ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
WANG YI QIAN
(VƢƠNG DI XUYẾN)
TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Việt Nam Học
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-----------------------------------------------------
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
WANG YI QIAN
(VƢƠNG DI XUYẾN)
TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học
Mã số: 60220113
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Minh Tân
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các công trình
nghiên cứu khác có liên quan, được trích dẫn trong công trình đều được chú
thích rõ ràng ở phần tài liệu tham khảo. Mọi kiến giải, kết luận đều là kết
quả nghiên cứu của bản thân tôi, không sao chép bất kỳ tài liệu nào. Nếu có
bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2019
Người viết
WANG YIQIAN
LỜI CẢM ƠN
Trong hai năm học tập và thực hiện luận văn tại khoa Việt Nam học
của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ của các thầy cô cũng như các bạn trong khoa. Tại đây, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô kính mến và các bạn thân mến trong khoa
Việt Nam học. Đồng thời, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới TS.Mai
Minh Tân, thầy đã nhận giúp đỡ tôi một cách nhiệt tình. Là một học viên
nước ngoài, thực hiện một luận văn bằng tiếng Việt thực sự rất khó đối với
tôi, thầy Tân đã hướng dẫn tôi và cho tôi rất nhiều ý kiến quý báu trong
suốt quá trình làm luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn mọi thành viên gia
đình của tôi đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong khi tôi sinh sống và học tập tại
Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người đã giúp đỡ tôi trong hai
năm qua.
Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2019
Người viết
WANG YIQIAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
1. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài ...................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu và giới hạn đề tài nghiên cứu ................................ 8
4. Phương pháp luận nghiên cứu và cơ sở tư liệu ...................................... 11
5. Những đóng góp cơ bản của luận văn .................................................... 14
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 14
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ 12 CON GIÁP .................................... 16
1.1. Khái quát cơ tầng của 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam ... 16
1.1.1. Trung Quốc ....................................................................................... 16
1.1.2. Việt Nam ............................................................................................ 21
1.2 . Nguồn gốc sự hình thành thiên can địa chi ..................................... 23
1.2.1. Ngũ hành ........................................................................................... 23
1.2.2. Thiên can .......................................................................................... 25
1.2.3. Địa chi ............................................................................................... 25
1.2.4. Mười hai con giáp ............................................................................ 27
1.3 Mƣời hai con giáp nhìn từ sinh thái học ........................................... 31
1.4. Mƣời hai con giáp nhìn từ đời sống tâm linh cổ đại Đông Á ......... 38
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ........................................................................... 59
CHƢƠNG 2: TƢƠNG ĐỒNG TRONG QUAN NIỆM TRONG 12
CON GIÁP Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC .................................... 60
2.1. Tín ngƣỡng cộng đồng ....................................................................... 60
2.1.1. Quan niệm về sự ra đời và nguồn gốc 12 con giáp .......................... 61
2.1.2. Khái niệm và quan hệ 12 con giáp .................................................... 62
2.1.3. Sự ảnh hưởng và ứng dụng 12 con giáp ........................................... 66
1
2.2. Lễ hội – văn hoá dân gian .................................................................. 71
2.2.1. Sùng bái linh vật ............................................................................... 71
2.2.2. Lễ hội truyền thống .......................................................................... 72
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ........................................................................... 75
CHƢƠNG 3: KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP Ở
VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC ............................................................. 76
3.1. Tín ngƣỡng cộng đồng ....................................................................... 76
3.1.1. Khác biệt về quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và Trung Quốc . 76
3.1.2. Dị biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với con
người ................................................................................................. 82
3.1.3. Khác biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với đời
sống văn hóa ................................................................................................ 89
3.2. Lễ hội – văn hoá dân gian .................................................................. 94
3.2.1. Lễ hội, phong tục trong văn hóa Việt Nam ....................................... 94
3.2.2. Lễ hội – phong tục trong văn hóa Trung Quốc ................................. 97
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ......................................................................... 102
KẾT LUẬN .............................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 105
2
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài
1.1 . Ý nghĩa khoa học
Sau một tiến trình dài của lịch sử đã có hàng loạt các sự kiện lớn mang
tính chất vĩ mô, đánh dấu những cột mốc quan trọng trong lịch sử riêng của hai
quốc gia Trung Quốc và Việt Nam. Đó là các cuộc chiến như chiến tranh Bắc
phạt (1926 – 1928), chiến tranh Liên minh du kích chống Nhật ở Đông Bắc
(1932 – 1945), chiến tranh Trung – Nhật ( 1937 -1945), chiến tranh Trung
Quốc – Triều Tiên (1950 – 1953) ở Trung Quốc. Còn tại Việt Nam cũng có
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954), kháng chiến chống đế quốc
Mỹ (1954 – 1975),…
Với một thời kỳ dài, hai dân tộc Trung Hoa và dân tộc Việt Nam đều
dồn hết sức và hết tâm cho các cuộc chiến tranh. Kết quả cuối cùng là đã
mang lại sự độc lập, hoà bình cho đất nước mình, đó là bước đệm để cả hai
quốc gia cùng bước vào thời kỳ phát triển mới.
Lịch sử của chiến tranh đã khép lại, mở màn cho sự phát triển chung
của thế giới chính là xu hướng đối thoại và hội nhập; Việt Nam và Trung
Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Tiêu biểu như cả Trung Quốc và Việt
Nam đều tham gia vào một số hiệp định lớn của châu lục cũng như thế giới
như Hiệp định thương mại tự do FTA, hiệp định thương mại tự do ASEAN
– Trung Quốc, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực PCEP, hiệp
định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP mà tiền
thân của nó là hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TTP,…
3
Xu hướng đối thoại và hội nhập, hội nhập và phát triển giữa các quốc
gia là những xu hướng không thể phủ nhận được trong sự tiến bộ của nhân
loại. Tuy
nhiên, đi cùng với các xu hướng đó chính là sự tồn tại và luôn song
hành một số biểu thị của một số điều mang tính bảo hộ dân tộc, quay trở lại
với những giá trị cổ xưa, mang tính truyền thống.
Mặc dù hội nhập và phát triển là xu hướng chung của thế giới, nhưng mỗi
một quốc gia muốn hội nhập đều phải có nền tảng, những cơ sở và những giá
trị mang tính chất tiêu biểu của riêng quốc gia mình. Cũng như việc các quốc
gia muốn hội nhập đều cần phải có bản sắc, có những tính đặc thù riêng của
quốc gia mình; mang cái riêng để đóng góp vào cái chung; hoà nhập mà không
hoà tan. Nhu cầu của mỗi đất nước trong thời kỳ phát triển là đều phải hội nhập
và phải hội nhập bằng cái bản sắc, cái nét riêng của chính quốc gia mình, điều
đó đã góp phần tạo nên tính cấp thiết cho đề tài.
Sau một thời kỳ dài chạy đua cho sự phát triển của kinh tế, vật chất thì
đến hiện tại, xu hướng chung của thế giới đều quay trở lại để tìm lại các giá
trị tinh thần. Trong các giá trị tinh thần, giá trị lớn nhất là các giá trị về
chuẩn mực, về tâm linh; các tiêu chuẩn này đều đã và đang được quay lại,
tìm lại. Điều đó đồng nghĩa với việc xu hướng chung của nhân loại bên
cạnh sự phát triển về kinh tế chính là quay trở lại những yếu tố mang tính
truyền thống nhằm tìm lại bản sắc của mình, để mang cái bản sắc đó ra
trường quốc tế mà hội nhập. Vì thế, hầu hết các quốc gia đang phát triển,
trong đó có cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nhu cầu quay trở lại, tìm
các giá trị và nội lực truyền thống đã bị đánh rơi và lãng quên.
4
Việc quay trở lại và tìm lại các giá trị tinh thần đã bị đánh mất để cho
giá trị tinh thần ít nhất bằng giá trị vật chất hoặc cao hơn giá trị vật chất.
Tinh thần luôn luôn là kim chỉ nam để dẫn dắt sự sáng tạo; khi tạo ra các ý
tưởng trong giá trị tinh thần thì những giá trị thuộc về chuẩn mực và tâm
linh sẽ được phục hồi và trỗi dậy.
Khu vực Đông Á, đặc biệt là khu vực Đông Á, từ cổ xưa, con người
sống tại khu vực này đã có niềm tin rất lớn vào các yếu tố tâm linh, trong
đó có giá trị của 12 con giáp. Sự phát triển và ứng dụng các giá trị của 12
con giáp vào trong tư duy cũng như lối sống của cư dân khu vực Đông Bắc
Á, đặc biệt là cư dân Trung Quốc và Việt Nam là rất lớn, nó thâm nhập vào
trong từng “ngõ ngách” của cuộc sống người dân hai quốc gia. Vì vậy sự
phục hồi và giải mã các yếu tố, các vấn đề của 12 con giáp là một vấn đề
quan trọng trong việc tiếp cận và tìm tòi các giá trị truyền thống mà nhân
dân Trung Quốc cũng như nhân dân Việt Nam ứng dụng từ ngàn đời nay,
để thấy rằng, các giá trị truyền thống sẽ không bị mất đi nếu biết cách tận
dụng và ứng dụng nó vào trong đời sống.
1.2 . Giá trị thực tiễn
Trong lan toả văn hoá, theo lý thuyết, trung tâm văn hoá và trung tâm
lan toả văn hoá ở châu Á có hai trung tâm lớn nằm ở Trung Quốc và Ấn
Độ. Trong sự lan toả này, cái mà cư dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam
ứng dụng khá nhiều là phong tục tập quán, chuẩn mực tư duy, các thang giá
trị của hệ thống ngũ hành, âm dương, bát quái, thiên chi, địa can, nông
lịch…và tất cả các thang giá trị này đều nằm trong vấn đề của 12 con giáp.
Khi gần như tất cả các giá trị cơ bản và cốt lõi của một nền văn minh
lớn như Trung Hoa đều có sự xuất hiện và tồn tại của các yếu tố 12 con
5
giáp thì việc đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sẽ khẳng định ý nghĩa nội hàm
cũng như các giá trị cốt lõi của văn hoá truyền thống Trung Hoa.
Văn hoá Trung Hoa là một nền văn hoá lớn của nhân loại, có sức lan
toả mạnh mẽ trong khu vực, đặc biệt là đất nước láng giềng Việt Nam. Vì
vậy sự ảnh hưởng cũng như sự tiếp biến các giá trị văn hoá, đặc biệt là các
giá trị văn hoá truyền thống là một điều tất yếu diễn ra trong quá trình lịch
sử lâu dài.
Với việc tìm hiểu những yếu tố truyền thống, tâm linh như là việc
nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới 12 con giáp, đặc biệt là những điểm
tương đồng cũng như dị biệt của nó trong quá trình ứng dụng vào đời sống
thường nhật của Trung Quốc và Việt Nam có thể thấy được con đường đi
và sự chuyển giao giá trị 12 con giáp từ Trung Quốc sang Việt Nam. Khi
sự chuyển giao giá trị được tìm hiểu và bộc lộ thì các thành tố liên quan tới
các giá trị truyền thống cũng sẽ được tiếp cận một cách cụ thể.
Khi các giá trị trong các chuẩn mực của các yếu tố trong văn hoá tâm
linh được so sánh thì những sự lệch pha giữa đời sống vật chất cũng như
đời sống tinh thần của cư dân Trung Quốc và Việt Nam nói riêng và văn
hoá Trung Hoa – Việt Nam nói chung cũng được làm rõ. Qua đó có thể góp
phần làm rõ thêm mối quan hệ sâu sắc về văn hoá giữa hai quốc gia trong
lịch sử cũng như hiện tại.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nguồn gốc về sự ra đời của 12 con giáp vẫn chưa có cách nói thống
nhất. Tuy nhiên ngay từ buổi bình minh lịch sử Trung Hoa, dưới nhiều hình
6
thức và cách thức biểu hiện khác nhau, người Hoa Hạ đã có những mối
quan tâm nhất định đến 12 con giáp.
Giai đoạn Hạ Thương , tên của các loài động vật trong 12 con giáp đã
được ghi chép tỉ mỉ trong văn giáp cốt và nhiều văn vật khác. Đây cũng là
giai đoạn hình thành hệ thống lịch can chi.
Vào giai đoạn nhà Chu, Kinh Thi đã xuất hiện những ghi chép, nghiên
cứu đến 12 con giáp qua các bài thơ.
Tuy nhiên, đến giai đoạn nhà Tần - Hán, 12 con giáp và can chi đã
được nghiên cứu và ghi chép một cách có hệ thống qua sách tre. Đặc biệt,
trong các bộ sách tre được tìm thấy có bộ “Nhật Thư” và “Luận Hoàng” là
tài liệu nghiên cứu sớm nhất trong việc tổng hợp các mối quan hệ của 12
con giáp khi kết hợp với các yếu tố khác.
Từ giai đoạn Nguỵ Tấn và Nam Bắc Triều đến thời dân quốc, các
sách sử đã có những ghi chép và nghiên cứu về 12 con giáp.
Năm 1998, Hoàng Kiến Vinh trong “Thử luận nền tảng triết học của
văn hoá 12 con giáp” đã có những tìm luận cứ trong việc tìm hiểu cơ tầng
của 12 con giáp dưới góc độ tư tưởng và triết học.
Năm 2001, Thái Tiên Kim có nghiên cứu về ý nghĩa nhất định của địa
chi trong “Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên nghĩa”.
Năm 2004, trong “Thuyết minh văn hoá của 12 địa chi”, học giả Thái
Anh Kiệt đã nghiên cứu về 12 con giáp dưới góc độ mô tả địa chi trong văn
hoá học.
Ở Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống
về 12 con giáp. Hệ thống 12 con giáp chỉ xuất hiện trong các khảo cứu
7
nhằm mục đích đối sánh văn hoá Trung Hoa và văn hoá Việt Nam hoặc
trong các giáo trình cơ bản, nhập môn về văn hoá phương Đông như cuốn
“Cơ sở văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, “Giáo trình văn hoá
phương Đông” của Trần Lê Bảo.
3. Mục đích nghiên cứu và giới hạn đề tài nghiên cứu
3.1 . Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12
con giáp giữa Việt Nam và Trung Quốc” nhằm quay trở lại và khẳng định
những giá trị thực sự trong văn hoá truyền thống Trung Hoa, từ đó có thể
thấy được con đường đi, sự chuyển giao giá trị cũng như cách tiếp cận và
sự tiếp biến khi hệ thống 12 con giáp “sống” ở Việt Nam.
Theo dòng lịch sử, với hệ thống 12 con giáp, khi đi vào Việt Nam,
thang giá trị của nó đã được cải biến để phù hợp với văn hoá Việt và lối
sống cũng như con người Việt. Với đề tài nghiên cứu về sự tương đồng
cũng như di biệt giữa 12 con giáp ở Trung Quốc và ở Việt Nam có thể chỉ
ra được dưới thang văn hoá của người Việt, người Việt đã thay đổi đối
tượng tiếp nhận là hệ thống 12 con giáp như thế nào, kết quả là còn bảo lưu
được những yếu tố gì và những yếu tố gì được chuyển hoá,…
Với một yếu tố văn hoá ngoại lai nói chung và hệ thống 12 con giáp
nói riêng, khi tiếp nhận và chuyển biến, người Việt đã có một quá trình
chuyển hoá trong tư duy cũng như nhận thức nên việc tìm hiểu và nghiên
cứu về vấn đề 12 con giáp có thể đi sâu hơn vào các yếu tố mang tính chất
bản sắc của cả hai quốc gia là Trung Quốc và Việt Nam. Từ một vấn đề của
Trung Hoa, khi đưa sang Việt Nam có thể nhận thức được sự cải biên cũng
8
như quá trình thay đổi và tính ích dụng của nó trong đời sống người Việt
nói chung và đời sống văn hoá tâm linh nói riêng; qua đó có thể so sánh
được các giá trị, sự giống và khác nhau, cách tiếp cận và sự lệch pha trong
hệ thống 12 con giáp của hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam.
Với đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp
giữa Việt Nam và Trung Quốc” giúp thể hiện sức sống mãnh liệt của các
giá trị văn hoá truyền thống Đông Á nói chung và truyền thống Trung Hoa
– Việt Nam nói riêng, đặc biệt là những giá trị cố hữu, bất biến ở những
vấn đề tồn tại xung quanh hệ thống 12 con giáp. Khi nhận thức và tìm hiểu
được các vấn đề cốt lõi và cơ bản xung quanh hệ thống này có thể đối sánh
và nhìn nhận tầm quan trọng của việc ứng dụng hệ thống 12 con giáp trong
cuộc sống thường nhật của người dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam từ
ngàn đời nay.
Hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam – hai truyền thống dân tộc
trong quá khứ và hiện tại đã có những giao lưu văn hoá, quan hệ quốc tế rất
sâu sắc. Ngoài quan hệ chính trị thì không thể phủ định được quan hệ dân
tộc của hai cộng đồng dân tộc giữa người Hoa và người Việt là vô cùng
mật thiết. Tuy có những sóng gió trong lịch sử nhưng đó là sóng gió chính
trị, không phải là sóng gió do dân tộc. Vì vậy với việc tìm hiểu đề tài về sự
tương đồng cũng như dị biệt của hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và
Việt Nam góp phần làm tăng thêm mối quan hệ truyền thống giữa hai dân
tộc, nhất là hiện nay khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã có những tiếp cận rất tốt, ngoại trừ những mâu thuẫn mang
tính thời cuộc.
9
3.2. Giới hạn đề tài nghiên cứu
Mọi đối tượng văn hoá, yếu tố văn hoá nếu muốn tồn tại và phát triển
đều cần phải có mối liên hệ, sự tương quan trong các yếu tố văn hoá khác,
có sự liên quan và tương tác lẫn nhau. Vì vậy khi muốn đi sâu vào tìm hiểu
và nghiên cứu một đối tượng văn hoá cụ thể đều phải đặt nó trong một hệ
thống các mối tương quan, sự liên hệ nhất định. Nghiên cứu về vấn đề 12
con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Sự xuất hiện, tồn tại và phát huy các giá trị nền tảng cũng như những
giá trị lan toả của 12 con giáp đều phải dựa vào một hệ thống tổng thể, các
mối liên hệ mật thiết từ tự nhiên, địa lý, lịch sử khu vực đến tư duy, triết
học, các học thuyết âm dương, phương vị, phong thuỷ, phong tục, tập
quán,….của người Đông Á nói chung và cụ thể hơn là người Trung Quốc
và Việt Nam.
Mọi vấn đề của văn hoá khi cần xuất hiện và tồn tại đều có nguồn gốc
về sự hình thành và phát triển của riêng nó. Vấn đề về 12 con giáp cũng
vậy. Sự ra đời của 12 con giáp đều bắt nguồn từ địa lý, điều kiện tự
nhiên của Trung Quốc và sự phát triển của nó song song với sự phát
triển của nền văn minh Hoa Hạ và diễn trình lịch sử của cộng đồng
người Hoa. Vì vậy khi tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của hệ
thống 12 con giáp chính là tìm hiểu về địa lý, tự nhiên cũng như tiến
trình lịch sử của dân tộc Trung Hoa.
Một yếu tố văn hoá khi nó phát triển một cách mạnh mẽ là khi nó
được tồn tại trong các mối tương quan của một hệ thống nhất định, 12 con
giáp cũng vậy. Song hành với sự phát triển của nó chính là các yếu tố, các
10
học thuyết về ngũ hành, âm dương, phương vị,…giúp nó củng cố và thâm
nhập một cách có hệ thống và ảnh hưởng sâu sắc vào tư duy cũng như tư
tưởng của người dân. Nói cách khác, khi tìm hiểu về vấn đề 12 con giáp
cũng chính là tìm hiểu về hệ thống liên kết của nó là các học thuyết cổ đại
cũng như tư duy của người phương Đông.
Tất cả các nền văn hoá khi phát triển đủ rực rỡ sẽ có sức lan toả sang
các nền văn hoá khác. Với cư dân lúa nước người Việt, trong diễn trình lịch
sử, đã tiếp nhận và tiếp biến một cách chọn lọc các yếu tố văn hoá của
người Hoa, trong đó có hệ thống 12 con giáp. Trong quá trình đón nhận,
người Việt đã dựa vào văn hoá truyền thống của mình là nền tảng để đón
nhận những cái phù hợp và thay đổi những cái chưa phù hợp của hệ thống
12 con giáp đối với văn hoá Việt. Vì vậy, khi nghiên cứu về sự giống và
khác nhau của hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam đều phải
tìm hiểu về văn hoá người Việt nói chung, mà cụ thể hơn chính là phong
tục, tập quán, lễ hội, tư duy của người Việt.
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về hệ thống 12 con giáp cũng chính
là nghiên cứu về cả một hệ thống những vấn đề tồn tại bao quanh nó trong
suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai của hai quốc gia
Trung Quốc và Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận nghiên cứu và cơ sở tƣ liệu
4.1 . Phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng
hợp liên ngành để có thể dùng nhiều tiêu chuẩn của các ngành khoa học
như khu vực học, địa lý, văn hóa, lịch sử, khảo cổ học, folklore,...Đây là
11
phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong luận văn. Với phương pháp
này, chúng tôi có thể tiếp cận các vấn đề ở nhiều phương diện khác nhau
một cách chân thực và khoa học nhất. Bởi vì đây là một vấn đề vừa mang
tính thực tiễn, vừa mang tính lý thuyết, vừa mang tính lịch sử, vừa mang
tính hiện đại và vừa mang tính tương lai. Chính vì vậy nên một phương
pháp nghiên cứu sẽ không đáp ứng được. Đó là lí do khi nghiên cứu vấn đề
này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng hợp liên ngành xuyên suốt
luận văn.
Ngoài phương pháp chính là tổng hợp liên nghành, chúng tôi còn sử
dụng phương pháp như nghiên cứu khu vực học vì đối tượng nghiên cứu
của đề tài là hệ thống 12 con giáp trong khu vực Trung Quốc và Việt Nam.
Phương pháp khảo cứu lịch sử và so sánh lịch đại cũng được sử dụng
để thấy được sự thay đổi, chuyển di của hệ thống 12 con giáp ở Trung
Quốc sang Việt Nam. Bởi vì đây là một vấn đề mang tính trừu tượng, nó
chỉ có thể hiện diện và xuất hiện khi được đưa vào ứng dụng. Qua đó có thể
thấy được sự thay đổi trong quá trình chuyển di một yếu tố văn hoá giữa
hai quốc gia.
Ngoài các thao tác phục vụ nghiên cứu trên, chúng tôi còn sử dụng
phương pháp thống kê, liệt kê làm cơ sở tư liệu để phân tích và so sánh, để
từ đó có cái nhìn tổng quan hơn về sự giống nhau và khác nhau về hệ thống
12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam.
4.2 . Cơ sở tư liệu
Nguồn tài liệu mang tính lý thuyết được sử dụng xuyên suốt trong
luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu đã có về tính lý thuyết văn hóa, văn học,
12
lịch sử,... Có thể nói với đề tài hệ thống 12 con giáp hầu như không được
đề cập đến trong bất kỳ một cuốn sử chính thức của một triều đại nhất định
nào ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, vào giai đoạn nhà Tần –
Hán đã có một số ghi chép về vấn đề 12 con giáp và can chi qua sách tre,
đặc biệt là trong bộ “Nhật Thư” và “ Luận Hoàng”.
Bên cạnh một số ít bộ sách chính sử còn được lưu giữ lại còn có một
nguồn tài liệu hiếm hoi và hết sức quý giá là các công trình khảo cứu hoặc
các ghi chép của một số học giả Trung Quốc về đề tài và những vấn đề liên
quan đến 12 con giáp như cuốn “Thử luận nền tảng triết học của văn hoá 12
con giáp” của Hoàng Kiến Vinh hay như vấn đề địa chi cũng được học giả
Thái Tiên Kim đề cập đến trong cuốn “Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên
nghĩa”, hoặc Nam Hoài Cẩn cũng có đề cập đến một số vấn đề liên quan
đến 12 con giáp trong “Kinh dịch tạp thuyết”. Tuy mức độ thông tin xuất
hiện chưa được trọn vẹn, song người nghiên cứu vẫn có thể tìm chọn và
chắt lọc các tri thức để phục vụ cho đề tài.
Nguồn hệ thống tư liệu mang tính thực tiễn như quan sát, phỏng vấn
các cách ứng dụng và vận hành hệ thống 12 con giáp trong cuộc sống của
người dân Việt Nam và Trung Hoa ở một số khu vực nhất định của hai
quốc gia cũng được sử dụng trong luận văn.
Ngoài ra còn có nguồn tư liệu dã sử bao gồm các câu thơ hay truyền
thuyết dân gian, câu truyện cổ tích về sự ra đời của 12 con giáp. Cũng có
một số tài liệu truyền miệng phản ánh tương đối khách quan về ước vọng
và niềm tin của người dân về 12 con vật được hệ thống hoá thành 12 con
giáp đưa vào ứng dụng trong cuộc sống. Nhưng đặc điểm chung của những
13
nguồn tư liệu này đều mang tính ước lệ và giải thích theo cảm tính. Tuy
nhiên, nếu có sự so sánh, đối chiếu với các tư liệu loại khác thì nguồn tư
liệu truyền miệng cũng có thể cung cấp một nguồn thông tin dồi dào, phong
phú và sinh động để có thể hiểu hơn về đời sống vật chất cũng như đời
sống tinh thần của người dân Trung Quốc và Việt Nam thông qua hình
tượng 12 con giáp.
5. Những đóng góp cơ bản của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về đề tài 12 con
giáp ở Trung Quốc và Việt Nam. Qua đó, chúng tôi đã tổng hợp, hệ thống
hoá được các kết quả của các học giả đi trước và đề ra được một số bổ
khuyết, bởi những nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung tìm hiểu dưới
một góc độ nhất định và chưa đưa các lý thuyết này ứng dụng vào thực tiễn
để nghiên cứu. Với đề tài này, sẽ là một đề tài có hệ thống trong việc tìm
hiểu và so sánh sự tương đồng và dị biệt trong hệ thống 12 con giáp ở
Trung Quốc và Việt Nam.
Với đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp
giữa Việt Nam và Trung Quốc”, chúng tôi còn tổng hợp được các nguyên
lý trong quá trình vận hành hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt
Nam. Từ đó có thể tìm ra được những thiên di văn hoá trong lịch sử cũng
như hiện tại để từ đó có thể đề xuất những ý kiến trong việc bảo tồn, bảo
lưu và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống cổ xưa trong khu vực.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 4 phần lớn: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận
và tài liệu tham khảo.
14
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về 12 con giáp.
Chương 2: Tương đồng trong quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và
Trung Quốc.
Chương 3: Khác biệt trong quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và
Trung Quốc.
15
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ 12 CON GIÁP
1.1. Khái quát cơ tầng của 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam
1.1.1. Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có diện tích lớn thứ tư trên thế giới. Lãnh
thổ của Trung Quốc trải dài và giáp với 14 nước, trong đó có Việt Nam.
