp, chuyên môn hóa chưa cao. Về cơ bản DVCC được
chia ra thành hai nhóm chính:
Thứ nhất, nhóm dịch vụ xã hội là các loại hình dịch vụ phục vụ lợi ích
công cộng tập trung ở các lĩnh vực như giáo dục, văn hóa, y tế, thể thao,
truyền thanh, truyền hình, viễn thông, nhà ở xã hội,… các loại hình dịch vụ
này đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển chung của toàn xã hội. Hiện
nay, các tổ chức tư nhân, các đơn vị ngoài nhà nước tham gia khá nhiều trong
các lĩnh vực kể trên, bởi chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công mà nhà nước
đưa ra trong thời gian qua. Sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình này góp
phần làm phong phú, đa dạng các hình thức, tổ chức cung ứng dịch vụ công.
Qua đó, có sự cạnh tranh mạnh mẽ, góp phần nâng cao chất lượng cung ứng
các loại hình dịch vụ trong thời gian qua. Đối với các loại hình này, vài trò
13
quản lý của Nhà nước ngày càng được thể hiện ở sự uốn nắn và định hướng
các hoạt động trên bằng các tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể đối với từng loại
hình, giảm tải gánh nặng cho các đơn vị sự nghiệp công.
Thứ hai, nhóm dịch vụ công ích là các hoạt động phục vụ lợi ích chung,
thiết yếu của cộng đồng đa phần là về lợi ích vật chất, đa phần là có tính chất
kinh tế hàng hóa do các doanh nghiệp công ích thực hiện theo yêu cầu của
Nhà nước, không nhằm mục tiêu lợi nhuận để phục vụ nhân dân như cung cấp
điện, nước, kết cấu hạ tầng, vệ sinh môi trường, vận tải công cộng, hệ thống
chiếu sáng, phòng cháy,… Các loại hình dịch vụ này là những loại hình dịch
vụ thiết yếu và cơ bản đảm bảo duy trì cuộc sống của người dân và của toàn
xã hội. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, nhu cầu hưởng thụ của người
dân được đáp ứng nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cung ứng
các loại hình dịch vụ công ích này. Chính vì lẽ đó, mà Nhà nước với vai trò là
người quản lý chung toàn bộ xã hội, để thúc đẩy xã hội phát triển, đáp ứng
nhu cầu của nhân dân thì vấn đề quản lý, định hướng hoạt động này trở thành
yêu cầu cấp thiết.
Sơ đồ 1.1: Phân loại dịch vụ công cộng
DỊCH VỤ CÔNG CỘNG
Trường học, bệnh viện, thể thao,
Cung cấp điện, nước sạch sinh hoạt, vệ
truyền thanh, truyền hình, thư viện,
sinh môi trường, giao thông vận tải, hệ
viễn thông,…
thống chiếu sáng, phòng cháy,,..
DỊCH VỤ XÃ HỘI DỊCH VỤ CÔNG ÍCH
(Nguồn: PGS.TS Lê Chi Mai “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam” năm 2003)
14
1.1.4. Vai trò của dịch vụ công cộng
Đối với người dân, cảm thụ tính ưu việt của xã hội chính là thông qua
những gì họ được thụ hưởng từ dịch vụ công cộng mang lại. Nền kinh tế xã
hội của một quốc gia càng phát triển thì nhu cầu đối với dịch vụ công cộng
ngày càng cao và đòi hỏi Nhà nước cần phải chú trọng nhiều hơn nhằm tạo ra
sự công bằng, ổn định và phát triển xã hội một cách bền vững. Xuất phát từ
nhu cầu thực tế đó, mà vai trò của dịch vụ công cộng ngày càng được thể hiện
rõ rệt hơn. Về nguyên tắc, Nhà nước phải chịu trách nhiệm cao nhất và cuối
cùng đối với việc cung ứng kịp thời, đầy đủ, đảm bảo chất lượng, có hiệu quả
các loại dịch vụ công cho người dân và xã hội. Do đó, có thể thấy vai trò của
DVCC trên một số khía cạnh sau :
Thứ nhất, dịch vụ công cộng ra đời để đáp ứng các nhu cầu của xã hội,
của người dân. Đây là những dịch vụ công do nhà nước cung ứng hoặc ủy
quyền cho đơn vị ngoài nhà nước cung ứng và có sự quản lý chặt chẽ của nhà
nước. Với vai trò của mình đối với xã hội, Nhà nước có trách nhiệm cung ứng
đầy đủ tất cả các loại hình dịch vụ và không ngừng nâng cao chất lượng dịch
vụ đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Chính vì vậy, có thể thấy rằng DVCC có
vai trò to lớn tỏng việc đảm bảo cho các hoạt động của người dân trên tất cả
các lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, vệ sinh môi
trường, nước sạch,…
Thứ hai, các loại hình DVCC phát triển sẽ mang lại sự thuận tiện,
nhanh chóng và bảo đảm cho người dân, tổ chức trong việc thụ hưởng dịch
vụ. Chúng ta đang sống trong xã hội có sự phát triển nhanh chóng và mạnh
mẽ của khoa hoc, công nghệ. Sự giao lưu hợp tác giữa các quốc gia trở nên
đơn giản và dễ dàng hơn nhờ công nghệ thông tin, hệ thống giao thông vận tải
đường bộ, đường thủy, đường hàng không,… tất cả những ưu thế đó đã tạo
nên một thế giới phẳng, thế giới đa sắc mầu và phát triển. Các loại hình dịch
15
vụ công cộng phát triển mạnh mẽ, không chỉ Nhà nước cung ứng, mà một số
tổ chức tư nhân được Nhà nước ủy quyền cung ứng cũng đang hoạt động và
mang lại kết quả khả quan.
Thứ ba, dịch vụ công cộng mang tính linh hoạt, nhanh nhạy do đó nó
thuận lợi trong việc đổi phương thức và cách tiếp cận sử dụng được dễ dàng,
phù hợp với sự thay đổi của xã hội ở những giai đoạn khác nhau. Các loại
hình dịch vụ phong phú và đa dạng, cho nên khi tiếp cận và sử dụng thì đặc
tính này đóng vai trò quan trọng đối với người sử dụng DVCC.
Thứ tư, vai trò của DVCC còn được thể hiện ở tính cộng đồng của nó.
Điều đó cho thấy khi sử dụng các loại hình dịch vụ công cộng thì các cá nhân,
công dân, tổ chức có sự gắn kết lại, tạo thành mối liên hệ trong tiếp cận và thụ
hưởng dịch vụ. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, … điều này được thể hiện rõ
nét, vì dụ: Các dịch vụ y tế là hướng tới toàn thể người dân, nhằm nâng cao
chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân, cho cộng đồng và toàn xã hội.
Thứ năm, DVCC có vai trò nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Đây là những dịch vụ hướng tới số đông, toàn thể mọi người trong xã
hội, đáp ứng những nhu cầu cấp thiết, thiết yếu của người dân như sủ dụng
nước sạch, vệ sinh môi trường, hệ thống đèn điện chiếu sáng, giáo dục, y
tế,… chính vì vậy mà DVCC có vai trò rất lớn đối với xã hội.
1.2. Quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
1.2.1. Khái niệm
DVCC là dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng về chất
lượng, số lượng và loại hình. Việc làm rõ những nội dung cụ thể của trách
nhiệm quản lý Nhà nước đối với DVCC là rất cần thiết, giúp cho việc cung
ứng DVCC có hiệu quả, đặc biệt là khi Nhà nước đang trong quá trình chuyển
đổi về chức năng, nhiệm vụ và huy động sự tham gia của các chủ thể trong xã
16
hội đối với những công việc của Nhà nước nói chung và việc cung ứng
DVCC nói riêng.
Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính
cho rằng dịch vụ công cộng là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong
việc thực thi chức năng quản lý nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa
công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn
mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp
hàng hóa, dịch vụ công cộng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng
đồng.
Theo cách tiếp cận này có thể hiểu quản lý nhà nước về dịch vụ công
cộng là sự tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước đến các
chủ thể cung cấp và đối tượng thụ hưởng dịch vụ công trong xã hội.
Trong đó chủ thể quản lý là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có
chức năng sử dụng quyền lực và các công cụ vĩ mô để quản lý. Đối tượng
quản lý là các tổ chức, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công
cộng, bao gồm cơ quan nhà nước và các tổ chức được nhà nước ủy quyền hay
tham gia cung cấp dịch vụ theo chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công cộng,
cùng với các đối tượng thụ hưởng gồm các tổ chức và công dân trong xã hội.
Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò, chức năng của nhà nước và đặc điểm
của dịch vụ công cộng, trên cơ sở kết quả của việc nghiên cứu về khoa học tổ
chức và quản lý, tác giả cho rằng: Quản lý nhà nước đổi vói dịch vụ công
cộng là sự tác động có tổ chức và bằng quyền lực của bộ máy nhà nước lên
đối tượng bị quản lý (các cơ quan chức năng quản lý cung cấp DVCC được
uỷ quyền và công dân sử dụng DVCC) trong việc đảm bảo các dịch vụ công
cộng cho mọi người dân một cách công bằng, ổn định, hiệu qủa và phi lợi
nhuận.
17
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
Sự cần thiết phải có sự quản lý nhà nước đối với DVCC trước hết do
DVCC có vai trò quan trọng, liên quan đến sự tồn tại và phát triển của nhà
nước, của toàn xã hội, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu phát triển đất
nước. QLNN đối với DVCC có hiệu quả sẽ tạo ra được niềm tin, sẽ gắn kết
mọi người dân với nhà nước và xã hội. Từ thực tiễn phát triển DVCC, nhiều
nước Phương Tây đã nêu lý luận rằng: Sự tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc
đô thị hóa, sự cải thiện về công nghệ và cơ sở hạ tầng; sẽ dẫn đến sự gia tăng
số cá nhân có đủ thời gian, kiến thức, thông tin và tiền bạc để tham gia các
hoạt động chính trị, thúc đẩy dân chủ hóa đòi hỏi phải có nền dân chủ cách
mạng tự do.
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, là nhà nước pháp quyền, của
dân, cho dân và vì dân thì việc quản lý nhà nước đối với DVCC sẽ tạo ra niềm
tin, vừa gắn kết giữa công dân với nhà nước và chế độ là hết sức cần thiết.
QLNN đối với DVCC có hiệu quả sẽ đã tạo thêm nhiều việc làm, phát
triển mạng lưới y tế, giáo dục, giao thông vận tải, vệ sinh môi trường,… làm
cho người dân có thêm động lực, tích cực góp phần bảo vệ, xây dựng đất
nước, ổn định xã hội, nâng cao mức sống và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Sự phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng (giao thông, điện lưới, giáo dục, y tế,
phát thanh truyền hình, bưu chính, viễn thông…) đã giúp đưa các vùng lạc
hậu, xa xôi, hẻo lánh của đất nước hội nhập với tiến trình phát triển chung,
củng cố, tăng cường an ninh, quốc phòng. QLNN đối với DVCC có hiệu quả
còn tạo ra nguồn lực to lớn cho xã hội, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đây chính là tài nguyên vô giá cho sự phát triển trong tương lai. Như
vậy, quản lý nhà nước đối với DVCC có hiệu quả sẽ góp phần điều chỉnh sự
phát triển chênh lệch trong nước, tạo thế phát triển bền vũng.
18
Quản lý nhà nước đối với DVCC có hiệu quả sẽ tạo ra môi trường
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc tạo lập môi
trường đầu tư an toàn, hiệu quả cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế
ngoài nhà nước hoạt động. Trong thời gian qua, các đơn vị này tham gia cung
ứng nhiều loại hình dịch vụ công cộng, góp phần tạo lên sực cạnh tranh mạnh
mẽ đối với khu vực công, từ đó đã tạo ra lợi thế cho sự tăng trưởng kinh tế,
khơi dậy mọi nguồn lực trong phát triển. Tuy nhiên, chính sự đa dang và
phong phú về chủ thể cung ứng và các hình thức DVCC được cung ứng, Nhà
nước cần phải đảm bảo vai trò quản lý của mình một cách tốt nhất, có như vậy
mới đảm bảo cho hoạt động cung ứng DVCC được hiệu quả và theo đúng
hướng.
QLNN đối với DVCC tốt chính là thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của
công cuộc cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính mang tính phục vụ.
CCHC ở Lào đang được tiến hành mạnh mẽ, hướng tới các lĩnh vực và trên
diện rộng, trong đó các lĩnh vực cung ứng các hoạt động, các dịch vụ công
cộng góp phần thiết yếu và thể hiện rõ sự chuyển biến của cải cách hành
chính trong thời gian qua. Chính vì lẽ đó mà tăng cường QLNN đối với
DVCC là một yêu cầu bức thiết của CCHC trong giai đoạn mới
1.2.3. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với DVCC mang nhiều nét tương
đồng với mục tiêu của QLNN đối với toàn xã hội. Mục tiêu chung của QLNN
đối với DVCC chính là trạng thái mong đợi, cần có của nhà nước trong việc
thực hiện trách nhiệm cung ứng DVCC cho xã hội một cách hiệu quả nhất
trong khả năng cho phép thông qua việc tạo ra các DVCC có chất lượng, đủ
về lượng, cơ cấu, chủng loại theo đúng yêu cầu của xã hội và với giá cả hợp
lý nhất; các DVCC được cung ứng một cách tốt nhất theo đúng các nguyên
tắc và thể chế đã định; thu được sự cảm nhận hài lòng của người dân trong
19
việc sử dụng DVCC; góp phần tích cực nhất vào việc đạt được mục tiêu quản
lý chung của Nhà nước. Các mục tiêu cơ bản trong quản lý DVCC của nhà
nước phải hướng đến ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tạo được lòng tin nhân dân đối với nhà nước nói riêng, với
chế độ xã hội nói chung. Đây được xem là mục tiêu mang tính định tính, khá
trừu tượng, thế nhưng đây lại chính là mục tiêu mang tính bền vững, tạo dựng
lòng tin trong nhân dân và toàn xã hội.
Thứ hai, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân
dân (dân trí, sức khỏe, việc làm, tổ chức đời sống, …). Các DVCC mà nhà
nước hướng tới đều là vì người dân, các biện pháp tổ chức triển khai, quản lý,
cung ứng đều vì mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
Thứ ba, góp phần thúc đẩy sức sản xuất phát triển, xây dựng đất nước
giàu có, văn minh (tạo môi trường kinh doanh sản xuất lành mạnh,…). Khi
các DVCC được triển khai mạnh và sâu rộng, các chủ thể cung ứng tăng lên,
các loại hình DVCC phong phú, người dân có nhiều sự lựa chọn, sức cạnh
tranh của loại hàng hóa này tăng cao,… đây chính là động lực thúc đẩy các
doanh nghiệp, các đơn vị cung ứng phát triển.
Thứ tư, tạo mọi cơ hội cho công dân phát triển (học hành, việc làm, sản
xuất kinh doanh, giao lưu quốc tế, phát triển tư duy sáng tạo,…). Bên cạnh
việc thúc đẩy các doanh nghiệp, các đơn vị cung ứng phát triển thì công dân
thụ hưởng cũng có nhiều điều kiện phát triển hơn, bởi chất lượng dịch vụ tốt,
đa dang và phong phú thì cơ hội học hành, giao lưu, sử dụng dịch vụ sẽ tốt
hơn.
Thứ năm, thu hút mọi nguồn lực, mọi mối quan hệ tích cực từ bên
ngoài, từng bước nâng cao uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Bên cạnh đó
thì các doanh nghiệp, các tổ chức nước ngoài cũng có điều kiện phát triển,
20
mang lại vẻ tươi mới và sự phát triển mạnh mẽ trong quá trình hội nhập của
đất nước.
1.2.4. Nguyên tắc cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội
Xã hội có phát triển ở mức độ nào, dù ở chế độ xã hội nào thì Nhà nước
cũng phải có trách nhiệm bảo đảm cung ứng DVCC cho người dân và toàn xã
hội. Trên thế giới hiện nay, xu hướng phổ biến là nhà nước chỉ trực tiếp cung
ứng những DVCC mà các tổ chức xã hội không thể làm, hoặc không muốn
làm. Trong điều kiện ở nước CHDCND Lào hiện nay, Nhà nước đang đẩy
mạnh xã hội hóa việc cung ứng các DVCC như dịch vụ trường học, bệnh
viện, văn hóa, xã hội;.... đồng thời, phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền
địa phương trực tiếp quản lý và cung ứng các loại DVCC liên quan trực tiếp
đến đời sống của người dân.
Về nguyên tắc, Nhà nước phải chịu trách nhiệm cao nhất và cuối cùng
đối với việc cung ứng kịp thời, đầy đủ, đảm bảo chất lượng, có hiệu quả các
loại dịch vụ công cộng cho người dân và xã hội. Vì vậy, Nhà nước là người
quản lý, định hướng, giám sát và kiểm tra đối với tất cả các chủ thể cung ứng
dịch vụ công cộng hiện nay. Về cơ bản, các nguyên tắc trong cung ứng
DVCC cũng giống như các nguyên tắc trong cung ứng DVC, vì DVCC chính
là một bộ phận nằm trong DVC, các nguyên trong cung ứng DVCC là :
Nguyên tắc công bằng: Đòi hỏi DVCC phải đảm bảo cung ứng cho xã
hội các hàng hoá công cộng với ý nghĩa và đặc trưng vốn có của các hàng hoá
công cộng. Đó chính là sự thụ hưởng của mọi đối tượng đều như nhau, các
đơn vị cung ứng chất lượng phải theo những chuẩn mực nhất định và đảm bảo
hướng đến mọi đối tượng đáp ứng mọi nhu cầu trong thụ hưởng và dựa trên
cơ sở công bằng.
Nguyên tắc công khai, minh bạch: Đây là yêu cầu chính đáng của
người dân và xã hội, đòi hỏi Nhà nước và các tổ chức cung ứng DVCC cho
21
biết có việc tổ chức thực hiện cung cấp DVCC như thế thế nào? Quy trình
cung ứng DVCC ra sao? Các khó khăn cung ứng? cách tiếp cận và sử dụng
dịch vụ?,…. Tất cả đều phải được công khai, minh bạch, trên nguyên tắc tổ
chức của Nhà nước để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra và cân nhắc trong việc
sử dụng.
Nguyên tắc dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của các đơn vị cung ứng DVCC. Cả Nhà nước và các đơn vị ngoài nhà
nước khi tiến hành cung ứng dịch vụ đều phải lấy dân làm đối tượng và là
mục tiêu hướng đến, tất cả là để phục vụ nhân dân. Sự hài lòng của người dân
là thước đo cho sự phát triển của dịch vụ. Ở đây người dân là chủ và người
dân chính là khách hàng cần được cung ứng. Đó cũng là nguyên tắc đảm bảo
cho sự phát triển thực sự, hướng nền hành chính nước nhà theo hướng phục
vụ, chuyển sang nền hành chính phục vụ, đó là định hướng mà các nước phát
triển luôn hướng tới.
Nguyên tắc pháp chế: Đòi hỏi tổ chức và hoạt động cung ứng các
DVCC cho xã hội phải dựa trên cơ sở hiến pháp và các quy định của pháp
luật, các cam kết mà Nhà nước đã hứa thực hiện trước dân chúng và các cam
kết mà Nhà nước tham gia ký kết với quốc tế trong việc cung ứng DVCC trên
toàn quốc.
Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả: Đòi hỏi DVCC cung ứng cho xã hội
phải là nhwungx dịch vụ có chất lượng tốt, hiệu quả cao và là những dịch vụ
tiết kiệm nhất. Điều đó đòi hỏi các đơn vị cung ứng luôn tìm tòi, sáng tạo và
luôn thay đổi để có được những dịch vụ tốt nhất với chi phí hợp lý nhất. Hiệu
quả tiết kiệm phải đạt được sự thống nhất của 3 yêu cầu: Kinh tế có nghĩa là
cung cấp DVCC chất lượng tốt bằng chi phí hợp lý nhất; Hiệu quả, có nghĩa
là làm được nhiều việc trong phạm vi cho phép, mang lại nhiều lợi ích cho xã
hội một cách công bằng và đúng đắn; Chất lượng, có nghĩa là thuận tiện cho
22
dân, công khai và làm cho người dân luôn luôn hài lòng về các sản phẩm và
dịch vụ mình sử dụng.
1.2.5. Các công cụ quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
Công cụ quản lý của nhà nước đối với dịch vụ công cộng chính là các
phương tiện hữu hình hoặc vô hình mà nhà nước sử dụng để tác động lên các
đối tượng trong hoạt động quản lý cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội.