Biên giới với các nước chủ yếu là núi cao, phía đông giáp biển, mở rộng
ra Thái Bình Dương.
Về cơ bản, lãnh thổ Trung Quốc được chia làm 2 miền là miền Đông và
miền Tây. Nếu như miền Đông là nơi có các đồng bằng châu thổ rộng lớn, đất
phù sa màu mỡ thì miền Tây Trung Quốc lại có các dãy núi cao, các sơn
nguyên đồ sộ xen lẫn các bồn địa, vì thế kiến tạo địa lý của Trung Quốc đều
bắt nguồn trực tiếp bởi các đường nét sơn văn và thuỷ văn.
Về đường nét sơn văn: Vị trí kiến tạo của Trung Quốc bắt nguồn trực
tiếp từ dãy Thiên Sơn, Côn Luân và Himalaya. Vành cung Thiên Sơn và
Himalaya đi về Tứ Xuyên, Vân Nam, kéo dài và kết thúc ở đất nước
Malaixia. Hệ thống đứt gãy của hệ các vành cung này lại nằm ở hệ thống đảo
Indonexia thuộc khu vực Đông Nam Á nên cả Trung Quốc và Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam đều nằm trong một mạch kiến tạo chung và nó sẽ có
một số nét tương đồng giữa hai khu vực.
Về đường nét thuỷ văn: Khu vực miền Tây Trung Quốc có rất nhiều các
dãy núi cao, đồ sộ với rất nhiều rừng và đồng cỏ; đây cũng là nơi bắt nguồn
của các con sông lớn chảy về phía đông như sông Hoàng Hà, Trường Giang
và sông Lan Thương (Mê Kông).
16
Sông Lan Thương là một trong những con sông lớn nhất thế giới, bắt
nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua khu vực Tứ
Xuyên, Vân Nam của Trung Quốc, đi qua Lào, Myama, Thái Lan, Cam pu
chia và đổ ra Thái Bình Dương. Cũng như đường nét sơn văn, đường nét thuỷ
văn cũng đều nằm chung trong một hệ thống dòng chảy của sông Mê Kông
nên không chỉ vấn đề tự nhiên mà vấn đề xã hội, con người giữa hai khu vực
là Trung Quốc và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam cũng có sự tương đồng
nhất định. Không những thế, hệ thống hai sông lớn ở miền Bắc Việt Nam là
sông Hồng và sông Thái Bình đều bắt nguồn từ cao nguyên Vân Nam của
Trung Quốc nên tự nhiên và văn hoá Việt Nam cũng sẽ có sự ảnh hưởng nhất
định với văn hoá Trung Hoa.
Không phải con sông lớn nào cũng mang lại văn minh cho nhân loại,
nhưng những nền văn minh lớn, văn minh đầu tiên của nhân loại đều bắt
nguồn từ các con sông. Khu vực bắt đầu cho các nền văn minh đều phụ thuộc
vào một dòng sông. Ví dụ nền văn minh Ai Cập gắn với con sông Nin, nền
văn minh Babilon là sự gắn kết của hai con sông Tigơrơvà Ơphơrat, nền văn
minh Ấn Độ là sự kết tinh của sông Ấn và sông Hằng thì nền văn minh Trung
Hoa cũng là sự thăng hoa của hai dòng sông Hoàng Hà và Trường Giang.
Sông Hoàng Hà và Trường Giang đều bắt nguồn từ sơn nguyên Tây
Tạng, chảy về phía đông rồi đổ ra Hoàng hải và biển Đông Trung Hoa. Ở hạ
lưu các con sông bồi đắp thành những đồng bằng rộng lớn, màu mỡ.
Nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn từ khu vực trung lưu và hạ lưu sông
Hoàng Hà (tỉnh Thiểm Tây – Trung Quốc). Tuy nhiên, sông Hoàng Hà có chế
độ nước thất thường vì chảy qua các vùng khí hậu khác nhau. Mùa đông lưu
17
lượng nước rất nhỏ, nhưng mùa hạ lưu lượng nước cực kỳ lớn do lượng băng
tuyết tan ở thượng nguồn và mưa nên thường xảy ra lũ lụt, không thuận lợi
cho sản xuất và phát triển nông nghiệp ở khu vực này.Vì thế với người Trung
Hoa cổ, sự ra đời và phát triển nền văn minh của mình không phải bắt đầu từ
nguồn nước và phù sa màu mỡ của con sông Hoàng Hà mà nền văn minh
Trung Hoa nhận sự “ban ơn” từ chi lưu của con sông này. Vùng đất Thiểm
Tây phía bắc có núi cao, hiểm trở, phía nam có sông lớn và đồng bằng màu
mỡ, phì nhiêu nên thuận lợi cho việc trồng lúa, vì vậy về cơ bản, cội nguồn
của văn hoá Trung Hoa là nông nghiệp.
Bên cạnh hệ thống sông lớn, Trung Quốc còn có một hệ thống hồ rất lớn
đặc biệt là xuôi xuống khu vực miền trung và miền nam. Với cội nguồn là văn
hoá sản xuất nông nghiệp ở chi lưu sông Hoàng Hà và hệ thống hồ mang tính
chất tĩnh thì đặc trưng của văn hoá Trung Hoa là nền văn hoá trọng văn, thích
yên tĩnh và ưa sự hoà mục,…Vấn đề này được biểu hiện rất rõ trong các học
thuyết cũng như tư duy học của người Trung Quốc; nói theo cách khác, sự ra
đời của tư duy và các học thuyết cổ Trung Hoa đều bắt nguồn và ảnh hưởng
bởi các nét thuỷ văn trong đó có sông và hồ của người Hoa Hạ.
Văn hoá Trung Hoa phát nguyên ở khu vực trung và hạ du của sông
Hoàng Hà cách ngày nay khoảng 5000 năm, đây là một trong những nền văn
hoá cổ xưa nhất của nhân loại. Khi hoàn cảnh sinh tồn và điều kiện sinh sống
của cư dân gốc được xác lập thì đó chính là cột mốc cho sự hình thành của
một nền văn hoá. Đây cũng chính là mối quan hệ giữa tự nhiên và con người
mà người Trung Hoa đã nâng lên thành những hệ tư tưởng, những học thuyết
của riêng mình.
18
Điều kiện tự nhiên của khu vực sinh sôi ra các nền văn minh cổ đại trên
thế giới đều có những sự thuận lợi và khó khăn nhất định, và đó là quy luật tất
yếu, không thể tránh khỏi. Tuy nhiên chính những thuận lợi và khó khăn riêng
đã xác lập nên những nét khác biệt văn hoá của các cộng đồng dân tộc; con
người là yếu tố quyết định cho cái riêng của nền văn hoá ấy vì con người là
chủ thể quan trọng nhất cho một nền văn hoá. Nếu như sinh sống trong một
điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt thì con người sẽ dành toàn bộ tâm trí của
mình để tự vệ trước cái “hung dữ”và sức mạnh huỷ diệt của tự nhiên; nhưng
nếu sinh sống trong một môi trường tự nhiên quá thuận lợi, quá ưu việt sẽ làm
cho tư duy của con người bị bó hẹp và không thể phát triển được. Hai miền
tam giác châu thổ rộng lớn và phì nhiêu của sông Trường Giang và Chu
Giang không trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Hoa mà sự khó khăn
của con sông Hoàng Hà ở phía bắc lại là nơi hình thành nên cái nôi cho sự
văn minh của người Trung Quốc. Cũng chính bởi xuất phát điểm từ con sông
Hoàng Hà nên tại khu vực này đã nảy sinh rất nhiều học thuyết, hệ tư tưởng,
các phát kiến lớn của dân tộc Trung Hoa.
Văn hoá của dân tộc Trung Hoa là sản phẩm, là thành tựu của cả hai nền
văn hoá. Đó chính là văn hoá du mục ở phía bắc và văn hoá nông nghiệp ở
phía nam. Nếu như văn hoá du mục trọng về tính “động” và sức mạnh thì văn
hoá nông nghiệp thiên về tính “tĩnh” và sự hài hoà. Tuy có sự khác biệt nhưng
vẫn có sự hỗn dung nhất định. Điều này thể hiện rất rõ trong các học thuyết
của người Trung Hoa như âm dương, ngũ hành,…
Nhìn từ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong buổi bình minh
của nhân loại, bởi từ buổi sơ khai, sự hiểu biết của con người về tự nhiên còn
nhiều hạn chế nên đã nảy sinh tư tưởng sùng bái tự nhiên “kính thiên”, “tôn
19
thiên mệnh”,… Sau đó, ý thức về tự nhiên ngày một cao hơn trong quá trình
phát triển của chính mình, con người đã chuyển dần sự sùng bái thành chinh
phục tự nhiên. Người Trung Hoa cũng không phải là ngoại lệ, cũng nằm trong
chu trình phát triển của nhân loại. Khi ý thức được hình thành và dần thoát
khỏi sự kì bí của yếu tố tôn giáo thì nó sẽ trở thành một bộ phận quan trọng
cấu thành văn hoá dân tộc Trung Hoa. Những quan niệm, tư duy về can chi,
âm dương, ngũ hành, bát quái,… chính là kết quả của sự phát triển trong ý
thức của người Trung Quốc. Từ chỗ lo lắng, sợ hãi trước tự nhiên nên sùng
bái tự nhiên, người Trung Hoa đã chinh phục tự nhiên bằng cách quan sát để
tìm ra hệ thống các quy luật vận động của tự nhiên để sinh tồn và phát triển.
Dân cư cổ Trung Hoa phân bố chủ yếu nằm ở vùng ôn đới Bắc bán cầu
với hình thái kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ thể. Thời thượng cổ, khi môi
trường canh tác tương đối ổn định, Trung Quốc đã bước qua ngưỡng cửa văn
minh, thủ lĩnh thị tộc chuyển hoá thành giai cấp thống trị mới nổi nắm trong
tay mọi quyền lực. Cầu nối huyết thống và hệ thống hành chính quốc gia
thống nhất làm một, kết tụ thành kết cấu tầng sâu của xã hội, hình thành xu
hướng hướng nội, luân thường đạo lý, quần thể và tập quyền.
Tại lưu vực sông Hoàng Hà và Trường Giang, thời cổ đại Trung Quốc
đã phát triển mô hình sản xuất cày sâu cuốc bẫm, dùng đồ sắt và trâu cày. Từ
đây đã hình thành nên một nền kinh tế nông nghiệp mang tính cá chất cá thể,
có mối quan hệ phụ thuộc nhân thân tương đối lỏng lẻo, và chế độ tư hữu
ruộng đất cùng quan hệ giao kèo thuê ruộng.
Đại lục Trung Hoa cách văn minh phương Tây khá xa, qua núi cao, sa
mạc, đại dương, hình thành nên một đơn vị địa lý tương đối độc lập. Trong
không gian rộng rãi, được các vùng miền vây quanh, lại có các môi trường
20
như đất đai màu mỡ, rộng lớn thích hợp cho việc canh tác, có thảo nguyên,
duyên hải thích hợp với chăn thả, buôn bán, đánh cá, làm muối. Những môi
trường sinh tồn phong phú đa dạng này có lợi cho việc giao lưu xã hội và các
yếu tố bổ sung lẫn nhau.
Thời cổ Trung Quốc dựa vào sức sản xuất tiên tiến và ưu thế chỉnh thể
thống nhất, đã sáng tạo nên bốn phát minh lớn đánh dấu văn minh cổ đại huy
hoàng chói lọi, giữ vị trí hàng đầu trên thế giới trong một thời gian dài.
1.1.2. Việt Nam
Nước Việt Nam nằm ở đông nam lục địa châu Á, bắc giáp nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và
vương quốc Campuchia, đông và nam giáp Thái Bình Dương. Từ thời cổ sinh
của trái đất (cách ngày nay từ 185 - 520 triệu năm) đây đã là một nền đá hoa
cương, vân mẫu và phiến ma nham vững chắc, tương đối ổn định. Vào kỷ thứ
ba của thời tân sinh (cách ngày nay khoảng 50 triệu năm) toàn lục địa châu Á
được nâng lên và sau nhiều biến động lớn của quả đất, dần dần hình thành các
vùng đất của Đông Nam Á.
Sự hình thành lâu đời và bền vững của lục địa châu Á đã ảnh hưởng rất
lớn đến sự ra đời của con người và xã hội trong khu vực. Năm 1892, nhà bác
học Hà Lan Ơgien Duy boa (Engène Dubois) đã tìm thấy hài cốt của người
vượn Java, sống cách đây khoảng 180 vạn năm. Việc phát hiện hài cốt người
nguyên thủy trong các thập niên qua đã chứng tỏ rằng Đông Nam Á là một
trong những quê hương của loài người.
Địa hình vùng đất liền của Việt Nam khá đặc biệt với hai đầu phình ra
(Bắc bộ và Nam bộ) ở giữa thu hẹp và kéo dài (Trung bộ). Địa hình miền Bắc
21
tương đối phức tạp. Rừng núi trải dài từ biên giới Việt Trung cho đến tây
Thanh Hóa với nhiều núi cao như Phanxipăng (3.142m), nhiều khu rừng nhiệt
đới, và nhiều dãy núi đá vôi như Cao Bằng, Bắc Sơn, Hòa Bình, Ninh Bình,
Phong Nha - Kẻ Bàng ... với hàng loạt hang động, mái đá. Cùng với nhiều
loại thực vật khác nhau, rừng Việt Nam còn có hàng trăm giống thú vật quý
hiếm; nhiều loại đá, quặng, tạo điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự sinh sống
và phát triển của con người.
Địa hình Trung bộ với dải Trường Sơn trải dọc phía tây về giải đồng
bằng hẹp ven biển. Vùng đất đỏ Tây Nguyên ,vùng ven biển Trung bộ và cực
nam Trung bộ, nơi cư trú của đồng bào nhiều dân tộc trong đại gia đình dân
tộc Việt Nam.
Địa hình Nam Bộ bằng phẳng, thoải dần từ đông sang tây là vựa lúa của
cả Việt Nam, hàng năm vẫn tiếp tục lấn ra biển.
Nằm trong khoảng 8"30' - 23"22' độ vĩ bắc với một chiều dài khoảng
1650 km, Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đởi gần xích đạo. Nhờ gió mùa hàng
năm, khí hậu điều hòa, ẩm, thuận lợi cho sự phát triển của sinh vật.
Việt Nam có nhiều sông ngòi. Hai con sông lớn Hồng Hà và Cửu Long bắt
nguồn từ cao nguyên Vân Nam (Trung Quốc) bồi đắp lên hai châu thổ lớn là đồng
bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam còn có hệ thống sông ngòi
phân bổ đều khắp từ bắc tới nam với lưu vực lớn, nguồn thuỷ sản phong phú, tiềm
năng thuỷ điện dồi dào thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và tụ cư của con
người, hình thành nền văn minh lúa nước lâu đời của người Việt bản địa.
Xét về mặt vị trí địa lý, phía bắc Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc; hệ
thống hai con sông lớn ở Việt Nam là sông Hồng và sông Cửu Long đều bắt
22
nguồn từ Trung Quốc. Hơn nữa, về mặt khí hậu, khí hậu Việt Nam, đặc biệt
là miền bắc Việt Nam có nhiều nét tương đồng với hình thái khí hậu của khu
vực miền nam Trung Quốc. Về vấn đề con người, người Việt vốn là dân tộc
có nguồn gốc từ cộng đồng Lạc Việt, một số khu vực của Trung Quốc, đặc
biệt là các khu vực xuôi về phía Nam, nguồn gốc và chủ thể của cộng đồng
người trong lịch sử là Âu Việt. Hay nói cách khác, người Lạc Việt và người
Âu Việt đều nằm trong một cộng đồng Bách Việt nên sẽ có rất nhiều nét
tương đồng về con người, lối sống, hình thái văn hoá,…Quan trọng nhất,
trong quá trình lịch sử lâu dài, người Việt đã có sự ảnh hưởng rất lớn của văn
hoá Trung Hoa. Với căn bản là các điều kiện tự nhiên, lịch sử có nét tương
đồng, cộng thêm một quá trình giao lưu, tiếp biến lâu dài thông qua nhiều
hình thức nên qúa trình tiếp nhận văn hoá Trung Hoa nói chung và các học
thuyết của cộng đồng người Hoa Hạ nói riêng của người Việt là một vấn đề
rất cơ bản và tự nhiên.
1.2 . Nguồn gốc sự hình thành thiên can địa chi
1.2.1. Ngũ hành
Người cổ đại xưa kia sống trong một điều kiện cực kỳ lạc hậu, phải trải
qua một quá trình đấu tranh gian khổ với thiên nhiên. Vì sự sinh tồn, con
người bắt buộc phải vận động bằng cách quan sát, tìm tòi, nghiên cứu, đúc kết
các kinh nghiệm về quy luật vận động của tự nhiên, của vũ trụ để có thể
chung sống một cách hoà bình với thiên nhiên.
Căn cứ nhận xét lâu đời về thế giới tự nhiên, người xưa đã thấy được sự
biến hoá không ngừng của sự vật: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh
tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái[1, tr25]; bát quái tương tác lẫn nhau, biến hoá
23
vô cùng để tạo ra vạn vật, thế giới. Ngoài ra, người xưa còn thấy được cơ cấu
của sự biến hoá không ngừng là sự ức chế lẫn nhau, giúp đỡ ảnh hưởng lẫn
nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến không ngừng và quy luật của sự biến hoá đó, người xưa
đã đặt ra học thuyết âm dương. Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào
mà là thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, sự việc. Trong quá trình
đối lập và chuyển hoá của hai cặp âm cực và dương cực, cùng nhau dung nạp và
tương khắc mà sinh ra 5 loại vật chất cơ bản gọi là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau
gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc.
Kim: những gì cứng rắn, kiên cố đều là Kim, thời thượng cổ không phân
loại vật chất như bây giờ, khi ấy những thứ có tính năng cứng rắn, kiên cố
trong thế giới vật chất đều được đại diện bằng chữ Kim.
Mộc: đại diện cho cây cỏ, cho công năng sinh và căn nguyên của sự
sống. Cây cỏ bị chặt, chỉ cần còn rễ là có thể mọc trở lại. Nhà thơ Bạch Cư Dị
có câu thơ “ly ly nguyên thượng thảo, nhất tuế nhất khô vinh, dã hoả thiêu bất
tận, xuân phong khảm hựu sinh” có nghĩa là cỏ trên cánh đồng bời bời, mỗi
năm một lần úa và một lần tươi, lửa đồng đốt không bao giờ cháy hết, khi gió
xuân thổi lại sinh sôi nảy nở. Đây là công năng của Mộc, nó có sức sống rất
mạnh, Mộc đại diện cho sự sống.
Thuỷ đại diện cho tính lưu động, tác dụng tuôn chảy, không ngừng nghỉ.
Hoả đại diện cho nhiệt năng.Thổ đại diện cho trái đất.Vì thế chúng được gọi
là ngũ hành bởi năm thứ này biến hoá lẫn nhau, tương tác với nhau, sự biến
hoá, tương tác gọi là sinh và khắc.
24
1.2.2. Thiên can
Để định thứ tự và gọi tên các đơn vị thời gian, người xưa dùng một hệ
đếm gọi là can chi, gồm hai hệ nhỏ là hệ can và hệ chi.
Hệ can gồm 10 yếu tố: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân,
Nhâm, Quý, được xây dựng trên cơ sở 5 hành phối hợp với âm dương mà
thành. Vì vậy hệ này còn gọi là nhập can hoặc thiên can.
Văn hoá thiên can cũng đã rất cổ xưa. Thiên can địa chi có thể tìm được
từ giáp cốt văn. Thứ khoa học mà người Trung Quốc phát triển sớm nhất là
thiên văn, khi phát triển đến mức độ cao thì quy nạp lại, dùng 10 ký hiệu để
đại diện. 10 ký hiệu này được gọi là thiên can. Thiên can chính là quy tắc của
ngũ hành, có nghĩa là trong hệ mặt trời, trái đất và các tinh tú bên ngoài tác
động lẫn nhau. Nói theo vật lý thiên văn ngày nay thì là công năng bức xạ của
trái đất và các tinh tú, thu hút lẫn hau và tác động lẫn nhau. Người Trung
Quốc từ xưa đã hiểu, đối với sự vận động của các thiên thể, sự vận động của
thế giới vật lý, họ dùng Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thuỷ để đại diện, thể hiện
nguyên lý tương sinh tương khắc. Nhưng khi văn hoá đã phát triển, nguyên
tắc sinh khắc của ngũ hành không đủ dùng, nên người xưa đã phát hiện ra tác
dụng song trùng của ngũ hành, đối với các thực thể trong thế giới vật lý, họ
lại dùng mười chữ làm ký hiện, đó là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh,
Tân, Nhâm, Quý và sắp xếp theo phương. Phương đông là Giáp Ất Mộc,
phương nam là Bính Đinh Hoả, phương Tây là Canh Tân Kim, phương Bắc là
Nhâm Quý Thuỷ, trung ương là Mậu Kỷ Thổ.
1.2.3. Địa chi
Hệ chi có 12 yếu tố: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,
Tuất, Hợi. Chúng gồm 6 cặp âm dương do Ngũ hành biến hoá mà ra, cho nên
25
được gọi là thập nhị chi hay địa chi. Tên mỗi chi ứng với một con vật sống trên
mặt đất, gần gũi với cuộc sống của người nông dân, hoặc theo trí tưởng tượng.
Hệ can và hệ chi có thể được dùng độc lập như những hệ đếm 10 và 12.
Hệ chi phổ biến hơn, dùng để chỉ 12 giờ trong một ngày. Ngày khởi đầu bằng
giờ Tí vào lúc nửa đêm, từ 23 giờ đến 1 giờ khi dương khí bắt đầu sinh ra, 12
tháng trong một năm: năm khởi đầu với tháng Tí, lúc giữa đông, khi dương
khí bắt đầu sinh ra.
Ngũ hành can chi có mỗi liên hệ mật thiết với thiên văn, vật lý địa cầu.
Theo quan niệm hiện đại, trái đất vận hành trong hệ mặt trời, tương tác với
các tinh tú khác, có một sức mạnh hỗ trợ, đó chính là địa chi.
Có 10 thiên can, ngũ hành của từng can phân thành hai cực, tức là sự
biến đổi âm dương của ngũ hành. Chi là sáu số, đạo âm dương sản sinh, biến
hoá mà thành 12 số. Có 12 địa chi, đại diện cho 12 tháng. Trên thực tế địa chi
là ký hiệu chỉ 12 cung hoàng đạo trong thiên văn. Cung ở đây là bộ vị, hoàng
đạo là đường biểu kiến của mặt trời mọc ở phía đông, lặn ở phía tây, một
vòng như vậy được gọi là mặt hoàng đạo.
Phối hợp các can chi với nhau được hệ đếm gồm 60 đơn vị với các tên
gọi như Giáp Tí, Ất Sửu,…Quý Hợi,… gọi là hệ can chi hay lục giáp.
Lục thập hoa giáp bắt nguồn từ can chi, thiên can phối với địa chi đại diện
cho sự biến đổi của vạn vật; trong đó sự biến đổi của khí tượng là lớn nhất, cũng là
rõ ràng nhất. Sự biến đổi của vạn vật mỗi thứ một khác nên dùng sự phối hợp với
can chi để biểu thị, hơn nữa là can dương phối với chi dương, can âm phối với chi
âm, dương phối với dương, âm phối với âm, luân lưu kết hợp theo thứ tự sẽ được
60 tổ hợp, thành một chu kỳ, rồi lại bắt đầu từ Giáp Tý, gọi là lục thập hoa giáp.
26
Sự kết hợp của lục thập hoa giáp ghi lại sự vận hành của thiên thể, 60
năm là một vòng quay lớn. Trong thiên văn học, mặt trời và trái đất một ngày
đi một độ, đi hết 365 độ và ¼ độ là một năm; lấy 365 ngày làm một năm, nếu
có số dư lại thành tháng nhuận, đây là cách tính âm lịch, còn dương lịch thì
mỗi năm có 7 tháng là 31 ngày, vì phương pháp khác nhau nên con số cũng
khác nhau, nhưng tính theo lục thập hoa giáp thì con số vũ trụ trong hàng vạn
năm cũng không thể sai được.
1.2.4. Mười hai con giáp
Con giáp của 12 địa chi, Tý là chuột, Sửu là trâu, Dần hổ, Mão thỏ, Thìn
rồng, Tỵ rắn, Ngọ ngựa, Mùi dê, Thân khỉ, Dậu gà, Tuất chó, Hợi lợn. Những
con giáp này có thể được du nhập từ Ấn Độ vào thời kỳ nhà Hán. 12 địa chi
của người Ấn khi ấy không hoàn toàn giống của người Trung Quốc, mà dùng
các ký hiệu trừu tượng để đại diện, dùng động vật để đại diện, sau đó trở
thành cách giải thích theo văn hoá Trung Quốc. Trong sách “Cổ kim đồ thư
tập thành – can chi bộ” viết “lấy thiên cầm, địa diệu của nhị thập bát tú phân
trực trên trời, để ghi lại 12 canh giờ, đó là khởi nguồn của 12 con giáp”.
Theo sách cổ Trung Quốc, nguồn gốc ra đời của 12 con giáp gắn liền với
Con đường tơ lụa. Người xưa tin rằng, những con vật này đều được Đức Phật
gửi tới, tuy nhiên không phải ai cũng đồng ý quan điểm này.
Theo một số nhà chiêm tinh của Trung Quốc, sự xuất hiện của 12 con
giáp gắn liền với các bộ lạc du mục cổ đại và họ thường săn bắt được những
con thú này trong những khoảng thời gian nhất định của năm.
Tại Trung Quốc, có rất nhiều câu chuyện dân gian về 12 con giáp như
Ngọc Hoàng mời các loài động vật lên để làm biểu tượng cho lịch thì đây là
27
12 con vật nhanh nhất. Còn trong 1 câu chuyện khác Ngọc Hoàng lại cần đến
12 vệ sĩ của cung điện nên ông tổ chức 1 cuộc thi đối với các loài động vật.
Dù sao, ở bất kỳ phiên bản nào, đây đều là những loài động vật rất thân thiện
với con người. Điều nhiều người thắc mắc là vì sao con chuột lại đứng đầu
tiên trong cuộc thi này không phải vì nó nhanh nhất mà là vì nó thông minh
nhất. Cũng nhờ bản tính vốn có của mỗi con vật nên mỗi người sinh ra tương
ứng với con vật nào sẽ có những đặc trưng của con vật ấy. Tuy nhiên, nhiều
người có thể sinh cùng ngày cùng năm, nhưng mỗi người đều có số phận khác
nhau. Điều này là bởi họ sinh khác nhau về giờ.
Việc tính giờ theo can chi cũng phần nào liên quan đến tập tính của các
con vật. Từ đây cũng có thể biết được khái quát tính cách của một người
thông qua tuổi của họ.
Người mang tuổi Tý rất duyên dáng và hấp dẫn người khác phái. Tuy
nhiên, họ rất sợ ánh sáng và tiếng động. Người mang tuổi này rất tích cực và
năng động nhưng họ cũng thường gặp lắm chuyện vặt vãnh. Người mang tuổi
Tý cũng có mặt mạnh vì nếu Chuột xuất hiện có nghĩa là phải có lúa trong bồ.
Trâu tượng trưng cho sự siêng năng và lòng kiên nhẫn, có tiến triển vững
vàng nhưng chậm và một sức mạnh bền bỉ; người mang tuổi Sửu thường có tính
cách thích hợp để trở thành một nhà khoa học. Trâu biểu tượng cho mùa Xuân
và nông nghiệp vì gắn liền với cái cày và thích đầm mình trong bùn. Người
mang tuổi này thường điềm tĩnh và rất kiên định nhưng rất bướng bỉnh.
Khi cọp trở về hang sau khi đi rình mò trong đêm nên một số người
mang tuổi hổ thường rất dễ nổi giận, thiếu lập trường nhưng họ có thể rất
mềm mỏng và xoay chuyển cá tính cho thích nghi với hoàn cảnh. Hổ là chúa
28
tể rừng xanh, thường sống về đêm và gợi lên những hình ảnh về bóng đen và
giông tố.
Mèo tượng trưng cho những người ăn nói nhẹ nhàng, nhiều tài năng,
nhiều tham vọng và sẽ thành công trên con đường học vấn. Họ rất xung khắc
với người tuổi Tý. Người tuổi Mão có tinh thần mềm dẻo, tính kiên nhẫn và
biết chờ thời cơ trước khi hành động.
Rồng chỉ là con vật do con người tưởng tượng ra, chứ không có thực.
Con rồng trong huyền thoại của người phương Đông là tính Dương của vũ
trụ, biểu tượng uy quyền hoàng gia. Theo đó, rồng hiện diện ở khắp mọi nơi,
dưới nước, trên mặt đất và không trung. Rồng là biểu tượng của nước và là
dấu hiệu thuận lợi cho nông nghiệp. Người tuổi Rồng rất trung thực, năng nổ
nhưng rất nóng tính và bướng bỉnh. Họ là biểu tượng của quyền lực, sự giàu
có, thịnh vượng và của hoàng tộc.
Người tuổi rắn nói ít nhưng rất thông thái, họ thích hợp với vùng đất ẩm
ướt. Rắn tượng trưng cho sự tiến hóa vĩnh cửu của tuổi tác và sự kế vị, sự
phân hủy và sự nối tiếp các thế hệ của nhân loại. Người tuổi rắn rất điềm tĩnh,
hiền lành, sâu sắc và cảm thông nhưng thỉnh thoảng cũng hay nổi giận, họ rất
kiên quyết và cố chấp.
Ngựa có dương tính cao. Người tuổi Ngọ thường ăn nói dịu dàng, thoải
mái và rộng lượng. Do đó, họ dễ được nhiều người mến chuộng nhưng họ ít
khi nghe lời khuyên can. Người tuổi này thường có tính khí rất nóng nảy. Tốc
độ chạy của ngựa làm người ta liên tưởng đến mặt trời rọi đến trái đất hàng
ngày. Trong thần thoại, mặt trời được cho là liên quan đến những con ngựa
đang nổi cơn cuồng nộ. Tuổi này thường được cho là có tính thanh sạch, cao
29
quý và thông thái. Người tuổi này thường được quý trọng do thông minh,
mạnh mẽ và đầy thân ái tình người.
Người mang tuổi Mùi thường rất điềm tĩnh nhưng nhút nhát, rất khiêm
tốn nhưng không có lập trường. Họ ăn nói rất vụng về, vì thế họ không thể là
người bán hàng giỏi nhưng họ rất cảm thương người hoạn nạn và thường hay
giúp đỡ mọi người. Họ thường có lợi thế vì tính tốt bụng và nhút nhát tự
nhiên của họ.
Người tuổi Thân thường là một nhân tài có tính cách thất thường. Họ rất
tài ba và khéo léo trong các vụ giao dịch tiền bạc. Người tuổi này thường rất
vui vẻ, khéo tay, tò mò và nhiều sáng kiến, nhưng họ lại nói quá nhiều nên dễ
bị người khác xem thường và khinh ghét. Khuyết điểm của họ nằm trong tính
khí thất thường và không nhất quán.
Năm Dậu tượng trưng cho một giai đoạn hoạt động lao động cần cù
siêng năng vì gà phải bận rộn từ sáng đến tối. Cái mào của nó là một dấu hiệu
của sự cực kỳ thông minh và một trí tuệ bác học. Người sinh vào năm Dậu
được xem là người có tư duy sâu sắc. Đồng thời, gà được coi là sự bảo vệ
chống lại lửa. Người sinh vào năm Dậu thường kiếm sống nhờ kinh doanh
nhỏ, làm ăn cần cù như "một chú gà bới đất tìm sâu."
Năm Tuất cho biết một tương lai thịnh vượng. Trên khắp thế giới, chó được
dùng để giữ nhà chống lại những kẻ xâm nhập. Những cặp chó đá thường được
đặt hai bên cổng làng để bảo vệ. Năm Tuất được tin là năm rất an toàn.
Lợn tượng trưng cho sự giàu có vì loài lợn rừng thường làm hang trong
những khu rừng. Người tuổi Hợi rất hào hiệp, ga lăng, tốt bụng và dũng cảm
nhưng thường rất bướng bỉnh, nóng tính nhưng siêng năng và chịu lắng nghe.
30
1.3. Mƣời hai con giáp nhìn từ sinh thái học
Nền văn minh của dân tộc Trung Hoa bắt nguồn từ hệ thống sông Hoàng
Hà. Bên cạnh nền văn minh sông Hoàng Hà, xuôi xuống vùng phía nam, cộng
đồng người Hoa còn có một nền văn minh rực rỡ không kém với nền văn
minh Hoàng Hà là văn minh từ dòng sông Trường Giang. Đã có nhiều ý kiến
khác nhau về những nền văn minh này, nhưng tất cả đều nhận định, nền văn
minh Trung Hoa cũng giống như bao nền văn minh của các nước phương
phương Đông khác, đều mang trong mình xuất phát điểm từ nông nghiệp.
Từ xa xưa và cho đến tận bây giờ, công việc sản xuất nông nghiệp luôn
gắn liền và phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Vào thời cổ xưa, khi mà khoa
học kĩ thuật chưa phát triển, con người đều dựa vào tự nhiên để sinh tồn và
phát triển, chính vì thế quá trình lâu dài đó còn được hiểu là một quá trình vừa
chinh phục, vừa sợ hãi, vừa sùng bái tự nhiên.
Sản xuất nông nghiệp không chỉ đơn thuần là trồng các cây lương
thực, các cây nông nghiệp như lúa, ngô, khoai, sắn, các cây thuộc dòng
đậu, đỗ mà bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp còn gắn liền với việc chăn
nuôi của con người.
Đã có một số con vật, qua một quá trình thời gian lâu dài, người cổ xưa
đã thuần hoá nó, để nó trở thành người bạn với con người và thân thuộc với
cuộc sống của con người như con chó, con mèo, … Cũng có một số con vật,
người xưa đã tận dụng sức kéo của nó để phục vụ cho công cuộc sản xuất
nông nghiệp như con trâu, con ngựa,… Cũng có một số con vật đã được con
người nuôi để tăng gia sản xuất hoặc để cung cấp chất dinh dưỡng trong bữa
ăn hàng ngày như con lợn, con gà. Cũng có một số con vật sống trong tự
31
nhiên nhưng ảnh hưởng không tốt đến việc sản xuất nông nghiệp của người
dân như con chuột, con rắn,… Ngoài ra, còn có con vật không có thật, nhưng
với ước mong mưa thuận gió hoà, phát triển, sinh sôi nảy nở mà người xưa đã
liên tưởng đến nó và hoá thân nó thành một hình tượng kì vĩ là hình tượng
con rồng.
Trong văn hóa phương Đông, chuột tồn tại sóng đôi với nghề nông
nghiệp, đặc biệt là cây lúa. Trên những cánh đồng lúa bạt ngàn, loài chuột
cùng kiếm ăn, sinh sôi nảy nở. Mặc dù có những biểu tượng tiêu cực nhưng
trong 12 con giáp, chuột chiếm vị trí đầu tiên. Đó là vì theo văn hoá cổ Trung
Hoa về nguồn gốc vạn vật thì: Trời mở hội ở Tí, Đất mở hội ở Sửu, Người mở
hội ở Dần,… tạo thành Tam Tài ( Thiên, Địa, Nhân). Vì vậy, tính Năm phải
lấy Trời làm Khởi (Tí); tính Mùa phải lấy Đất làm Nền (Sửu); tính Tháng
phải lấy Sửu làm Phát. Các nhà bốc phệ thường bấm ngón tay; vì Tí thuộc
Trời nên đứng đầu, số 1 khởi Thuỷ, số dương. Sửu thuộc Đất - thứ 2 thuộc
âm. Dần đứng đầu các vật, thuộc người, cách Tiên Thiên nên cũng thuôc
dương, tháng Giêng bao giờ cũng là tháng Dần. Mang cốc theo cung Tí
(năm); cung Dần (tháng),…
Điều này cho thấy người dân phương Đông vẫn dành cho sự hiện diện
của linh vật này một chỗ đứng trang trọng, trước cả hổ, rồng.
Trong văn hoá đại chúng, hình tượng con trâu phổ biến trong văn hoá
phương Đông và gắn bó với cuộc sống người dân ở vùng Đông Nam Á và
Nam Á, đặc biệt là trong văn hóa Việt Nam. Trong văn hóa phương Đông,
trâu là một trong 12 con giáp còn được gọi là Sửu, đứng ở vị trí thứ 2, đồng
thời là gia súc đứng đầu lục súc gồm trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn. Trâu có vai
32
trò cực kỳ quan trọng trong nông nghiệp lúa nước. Trâu là con vật dùng vào
việc lễ tế thần thánh. Từ khi được thuần hóa, trâu là một trong những con vật
rất gần gũi với con người.
Hình tượng con hổ hay chúa sơn lâm đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó
với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hoá khác nhau trên thế giới,
hình ảnh con hổ gợi lên những liên tưởng về sức mạnh, sự thanh thế, oai linh,
vẻ đẹp rực rỡ nhưng đầy bí hiểm, sự uyển chuyển với cơ thể vằn vện thấp
thoáng lượn sóng cũng như tính hung hãn, thú tính của một dã thú là động vật
săn mồi hàng đầu và là một biểu tượng của đẳng cấp chiến binh đồng thời toát
lên vẻ đẹp khôi vĩ và sức mạnh.
Về bản chất tự nhiên, hổ là dã thú có sức mạnh, to khỏe, nhanh nhẹn,
thuần thục về kỹ thuật chiến đấu, thành thạo về kỹ năng săn mồi, loài vật này
còn đặc trưng bởi tính hung dữ, táo bạo, liều lĩnh, dám tấn công hay đối địch
nhiều thú to khỏe khác cùng với tiếng gầm rống rung chuyển núi rừng, gây
khiếp đảm cho muôn loài và còn là động vật tinh khôn từ đó hổ được người ta
tôn lên vị trí Chúa tể của rừng núi và coi hổ là con vật linh thiêng.
Loài thỏ được con người biết đến đầu tiên đó là những con thỏ châu
Âu vào khoảng 1000 năm trước công nguyên bởi những người xứ Phoenician.
Thỏ rừng châu Âu là loài thỏ duy nhất được thuần hóa. Thỏ vừa được xem là
thú nuôi, làm thực phẩm (thịt thỏ) và cũng là những kẻ phá hoại ruộng vườn.
Mèo đã sống gần gũi với loài người ít nhất 9.500 năm, cho đến gần đây,
mèo được cho rằng đã bị thuần hóa trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, nơi chúng
được thờ cúng và hiện nay chúng là con vật phổ biến nhất trên thế giới với
hơn 600 triệu con và mèo đã trở thành con vật quen thuộc của nhiều gia đình,
là người bạn thân thiết của con người.
33
Mèo có nhiều loại và có nhiều bộ lông khác nhau. Tuỳ theo bộ lông mà
người ta gọi mèo trắng (lông màu trắng), mèo mướp (lông màu xám có vằn
đen nhạt), mèo nhị thể (lông hai màu thường là đen trắng hoặc vàng xám hay
vàng trắng), mèo tam thể (lông ba màu thường là vàng, trắng, xám…), mèo
đen (lông đen tuyền). Mèo đen có nơi gọi là linh miêu. Trong các nền văn hóa
khác nhau trên thế giới, ý nghĩa biểu tượng của mèo rất không thuần nhất, vừa
xấu vừa tốt. Điểu này có thể giải thích bằng thái độ vừa dịu dàng, vừa vờ vĩnh
của con vật này.
Rồng là một biểu tượng văn hoá, ra đời từ sự nỗ lực của con người trong
việc tìm hiểu và nhận thức thế giới tự nhiên. Ở phương Đông, rồng là biểu
tượng của bản nguyên tích cực và sáng tạo, là sức mạnh của sự sống. Nguồn
gốc sâu xa của biểu tượng này là do điều kiện tự nhiên như địa lý, khí hậu và
xã hội như lịch sử, kinh tế quy định. Ở Trung Hoa xưa, con người xem rồng là
tinh linh núi, là thần linh bảo hộ năm vùng, nghĩa là bốn phương và vùng
trung tâm; là kẻ bảo hộ năm hồ, bốn biển. Trong quá trình hình thành và phát
triển các dân tộc phương Đông, rồng dần được gán thêm các ý nghĩa mới, phù
hợp với tính chất của thời đại như biểu tượng nguồn gốc dân tộc, vương
quyền, cao sang, may mắn, thịnh vượng,…
Rắn là loài sinh vật có mặt nhiều nơi trên trái đất. Trong một số nền văn
hoá, rắn là một siêu biểu tượng, biểu trưng cho sự sống (tính đa giá trị và mâu
thuẫn tự thân): cho vật tổ (totem) của tộc người, cho nước và lửa, cho linh hồn
và nhục dục, huỷ diệt và tái sinh, sự linh hoạt và thụ động, quyết đoán và đa
nghi… Chính nét đặc trưng sinh học của loài rắn đã góp phần quyết định ý
nghĩa biểu tượng của nó: cách di chuyển uyển chuyển và sự siết chặt trong
34
động tác bắt mồi khiến nó biểu trưng cho sức mạnh; sự lột da biểu trưng cho
sự tái sinh; nọc độc của rắn có liên hệ đến đặc tính xấu; tính lưỡng giới tượng
trưng cho khởi nguồn của vũ trụ; thân hình rắn là một đường ngoằn ngoèo
không đầu không đuôi kéo dài vô tận hoặc là một đường tròn thể hiện tính
luân hồi của sống và chết.
Ngựa vốn là loài vật gắn bó với con người. Nó nằm trong “lục súc” - 6
loại gia súc nuôi trong nhà như ngựa, trâu/bò, cừu/dê, chó và lợn. Trước khi
kết thúc thời đại đồ đá mới, các cư dân Á Đông đã thuần hóa thành công 6
loại gia súc này trước tiên.
Ngựa là con vật thông minh, khôn ngoan, sống gần người và được con
người yêu quý. Trong đời sống vất vả, ngựa không chê chủ nghèo mà luôn
trung thành, cần mẫn lao động với chủ. Khi xông pha trận mạc, ngựa lại kề
vai sát cánh, cùng chung sinh tử với chiến binh. Xuất phát từ đặc điểm tự
nhiên của loài ngựa mà hình tượng con ngựa luôn đại diện cho những gì đẹp
đẽ. Ngựa vừa có dáng vẻ đẹp đẽ, tính cách mạnh mẽ, sức lực sung mãn, vừa
có đức tính trung thành, tình nghĩa thủy chung.
Từ thời tiền sử hình tượng con dê đã xuất hiện trong đời sống văn hóa,
nghệ thuật, vật chất và tâm linh của nhân loại từ Đông sang Tây. Dê là động
vật được con người thuần dưỡng rất sớm. Trên đầu dê với bộ sừng uốn cong,
hình tượng ấy đã được khắc vẽ trên các vách đá, hang động cách đây khoảng
10- 20 nghìn năm.
Bản tính của dê là một động vật hiền lành, dễ thuần dưỡng và rất thân
thiện với con người. Do vậy, sự ảnh hưởng của nó lại rất mạnh mẽ, phong
phú, đa dạng và tích cực tới đời sống văn hóa, nghệ thuật của nhiều dân tộc và
35
quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là ý nghĩa tinh thần, văn hóa tâm linh và
mang tính biểu tượng nghệ thuật cao. Ở Trung Quốc, dê sống rất gần gũi với
con người, nên có nhiều điển tích rất lý thú và hấp dẫn về dê trong đời sống,
văn hóa xã hội. Một trong những điển tích nổi tiếng là điển tích Dương xa
(tức xe dê kéo).
Trong các nền văn hóa, hình ảnh con khỉ thường là biểu tượng cho sự
nghịch ngợm, tinh ranh, láu lỉnh, nhanh nhẹn. Cũng có khi, khỉ trở thành biểu
tượng thần thánh như Tôn Ngộ Không trong văn hóa Trung Hoa, hay
Hanuman trong văn hóa Ấn Độ.
Trong văn hóa Trung Quốc, văn chương thời xưa cho khỉ là loài cao
quý, ví như người quân tử chốn rừng xanh. Có những câu chuyện dân gian
còn thêu dệt nên sự huyền bí cho loài khỉ, khi cho rằng chúng có thể sống tới
nghìn năm, rồi thành tinh, hóa thành người. Hình tượng khỉ nổi tiếng nhất
trong văn hóa Trung Hoa phải kể tới nhân vật Tôn Ngộ Không - nhân vật
chính trong bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký”.
Con gà, đặc biệt là gà trống, hiện diện trong nhiều nền văn hóa phương
Đông và phương Tây. Là vật nuôi được con người thuần hóa từ lâu trong lịch
sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại.
Từ thời cổ đại, gà đã là loài vật linh thiêng trong nhiều nền văn hóa, gắn
chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng, hoạt động thờ cúng tôn giáo, với tư cách
của một lễ vật. Gà có vai trò quan trọng trong đời sống xa xưa, đặc biệt ở
vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người,
là vẻ đẹp về thanh âm của những vùng quê yên ả.
36
Trong văn hóa phương Đông, gà là một trong 12 con giáp. “Dậu” (từ để
chỉ gà) cũng nằm trong lục súc (6 loại gia súc nuôi trong nhà, gồm ngựa (mã),
trâu/bò (ngưu), cừu/dê (dương), chó (cẩu), lợn (trư), và gà (kê).
Trong số các giống vật nuôi của con người, con chó có mặt từ rất sớm.
Di cốt của chúng đã được tìm thấy ở nhiều di chỉ khảo cổ học trên thế giới, có
niên đại từ thời đại đồ đá giữa cách nay hàng chục vạn năm. Dựa vào các đặc
điểm hình thái, giải phẫu của sọ và răng chó, các nhà khảo cổ khẳng định chó
nhà có nguồn gốc từ chó rừng và chắc chắn hơn một vạn năm trước, vào thời
đại đồ đá mới, chó đã được con người thuần dưỡng.
Chó là con vật có những đặc điểm quý: tinh khôn, nhanh nhẹn, dễ nuôi
(nuôi chó không phải nấu thêm cơm[24, tr43]), trung thành với chủ... Do đó
con người nuôi chó để dùng vào các công việc khác nhau. Chó giúp người
canh nhà. Chó cùng người đi săn thú rừng. Chó hộ vệ con người. Vào thế kỷ
trước, con chó Lai ca đã góp phần vào công cuộc chinh phục vũ trụ vì mục
đích hòa bình. Ngành công an sử dụng chó để truy tìm dấu vết tội phạm. Chó
còn dùng làm vật thí nghiệm trong y học...
Chó gần gũi với đời sống con người. Người ta nuôi chó trong nhà trong
khi trâu, bò, lợn, gà phải làm chuồng riêng. Bước vào đời sống loài người,
chó phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chủng loại.
Lợn là một chi động vật móng guốc có nguồn gốc ở đại lục Á-Âu được
gộp nhóm tổng thể với danh pháp khoa học là Sus, thuộc họ Lợn (Suidae).
Lợn rừng đã được thuần hóa và được nuôi như là một dạng gia súc để lấy thịt
cũng như da. Lợn nhà là một gia súc được thuần hóa, được chăn nuôi để cung
cấp thịt.
37
Là con vật có sự gần gũi với đời sống con người nên hình ảnh của nó đã
đi vào thơ ca, ca dao, hội họa dân gian, và là một biểu tượng văn hóa. Trong
12 con giáp, heo nằm trong số ba con vật cuối cùng (gà, chó, và heo) có mối
liên hệ gần với đời sống hàng ngày của con người hơn các con vật khác như
rồng, cọp, khỉ.
Trong ba con vật cuối cùng của 12 địa chi (gà, chó và lợn), lợn là con vật
có thể nói đã từng song hành với con người trong suốt quãng đường dài tiến hóa.
Lợn là một trong những con vật có một mối liên hệ lâu đời nhất với con người,
không chỉ người Á châu mà còn cả châu Âu và các nền văn minh khác.
Sự hiện diện và tồn tại của những con vật thân thuộc với cuộc sống của
con người thông qua nhiều hình thức đã vô tình đi vào trong tâm thức của
người xưa. Dựa vào các đặc điểm, tính cách, hình thái,… của những con vật
đó mà người xưa đã nâng tầm giá trị của các con vật đó lên, đưa nó trở thành
những biểu tượng một cách có hệ thống trong các quy luật, các học thuyết về
thế giới tự nhiên xung quanh.
1.4. Mƣời hai con giáp nhìn từ đời sống tâm linh cổ đại Đông Á
Văn hoá Đông Á là tổng hoà các giá trị vật chất và tinh thần do các dân
tộc Đông Á sáng tạo ra. Bởi vì văn hoá Đông Á thuộc văn hoá phương Đông,
có cội nguồn từ văn hoá nông nghiệp nên giữa con người và môi trường tự
nhiên có mối quan hệ tương tác rất lớn với nhau. Người cổ đại Đông Á tin
vào sức mạnh của chủ thể là bản thân, chính là con người nhưng đồng thời
cũng tin vào sức mạnh đến từ tự nhiên. Tự nhiên trong tư tưởng của người
Đông Á không chỉ đơn thuần là các vị thần thiên nhiên như sơn, thuỷ, mộc mà
tự nhiên còn chính là những động vật tồn tại xung quanh cuộc sống của cư
38
dân; nó không những có vai trò, ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống mà còn
biểu hiện một cách chân thực và sinh động về tư duy, hoạt động cũng như lối
sống của cư dân Đông Á.
Tý (chuột)
Có lẽ Trung Hoa là dân tộc gắn cho loài chuột nhiều màu sắc nhất. Văn
hóa Trung Hoa mang trong mình đủ các loại hình của văn hóa thế giới, từ chất
du mục trên thảo nguyên, đến chất nông nghiệp cạn (kê, mạch, ngô) miền bắc
và nông nghiệp lúa nước miền nam. Chính vì thế, văn hóa của họ từ khắp mọi
miền, ở đâu cũng có dấu ấn của chuột. Trong văn hóa Hán, chuột được xem là
biểu tượng của sự trung thực, lòng vị tha, óc cầu tiến, tính cách dễ dãi và sự
hào phóng. Các dân tộc thiểu số khác như Di, Tạng, Thái Vân Nam, Choang,
Nasi (Nạp Tây), Uigur (Duy Ngô Nhĩ),.. vẫn chọn chuột đứng đầu trong dãy
12 con giáp, dù sau chuột, các con vật khác được chọn thay đổi theo quan
niệm của từng tộc người. Ngoài Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên cũng chọn
chuột đứng đầu dãy Hoàng đạo của mình.
Nông dân một số vùng Bắc Trung Hoa ngày nay vẫn còn tục “chuột lấy
chồng”. Những ngày diễn ra phong tục, người ta phải tắt đèn đi ngủ sớm để
tránh làm kinh động đến chuột với hy vọng chúng sẽ không phá hoại mùa
màng. Ám ảnh về sự phá hoại của loài chuột cũng như khả năng dự báo thiên
tại của chúng là nguyên nhân chính khiến người Trung Hoa tôn thờ chuột.
Nhiều vùng dựng miếu bái chuột. Trong tiếng Trung Hoa, chỉ có chuột và hổ
mới được gọi tên một cách kính cẩn bằng cách gắn thêm từ “lão” phía trước:
lão thử (cụ chuột) và lão hổ.
Xứ sở kim chi thì hình ảnh mượn lũ chuột háu ăn để nói về lòng tham
của con người. Lũ chuột nhắt và một con chuột già sống bám vào một kho
39
thóc có một chú mèo canh giữ. Lũ chuột háu ăn, chẳng bao lâu kho thóc vơi
đi thấy rõ dù lần nào lân la đến kho thóc đều bị chú mèo đuổi bắt. Chúng lập
mưu định lén cột vào cổ mèo một cái chuông to để không còn bị quấy rối nữa.
Chỉ mỗi lão chuột già từ chối, bảo “đó là việc làm ngu ngốc, là tự hại thân
mình”. Lũ chuột con vẫn giữ nguyên kế hoạch. Lão chuột già khôn ngoan đã
chạy vào rừng. Chính chiếc chuông cột vào cổ mèo đã báo động cho người
chủ kho thóc biết được sự có mặt của lũ chuột, và vì thế chúng bị tiêu diệt
sạch, chỉ mỗi lão chuột già được sống thảnh thơi trên núi.
Người dân xứ Phù Tang cũng góp mặt với câu chuyện Chiếc bánh gạo.
Chiếc bánh vô tình rơi xuống và lăn xuống một cái hang. Lão nông dân lần theo
tìm, phát hiện ra một cộng đồng nhà chuột cư ngụ đông đúc. Ăn xong chiếc bánh,
lũ chuột cảm ơn ông lão, bày một buổi tiệc linh đình và còn tặng ông lão một món
bảo vật. Ngoài xã hội, người Nhật Bản vẫn thường nhắc tên trộm lừng danh
Jirokichi sống vào thế kỷ 18-19 mang biệt hiệu Nezumi Kozo (Thử Tiểu Tăng)
chuyên đánh cắp tiền của giới quý tộc để phân chia cho dân nghèo, đã khiến triều
đình Edo thời bấy giờ phải dùng đến hàng trăm võ sĩ samurai mới bắt được.
Sửu (trâu)
Theo cách phân chia thời gian năm tháng ở châu Á chịu ảnh hưởng văn
hóa Trung hoa thời xưa, con Trâu cũng là một biểu tượng cho một
năm. Trong 12 địa chi (thập nhị chi), trâu mang pháp danh là sửu, đứng hàng
thứ hai sau tý và đứng trước 10 con vật khác, 12 con vật được đứng trong
sách lịch pháp trên nay là đại diện cho các loài. Về tính âm dương, 12 con vật
được chia xếp thành hai cực âm và dương đứng đan xen nhau, trong đó con
trâu (Sửu) thuộc âm.