Thứ nhất, đó là chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát
triển về DVCC để thực hiện các cam kết của Nhà nước với xã hội. Có thể nói
chiến lược phát triển của Nhà nước đóng vai trò quyết định đối với sự phát
triển của các loại hình DVCC. Khi DVCC được định hướng, được quy hoạch
phát triển thì đây sẽ là những dịch vụ hữu hiệu, trực tiếp đáp ứng yêu cầu của
Nhà nước để quản lý xã hội. Các kế hoạch phát triển trong ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn luôn là các giai đoạn phát triển cụ thể, mang tính đình lượng,
định tính trong phát triển DVCC ở Lào.
Thứ hai, đó chính là những cam kết của Nhà nước đối với toàn xã hội.
Mỗi một Nhà nước khác nhau, chế độ khác nhau sẽ có những biện pháp, công
cụ quản lý nhà nước khác nhau. Tuy nhiên, nhà nước nào cũng phải đảm bảo
và cam kết với người dân và xã hội rằng Nhà nước sẽ đảm bảo trên thực tế
cung ứng đầy đủ các loại hình dịch vụ cho xã hội, trong đó có các dịch vụ
công cộng để ổn định và đảm bảo sự phát triển của Nhà nước, của xã hội.
Thứ ba, Nhà nước dựa vào hệ thống pháp luật để điều chỉnh các vấn đề
có liên quan đến hoạt động cung ứng và sử dụng DVCC trong xã hội. Đây
chính là các ràng buộc mang tính bắt buộc chung mà nhà nước đặt ra, bảo vệ,
thực hiện nhằm đảm bảo cho các hoạt động được diễn ra trên thực tế theo
định hướng. Bên cạnh đó, Nhà nước còn sử dụng công cụ là các chính sách cụ
thể để quản lý, thức đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của loại hình dịch vụ nào
đó đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước đối với xã hội.
23
Thứ tư, là bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trong toàn hệ thống để bảo đảm cung ứng các DVCC. Hiện nay, tổ chức bộ
máy nhà nước ở nước CHDCND Lào đang thực hiện chức năng quản lý hiệu
quả và phát triển theo hướng tinh gọn, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ của Nhà
nước, trong đó có chức năng quản lý nhà nước về DVCC. Bên cạnh đó, đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước không ngừng được nâng cao về
trình độ và chất lượng. Đây chính là công cụ quan trọng và mang tính quyết
định trong mọi công việc của Nhà nước, có cả công tác QLNN về DVCC, bởi
xét đến cùng thì con người vẫn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.
Thứ năm, là phương thức thu hút các nguồn lực của nhân dân trong xã
hội và của các quốc gia khác trong khả năng có thể. Đây được xem là công
cụ mang tính sáng tạo và là bước đột phá trong công tác quản lý nhà nước về
DVCC, để có được những nguồn lực tốt nhất thúc đẩy phát triển các loại hình
dịch vụ.
Thứ sáu, đó là tài sản của Nhà nước nắm trong tay (bao gồm: ngân
sách nhà nước, tài nguyên quốc gia, công khố, kết cấu hạ tầng xã hội, các tổ
chức trực tiếp cung ứng DVCC của nhà nước v.v..). Đây được xem là đòn
bẩy, nền tảng để tạo điều kiện cho DVCC phát triển.
Thứ bảy, nhà nước phải sử dụng tới hệ thống thông tin trong quản lý
DVCC một cách thông suốt, minh bạch, hai chiêu, thuận tiện cho việc quản lý
nhạy bén của nhà nước, loại bỏ được các ách tắc không đáng có và tiếp thu
kịp thời nhũng ý kiến phản hồi của nhân dân, của các đối tượng quản lý và cả
của những người, những tổ chức sử dụng dịch vụ.
Như vậy, việc sử các công cụ quản lý nhà nước như trên theo hướng
nào và cách nào nó còn phụ thuộc vào nhà quản lý, đặc biệt là nhà lý cấp cao.
Tuy nhiên, trên góc độ quản lý nhà nước, chúng ta có thể sử dụng công cụ
nào, mức độ ra sao còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song phổ biến hiện nay ở
24
các nhà nước, các chính quyền đều sử dụng đồng bộ các công cụ nói trên
thành tổng thể các công cụ để điều chỉnh các loại hình DVCC.
1.2.6. Nội dung quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
DVCC là dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm về chất lượng cung
ứng. Việc làm rõ những nội dung cụ thể của trách nhiệm quản lý của Nhà
nước đối với DVCC là rất cần thiết, giúp cho việc cung cấp DVCC có hiệu
quả, đặc biệt là khi Nhà nước đang trong quá trình chuyển đổi về chức năng,
nhiệm vụ và huy động sự tham gia của nhiều chủ thể trong xã hội đối với các
công việc của Nhà nước nói chung và việc cung ứng DVCC nói riêng.
- Hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng
ngành, lĩnh vực cụ thể như giáo dục, y tế, văn hóa..., làm cơ sở để định hướng
hoạt động của các chủ thể khác nhau cùng tham gia cung ứng các DVCC
trong từng lĩnh vực đó. Công tác hoạt định chiến lược đòi hỏi các cấp các
ngành cần có những chủ trương, đề xuất hợp lý để có được định hướng phát
triển tốt nhất. Ngoài ra, nguồn nhân lực chính thực hiện công tác này phải là
đội ngũ cán bộ có trình độ cao, am hiểu về lĩnh vực chuyên sâu. Có như vậy
mới có thể hoạch định được những kế hoạch phát triển trong ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn một cách hợp lý, khoa học, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền
vững. Qua đó góp phần thiết thực trong quản lý nhà nước đối với DVCC.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách trong việc cung ứng các
loại DVCC: Hiện nay, có nhiều chủ thể khác nhau cùng tham gia cung ứng
DVCC: Nhà nước, thị trường, các tổ chức xã hội và cá nhân. Việc cung ứng
DVCC của các chủ thể này nhằm những mục đích khác nhau. Chính vì vậy,
Nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống thể chế, chính sách đối với việc
cung ứng DVCC, làm căn cứ để quản lý thống nhất; đồng thời, là cơ sở để các
tổ chức xã hội và công dân có thể lựa chọn và tham gia vào việc cung ửng các
DVCC có hiệu quả.
25
Với quyền lực của mình, Nhà nước đề ra các thể chế quy định cụ thể
những vấn đề mà mọi tổ chức, cá nhân phải tuân theo (nghĩa vụ, trách nhiệm
quyền lợi...) khi tham gia cung ứng và sử dụng các DVCC - trên cơ sở bảo
đảm tính cạnh tranh và hiệu quả về kinh tế và tính công bằng về xã hội
- Thống nhất chỉ đạo cung cấp DVCC trong toàn xã hội, theo từng
ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Mọi đối tượng xã hội đều có quyền
thụ hưởng DVCC một cách bình đẳng, không phân biệt điều kiện, hoàn cảnh,
thành phần chính trị - xã hội. Tuy nhiên, do hoàn cảnh phát triển của đất nước
không đồng đều, các khu vực có sự phát triển khác nhau, đời sống kinh tế,
văn hóa khác nhau, nên mức độ nhu cầu đối với các dịch vụ không giống
nhau. Do đó, để có sự bình đẳng trên thực tế, Nhà nước cần có sự chỉ đạo tập
trung thống nhất để việc cung cấp DVCC thực sự đến với người hưởng thụ
một cách có hiệu quả. Đồng thời, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của
Chính phủ, các ngành và các địa phương lại phải có những điều chỉnh trong
việc cung ứng các DVCC về cả số lượng, loại hình và giá cả cho phù hợp với
đặc thù của ngành hoặc của địa phương mình.
- Nhà nước điều tiết cung cấp các dịch vụ công cộng
Nhà nước dùng quyền lực điều tiết việc cung ứng DVCC nhằm bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.Việc thụ hưởng các dịch vụ
công cộng của Nhà nước luôn diễn ra theo hai chiều, giữa một bên cung ứng
và một bên thụ hưởng. Đo đó, Nhà nước cần điều tiết làm sao cho quá trình
đó được diễn ra hài hòa, hợp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân và tổ chức, cũng như nghĩa vụ của công dân và tổ chức đối với Nhà nước.
Theo đó thì việc không ngừng cải tiến chất lượng cung ứng dịch vụ công
cộng; cung cấp thông tin, dự báo và kinh nghiệm trong nước và thế giới có
liên quan đến cung ứng dịch vụ công cộng là đòi hỏi không thể thiếu trong
hoạt động cung ứng dịch vụ của Nhà nước.
26
Để các hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng của nhà nước có hiệu
quả, nhà nước phải không ngừng có những điều chỉnh, cải cách hoạt động
cung cấp dịch vụ công cộng ở tầm vĩ mô; xác định rõ các loại dịch vụ công
cộng nào thực sự là dịch vụ nhà nước phải cung cấp cho xã hội, mức độ can
thiệp của nhà nước trực tiếp hay gián tiếp qua việc cấp tài chính hay chỉ đề ra
các tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả và mở rộng sự tham gia của các chủ thể
khác trong xã hội trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thông tin, lập kế hoạch phát
triển từng lĩnh vực trong cung ứng dịch vụ công cộng. Dịch vụ công cộng là
dịch vụ do Nhà nước chủ đạo và chịu trách nhiệm cung ứng, do vậy cần làm
rõ trách nhiệm cụ thể của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công cộng,
nhất là trong giai đoạn Nhà nước đang chuyển đổi theo hướng phục vụ, cần
huy động các nguồn lực xã hội tham gia cung ứng dịch vụ công cộng hiện
nay.
- Tổ chức thực hiện xã hội hoá các dịch vụ công cộng
Chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công cộng hiện nay đang là một chủ
trương đúng đắn của Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước. Sự phát
triển không ngừng của các loại hình dịch vụ trong xã hội đã và đang đặt ra
những yêu cầu mới đối với công tác quản lý của Nhà nước. Hòa chung với xu
hướng của thế giới, ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong những năm
qua đã có nhiều thay đổi trong vấn đề xã hội hóa các dịch vụ công cộng, nhà
nước khuyến khích và động viên, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tư
nhân, các tổ chức ngoài Nhà nước có năng lực và đáp ứng yêu cầu trong việc
cung ứng các dịch vụ công cộng cho xã hội, Nhà nước chỉ quản lý về chất
lượng và đặt ra các tiêu chuẩn đạt chuẩn để quản lý các đối tượng này Chính
vì vậy, trong những năm qua các ngành, lĩnh vực như y tế, giáo dục, giao
thông vân tải, vệ sinh môi trường nông thôn, đô thị,… đã có những thay đổi
27
đáng kể. Đó chính là sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân, các trường
học tư thục, các bệnh viện tư nhân, phòng khám tư nhân, các tổ chức giáo dục
quốc tế, các công ty tư nhân đảm trách vệ sinh môi trường ngày càng nhiều,…
từ đó mà chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng ngày càng tốt.
- Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm để việc cung ứng DVCC đáp ứng
yêu cầu của xã hội. Việc khu vực tư và các tổ chức xã hội tham gia cung ứng
DVCC là một xu thế khách quan, làm cho các sản phẩm, dịch vụ đa dạng hơn,
giá cả rẻ hơn và chất lượng được nâng cao. Tuy nhiên, điều này lại đòi hỏi
Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ hơn rất nhiều so với trước kia, khi Nhà
nước là chủ thể duy nhất cung ứng DVCC cho xã hội, bởi mục tiêu mà các
chủ thể ngoài Nhà nước hướng tới không chỉ là phục vụ, mà còn là lợi nhuận.
1.2.7. Bộ máy quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
Đề cập tới bộ máy quản lý nhà nước (QLNN) đối với DVCC cũng
chính là bộ máy QLNN đối với dịch vụ công (DVC), bởi lẽ DVCC chính là
một phần, một bộ phận nằm trong DVC. Theo đó thì các cơ quan QLNN đối
với DVC cũng chính là các cơ quan QLNN đối với DVCC. Ở nhiều quốc gia,
trong đó có CHDCND Lào hiện nay, chức năng này được giao cho các cơ
quan hành pháp, hay đúng hơn là các cơ quan hành chính nhà nước từ trung
ương đến địa phương. Theo phân cấp quản lý đối với hoạt động cung ứng
DVCC trên phạm vi toàn lãnh thổ.
Công tác QLNN đối với các DVCC được phân cấp quản lý giữa trung
ương và chính quyền địa phương. Các cơ quan Trung ương chính là Chính
phủ và các Bộ, ngành thực hiện quản lý các DVCC được phân cấp. Tuy nhiên,
trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến phân cấp quản lý nhà nước
đối với các DVCC ở cấp tỉnh, đó là các cơ quan trong bộ máy QLNN cấp tỉnh
gồm UBND và các Sở, trong bộ máy QLNN cấp huyện gồm UBND và các
phòng.
28
Theo cách hiểu được nhiều người thừa nhận thì: Phân cấp là một
phương pháp quản lý trong đó chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ
chức trong hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành pháp được phân chia,
phân công một cách cụ thể thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
theo nguyên tắc trao cho cơ quan cấp dưới nhiều quyền ra quyết định các vấn
đề có liên quan và tăng cường sự giám sát hoạt động của các cơ quan đó
thông qua hệ thống trách nhiệm báo cáo. Đồng thời, phân cấp là quá trình cải
cách hành chỉnh nhằm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm và chịu trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ
trung ương đến tận cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành
chính nhà nước và cơ chế chuyển giao nhiệm vụ cho các tổ chức bên ngoài
nhà nước.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở
một số tỉnh, thành phố và bài học cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở
Thành phố Hồ Chí Minh, nước CHXHCN Việt Nam
Thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá là một trong những thành phố
có tốc độ phát triển kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam Á, là một trong
những thành phố phát triển bậc nhất ở Việt Nam, nơi đây trước kia được
mệnh danh là “Hòn ngọc viễn đông” và hiện nay thành phố cũng là đơn vị đi
đầu trong công tác QLNN về DVCC ở Việt Nam.
Trong công tác QLNN về cung ứng DVC nói chung và DVCC nói
riêng thì thành phố là đơn vị đi đầu với những cải cách mang tính đột phá cao.
Là đơn vị đầu tiên ở Việt Nam xây dựng cổng thông tin “một cửa điện tử” từ
15/12/2008 tại địa chỉ www.hochiminhcity.gov.vn. Thông qua hệ thống này,
người dân và doanh nghiệp biết được tình trạng giải quyết hồ sơ của toàn
29
thành phố, của từng quận/huyện, từng sở, ngành. “Một cửa điện tử” cung cấp
thông tin một cách tự động và trực tuyến từ hệ thống CNTT tại các đơn vị.
Người dân có thể dùng phương tiện liên lạc thông dụng nhất hiện nay là điện
thoại để được trả lời tự động về tình trạng hồ sơ bằng thoại, tin nhắn qua “một
cửa điện tử”. “Một cửa điện tử” là công cụ hữu hiệu để người dân và lãnh đạo
giám sát các DVCC. Các loại hình dịch vụ như văn hóa, giáo dục, y tế, hệ
thống giao thông vận tải,... đều được đăng tải và công khai về quy trình và
lịch trình, các mẫu hồ sơ, đấu thầu trong giải quyết các công việc đều được
minh bạch và công khai. Điều này giúp choi người dân và doanh nghiệp dễ
dàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ, nó cũng góp phần xã hội hóa các dịch vụ
công cộng nhanh và sâu rộng hơn.
Đến nay đã có 24 quận/huyện và 7 sở, ngành tham gia hệ thống “một
cửa điện tử”. Ngoài việc truy cập website và sử dụng điện thoại qua hệ thống
một cửa điện tử, người dân có thể tra cứu thông tin trực tiếp tại các
quận/huyện, sở, ngành qua hệ thống mã vạch với màn hình cảm ứng. Như
vậy, người dân được cung cấp thông tin ở mọi nơi, mọi lúc 24/7 và không phụ
thuộc vào tinh thần làm việc hay thái độ của cán bộ, công chức nhà nước.
Không những thế thành phố Hồ Chí Minh còn là đơn vị đi đầu trong
cấp phép trực tuyến. Cấp giấy phép qua mạng đối với giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư và giấy phép thành lập văn phòng đại
diện. Hàng năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và có
trên 50% doanh nghiệp đăng ký trực tuyến. Hình thức phục vụ này đã làm
giảm thời gian chờ đợi, đi lại của người dân, giảm được áp lực lên cơ quan
cấp phép, đồng thời cũng được giảm áp lực lên giao thông.
Hiện nay, các quận, huyện cấp 52 loại giấy phép thì đã có 50 loại thuộc
6 lĩnh vực được ứng dụng CNTT. Từ lúc nhận hồ sơ, chuyển qua xử lý và cấp
giấy phép đều được thực hiện trên mạng máy tính.
30
Tất cả những sự thay đổi đó hướng đến một nền hành chính phát triển,
mang dáng vóc của một nền hành chính phục vụ nhân dân, lấy công dân và tổ
chức làm trọng tâm, lấy chất lượng cung ứng dịch vụ làm thước đo cho hiệu
quả công việc của các cơ quan công quyền.
1.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng ở thủ
đô Viên Chăn, nước CHDCND Lào
Hiện nay, thủ đô Viên Chăn với các ngành thế mạnh là du lịch, thương
mại, công nghiệp. Những ngành nghề đặc biệt phát triển là công nghệ thực
phẩm, dệt lụa, đóng đồ gỗ, làm thủ công mỹ nghệ,... Nhờ có đường lối đổi
mới nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý mà đã tạo ra luồng sinh khí mới cho
kinh tế phát triển, trong đó có các loại hình dịch vụ công với các hàng hóa
dịch vụ công cộng phát triển. Cũng từ đó thủ đô Viên Chăn có một hệ thống
cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải phát triển ( đường xá, cầu cống, sân bay, nhà
ga,...) và hệ thống thông tin liên lạc, các dịch vụ viễn thông không ngừng lớn
mạnh và phát triển. Vì vậy, đây sẽ là động lực rất quan trọng để phát triển các
ngành dịch vụ, trong đó có các dịch vụ hàng hóa công cộng thúc đẩy phát
triển kinh tế ở thủ đô Viên Chăn.
Trong QLNN đối với dịch vụ công nói chung, đối với các dịch vụ công
cộng nói riêng, thủ đô Viên Chăn giao cho các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND thực hiện, các đơn vị cung ứng dịch vụ phải tuân thủ các quy định của
pháp luật, của cơ quan quản lý cấp trên và tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực
của từng ngành, lĩnh vực cụ thể.
Đối với QLNN về văn hóa, giáo dục thì việc thành lập hay đóng cửa
một trường học do cơ quan quản lý và trách nhiệm thuộc về người đứng đầu
quyết định. Trách nhiệm cung cấp giáo dục bậc tiểu học và trung học thuộc về
Chính phủ trung ương. Ngoại trừ chuyển giao việc xây dựng và bảo dưỡng
trường học cho các cơ quan ở thủ đô Viên Chăn.
31
Đối với QLNN về y tế chính quyền ở thủ đô Viên Chăn chịu trách
nhiệm về những chức năng y tế đơn giản và thiết thực đối với địa phương (ví
dụ: dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản và ban đầu được giao cho cấp Phường,
Bản); còn cấp cao hơn chịu trách nhiệm đối với những chức năng hoặc những
vấn đề y tế có quy mô lớn hoặc có liên quan đến nhiều cấp thẩm quyền (ví dụ:
các bệnh viện cấp ba và bệnh viện chuyên khoa chủ yếu thuộc trách nhiệm
của Sở Y tế, Bộ Y tế, chính quyền trung ương). Đối với những nhu cầu thiết
thân của người dân như chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, kế hoạch hóa gia
đình, Chính phủ trung ương tiếp tục trực tiếp cung ứng với sự tham gia của
chính quyền địa phương các cấp.
Đối với chức năng QLNN về lĩnh vực thông tin liên lạc, giao thông vận
tải,… giao cho các Sở ban ngành chuyên môn phụ trách theo đúng chức năng
và nhiệm vụ quyền hạn được giao, trên cơ sở báo cáo chính quyền thủ đô
Viên Chăn mà trực tiếp là UBND thành phố để có sự chỉ đạo trực tiếp và sâu
sát nhất.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND
Lào về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc học tập kinh nghiệm từ
các thành phố lớn, có nhiều thành tựu trong công tác QLNN đối với DVCC là
điều cần thiết, không chỉ ở trong nước mà còn ở các thành phố ở nước ngoài
có nhiều điểm tương đồng như Việt Nam. Thủ đô Viên chăn của nước Lào và
thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam là hai thành phố có bước phát triển
mạnh mẽ về các loại hình DVCC, điều đó cho thấy công tác QLNN đối với
DVCC ở hai thành phố này thực hiện tốt và rất đáng học tập, noi theo. Những
bài học đúc kết từ quá trình cải cách, đổi mới trong quản lý và cung ứng dịch
vụ công cộng sẽ mở ra hướng đi tiếp theo cho công tác quản lý Nhà nước đối
32
với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng. Sau đây là một số bài học kinh nghiệm rút
ra từ thực tiễn học tập công tác QLNN về DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng:
Một là, xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức nhà nước đủ năng lực,
trình độ, có khả năng đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao trong giai
đoạn mới, có tinh thần thái độ, có trách nhiệm trong thực thi công vụ. Đây là
nhân tố quan trọng nhất, hàng đầu hiện nay, bởi vì xét cho cùng thì đây chính
là lực lượng nhất quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động cung ứng
DVCC. Đồng thời, đội ngũ này cũng chính là những người quản lý các
DVCC theo định hướng.