40
Người phương Đông đã tìm thấy và đặt tên cho bốn chòm sao, gồm 28
ngôi sao chính gọi là nhị thập bát tú, trong đó có sao Ngưu thuộc chòm sao
Huyền Vũ nằm ở phương Bắc, ứng với hành thuỷ, thuộc về mùa Đông. Theo
quan niệm của người phương Đông thì sao Ngưu, sao Đẩu là những ngôi sao
sáng và thường được gắn cho những người có trí tuệ trác việt. Ở văn hóa
phương Đông, một trong những tôn giáo lớn là đạo Phật có nhiều câu chuyện
về trâu, mượn hình ảnh loài vật này để nói về triết lý, văn hóa, đạo lý sống, đó
là tự chăn tâm mình, tự chăn tâm ngã như là thuần phục một con trâu. Biểu
hiện cụ thể là bộ tranh chăn trâu gồm 10 bức với 2 dòng trâu tiệm hóa minh
họa cho con đường giác ngộ của Phật giáo Tiểu thừa và trâu toàn đen dẫn bày
các yếu chỉ thiền cho người học theo tư tưởng Phật giáo Đại thừa.
Với người Trung Quốc, con trâu cũng đóng một vai trò quan trọng trong
đời sống của họ trên nhiều phương diện văn học, hội họa, ca dao, tục ngữ,
phong tục... Người ta quan niệm trâu là thánh vật nên thường dùng làm vật tế
lễ, là biểu tượng cho cầu nối giữa trời và đất, người và tiên để cho thần tiên
ban phước lành cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân gian an bình.
Trâu còn được coi là tượng trưng cho sự tốt lành, ai mơ trâu vàng đến nhà là
điềm phú quý, cưỡi trâu vào thành là có hỉ sự, trâu sinh nghé là tâm thành ý
nguyện. Trong “Phong Thần”, Thái Thường Lão Quân cưỡi Thanh Ngưu
(Trâu xanh).
Trâu còn biết đến trong tín ngưỡng như: Đầu trâu, mặt ngựa (Ngưu đầu,
Mã diện) là 2 sinh vật thuộc hạ của Diêm Vương chuyên thực hiện việc hành
hạ, tra tấn người ở địa ngục. Trong Tây Du Ký có nhân vật Ngưu Ma Vương
là vua của các loài trâu. Có bức tranh vẽ nhà hiền triết Lão Tử cưỡi Trâu
41
xuyên khắp cánh đồng đi về hướng Tây. Ngoài ra còn có truyền thuyết Ngưu
Lang Chức Nữ với chiếc cầu Ô Thước (Ô là con quạ, Thước là con chim
Khách). Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Thượng đế vì say mê một tiên nữ
dệt vải tên là Chức Nữ, nên bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng
sáo của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận, bắt cả hai phải
ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng
thương tình nên cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần trên cầu Ô
Thước vào đêm mùng 7 tháng Bảy. Lúc chia tay nhau cả hai đều khóc, nước
mắt của họ rơi xuống trần gian thành cơn mưa nhẹ gọi là mưa Ngâu. Trâu còn
là vật cưỡi của viên tướng Hoàng Phi Hổ.
Theo truyền thuyết trâu đã giúp vua Vũ nhà Hạ trị thủy. Thời Chiến
Quốc, Tử Đồi là con vua Chu Trang Vương nuôi hàng trăm con trâu cho ăn
gạo thóc, mặc gấm vóc, lại có kẻ hầu người hạ. Họ ca ngợi nghề chăn trâu của
những Sào Phủ, Nịnh Thích. Trên đồ đất nung từ thời Thương Chu đã có hoa
văn hình trâu. Đời Tiền Hán có nhiều tượng trâu bằng đồng, nhất là vùng Vân
Nam. Theo truyền thuyết thì trâu biểu hiệu sự sống lâu. Lão Tử soạn Đạo Đức
Kinh sinh vào thế kỷ thứ VI trước CN (thời Chiến Quốc), Lão Tử khi về già
nhận thấy chính sự của vương quốc đang tan rã đã cưỡi trâu xanh đi về hướng
Tây qua đồi núi đến nước Tần và từ đó mất dạng. Quân sư Tôn Tẩn thường
ngồi xe, còn có giai thoại ông cưỡi trâu ra trận. Thời chiến quốc cũng có ghi
lại chuyện Điền Đan dùng hỏa ngưu kế đánh bại quân địch.
Nhiều địa phương trên đất nước Trung Quốc vẫn duy trì tục trâu xuân,
người ta đắp hình con trâu bằng đất hoặc làm bằng giấy cao 4 thước, dài 8
thước, tượng trưng cho 4 thời trong 8 tiết. Con trâu mô hình này được rước rất
42
long trọng kèm theo các hoạt động vui chơi như ca hát, múa, rước đèn lồng...
gọi là xuân ngưu (trâu mùa xuân), sau đó lấy roi vừa quất vào nó vừa đọc lời
chúc an lành. Các dân tộc thiểu số khác còn tổ chức nhiều lễ như lễ Ngưu
vương, cúng Ngưu vương để cầu con, phòng bệnh, đuổi tà ma...
Dần (hổ)
Đối với nhiều nước phương Đông có loài hổ phấn bố thì hổ là biểu
tượng của sức mạnh, thực lực, uy quyền và tâm linh. Tại đây, hổ được coi là
có vị trí thống trị trong giới động vật nên nhân dân ở một số nước phương
Đông đã thần thánh hóa loài này với tập tục thờ hổ hay thờ thần hổ đã đi
vào tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, cộng đồng nhất là ở những chốn
rừng núi sâu thẳm thì hổ luôn được thờ phụng. Một số dân tộc khác còn tôn
thờ hổ như thần giám hộ, nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng hình ảnh con
hổ là biểu tượng của đất nước là vật tổ của dân tộc mình. Hình ảnh con hổ đã
đi sâu vào văn hoá, lịch sử, nghệ thuật như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ,…
và các nước Đông Nam Á.
Ở một số nơi khác, hổ cũng tượng trưng cho quyền uy, thực lực, sức
mạnh, uy mãnh, hung hiểm, và ở một khía cạnh nào đó, những tập tính của hổ
được đánh giá cao và được hình mẫu như là biểu hiện cho nhiều phẩm chất
của con người như phẩm chất kiên trì ẩn nhẫn, do khi quan sát tập tính của nó
người ta thấy con hổ còn thể hiện phẩm chất kiên nhẫn và dũng cảm vì bản
năng các con hổ biết khi nào nên nằm yên phục kích con mồi, là bậc thầy về
nguỵ trang, chúng từ từ tiếp cận con mồi một cách âm thầm từng bước một,
tận dụng mọi vật bình phong che chắn để nguỵ trang, dấu mình, và một khi
43
điều kiện chưa chín muồi, thời cuộc chưa rõ ràng, nó sẽ tránh bọc lộ quá sớm
ý đồ của mình, hành sự kín đáo, không nóng vội.
Các triều đại phong kiến ở các nước Phương Đông coi hổ cùng
với rồng là biểu trưng cho vương quyền, trong quân sự, võ học và cho những
thành đạt trong khoa cử, chính vì vậy mà hình ảnh con hổ xuất hiện khá phổ
biến trong cung cấm, doanh trại và trong trường thi. Đứng hàng thứ ba
trong thập nhị địa chi, hổ là vị vua mang nhiều ẩn dụ nhất trong các loài dã
thú. Trong dân gian Việt Nam, hình ảnh con hổ phổ biến trong các kiến trúc
đình, miếu. Dưới chế độ quân chủ của triều đình phong kiến, hình ảnh Hổ
được biểu tượng cho sức mạnh quân sự, cho các vị võ tướng và thường được
thêu trên áo các võ quan hàng tứ phẩm. Ở một khía cạnh khác, người ta
thường kể nhiều chuyện dân gian, vẽ tranh, tạc tượng về con hổ có rất nhiều
và khiến cho nó trở thành những nhân vật trung tâm của nhiều tác phẩm văn
học nghệ thuật đại chúng.
Mão (thỏ/ mèo)
Hình ảnh con thỏ là mô-típ phổ biến trong nghệ thuật có ý nghĩa thần
thoại trong các nền văn hóa khác nhau. Thỏ mang ý nghĩa phục sinh và là một
biểu tượng của sự sinh sôi, tính hình hiền lành, dễ thương, đáng yêu. Hình
tượng con thỏ trắng cũng gợi lên những ý niệm thân thiện và hiền hòa. Thỏ
cũng là biểu tượng may mắn cho chuyện sinh nở. Chân sau của thỏ được xem
là vật may mắn trong rất nhiều nền văn hóa
Theo quan niệm của người Trung Quốc thì con thỏ tượng trưng cho nét
thanh lịch, sự nhạy cảm với nghệ thuật, âm thanh và cái đẹp. Thỏ thường gắn
liền với các vị thần mặt trăng, chị Hằng (Thỏ ngọc). Trong văn hóa Khmer,
44
thỏ vừa là biểu tượng tôn giáo vừa là biểu tượng cho công lý, hạnh phúc và sự
may mắn, phẩm chất con thỏ thông minh, dũng cảm.
Ở các nước châu Á khác như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, con
Thỏ là một trong 12 con giáp xếp sau con Trâu và trước con Hổ. Con Thỏ
được coi là may mắn nhất trong số 12 con giáp, vì con Thỏ có nguồn gốc
từ cung trăng, là biểu tượng của sự trường thọ. Trong tranh dân gian Trung
Quốc, con Thỏ đứng gần một tảng đá dưới gốc cây và cầm tiên đan. Ở Việt
Nam, con thỏ được thay thế bằng con mèo trong 12 con giáp, vì Việt Nam
không có điều kiện môi trường để loài thỏ phát triển sinh sôi do Việt Nam là
văn hoá thảo mộc chứ không phải văn hoá thảo nguyên.
Trong thế giới đạo Phật, mèo bị chê trách là con vật đã cùng với con rắn
không mảy may xúc động trước sự từ trần của Đức Phật… Ở Ấn Độ, người ta
tìm thấy tượng những con mèo khổ hận biểu thị cho phúc lạc của thế giới
động vật. Ở Trung Quốc cổ đại, mèo hay được xem như một con vật báo lành
và người ta bắt chước điệu bộ của nó cũng như con báo, trong các điệu múa
nông nghiệp. Ngày nay ở Campuchia, người ta vẫn nhốt mèo vào lồng rồi vừa
đi vừa ca hát, rước nó từ nhà này sang nhà khác để cầu mưa: mỗi người dân
làng tưới nước cho mèo và tiếng kêu của nó, như người ta nói, làm động lòng
thần Indra, người phân phối nước làm phì nhiêu đất.
Thìn (rồng)
Về nguồn gốc của rồng, có quan niệm cho rằng, sau khi Hoa Hạ thống
nhất các bộ tộc Trung Nguyên đã kết hợp vật tổ của mình với vật tổ các bộ tộc
khác để tạo thành con rồng
Trong Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, GS. Trần Ngọc Thêm đã nêu
lên nguồn gốc của rồng từ văn hoá gốc nông nghiệp, chính nếp sống tình cảm,
45
hiếu hoà của cư dân nông nghiệp đã biến con cá sấu (vốn có rất nhiều ở vùng
Đông Nam Á) hung dữ thành con rồng hiền, cai quản và ban phát nguồn nước
dồi dào cho họ.
Hình mẫu chung phổ biến của rồng phương Đông là mình thuôn dài như
rắn, đầu lạc đà, sừng hươu, vảy cá sắc nhọn phủ khắp mình, chân phối hợp
giữa chân hổ và móng vuốt chim ưng, thở ra mây và phun ra nước. Rồng
thường được thể hiện kết hợp với một vật hình cầu, mà người ta thường gọi
nó là viên ngọc quý của rồng, có khả năng điều khiển được nước triều, chứa
đựng tinh thần của vũ trụ. Người ta cho rằng, viên ngọc phát triển từ trạng
thái hơi qua trạng thái nước kết tinh thành ngọc sáng chói vô cùng. Viên ngọc
là đặc trưng của thần thánh, có thể thâu lượm được nhưng phải trải qua quá
trình khổ hạnh hàng thế kỷ. Thông thường trong nghệ thuật tạo hình, viên
ngọc được trình bày như một vật hình cầu lơ lửng ngay gần miệng rồng để
diễn tả ý rồng nhả ngọc, rồng chầu ngọc, hay rồng tranh ngọc...
Riêng rồng trong văn hoá Hàn Quốc thường cắp ngọc đỏ trong miệng
hay trong lòng bàn chân tượng trưng cho trí tuệ và chân lý.
Với người phương Đông, rồng là một biểu tượng cho nguồn nước. Rồng
phun nước tưới mát hoa màu, cung cấp sự sống nhưng cũng có lúc loài người
làm rồng nổi giận gây ra lũ lụt, nhấn chìm hoa màu, cướp đi sự sống. Dù như
thế nào, rồng cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của con người. Người
phương Đông vừa tôn thờ vừa khuất phục trước sức mạnh của rồng và chưa
bao giờ nghĩ đến việc giết rồng. Vì vậy, có thể nói rồng là một biểu tượng của
văn hoá gốc nông nghiệp.
Vì là biểu tượng của nguồn nước nên khi xây dựng hình tượng về rồng,
cư dân nông nghiệp cũng lấy hình ảnh của những con vật sống dưới nước làm
46
chủ đạo: cá sấu, rắn, vảy cá... Và khi thể hiện sức mạnh, rồng phun ra nước
tức là tạo ra điều kiện cần thiết nhất để trồng trọt (khác với rồng phương Tây
phun ra lửa để thiêu cháy con người).
Tị (rắn)
Con rắn là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ
biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn đã được kết hợp với một số các
nghi lễ cổ xưa nhất được biết đến của nhân loại. Rắn đại không những đại
diện mà nó còn biểu hiện cho hai mặt thiện và ác của con người.
Trong văn hóa sự hiện diện của loài rắn được diễn ra từ cổ chí kim, từ
văn hóa phương Đông đến văn hóa phương Tây, từ văn minh cổ xưa cho đến
quan niệm về rắn thời hiện đại. Rắn không chỉ là loài động vật sống trên khắp
thế giới, nó còn là biểu tượng cho nước, lửa, linh hồn, nhục dục, quyết đoán,
đa nghi,… Ngoài ra, rắn biểu trưng cho cả giới tính nam và nữ, là một vị thần
sáng thế, biểu trưng cho vũ trụ thời hỗn mang.
Trong quan niệm về rắn ở các nước phương Đông, trong một số nền văn
hóa, hình tượng rắn có vị trí quan trọng trong thế giới biểu tượng. Rắn thường
thể hiện hình ảnh khác nhau như thần hiền, thần ác, điều tốt, điều xấu, sự hủy
diệt, tái sinh, tình yêu. Trong văn hóa Việt Nam, rắn không chỉ là loài động
vật bình thường mà còn trở thành một biểu tượng tâm linh. Tị là một trong số
12 địa chi của Thiên Can Địa Chi, trong lịch Trung Quốc và Việt Nam và quý
tỵ được biểu hiện bằng con rắn.
Trong thần thoại Nhật Bản còn có con rắn Yamata no Orochi (Nhật: 八
岐の大蛇? Bát Kì Đại Xà), hay còn được gọi tắt là Orochi. Đây là một sinh
vật dạng rắn trong Thần đạo Nhật Bản. Yamata no Orochi được miêu tả có
47
tám cái đầu, tám cái đuôi cùng 8 cặp mắt với màu đỏ. Thân hình khổng lồ của
Orochi được miêu tả trải dài 8 thung lũng, 8 quả đồi. Nó ngụy trang bằng rêu
phong, cây bách và cây tuyết tùng trên lưng nên trông nó không khác gì một
dãy núi.
Ở Trung Quốc tồn tại từ lâu hình tượng thần Phục Hy đầu người đuôi
rắn, thần Nữ Oa đầu người mình rắn. Ngoài ra, ở Trung Quốc còn có truyền
thuyết Bạch Xà truyện (白蛇傳), còn có tên là Hứa Tiên và Bạch Nương Tử (
許仙與白娘子) là một trong bốn truyền thuyết dân gian lớn của Trung Quốc.
Câu chuyện ra đời vào thời Nam Tống hoặc sớm hơn và được lưu truyền rộng
rãi dưới thời nhà Thanh, là sản phẩm sáng tác tập thể của dân gian Trung
Quốc. Nội dung Bạch Xà truyện miêu tả câu chuyện tình yêu giữa một Bạch
xà tinh tu luyện thành người (Bạch Nương Tử) và một chàng trai ở trần gian
(Hứa Tiên). Câu chuyện đã nhiều lần được chuyển thể thành Kinh kịch, phim
điện ảnh và phim truyền hình , nổi bật là bộ phim Truyền thuyết Bạch Xà.
Bạch Xà truyện được lưu truyền rộng rãi ở Trung Quốc, ban đầu là
truyền miệng, sau đó nhiều hình thức truyền bá dân gian xuất hiện như bình
thoại, thuyết thư, đàn từ xuất hiện, dần dần được chuyển thể thành kịch. Sau
này còn có tiểu thuyết, sau Dân quốc còn có ca kịch, kịch Đài Loan, truyện
tranh. Đến hiện đại Bạch Xà truyện còn được quay thành phim điện ảnh, cải
biên thành múa hiện đại, tiểu thuyết kiểu mới... Tên gọi Bạch Xà truyện có thể
xuất hiện vào cuối thời Thanh, trước đó không có tên gọi cố định nào. truyền
thuyết Bạch Xà truyện có liên quan đến Ấn Độ giáo. Chuyện sáng thế trong
Ấn Độ giáo cũng bắt đầu từ hai con rắn lớn (Naga) khuấy động biển.
Ngọ (ngựa)
48
Ngựa là một trong 12 con giáp của văn hóa phương Đông, đồng thời
cũng nằm trong số lục súc theo quan niệm của văn hóa một số nước. Ngựa là
hình tượng đặc trưng cho phương Bắc, là biểu tượng cho sự trung thành và
tận tụy đồng thời là biểu tượng cho tài lộc, thành công, hình ảnh con ngựa
tung vó hý vang biểu tượng cho sự kiêu hãnh và tự do và thanh khiết.
Ở Triều Tiên có Ngựa thần Chollima (Thiên Lý Mã) xuất hiện trong
thần thoại châu Á: Giống như loài ngựa trắng có cánh Pegasus của thần thoại
Hy Lạp, Chollima trong văn hóa dân gian châu Á cũng sở hữu đôi cánh sải
rộng. Bốn con ngựa của Apocalypse trong Thần thoại Kitô giáo: Chúng là
biểu tượng của sự chinh phục, chiến tranh, nạn đói và cái chết.
Trong văn hóa Trung Quốc có hình tượng về Bạch Long Mã là một con
ngựa trắng có nguồn gốc từ con rồng. Bạch Long Mã (chữ Hán: 白龍馬)
hay Tiểu Bạch Long là con của Tây Hải Long Vương (em Đông Hải Long
Vương) là đồ đệ thứ tư của Đường Tăng đi thỉnh kinh ở Tây Thiên trong tiểu
thuyết Tây du ký của Ngô Thừa Ân. Do có lỗi lầm nên Quan Thế Âm Bồ
Tát đã cho phò giá Đường Tăng để chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra.
Trong Phật giáo, ngựa là biểu tượng của sức mạnh và sự nỗ lực trong
việc thực hành pháp. Nó cũng tượng trưng cho khí (prana) mà nó chạy xuyên
khắp cơ thể và là phương tiện di chuyển của tâm. Cái được gọi là “ngựa gió”
là biểu tượng của tâm. Tâm có phương tiện đi lại của nó là gió, và nó có thể
được cưỡi đi. Điều đó muốn nói rằng chúng ta có khả năng kiểm soát tâm và
gió và hướng dẫn chúng theo bất kỳ chiều hướng nào và ở bất kỳ tốc độ nào
mà chúng ta muốn. Trong Phật giáo có con ngựa Kantaka, con ngựa của thái
tử Siddhartha Gautama. Khi thái tử rời hoàng cung xuất gia làm ẩn sĩ, con
49
ngựa của ông ta nhận thấy rằng nó sẽ không bao giờ còn gặp lại chủ nhân của
mình nữa nên đã vỡ tim mà chết. Nó sau đó đã sanh về một trong các cõi trời.
Hình tượng ngựa đã được thể hiện thành những hình tượng trên bích họa
và trong các bức quốc hoạ. Ngoài ra, nó còn được lắng đọng trong nhiều câu
chuyện dân gian trong các dân tộc phương Đông cũng như phương Tây. Trên
đồ gốm cổ Việt Nam cũng trang trí những hình ngựa có cánh. Những con
ngựa này được diễn tả trong tư thế đang bay trong không trung. Như thế, con
ngựa trong nghệ thuật gốm Việt Nam cũng hoá thân vào huyền thoại, và ít
nhiều nó đã mang màu sắc tôn giáo như con ngựa trong văn hoá Ấn Độ hay
văn hoá Trung Quốc.
Câu chuyện "con ngựa thành Troa" có nguồn gốc từ thần thoại Hy Lạp.
Còn câu chuyện "tái ông thất mã " lại là một câu chuyện từ phương Đông nói
lên triết lý họa có thể trở thành họa, họa đó lại có thể trở thành phúc. Sự
chuyển hoá cũng là vô tận. Về nhân tướng, theo quan niệm của Phương Đông
thì những người sinh năm con ngựa thường có cá tính phóng khoáng, không
căn cơ, có năng lực suy nghĩ độc lập và ít để bụng. Gặp việc gì họ cũng
thường bắt tay làm ngay, không chần chừ do dự. Nhưng chính sự nhanh nhẹn
đó lại cấu thành nên điểm yếu của họ: nóng vội và thiếu kiên nhẫn.
Mùi (dê)
Trong văn hóa phương Đông, dê là con giáp đại biểu cho địa chi Mùi
mang ý nghĩa triết lý và nhân văn. Giờ Mùi kéo dài từ 13-15h, là thời gian mở
đầu buổi chiều, con người vừa ăn trưa xong, đang thanh thản nghỉ ngơi và sẵn
sàng bước vào buổi lao động mới. Trong 12 con giáp, dê được xem là biểu
tượng của tính ôn hòa, thuần hậu nhưng cũng không kém phần nhanh trí.
50
Trong văn hóa Trung Quốc có nhiều điển tích gắn với dê. Điển tích nổi
tiếng nhất là “Dương xa” (xe dê kéo) của vua Tấn Vũ Đế. Vua thường dùng
xe dê kéo đi lại trong cung cấm hằng đêm, nếu dê dừng ở cửa phòng cung phi
nào thì đêm ấy nhà vua sẽ ở lại với cung phi đó.
Đối với người Việt Nam, dê cũng chứa đựng những giá trị tinh thần
phong phú, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh và văn hoá nghệ thuật
của người Việt Nam. Dê là một trong sáu con vật nuôi thông dụng nhất trong
“lục súc” (gồm dê, gà, chó, lợn, ngựa, trâu); và là một trong ba thứ lễ vật đặc
biệt để cầu cúng, tế dâng trong “tam sinh” (gồm dê, lợn, bò)[21, tr60].
Hình ảnh dê trở nên sinh động, gần gũi hơn qua những trò chơi và lễ hội
truyền thống, nổi tiếng nhất có trò bịt mắt bắt dê. Đối với trẻ nhỏ, trò chơi này
đem lại niềm vui hồn nhiên, nhưng đối với thanh niên, đặc biệt trong thời kỳ
phong kiến, “bịt mắt bắt dê” là một dịp để nam nữ tiếp cận, vượt qua ranh giới
nghiêm khắc của lễ giáo.Trong những ngày hội đầu xuân, người ta thường tổ
chức trò bịt mắt bắt dê để nam nữ cùng chơi, với ngụ ý cầu mong âm dương
hòa thuận, mùa màng tươi tốt.
Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, có bức bịt mắt bắt dê rất nổi tiếng,
khắc họa cảnh chú dê vừa chạy trốn vừa ngoái nhìn đôi thanh niên nam nữ
đang bị bịt mắt, lần mò tìm bắt nó.
Sách Lĩnh Nam Chích Quái kể lại rằng từ thời xa xưa, người Việt trong
hôn nhân đã biết giết trâu, dê làm đồ lễ, con dê đã được nuôi làm gia súc và
sử dụng vào việc tế lễ. Vào giữa thế kỷ XVI, trong bài Đào Nguyên Hành thì
Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan đã tả cảnh nông thôn Việt Nam là Trâu bò,
gà lợn, dê ngan/Đầy lũ đầy đàn, rong thả khắp nơi. Vào thời nhà Nguyễn, con
51
dê chỉ được sử dụng trong việc tế lễ: Dê vốn thật thuộc loài tế lễ/... Để hòng
khi tế thánh tế thần/... Hễ có việc lấy dê làm trước/Dê dâng vào người mới lạy
sau. Theo Ðại Nam thực lục Chính Biên, dưới Triều đại vua Minh Mạng, mùa
Ðông năm Minh Mạng (1836) thứ 17, nhà vua sai mua 220 dê đực và 100 dê
cái, chọn 20 con dê đực giao Tể sinh làm lễ vật tế lễ Nam Giao, đặt tại đàn
Thượng có thịt dê ướp dương hải.
Thân (khỉ)
Trong 12 con giáp, Thân, tức con khỉ, đứng ở vị trí thứ 9. Loài khỉ được
đánh giá là thông minh hơn nhiều loài vật khác và đã đi vào đời sống văn hóa
Á Đông từ xa xưa.
Trong các nền văn hóa, hình ảnh con khỉ thường là biểu tượng cho sự
nghịch ngợm, tinh ranh, láu lỉnh, nhanh nhẹn. Cũng có khi, khỉ trở thành biểu
tượng thần thánh như Tôn Ngộ Không trong văn hóa Trung Hoa, hay
Hanuman trong văn hóa Ấn Độ.
Trong văn hóa Trung Quốc, văn chương thời xưa cho khỉ là loài cao
quý, ví như người quân tử chốn rừng xanh. Có những câu chuyện dân gian
còn thêu dệt nên sự huyền bí cho loài khỉ, khi cho rằng chúng có thể sống tới
nghìn năm, rồi thành tinh, hóa thành người.
Hình tượng khỉ nổi tiếng nhất trong văn hóa Trung Hoa phải kể tới nhân
vật Tôn Ngộ Không - nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký”.Tôn
Ngộ Không đã trở thành hình ảnh thân thuộc trong đời sống văn hoá của
nhiều thế hệ người Trung Quốc và vẫn không ngừng truyền cảm hứng cho
nghệ thuật đương đại. Là nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký”,
Tôn Ngộ Không là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của văn học
Trung Hoa.