Hai là, tăng cường cơ sở pháp lý, tạo hành lang pháp lý cơ bản và
hoàn thiện để điều chỉnh các quan hệ lên quan đến QLNN về DVCC ( ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách chế độ thể lệ...) đảm bảo sự
ổn định và thúc đẩy sự phát triển của hệ thống cung ứng dịch vụ công cho
toàn xã hội; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển
mạng lưới cung ứng dịch vụ công cho toàn xã hội, đồng thời tổ chức chỉ đạo
thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ công...
Ba là, cần phân định rõ những dịch vụ công cộng do các cơ quan, tổ
chức nhà nước trực tiếp cung ứng và DVCC do các đơn vị, tổ chức tư nhân,
từ đó cơ cấu lại chi tiêu ngân sách theo hướng tập trung đầu tư thích đáng cho
việc cung ứng các DVCC cơ bản, thiết yếu nhất... còn dịch vụ nào có thể
chuyển giao thì sẽ chuyển giao cho đơn vị tư nhân thực hiện để giảm tải cho
ngân sách nhà nước.
Bốn là, tăng cường đầu tư xây dựng, thiết lập quy trình và phát triển cơ
sở hạ tầng, CNTT đồng bộ trong việc cung ứng các DVCC; hiện đại hoá công
sở nhằm nâng hiệu quả làm việc của CBCC và chất lượng cung ứng DVCC.
Hiện nay, mạng internet phát triển, cùng với việc khoa học kỹ thuật phát triển
không ngừng như hiện nay là xu thế hội nhập quốc tế thì việc tăng cường đầu
33
tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng phục vụ nền hành chính cần
được coi như một trong các giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng
DVCC.
Năm là, cải cách chất lượng cung ứng DVCC làm thay đổi nhận thức về
vai trò và chức năng của nhà nước từ quản lý sang hỗ trợ và phục vụ. Mục
tiêu của cải cách là lấy yêu cầu của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp
làm cơ sở cho những quyết sách của nhà nước với phương châm phục vụ là
tiêu chí hàng đầu trong cải cách nền HCNN theo hướng phát triển.
Sáu là, đẩy mạnh hơn nữa xã hội hóa dịch vụ công cộng. Xã hội hóa
dịch vụ công cộng đem lại những lợi ích không hề nhỏ. Việc thay đổi nhận
thức về vai trò của Nhà nước đối với các DVCC - lĩnh vực mà trước đây chỉ
có Nhà nước đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần cho các tổ
chức ngoài nhà nước. Có thể kể đến các DVCC như: dịch vụ sự nghiệp công,
cung ứng dịch vụ về văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao,… đã từng bước được
thừa nhận hiệu quả. Điều đó đã từng bước thể hiện tính đúng đắn của chủ
trương xã hội hóa mạnh mẽ dịch vụ công trên phạm vi rộng khắp.
Bảy là, tăng cường giám sát thường xuyên và nghiêm khắc quy trình xử
lý công việc và tinh thần, thái độ của CBCC trong quá trình thực thi công vụ,
nêu cao trách nhiệm giải trình và sử dụng các chế tài pháp luật để xử lý vi
phạm nhằm tạo ra một nền công vụ minh bạch.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Như vậy, trong chương 1 tác giả đã đi vào trình bày và chỉ ra những
khái niệm cơ bản nhất về dịch vụ công, dịch vụ công cộng; bản chất và đặc
trưng cũng như nét đặc thù trong công tác QLNN đối với loại hình dịch vụ
này; lý do vì sao phải tăng cường QLNN đối với DVCC và sự bức thiết phải
quản lý loại hình đặc thù này. Trên cơ sở đó thấy rõ vài trò của nó đối với sự
phát triển chung của ngành, lĩnh vực cũng như của địa phương, của mỗi quốc
34
gia nếu như muốn có được sự phát triển bền vững. Qua đó, có được cái nhìn
khái quát nhất về vấn đề QLNN đối với DVCC ở các nước láng giềng cũng
như ở thủ đô Viên Chăn. Rút ra được những bài học cơ bản và sát thực tế nhất
đối với công tác QLNN đối với DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng. Đây
sẽ là tiền đề quan trọng để tác giả đi vào phân tích thực trạng công tác QLNN
về DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng ở chương 2.
35
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG
CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. Khái quát chung về tỉnh Xiêng Khoảng
Xiêng Khoảng (phiên âm tiếng Anh là Xieng Khuang) là một trong 18
tỉnh của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đồng thời đây là một trong 8
tỉnh miền Bắc của Lào. Cách thủ đô Viên Chăn 300km. Tỉnh Xiêng Khoảng
có diện tích 16,850 km2, độ cao bình quân là 1200m. Về vị trí địa lý, tỉnh
Xiêng Khoảng tiếp giáp với tỉnh Nghệ An của Việt Nam về phía Đông có
chiều dài khoảng 160km, giáp với tỉnh Viên Chăn của Lào về phía Tây Nam.
Phía Nam giáp với tỉnh Bo Ly Khăm Xay và tỉnh Xay Xôm Bun với chiều dài
220km. Phía bắc với tỉnh Hủa Phăn có chiều dài 160km. Tỉnh Xiêng Khoảng
có những đỉnh núi cao nhất nước Lào, như Phu bia (2.820 m), Phu xao (2.690
m), Phu xamxum (2.620 m), Phu sane (2.218 m), Phu leb (1.761 m). Các sông
Nậm Ngừm của Lào, sông Lam của Việt Nam bắt nguồn từ miền Bắc Xiêng
Khoảng. Phần lớn là núi cao chiếm 90%, cao bằng chiếm 8%, đồng bằng
chiếm 2% diện tích.
Xiêng Khoảng có di tích cánh đồng Chum nổi tiếng, trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, đây là tỉnh bị ném bom nặng nề nhất. Hiện nay, Cánh
đồng Chum Xiêng Khoảng đã trở thành địa điểm thu hút khách du lịch của địa
phương, hàng năm có hàng ngàn lượt khách ghé thăm, trong tương lại, đây sẽ
là thế mạnh phát triển của tỉnh nếu như được đầu tư, khai thác hiệu quả, dự
báo sẽ mang lại nguồn thu cho ngân sách địa phương, góp phần giải quyết
việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển dịch vụ công cộng.
36
Thời tiết Xiêng Khoảng có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Với
đặc điểm thời tiết này, đây sẽ là những tác động không nhỏ đến sản xuất nông
nghiệp của tỉnh, nền kinh tế của tỉnh vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nếu
biết tận dụng đặc tính này của thời tiết, kết hợp với cơ cấu câu trồng hợp lý
đây sẽ là thế mạnh đáng kể trong việc trồng và phát triển các loại cây, con
theo hướng đặc sản phát triển nông sản hàng hóa chất lượng cao.
Xiêng Khoảng có 07 huyện và 01 tỉnh lỵ trong đó có: Phonsavan (còn
có tên khác là Pek là tỉnh lỵ của Xiêng Khoảng), Kham, Nong Het,
Khoune (còn có tên khác là Xiêng Khoảng), Morkmay, Phou Kout, Phaxay.
Trong đó có 55 cụm Bản, 481 bản làng.
Tính đến 31/12/2015, Xiêng Khoảng có 481 bản, 41.443 hộ gia đình,
với 250.144 người, trong đó dân số nam khoảng 131.439 người, chiếm 52,54
%, dân số nữ khoảng 118.705 người, chiếm 47,46 %. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên của tỉnh nhìn chung tương đối ổn định.
Toàn tỉnh có 3 dân tộc chính là Lào Lùm, Lào Sung và Lào Thâng,
trong đó dân tộc Lào Lùm chiếm đa số với khoảng 70% dân số toàn tỉnh, Lào
Thâng chiếm 25% dân số toàn tỉnh và Lào Thâng chiếm thiểu số với khoảng
5% dân số toàn tỉnh. Lối sống của 3 dân tộc này có sự khác nhau, Lào Lùm
phần lớn làm ruộng, làm vườn, trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán, làm công chức
nhà nước; dân tộc Lào Thâng làm nương, làm rẫy; còn dân tộc Lào Xủng
thích trồng trọt và chăn nuôi.
Về lao động, tổng lao động của tỉnh Xiêng Khoảng là 78.621 người,
chiếm khoảng 31,43% dân cư của tỉnh, trong đó lao động nam là 66.953
người, chiếm 85,16%; lao động nữ là 11.668 người, chiếm 14,84%.
Những năm gần đây, tỉnh tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, gắn với
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tạo điều kiện thu hút
37
các dự án vào đầu tư, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tăng cường công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, chú trọng đưa giống cây trồng, vật nuôi
mới năng suất chất lượng cao vào sản xuất nông nghiệp. Tăng hiệu quả kinh
tế trên diện tích đất, tăng tỷ trọng chăn nuôi và kinh tế trang trại để phát triển
một cách bền vững.
Kinh tế chủ yếu của Xiêng Khoảng là trồng lúa và nuôi bò. Thu nhập
cả tỉnh đạt 2,201,16 tỷ kíp/1năm, bình quân GDP đạt 1.328 đô la Mỹ/1
người/1 năm. Sản xuất thóc đạt 517,029,46 tấn/năm; sản xuất ngô đạt
454,097,93 tấn/năm; chăn nuôi trâu bò đạt 188,024 con, tăng lên 13%/năm.
Tuy nhiên, nhìn chung Xiêng Khoảng vẫn là tỉnh nghèo, hộ gia đình
nghèo chiếm 2,2%. Nộp ngân sách nhà nước hàng năm đạt 433,28 tỷ kip/năm,
trong khi tiêu ngân sách nhà nước là 1,841,54 tỷ kip/năm, nhà nước bù
khoảng 1,219,40 tỷ kip/năm.
Tỉnh cũng quan tâm đến công tác y tế, chăm sóc sức khỏe, nâng cao
trình độ phục vụ của cac bác sĩ, y tá, phát triển mạng lưới y tế tới nông thôn.
Hiện nay cả tỉnh có 12 bệnh viện, có 45 trạm y tế; hoạt động tiêm thuốc
phòng bệnh cho trẻ em đạt 35,2%; thực hiện kế hoạch hóa gia đình được
24,5%. Tuy nhiên, nhiều bản vẫn chưa có trạm xá, ở xa bệnh viện, đi lại khó
khăn, thiếu thuốc men nghiêm trọng.
Hoạt động văn hóa còn hạn chế, chương trình phát thanh và truyền
hình còn nhỏ lẻ, nghèo nàn, chưa thu hút được người dân. Điều này gây khó
khăn trong công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước trong nhân dân.
Như vậy, ở tỉnh Xiêng Khoảng hiện nay đã có gần như đầy đủ các loại
hình dịch vụ công cộng. Chính quyền tỉnh luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện
thúc đẩy, hỗ trợ cho các dịch vụ công cộng phát triển. Về nguyên tắc tổ chức
quản lý nhà nước thì chính quyền phải đảm bảo rằng sẽ cung ứng toàn bộ các
38
loại hình dịch vụ công cộng đáp ứng nhu cầu của người dân và tổ chức. Theo
đó, hiện nay ở tỉnh Xiêng Khoảng có các loại hình dịch vụ công cộng như:
Dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục, bảo hiểm xã hội, xây dựng đô thị, cung ứng
nước sạch, vệ sinh môi trường đô thị, nông thôn, các laoij hình dịch vụ về
kinh tế,….
2.2. Quản lý dịch vụ công cộng của chính quyền tỉnh Xiêng
Khoảng, nước CHDCND Lào
UBND tỉnh là cấp quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, thực
hiện chức năng QLNN trên địa bàn lãnh thổ nhất định. Việc tiến hành quản lý
chung, toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi, quy
mô địa phương, được cụ thể bởi địa giới quản lý hành chính nhất định. Ở
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, chính quyền địa phương được chia làm
3 cấp để quản lý xã hội là: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
UBND quận, huyện và cấp Bản. Theo đó, thì UBND tỉnh là cấp quản lý cao
nhất, là cấp quản lý trực tiếp đối với các quan hệ xã hội, các dịch vụ công
cộng ở địa phương cũng được cung ứng đầy đủ nhất. Hiện nay, ở Ủy ban
Nhân dân tỉnh Xiêng Khoảng, phương thức tổ chức quản lý nhà nước đối với
gần như toàn bộ các dịch vụ công cộng trên địa bàn.
2.2.1. Bộ máy quản lý nhà nước của Xiêng Khoảng
Về cơ bản tổ chức chính quyền, bộ máy quản lý nhà nước cấp tỉnh ở
nước CHDCND Lào cũng giống như ở Việt Nam, chỉ có một vài điểm khác
biệt là người đứng đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là tỉnh trưởng. Theo
pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào, Bí thư
tỉnh ủy kiêm Chủ tịch UBND tỉnh, gọi là tỉnh trưởng. Đây là sự nhất thể hóa
thể hiện sự tập trung về quyền lực và sự thống nhất tuyệt đối giữa Đảng và
Chính quyền. Về tổ chức bộ máy giúp việc ở Lào chia ra làm các Khối cơ
39
bản, riêng khối Sở ở Lào khác với Việt Nam là chỉ có 18 sở, là các đơn vị
giúp việc cho UBND tỉnh. Dưới cấp tỉnh là cấp huyện, có các Phòng ban chức
năng và cấp thấp nhất là cấp Bản, là đơn vị hành chính nhỏ nhất ở chính
quyền địa phương của Lào.
Về tổ chức bộ máy giúp việc ở tỉnh:
Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm Văn
phòng ủy ban nhân dân và các sở, ban, ngành, chia thành các khối cơ bản sau:
Khối tổng hợp: Văn phòng ủy ban nhân dân, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Sở Nội vụ.
Khối nội chính: Sở Tư pháp, Ban Thanh tra. Ngoài ra, các cơ quan sau
đây chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc ủy ban nhân dân:
Công An tỉnh, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh.
Khối lưu thông phân phối: Sở Thương mại, Sở Tài chính (trong đó có
Cục thuế, Kho bạc Nhà nước). Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành
chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc ủy ban nhân dân.
Khối nông lâm nghiệp: Sở Nông Lâm nghiệp, Sở Tài nguyên và môi
trường.
Khối công nghiệp: Sở Xây dựng, Sở Công nghiệp, Sở Giao thông vận
tải (hoặc Giao thông Công chính), Sở Bưu chính, Viễn thông, Sở Khoa học và
công nghệ (trong đó có Cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng), Sở khai thác
Mỏ
Khối văn hóa xã hội: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Sở Y tế, Sở Lao động, Xã hội và Phúc lợi, Ủy ban Dân số, Gia đình
và Trẻ em.
Như vậy, qua sự mô tả trên chúng ta có thể hình dung được về tổ chức
bộ máy QLNN ở tỉnh Xiêng Khoảng cũng khá giống với bộ máy tổ chức
40
chính quyền địa phương ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong vấn đề quản lý nhà
nước đối với các DVCC hiện nay, chính quyền địa phương ở tỉnh Xiêng
Khoảng nói riêng, chính quyền địa phương các tỉnh ở nước CHDCND Lào
nói chung có thể hình dung qua sơ đồ sau:
2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy QLNN về DVCC chung ở tỉnh Xiêng
Khoảng
UBND TỈNH
Các cơ quan thuộc UBND tỉnh (các Ban Quản lý,… UBND các huyện, thị xã, thành phố (07 huyện và 1 tỉnh lỵ)
Các cơ quan ngang Sở (Cục thuế, Cục thống kê,..)
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh gồm 18 Sở, ngành giúp UBND tỉnh QLNN về ngành, lĩnh vực
(Nguồn: Tổ chức chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào)
Sơ đồ 2.2. Tổ chức bộ máy QLNN về DVCC đối với một số dịch vụ
tuyến tỉnh
CHỦ TỊCH UBND TỈNH
GIÁM ĐỐC SỞ Y TẾ GIÁM ĐỐC SỞ TÀI CHÍNH GIÁM ĐỐC SỞ........ ..
GIÁM ĐỐC SỞ NỘI VỤ GIÁM ĐỐC SỞ GIÁO DỤC
41
Sơ đồ 2.3. Tổ chức bộ máy QLNN về DVCC đối với một số dịch vụ
tuyến huyện
CHỦ TỊCH UBND HUYỆN
PHÒNG Y TẾ
PHÒNG NỘI VỤ PHÒNG GIÁO DỤC
PHÒNG TÀI NGUYÊN, .........
PHÒNG TÀI CHÍNH, ( KẾ HOẠCHH
Nguồn: Tổ chức chính quyền địa phương ở nước CHDCND Lào)
2.2.2. Khía cạnh pháp lý của quản lý dịch vụ công cộng của chính
quyền tỉnh Xiêng Khoảng
Nhu cầu khách quan quy định trách nhiệm của Nhà nước đảm bảo các
dịch vụ công cộng xuất phát từ chức năng xã hội của Nhà nước. Bất kỳ Nhà
nước nào ra đời và tồn tại cũng có hai chức năng cơ bản là chức năng quản lý
(còn gọi là chức năng cai trị) và chức năng xã hội (hay chức năng phục vụ xã
hội). Xã hội càng phát triển thì chức năng xã hội càng mở rộng và được nhấn
mạnh hơn, theo đó cung ứng dịch vụ công trở thành một nhiệm vụ cơ bản của
Nhà nước. Đề cập tới khía cạnh pháp lý của quản lý về DVCC ở tỉnh Xiêng
Khoảng, nước CHDCND Lào là đề cập tới vấn đề pháp lý, các văn bản pháp
luật liên quan đến công tác quản lý về DVCC trên địa bàn tỉnh.
Hiện nay trong quản lý đối với dịch vụ công nói chung và đối với các
loại hình dịch vụ công cộng nói riêng ở Lào đã có sự phân biệt về chủ thể
cũng như đối tượng thụ hưởng. Theo quy định của pháp luật thì các cơ quan
QLNN ở địa phương (tuyến tỉnh) và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
có chức năng quản lý nhà nước đối với ngành và lĩnh vực mình phụ trách.
42
Điều này được quy định cụ thể trong luật tổ chức chính quyền địa phương
cũng như được quy định một cách rõ ràng trong chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng đơn vị. Việc thực hiện chức năng này chính là nội dung của
QLNN đối với DVCC. Riêng đối với các đối tượng thụ hưởng các loại hình
dịch vụ mà nhà nước cung cấp bao gồm cá nhân và các tổ chức phải tuân thủ
các quy tắc, quy định của pháp luật và được đối xử công bằng trong thụ
hưởng và sử dụng các dịch vụ công cộng do nhà nước mang lại. Các cơ quan
QLNN có chức năng quản lý và cung ứng dịch vụ, dựa vào quyền hạn và
nhiệm vụ của mình có quyền đề xuất những biện pháp, chính sách, những văn
bản để quản lý sao cho phù hợp với pháp luật hiện hành. Khi đề cập đến hiệu
quả của văn bản thì chúng ta dựa trên cơ sở chất lượng cũng như số lượng các
văn bản ban hành để đánh giá.
Như vậy, thực trạng ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật
đối với dịch vụ công cộng của các cấp chính quyền địa phương, nhất là ở
tuyến tỉnh cần đánh giá thực trạng ban hành chính sách phát triển các ngành,
lĩnh vực DVCC của các địa phương trên hai mặt: số lượng và nội dung (chất
lượng) của các văn bản mang tính chính sách do địa phương ban hành. Sau
khi sàng lọc và phân tích các văn bản có nội dung phù hợp với đối tượng và
phạm vi nghiên cứu của luận văn, cụ thể là:
Văn bản QLNN trong lĩnh vực giáo dục gồm các văn bân về quản lý
giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
Văn bản QLNN trong lĩnh vực y tế gồm các văn bản về quản lý hoạt
động khám, chữa bệnh.
Có 4 nhóm văn bản: nhóm văn bản nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn
thi hành các quyết định, chính sách của trung ương; nhóm văn bản nhằm giải
quyết các công việc mang tính thủ tục như đổi tên trường học; nhằm giải
quyết các công việc mang tính thường xuyên như việc tổ chức các kỳ thi tốt
43
nghiệp; và nhóm văn bản thể hiện chính sách đặc thù của địa phương, do địa
phương chủ động ban hành. Trên cơ sở phân loại đó, có thể thấy số quyết
định chính sách do các địa phương ban hành không nhiều; và trong số quyết
định chính sách đó, đa phần là các văn bản nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn
thi hành các quyết định, chính sách của trung ương. Khi phân tích nội dung
của các văn bản do các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành, có thể
thấy: Đa phần chính sách của địa phương là sự “mô phỏng”, sự cụ thể hóa
chính sách của trung ương tại địa phương; rất ít địa phương có chính sách đặc
thù của mình.
Qua đó có thể hình dung được tính pháp lý trong công tác QLNN đối
với DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng trong thời gian qua. Về cơ bản ở
Xiêng Khoảng thực hiện tốt các quy định của Nhà nước trong vấn đề cung
ứng và quản lý các loại hình dịch vụ hiện nay. Chủ thể cung ứng cũng như đối
tượng thụ hưởng dịch vụ đều được quy đĩnh chức năng, nghĩa vụ và quyền cụ
thể. Từ đó tạo ra hành lang pháp lý cơ bản đảm bảo cho việc vận hành các
loại hình dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh thông suốt. Trên cơ sở đó lãnh
đạo tỉnh, cùng với các cơ quan chuyên môn thường xuyên đề xuất những giải
pháp và văn bản quản lý kịp thời khắc phục và không ngừng nâng cao chất
lượng công tác ban hành văn bản ở địa phương.
2.2.3. Đội ngũ cán bộ quản lý
Năng lực hoạt động quản lý nhà nước của cán bộ quản lý cấp tỉnh là
khả năng của cán bộ, công chức quản lý cấp tỉnh trong việc thực hiện các
nhiệm vụ được phân công. Để hoạt động quản lý nhà nước của cán bộ quản lý
cấp tỉnh phải có kiến thức và kỹ năng về quản lý nhà nước trong quá trình tiến
hành các hoạt động quản lý trên thực tiễn công tác.
Khi đề cập tới thực trạng của một vấn đề nào đó nghĩa là ta đề cập tới
nội dung của nó, đề cập tới cái nó đang có, đang tồn tại. Thực trạng đó là cái
44
hiện thực, hiện trạng, dù nó có tốt hay xấu. Khi trình bày về thực trạng đội
ngũ cán bộ quản lý của một tỉnh bất kỳ, chúng ta thường đề cập tới ba lĩnh
vực cơ bản là: về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ đó. Hiện nay,
thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý ở tỉnh Xiêng Khoảng cần chú ý tới các mặt
như:
Về số lượng: Hiện nay toàn tỉnh có tổng số 896 cán bộ đang giữ các
chức vụ quản lý (từ cấp huyện đến cấp tỉnh), trong đó đội ngũ cán bộ, quản lý
cấp tỉnh có 748 người, tỷ lệ nữ chiếm 230 người.
Về độ tuổi thì, số cán bộ trẻ, dưới 40 tuổi chiếm 25%; số cán bộ từ đổ
tưởi 41-55, chiếm 35%; số cán bộ từ 56 - 60, chiếm 40%. Trong đó, tỷ lệ cán
bộ quản lý của các huyện đa phần là tuổi cao, chiếm 45%, có 20% số cán bộ
trẻ có thể cống hiến lâu dài cho sự nghiệp quản lý nhà nước ở địa phương.
Về mặt chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý ở tỉnh: Trong những năm
qua (2011 - 2016) toàn tỉnh đã đào tạo, bồi dưỡng được 400 cán bộ, có trình
độ cao đẳng và đại học; có 30 người có trình độ sau đại học; có 150 có trình
độ cao cấp và cử nhân lý luận chính trị; trình độ trung cấp và sơ cấp lý luận
chính trị là 250 học viên. Tuy nhiên, trên thực tế thì trình độ của đội ngũ cán
bộ công chức nói chung, đội ngũ cán bộ công chức giữ chức vụ quản lý nói
riêng còn chưa cao. Khả năng đáp ứng nhu cầu công việc còn hạn chế. Công
tác đào tạo chưa chú trọng đúng mức đến lực lượng thực sự cần phải được
đào tạo, chưa cân đối giữa các cấp học và ngành học.
Như vậy, chúng ta có thể thấy bên cạnh những ưu điểm của đội ngũ cán
bộ công chức ở tỉnh Xiêng Khoảng như có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt
đối trung thành với lý tưởng của Đảng và Nhà nước, trình độ, năng lực, kiến
thức về quản lý nhà nước không ngừng được nâng cao,…thì hiện nay đội ngũ
này cũng gặp không ít những khó khăn, yếu kém. Nguyên nhân của nó một
phần do điều kiện lịch sử xã hội, nhất là khả năng nghiên cứu khoa học, tiếp
45
thu những thành tựu mới của bên ngoài, cùng với khả năng tiếp cận thị trường
hàng hoá chưa cao, kiến thức quản lý nhà nước còn hạn chế so với yêu cầu
của thời kỳ mới.
Về mặt cơ cấu cán bộ: Trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng hiện nay có 20
Sở, ban, ngành, có 04 đoàn thể và 04 phòng thuộc diện tỉnh trưởng, có 110
phòng cấp tỉnh và có 130 văn phòng cấp huyện (chưa kể đến lực lượng quân
đội và Công an tỉnh).
Khi đi so sánh đội ngũ cán bộ quản lý của tỉnh hiện nay với những
năm về trước ta thấy số lượng đội ngũ cán bộ công chức tăng lên rõ rệt; chất
lượng cũng được cải thiện đáng kể cả về trình độ văn hoá lẫn trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Sơ cấp có 250 người, Chiếm
28.5%; Trung cấp có 400 người chiếm 44.6%; Cao đẳng và đại học có 150
chiếm 16.7%; sau đại học có 30 người, chiếm 3.34%; không có trình độ
chuyên môn có 66 người, Chiếm 7.4%.
Thông qua quá trình tiến hành đổi mới và phát triển, các cấp chính
quyền tỉnh Xiêng Khoảng nhận thức rõ đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước về công tác tổ chức cán bộ. Quán triệt tinh thần chung của công tác
cán bộ là ổn định đội ngũ để hướng đến phát triển lâu dài, bền vững. Từ đó,
tỉnh đã tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ trên cơ sở số cán bộ của tỉnh, công
tác quy hoạch cán bộ, tiến hành đào tao và đào tạo lại ở trong nước và ngoài
nước, thực hiện công tác bầu cử, bổ nhiệm, giải quyết chế độ, chính sách cho
đội ngũ cán bộ và dần hoàn thiện đội ngũ cán bộ công chức trong tỉnh cả về
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ lẫn đạo đức công vụ, để đáp ứng nhu cầu của
nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Trong công tác quy hoạch cán bộ thì Ban Tổ chức Tỉnh uỷ tham mưu,
được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ trực tiếp thông qua chính thức. Quá trình này
46
được triển khai xây dựng quy hoạch cán bộ các cấp, các ngành, các đơn vị đã
thực hiện chỉ đạo của Tỉnh uỷ và Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
Công tác quy hoạch phải đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai trong
việc lựa chọn, đánh giá và định hướng sắp xếp cán bộ. Công tác này cần được
tiến hành kiểm tra chu đáo, cần có báo cáo tình hình để kịp thời điều chỉnh, bổ
sung. Những cán bộ, công chức, nhất là lực lượng được quy hoạch vào nhũng
vị trí cao trong bộ máy lãnh dạo, quản lý ở tỉnh cần phải là người thực sự có
phẩm chất tốt, vững vàng về tư tưởng chính trị, đạo đức. Những mặt chưa đáp
ứng về kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ thì cần được lưu ý, chú
trọng đào tạo, đào tạo lại để bổ sung kịp thời.
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ công chức ở tỉnh trong
nhưng năm qua đã được quan tâm hơn và có sự đầu tư hợp lý nhằm nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức không ngừng được
nâng cao. Mặc dù ngân sách của tỉnh còn hạn chế, còn nhiều khó khăn do phải
đầu tư, giải quyết nhgiều vấn đề của tỉnh, tuy nhiên tỉnh vẫn dành những ưu
đãi đối với các cán bộ được cử đi học tập, tập huấn, nhằm khuyến khích, động
viên đối với các cán bộ tham gia học tập trong và ngoài nước.
Lãnh đạo các cấp Đảng, chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng xác định công
tác quản lý, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ
công chức cần phải được đặc biệt chú trọng quan tâm. Các đồng chí lãnh đạo,
quản lý ở từng đơn vị, ở các cấp, các ngành phải chủ động tiến hành, không
được ỷ lại, trông chờ vào tổ chức. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ công chức luôn được Ban Tổ chức tỉnh uỷ và các cấp uỷ Đảng quan tâm
thường xuyên, nhằm tìm hiểu, khích lệ cán bộ công chức có năng lực, tạo
nguồn cho các cơ quan, đơn vị trong tỉnh. Hàng năm, tổ chức nhiều chương
47
trình đưa cán bộ đi đào tạo, tập huấn ngắn hạn, dài hạn trong và ngoài nước,
trình độ, năng lực của đội ngũ không ngừng được nâng cao.
Song song với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì việc
bố trí, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức trên đại bàn tỉnh nhìn
chung đã đảm bảo các tiêu chuẩn về sở trường, đề bạt cán bộ đúng người,
đúng việc, đúng chuyên môn, chuyên ngành được đào tạo. Đồng thời, có
chính sách đoàn kết rộng rãi đối với các loại các bộ, công chức, biết trọng
dụng người có tài, có đức trong đội ngũ cán bộ công chức, trong Đảng và
đoàn thể xã hội. Và phải có chế độ quản lý chặt chẽ cán bộ trong công tác.
Các cấp uỷ đảng, thủ trưởng cơ quan phải nắm được toàn bộ số cán bộ, công
chức và từng cán bộ công chức cụ thể, phải hiểu được họ về tài, đức, về trình
độ, chuyên môn, sức khoẻ,… Từ đó, mới có cơ sở để bố trí, sắp xếp, sử dụng,
đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Nếu cán bộ công chức nào có thành tích
tốt cần phải được khen thưởng, động viên. Ngược lại, cũng có những chế tài,
xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm pháp luật của Nhà nước, vi
phạm điều lệ Đảng.
Chính vì thực hiện tốt công tác cán bộ, đặc biệt là đối với đội ngũ cán
bộ quản lý trong thời gian qua tỉnh Xiêng Khoảng đã cơ bản hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao, nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ, đặc biệt là các
loại hình dịch vụ công cộng. Theo đó mà đã đạt được những kết quả khả
quan: Hệ thống trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, các công trình giao thông
trọng điểm, hệ thống đèn chiếu sáng rộng khắp, vấn đề nước sạch và vệ sinh
môi trường được quan tâm, đảm bảo cung cấp đủ nước sách cho dân cư khu
vực đô thị, khu vực nông thông đáp ứng được đa số các Bản,… Để đạt được
những kết quả nêu trên đó là sự nỗ lực của toàn thể đội ngũ cán bộ và người
dân trong toàn tỉnh, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý.
48
2.2.4. Các loại dịch vụ công cộng của Xiêng Khoảng
2.2.4.1. Quản lý trong cung ứng dịch vụ văn hóa - giáo dục
Trong thời gian qua các mặt văn hóa - xã hội, bảo đảm đời sống dân
sinh trên địa bàn tỉnh đã có những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện. Nổi bật
trong đó là công tác giáo dục - đào tạo đã có bước phát triển mới về cả quy
mô và chất lượng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao về học tập của người dân. Hiện nay, 90% số giáo viên
trên địa bàn tỉnh đạt chuẩn, trên chuẩn chiếm 77%. Về cơ sở vật chất, tỉnh đã
xây dựng 8 trường học đạt chuẩn quốc gia, xây dựng mới 12 trường học và
sửa chữa, nâng cấp các trường học trên địa bàn.
Việc thực hiện phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa" được triển khai sâu rộng, có hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng,
củng cố các mối quan hệ giàu tính nhân văn trong cộng đồng; đồng thời đẩy
mạnh xây dựng, thực hiện các quy định, quy ước, quy chế, các mô hình văn
hóa; đẩy mạnh đầu tư hạ tầng văn hóa xã hội.
Nhà nước kết hợp với nhân dân cùng làm và do nhân dân đầu tư. Bằng
nguồn vốn xã hội hóa, tỉnh đã xây dựng các khu vui chơi công cộng; 8 khu
vui chơi dành cho trẻ em tại các huyện. Đầu tư xây dựng, nâng cấp và cải tạo
nhiều dự án thoát nước, cơ bản đáp ứng nhu cầu về nước sạch và giải quyết
vấn đề ngập úng trên địa bàn tỉnh; xây mới nhiều trạm biến áp, nâng cấp và
cải tạo các trạm biến áp đã xuống cấp, bảo đảm cung cấp điện cho sản xuất,
kinh doanh và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của người dân.
Năm 2006 đến 2011 cả tỉnh có 51 trường mầm non, đến năm 2015 tăng
lên 77 trường mầm non, có 332 trường tiểu học năm 2015 là 429 trường, khu
vực tư 6 trường, trường trung học cơ sở có 65 trường, khu vực tư 1 trường
đến 2015 tăng lên 93 trường, trong đó khu vực tư 3 trường. Đội ngũ cán bộ
giáo dục có 2286 người, nữ 1096 người.
49
Với những cố gắng, nỗ lực nêu trên, thời gian qua tỉnh Xiêng Khoảng
đã có những bước phát triển đột phá về xây dựng hạ tầng gắn với các lĩnh vực
bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Đây là tiền đề để Đảng bộ và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng tổ chức thắng
lợi các nhiệm vụ và mục tiêu đề ra, quyết định những mục tiêu, phương
hướng và các giải pháp chủ yếu cho giai đoạn 2015-2020, xây dựng địa bàn
thành tỉnh có tốc độ tăng cường cao trong khu vực và cả nước, phù hợp với xu
thế phát triển theo hướng hiện đại.
2.2.4.2. Quản lý về lĩnh vực y tế
Hoạt động y tế là một trong những hoạt động thể hiện chính sách an
sinh xã hội của Đảng và Nhà nước Lào nên Nhà nước phải giữ vai trò nòng
cốt trong việc định hướng cũng như thực thi các chính sách, pháp luật về y tế.
Để thể hiện vai trò nòng cốt này, Nhà nước đã tập trung ngân sách trong khả
năng có thể cho lĩnh vực y tế để chi cho phát triển hệ thống y tế công, trong
đó có xây dựng cơ bản, trang thiết bị, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực y tế.
Tuy nhiên, do ngân sách không đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành y
tế nên Nhà nước đã thực hiện chủ trưởng xã hội hóa công tác y tế nhằm huy
động các nguồn lực của xã hội tham gia, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực khám
bệnh, chữa bệnh.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, tới nay, hầu hết các bệnh
viện công lập sẽ được chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ,
cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công cộng, không bao cấp tràn lan và không
nhằm mục đích lợi nhuận, đồng thời phát triển mạnh các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh tư nhân, trong đó có phát triển các bệnh viện tư nhân. Việc xã hội
hóa này đã tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông
qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của con người
50
nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng
quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm
vụ. Rõ ràng, chủ trương này chủ yếu dựa vào các lợi ích vật chất, các đòn bảy
kinh tế để dung hoà các lợi ích của đội ngũ CCVC y tế, của tập thể và của
Nhà nước bằng cách xác lập cơ chế tự chủ tài chính cho các cơ sở khám chữa
bệnh công, nâng cao chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh, phát
triển y tế tư nhân, từng bước thực hiện BHYT toàn dân để thúc đẩy việc dành
ngân sách y tế chi cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính
sách. Đây là phương pháp cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lý
trong lĩnh vực y tế.
Trong công tác QLNN về y tế ở tỉnh Xiêng Khoảng trong thời gian qua
đã và đang thực hiện theo đúng chủ trương và chỉ đạo của Chính phủ và của
Bộ Y tế. Hiện nay có hai bệnh viện cấp tỉnh: một là của lực lượng quân đội và
một bệnh viện dân sự của tỉnh. Cấp huyện có 7 bệnh viện ở 7 huyện, có 50
trạm y tế và có 267 tủ thuốc giải quyết nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân. Đội ngũ cán bộ y tế ở tỉnh là 942 người, cấp tỉnh có 332 người, cấp
huyện 375 người, cán bộ ở trạm y tế có 235 người. Tuy nhiên, theo phân cấp
và tự chủ thì chính quyền địa phương, hay chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng có
hai tư cách:
Thứ nhất, là người thực hiện quyền làm chủ trực tiếp trong phạm vi địa
phương của nhân dân sống và làm việc trên đơn vị hành chính – lãnh thổ, đại
biểu cho quyền lợi của nhân dân ở địa phương.
Thứ hai, là một bộ phận của quyền làm chủ trên phạm vi cả nước của
nhân dân sống và làm việc trên lãnh thổ, là bộ phận của quyền lực nhà nước
thống nhất không phân chia, tức là người đại diện của Nhà nước trung ương ở
địa phương. Do đó, chính quyền địa phương vừa phải phục tùng vừa phải làm
chủ, tính chủ động sáng tạo rất cao của chính quyền và của nhân dân ở địa
51
phương; vừa phục tùng và bảo đảm lợi ích chung của Nhà nước, vừa bảo đảm
lợi ích của địa phương; hai mặt kết hợp hài hòa trên lãnh thổ, trong cùng một
thể thống nhất.
Thực hiện đúng chủ trương và đặt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho
người dân lên hàng đầu, trong thời gian qua ở tỉnh Xiêng Khoảng đã giải
quyết cơ bản và đảm bảo phục vụ tốt công tác khắm chữa bệnh cho nhân dân.
Bệnh viện đa khoa tỉnh không ngừng được nâng cấp và phát triển cả về chất
lượng khám chữa bệnh lẫn số lượng các thủ thuật mà bệnh viện đã đảm
nhiệm. Được sự quan tâm của chính quyền tỉnh, đặc biệt là của Sở Y tế tỉnh,
hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật không ngừng được đầu tư và nâng
cấp trở nên khang trang và hiện đại hơn. Hệ thống các trang thiết bị phục vụ
trong bệnh viện ngày càng hiện đại Đội ngũ y, bác sĩ không ngừng được đào
tạo và nâng cao trình độ. Đồng thời, các bệnh viên tuyến huyện cũng không
ngừng được đầu tư, phát triển, đã giải quyết tốt công tác chăm sóc sức khỏe
ban đầu và giảm tải cho bệnh viện tuyến tỉnh. Bênh cạnh đó, các bệnh viện,
phòng khám tư nhân cũng phát triển thoe hướng xã hội hóa các dịch vụ y tế
trong thời gian qua. Điều này góp phần giảm tải gánh năng và sức ép lên các
đơn vị sự nghiệp y tế công, góp phần chăm sóc sức khỏe cho người dân được
tốt hơn. Điều đó cho thấy tính đúng đắn trong công tác QLNN đối với dịch vụ
y tế ở Xiêng Khoảng trong thời gian qua.
2.2.4.3. Quản lý đối với dịch vụ Bảo hiểm xã hội
Theo con số thống kế của Bảo hiểm xã hội tỉnh Xiêng Khoảng, từ tháng
01 năm 2016, BHXH tỉnh tổ chức các đợt tuyên truyền rộng rãi bằng nhiều
hình thức tới các đơn vị sử dụng lao động, trong đó có nhiều Hội nghị với sự
tham dự của 900 đại diện đơn vị SDLĐ để giới thiệu, hướng dẫn quy trình
thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
(BHYT), bảo hiểm thất nghiệp; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT.
52
Nhận thức rõ lợi ích của giao dịch điện tử nên nhiều doanh nghiệp đã
đăng ký thực hiện. Riêng trong tháng 10 năm 2016 có thêm 40 doanh nghiệp
thực hiện phương thức giao dịch này, với hàng trăm lượt hồ sơ BHXH giao
dịch thành công. Để tiếp tục đẩy mạnh công tác này, BHXH tỉnh tiến hành tập
huấn trực tiếp cho hơn 800 đơn vị SDLĐ về giao dịch điện tử. Những đơn vị
SDLĐ nhỏ lẻ có nhu cầu, cơ quan BHXH sẵn sàng cấp phát tài liệu, tư vấn
hoặc cử cán bộ đến tận nơi hỗ trợ cài đặt, hướng dẫn sử dụng. Bên cạnh đó,
BHXH tỉnh đã tiếp nhận và trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu
chính cho hơn 500 đơn vị.