52
Trong văn hóa Ấn Độ, thần khỉ Hanuman là một nhân vật thần thoại của
đạo Hindu, được kể lại trong sử thi Ramayana. Trong sử thi, Hanuman đã
giúp đỡ cho người anh hùng Rama trong cuộc chiến chống lại vua quỷ
Ravana. Thần khỉ Hanuman là nhân vật trung tâm trong hai bộ sử thi vĩ đại và
lừng danh của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata.
Các đền thờ trên khắp đất nước Ấn Độ đều có hình ảnh Hanuman, vị
thần khỉ nổi tiếng với vũ khí là quả chùy (gada), biểu tượng của lòng dũng
cảm. Thần rất sùng bái người bạn của mình là Rama (vị vua anh hùng được kể
trong sử thi Ramayana), và cũng được Rama rất thương yêu, nên có khi người
ta vẽ Hanuman với hình Rama xăm trên ngực.
Rama được coi là hóa thân của vị thần Vishnu, là một trong ba vị thần
tạo nên bộ tam thần trong văn hóa Ấn Độ. Trong cuộc chiến đấu giữa vua
Rama anh hùng và quỷ Ravana, thì thần khỉ Hanuman là người phụng sự vua
đắc lực nhất, trung thành nhất.
Thần thoại Ấn Độ qua mấy ngàn năm không ngừng truyền tụng các kỳ
tích của thần khỉ Hanuman, vì vậy, Hanuman sớm trở thành một hình ảnh
quen thuộc, phổ biến trong mỹ thuật Ấn Độ. Tất cả những điều này đã củng
cố đức tin của người Ấn Độ rằng sùng kính thờ phụng thần khỉ Hanuman thì
sẽ được thần phù hộ khỏi bị tà ma quấy phá. Ngày thứ ba hàng tuần là ngày
vía của thần khỉ Hanuman, và hàng triệu tín đồ ở Ấn Độ thường dâng lễ cầu
nguyện thần khỉ phù hộ cho họ được khỏe mạnh, sung túc.
Trong văn hóa Việt Nam, khỉ đã có mặt trong văn chương truyền khẩu
từ lâu, như trong bài dân ca “Lý qua đèo” ở Huế hay “Ăn ở trong rừng” của
quan họ Bắc Ninh. Ca trù có điệu xẩm huê tình cũng nhắc đến vượn. Ca dao
53
thì thường nhắc đến vượn để hàm ý nói đến sự xa xôi, cách trở, hoang dã:
“Má ơi! Đừng gả con xa/Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu”.
Trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, khỉ cũng thường được nhắc
đến. Ở miền sông nước, chiếc cầu tre bắc qua kênh rạch thường được gọi là
“cầu khỉ”. Thành ngữ, tục ngữ về khỉ có nhiều câu, chẳng hạn: Khỉ ho cò gáy,
giết gà dọa khỉ, rung cây dọa khỉ, nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Ngoài
ra, còn có những cụm từ đặc trưng gắn liền với khỉ như “làm trò khỉ”, “mặt
nhăn như khỉ”, “khỉ gió/khỉ khô/khỉ mốc”, “đồ khỉ/đồ khỉ gió”…
Dậu (gà)
Con gà, đặc biệt là gà trống, hiện diện trong nhiều nền văn hóa phương
Đông và phương Tây. Là vật nuôi được con người thuần hóa từ lâu trong lịch
sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại.
Từ thời cổ đại, gà đã là loài vật linh thiêng trong nhiều nền văn hóa, gắn
chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng, hoạt động thờ cúng tôn giáo, với tư cách
của một lễ vật. Gà có vai trò quan trọng trong đời sống xa xưa, đặc biệt ở
vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người,
là vẻ đẹp về thanh âm của những vùng quê yên ả.
Gà là một trong 12 con giáp. “Dậu” là một trong 12 chi của địa chi, và là
địa chi thứ mười, đứng trước nó là Thân, đứng sau nó là Tuất. Tháng Dậu
trong nông lịch là tháng 8 âm lịch. Về thời gian trong ngày, giờ Dậu tương
ứng với khoảng từ 17-19h. Về phương hướng, Dậu chỉ phương chính Tây.
Theo ngũ hành, Dậu tương ứng với Kim; theo âm dương, Dậu là âm.
Dậu mang ý nghĩa co nhỏ lại, chỉ trạng thái của quả cây sau khi đã phát
triển tột bậc sẽ bắt đầu teo tóp tại (ứng với tháng 8 mùa thu, khi nhà nông đã
hoàn tất việc thu hoạch nông sản).
54
Theo quan niệm dân gian của nhiều nước Á Đông, gà là vật phẩm cúng
lễ không thể thiếu để kính dâng lên tổ tiên, thần thánh. Trong tiếng Hoa, “đại
kê” (gà trống) gần âm với từ “đại cát” mang ý nghĩa may mắn, tốt lành.
Trong văn hóa Việt, gà gắn liền với đời sống nhà nông. Trên trống đồng
Đông Sơn, hình ảnh gà được thể hiện khá nhiều.
Trong truyền thuyết về vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa cũng có
xuất hiện hình ảnh của gà, theo đó, thành đắp đến đâu, đất lở đến đấy, rùa
thần Kim Quy báo cho nhà vua biết ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống
đến ngàn năm hóa thành yêu tinh ẩn trong núi, nếu diệt được nó thì việc xây
thành sẽ thành công. Hay trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, gà cũng
được nhắc đến với tư cách là một trong ba lễ vật thách cưới của Vua Hùng
trong cuộc kén rể cho con gái Mỵ Nương, gồm “voi chín ngà, gà chín cựa,
ngựa chín hồng mao”.
Trong võ thuật cổ truyền Việt Nam, có “Hùng kê quyền” (quyền gà
chọi) mô phỏng các kỹ thuật của gà chọi. Đặc trưng của bài quyền này là
những động tác dũng mãnh như gà chọi - loài vật dù nhỏ bé nhưng rất nhanh
nhạy, dũng mãnh trước đối thủ.
Trong nghệ thuật dân gian, gà là một chủ đề quen thuộc của tranh dân
gian Đông Hồ. Điều này đã được thể hiện trong hai câu thơ nổi tiếng của bài
thơ “Bên kia sông Đuống” của nhà thơ Hoàng Cầm: “Tranh Đông Hồ gà lợn
nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.
Tuất (chó)
Loài chó chính là một trong những động vật được loài người thuần hóa
sớm nhất trong lịch sử. Ngày nay, chó được coi như là “người bạn tốt” của
55
con người. Nhưng từ trước đó, các xã hội cổ đại, bao gồm cả Trung Quốc cổ
đại cũng chia sẻ quan niệm này. Trong xã hội Trung Quốc cổ đại, loài chó giữ
nhiều vai trò quan trọng, không chỉ trong đời sống thường nhật mà còn cả
trong những câu chuyện thần thoại của người dân.
Trong văn hóa Á Đông chó được xếp vào 12 con giápở vị trí thứ 11 với
chi Tuất và một trong những con vật thuộc lục súc. Trong quan niệm
của người Việt thì chó là con vật có thể đem đến những điều may mắn, mang
đến thuận lợi và nhiều niềm vui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang).
Trên đất nước Nhật Bản, chó rất được cảm tình, là bạn trung thành của
người, bảo hộ cho trẻ em và giảm nhẹ sự nhọc nhằn, đau đớn cho các sản phụ.
Ở Trung Hoa, chó là bạn đồng hành không kém phần trung thành của các vị
tu Tiên, cho đến tận khi họ đắc đạo. Đấng Đại Tôn xuất hiện trên núi Thái
Tôn dưới triều hoàng đế Vũ Hán, dắt theo mình một con chó vàng, con chó
của Han - tseu đã đổi màu thành màu đỏ như con chó trời, đã mọc cánh và trở
thành bất tử. Nhà luyện đan Wei Po - Yang đã bay lên trời cùng với con chó
của mình. Chó đá ở nông thôn Trung Hoa có chức năng canh giữ yêu quái vào
làng, có làng mang tên làng Chó Đá. Tuy chó đá không có vai vế như thần
Thổ Địa, không thấy thắp nhang, trẻ con có thể tuỳ tiện cưỡi lên lưng nó.
Nhưng chó đá cũng chiếm một vị trí đặc biệt trong tâm thức dân làng.
Ở Trung Quốc, Chó Bắc Kinh được coi là những con chó thiêng liêng,
thần thánh mà được kính trọng như theo một truyền thuyết về Thạch sư với
khả năng xua đuổi tà ma cho gia chủ. Chúng có thể chỉ được nuôi bởi Hoàng
tộc Trung Hoa và được tôn trọng như thần thánh và nếu ai ăn trộm một trong
những con chó này đều sẽ bị hành hình. Những người không thuộc quý tộc
56
phải cúi chào chúng. Khi hoàng đế băng hà, chó của Hoàng tộc sẽ được hi
sinh để có thể bảo vệ hoàng đế ở thế giới bên kia.
Truyền thuyết về ông tổ chó cũng còn thấy ở nhiều dân tộc khác ở Việt
Nam như Xê Đăng, S’tiêng, Giẻ Triêng, Chăm, Dao, Lô Lô… Ngày
nay người Dao vẫn coi mình là con cháu của Bàn Hồ do đó họ có tục thờ chó,
trang phục mô phỏng chó hay trang trí hình chó và để tóc kiểu chó. Cách để
tóc mái bằng trước trán mà người Pháp gọi là "theo kiểu chó" (à la chien)
ở người Cơ Tu, đó là kiểu để tóc thường thấy ở một số nhóm Xê Đăng, Tà Ôi,
Bru (các tộc cùng có truyền thuyết về ông tổ chó), người Cơ Tu ở Quảng Nam
bị gọi là "mọi có đuôi" vì nam giới Cơ Tu thường để đuôi khố dài phía
sau. Người Pa Cô còn giữ tục kiêng giết và ăn thịt chó như con vật tổ. Truyền
thuyết của người Pa Cô kể lại rằng, bà tổ và ông tổ chó vẫn sống cùng nhau ở
nơi đất liền với trời. Người Khuyển Nhung tự xưng tổ tiên là hai con chó
trắng (Bạch Khuyển), sùng bái vật tổ chó trắng.
Hợi (lợn)
Lợn là một trong 12 con vật tượng trưng cho chu kỳ 12 năm của Địa Chi
trong nhiều tính toán liên quan tới Can Chi của người Trung Quốc, Việt Nam,
Nhật Bản, Triều Tiên,… nó gắn liền với địa chi Hợi. Những người tin tưởng vào
chiêm tinh học Trung Hoa luôn gắn con vật với đặc điểm, đặc tính cá nhân.
Đối với người Việt Nam và Trung Quốc, lợn được nhân cách hóa qua
nhân vật hư cấu nửa người nửa heo Trư Bát Giới, một vị thần trên Thiên đình,
trong truyện nổi tiếng Tây du kí.
Đối với các dân tộc sống tại các đảo ngoài lục địa Đông Nam Á, ngoài
việc lợn là nguồn cung cấp thực phẩm, nó còn là biểu tượng của sự giàu có, là
57
quà cưới cho cô dâu và có khi còn là đơn vị hàng hóa quan trọng trong thương
trường. Đối với người theo đạo Ấn Độ giáo, thần Visnu có hình dạng con lớn,
chuyên hành hiệp cứu độ chúng sinh.
Trong văn hóa người Việt, lợn mặc dù là biểu trưng cho sự trù phú, an
nhàn, tốt lành và may mắn nhiều đến thế, nhưng hình ảnh của lợn cũng không
ít lần bị gắn với những điều xấu xí, tiêu cực.
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, con lợn được thể hiện qua các bức
tranh dân gian Đông Hồ. Hình ảnh con lợn hiện hữu trên tấm lịch tường gia
đình để thể hiện sự sung mãn, phồn thực, vui vẻ hạnh phúc. Con lợn trong
quan niệm văn hóa cổ truyền thuộc dòng Âm ôn hòa nhã nhặn, sinh nở đầy
đàn nên yếu tố phồn thực được đề cao trong loại tranh dân gian, chúc tụng
năm mới gặp nhiều may mắn, con cháu đông vui, phúc lộc. Bức tranh lợn đàn
là biểu tượng của sự sung túc, no đủ, phồn thực.
58
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Thiên văn và chiêm tinh là hai ngành khoa học ra đời khá sớm. Khoa
chiêm tinh ra đời theo hai hệ thống: Phương Đông và Phương Tây. Thuật
chiêm tinh phương Tây dựa theo phương thức vận hành của các thiên thể, còn
thuật chiêm tinh phương Đông bắt nguồn từ 12 con giáp.
Hệ thống 12 con giáp được nhân dân khu vực châu Á, đặc biệt là Trung
Quốc và Việt Nam ứng dụng rất nhiều trong cuộc sống. Tại phương Đông
vẫn còn nhiều quốc gia sử dụng âm lịch. Âm lịch được lập theo các chu kỳ
thay đổi đều đặn của mặt trăng. Vì sử dụng âm lịch nên các ngày chính xác
của một năm mới luôn thay đổi theo từng năm và mỗi năm đều được “cầm
tinh” bởi một trong số 12 con vật.
Theo cung Hoàng đạo của người Việt, con đầu tiên là con Chuột (Tý),
sau đó là con Trâu (Sửu) và tiếp đến theo thứ tự là con Hổ (Dần), Mèo (Mão),
Rồng (Thìn), Rắn (Tỵ), Ngựa (Ngọ), Dê (Mùi), Khỉ (Thân), Gà (Dậu), Chó
(Tuất) và cuối cùng là con Lợn (Hợi). Trong số các con giáp này thì con Rồng
là con vật thần thoại và Tý, Dần, Tỵ và Thân là những con vật sống hoang dã
và thường tránh gặp con người. Bảy con còn lại là những vật nuôi trong nhà.
Cứ mỗi chu kỳ 12 năm, lại mang tên con vật cũ.
Ngày nay, không chỉ thuật chiêm tinh của phương Tây mà thuật chiêm
tinh của phương Đông vẫn còn vô vàn những điều bí ẩn mà loài người chưa
có câu trả lời thích hợp trên một số khía cạnh của vấn đề. Tuy vậy, trong thực
tế cuộc sống, nó vẫn tồn tại với những giá trị bất biến theo thời gian nhờ vào
khả năng và quá trình đúc kết kinh nghiệm và sự chiêm nghiệm của người
xưa về quy luật tương tác giữa vũ trụ và con người nên hiện nay nó vẫn giữ
được một cách toàn vẹn tính đúng đắn trong cuộc sống thực tiễn.
59
CHƢƠNG 2: TƢƠNG ĐỒNG TRONG QUAN NIỆM TRONG 12
CON GIÁP Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
2.1. Tín ngƣỡng cộng đồng
Văn minh Trung Hoa trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên một
hệ thống quan điểm - tư tưởng luận rất phức tạp. Đó là triết lý nhị nguyên
(âm dương), ngũ hành, 12 con giáp…. Hệ thống kiến thức này là sự bổ
sung xây dựng, hoàn thiện không ngừng. Hệ thống tư tưởng ấy cũng đã ảnh
hưởng mạnh mẽ tới suy nghĩ của con người và xuất hiện trong mọi quyết
định, sự kiện quan trọng như sinh nở, cưới hỏi và cách đối đãi trong quan
hệ nhân sinh.
Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ về vị trí địa lý cùng lịch sử phát
triển lâu dài. Từ cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam có sự
giao lưu - tiếp biến văn hóa với văn minh Trung Hoa, văn minh Ấn Độ và
và văn hóa phương Tây. Trong đó sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa
đối với văn hóa Việt Nam đặc biệt lâu dài về lịch sử, sâu sắc về tính chất và
rộng lớn về phạm vi. Trong quá trình giao thoa và tiếp biến, mọi yếu tố văn
hóa đều có thể có sự biến đổi bởi nhiều lý do khác nhau. Các yêu tố ấy như
điều kiện tự nhiên – khoảng cách địa lý, thay đổi tính chất trên quá trình
truyền bá, thêm hoặc bớt các yếu tố để phù hợp với văn hóa bản địa …
Thậm chí khi đã trở thành một phần của văn hóa bản địa thì những thành tố
này cũng không ngừng phát triển và thay đổi theo biến thiên xã hội và lịch
sử. Không nằm ngoài quy luật đó, hệ thống can – chi nói chung, 12 con
giáp nói riêng cũng có những điểm khác biệt nhất định giữa văn hóa Trung
Quốc và văn hóa Việt Nam. Về điểm tương đồng, sẽ có một số điểm là:
60
- Quan niệm về sự ra đời và nguồn gốc 12 con giáp
- Khái niệm và quan hệ 12 con giáp
- Sự ảnh hưởng và ứng dụng của 12 con giáp
2.1.1. Quan niệm về sự ra đời và nguồn gốc 12 con giáp
Phần lớn các quan niệm cho rằng hệ thống thiên can, địa chi và 12
con giáp là xuất phát từ văn minh Trung Hoa. Điều này thể hiện qua nhiều
thư tịch và các tài liệu lịch sử có từ sớm được các triều đại Trung Quốc ghi
chép lại. Người Trung Quốc cũng có truyền thuyết về việc hình thành thứ
tự 12 con giáp như sau:
Vào thời xa xưa, Ngọc Hoàng thượng đế muốn tìm ra cách để tính thời
gian và đã tổ chức một cuộc đua với sự tham gia của các loài động vật. Mười
hai con vật đầu tiên vượt qua được dòng sông sẽ được đứng trong lịch, loài
nào về trước sẽ được tính trước. Con chuột thức dậy rất sớm và xuất phát vào
lúc Mặt Trời mọc, sau đó nó tình cờ gặp ngựa, hổ và trâu lúc trên đường đến
dòng sông.
Con chuột rất nhỏ và không bơi giỏi, nó đã nhờ các con khác to lớn
hơn giúp đỡ. Nhưng hổ và ngựa từ chối thì trâu tốt bụng đã đồng ý đưa
chuột qua sông. Khi chúng chuẩn bị sang đến bờ bên kia, thì chuột đã nhảy
khỏi lưng trâu và chạy đến đích đầu tiên. Sau đó trâu về nhì còn hổ về thứ
ba. Còn Thỏ vì quá nhỏ bé để chống lại dòng nước xiết nên nó đã nhảy trên
những tảng đá và khúc cây nổi trên sông để về thứ tư.
Về vị trí thứ 5 là rồng, mặc dù nó đã có thể bay thẳng qua sông nhưng
đã dừng lại để để làm mưa giúp người nông dân. Tiếp đến là ngựa, nó
đang phi thật nhanh qua sông, nhưng khi gần về đến đích thì có một con
rắn lại trườn qua, làm ngựa giật mình dừng lại. Và rắn đã thay vào vị trí
của ngựa về thứ 6, còn ngựa thứ 7.
61
Ngọc Hoàng nhìn ra phía dòng sông, thấy dê, khỉ, gà đang ở trên một
chiếc bè và cùng nhau đẩy để thoát khỏi dòng sông. Tới khi chúng sang
được bờ bên kia thì cả ba lại quyết định nhường vị trí thứ tám cho dê, con
vật hiền nhất trong nhóm. Sau tiếp đó mới tới khỉ và gà. Vị trí thứ 11 là
chó, nó đang cố gắng bò lên bờ sông. Con chó bới rất giỏi nhưng vì mải
chơi dưới nước nên đã về đích ở vị trí gần cuối. Vị trí cuối cùng thuộc về
lợn vì nó đói quá nên đã dừng lại để ăn và ngủ một giấc ngắn trước khi bơi
qua sông để về đích.
Cuộc đua trên được xem như quyết định những con vật nào được thờ
trong lịch Hoàng đạo của Trung Hoa
Ngoài ra thì còn một số người bao gồm cả người Trung Quốc và
người Việt Nam giải thích nguyên nhân có 12 con giáp là từ tập quán của
các con vật này mà con người quan sát được. Một số nghiên cứu gần đây
cho rằng nguốn gốc 12 con giáp có từ văn minh các nước trồng lúa nước
phía Nam sông Dương Tử trong đó có Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu
lại cho rằng 12 con giáp xuất phát từ Trung Quốc, sau đó có kế thừa và bổ
sung các yếu tố từ văn minh phía Nam để hoàn thiện như hiện này….
Tóm lại ở cả hai quốc gia đều cho thấy 12 con giáp có nguồn gốc từ
lâu đời, không có thời gian ra đời cụ thể hay tác giả cụ thể. Ở mỗi vùng,
mỗi dân tộc sẽ có những truyền thuyết để giải thích về sự ra đời của 12 con
giáp khác nhau. 12 con giáp hình thành và thay đổi qua quá trình lâu dài, là
sản phẩm của việc nghiên cứu thiên văn, địa lý, tự nhiên, động vật…. của
các nhà tri thức cổ đại. Sau đó được bổ sung kết hợp bằng các kiến thức
dân gian và bằng chính kinh nghiệm trong đời sống của người dân.
2.1.2. Khái niệm và quan hệ 12 con giáp
Bảng 2.1: Thứ tự tên gọi 12 con giáp trong tiếng Trung và tiếng Việt
62
TT Thập nhị địa chi Tên gọi con Tên gọi Con vật
giáp trong tiếng trong tiếng tƣơng ứng
Trung Việt
1 Tý 子 (zǐ) 老 鼠 (láoshǔ) Tý Chuột
(lão thử)
2 Sửu 丑 (chǒu) 牛 (níu) Sửu Trâu
(ngưu)
3 Dần 老 虎 (láohǔ) Dần Hổ/ Cọp 寅
(yín) (lão hổ)
卯 4 Mão 兔子 (tùzi) Thỏ
(mǎo) (Thố tử)
Mão Mèo
5 Thìn 辰 (chén) 龍 (lóng) Thìn Rồng
(龙 long)
6 Tỵ 巳 (sì) 蛇 (shé ) Tỵ Rắn
(xà)
7 Ngọ 午 (wǔ) 馬 (mǎ ) Ngọ Ngựa
(马 mã)
8 Mùi 未 (wèi) 羊 (yáng ) Mùi Dê
(dương)
9 Thân 申(shēn) 猴子 (hóuzi) Thân Khỉ
(hầu tử)
10 Dậu 酉 (yǒu) 雞 (jī ) Dậu Gà
(kê 鸡)
63
11 Tuất 戌 (xū) 狗 (gǒu) Tuất Chó
(cẩu)
12 Hợi 亥 (hài) 猪 (zhū ) Hợi Lợn
(trư)
- Tương đồng trong quan niệm 12 con giáp
Điều đầu tiên có thể khẳng định đó là ở Việt Nam và Trung Quốc
đều có hệ thống Thiên Can – Địa Chi trong đó có mười Thiên Can và mười
hai Địa Chi có tên gọi và tính chất giống nhau. Tương ứng với các Địa Chi
cũng là 12 con giáp mang những đặc điểm, tính chất và ý nghĩa cụ thể. Đây
là điểm tương đồng quan trọng nhất giữa 2 nền văn hóa.
Điểm tương đồng thứ hai của 12 con giáp trong văn hóa Trung Quốc
và Việt Nam đó là đều có tính phổ biến giống nhau. Cả người Việt Nam và
người Trung đều coi đây là một thành tố rất quan trọng trong cuộc sống,
gắn liền với hầu hết các lĩnh vực và đều là cơ sở của nhiều hoạt động văn
hóa truyền thống khác đối với cả hai đất nước. Cả người Việt và người Hoa
đều gắn cho các con giáp những đặc điểm, tính chất, quy luật xuất phát từ
những con vật cả trong thực tế và không có thật. Từ đó, các đặc điểm, tính
chất, quy luật này tác động và chi phối tới đời sống con người và xã hội. Ở
cả hai nền văn hóa chúng ta đều thấy việc hình thành 12 con giáp là do con
người nghĩ ra, phân tích và liên tưởng rồi sau đó lại tác động lại đời sống
của con người, đặc biệt đối với văn hóa truyền thống và trong tôn giáo tín
ngưỡng.
Thứ ba, đối với 12 con giáp, cả người Trung Quốc và người Việt
Nam đều có những quan niệm về ý nghĩa, tương đồng của sinh chúng với
64
tính cách và tác động của 12 con giáp tới cuộc sống con người. Những
quan niệm này có thể xuất phát từ đặc trưng của các loài vật ở đời thực.
Tý – con chuột: đại diện của sự thông minh, nhanh nhẹn.
Sửu – con bò, con trâu: đại diện cho sự cần cù, chăm chỉ, ổn định.
Dần – con hổ: đại điện cho sự dũng mãnh, hung dữ, nguy hiểm.
Mão – con thỏ/con mèo: đại diện cho sự linh hoạt, khéo léo, hữu ích.
Thìn – con rồng: biểu hiện của quyền lực, may mắn, giàu mạnh.
Tỵ - con rắn: đại diện cho việc sinh sôi, tính tinh ranh.
Ngọ - con ngựa: đại diện cho sức mạnh, việc di chuyển, thay đổi.
Mùi – con dê: sự chuẩn mực, điềm đạm, kiên trì.
Thân – con khỉ: sự nhanh nhẹn, hoạt bát và dễ thay đổi.
Dậu – con gà: sự kỷ luật, dũng cảm.
Tuất – con chó: biểu hiện sự trung thành, thông minh.
Hợi – con lợn: biểu hiện tính ổn định, bình an, chậm chạp.
- Tương đồng trong thứ tự và các quy luật
Ở cả hai nền văn hóa, 12 con giáp có điểm thống nhất đối với thứ tự
các con giáp và các quy luật gắn với tính chất của chúng. Trong đó có 3
quy luật tương đồng phổ biến và quan trọng nhất là quy luật xung – hợp
của các địa chi và con giáp ứng với ngũ hành. Cụ thể:
Tính chất 12 địa chi theo ngũ hành như sau:
Tý Thủy Thìn Thổ Thân Kim
Sửu Thổ Tỵ Hỏa Dậu Kim
Dần Mộc Ngọ Hỏa Tuất Thổ
Mão Mộc Mùi Thổ Hợi Thủy
65
Đặc tính âm – dương của 12 địa chi như sau: Tý – dương; Sửu – âm;
Dần – dương; Mão – âm; Thìn – dương; Tỵ - âm; Ngọ - dương; Mùi – âm;
Thân – dương; Dậu – âm; Tuất – dương; Hợi – âm.
Tam hợp: Từ tính chất 12 địa chi theo ngũ thành, mọi người quan niệm
các con giáp này có tính chất phù hợp nhau, tốt và may mắn khi kết hợp với
nhau cụ thể:
- Tam hợp Hỏa cục gồm có Dần, Ngọ, Tuất. Bắt đầu từ Dần -Mộc,
tiến tới Ngọ - Hỏa rồi đi vào Tuất Thổ.
- Tam hợp Mộc cục gồm có Hợi, Mão, Mùi. Bắt đầu từ Hợi - Thủy,
tiến tới Mão - Mộc rồi đi vào Mùi - Thổ.
- Tam hợp Thủy cục gồm có Thân, Tý, Thìn. Bắt đầu từ Thân - Kim,
tiến tới Tý - Thủy rồi đi vào Thìn - Thổ.