Với mục tiêu góp phần nâng cao nhận thức cho người dân và doanh
nghiệp về BHXH, BHYT, mới đây tỉnh đã phối hợp với BHXH các huyện tổ
chức đối thoại về chính sách pháp luật BHXH, BHYT. Dù luôn cố gắng, nỗ
lực tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ BHXH, BHYT, bảo
hiểm thất nghiệp, nhưng với những doanh nghiệp cố tình chây ỳ, chiếm dụng
quỹ, BHXH tỉnh sẽ phối hợp với cơ quan chức năng liên quan tiến hành thanh
tra, xử phạt, khởi kiện nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động, bảo toàn quỹ
BHXH và bảo đảm sự công bằng giữa các doanh nghiệp.
Đánh giá về công tác BHXH, BHYT trên địa bàn, Ban Tuyên giáo tỉnh
ủy tổng kết và báo cáo: Mặc dù BHXH tỉnh đã có nhiều nỗ lực nhưng diện
bao phủ BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Đặc biệt, số doanh nghiệp đăng ký tham gia BHXH nhiều nhưng cũng nhiều
doanh nghiệp đăng ký rồi để đó, chỉ đóng BHXH cho số ít lao động, hoặc chỉ
đóng BHXH trong thời gian đầu hoạt động, khiến số nợ BHXH ngày càng
tăng, ảnh hưởng quyền lợi của người lao động. Bên cạnh đó, tỷ lệ dân di cư,
lao động tự do trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng khá đông nhưng số tham gia
BHXH, BHYT chưa nhiều. Nguyên nhân do họ chưa được tìm hiểu, chưa
hiểu rõ những lợi ích mà chính sách BHXH, BHYT mang lại. Vì vậy, BHXH
53
tỉnh cần tiếp tục tuyên truyền, đối thoại, tăng cường sự hiểu biết giữa các bên
liên quan về BHXH, BHYT. Thông qua đối thoại, cơ quan BHXH lắng nghe
được ý kiến, đề xuất của người dân và doanh nghiệp để giải thích và tiếp tục
đổi mới, cải cách TTHC nhằm làm cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng
thực hiện các giao dịch BHXH, tiếp cận với chính sách an sinh xã hội.
2.2.4.4. Quản lý trong việc cung ứng dịch vụ xây dựng và phát triển
đô thị
Tỉnh Xiêng Khoảng là tỉnh có 1 tỉnh lỵ và 07 huyện, trong đó tốc độ đô
thị hóa phát triển khiến cho dân số tăng cao, trình độ dân trí không đồng đều,
trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân
trên địa bàn còn hạn chế đã gây khó khăn cho chính quyền các cấp trong công
tác quản lý Nhà nước. Việc tiếp nhận hồ sơ hành chính cũng như giải quyết
đơn thư, kiến nghị của tổ chức, công dân ngày càng cấp thiết với nhiều vấn đề
bức xúc nảy sinh. Từ năm 2011-2016 là giai đoạn tỉnh Xiêng Khoảng có quá
trình đô thị hóa mạnh mẽ với hàng loạt dự án cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội được đầu tư, triển khai thực hiện. Cùng với đó, sự gia tăng dân số đặt
ra nhiều vấn đề dân sinh cần giải quyết. Để phát huy truyền thống đoàn kết
thống nhất, với tinh thần chủ động và quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức thực hiện, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng đã hoàn thành
xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ, huy động và khai thác
có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển cũng như cải thiện, nâng cao
đời sống vật chất, và tinh thân cho người dân.
Với những kết quả mà tỉnh đã đạt được trong thời gian qua, điều đó cho
thấy rõ bước đột phá trong lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị hiện nay.
Trong 05 năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo toàn diện nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn, trong đó chú trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Thực hiện chuyển dịch
54
cơ cấu kinh tế, giá trị sản xuất ngành dịch vụ - thương mại có tốc độ tăng bình
quân 15,6%/năm, tỷ trọng bình quân chiếm 61,8% cơ cấu kinh tế địa bàn; giá
trị sản xuất công nghiệp, xây dựng bình quân tăng 13%/năm, tỷ trọng bình
quân trong cơ cấu kinh tế chiếm 38,2%. Đó là những dấu hiện khả quan,
khẳng định chủ trương, định hướng giải quyết của tỉnh Xiêng Khoảng là đúng
đắn và hiệu quả.
Quyết tâm tạo đột phá trong đầu tư xây dựng, quản lý và phát triển đô
thị, tỉnh đã tập trung quy hoạch và quản lý quy hoạch theo hướng nâng cao
chất lượng, hiệu lực và hiệu quả, bảo đảm thống nhất giữa quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng phát triển đô thị. Bằng nhiều nguồn
vốn khác nhau, tỉnh Xiêng Khoảng tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ, có
trọng tâm, trọng điểm nhiều dự án hạ tầng làm thay đổi cơ bản diện mạo
không gian kiến trúc, cảnh quan đô thị, tỉnh lỵ và thị trấn khang trang hơn.
Đặc biệt, hệ thống hạ tầng kỹ thuật khung, nhiều tuyến giao thông quan trọng
được xây dựng mới và hoàn thành có tính chất quyết định cho sự phát triển
như tuyến đường nối tỉnh lỵ với các huyện khác, rồi mạng lưới giao thông
thông suốt tới các bản… Điều đó góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn toàn
tỉnh. Để có bước đột phá trên, thời gian qua, công tác giải phóng mặt bằng đối
với các công trình trọng điểm của tỉnh được quyết liệt thực hiện với sự vào
cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị.
Công tác quản lý trật tự xây dựng và quản lý xây dựng theo quy hoạch
có chuyển biến tích cực, việc đẩy mạnh cải cách hành chính đã giúp cho công
tác cấp giấy phép xây dựng đạt yêu cầu về chất lượng và thời hạn thụ lý hồ sơ
theo quy định. Cùng với đó đã hoàn thành công tác lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đến năm 2020; tăng cường quản lý, giám sát sử dụng đối với các
55
tổ chức được giao đất, thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất, giải quyết
đơn thư liên quan tới việc quản lý và sử dụng đất…
Các hoạt động cung cấp điện, nước sạch, xử lý nước và chất thải, trồng
cây xanh, phục vụ chiếu sáng đô thị, … đều được Đảng bộ và chính quyền
tỉnh quan tâm và chú trọng phát triển. Những vấn đề lớn về mảng dịch vụ
công cộng đã được đáp ứng tốt (điện sản xuất và sinh hoạt, hệ thống cung cấp
nước sạch,… đã được tỉnh liên tục đầu tư xây dựng, tạo điều kiện ưu tiên
hàng đầu trong giải quyết các công việc, đáp ứng nhu cầu thiết yếu, cơ bản
của người dân và các tổ chức đóng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng. Đồng
thời, công tác quản lý nhà nước luôn được thực hiện và quán triệt chặt chẽ
trong mọi khâu từ cung ứng, đến sử dụng và kiểm tra kết quả, ý kiến phản hồi
của người dân trong sử dụng dịch vụ công cộng.
2.2.4.5. Quản lý đối với dịch vụ công cộng trong lĩnh vực kinh tế
Kinh tế là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có vai
trò quan trọng đối với sự sống và phát triển của xã hội loài người. Trong
QLNN cần có những biện pháp, công cụ và nguyên tắc để đảm bảo cho kinh
tế phát triển. Ở nước CHDCND Lào các ngành kinh tế đã có sự phát triển
đáng kể, góp phần ổn định cuộc sống của người dân ở khác các vùng miền
trong cả nước. Để đạt được kết quả đó, Nhà nước đã có những chính sách
thúc đẩy, hỗ trợ phát triển kinh tế ở tất cả các ngành, lĩnh vực trong phạm vi
cả nước, mở rộng hội nhập quốc tế, đa dang hóa thị trường xuất khẩu. Một
trong những công cụ và là biện pháp quan trọng mà nhà nước Lào thực hiện
đó là việc mở rộng các loại hình dịch vụ công cộng trong lĩnh vực kinh tế, có
sự kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước Lào trong vấn đề đa dạng hóa và mở rộng hoạt động dịch vụ công
cộng trong lĩnh vực kinh tế, trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng trong những năm
56
qua đã có những thành tựu, kết quả đáng kể. Đảng ủy đã chú trọng phát huy
các tiềm lực của mọi thành phần kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa. Ở đô thị cũng như các vùng nông thôn ở Xiêng Khoảng hiện nay kinh tế
khá phát triển, các lĩnh vực vệ sinh môi trường đô thị, nông thôn đã được
quan tâm và thu hút đầu tư của tư nhân, từ đó mà thành phần kinh tế này phát
triển. Kết quả là đã giải quyết được 70% nhu cầu của người dân về vấn đè
nước sạch, vệ sinh môi trường, hệ thống điện chiếu sáng từ thành thị đến nông
thôn ở tất tỉnh lỵ và cả 07 huyện của tỉnh Xiêng Khoảng. Về chỉ số GDP tăng
9% trên năm.
Đến Đại hội lần thứ VIII năm 2015 tổng GDP toàn tỉnh đạt 2.201,16 tỷ
kíp. Bình quân đầu người năm 2015 là 1328 USD trên người trong 1 năm. So
với kế hoạch đề ra tại đại hội lần thứ VI vượt 158 USD trên người trong 1
năm. Trong lĩnh vực phát triển du lịch, các loại hình dịch vụ công cộng cũng
không ngừng phát triển, đáp ứng nhu cầu của người dân trong nước và quốc
tế. Với nhiều di tích nổi tiếng, đặc biệt là cách đồng Chum Xiêng Khoảng, nơi
ghi dấu ấn trong kháng chiến chống Mỹ, và là di tích đặc biệt, cấp quốc gia ở
Lào. Hàng năm, đón hàng vạn lượt du khách ghé thăm, mang lại nguồn thu
lớn về cho tỉnh, góp phần giải quyết việc làm cho người dân và tích cực
chuyển dịch cơ cấu lao động trong toàn tỉnh. Bên cạnh đó, các dịch vụ du lịch
nghỉ dưỡng, nhà vườn ở Xiêng Khoảng cũng có tín hiệu mới. Do môi trường,
khí hậu có ưu đãi nhất định, cây cối xanh tốt, môi trường trong lành, nhiều
công ty du lịch ra đời, quảng bá hình ảnh của địa phương tới nhân dân trong
nước và quốc tế. Thông qua các hoạt động này các nhà hàng, khách sạn mọc
lên, cung cấp dịch vụ, phục vụ du khách. Từ đó, các dịch vụ công cộng trong
lĩnh vực cũng được đẩy mạnh phát triển như dịch vụ vận tải hành khách, dịch
vụ hàng không, dịch vụ lưu trú,…. Một số kết quả về hạ tầng cơ sở ở Xiêng
Khoảng phát triển, đường huyện trong toàn tỉnh đều có đường nhựa, các nơi
57
trọng điểm chiếm 98,5%. Chỉ còn 6 làng bản là chưa có đường đến tận nơi.
Điện giải quyết 85% trong toàn tỉnh, viễn thông năm 2015 mạng lưới phát
triển đảm bảo 78% nhu cầu toàn tỉnh, so với năm 2010 tăng 30%
Đồng thời với dịch vụ này, các dịch vụ công cộng khác trong lĩnh vực
nông nghiệp sạch, công nghiệp chế biến, xuất khẩu hàng hóa, nông sản, thực
phẩm,… đến người tiêu dùng, đến các thị trường mới ngày càng nhiều. Cũng
từ đó có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư ở Xiêng Khoảng, giải
quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Ngoài ra, khi các doanh
nghiệp đầu tư, họ tích cực trang bị hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại,
có sự chung tay, góp sức giữa nhà nước và doanh nghiệp, người dân mà hệ
thống cầu cống, đường xá, giao thông được đầu tư và mở rộng, góp phần lưu
thông thông suốt.
2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng của chính
quyền tỉnh Xiêng Khoảng
2.3.1. Những thành công và nguyên nhân
2.3.1.1. Những thành công
Trong những năm qua, công tác QLNN đối với DVCC trên địa bàn tỉnh
Xiêng Khoảng có nhiều điểm mới, theo hướng tiến bộ, làm thay đổi diện mạo
của tỉnh cũng như thay đổi nết sống và sinh hoạt của người dân. Từ đó mà
chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt. Sự chỉ đạo sáng
suốt và đúng đắn của các cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh đã bước đầu mang
lại những kết quả khả quan, dự báo trong tương lai tỉnh sẽ phát triển theo
hướng hiện đại, với cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác được các tiềm năng thế
mạnh của địa phương. Sự đa dạng hóa các loại hình dịch vụ công cộng cùng
với sự quản lý chặt chẽ và theo những quy chuẩn khoa học đã làm nền hành
chính của địa phương trở nên nhanh, hiệu quả và thiết thực.
58
Ưu điểm đầu tiên phải kể đến đó là sự đa dạng về số lượng các loại
hình dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh từ công lập, đến bán công, đến tư
nhân hóa đều được đẩy mạnh và phát triển theo hướng linh động và hiệu quả.
Các loại hình dịch vụ y tế, giáo dục, thể thao, môi trường, vận tải,.. đều được
quan tâm đầu tư và phát huy hiệu quả thiết thực. Qua đó giúp cho người dân
tiếp cận và sử dụng dịch vụ được thuận tiện và dễ dàng.
Thứ hai đó chính là việc không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ
đếm đến cho người dân thụ hưởng chất lượng tốt nhất trong điều kiện có thể
trên địa bàn. Các dịch vụ đều được quản lý bởi hệ thống các tiêu chuẩn đáp
ứng đòi hỏi của từng ngành, lĩnh vực và được quản lý bởi cơ quan chức năng
có thẩm quyền. Ví dụ đối với yêu cầu của việc mở rộng trường học tư thục,
chính quyền tỉnh đưa ra những tiêu chỉ cụ thể về số lượng giáo viên có trình
độ là bao nhiêu? Hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất như thế nào? Đào tạo
trên những địa bàn và đối tượng hướng đến là ai?,.... Tổ chức và doanh nghiệp
đáp ứng được các tiêu chí trên, khi đó cơ quan quản lý nhà nước có thểm
quyền xem xét và phê duyệt, quản lý và cấp phép theo trình tự, thủ tục rõ ràng
của pháp luật. Điều đó cho thấy chất lượng của dịch vụ được nâng lên một
cách khách quan và tất yếu.
Thứ ba, khả năng đáp ứng của chủ thể quản lý và đối tượng thụ hưởng
được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Trong cùng một địa bàn, cùng một lĩnh vực
cung ứng có nhiều chủ thể cung ứng và đáp ứng nhiều đối tượng khác nhau có
nhu cầu. Điều này cho thấy dấu hiệu của một nền hành chính cởi mở, hành
chính phục vụ đã và đang được triển khai và dần trở thành hiện thực ở Xiêng
Khoảng.
Thứ tư, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, cung ứng các dịch
vụ công cộng được nhanh chóng và công khai rộng rãi. Với hệ thống thông
tin trong quản lý được khai thác triệt để, sự ứng công nghệ thông tin vào
59
QLNN đang được áp dụng ở Xiêng Khoảng với tốc độ cao, đặc biệt là tuyến
tỉnh. Các hồ sở hành chính được tiếp nhận và giải quyết bằng hệ thống cổng
thông tin điện tử, và công khai các bước, các quy trình cụ thể và rõ ràng để
người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ được thuận lợi hơn.
Thứ năm, mức độ hài lòng của người dân sử dụng dịch vụ không ngừng
được nhân rộng. Qua thực tế xã hội hóa các loại hình dịch vụ, đặc biệt là dịch
vụ công cộng ở Xiêng Khoảng trong thời gian qua, các tổ chức, cá nhân đều
tỏ ra hài lòng và thaoir mái khi tiếp cận và sử dụng, cung ứng dịch vụ. Điều
này chống độc quyền trong cung ứng dịch vụ, giảm tính quan liêu, nhũng
nhiễu của một số bộ phận cán bộ, công chức nhà nước.
2.3.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là do sự chỉ đạo đúng đắn và
khoa học của các cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng trong vấn
đề cung ứng DVC, và nhất là cung ứng và quản lý DVCC trong thời gian qua.
Căn cứ vào đường lối đổi mới của cả nước, vào chủ trương của Đảng và Nhà
nước Lào về cải cách hành chính, xã hội hóa các loại hình dịch vụ công mà
lãnh đạo và chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng đã đề ra chủ trương, đường lối
thúc đẩy sự phát triển ở tỉnh. Dựa trên điều kiện và tình hình của địa phương,
các cấp lãnh đạo đã đề ra những giải pháp hợp lý, khoa học và mang lại
những kết quả tốt đẹp trong công tác QLNN đối với DVCC ở Xiêng Khoảng.
Thứ hai, đó chính là sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và chính
quyền, sự vào cuộc của các cấp các ngành trong tỉnh để thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ và mục tiêu đã đề ra trong công cuộc xây dựng và phát triển địa
phương, hướng đến những mục tiêu cao hơn trong phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh, hòa vào sự phát triển chung của cả nước.
Thứ ba, trong những năm qua chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
không ngừng được nâng lên cả về trình độ lý luận, trình độ học vấn lẫn kiến
60
thức quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, không ngừng trao dồi đạo đức công vụ,
không ngừng được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng và đủ sức đảm
đương các công việc được giao phó.
Thứ tư, việc không ngừng ứng khoa học công nghệ, thông tin liên lạc,
thực hiện mô hình chính phủ điện tự trong QLNN đối với DVCC đã mang lại
những kết quả tốt đẹp. Qua đó rút ngắn thời gian giải quyết công việc, rút
ngắn được các khâu rườm ra trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ. Từ đó mà
chất lượng sử dụng dịch vụ được nâng lên và công tác QLNN được chặt chẽ,
thuận lợi hơn.
Thứ năm, hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, hệ thống đường xá,
cầu cống, ánh sáng, nước sạch,... không ngừng được chính quyền quan tâm
và đầu tư đã trở thành động lực thúc đẩy trở lại sự phát triển của các lĩnh vực,
các ngành nghề trong tỉnh. Qua đó cho thấy sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
chủ trương đẩy mạnh đa dạng hóa các loại hình dịch vụ với việc nâng cao
chất lượng các công trình, dịch vụ là biện chứng lẫn nhau.
Thứ sáu, chủ trương kêu gọi nguồn lực đầu tư từ phái quốc tế, từ phía
các đơn vị tỉnh lân cận và khơi dậy nguồn lực tại chỗ, nguồn lực trong nhân
đã đem lại nguồn sinh khí mới, thúc đẩy sự đa dạng hóa và sự tham gia của
mọi đối tượng trong phát triển dịch vụ công cộng, phát triển kinh tế, xã hội
của tỉnh là chủ trương hợp lý và hiệu quả.
Như vậy, để có sự phát triển như hiện nay, lãnh đạo và nhân dân trong
tỉnh đã khắc phục mọi khó khăn, dựa vào nguồn lực vốn có huy động mọi
nguồn lực trong dân, kêu gọi đâu tư từ các tỉnh, các nước khác trên thế giới
góp phần xây dựng tỉnh Xiêng Khoảng không ngừng phát triển. Để tỉnh
không ngừng phát triển trong những năm tiếp theo, chúng ta cần phải phát
huy mọi yếu tố và nhất là phải biết kết hợp mọi nguồn lực từ trong và ngoài
tỉnh, từ phía nhà nước và người dân để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
61
hiện đại hóa, nâng cao chất lượng và đời sống của nhân dân. Cũng qua đó có
thể khẳng định vai trò QLNN của các cơ quan chức năng đối với DVCC là vô
cùng cần thiết và là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp cây dựng và phát
triển của tỉnh, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế
Cải cách hành chính đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong quan
hệ giữa tổ chức và nhân dân với chính quyền cơ sở. Tại Ủy ban nhân dân tỉnh
đã niêm yết công khai các thủ tục, thời gian, mức phí,… và cũng trên cơ sở đó
chuyển các huyện, bản cũng thực hiện công khai các thủ tục mà đơn vị mình
giải quyết, các Sở ban ngành trực thuộc tỉnh cũng thực hiện theo đúng chỉ đạo
của lãnh đạo tỉnh. Do đó tính minh bạch, công khai về quy định thủ tục giải
quyết công việc cho người dân được tăng lên. Trách nhiệm và mối quan hệ
giữa các CBCC, giữa các bộ phận về cơ bản được xác định một cách rõ ràng
và cụ thể góp phần tạo ra cơ chế phối hợp trong giải quyết các công việc, thúc
đẩy sự hợp tác và trách nhiệm vì mục tiêu chung. Quy trình quan hệ công việc
được tổ chức khoa học, chặt chẽ giúp lãnh đạo có điều kiện kiểm tra, giám sát
đội ngũ CBCC.
Bên cạnh đó, chất lượng hoạt động công vụ, hoạt động quản lý nhà
nước đối với dịch vụ công cộng, ý thức tổ chức kỷ luật cũng như tinh thần
trách nhiệm phục vụ tổ chức, công dân của CBCC được nâng lên rõ rệt. Vấn
đề này được khẳng định qua hầu hết các ý kiến nhận xét của nhân dân khi đến
giao dịch, sử dụng dịch vụ công cộng. Các biểu hiện tiêu cực như hạch sách,
đòi hối lộ phần nào được ngăn chặn, đẩy lùi, từng bước góp phần củng cố
niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan công quyền. Như vậy, thông qua
việc nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng, người dân được tôn
trọng và phục vụ tốt hơn, thực sự là khách hàng, lấy sự hài lòng của người
62
dân làm tiêu chí cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các
cơ quan HCNN. Tuy nhiên, trong chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng
hiện nay còn chưa cao, vần còn nhiều hạn chế. Những tồn tại, hạn chế trong
việc cung ứng dịch vụ công cộng ở tỉnh Xiêng Khoảng tương đối đa dạng gắn
với các đặc điểm của từng loại dịch vụ khác nhau, chủ yếu thể hiện như sau:
Thái độ phục vụ của công chức chưa đáp ứng yêu cầu đề ra: Trên thực
tế, vẫn còn không ít công chức có thái độ cửa quyền, lạnh nhạt, gây khó khăn,
phiền hà đối với người dân. Điều đó gây nên một tâm lý ức chế, nặng nề và
phổ biến trong xã hội về sự khó khăn trong việc tiếp cận đến các DVCC, tạo
thành một rào chắn về tâm lý trong mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ
chức và công dân, làm cho người dân ngại tiếp xúc với các cơ quan công
quyền, không có thiện cảm chính quyền.
Năng lực của CBCC còn chưa đáp ứng được mong đợi của công dân,
như sự am hiểu, thuần thục với quy trình giải quyết thủ tục; cách thức hướng
dẫn, giải thích thủ tục hồ sơ chưa phù hợp làm cho công dân khó hiểu để tiếp
nhận thông tin. Công tác tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định
hành chính và giải quyết TTHC của địa phương có khi chưa kịp thời, vẫn còn
tình trạng hồ sơ trễ hạn, mặc dù tỉ lệ trễ hạn rất thấp.
Công dân và tổ chức không lấy được các thông tin cần thiết ở đâu về
thủ tục, quy trình, các quy định cần thiết, một số người dân hoàn toàn không
được biết về cơ chế hoạt động, kết quả hoạt động của các cơ quan HCNN.
Điều đó đặt ra vấn đề là cần phải có cơ chế phối hợp, phản hồi giữa Nhà nước
và công dân chặt chẽ hơn, đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động hành chính,
nhất là trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cộng.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
tuy nhiên chúng ta có thể thấy rõ một số nguyên nhân cơ bản sau:
63
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là do chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công
cộng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng, CBCC chưa có đủ động
cơ làm việc tốt với yêu cầu đặt ra như:
Về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ: Việc trang bị các kiến thức hành
chính cho đội cán bộ, ngũ công chức đã được triển khai song hiệu quả chưa
cao, các kiến thức được đào tạo mang tính lý luận chung, chưa phù hợp với
yêu cầu công việc, khó đi vào thực tiễn; một số trường hợp cán bộ, công chức
thực hiện việc cung ứng DVCC được đào tạo từ những chuyên ngành khác;
Ngoài kiến thức chuyên môn, đa số cán bộ, công chức thiếu những kiến thức
hành chính, làm cho bộ máy hành chính vận hành chưa hiệu quả; Các công
chức trưởng thành chủ yếu qua rèn luyện thực tế, nên nhiều khi thiếu tính
khoa học và chưa hợp lý trong xử lý công việc. Do đó, năng lực của cán bộ,
công chức còn nhiều hạn chế so với yêu cầu đặt ra.
Về kỹ năng hoạt động công vụ: điều còn tồn tại là cán bộ, công chức
thiếu các kỹ năng hoạt động cụ thể, hầu hết không có đủ kỹ năng cần thiết
trong hoạt động quản lý nhà nước cũng như cung ứng DVCC. Các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng chưa chú trọng đến và chưa mang tính tính kỹ năng
thực hành, nên không thể hoàn thành tốt công việc được giao, như: Không
biết cách giao tiếp, ứng xử với khách hàng; xử lý công việc chậm, chưa khoa
học; chưa biết cách lập và lưu trữ hồ sơ; khả năng sử dụng công nghệ mới
trong công việc còn hạn chế; ... Thực tế đó đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải
trang bị các kỹ năng hành chính cần thiết cho đội ngũ cán bộ, công chức.
Về đạo đức công vụ: Trên thực tế, vẫn còn một số ít trong đội ngũ cán
bộ, công chức còn tư tưởng ban phát đối với người dân và tổ chức khi họ sử
dụng dịch vụ, lợi dụng vị trí công tác và thẩm quyền của mình để gây phiền
hà cho tổ chức, công dân, có thái độ đối xử không công bằng với khách hàng.
64
Thứ hai là công tác đánh giá cán bộ, công chức một cách chung chung,
mang tính hình thức không theo những tiêu chí cụ thể phù hợp với từng loại
công việc và từng chức danh, từ đó làm xói mòn sự nhiệt tình của cán bộ,
công chức, chưa tạo ra được động lực để công chức phát huy sáng kiến. Cùng
với cơ chế đánh giá không rõ ràng đó là cơ chế thưởng, phạt chưa phân minh,
không đủ mạnh để động viên sự tích cực cũng như để xử lý thích đáng và
ngăn chặn có hiệu quả đối với các hành vi tiêu cực.
Thứ ba là về chính sách tiền lương, thưởng, còn nhiều hạn chế cơ bản,
việc trả lương chưa tương xứng với sự đóng góp của mỗi người, không phân
biệt giữa người làm việc tốt và người làm việc chưa tốt. Điều đó làm cho một
số cán bộ, công chức thiếu động lực làm việc, chưa có đủ động cơ cống hiến
hết mình cho công việc, dẫn đến những hành vi tiêu cực như sách nhiễu khách
hàng, hối lộ,...
Thứ tư, là việc xã hội hóa dịch vụ công còn chậm so với sự phát triển
của xã hội. Hiện nay, trên thế giới nhiều quốc gia phát triển đã chuyên giao
những công việc, những dịch vụ công cho các tổ chức tư nhân, ngoài nhà
nước thực hiện và mang lại hiệu quả cao. Điều đó khơi dậy được sức mạnh
của toàn xã hội đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước. Yêu cầu đặt ra
đối với nước ta trong thời gian tới cần xã hội hóa với tốc độ mạnh mẽ hơn,
chuyển giao những DVC mà khu vực ngoài nhà nước có thể đảm đương được,
giảm tải gánh nặng cho Nhà nước.
Thứ năm, cơ cấu tổ chức và cơ chế cung cấp dịch vụ công còn nhiều
hạn chế như: Việc phân công công việc giữa các thành viên trong tổ chức còn
nhiều điểm chưa phù hợp, không khuyến khích được tính sáng tạo của CBCC
mà còn tạo ra những khó khăn do những bất cập trong sự phối hợp công tác
giữa các thành viên với nhau, vì thế cung ứng một số dịch vụ còn phức tạp,
kéo dài, không khoa học, dẫn đến chậm trễ.
65
Thứ sáu, là hoạt động giám sát, kiểm tra vẫn còn bị buông lỏng, chưa
được quan tâm đúng mức, thiếu cơ chế ngăn ngừa trong nội bộ. Từ đó dẫn
đến những tiêu cực trong hoạt động quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ
công cộng. Như vậy, gần như tất cả các vấn đề nêu trên đều liên quan đến
việc thực hiện chức năng bảo đảm các dịch vụ công cộng của Nhà nước. Có
nhiều nhận định đã chỉ ra rằng: Một Nhà nước có hiệu lực là nhân tố thiết yếu
cho việc cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như các quy định
và thể chế cho phép các thị trường phát triển mạnh mẽ và con người có đời
sống khoẻ mạnh hơn, hạnh phúc hơn. Nếu không có nó, sự phát triển bền
vững cả về mặt kinh tế và xã hội là không thể có được. Điều đó cho thấy tầm
quan trọng cũng như vai trò của công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ
công cộng trong giai đoạn hiện nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Đối với người dân, cảm thụ tính ưu việt của xã hội chính là thông qua
những gì họ được thụ hưởng từ dịch vụ xã hội mang lại. Khi con người ngày
càng ý thức rõ rệt hơn quyền lợi của mình, thì thụ hưởng dịch vụ xã hội, dịch
vụ công cộng với chất lượng tốt hơn, trách nhiệm cao hơn là thước đo trực
tiếp đảm bảo quyền con người trong xã hội. Nền kinh tế xã hội của một quốc
gia càng phát triển thì nhu cầu đối với dịch vụ công cộng ngày càng cao và
đòi hỏi cần phải chú trọng nhiều hơn nhằm tạo ra sự công bằng, ổn định và
phát triển xã hội một cách bền vững.
Trong chương 2, tác giả đã trình bày và phân tích thực trạng QLNN đối
với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng trên một số lĩnh vực cụ thể. Trong các lĩnh
vực QLNN về DVCC ở tỉnh thì vấn đề QLNN về quản lý và cung ứng các
loại hình dịch vụ tương đối tốt. Bên cạnh đó các lĩnh vực cung ứng dịch vụ
văn hóa, giáo dục, y tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn... cũng thực hiện khá tốt, công tác chăm sóc sức
66
khỏe cho người dân được thực đầy đủ và đạt hiệu quả cao, các vấn đề cần có
sự QLNN được đáp ứng kịp thời và đầy đủ. Không chỉ có vậy, trong chương
2, tác giả cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của vấn đề
liên quan đến công tác QLNN đối với DVCC ở tỉnh. Trong những nguyên
nhân đó có nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp tác động đến hiệu quả QLNN đối
với DVCC ở tỉnh. Tuy nhiên, đứng trên góc độ của QLNN thì có thể tách
bạch ra đâu là nguyên nhân chủ quan, đâu là nguyên nhân khách quan, để từ
đó có hướng phát triển điểm mạnh, khắc phục những tồn tại, yếu kém để góp
phần hoàn thiện QLNN đối với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng giai đoạn hiện
nay. Trên cơ sở nắm bắt được những nguyên nhân trên chúng ta có có sở để
đưa ra những giải pháp đúng đắn, góp phần tăng cường và hoàn thiện hơn nữa
công tác QLNN đối với DVCC trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2 chính là cơ sở thực tiễn để từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường
quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng sẽ được trình bày và phân tích
trong chương 3.
67
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1 Phương hướng của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển
dịch vụ công cộng
Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước Lào hiện nay, Đảng Nhân dân
cách mạng Lào đã đề ra những chủ trương, chú trọng phát triển hoạt động
dịch vụ công, các loại hình dịch vụ công cộng, du lịch, chỉ đạo, ban hành và
tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về dịch vụ công công, dịch vụ du lịch.
Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào VII xác định: Thúc đẩy đầu tư phát
triển các loại hình dịch vụ, địa điểm du lịch, phát triển nguồn nhân lực, củng
cố cơ chế quản lý, các ngành có liên quan; các địa phương phải có kế hoạch
phát triểndịch vụ phù hợp với điều kiện hiện nay. Nội dung này cũng được ghi
nhận trong Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
(CHDCND) năm 2003.
Nghị quyết của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã chỉ rõ phải: Đẩy
mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực tiếp liên
quan đến đời sống nhân dân.
Cũng theo đó, các văn kiện của Đảng nhấn mạnh rằng: Đẩy mạnh cải
cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và
năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,
phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
68
nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của
đất nước.
Chính vì vậy mà trong những năm qua các cơ quan nhà nước, các đơn
vị thực hiện chức năng QLNN đối với các loại hình dịch vụ công không
ngừng đổi mới và hoàn thiện, các loại hình dịch vụ tăng lên cả về số lượng và
chất lượng, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Nhờ chính sách phát triển các
loại hình dịch vụ công cộng, nhiều tiềm năng phát triển của đất nước đã được
các địa phương đưa vào khai thác phát huy giá trị, giải quyết việc làm cho
nhiều lao động, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành khác như:
giao thông, hàng không, xây dựng, bưu điện, ngân hàng… theo đó các ngành
văn hóa, xã hội, y tế,… có bước phát triển phát triển để phục vụ khách nhân
dân. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã khẳng định: Dịch vụ công cộng là
một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, góp phần vào nâng cao dân trí, tạo
việc làm và phát triển kinh tế - xã hội và coi phát triển dịch vụ là chiến lược
quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực
hiện CNH, HĐH đất nước, phấn đấu đưa đất nước Lào trở thành trung tâm
phát triển trong khu vực. Nhà nước Lào đã xác định dịch vụ là một ngành
kinh tế hàng đầu, có những nét đặc thù riêng, mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc,
có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Thực hiện chủ trương trên, từ
khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế và hợp tác quốc tế, hoạt
động dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của
đất nước.
Như vậy, được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước tới công
tác cải cách hành chính, các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng cung ứng
dịch vụ công cộng ngày càng hoàn thiện cả về tổ chức bộ máy, cơ chế làm
việc, mục tiêu hướng tới,… điều này chính là cơ sở vững chắc cho việc tăng
69
cường hơn nữa công tác QLNN đối với DVCC trên thực tế ở các cơ quan, đơn
vị hiện nay trong bộ máy HCNN.
Có thể thấy tỉnh Xiêng Khoảng trong những năm qua đã có những phát
triển mạnh mẽ về các loại hình dịch vụ công, trong đó có các loại hình dịch vụ
công cộng. Đây là nơi diễn ra các hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng với
tần suất lớn và lượng nhu cầu nhiều, do đó đòi hỏi sự quản lý phải chặt chẽ,
thường xuyên, liên tục hoạt động cung ứng DVCC của các cơ quan và tình
hình sử dụng dịch vụ của đối tượng thụ hưởng. Điều đó đặt ra cho Đảng bộ và
chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng cần những chủ trương, định hướng cụ thể đáp
ứng nhu cầu của người dân và tổ chức.
Thứ nhất, về cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động của CQNN: Tổng
rà soát và định kỳ rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
biên chế hiện có của các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp nhà nước.
Trên cơ sở đó, phân định chức năng QLNN và sự nghiệp công; xóa bỏ chồng
chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức
và hoạt động của chính quyền đô thị. Tiếp tục thực hiện phân cấp hợp lý giữa
UBND tỉnh cho các Sở ban ngành, cơ quan chuyên môn và UBND các huyện,
bản; bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả thẩm quyền
được phân cấp. Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá chất lượng cung ứng
dịch vụ công cộng của các đơn vị sự nghiệp, có so sánh với chất lượng của
các đơn vị do khu vực tư đảm nhiệm. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý,
điều hành của chính quyền cơ sở.
Thứ hai, không ngừng ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách
hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng
Tin học hóa các quy trình công việc trong nội bộ cơ quan hành chính,
trong giao dịch với các cơ quan hành chính với nhau và trong giao dịch với tổ
chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng. Công
70
bố danh mục các dịch vụ công, dịch vụ công cộng trực tuyến trên trang thông
tin điện tử của các cơ quan HCNN. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu
điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính, tổ chức và cá nhân. Bên
cạnh đó, hình thành các cơ sở dữ liệu chung, phục vụ cho công tác quản lý
hành chính nhà nước. Hệ thống một cửa điện tử được triển khai tại các sở,
ban, ngành và UBND các cấp; tích hợp và liên thông, liên kết đồng bộ vào
cổng thông tin điện tử trên toàn tỉnh.
Thứ ba, không ngừng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức thực hiện nhiệm vụ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ CCVC có chuyên môn, nghiệp vu, hướng tới
chuyên nghiệp hoá, hợp lý về cơ cấu gắn với vị trí việc làm trên cơ sở xác
định rõ về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Từng bước xây
dựng hệ thống vị trí chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ CCVC, kể cả cán
bộ, công chức lãnh đạo, quản lý. Đi đôi với vấn đề này là tiếp tục hoàn thiện
chế độ tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực
và phẩm chất của CCVC trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo
nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí phù
hợp. Xây dựng cơ chế đánh giá cán bộ CCVC theo kết quả công việc; xây
dựng cơ chế trả thu nhập và khen thưởng theo kết quả hoàn thành công việc;
vinh danh cán bộ CCVC tiêu biểu. Đây cũng chính là chủ trương xây dựng và
phát triển người cán bộ mẫu mực trong chủ trương về công tác cán bộ ở tỉnh
Xiêng Khoảng trong thời gian qua.
Thứ tư, không ngừng cải cách thủ tục hành chính
Thường xuyên rà soát, đơn giản và kiến nghị cấp có thẩm quyền thực
hiện đơn giản hóa TTHC trên tất cả các lĩnh vực QLNN, trọng tâm là những
TTHC còn phiền hà, liên quan trực tiếp đến người dân. Những lĩnh vực tập
trung là: Đầu tư xây dựng; đất đai; y tế; giáo dục; việc làm;… và các lĩnh vực
71
khác theo yêu cầu thực tiễn. Cải cách TTHC trong nội bộ từng cơ quan, đơn
vị và giữa các cấp với nhau. Công khai minh bạch tất cả thủ tục hành chính
dưới các hình thức thiết thực và thích hợp.
Thứ năm, về cải cách thể chế hành chính: Thường xuyên rà soát, sửa
đổi và hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý hành chính của tỉnh trên nguyên
tắc đảm bảo tính thống nhất với các chủ trương, chính sách, pháp luật của
Trung ương, thông suốt trên toàn tỉnh và phù hợp với quá trình phát triển kinh
tế, xã hội của địa phương và cả nước; Xây dựng quy định về việc lấy ý kiến
của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách quan trọng và thực hiện
quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước; Nghiên
cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền cho phép triển khai các chính sách đặc thù
của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, hiện đại và phù
hợp với điều kiện thực tiễn về QLNN của chính quyền trên cơ sở điều kiện tự
nhiên và tính đặc thù của tỉnh Xiêng Khoảng trong phát triển hiện nay.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với dịch vụ
công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước
đối với các dịch vụ công cộng
Để nâng cao chất lượng cung ứng DVCC, cơ cấu tổ chức của cơ quan
cung ứng dịch vụ phải được sắp xếp hợp lý, gọn nhẹ trên cơ sở xác định số
lượng các đầu việc phù hợp. Tổ chức biên chế và cơ cấu các phòng ban khoa
học và hợp lý. Việc đổi mới cơ cấu tổ chức của các CQNN cung ứng DVCC
là yêu cầu tất yếu, các tổ chức cung ứng DVCC phải bảo đảm các nguyên tắc
hoạt động của bộ máy hành chính, bao gồm:
- Tuân thủ các quy tắc, quy trình và nhiệm vụ của tổ chức;
- Có sự phân công và chuyên môn hoá trong công việc;
72
- Xác định rõ vị trí công việc và trách nhiệm;
- Bảo đảm sự kiểm tra chặt chẽ của cấp trên đối với cấp dưới, cũng như
sự kiểm tra của người quản lý đối với từng nhân viên;
- Định hình tổ chức căn cứ vào quy mô, chức năng, khách hàng, kiến
thức và kỹ năng;
- Bảo đảm sự thống nhất theo chiều dọc và chiều ngang;
- Bảo đảm sự phối hợp giữa các bộ phận và các cá nhân.
Như vậy, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, nhất là trong
giai đoạn hiện nay ở tỉnh Xiêng Khoảng ngày càng năng động, đòi hỏi tổ chức
cung ứng DVCC phải linh hoạt, sáng tạo, hướng tới khách hàng nên cần được
đổi mới về tổ chức và cơ chế hoạt động theo xu hướng sau:
Thứ nhất, cần tăng cường sự phân công, phân cấp nhiệm vụ và quyền
hạn cho các tổ chức cung ứng DVCC, bảo đảm tính tự chủ hoạt động cho các
tổ chức, giảm bớt sự lưu chuyển hồ sơ giữa các khâu trong bộ máy. Việc phân
công, phân cấp cho các tổ chức cung ứng DVCC có các ưu thế như:
- Các tổ chức trực tiếp cung ứng dịch vụ có đầy đủ thẩm quyền trong
việc cấp các DVCC cho công dân. Vì các tổ chức gần dân nhất, nắm bắt được
các yêu cầu của dân và trực tiếp thực thi hoạt động cung ứng dịch vụ;
- Động viên và thúc đẩy tổ chức đó cũng như các công chức trong tổ
chức về mặt tinh thần, thể hiện sự tin tưởng của cấp trên vào cấp dưới, khẳng
định quyền hạn của tổ chức cung ứng DVCC trước xã hội;
- Các tổ chức phải chịu trách nhiệm cao hơn trước khách hàng. Đặt các
tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức trước một trách nhiệm trước khách
hàng và phải chịu trách nhiệm về những DVCC mà họ cung ứng cho người
dân và tổ chức;
- Tăng cường tính tự chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên, tự giải
quyết các vấn đề đặt ra trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm được giao.