- Tam hợp Kim cục gồm có Tị, Dậu, Sửu. Bắt đầu từ Tị - Hỏa, tiến tới
Dậu - Kim rồi đi vào Sửu - Thổ.
Lục xung, lục hợp và lục hại. Cũng từ tính chất các địa chi theo ngũ
hành mà chúng được chia ra các cặp xung nhau và hợp nhau và hại nhau
trong đó:
- Lục xung gồm: Tý – Ngọ; Mão – Dậu; Thìn – Tuất; Sửu – Mùi; Dần
– Thân; Tỵ - Hợi.
- Lục hợp gồm : Tý – Sửu, Dần – Hợi, Mão – Tuất, Thìn – Dậu, Tị –
Thân, Ngọ – Mùi.
- Lục hại gồm: Tý – Mùi; Sửu – Ngọ; Dần – Tỵ; Mão – Thìn; Thân –
Hợi; Dậu – Tuất.
2.1.3. Sự ảnh hưởng và ứng dụng 12 con giáp
Tương đồng trong lịch pháp
66
Cách tính thời gian hay còn gọi là lịch pháp là điểm tương đồng nổi
bật nhất của 12 con giáp của người Việt Nam, trường Trung Quốc và các
nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nói chung.
Trên Thế giới có rất nhiều loại lịch. Các loại lịch được thiết lập dựa
trên căn cứ khác nhau như dựa vào quỹ đạo di chuyển của trái đất và mặt
trời, dựa vào sự thay đổi của các chòm sao, dựa vào qui luật của các hiện
tượng tự nhiên (con nước)… Ngoài được gọi theo thứ tự số đếm thì vì
những nguyên nhân khác nhau mà mỗi nền văn hóa lại có những cách tính
lịch và tên các tháng, năm khác nhau.
Quá trình hình thành lịch theo mặt trăng ở các nước khu vực châu Á
nói chung và âm lịch nói chung trải qua quá trình lâu dài, có nhiều thay đổi
và điều chỉnh để có diện mạo như ngày nay. Văn minh Trung Hoa trải qua
nhiều đời đã hình thành ra một loại lịch được mã hóa theo hệ thống can
(10) chi (12). Tên các can gồm: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân,
nhâm, quý. Tên các chi gồm: tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu,
tuất, hợi. Tất cả các thông số thời gian về giờ, ngày,tháng, năm đều được
mã hóa bằng các đơn vị trên. Ví dụ như giờ Mậu Tí, ngày Tân Hợi, tháng
Quý Dậu, năm Kỷ hợi (ngày 00 giờ ngày 13 tháng 8 năm Kỷ Hợi – âm lịch;
ngày 11 tháng 9 năm 2019 dương lịch). Quá trình hình thành lịch này trải
qua nhiều biến đổi lâu dài: “Lịch Thương kiến Sửu (tháng 12 là tháng đầu
năm), lịch Chu kiến Tí (tháng 11), lịch Tần Hán Sở kiến Hợi (tháng 10)”.
Từ thời Sở, lịch đã lấy tháng Dần là tháng đầu năm – tháng Giêng, muộn
hơn hai tháng so với lịch Chu. Đến các thời Tần, Hán đều sử dụng lịch kế
thừa từ thời Sở.
67
Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng lịch sử dụng 12 con giáp
ứng với 12 tháng trong năm được xây dựng từ những nền văn hóa trồng lúa
nước phía nam sông Dương Tử (bao gồm cả Việt Nam). Lý do nói như vậy
là vì sản xuất nông nghiệp lúa nước thì các qui trình thời gian rất quan
trọng. Người nông dân phải biết rất rõ đặc điểm thời tiết trong năm để có
thể sản xuất do đó họ đã hình thành nên lịch từ quan sát trăng, sao và các
hiện tượng thời tiết. Sau đó họ đã mã hóa các đơn vị thời gian này bằng
việc gọi tên bằng các con vật.
Văn hóa dân gian ở cả hai nước cũng đưa ra cách giải thích việc dùng
12 con giáp để tính giờ đó là dựa và các đặc điểm sinh hoạt của loài vật. Cụ
thể như: giờ tý (23 giờ đến 00 giờ 59) là giờ chuột hoạt động mạnh nhất;
giờ sửu (1 giờ đến 2 giờ 59) là giờ trâu bò đang nhai lại, giờ dần (3 giờ đến
4 giờ 59) là giờ con hổ đáng sợ nhất; giờ mão (5 giờ đến 6 giờ 59) là giờ
loài thỏ, loài mèo thức dậy bắt đầu đi kiếm ăn; giờ thìn (7 giờ đến 8 giờ 59)
là giờ rồng xuất hiện thường tạo mưa (tuy nhiên rồng là con vật thần thoại
không có thật); giờ tỵ (9 giờ đến 10 giờ 59) là giờ loài rắn không hại người;
giờ ngọ (11 giờ đến 12 giờ 59) là thời điểm nóng nhất (theo truyền thuyết
loài ngựa kéo xe mặt trời bay qua vũ trụ; ngọ là tính dương); giờ mùi (13
giờ đến 14 giờ 59) hời gian dê ăn cỏ không ảnh hưởng tới việc cây cỏ
mọc lại; giờ thân (15 giờ đến 16 giờ 59) là thời gian loài khỉ hiếu động
và gọi nhau; giờ dậu (17 giờ đến 18 giờ 59) là giờ loài gà về chuồng;
giờ tuất (19 giờ đến 20 giờ 59) là thời gian bắt đầu buổi đêm, loài chó
bắt đầu hoạt động trông nhà; giờ hợi (21 giờ đến 22 giờ 59) là thời gian
loài lợn ngủ say nhất.
68
Như vậy, ở cả hai nước đều có việc sử dụng 12 con giáp làm tên cho
các đơn vị thời gian. Cụ thể một ngày có có 12 (canh) giờ bắt đầu từ giờ Tý
(23 giờ) đến giờ Hợi (22 giờ 59 phút). Một tháng có 27 đến 30 ngày được
tính liên tục kết hợp theo Can – Chi. Một năm có 12 tháng bắt đầu từ tháng
dần (tháng Giêng) và cũng kết hợp cùng với các Thiên Can. Các năm được
đặt tên theo các thiên can liên tục, 12 năm từ Tý đến Hợi là 1 giáp. Kết hợp
giữa thiên can và địa chi có qui luật 60 năm là một Hoa Giáp, người Việt
Nam còn gọi là “một Hội”. 10 Thiên can kết hợp với 12 địa chi theo
nguyên tắc là can dương sẽ kết hợp với chi dương, còn can âm sẽ kết hợp
với chi âm tạo nên một tổ hợp thiên can địa chi từ 1 đến 60 là kết thúc. Sau
đó lại tuần hoàn tiếp một vòng mới đó chính là một hoa giáp.
Một nét rất đặc biệt của văn hóa các nước trong phạm vi ảnh hưởng
của văn hóa Hán đó là quan tâm tới tính chất của các ngày. Việc gọi tên các
năm, tháng, ngày, giờ theo hệ thống can chi đồng nghĩa với việc đặt cho
thời gian mang những đặc điểm tính chất của thiên can, địa chi đó. Mọi
người thường suy nghĩ một cách đơn giản hơn đó là các năm, tháng, ngày,
giờ sẽ mang tính chất của con giáp đó. Ví dụ ngày 5/5 là ngày tết Đoan
Ngọ thường trong thời gian nóng nhất vào mùa hè, vì người ta quan niệm
chi Ngọ thuộc dương hỏa, biểu tượng cho sức nóng, hoặc nhiều người cũng
nghĩ năm Thìn – rồng là năm có nhiều may mắn…. Quan niệm này chính là
nguyên nhân hình thành nhiều phong tục tập quán của cả hai nước như
chọn ngày giờ may mắn, phán đoán tính các đối đối tác, chọn người sinh có
các tuổi phù hợp trong công việc, hôn nhân…
69
Tương đồng trong ứng dụng 12 con giáp đối với đời sống xã hội.
Cũng từ việc mã hóa thời gian mà đặc biệt là đơn vị năm bằng các địa
chi mà ở cả Việt Nam và Trung Quốc đều hình thành quan niệm “tuổi”,
“cầm tinh” các con giáp đối với người sinh vào các năm tương ứng. Và con
giáp có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống từng cá nhân trong suốt cuộc
đời thông qua đặc điểm tính cách, khả năng bản thân, mức độ may mắn
trong cuộc sống.
Những quan niệm, qui luật xoay quanh 12 con giáp còn tác động đến
mọi các lĩnh vực trong đời sống văn hóa xã hội ở cả hai nền văn hóa đặc
biệt trong các mối quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa con người
với công việc và quan quan hệ giữa con người với các thời điểm.
Cả người Việt và người Hoa đều rất quan tâm đến ngày tháng năm
sinh của bản thân mình với mong muốn nhờ đó có thể biết được một phần
tương lai, cuộc đời thông qua khoa học tính toán suy luận mang tên tử vi.
Đây là một môn khoa học rất phức tạp trong đó 12 con giáp là một yếu tố
rất quan trọng. Cả người Trung Quốc và người Việt Nam đều cho rằng các
yếu tố về ngày - giờ sinh sẽ quyết định cuộc đời một người.
Ở cả hai nền văn hóa, còn có thể thấy sự ảnh hưởng của 12 con giáp
tới các quan hệ cơ bản như quan hệ bố mẹ - các con; quan hệ vợ - chồng;
quan hệ bạn bè hay quan hệ đối tác trong công việc. Mọi người thường cố
gắng lựa chọn các đối tượng có tính chất hợp và tránh những trường hợp
không hợp hoặc xung khắc với nhau theo quan hệ của 12 con giáp. Ngoài
ra mọi người cũng thường dùng việc này để đưa ra các lựa chọn hay giải
thích những mâu thuẫn, sự cố trong các mối quan hệ trong đời. Việc ảnh
70
hưởng của các qui luật 12 con giáp là phổ biến ở cả hai nền văn hóa Việt
Nam và Trung Quốc.
2.2. Lễ hội – văn hoá dân gian
2.2.1. Sùng bái linh vật
Trên thực tế, khi con người chọn các loài động vật làm con giáp thì
chúng đã trở thành những loài vật đặc biệt khác với động vật nói chung. Ở
cả 2 nền văn hóa, 12 con giáp là những con vật thường thấy hoặc có thể
thấy trong cuộc sống thực (trừ con rồng). Các con vật này gần gũi, có quan
hệ bình thường đối với đời sống con người, con người sử dụng nó để lao
động và đi lại (con trâu, bò, ngựa), tiêu diệt chúng (con chuột), nuôi làm
vật nuôi (con chó, mèo), nuôi làm thực phẩm (lợn, dê, bò…) hay sẵn sàng
giết thịt hầu hết các loài chúng để làm món ăn (trừ rồng). Thậm chí với
những con vật được cho là người bạn thân thiết với con người như chó,
mèo thì người Việt và người Hoa cũng có thể chế biến thành các món ăn.
Ngoài việc là kiến thức dân gian thì ở cả hai nền văn hóa, 12 con giáp
đều được gắn với đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Với đặc trưng đa thần,
nhiều nước khu vực châu Á đều có hiện tượng các loài động vật trở thành
linh vật đối với con người. Văn hóa của người Việt và người Hoa, các con
vật trong 12 con giáp cũng mang những ý nghĩa đặc biệt. Ví dụ như họ đều
rất tôn trọng con trâu, bò vì nó có giá trị lớn với kinh tế gia đình. Họ cũng
thờ cúng một số loài như hổ, rắn và coi đây là các loài vật có sức mạnh siêu
nhiên. Họ có rất nhiều truyền thuyết và các nhân vật ma quỉ hoặc thần từ
các loài này ví dụ như Hổ Tinh trong Tây Du Ký, Thanh Xà, Chằn tinh…
trong các truyền thuyết Việt Nam và Trung Quốc. Hình tượng Long Mã
71
trong số truyền thuyết Trung Quốc hay thờ cúng các “Ông Ngựa” của
người Việt Nam… Các con vật trong 12 con giáp trong quan niệm của cả
hai nền văn hóa còn mang những thông điệp về cuộc sống như con lợn là
no ấm, con chó là sự an toàn, trung thành… Một hiện tượng rất thống nhất
nữa đó là con rồng trong hai nền văn hóa. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều
cho rằng con rồng mang lại trời mưa (Long Vương) tốt cho nông dân. Con
rồng cũng là hình ảnh của quyền lực chính trị. Các con rồng thường đồng
hành cùng với các vua chúa phong kiến và được trang trí trên cung điện,
quần áo và các đồ dùng có liên quan đến vua. Ở cả hai nước, các con vật
đều được thờ cúng, sử dụng trong nhiều hoạt động văn hóa, tâm linh với
những ý nghĩa khác nhau. 12 con giáp còn được vẽ thành tranh, tạc
tượng, chạm khắc ở nhiều khu đền, chùa, các công trình văn hóa truyền
thống. Nhiều người cũng bày các bức tượng con giáp, treo tranh con
giáp, đeo các loại trang sức có hình con giáp của mình với hi vọng sẽ có
được may mắn, được mọi người biết đến hoặc đơn giản hơn là vì họ yêu
thích và muốn ghi nhớ năm sinh, tuổi và bản thân của mình.
Như vậy ta thấy, cả ở văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam đều
xuất hiện việc các con vật trong 12 con giáo trở thành linh vật trong tín
ngưỡng dân gian. Mặt khác, chúng ta cũng thấy ở cả hai văn hóa các linh
vật 12 con giáp đều vừa là động vật bình thường trong cuộc sống, vừa là
loài có sự linh thiêng. Điều này rất khác với một số tôn giáo và văn hóa
như con bò hay con lợn trong Hồi giáo.
2.2.2. Lễ hội truyền thống
Một điểm tương đồng nữa của 12 con giáp trong văn hóa Việt Nam
và Trung Quốc đó là trong các hoạt động văn hóa dân gian. Ở cả hai dân
72
tộc chúng ta đều bắt gặp sự xuất hiện của các con giáp gắn với các lễ hội,
ngày lễ… tuy có từng lễ hội khác nhau. Có thể nói tới như ngày tết Đoan
Ngọ hay tết Đoan Dương (5/5 âm lịch); Trung Thu (15/8 âm lịch), đặc biệt
là ngày Trung Thu. Cả người Việt Nam và người Trung Quốc đều có
phong tục gắn với hình tượng con thỏ vào ngày này. Người Trung Quốc vẽ
tranh thỏ, dán hình thỏ ở cửa…. còn người Việt thì làm đèn lồng hình con
thỏ tròn cho trẻ em chơi.
Người Dao ở Việt Nam và một số tộc người phía nam Trung Quốc
gần biên giới cũng có Lễ hội 12 con giáp hay còn gọi là Lễ hội cầu mùa.
Họ nghĩ rằng, mỗi năm đều có vị thần khác nhau quản lý. Một năm có 12
tháng, tương ứng với 12 vị thần trông nom là 12 con giáp: Tý, Sửu, Dần,
Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Muốn gia đình bình
yên, hạnh phúc và nông nghiệp phát triển thì hàng năm dân làng phải tổ
chức cầu nguyện 12 vị thần con giáp.
Lễ cúng có: đầu con lợn, gà, xôi; hoa quả; gạo, đèn, nhang... được đặt dưới
cây nêu, tượng trưng cho trời và đất. Dưới cây nêu có 12 lá cờ ứng với 12
con giáp. Người dân xây 2 ngôi nhà nhỏ để thần ở. Mang các lễ vật đến và
nói giống như “Chúng tôi mong muốn thần 12 con giáp về giúp cho con
cháu mạnh khỏe, nông nghiệp phát triển, thời tiết tốt”. Thầy pháp thuật sẽ
xin phép và mời 12 con giáp hiện về. Mỗi thần linh con giáp sẽ có tính
cách đặc trưng của từng con vật. 12 con giáp được thầy pháp thuật làm
phép thuật, mời ăn uống... và cuối cùng đưa vào miếu thờ để trông coi
mùa màng hàng tháng. 12 con giáp cũng được thầy pháp thuật cho tới
73
quan tâm từng nhà để mọi người mạnh khỏe, không ốm đau và bệnh tật.
Sau khi lễ xong, mọi người cùng vui chơi lễ hội, nhảy múa, ca hát.
Con người còn làm các loại đèn lồng theo hình 12 con giáp trong các
lễ hội ở cả hai nước rất đẹp. Ở Trung Quốc và ngày Nguyên Tiêu (15 tháng
1) mọi người làm các đèn lồng rất lớn theo nhiều hình khác nhau để bày.
Rất nhiều người làm các đèn lồng theo chủ đề con giáp năm đó hoặc bộ 12
con giáp. Ở Việt Nam vào ngày Trung Thu, mọi người cũng làm đèn lông
theo hình 12 con giáp, trang trí giống 12 con giáp để trẻ em chơi hoặc bày
ra đường cho đẹp. Ngoài ra mọi người còn mặc quần áo, hóa trang, đeo mặt
nạ theo các hình con giáp khi đi chơi ngoài đường.
Trong văn học nghệ thuật ở cả hai đất nước, các con giáp đêu trở
thành chủ đề sáng tác của nhiều các nghệ sĩ thông qua các bài thơ, các câu
chuyện thần thoại… Hình tượng các con giáp cũng được sáng tác qua các
tác phẩm dân gian như các bức phù điêu trang trí, các chi tiết gỗ trên mái
nhà, các bức tranh dân gian theo năm, các bức tượng phong thủy và các
hình giấy dán trang trí vào năm mới. Ở cả hai nước, hình ảnh các con giáp
đều được mọi người sử dụng với nhiều ý nghĩa và mục địch khác nhau.
Đặc biệt vào ngày tết ở cả hai đất nước, mọi người có rất nhiều việc
liên quan đến con giáp của năm đó như treo tranh ảnh có con giáp, viết các
bài thơ và các câu chúc tết liên quan đến con giáp năm đó. Nhiều năm gần
đây thì ở cả hai nước đều có in các bộ tem kỷ niệm theo các năm của 12
con giáp.
74
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Cả ở văn hóa Trung Quốc và Việt Nam, 12 con giáp nói riêng hệ
thống Can Chi nói chung đều rất phổ biến và có vai trò quan trọng trong
đời sống. Tuy là hai nền văn hóa có ngôn ngữ và nhiều đặc điểm khác nhau
nhưng có thể thấy nhiều điểm tương đồng về 12 con giáp. Đó là tương
đồng về nguồn gốc lâu đời và các giải thích đa dạng về sự ra đời của 12
con giáp; Sự tương đồng về khái niệm, thứ tự và quan hệ của 12 con giáp
và sự ảnh hưởng rộng lớn và ứng dụng của 12 con giáp tới lịch pháp, quan
hệ gia đình, quan hệ xã hội và lao động sản xuất. 12 con giáp trong văn hóa
Việt Nam và Trung Quốc còn tương đồng trong việc đều có các tín ngưỡng
sùng bái linh vật, việc xuất hiện các ngày lễ, lễ hội và sáng tác nghệ thuật
có liên quan tới các con giáp hoặc cả 12 con giáp.
Vì có vị trí địa lý gần nhau, điều kiện tự nhiên nhiều nơi giống nhau
và đặc biệt là văn hóa, lịch sử có nhiều quan hệ với nhau nên 12 con giáp ở
hai nước có nhiều điểm tương đồng.
75
CHƢƠNG 3: KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP
Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
3.1. Tín ngƣỡng cộng đồng
3.1.1. Khác biệt về quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và Trung Quốc
Từ bảng 2.1 ta cũng có thể thấy rõ thập nhị chi trong văn hóa Việt
Nam và Trung Quốc tuy khác biệt về mặt ngôn ngữ trong phát âm nhưng
vẫn gồm 12 chi lần lượt: Tý - 子, Sửu - 丑, Dần - 寅, Mão - 卯, Thìn - 辰,
Tị - 巳, Ngọ - 午, Mùi - 未, Thân - 申, Dậu - 酉, Tuất - 戌, Hợi -亥.Tuy
nhiên ta cũng dễ dàng thấy sự khác biệt trong hiện thân của chi thứ 2
(Ngưu 牛) thứ 4 (Mão - 卯) đó là tương ứng với con vật khác nhau trong
văn hóa Việt Nam và con thỏ trong văn hóa Trung Quốc.
1. Khác biệt trong quan niệm vê địa chi Sửu
Đối địa chi Sửu trong văn hóa Trung Quốc có sinh tiếu là ngưu (牛)
và ở Việt Nam là con Trâu. Nếu không chú ý thì nhiều người dễ đồng nhất
và không thấy sự khác biệt này. Cụ thể trong sách Tam thiên tự (Hán –
Nôm – Quốc ngữ) có viết 牛 (ngưu) - Trâu trong khi trong tiếng Trung 牛
lại có nghĩa là con bò hoặc các con thuộc giống bò (ví dụ 奶牛 – Nǎiniú là
bò sữa; 印度野牛 - Yìndù yěniú là bò tót…). Trên thực tế con trâu trong
tiếng Trung phải là 水牛 (Shuǐniú) – thủy ngưu có nghĩa là loài bò có thể
sống ở môi trường nước. Nói cách khác, sinh tiếu của địa chi Sửu trong văn
hóa Trung Quốc là các loài thuộc giống bò, có thể là bò vàng (黄牛 –
Huángniú – Hoàng ngưu); bò xám ( 林 牛 - Lín niú); trâu ( 水 牛 -
Shuǐniú)…. Trong khi ở Việt Nam chi Sửu chỉ có sinh tiếu là con trâu/ trâu
nước (水牛). Về khác biệt này, giáo sư Trần Quốc Vượng có đưa ra nguyên
76
nhân là do sự hiểu lầm của các thầy đồ Nho học trước đây. Cụ thể như sau:
Người Hoa khởi nguồn từ miền hoàng thổ khô hạn vùng Hoa Bắc, lưu vực
Hoàng Hà, ở đó chỉ có giống bò và ngưu (牛) chỉ có nghĩa là “bò”.Triển
nở và bành trướng xuống miền nam, người Hoa mới thấy con trâu và mệnh
danh nó là “thủy ngưu” (bò nước) hay “hắc ngưu” (bò đen). Trên thực tế
thì đặc trưng sinh học của loài trâu nước mà người Việt biết vốn chỉ phù
hợp với khí hậu vùng nhiệt đới, các vùng có khí hậu nóng ẩm và có địa
hình sông ngòi, các đầm nước phong phú. Cũng theo giáo sư Trần Quốc
Vượng thì vùng đầm lầy Đông Nam Á là quê hương của loài trâu và tên gọi
“trâu – tre – klu – kéc bau…” là một từ thuần Đông Nam Á.
2. Khác biệt về địa chi Mão
Đối với địa chi thứ 4 (Mão - 卯) đó là tương ứng với con mèo trong
văn hóa Việt Nam và con thỏ trong văn hóa Trung Quốc. Sự khác biệt này
được giải thích bằng nhiều các khác nhau.
Theo từ nguyên học, có một số tác giả và nhà nghiên cứu như
Philippe Papin, An Chi, Nguyễn Quảng Tuân, Phạm Thị Hảo, Nguyễn
Cung Thông… đưa ra một số ý kiến giải thích về nguồn gốc sự khác biệt
của địa chi Mão ở Việt Nam và Trung Quốc.
Theo Philippe Papin thì Mão (thỏ) trong tiếng Hán gần (âm)
với mèo trong tiếng Việt. Ở đây, do cái đà (trớn) của âm thanh mà ta có
một sự trượt nghĩa, như vẫn thường thấy. Điều này có nghĩa là trong quá
trình gặp gỡ văn hóa, khi bắt gặp âm “mão” (thỏ) của tiếng Hán gần với âm
“meo” hoặc “mèo” của tiếng Việt nên từ thỏ mới trở thành mèo. Từ đó có
thể đưa ra ý tưởng về sự khác biệt là do sự giống nhau trong phát âm với
77
khái niệm đã có của bản địa dẫn tới sự thay đổi trong từ ngữ . Tuy nhiên
cách giải thích này vẫn chưa thực sự thuyết phục vì theo nhà nghiên cứu
An Chi thì con thỏ chỉ là sinh tiếu (生肖) của địa chi Mão, không thể đồng
nhất hai khái niệm địa chi và con vật cầm tinh.
Cũng căn cứ vào sự biến đổi của ngôn ngữ, theo Phạm Thị Hảo thì sự
khác biệt địa chi Mão ở Việt Nam và Trung Quốc có thể xuất phát từ sự
nhầm lẫn về chữ viết và biến đổi về ngữ âm. Cụ thể: Chữ “Thố 兔 ” (Thỏ) gần
giống với chữ “miễn 免”, chỉ khác một dấu chấm nên có sự nhầm lẫn trong
quá trình ghi chép, dịch sách…. Bên cạnh đó có một hiện tượng biến đổi âm
“iên” thành “an”, “miễn” biến thành “mãn”, “mãn” trong tiếng Việt cổ là
mèo. Do đó, ở Việt Nam mèo trở thành con vật biểu trưng của địa chi Mão.
Theo giáo sư Nguyễn Quảng Tuân thì nguồn gốc tên 12 con giáp
chính là từ tiếng Việt cổ và xuất phát cổ nhất từ thời Tiên Tần. Ông phân
tích: cách viết của chữ miêu 猫 - 貓 (con mèo, giọng Bắc Kinh là mao) thì
được viết bằng bộ 犭(khuyển) hoặc bộ 豸 (trĩ) với chữ miêu 苗 (mầm
mống), còn chữ 兔 thỏ - thố lại viết theo lối tượng hình (giọng Bắc Kinh
là tù. Chữ 兔 (thỏ) lại viết giống chữ 免 (miễn) chỉ có thêm một nét để chỉ
cái đuôi. Hai chữ này không có khác biệt trong văn tự cổ thời Xuân Thu
(770-476 trước CN) theo cuốn Ngữ lâm thú thoại cho nên chữ miễn một
dạng cổ của mãn trong tiếng Việt cổ đã có nghĩa là con mèo. Nghĩa này
được ghi trong tự điển Việt - Hoa - Pháp của Gustave Hue - 1937
(Mãn: Chat: con mèo. Con mãn tam thể: chat à trois couleurs) và trong Tự
điển Việt Nam của Khai trí Tiến đức - 1954 (Mãn: Con mèo). Tuy nhiên
cách giải thích này cũng không thực sự thuyết phục bởi từ “mãn” có nghĩa
78
là con mèo xuất hiện không nhiều và chỉ thực sự có từ thời cận đại. Tác giả
Đinh Văn Tuấn cũng chứng minh luận điểm này không chính xác bởi
không chỉ thấy từ “mãn” để chỉ con mèo trong Việt Nam tự điểm và Việt –
Hoa – Pháp xuất bản trong những năm 1931 – 1937 mà không hề thấy
trong các tài liệu trước đó bao gồm cả trong ca dao, tục ngữ truyền thống từ
thời Trần cho tới đầu thời Nguyễn.