73
Thứ hai, cần thiết lập tổ chức tinh gọn, có tính chuyên nghiệp, chuyên
môn hoá cao và hướng vào kết quả thiết thực
Các cơ quan, đơn vị, tổ chức cung ứng DVCC cần gọn nhẹ, càng ít tầng
nấc càng tốt. Các tổ chức cần xây dựng một cơ chế làm việc năng động hướng
vào kết quả, phải hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, tuân thủ
các thủ tục do pháp luật đề ra; đặt ra mục tiêu của tổ chức mình và khuyến
khích mọi biện pháp thực hiện để có kết quả tốt nhất đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ ba, tăng cường quản lý chặt chẽ chất lượng dịch vụ được cung
ứng.
Sản phẩm cuối cùng của DVCC là các loại hình dịch vụ do cơ quan
hành chính nhà nước cấp cho tổ chức, công dân. Chất lượng DVCC được đo
bằng sự thoả mãn của khách hàng, do đó kiểm tra chất lượng DVCC không
chỉ kiểm tra sản phẩm cuối cùng thu được mà là một quá trình kiểm tra chất
lượng toàn bộ, liên quan đến toàn bộ quy trình và các yếu tố tham gia vào
việc cung ứng dịch vụ. Vì vậy, cơ chế bảo đảm quản lý chất lượng DVCC cần
quán triệt các yếu tố và quá trình như:
- Tiếp nhận các hồ sơ đầu vào đủ và đúng yêu cầu quy định, bao gồm
cả việc xác định rõ các hồ sơ có thể thay thế;
- Xác định rõ các khâu xử lý và yêu cầu đặt ra đối với từng khâu;
- Bảo đảm cung ứng đầy đủ, rõ ràng các thông tin mà khách hàng cần;
- Bảo đảm điều kiện tiếp đón và thái độ của cán bộ, công chức, viên
chức trực tiếp giao dịch với khách hàng ở mức tốt nhất có thể được;
- Xây dựng bộ quy chuẩn, các thủ tục đơn giản, dễ thực hiện;
- Định mức thời gian chờ đợi ngắn, hoàn trả kết quả cho khách hàng
đầy đủ, đúng thời gian quy định, không bị sai sót và nhầm lẫn;
Như trên là các yêu cầu, các tiêu chí mà đơn vị cung ứng DVCC cần
quan tâm và lưu ý trong quá trình cung ứng dịch vụ. Các cơ quan QLNN cần
74
bám sát vào đó để có thể kiểm tra và giám sát việc cung ứng dịch vụ của đơn
vị có đúng và đạt yêu cầu hay không.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
dịch vụ công cộng
Trong công tác QLNN đối với các DVCC thì Nhà nước cần phải tỏ rõ
là người chủ, là nơi cung ứng gần như toàn bộ các DVCC cho xã hội, điều đó
có nghĩa là Nhà nước phải không ngừng tăng cường sự hiện diện của mình
trong công tác quản lý, cung ứng DVCC cho xã hội. Đồng thời, hệ thống pháp
luật cần đưa ra các quy định rõ ràng, cụ thể, chỉ ra những điều cấm và những
điều giới hạn cấm thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ ở những lĩnh vực
khác nhau. Quyền tự do, bình đẳng trong sử dụng và thụ hưởng dịch vụ của
các chủ thể phải được đảm bảo bằng một hệ thống các quyền tự do. Nhà nước
phải đảm bảo được tính thống nhất trong cả nước, tránh hạn chế đáng tiếc đối
với các quyền tự do của công dân và các tổ chức.
Trong quản lý xã hội hiện nay ở nước CHDCND Lào nói chung và tỉnh
Xiêng Khoảng nói riêng đặt ra yêu cầu cần có một loạt văn bản pháp luật quy
định về các loại hình dịch vụ, chủ thể cung ứng và đối tượng thụ hưởng,….
Như vậy, việc xây dựng cơ chế pháp lý phù hợp để đảm bảo các cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện tốt chức năng QLNN đối với DVCC là nhu cầu cần
thiết và chính đáng. Ban hành và hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp luật
về DVCC là yêu cầu đảm bảo cho công tác QLNN đối với xã hội được tốt
hơn, hoàn thiện hơn.
Đối với công tác QLNN thì công cụ quản lý quan trọng nhất chính là hệ
thống pháp luật. Pháp luật là công cụ không thể thiếu được để Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, đời
sống xã hội. Hiện nay, cơ chế thị trường đòi hỏi phải có luật cụ thể, rõ ràng,
đầy đủ và có hệ thống, có cơ chế tài phán phù hợp... Chính từ những yêu cầu
75
nói trên mà hiện nay tỉnh Xiêng Khoảng muốn quản lý các hoạt động cung
ứng DVCC được hiệu quả thì trước tiên cần có Luật điều chỉnh, sau đó cần có
các văn bản hướng dẫn thi hành trong công tác QLNN về DVCC. Ngoài ra,
tỉnh Xiêng Khoảng cũng cần có cơ chế riêng để các cơ quan QLNN có chức
năng ban hành những văn bản mang tính độc lập để giải quyết những công
việc đặc thù và chủ động hơn nữa trong việc thực hiện QLNN đối với DVCC
trên địa bàn tỉnh.
Để làm được điều đó, các cấp lãnh đạo đơn vị, cá nhân cán bộ, công
chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, trong quá trình quản lý cần nắm chắc các
dịch vụ mà cơ quan cung ứng cho xã hội, hiểu rõ và tường tận các thuận lợi,
khó khăn khi tiến hành quản lý. Từ đó có những báo cáo, rút kinh nghiệm
trong quá trình quản lý, đưa ra những ưu điểm và hạn chế cụ thể, để làm căn
cứ đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành văn bản, bổ sung và hoàn thiện hệ
thống văn bản QLNN đối với lĩnh vực DVCC còn chưa được điều chỉnh. Như
vậy, xuất phát từ tình hình thực tiễn công tác QLNN trên địa bàn tỉnh mà đề
xuất cấp có thẩm quyền ban hành văn bản QLNN, đây sẽ là con đường đúng
nhất, phản ánh chân thực nhất tình hình hiện nay đối với lĩnh vực quản lý.
3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ, công chức quản lý về dịch vụ công cộng
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố đóng vai trò quyết định đến sự thắng lợi
của các hoạt động trên mọi lĩnh vực. Tăng cường QLNN, nâng cao chất lượng
cung ứng dịch vụ công cộng cũng không ngoại lệ, yếu tố con người luôn được
xem là yếu tố hàng đầu, có tính quyết định tới chất lượng của dịch vụ. Xét
đến cùng thì cho dù thủ tục đơn giản, quy trình được tổ chức khoa học, thuận
tiện như thế nào đi nữa nhưng nếu không có đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức (CBCCVC) đủ năng lực, phẩm chất đạo đức thì khó có thể thực hiện
thành công được. CBCCVC là người trực tiếp giao dịch với các tổ chức và
76
công dân, thể hiện hình ảnh của Nhà nước trước người dân. Thông qua kết
quả giải quyết công việc của họ, người dân có thể đánh giá chất lượng giải
quyết và năng lực của cơ quan hành chính. Ngoài ra, thái độ phụ vụ của
CBCCVC cũng ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, niềm tin, sự hài lòng của
nhân dân đối với bộ máy nhà nước, phản ánh một cách cụ thể mối quan hệ
của nhà nước đối với nhân dân. Vì vậy, việc nâng cao năng lực và thái độ
phục vụ của đội ngũ CBCCVC này là điệu kiện quan trọng để cơ chế vận
hành tốt, để Nhà nước phục vụ nhân dân được tốt hơn, xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa Nhà nước và nhân dân. Nâng cao năng lực, đạo đức và thái độ
phục vụ của CBCCVC ở tỉnh hiện nay là giải pháp quan trọng đối với công
tác QLNN nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng của UBND tỉnh
Xiêng Khoảng và của UBND các huyện, các Sở, Ban ngành trong tỉnh.
Thứ nhất, nâng cao đạo đức công vụ
Để không ngừng rèn luyện và nâng cao đạo đức của công chức, các tổ
chức cung ứng dịch vụ công cần quan tâm đến các biện pháp như: Đề ra các
tiêu chuẩn rõ ràng về đạo đức công chức, các tiêu chuẩn này cần được thể chế
hoá bằng các văn bản pháp luật; Tất cả công chức đều phải được giới thiệu
chi tiết về các tiêu chuẩn đạo đức; Công chức phải biết rõ quyền và trách
nhiệm của mình nếu để xảy ra sai phạm; Công chức phải có bản cam kết thực
hiện các tiêu chuẩn về đạo đức; Các quyết định đưa ra phải gắn với trách
nhiệm cá nhân cụ thể; Cần xây dựng cơ chế quy trách nhiệm rõ ràng trong
cung ứng dịch vụ công; Người quản lý cần biểu dương và khuyến khích các
tấm gương về đạo đức; Ý thức đạo đức của công chức phải được đề cao trong
các chính sách cũng như trên thực tế; Có các quy định và biện pháp xử lý
thích hợp đối với những vi phạm về đạo đức. Đặc biệt cần xử lý nghiêm minh
các hành vi nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ công chức thực thi các
dịch vụ công.
77
Thứ hai, nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho
CBCCVC
Đối với công tác cán bộ, tỉnh Xiêng Khoảng cần đặc biệt chú ý tới các
vấn đề như tuyển dụng, sử dụng và đào tạo cán bộ, công chức, viên chức,…
phải chọn lọc ngay từ khâu đầu tiên. Lựa chọn những người vững về chuyên
môn để xử lý các công việc liên quan đến dịch vụ công cộng theo yêu cầu của
khách hàng, bảo đảm tính chính xác và nhanh chóng; Bố trí công việc phù
hợp với chuyên môn và năng lực của mỗi người nhằm tạo điều kiện cho cán
bộ, công chức phát huy tốt nhất khả năng của mình. Nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ: Định kỳ tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cho cán
bộ CCVC về kỹ năng ứng xử khi tiếp xúc với khách hàng, khả năng thực hiện
thành thạo công việc với kỹ thuật công nghệ hiện đại, kỹ năng xử lý công việc
khoa học, đồng thời lập kế hoạch cử cán bộ trẻ có năng lực đi đào tạo chuyên
sâu về nghiệp vụ nhằm xây dựng đội ngũ giỏi làm nòng cốt cho đơn vị. Quan
tâm, tạo điều kiện cử công chức đi học cập nhật các kiến thức mới, nắm bắt
kịp thời các quy định, nghiệp vụ và kỹ năng mới phục vụ cho công việc, nhất
là việc sử dụng máy vi tính, nhằm đáp ứng các yêu cầu mới về chuyên môn.
Có các biện pháp hướng dẫn, bồi dưỡng tại chỗ về chuyên môn đối với các
công chức trẻ dưới hình thức trao đổi, báo cáo, kèm cặp...Khuyến khích sự
tham gia của công chức vào hoạt động QLNN để tích lũy kinh nghiệm và phát
triển thế hệ kế cận.
Người quản lý có các biện pháp kiểm tra chất lượng hoạt động của
công chức, đánh giá công chức định kỳ về chất lượng chuyên môn, xây dựng
hệ thống tiêu chuẩn đánh giá công chức để bảo đảm ghi nhận đúng đắn công
lao đóng góp của mỗi người, kịp thời phát hiện và uốn nắn các sai sót, động
viên, khuyến khích đối với những kết quả tốt trong công việc. Tổ chức cần
thường xuyên khuyến khích và phát huy các sáng kiến của công chức trong
78
cải tiến chuyên môn, nghiệp vụ, ứng dụng và phổ biến rộng các sáng kiến
hay. Tăng cường sự tham gia và tính chủ động của công chức, tạo cho công
chức phạm vi hoạt động độc lập trong công việc và đánh giá họ dựa trên cơ sở
kết quả cuối cùng. Cách làm này có tác dụng: Nâng cao tính trách nhiệm của
công chức đối với kết quả cuối cùng; Tạo cho công chức sự chủ động lớn hơn
trong công việc; Mở rộng phạm vi hoạt động của công chức, làm cho mỗi
người có thể thực hiện nhiều công đoạn khác nhau chứ không bị giới hạn
trong một khâu nhất định; Dễ xác định kết quả, dễ kiểm tra đánh giá công
việc thực hiện của mỗi người căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm làm
ra.
Thứ ba, cần quan tâm, tạo động lực khuyến khích CBCCVC
Cần quan tâm, tạo động lực khuyến khích CBCCVC phát huy năng lực,
tận tâm phục vụ nhân dân vì lợi ích chung. Tiến hành xây dựng các tiêu chí
đánh giá kết quả thực hiện công việc của CBCCVC, trên cơ sở đó tiến hành
đánh giá CBCCVC hàng năm và xét khen thưởng hay kỷ luật. Mỗi đơn vị cần
xây dựng chế độ thưởng, phạt rõ ràng. Biểu dương và khuyến khích về vật
chất và tinh thần đối với những CBCCVC hoàn thành tốt nhiệm vụ, sáng tạo
và có nhiều đóng góp. Cơ quan, đơn vị, tổ chức nên tạo ra một môi trường
khuyến khích công chức phát huy năng lực và phẩm chất của mình. Cụ thể
như:
- Có các khuyến khích thoả đáng đối với công chức về vật chất và tinh
thần theo công lao đóng góp của công chức;
- Đề cao giá trị đạo đức của người công chức;
- Tạo cho công chức sự tự chủ trong công việc và khả năng ứng xử
trước những tình huống xảy ra;
- Tạo môi trường làm việc đoàn kết, tin tưởng, phối hợp và giúp đỡ lẫn
nhau;
79
- Tạo điều kiện làm việc đây đủ và tốt nhất có thể được cho công chức;
Tạo môi trường giao tiếp và bình đẳng trong đối xử với công chức;
- Quan tâm đến đời sống cá nhân của công chức (hoàn cảnh gia đình,
sức khoẻ, việc đi lại...);
Từng bước đổi mới chính sách tiền lương công chức, bảo đảm để công
chức có thể sống ở mức trung bình khá trong xã hội. Cần có chế độ chính sách
tiền lương, thưởng, phạt nghiêm minh, ghi nhận các nỗ lực đóng góp của cán
bộ CCVC để tôn vinh giá trị của họ, được như vậy, công chức mới yên tâm
công tác và dành tâm lực cho công việc.
Quan tâm đến các chính sách đãi ngộ, quyền lợi của cán bộ CCVC; các
chế độ bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, tham quan nghỉ mát hang năm cũng là
một trong những yếu tố góp phần động viên và tạo sự gắn bó lâu dài của cán
bộ CCVC với tổ chức.
3.2.4. Xã hội hóa dịch vụ công cộng trên các lĩnh vực
Xã hội hoá DVCC nằm trong sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản
lý các hoạt động xã hội hoá thông qua hệ thống chính sách và pháp luật, qua
hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước. Để xã hội hoá DVCC được hiệu quả, cần phải tăng cường QLNN đối
với hoạt động này. Trong những năm qua, vấn đề xã hội hóa DVC nói chung,
xã hội hóa DVCC nói riêng không chỉ được đề cập trong các văn bản mang
tính chất định hướng của Đảng và Nhà nước, mà còn được sự quan tâm phía
người dân. Trong đó, vai trò cung ứng DVCC của các đối tượng sẽ có sự thay
đổi: chuyển từ sự độc quyền của Nhà nước sang hướng mở rộng cung ứng các
dịch vụ này ra ngoài khu vực nhà nước nhằm khai thác nguồn lực của xã hội
để cùng thực hiện mục tiêu cải thiện chất lượng cung ứng DVCC. Phá bỏ sự
độc quyền của Nhà nước, một mặt sẽ giảm tải được gánh nặng cho các cơ
quan công quyền, mặt khác huy động được các nguồn lực trong xã hội.
80
Không chỉ vậy, xã hội hóa còn được hiểu là quá trình để mọi người
được tham gia bình đẳng vào môi trường lành mạnh, được thụ hưởng những
lợi ích công bằng do dịch vụ công cộng đem lại. Xã hội hóa dịch vụ công
cộng đem lại những lợi ích không hề nhỏ. Việc thay đổi nhận thức về vai trò
của Nhà nước đối với các DVCC - lĩnh vực mà trước đây chỉ có Nhà nước
đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần cho các tổ chức ngoài
nhà nước. Có thể kể đến các DVC như: dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự
nghiệp công, cung ứng dịch vụ về văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao,… đã từng
bước được thừa nhận hiệu quả. Điều đó đã từng bước thể hiện tính đúng đắn
của chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ DVCC trên phạm vi rộng khắp.
Tuy nhiên, chúng ta cần thiết phải xác định rõ mục tiêu mà công cuộc
cải cách DVCC hướng tới là chất lượng dịch vụ chứ không phải là mức độ xã
hội hóa. Xã hội hóa loại hình dịch vụ này chỉ là phương thức để đạt được chất
lượng DVCC như mong muốn. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm cung ứng
những lĩnh vực mà khu vực tư không tham gia hoặc chưa tham gia. Ở nước
CHDCND Lào hiện nay cung ứng DVCC vẫn phụ thuộc phần lớn vào Nhà
nước vì khu vực tư chưa đủ năng lực để cung cấp tốt các dịch vụ này. Do vậy,
cần phải xác định được lĩnh vực nào cần xã hội hóa và xã hội hóa ở cấp độ
nào thì đem lại hiệu quả tốt nhất cho người dân, chứ không vì tiêu chí xã hội
hóa mà không quan tâm tới chất lượng dịch vụ. Muốn đảm bảo chất lượng
cung ứng DVCC đồng thời mở rộng chuyển giao việc cung ứng dịch vụ này
cho khu vực tư nhân, Nhà nước cần phải có cơ chế thích hợp.
Trước hết, hoàn thiện pháp luật một cách đồng bộ về bộ máy nhà nước,
trao thẩm quyền cụ thể cho từng loại cơ quan thực hiện quản lý và cung ứng
dịch vụ công. Đặt ra chế tài xử lý vi phạm cùng với cơ chế bảo đảm thực hiện
các chế tài đó khi có hành vi vi phạm. Đồng thời với nó thì chế độ chịu trách
nhiệm phải được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên. Cùng với việc đặt ra
81
hệ thống tiêu chuẩn chất lượng thì trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong
cung ứng DVCC phải được nâng cao. Nên đề cao trách nhiệm cá nhân đồng
thời đặt ra cơ chế giải trình hợp lý.
Các DVCC hiện nay cần có cơ chế quản lý mới, mang tính chất đặc thù
để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Trên địa bàn tỉnh
Xiêng Khoảng hiên nay cần phải thúc đẩy và đẩy mạnh hơn nữa công tác xã
hội hóa dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ tác động đến số đông người dân và tổ
chức, mang lại hiệu quả sâu rộng như các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, vệ
sinh môi trường, giao thông vận tải,…
Đối với lĩnh vực y: tế cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của người dân
và doanh nghiệp, tổ chức có đủ năng lực tài chính, năng lực nhân sự, chuyên
môn để hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân, hoạt động khám chữa
bệnh được lan rộng và phát triển rộng khắp, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng
tính cạnh tranh trong lĩnh vực chắm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân.
Thông qua việc xã hội hóa này, chúng ta có thể quản lý tốt hơn các loại hình
dịch vụ y tế, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua hệ thống
các tiêu chuẩn của ngành. Đồng thời, sự phát triển của ngành góp phần giải
quyết gánh nặng, giảm tải sức ép cho các bệnh viện công hiện nay. Bên cạnh
đó, việc quản lý và thu thuế các cơ sở y tế tư nhân cũng mang lại nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển.
Đối với lĩnh vực văn hóa, giáo dục: Ưu tiên phát triển các cơ sở giáo
dục các bậc học, đầu tư chú trọng phát triển ở các ngành học có xu hướng và
chất lượng cao như kinh tế, đầu tư, công nghệ, y dược,…Đẩy mạnh hơn nữa
công tác phát triển hệ thống trường học tư thục, các bậc học từ mầm non, đến
trung học cũng mở rộng thu hút nguồn lực từ phía ngoài nhà nước. Nhà nước
chỉ quản lý và giám sát hoạt động cảu các cơ sở này thông qua các công cụ
quản lý nhà nước. Đồng thời, khởi dậy và phát huy văn hóa bản sắc của dân
82
tộc, tiếp thu văn hóa tiến bộ của thế giới, tiếp thu nền giáo dục của tiên tiến
của nước ngoài thông qua các tổ chức giáo dục và thông qua con đường du
học.