Theo phương pháp khảo cứu thư tịch, khảo cổ, thì không phát hiện
được bằng chứng xác thực được sự xuất hiện của 12 địa chi và 12 con giáp
vào thời Thuộc Hán. Theo các thư tịch còn lại thì 12 địa chi lần đầu tiên
được ghi chép tìm được là vào thời Trần. Trong Việt Sử Lược có đoạn chép
về vua Lý Thái Tổ sinh năm Giáp Tuất. Tác giả Đinh Văn Tuấn trong Biểu
tượng khởi thủy của Địa Chi Mão là tên gọi con thỏ hay tên gọi con mèo?
Đã chứng minh việc con rằng ban đầu địa chi Mão ở Việt Nam có sinh tiếu
là con thỏ, sau đó mới thay đổi thành mèo. Cụ thể, tác giả đã dẫn chứng
việc ghi chép ở câu sấm vĩ: Thố kê thử nguyệt nội (兔 雞 鼠 月 內)[23,
tr83](Thỏ gà chuột: ngày thỏ, tháng chuột, năm gà). Đinh Văn Tuấn còn
trích trong Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn ở Thế kỷ XVIII cũng đã dựa
theo thư tịch của Trung Hoa giải thích chi Mão có sinh tiếu là con thỏ.
Cũng theo kết quả khảo cứu của tác giả thì chi Mão có sinh tiếu là mèo ở
Việt Nam xuất hiện sớm nhất tìm được là trong Sấm ký của Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Thế kỷ XVI) và từ điển Việt – Bồ - La của Alexandre de Rhodes
(Thế kỷ XVII). Sự không thống nhất của địa chi Mão trong các thư tịch
khảo cứu được cho thấy có thể trước kia người Việt cũng sử dụng Thỏ là
con vật đại diện của địa chi Mão sau đó mới thay đổi thành con mèo. Tuy
79
nhiên phương pháp này mới chỉ cho thấy sự thay đổi của địa chi Mão trong
văn hóa Việt Nam chưa chứng minh được cụ thể vì sao lại có sự thay đổi đó.
Dựa vào điều kiện và đặc thù tự nhiên, kinh tế - xã hội cũng có nhiều
tác giả giải thích nguyên nhân có sự khác biệt của địa chi Mão giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Văn hóa Trung Quốc được phát triển từ văn minh
sông Hoàng Hà hay còn gọi là văn minh Hoa Hạ, nằm ở phía bắc sông
Dương Tử và có diện tích nhỏ hơn hiện nay rất nhiều. Đây là vùng có khi
hậu khô hanh, mùa đông lạnh giá và có địa hình tự nhiên là các bình
nguyên cao ráo. Nói theo cách của Sim Sang – Joon thì đây là nền văn hóa
bình nguyên với cây trồng vật nuôi và lối sống đặc trưng. Điều kiện tự
nhiên này thích hợp cho loài thỏ sinh sôi và chúng dần gắn liền với cuộc
sống của người dân Hoa Hạ. Điều kiện này không thực sự phù hợp với đặc
trưng sinh lý của loài mèo (loài mèo sợ lạnh). Mặt khác một số ý kiến cho
rằng loài mèo ở Trung Quốc vốn dĩ xuất phát từ giống mèo ở vùng Ai Cập,
không phải loài động vật bản địa nên trước đây không thực sự có vai trò
quan trọng trong hệ sinh thái và đời sống người dân. Thỏ cũng trở thành
loài vật đặc biệt trong quan niệm của người Hán khi là con vật đại diện cho
vẻ đẹp, sự trong sáng, thanh lịch với hình tượng Thỏ ngọc (ngọc thố) là
linh vật gắn liền với nguyệt cung (cung điện trên mặt trăng). Trong tiếng
trung “ngọc thỏ” (玉兔) còn được đồng nghĩa với mặt trăng. Thỏ cũng là
biểu tượng của sự thông minh, nhanh trí và may mắn. Điều này thể hiện
qua truyện cổ tích về thứ tự 12 con giáp; thể hiện qua một số bức tranh tết
truyền thống có hình ảnh thỏ dưới gốc cây cổ thụ ngậm linh đơn hay thỏ
ngậm trái đào trường thọ.
80
Trái lại, văn hóa người Việt (Kinh) xuất phát từ khu vực châu thổ
sông Hồng dần phát triển mở rộng ra khắp vùng Bắc bộ - Trung bộ và Nam
bộ với đặc điều kiện tự nhiên nhiệt đới gió mùa. Khí hậu nóng ẩm mưa
nhiều cùng với địa hình trung du và đồng bằng dần hình thành nền văn
minh lúa nước. Điều kiện tự nhiên phù hợp với đặc trưng sinh học của loài
mèo cùng việc việc sinh hoạt, sản xuất và nông sản của con người thường
bị chuột bọ phá hoại nên từ sớm mèo trở thành vật nuôi phổ biến và hữu
ích. Do đó, con mèo thân thiết và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống
con người Việt Nam. Mèo là loại động vật dễ sinh sản, dễ nuôi trong điều
kiện đơn giản, dễ chăm sóc; là loài vật thông minh lại giúp người nông dân
bắt chuột bảo vệ mùa màng nên dễ dàng gắn bó với đời sống người Việt và
đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Nếu không phải rất thân
thiết với đời sống con người thì mèo không thể đi vào nhiều tục ngữ đến
thế. Người Việt sử dụng hình tượng con mèo một cách phổ biến nguyên
liệu trong các sáng tác của mình trong mọi chủ đề từ đúc kết kinh nghiệm,
phản ảnh thực trạng cuộc sống, tâm tư nguyện vọng cho đến châm biếm,
hài hước. Có thể nói tới các câu: mèo mả gà đồng, mèo khen mèo dài đuôi,
chó chê mèo lắm lông, chó treo mèo đậy, cơm treo mèo nhịn đói…. Với
đặc trưng sinh lý loại thỏ có thể sinh trưởng ở Việt Nam tuy nhiên không
dễ dàng và hữu ích đối với người Việt do đó nó không có vai trò nhiều
trong đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Như vậy, cũng có thể dùng điều kiện và đặc trưng tự nhiên – kinh tế -
xã hội để giải vì sao địa chi Mão ở Trung Quốc có sinh tiếu là con thỏ trong
khi ở Việt Nam là con mèo. Tuy nhiên điều này cũng đặt ra một câu hỏi
81
nữa rằng nếu người Việt đã thay đổi con vật đại diện của chi Mão từ loài
thỏ thành loài mèo vì mèo gần gũi hơn với đời sống người Việt thì tại sao
lại là con mèo mà không phải loài vật khác. Ngoài mèo người Việt cũng có
rất nhiều loại súc vật khác có gắn bó với đời sống hàng ngày mà không hề
có trong 12 con giáp như con bò, con vịt, con ngỗng… Thậm chí cũng có
thể là các loại thủy sản và lưỡng cư vốn rất phổ biến trong môi trường tự
nhiên bản địa và gắn liền với đời sống người dân như cá chép, con cua, con
ốc, con ếch, con tôm…. Do vậy, cách giải thích này khá hợp lý nhưng lại
chưa thực sự thuyết phục một cách đầy đủ nhất.
Từ các nguyên nhân giải thích về sự khác biệt của địa chi Mão nêu
trên có thể thấy nếu chỉ xét trên góc độ chuyên ngành thì không thể giải
thích một cách thấu đáo thuyết phục mà phải sử dụng phương pháp nghiên
cứu liên ngành. Tuy nhiên ta cũng có thể khẳng định một điều rằng địa 12
địa chi và 12 con giáp vốn xuất phát từ văn hóa Trung Quốc. Đối với địa
chi Mão vốn dĩ có sinh tiếu là con thỏ sau đó khi được người Việt thay đổi
thành con mèo bởi nhiều nguyên nhân. Có thể tạm đưa ra một giả thuyết đó
là người Việt đã sử dụng con mèo là sinh tiếu của địa chi Mão bởi hai
nguyên nhân (có thể đồng thời). Thứ nhất đó là do sự khác biệt về chữ viết
và phát âm dẫn tới những biến đổi về ngữ nghĩa trong quá trình dịch thuật.
Thứ hai do vị trí của hai con vật này trong điều kiện tự nhiên và đời sống
kinh tế - văn hóa của hai dân tộc: con thỏ với người Trung Quốc và con
mèo với người Việt Nam.
3.1.2. Dị biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với
con người
Việc mã hóa thời gian theo các linh vật, con giáp diễn ra phổ biến ở
nhiều nền văn hóa. Ở châu Âu cũng bắt gặp 12 cung hoàng đạo tương ứng
82
với 12 chòm sao bao gồm: Bảo Bình, Song Ngư, Bạch Dương, Kim Ngưu,
Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ, Thiên Bình, Thần Nông, Nhân Mã, Ma
Kết. Ở Kazakhstan, các con giáp lần lượt là: chuột, bò, báo, thỏ, ốc sên,
rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó và lợn; dụ Ấn Độ có các con giáp và xếp theo
thứ tự: Chuột, Trâu, Sư tử, Thỏ, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, chim Kim sí
(Garuda)… Trong văn hóa Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc…
thời gian được mã hóa triệt để theo bằng hệ thống can – chi với chu kỳ hoa
giáp (60: từ Giáp Tý tới Quý Hợi) vào tính năm, tháng, ngày và giờ. Tương
ứng với can chi của năm, tháng, ngày, giờ mà người ta quan niệm nó ảnh
hưởng tới cuộc sống của con người. Đặc biệt nhất là quan niệm đối với giờ
sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh của từng người (cầm tinh). Cả
người Trung Quốc và người Việt Nam đều cho rằng con người ít nhiều
chịu ảnh hưởng bởi phẩm chất, đặc điểm từ con giáp mà họ cầm tình, có
thể thể hiện qua tính cách, phẩm chất, khả năng thậm chí bao gồm tất cả
vận mệnh cuộc đời. Và tương ứng với tính chất đó là mối quan hệ giữa con
người với con người trong cuộc sống, làm ăn, ứng xử… hay vận mệnh của
các cá nhân trong các thời điểm, không gian nhất định bằng các quy luật
xung – hợp (tam hợp, tứ hành xung), may mắn hay không may mắn (hợp –
hạn) … Phần lớn quan niệm về các địa chi và ảnh hưởng của chúng tới đời
sống con người giống nhau ngoại trừ các chi: Tý, Dần, Mão và Thân.
Chi Tý, con giáp tý – chuột:
Trong văn hóa Trung Quốc, Tý là địa chi đứng đầy thập nhị địa chi với
con giáp tương ứng là con chuột, tính dương, mệnh thủy. Chuột được xem là
biểu tượng của sự thông minh, lòng vị tha, óc cầu tiến, tính cách dễ dãi và sự
hào phóng. Tuy là con vật sống ở môi trường tự nhiên, thường gặm nhấm phá
hoại đồ dùng, nông sản, mùa màng nhưng người Hoa không quá miệt thị loài
83
vật này. Hơn nữa còn gọi nó với tên gọi khá trang trọng là láoshǔ (lão thử) với
ý nghĩa e dè sợ chuột sẽ phá phách tài sản, hoa màu. Cũng có truyền thuyết là
Đường Tăng tìm thấy Giáp Tý Kinh trong kho sách của Như Lai và con chuột
còn lấy giúp cho Đường Tăng bộ kinh đó. Để khen thưởng công lao cho Đường
Tăng cho chuột vị trí đầu trong 12 con giáp. Ngoài ra, năm tý, thang tý… đối
với người Trung Quốc còn được xem là tháng may mắn, sung túc bởi loài chuột
chỉ Một truyền thuyết khác lại nói là Đường Tăng tìm thấy Giáp Tý Kinh trong
kho sách của Như Lai và còn lấy giúp cho Đường Tăng bộ kinh đó. Để khen
thưởng công lao cho Đường Tăng cho chuột vị trí đầu trong 12 con giáp. Câu
chuyện này lại đề cao chuột được thưởng công xứng đáng đứng hàng đầu trong
12 con giáp với vóc dáng nhỏ bé nhất của mình. sống ở những nơi có đồ ăn dồi
dào, tức là nơi ấy có lương thực thực phẩm phong phú, đời sống ấm no. Địa chi
Tý, hình tượng con chuột thường được tạo hoặc vẽ là con chuột bên đồng tiền
hoặc chuột ôm đĩnh vàng với mong muốn mang lại sự giàu có.
Một điều khá đặc biêt trong văn hóa Trung Quốc là địa chi Tý, con chuột
tuy được gọi là “lão thử” nhưng lại thiên về giống cái. Điều này thể hiện qua lễ
hội lấy chồng cho chuột, hình tượng chuột thành tinh trong truyện và kịch Tây
Du ký.
Tương ứng với các đặc trưng nêu trên, người Hoa quan niệm rằng
những người tuổi tý thường là những người mang phẩm chất thông minh,
nhạy bén, chăm chỉ và có trực giác tốt. Đối với đàn ông thường là những
người coi trọng bạn bè, bình tĩnh và tỉnh táo trong khi phụ nữ thường là
người nhiệt thành, cần kiệm, đảm đang. Tuy nhiên người tuổi này lại mang
những đức tính không tốt như thường chấp nhặt chuyện nhỏ, ích kỉ và có
phần keo kiệt.
84
Văn hóa Việt Nam không dành nhiều ưu ái cho loài chuột bởi sự phá
hoại và khó tiêu diệt của chúng. Hình tượng chuột trong văn hóa Việt là
loài vật nhỏ bé (đầu voi đuôi chuột), xấu xí (Mặt như mặt chuột (Mặt như
chuột kẹp)), hèn nhát (Len lét như chuột ngày), không có giá trị (Ném chuột
vỡ chum)…. Con chuột cũng là biểu tượng của sự nhỏ bé, thân phận nhỏ
mọn trong xã hội (bức tranh Đám cưới chuột)…Tiêu cực hơn, hình tượng
con chuột còn được dùng để ám chỉ những thành phần trộm cướp, đục
khoét tham nhũng trong xã hội. Tuy nhiên đối với người Việt thì địa chi Tý
không quá tiêu cực. Người Việt quan niệm Tý như một sự khởi đầu để mọi
thứ có thể bắt đầu lại (chi Tý bắt đầu một vòng 12 địa chi mới) do đó nó
mang ý nghĩa mới mẻ. Người tuổi tý cũng được coi là người mang phẩm
chất nhạy bén, tỉ mỉ, cần cù, có tính toán và đặc biệt là người kiên trì.
Người Việt Nam cũng quan niệm những người tuổi tý sẽ có thể có một số
phẩm chất không tốt đó là tự mãn, độc đoán…
Dần
Địa chi Dần ứng với tính dương, mệnh mộc. Ở cả Việt Nam và Trung
Quốc, sinh tiếu của chi Dần đều là con hổ (cọp). Có quan niệm khá thống
nhất giữa hai nền văn hóa đó là con hổ là con vật mạnh mẽ “chúa sơn lâm”,
có diện mạo đẹp và khả năng chiến thắng và tiêu diệt đối thủ. Người Hoa
cũng dành sự kinh trọng để nói tới loài vật này bằng danh xưng “lão hổ”.
Từ đặc trưng vằn lông của hổ và người Hoa thấy giống với chữ Vương (王)
mang ý nghĩa người đứng đầu, quyền lực, sang trọng. Loài hổ cũng trở
thành biểu tượng của chiến tranh, quân đội mang ý nghĩa uy dũng, chiến
thắng với các danh hiệu Hổ tướng, Ngũ Hổ tướng hay Hổ Nương (người
85
phụ nữ dũng mãnh)[21,tr48]… Trong thứ tự các linh vật tượng trưng, hổ
chỉ đứng dưới con rồng (gắn liền với hình ảnh vua chúa), là tượng trưng
của quý tộc và quan lại phẩm hàm cao. Trong đời sống xã hội người Trung
Quốc thì những người đặc biệt xuất sắc cũng được gọi là hổ, những gia
đình có nhiều thế hệ thành công thường được khen ngợi là “hổ phụ sinh hổ
tử”(虎父无犬子)[23, tr37].Trẻ em Trung Quốc thường được đội mũ hình
mặt hổ, mặc áo vằn giống hổ với hi vọng hổ sẽ giúp trừ tà, tránh được bệnh
tật, hơn nữa còn có hi vọng đứa trẻ lớn lên sẽ có tài năng xuất chúng.
Theo hoàng đạo Trung Quốc người tuổi dần là người có uy tín, tài
lãnh đạo bẩm sinh, dũng cảm, hiếu thắng và hiếm khi phải thua cuộc tuy
nhiên dễ bị xúc động và không thể làm tốt khi bị áp lực.
Trong văn hóa Việt Nam ngoài việc là biểu tượng của sự dũng mãnh,
biểu tượng của tầng lớp quý tộc hay những người xuất chúng thì loài hổ -
chúa sơn lâm còn là loài vật đáng sợ bởi tính hung dữ và đe dọa tới an gia
súc, gia cầm và thậm chí mạng sống của con người. Do đó, từ sớm người
Việt đã có tâm lý kiêng sợ loài vật này và gọi là “ông Hổ”, “ông Hùm”,…
thậm chí còn thờ cúng và coi đó là các vị thần.
Theo quan niệm người Việt Nam thì ngày, tháng, năm dần đều mang
sự tích cực mang nhiều may mắn. Người tuổi Dần cũng có các tính các
giống với quan niệm người Trung Quốc tuy nhiên người Việt thường gắn
cho người tuổi này tính cách hung dữ, đáng sợ. Đặc biệt hơn nữa là suy
nghĩ cực đoan về phụ nữ tuổi dần. Nhiều người Việt Nam cho rằng phụ nữ
tuổi dần là những người đáng sợ, hung dữ hoặc nếu không thì rất khó có cuộc
sống gia đình tốt, khó có con và sinh con…. Đây cũng là một điểm khác biệt
giữa Việt Nam và Trung Quốc.
86
Mão
Từ sự khác biệt trong sinh tiếu của địa chi Mão ở Trung Quốc và Việt
Nam dẫn tới quan điểm khác nhau trong ảnh hưởng của địa chi này tới đời
sống con người ở hai nước rất rõ.
Ở Trung Quốc con thỏ là hình ảnh của cái đẹp, nhanh nhẹn, sạch sẽ và
nhút nhát. Thỏ cũng là loại động vật thân thiện với con người và rất hiền.
Do đó năm, tháng, ngày mão là thời gian khá may mắn. Người sinh năm
Mão theo hoàng đạo Trung Hoa thường là người tính cách cẩn thận, thông
minh, nhanh nhẹn. Tuy nhiên lại thường là những người quá nhút nhát, dè
dặt hoặc thiếu thực tế.
Ở Việt Nam, con mèo rất thân thiết với con người. Mèo giúp con
người bắt chuột, bào vệ cây trồng và nông sản. Mèo cũng là loại động vật
rất nhanh nhẹn và thông minh, hơn nữa rất dễ nuôi do đó chúng đóng vai trò
quan trọng trong đời sống sinh hoạt của người nông dân. Do có đặc điểm thân
hình mềm mại, di chuyển nhanh nhẹn và thường ăn vụng nên mèo còn bị người
Việt xem là có những tính cách không tốt. Giống với người Trung Quốc, người
Việt cũng cho rằng người sinh năm Mão là những người nhanh nhẹn, thông
minh, cẩn thận tuy nhiên cũng có điểm khác biệt đó là quan niệm người tuổi
mèo có thể là những người có tính cách không minh bạch, không rõ ràng hoặc
là người quá ích kỉ. Đây cũng là quan niệm khác nhau giữa hai nền văn hóa về
địa chi Mão và tuổi mão.
Địa chi Thân, con giáp thân, con khỉ
Địa chi Thân ứng với nhân tố dương, mệnh kim, với sinh tiếu là con
khỉ. Đối với người Trung Quốc, loài khỉ là loài vật thông minh, hoạt bát với
87
hình tượng tiêu biết nhất là nhân vật Tôn Ngộ Không đầy quyền phép và có
cá tính đặc sắc trong tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Trong mỹ
thuật truyền thống Trung Hoa khỉ thường được vẽ và tạc với hình ảnh khi
bên trái đào (thể hiện sự minh mẫn, trường thọ); đôi khỉ bên gốc cây hoa
mai (thể hiện sự viên mãn)… Năm Thân, tháng Thân, ngày Thân theo
người Trung Quốc không phải may mắn như Thìn hay Ngọ nhưng do nằm
giữa Mùi và Dậu được coi là kém may mắn hơn nên cũng được mọi người
ưu ái trong việc chọn thời gian hoàng đạo. Do đó người Trung Quốc cũng
quan niệm người tuổi thân là những người có tư chất vô cùng thông minh,
tràn đầy nghị lực và tháo vát tuy nhiên tự mãn và thích thể hiện bản thân.
Khác với Trung Quốc, con khỉ đối với người Việt Nam tuy là con vật
nhanh nhẹn thông minh nhưng lại không tích cực. Điều này thể hiện qua
thành ngữ và cách so sánh như: Khỉ ho cò gáy, nhăn như khỉ, khỉ gió, khỉ
khô… Cùng với đó, năm Thân là năm không may mắn, nói cách khách
người Việt không thích năm thân. Hơn nữa bởi quan điểm năm Thân là
năm không may mắn mà người Việt còn không muốn sinh vào năm Thân
hoặc cảm thấy mình không may mắn nếu cầm tinh còn khỉ, điều đó thể hiện
rất rõ qua câu tục ngữ:
- Tuổi Thân thì mặc tuổi Thân
Sinh đúng giờ Dần thì cứ sướng hơn làm vua
(có dị bản là: Đẻ vào giờ Dần thì sướng hơn vua)
Người Việt thường cho rằng người có tuổi thân là những người có
số phận lận đần, vất vả mặc dù có thực tài, hoặc cũng là những người
nghịch ngợm, thiếu chín chắn, sống mờ nhạt. Người tuổi thân để có thể có
88
cuộc sống may mắn phải là người được sinh vào giờ Dần hoặc phải là
người rất có tài năng, kiên trì và vượt qua được mọi vất vả chông gai để làm
lên sự nghiệp. Đây chỉ là quan niệm dân gian, không đủ căn cứ và sự thật
cũng có nhiều trường hợp chứng minh điều này không chính xác, tuy nhiên
đây vẫn là điểm khác biệt rất rõ trong văn hóa Việt Nam và Trung Quốc.
3.1.3. Khác biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với
đời sống văn hóa
Về việc sinh con và đặt tên
Đối với văn hóa Trung Quốc, giờ sinh – ngày sinh – tháng sinh – năm
sinh rất quan trọng, người ta gọi đó là “sinh thần bát tự” và đây là những số
liệu đi theo và gắn bó và ảnh hưởng tới một người trong suốt cuộc đời. Với
những gia đình có điều kiện, bát tự sẽ được người trong gia đình lập thành
tứ trụ để từ đó xây dựng lên những quy luật về đặc điểm tính cách, các yếu
tố phù hợp và xung khắc trong cuộc sống, thậm chí cả về bức tranh tương
lai của họ. “sinh thần bát tự được cấu tạo từ giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh
và năm sinh theo hệ can chi mà mang những tính chất âm – dương; xung –
hợp theo qui luật của hệ thông can chi. Một số tộc người, gia tộc người Hoa
còn có tập tục sau khi đứa trẻ sinh ra thì viết lại sinh thần bát tự. Nhiều
vùng đất và gia đình ở Trung Quốc có phong tục khi đứa trẻ sinh ra sẽ được
viết lại họ tên và sinh thần bát tự vào giấy đỏ sau đó sẽ được cha mẹ chôn
cùng với nhau thai theo một số thứ như gạo, tiền, vàng bạc… với hi vọng
đứa trẻ sẽ có một cuộc sống bình an lớn lên và gặp được nhiều may mắn
trong cuộc sống sau này.
Thông tin từ giờ sinh - ngày – tháng – năm sinh tương ứng với can
chi còn giúp các gia đình lựa chọn tên cho con cái của mình. Can - chi và
89
các con giáp mang các đặc điểm âm – dương. Họ xem tên với người hợp
nhau hoặc có mâu thuẫn với nhau. Từ số liệu này người Hoa lựa chọn các
tên, tên đệm để giúp âm dương bằng nhau hoặc bổ sung các chữ khác phù
hợp với số phận em bé. Người Trung Quốc nói chung rất chú trọng sinh
thần và tên tuổi và coi đó là những thông tin quyết định toàn bộ cuộc đời
một người. Do vậy người Trung rất cẩn thận trong tính toán tên gọi cho trẻ,
nhiều gia đình còn nhờ những người có kiến thức về tử vi hoặc những thầy
tử vi chuyên nghiệp đặt tên cho con cái của mình để hợp với sinh thần.
Ngoài ra thì còn cách đặt tên đơn giản hơn đó là các gia đình dùng chính
tên con giáp của năm sinh hoặc tên các con vật tương ứng với các chi làm
tên chính hoặc tên phụ. Cụ thể như các tên: Sửu, Dần, Thân, Hợi, Tuất,…
hoặc các tên gọi như A Ngưu (tuổi Sửu), A Cẩu (tuổi Tuất), Tiểu Long
(tuổi Thìn), Tiểu Hổ (tuổi Dần…
Đối với văn hóa Việt Nam, mọi người cũng quan trọng giờ sinh, ngày
sinh, tháng sinh, năm sinh… tuy nhiên phần lớn không có hệ thống chặt
chẽ như trong văn hóa Trung Quốc. Trước kia chỉ một số những gia đình
như vua quan, nhà giàu mới có việc lưu ý thông tin bát tự ngày sinh của
con cái và tính toán tử vi cho chúng cũng như vận dụng vào đặt tên. Thậm
chí người Việt trước kia ở nông thôn còn thường không biết hay nhớ ngày,
tháng, năm sinh của mình hoặc chỉ nhớ khi gắn nó vào các sự kiện khác (ví
dụ: sinh năm vỡ đê sông…./ sinh cuối năm cùng với nhà khác/ sinh vào
tháng thu hoạch lúa hè/ sinh vào giờ gà gáy…..). Do đó, những tính toán
của người Việt trước kia trong việc bói toán thường chỉ dừng lại ở dữ liệu
năm sinh và không tới những số liệu cụ thể như tháng sinh, ngày sinh hay
90
giờ sinh giống người Hoa. Hiện nay với trình độ phát triển cùng với đời
sống và trình độ người dân cao hơn, người Việt Nam đã lưu lại những
thông tin của con cái về giờ - ngày – tháng – năm theo âm – dương lịch và
can chi. Tuy nhiên người Việt phần lớn không sử dụng việc tính toán quá
nhiều trong cuộc sống và công việc hàng ngày mà chỉ dùng trong nhưng
việc quan trọng trong cuộc đời.