Đối với lĩnh vực cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, công ty
chiếu sáng đô thị, vận tải hành khách,… Trong những năm qua bước đầu
được triển khai với nhiều kết quả khả quan. Các công ty tư nhân thực hiện
chức năng mọc lên khá nhiều, điều này đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nền
kinh tế - xã hội ở tỉnh, góp phần vào sự nghiệp chung của cả nước. Trực tiếp
thay đổi cơ cấu trong sản xuất và phát triển kinh tế của địa phương.
Như vậy, Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ chốt trong cung ứng DVCC.
Vấn đề đặt ra là đồng thời với việc thúc đẩy xã hội hóa DVCC, thì chính các
cơ quan hành chính nhà nước phải tự nâng cao chất lượng phục vụ người dân.
Nhà nước phải là người có trách nhiệm điều tiết DVCC. Trách nhiệm này
nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các vùng miền, giữa các huyện, các sở ban
ngành trong tỉnh bằng cách hỗ trợ cho những khu vực có điều kiện kinh tế,
môi trường sống khó khăn hơn như khu vực miền núi, vùng nông thôn, khu
vực có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống. Có như vậy mới thực hiện
thành công cuộc CCHC nhà nước. Điều đó cho thấy vai trò QLNN đối với
DVCC ở chính quyền tỉnh là hết sức quan trọng, nhất là đối với cấp huyện.
3.2.5. Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công
cộng
Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ dạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực
hiện ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực sản phẩm;
một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc phục
83
những rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa bởi vậy phương
thức tổ chức quản lý và cung ứng DVCC cũng phải chuyển sang hướng xã hội
hoá tiếp cận thị trường mới phù hợp.
Nhà nước và các cơ quan chức năng quản lý cung cấp DVCC phải là
người chịu trách nhiệm duy nhất việc bảo đảm cung cấp DVC cho xã hội theo
các nguyên tắc vốn có. Các cơ quan chức năng quản lý, cung cấp DVCC như
cấp tỉnh, cấp huyện, … phải chịu trách nhiệm, nhưng cuối cùng của việc đảm
bảo cung cấp DVCC cho xã hội vẫn phải là các cơ quan cao nhất ở tỉnh.
Trong một hoạt dộng cung cấp DVCC có nhiều cơ quan chức năng
tham gia, phải lấy kết quả cuối cùng làm căn cứ, phải quy định rõ một cơ
quan chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc bảo đảm cung cấp DVCC để một
khi có xảy ra các vấn đề bất ổn trong đảm bảo cung cấp DVCC thì cơ quan
chịu trách nhiệm cuối cùng phải là người chịu trách nhiệm toàn bộ; tránh tình
trạng có thành tích tốt thì cơ quan nào cũng tranh, nhận về mình, khi có sự cố
xấu thì đổ lỗi, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Để làm tốt việc đổi mới cơ chế
quản lý và phương thức hoạt động về DVCC, vấn đề cốt lõi là phải có cách
đánh giá chính xác kết quả của các quyết định QLNN đối với DVCC. Từ đó,
tác giả đề xuất hai hướng đánh giá kết quả của các quyết định cơ bản sau:
Thứ nhất, về các nguyên tắc đánh giá kết quả quản lý nhà nước đối với
DVCC khoa học, chuẩn xác. Để thực hiện tốt theo phương án này, chúng ta
cần thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản như:
Nguyên tắc các quyết định ban hành phải đảm bảo tính hợp pháp và
hợp lý. Điều đó có nghĩa là khi một quyết định ban hành của nhà quản lý phải
đảm bảo phù hợp với pháp luật hiện tại, phù hợp với các văn bản quản lý của
nhà nước đã có và không được đi ngược lại hoặc chồng chéo lên các văn bản
trước đó ban hành liên quan đến vấn đề. Đó là đảm bảo tính hợp pháp. Đồng
thời, quyết định ban hành ra cũng phải đảm bảo tính hợp lý, phù hợp với thực
84
tiễn cuộc sống, xuất phát từ thực tiễn của vấn đề cần có quyết định để giải
quyết, có hiệu quả nhất định trên thực tế. Có như vậy quyết định ban hành ra
mới có kết quả cao và chính xác nhất, khoa học nhất.
Nguyên tắc vê mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn đánh giá. Theo
nguyên tắc này, tiêu chuẩn đánh giá được định ra trên cơ sở mục tiêu. Mục
tiêu khác nhau, tiêu chuẩn đánh giá cũng khác nhau, mục tiêu thay đổi, tiểu
chuẩn đánh giá cũng thay đổi theo. Tiêu chuẩn đánh giá phải được xem như là
thước đo để thực hiện các mục tiêu.
Bên cạnh đó, để có một quyết định quản lý đối với DVCC phù hợp, đạt
kết quả cao còn cần lưu ý tới các nguyên tắc khác như: Nguyên tắc về sự
thống nhất lợi ích, nguyên tắc về tính khoa học và chính xác, nguyên tắc về
tính đơn giản và tính thực té, dễ hiểu dễ áp dụng, nguyên tắc so sánh,…
Thứ hai, là phương pháp đánh giá kết quả hoạt động QLNN đối với
DVCC và kết quả hoạt động của các tổ chức công chuẩn xác. Đây là tổng thể
các cách thức có thể và có chủ đích của người đánh giá trong việc vận dụng
các nguyên tắc đánh giá về và việc chính xác kết quả hoạt động QLNN đối
với DVCC và kết quả hoạt động của tổ chức công. Để thực hiện theo phương
pháp này, chúng ta cần lưu ý tới các vấn đề định lượng và định tính trong
đánh giá kết quả đạt được đối với việc QLNN đối với DVCC. Sự phối hợp
các đánh giá định lượng và định tính sẽ là một công cụ tốt nhất nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin của việc đánh giá kết quả hoạt động QLNN đối với DVCC
và đối với các tổ chức thực hiện cung ứng loại hình dịch vụ này.
3.2.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và tài chính cho các cơ quan
có chức năng quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác QLNN đối với DVCC thì
cần phải có một tổ hợp các giải pháp từ khâu đầu là xác định và phân loại
chính xác các DVCC, đến khâu cuối cùng là đổi mới hoạt động cung ứng
85
DVCC. Nhưng xuyên suốt là hệ thống thông tin trong quản lý. Trong các yêu
cầu về thông tin trong QLNN đối với DVCC thì yêu cầu về tính chính xác,
kịp thời, đầy đủ, công khai, hiệu quả,… là những yêu cầu cơ bản nhất cần
phải được hoàn thiện hiện nay.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống thông tin trong quản lý thì việc ứng
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ trong QLNN đối với DVCC đóng vai
trò quan trọng. Việc QLNN đối với DVCC cũng giống như QLNN đối với xã
hội nói chung đòi hỏi phải nhanh chóng đưa vào sử dụng các thành tựu của
khoa học, công nghệ. Chỉ có đưa các thành tựu của khoa học, công nghệ vào
QLNN đối với DVCC mới có thể tạo ra chất lượng, số lượng hàng hóa dịch
vụ công cao và với chi phí hợp lý nhất,…Đồng thời việc sử dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ còn giúp cho các hoạt động QLNN đối với DVCC
trở lên công khai và minh bạch hơn.
Chính vì lẽ đó mà không ngừng tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, lắp
đặt các trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin tại các đơn vị, phòng ban
cung ứng DVCC là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. Việc bố trí cơ sở vật chất
đầy đủ, hiện đại và ứng dụng công nghệ thông tin có tác dụng rất lớn trong
việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc. Nó giúp cho cán
bộ công chức rút ngắn được thời gian lao động, tiết kiệm công sức, tạo thuận
lợi cho việc xử lý, tổng hợp, theo dõi hồ sơ của công dân, tổ chức. Trụ sở làm
việc rộng rãi, thoáng mát, có nơi tiếp đón người dân đàng hoàng, lịch sự còn
thể hiện ý thức tôn trọng nhân dân, đồng thời mối quan hệ giao tiếp giữa
người dân và đội ngũ CBCCVC cũng trở nên gần gũi, thân thiện hơn trong
công việc.
Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh Xiêng Khoảng cần phải đẩy mạnh hơn
nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai phần mềm trong việc vận
hành, cung ứng các loại hình DVCC để đáp ứng yêu cầu của người dân và các
86
tổ chức. Xây dựng hệ thống thông tin mạng, liên kết giữa các bộ phận trong
toàn tỉnh, thiết lập quy trình giải quyết hồ sơ trực tuyến, thiết lập đường dây
nóng để giải quyết các thắc mắc và yêu cầu của người dân. Điều này sẽ giúp
quy trình tiếp nhận và giải quyết hồ sơ được thực hiện một cách thông suốt,
nhanh chóng, chính xác. Đồng thời nó còn giúp cho các cơ quan chuyên môn,
các cán bộ, công chức, viên chức có thể dễ dàng tiếp cận và quản lý, theo dõi
tình hình cung ứng và sử dụng DVCC được thuận lợi, nhanh chóng hơn.
Việc đầu tư ứng dụng CNTT đòi hỏi kinh phí lớn nên cần tham khảo,
học tập và rút kinh nghiệm của các địa phương đã thực hiện tốt nội dung này.
Đồng thời, cũng cần có lộ trình, kế hoạch thực hiện cụ thể và phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ chuyên môn, trình độ CNTT của đội ngũ
CBCC trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, cũng cần có kế hoạch và có sự ưu tiên thực
hiện, ưu tiên đầu tư đối với những ngành, những huyện, những nơi mang tính
trọng điểm và cần được ưu tiên trong phát triển, làm điển hình cho các đơn vị
khác noi theo.
3.2.7. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
cung ứng dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh
Về công tác thanh tra, tư pháp và xây dựng chính quyền, tăng cường
công tác QLNN; nắm chắc tình hình, báo cáo kịp thời những vụ việc mới phát
sinh tại cơ sở có khả năng khiếu kiện. Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các
ngành, các đơn vị của huyện và tỉnh trong công tác khiếu nại, tố cáo. Đây
cũng là một trong những giải pháp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
công tác QLNN đối với DVCC. Các cơ quan cấp trên và bản thân lãnh đạo
mỗi đơn vị cần đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra, đôn đốc việc triển
khai thực hiện việc cung ứng các dịch vụ công. Phối hợp với Mặt trận, các
đoàn thể và UBND các cấp tăng cường giám sát việc giải quyết các thủ tục
hành chính ở các đơn vị. Qua kiểm tra có thể phát hiện và kịp thời giải quyết
87
những khó khăn, thiếu sót về quy trình, hình thức công khai, trình độ tác
nghiệp - xử lý hồ sơ của cán bộ, công chức tại các đơn vị cơ sở, đồng thời xử
lý nghiêm các hành vi sai phạm của CBCC.
Tiếp tục tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Chú ý nâng cao
trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân; CBCC tạo điều kiện tốt nhất cho
doanh nghiệp và người dân trong thủ tục hành chính. Chuẩn hóa các nội quy,
quy chế, quy trình. Triển khai thực hiện cơ chế phản hồi của nhân dân với
chính quyền cơ sở thông qua các hình thức như: hòm thư góp ý, phiếu góp ý,
đường dây nóng,… để nhân dân có điều kiện phản ánh những bức xúc, kiến
nghị đối với CBCC trong các hoạt động cung ứng DVCC mà họ thực hiện.
Hàng năm, các đơn vị cần tiến hành đánh giá kết quả hoạt động của các đơn
vị thực hiện chức năng QLNN đối với các DVCC trên địa bàn tỉnh. Việc đánh
giá kết quả này phải căn cứ trên những tiêu chí nhất định, vì vậy cần phải xây
dựng các căn cứ khách quan và khoa học. Thông qua đánh giá đúng mức kết
quả hoạt động của từng đơn vị, cá nhân chúng ta có thể xác định rõ mặt mạnh,
mặt yếu, từ đó đề ra các biện pháp phát huy thế mạnh và khắc phục các tồn tại
hiện có, giúp cho các cấp chính quyền địa phương không ngừng hoàn thiện và
nâng cao chất lượng cơ chế cung ứng DVCC.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Chương 3 luận văn đã trình bày các quan điểm và định hướng chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước Lào trong QLNN đối với DVCC. Đồng thời, cũng đưa
ra những giải pháp mang tính định hướng đối với công tác QLNN đối với
DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng. Trong các giải pháp nêu trên, đặc biệt
lưu ý tới giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thực thi
nhiệm vụ, việc lựa chọn cán bộ, công chức có năng lực, trình độ và đạo đức là
một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi đối với QLNN. Từ đó,
không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn, trình độ,
88
uốn nắn về đạo đức công vụ,… Đây sẽ là động lực lớn cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh, nâng cao chất lượng hoạt động công vụ, nâng cao chất
lượng cung ứng dịch vụ và quản lý tốt dịch vụ công công. Cũng từ đó mà chất
lượng cuộc sống của người dân được nâng cao.
89
KẾT LUẬN
Để tăng cương công tác QLNN đối với DVC nói chung và với DVCC
nói riêng chúng ta cần có hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ, với những
bước đi thích hợp. Trên cơ sở những định hướng của Đảng, Nhà nước Lào và
các mục tiêu cụ thể của tỉnh Xiêng Khoảng, nhằm nâng cao chất lượng của
các loại hình DVCC trên địa bàn, nâng cao mức thụ hưởng của người dân cần
lựa chọn những giải pháp phù hợp, sát với tình hình thực tế tại địa phương
nhằm phát huy những thế mạnh và hạn chế những yếu kém để không ngừng
nâng cao công tác QLNN đối với DVCC được tốt hơn. Muốn làm được điều
này, trước hết cần thay đổi, nâng cao nhận thức của lãnh đạo, đội ngũ CBCC
trực tiếp thực thi công vụ, trực tiếp cung ứng dịch vụ công cộng chuyển từ tư
duy quản lý sang tư duy phục vụ. Từ việc nhận thức đúng, sẽ là cơ sở để có
những hành động đúng. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, ứng
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ,…đó sẽ
là những giải pháp cơ bản nhất đưa kinh tế - xã hội của địa phương phát triển.
Như vậy, trên cơ sở thực trạng công tác QLNN đối với DVCC ở tỉnh Xiêng
Khoảng mà đề ra những giải pháp hợp lý góp phần xây dựng địa phương, xây
dựng tỉnh trở thành tỉnh đi dầu trong công tác cung cấp các loại hình dịch vụ
công cộng, góp phần xã hội hóa các loại hình dịch vụ này ở mức độ nhanh và
hiệu quả, bền vững.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ Tài liệu tiếng Lào:
1. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
2. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng
Chăn.
3. Quốc hội (2003), Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm năm
1991 sửa đổi, bổ sung năm 2003.
4. Quốc hội (2003), Luật Quốc hội của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
5. Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND) năm 2003;
6. Quốc hội (2015), Luật Cán bộ, công chức.
7. Quy định của Bộ trưởng Nội vụ, số 119/TTg, ngày 8/3/2012 về bộ máy tổ
chức và hoạt động của Vụ Hành chính địa phương.
8. Sổ tay phân tích và phát triển bộ máy tổ chức, xuất bản do Cơ quan Hành
chính và Quản lý công chức, viên chức, năm 2009.
9. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, số 010/BCT, ngày
20/6/1981 về việc cải cách bộ máy tổ chức và sửa đổi quy định phương tức
làm việc của đảng trong thời kỳ mới.
10. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, số 07/BCT, ngày
9/8/2013 về việc chuẩn bị và tiến hành đại hội X của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào.
11. Từ điển tiếng Lào, số biên soạn và in ấn bởi Viện Khoa học và Xã hội
Quốc gia năm 2012.
12. Văn kiện Đại hội đảng lần thứ VI của Đảng, Nhà xuất bản nhà nước, năm
1996.
91
13. Văn kiện Đại hội đảng lần thứ IX của Đảng, Nhà xuất bản nhà nước, năm
2011.
14. Chỉ thị số 068/ BKTTW, của ban kiểm tra Trung ương đảng, về việc tổ
chức hoạt động thi lệnh số 09/ bộ chính trị Trung ương đảng
15. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Lào (2005 -
2010).
16. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Lào (2010-
2020).
17. Nghị quyết của bộ chính trị Trung ương Đảng số 09/NQBCTTW, ngày
17/02/2007.
18. Nghị quyết số 171-172 /TTCP ngày 11 tháng 11 năm 1993 của Thủ tướng
chính phủ về luật lệ cán bộ, công chức Lào.
19. Nghị quyết số 82/TTCP ngày 19 tháng 5 năm 2003 (sửa đổi năm 2003)
của thủ tướng chính phủ về luật lệ cán bộ, công chức Lào.
20. Tổng hợp, số liệu cán bộ, công chức hành chính tỉnh Xiêng Khoảng năm
(2010-2015).
21. Thống kê số lượng tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Xiêng
Khoảng tháng 6 năm 2010.
22. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm
2010
23. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm
2010
24. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm
2012.
25. Thống kê trình độ QLNN & lý luận chính trị của cán bộ, công chức tỉnh
Xiêng Khoảng năm 2009;
92
26. Tổng hợp 5 năm ( 2005- 2009) về trình độ, thâm niên công tác của cán bộ,
công chức tỉnh Xiêng Khoảng năm 2010.
27. Văn kiện Đại hộ IV của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1986), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng chăn;
28. Văn kiện đại hội V của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1991), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng Chăn;
29. Văn kiện đại hội VI của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1996), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng Chăn;
30. Văn kiện đại hội VII của Đảng nhân dân cách mạng Lào (2001), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng Chăn.
31. Văn kiện đại hội VIII của Đảng nhân dân cách mạnh Lào (2006), Nhà
xuất bản quốc gia, Viêng Chăn.
II/ Tài liệu tiếng Việt:
32. Lê Dân (2011), “Phương án đánh giá sự hài lòng về dịch vụ hành chính
công của công dân và tổ chức”, tạp chí Khoa học, công nghệ Đại học Đà
Nẵng số 3.
33. Giáo trình “Luật hành chính Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, 2000, tr. 185
34. Giáo trình “Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 1997, tr. 262
35. Giáo trình “Quản lý hành chính nhà nước tập I”, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 1994, tr. 391
36. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), “Giáo trình Hành chính công”,
Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
37. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), “Kỹ năng và cách tiếp cận trong
việc cải tiến cung ứng dịch vụ công”, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
93
38. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), “Hành chính công – dùng cho
nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học”, Nxb. Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
39. Phạm Ngọc Hà, Trần Việt Hoa, “Một số đề xuất triển khai thực hiện
đánh giá kết quả hoạt động cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay”.
40. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa (2010), “Tiêu chí đánh giá chất lượng
cung ứng dịch vụ hành chính công tại các cơ quan hành chính nhà
nước”, tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 3.
41. Nguyễn Ngọc Hiến (2001), “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính
ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Hiến (2002),“Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch
vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp”, Nxb. Văn hoá-Thông tin.
43. TS. Nguyễn Khắc Hùng, TS. Lê Thị Vân Hạnh: “Cải tiến việc cung ứng
dịch vụ công trong tiến trình cải cách hành chính nước ta”, Kỷ yếu Hội
thảo “Dịch vụ công – nhận thức và thực tiễn”, Học viện Hành chính
Quốc gia, T9-2001.
44. Lê Chi Mai (2003), “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 12,13.
45. Lê Chi Mai (2006), “dịch vụ hành chính công”, Nxb. Lý luận Chính trị,
Hà Nội, tr. 49.
46. Đinh văn Mậu: “Bàn luận về thẩm quyền hành chính và dịch vụ công”,
Kỷ yếu hội thảo: “Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung ứng
dịch vụ công”, Học viện Hành chính Quốc gia, 2002.
47. Nguyễn Tuấn Minh, Nguyễn Thị Thanh Vân, “kinh nghiệm cải cách và
đo lường chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công của Hàn Quốc”.
94
48. Nghị quyết số 17/NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa X: “về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Bộ máy nhà nước”.
49. Thang Văn Phúc (2001), “Cải cách hành chính nhà nước – Thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.
50. Nguyễn Đình Phan (2010),“Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính
công ở Thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập”, Nxb. Đại học
Kinh tế Quốc dân.
51. Nguyễn Văn Thâm, Võ Kim Sơn (2002), “Thủ tục hành chính – Lý luận
và thực tiễn”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Chu Văn Thành (2004), “Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Chu Văn Thành (2007), “Dịch vụ công – Đổi mới quản lý và tổ chức
cung ứng ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Đoàn Trọng Truyến (chủ biên): “Hành chính học đại cương”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 18.
55. Nguyễn Minh Tuấn (2002),“Bàn về dịch vụ hành chính công”, tạp chí
khoa học số tháng 4/2002.
56. Bùi Huy Khiên, Nguyễn Thị Vân Hương (2013), “Quản lý công”, Nxb
Chính trị Hành chính, Hà Nội.
95