Đối với việc đặt tên, người Việt Nam cũng sử dụng 12 con giáp trong
đặt tên người nhưng phần lớn là xuất phát từ việc gắn năm sinh với người
đó để có tên đồng thời nhớ được năm sinh của người. Nhiều gia đình cũng
dùng trực tiếp tên của các con giáp năm sinh để đặt tên cho con mình là:
Sửu. Dần, Mão, Thìn… Và điểm khác biệt với người Trung đó là phần lớn
người Việt Nam dùng sinh thần bát tự để tính toán đặt tên cho các con mà
dùng cách đặt tên rất đơn giản. Điều này xuất phát từ các nguyên nhân như
trình độ của người dân hạn hẹp, việc sinh nhiều con và phong tục đặt tên
xấu cho con của người Việt.
Trong giao tiếp và công việc
Như đã nói ở phần trên về sự quan trọng của sinh thần bát tự đối với
người Trung Quốc. Cũng vì thông tin về sinh thần rất quan trọng nên người
Hoa rất hạn chế để người khác biết sinh thần bát tự của mình bởi sợ người
khác có thể dùng nó làm các việc mê tín hãm hại mình. Họ thường chỉ cho
người khác biết thông tin về năm sinh của mình. Người Trung Quốc rất chú
trọng tới các mối quan hệ trong công việc và xã hội do đó họ cũng rất
thường xuyên sử dụng kiến thức về 12 con giáp để ứng dụng vào giao tiếp,
công việc và làm ăn. Nếu như đối với các nước khác trên Thế Giới hỏi tuổi
người khác bị coi là thiếu lịch sự thì ở Việt Nam và Trung Quốc đều coi
91
đây là việc giao tiếp rất bình thường, tuy nhiên ở mỗi nước lại có những
đặc điểm khác nhau.
Khi bắt đầu một cuộc nói chuyện với những người lạ, đặc biệt là trong
công việc và kinh doanh người Trung Quốc thường tìm hiểu những thông
tin riêng của đối phương trước như tên, quê quán, gia đình, công việc và
tuổi. Trong các cuộc trò chuyện thì việc hỏi tuổi cũng là câu hỏi xã giao
phổ biến. Do kiến thức về can chi rất rất phổ thông ở Trung Quốc nên ngay
khi có câu trả lời thì người hỏi đã có thể biết được đối phương sinh năm
nào theo Can Chi và suy luận ra được một số thông tin về người đó.
Ví dụ năm nay là năm 2019 (Kỷ Hợi), người hỏi sinh năm 1990
(Canh Ngọ) và câu trả lời của người nghe là “tôi 26 tuổi”. Người hỏi sẽ
hiểu ngay là người kia sinh năm Giáp Tuất – 1994, nên thuộc…. Có thể
mang một vài phẩm chất tính cách như sôi nổi, trung thành,… Và quan
trọng hơn là hai tuổi này thuộc nhóm “Tam hợp” (Tuất – Ngọ - Dần), phù
hợp với nhau và có thể mang lại may mắn với nhau trong công việc hoặc
quan hệ.
Điều này đặc biệt quan trọng với những người Trung Quốc làm việc
trong các lĩnh vực kinh doanh, tìm kiếm đối tác hay những người cần tuyển
dụng. Mọi người cũng chú ý trong các sự kiện như khai trương cửa hàng,
động thổ xây dựng nhà mới…
Ở Việt Nam, người Việt Nam cũng có thói quen hỏi tuổi tác trong lần
đầu tiên gặp. Tuy nhiên người Việt sẽ có hai cách trả lời khác nhau đó là số
tuổi hoặc năm sinh (theo số, không phải theo con giáp). Trên thực tế thì
việc hỏi tuổi của người Việt Nam đa số nhằm mục đích để lựa chọn đại từ
92
xưng hô phù hợp do đây là điều rất quan trọng trong tiếng Việt. Người Việt
Nam sẽ thấy không vui, không lịch sự hoặc có thể tức giận nếu người khác
gọi mình chưa đúng đại từ (ví dụ gọi người lớn tuổi hơn là “em”; gọi người
thế hệ cha – mẹ mình là “anh/chị”…) và người nói có thể bị coi là vô lễ. Do
đó việc hỏi tuổi của người Việt Nam không mang quá nhiều ý nghĩa phức
tạp giống người Trung Quốc. Việc hỏi tuổi để biết các thông tin về Can Chi
chủ yếu được mọi người dùng khi có ý định phát triển quan hệ gia đình với
người kia hoặc các gia đình muốn biết về bạn gái, bạn trai của các con họ.
Hiện nay người Việt cũng có nhiều người dùng cách hỏi tuổi để đánh giá
đối phương nhưng phần lớn họ đều phải có quá trình suy luận hoặc chuẩn
bị, không trực tiếp trong lúc nói chuyện giống như văn hóa của người
Trung Quốc.
Trong việc cưới hỏi
Đám cưới là sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người. Cả
người Trung Quốc và người Việt Nam đều cho rằng có rất nhiều điều ảnh
hưởng tới việc có quan hệ và kết hôn của hai vợ chồng. Nếu người Châu
Âu nghĩ rằng tình yêu là điều quyết định vợ chồng có sống hạnh phúc với
nhau trong cuộc đời thì người Hoa và người Việt lại cho rằng số mệnh của
con người điều khiển tất cả. Và số mệnh của mỗi người chính là được biết
từ tuổi (ngày sinh, tháng sinh, năm sinh).
Người Trung Quốc trước kia rất coi trọng việc tìm hiểu và tính toán
tuổi của cô dâu, chú rể trước khi họ quen biết nhau và kết hôn. Trong văn
hóa truyền thống Trung Quốc, ngay từ việc lựa chọn người để trở thành
người yêu mọi người đã có những tiêu chí về tuổi để có thể có người phù
93
hợp. Các gia đình càng coi trọng việc này khi quyết định giới thiệu, hỏi
cưới cho con cái mình. Khi các đôi nam nữ tự nguyện yêu nhau và mong
muốn có thể cưới, họ tới gặp gia đình nhau và mang theo thông tin giờ
sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh của mình tới để thể hiện nguyện vọng
và sự thành thật của mình. Có thể nói trong văn hóa truyền thống Trung
Quốc, dựa vào các thông tin sinh thần bát tự mà mọi người lựa chọn
vợ/chồng của mình, do đó họ luôn coi việc xem tử vi tư khi còn trẻ và chú
ý xem xét tuổi của đối phương từ khi bắt đầu mối quan hệ.
Khác với Trung Quốc, yếu tố tuổi trong hôn nhân cũng quan trọng
nhưng được người Việt linh hoạt hơn. Người Việt Nam lựa chọn vợ/chồng
dựa trên những kinh nghiệm được nói ra rất đơn giản như “gái hơn hai
(tuổi), trai hơn một (tuổi). Người lớn tuổi trong các gia đình thì khá chú
trọng việc xem tuổi cho con dâu/ rể cho con mình nhưng đây không phải
ưu tiên hàng đầu. Đối với người trẻ, thường thì người Việt thường bắt đầu
các mối quan hệ trước, yêu nhau sau đó tới khi quyết định kết hôn mới tới
gặp các “thầy bói” (những người nghiên cứu về tử vi) để họ phân tích và
tư vấn. Nếu có các vấn đề như tuổi không phù hợp nhau (tuổi xung) thì họ
sẽ nói ra các cách giúp sửa chữa việc này (ví dụ như cưới 2 lần hoặc đi
lễ…). Do đó có thể thấy việc ứng dụng 12 con giáp nói chung của người
Việt Nam trong đám cưới. Hơn nữa, có thể do tính cách người Việt Nam có
linh hoạt hơn so với người Trung Quốc.
3.2. Lễ hội – văn hoá dân gian
3.2.1. Lễ hội, phong tục trong văn hóa Việt Nam
Phong tục xông đất của người Việt Nam
94
Hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán, người Việt Nam và người Trung
Quốc có rất nhiều phong tục giống nhau như: dán câu đối đỏ, đốt pháo, lì
xì… nhưng xông đất là phong tục chỉ người Việt Nam có. Trong văn hóa
Việt Nam, người đầu tiên vào nhà hoặc đến thăm gia đình trong năm mới
được gọi là người xông đất. Người Việt Nam cho rằng người này nếu là
người tốt bụng và phù hợp thì họ sẽ có năm mới may mắn và ngược lại. Do
đó người Việt luôn muốn người có tuổi phù hợp với chủ nhà, phù hợp với
con giáp của năm mới tới xông đất. Nhiều gia đình người Việt Nam chuẩn
bị việc này rất cẩn thận. Họ tìm những người thân có tuổi hợp và mời họ tới
xông đất cho gia đình mình ngay sau giao thừa với hi vọng có được một
năm mới may mắn và giàu có.
Tết Đoan Ngọ
Cũng giống như nhiều nước ở khu vực châu Á, Tết Đoan Ngọ là
ngày lễ rất quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Đoan Ngọ diễn ra vào ngày
5/5 âm lịch. Theo sách Việt Nam phong tục thì Tết Đoan Ngọ của người
Việt Nam cũng là do người Việt theo người Trung Quốc để tiến hành. Tuy
nhiên thì về phong tục người Việt lại làm hoàn toàn khác, người dân đa số
không biết ông Khuất Nguyên và càng không cúng lễ ông này. Người Việt
Nam gọi ngày này với tên đơn giản hơn là ngày giết sâu bọ. Người Việt có
một câu truyện khác về sự tích tết Đoan Ngọ như sau:
Ngày xưa, vào một ngày sau vụ mùa nông dân chúng đang ăn mừng
vì trúng mùa, nhưng sâu bọ năm ấy kéo dày ăn mất cây trái, thực phẩm đã
thu hoạch. Nhân dân không biết làm cách nào để có thể tiêu diệt được các
loại sâu bọ này và bảo vệ cây cối thì bỗng nhiên có một ông lão từ xa đi tới
95
tự giới thiệu là Đôi Truân. Ông chỉ dân chúng mỗi nhà lập một đàn cúng
gồm đơn giản gồm có bánh gio, rượu nếp, trái cây sau đó ra trước nhà mình
mà vận động thể dục. Nhân dân làm theo và chỉ một lúc sau đó các đàn sâu
bọ đều rơi ngã xuống đất chết. Lão ông còn bảo thêm: Sâu bọ hằng năm
vào ngày này rất hung hăng, mỗi năm vào đúng ngày này cứ làm theo
những gì ta đã dặn thì sẽ trị được chúng. Dân chúng định cảm ơn thì ông
lão đã đi mất. Để tưởng nhớ việc này, dân chúng đặt cho ngày này là ngày
"Tết diệt sâu bọ".
Theo Trần Quốc Vượng thì Ngựa là biểu tượng của mặt trời, thuộc
Dương Hỏa tức tượng trưng luôn cho Sức Nóng. Đó là lẽ vì sao trong một
ngày, giờ nóng nhất (giữa trưa) được biểu thị bằng giờ Ngọ, và trong năm,
tháng nóng được biểu thị bằng tháng Ngọ (Tháng theo lịch trăng). Tháng
đó có tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5) bao giờ cũng xoay quang ngày Hạ
Chí của lịch thiên văn (21 tháng 6 dương lịch)[39. tr63].
Vào ngày này, người Việt Nam có rất nhiều phong tục quan trọng
như: tắm trước khi mặt trời mọc, bôi vôi vào cổ, nhuộm màu móng tay…
với ý nghĩa tránh các loại bệnh tật, ban ngứa mà mọi người, đặc biệt là trẻ
em thường gặp vào mùa hè. Ngoài ra còn các phong tục ăn hoa quả vào
sáng sớm, ăn rượu nếp, kê, bánh đa, uống nước dừa, ăn bánh gio… gọi là
giết sâu bọ. Phần lớn các phong tục vào ngày này đều có ý nghĩa giúp mọi
người mạnh khỏe, có được cơ thể sạch sẽ (đặc biệt với trẻ em), tránh được
tà ma và các loại bệnh mùa hè. Người Việt cũng làm cỗ cúng nhưng là
cúng tổ tiên, cỗ rất đa dạng, có thể là các món ngọt, món chay như xôi, chè
đường, các loại bánh làm từ gạo hoặc cỗ mặn từ thịt lợn, gà, vịt… Nhưng
trên bàn thờ không thể thiếu các loại hoa quả của mùa hè.
96
Ngoài ra người Việt còn cho rằng vào ngày tết Đoan Ngọ là ngày mà
các loài rắn sẽ bất ngờ thay đổi trở nên sợ con người, yếu ớt và con người
dễ dàng bắt chúng “len lét như rắn mùng năm”. Có thể dựa vào đặc điểm
của loài rắn do đây là dịp giữa mùa hạ rất nắng, loài rắn rất sợ trời nắng
nóng. Tuy nhiên cũng có thể hiểu là rắn ở đây là các loại sâu bọ con trùng
và các loại có hại nói chung, do đây là thời điểm con người ta hành tiêu
diệt để làm bảo vệ cây cối, dọn dẹp nhà cửa và vườn cây nên chúng thường
bị giết vào ngàu ngày nên người Việt mới cho rằng như vậy.
3.2.2. Lễ hội – phong tục trong văn hóa Trung Quốc
Chi Tý và hiện tượng sùng bái chuột
Khác với người Việt, nhiều tộc người và vùng đất ở Trung Quốc có
hiện tượng sùng bái chuột (Nguyên nhân đã phân tích ở phần 3.1). Có thể
kể tới một số như:
Người Trung Quốc cổ tưởng tượng ra con chuột thành các loại hình
dáng kỳ lạ, ví dụ trong Sơn Hải Kinh Bác Sơn Kinh, người ta hình dung
một thú vật hình như chuột, đầu như thỏ, thân như nai, tiếng như chó, dùng
cái đuôi để bay. Người Trung Quốc cùng thờ cúng chuột với những nghi lễ
cụ thể đối với mỗi vùng miền. Thời Thanh Phương Tuấn Sư có viết trong
Tiêu Hiên Tùy Lục là tục lệ này có từ thời Hán dùng rượu và thịt kho thờ
cúng con chuột Tác giả cũng cho rằng, thực ra nó ẩn dụ một ý nghĩa kính
sợ con chuột.
Ở vùng Tây Vực có sùng bái thần chuột, đây là sản vật của Phật giáo
Ấn Độ và văn hóa Tây Vực kết hợp với nhau, tiêu chí chủ yếu là kết hợp
Tiên Vương với thần chuột. Thiên vương Vaiśrava (Đa Văn Thiên), một trong
97
bốn Thiên Vương trong phật giáo, thần này là thần cho phúc, trong tay có một
con chuột. Theo quan niệm của người Tây Vực, Thiên Vương này là tài thần, là
thần tổ tiên, thần bảo hộ. Nếu là thời chiến tranh, thần này sẽ trở thành thần hộ
quân. Việc này làm cho chuột trở thành hóa thân của thân linh với tính thần và
tính linh.
Phong tục “chuột đếm tiền” thịnh hành ở phía nam. Tức là trong đêm
khuya và bình minh, tiếng chuột kêu người ta nghĩ nó giống như tiếng đếm
tiền đồng. Đối với hiện tượng này, những người của các nơi có cảm nhận
khác. Khu vực Thường Hải cho rằng là hiện tượng xấu, không may mắn ,
mọi người thường đi thắp hương và cầu thần phật để tránh tai nạn. Tuy
nhiên, khu vực Hồ Bắc, Chiết Giang thì cho rằng đây là điềm lành, họ tin
rằng con chuột kêu trong đêm sẽ có tiền.
Dân tộc Di của Quảng Tây, có một truyền thuyết rằng vào thời cổ đại,
thiên hạ gặp một trận hạn hán, người chết rất nhiều. Trong lúc đó, loài chuột
đã đưa nhiều hạt giống và lương thực kịp thời, cứu con người ra khỏi cảnh
dấu sôi lửa bỏng. người ta tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ của con chuột, làm ngày
này là “tết chuột”, dùng thịt sống nuôi mèo, để tránh việc chuột bị bắt.
Ở Trung Quốc còn có mộ phong tục mà ở nhiều vùng có đó là lấy
vợ/lấy chồng cho chuột. Đối với thời gian của con chuột lấy vợ, các nơi có
cách nói khác nhau, phần lớn đều là trước và sau Tết âm lịch. Các vùng
Thiệu Hưng Chiết Giang, Hàng Châu, Nam Kinh, Tô Châu, Hồ Bắc,
Giang Hán, Phật Sơn Quảng Đông, Kim Môn, Phúc Kiến… thì chọn buổi
tối giao thừa. Phía Bắc, ở Sơn Tây, Sơn Đông và khu vực Thương Lạc của
Tỉnh Thiểm Tây, ngày hai mươi ba tháng chạp vừa là ngày thần lên trời,
98
vừa là ngày con chuột lấy vợ. Trong ngày con chuột lấy vợ, các nơi có thờ
cúng và quy định cấm kỵ khác nhau. Trước đây ở Thượng Hải, trong ngày
mười sau tháng riêng mọi nhà đều xào kẹo hạt mè, để chuẩn bị bánh kẹo
cưới cho con chuột. mội số nơi ở Tứ Xuyên, phải đặt một số cơm dưới
giường, cho rặng sau con chuột ăn thì có thể đảm bảo sang năm được mùa
ngũ cốc. có nơi khác phải thờ cúng muối và bánh ngọt….. đây nghĩa là
người ta bày tỏ lòng hữu nghị với chuột, nịnh bợ họ để sau này có thể ăn ở
với hòa bình, đảm bảo lương thực được mùa.
Vào ngày lấy vợ/chồng cho chuột cũng có rất nhiều các loại cấm kỵ. để
“tránh chuột”, trong ngày con chuột lấy vợ, phụ nữ một số nơi phải tránh đi cửa
chính, không trở về nhà tùy tiền. Khu vực Thiểm Tây có phong tục không thắp
đèn, không ồn ào, nếu không thì sẽ có một năm không may mắn. Có một cấm
kỵ nữa đó là để đề phòng mất đồ. Phụ nữ Thiển Bắc cất kỹ quần áo và kéo, để
phòng vợ chuột cướp dùng để của hồi môn. Người già Sơn Đông thì dăn con
cái cất giữa giày của mình, nếu không thì con chuột sẽ cướp đề dùng làm kiệu
hoa đón dâu….
Trên thực tế, ngày lấy vợ/chồng cho chuột cũng xuất phát từ tâm lý sợ
loài chuột phá hoại mùa màng, đe dọa cuộc sống của người dân nên mọi
người mới cưới vợ và cung cấp lương thực cho chúng. Người xưa nghĩ
rằng khi con chuột có gia đình, được con người tôn trọng và có đủ lương
thực thì sẽ không còn phá hoại cuộc sống của họ nữa.
Chi Mão và phong tục liên quan tới loài thỏ
Với quan niệm của người Trung Quốc, con thỏ có thể ra vào cung
trăng, đi với tiên, lên trời xuống trần, có thể nói là thân linh thật. nên ở toàn
Trung quốc thời cổ, dân tộc Hán có tập tục “treo đầu thỏ”. Theo Tuế Thời
Tạp Ký của Trần Nguyên Tịnh người thời Tống, mỗi năm mồng 1 tháng
riêng, người ta treo mặt nạ đầu thỏ hoặc mặt nạ của xà trên tấm cửa, hoặc
99
dùng đồ tre đựng nước tuyết, cùng treo với cái phướn và mặt nạ, dùng để
trấn tà miễn tai. Ngày mười lăm tháng riêng, dùng bột mì hoặc giấy làm
đèn hình thỏ, nói là “bó đèn thỏ”.
Khu vực Đông Bắc đến ngày mồng ba tháng ba thì tổ chức hoạt động
bắn thỏ gỗ, người tham dự cưỡi ngựa bắn một con thỏ gỗ, bắn chuẩn thì
thắng. người thua phải quỷ xuống kính rược cho người tháng, ý là chúc mừng;
người tháng tiếp nhận chung rược, phải uống hết rượu. đây là một hoạt động
có tính tượng trưng thịnh hành giữa dân tộc du mục, có thể chứng tỏ tài nghệ
của người thờ săn, cũng có thể cầu nguyện đi săn thành công.
Tết Trung Thu của ngày mười lăm tháng tám là tết truyền thông quan
trọng trong dan gian Trung Quốc., hình ảnh con thỏ xuất hiện ở khắp nơi.
Trên bánh trung thu thưởng có mẫu con thỏ. Khu vực Bắc Kinh và Thiên
Kinh thịnh hành “giấy ánh trăng”, cũng thiết lập “Mã Tử ánh trăng” dùng
để thờ cúng mặt trăng. Trên Giấy ánh trăng và mã tử ánh trang đều có hình
ảnh ngọc thỏ. Mã tử ánh trăng và giấy ánh trăng giống nhau, cũng nói là mã
tử mặt trăng, khu vực Bắc Kinh, Thiên Kinh, Hà Bắc Hà Nam rất phổ biến,
lớn bé hình dạng và cấu tạo đa dạng, có một số chỉ in một người có mặt
thỏ; có một số in ngọc thỏ đang giã thuốc dưới cây quý.
Hôn tục dân gian Trung Quốc có câu “蛇盘兔,必定富”“狗撵兔, 不到头”[24, tr58], nghĩa là cầm tinh con thỏ (Mão) và con rắn (Tỵ) kết hôn
thì may mắn như ý, nhưng kết hôn với người cầm tinh con chó (Tuất) thì bị
khắc tới chết. Con rắn là tượng trưng sinh sản nhiều và bảo hộ thế hệ mai
sau và con thỏ cũng là động vật sinh đẻ thịnh vượng. Thỏ và rắn – Mão và
Tỵ kết hợp với nhau thì cấu thành văn hóa vận may của dân gian. Con thỏ
có năng lực sinh sản rất mạnh, cho nên trong văn hóa truyền thống Trung
Quốc, no trở thành tượng trưng đa tử đa phúc.
Từ thời Minh, khu vực Kinh Tân xuất hiện hình tượng “ông thỏ” và
“thỏ màu”. Trong Hoa Vương Các Thặng Cảo của Kỷ Khôn thời minh có
100
đoạn: “京师中秋节多以泥砖抟兔形,衣冠据坐如人状,儿女礼而百之
”[40, tr56]. Con gái thờ cúng con thỏ là cầu nguyện con thỏ có thể mang
cho họ may mắn. Tạo hình của “ông thỏ” đa số là mô hình, vẽ hoa văn
màu, ăn vận đẹp đẽ và rực rỡ, một số mặc giáp đội mũ nồi, cắm vào cờ sau
lưng, trong tay nắm dao lớn hoặc cái chày thuốc, cưỡi ngựa, hươu và kỳ
lân, oai phong lẫm liệt tuy nhiên cũng gây cười hài hước. Ông là đối tượng
phụ nữ thờ cúng đồng thời là tạo hình trong đồ chơi của trẻ em.
Tết Đoan Ngọ
Khác với Việt Nam, theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc làm phát sinh kỷ
niệm vào ngày 5 tháng 5 gắn với câu chuyện vị quan đồng thời là nhà thơ nổi
tiếng tên Khuất Nguyên ở Trung Quốc sống vào thời Chiến Quốc.
Ngoài ra, có truyền thuyết khác về sự bắt nguồn của ngày tết Đoan
Ngọ, nhiều nguồn tin cho rằng tập tục tết Đoan Ngọ là bắt nguồn từ Hạ Trí
trong thời cổ, có người thì cho rằng, đây là sự tôn sùng vật tổ của người
dân vùng sông Trường Giang.
Vào ngày tết Đoạn Ngọ, người dân nhiều nơi ở Trung Quốc thường tổ
chức các hoạt động trên sông như đua thuyền rồng, cúng bên bờ sông…
Đặc biệt là nhiều vùng người dân làm các loại bánh gạo để vào trong thân
cây tre sau đó buộc dây chỉ (có 5 màu) bên ngoài và thả xuống sông. Cách
làm này có hai ý nghĩa: một là họ cúng ông Khuất Nguyên; hai là một số
vùng cho rằng họ cho cá ăn, cá ăn no rồi sẽ không ăn ông Khuất Nguyên.
101
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng 12 con giáp trong văn hóa
Trung Quốc và Việt Nam cũng có nhiều điểm khác biệt. Đó là những khác
biệt trong chính quan niệm các con giáp. Tương đồng trong khái niệm và
quan hệ 12 con giáp ăn hóa Việt Nam và Trung Quốc, chúng ta thấy sự khác
biệt ở địa chi Sửu và Mão với sinh tiếu là hai loài vật khác nhau. Cùng có
những tính chất của các địa chi nhưng người Việt Nam và người Trung Quốc
lại thấy những phẩm chất và đặc điểm của con giáp khác nhau rất nhiều. Sự
khác biệt còn được thể hiện qua quan niệm và mức độ khác nhau sự ảnh hưởng
của 12 con giáp đối với đời sống văn hóa và đời sống cá nhân của con người.
Đối với văn hóa truyền thống nói chung, ở Việt Nam và Trung Quốc cũng có
nhiều phong tục và lễ hội liên quan đến 12 con giáp khác nhau hoặc cùng có
một tên gọi nhưng cách làm lại khác nhau.
Sự khác biệt này không phải là hiện tượng lạ do đặc điểm phát triển
khác nhau của hai đất nước. Thậm chí chỉ ở những vùng nhỏ cũng có
những phong tục khác nhau. Chính điều này tạo nên sự đa dạng văn hóa
giữa các tộc người, các vùng miền và các quốc gia.
102
KẾT LUẬN
Văn hoá Trung Hoa là một nền văn hoá lâu đời, mênh mông với ít
nhất 5 nền văn hoá khác nhau. Đó là nền văn hoá vùng sa mạc Tây Bắc
mang tính chất du mục; nền văn hoá Tây Nam, Tây Tạng mang nhiều ảnh
hưởng của văn hoá Ấn; nền văn hoá Hoa Nam, tuy đã Hán hoá nhưng nó
vẫn mang trong mình dáng dấp của văn hoá Đông Nam Á, đồng thời vùng
ven biển cũng chịu ảnh hưởng lớn của văn hoá phương Tây. Tuy hỗn dung
trong mình nhiều nền văn hoá khác nhau, nhưng văn hoá Trung Hoa vẫn
tồn tại mà đại biểu cho nó chính là nền văn minh lưu vực sông Hoàng Hà
của cộng đồng người Hoa Hạ kèm theo đó là những giá trị văn hoá rực rỡ
của nó.
Trung Hoa chính là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân
loại và là trung tâm của văn hoá Đông phương. Đó là một nền văn hoá mở
bắt đầu từ sự quan sát, tư duy, chiêm nghiệm về thế giới tự nhiên của con
người để từng bước hình thành và hoàn thiện thế giới quan với những kết
quả là các học thuyết lớn của loài người như ngũ hành, âm dương, thiên
can địa chi,…
Hệ thống 12 con giáp là kết quả, là thành tựu, là dấu ấn của nền văn
minh Hoàng Hà nói riêng và cũng là bước phát triển mới trong tư duy của
người Trung Quốc trong quá trình nhận thức và cải tạo thiên nhiên, chinh
phục thiên nhiên.
Với lợi thế về địa mạo và con người, văn hoá Trung Hoa, trong lịch
sử bằng nhiều cách, nền văn minh Hoàng Hà đã tạo sự ảnh hưởng mạnh mẽ
đến các nước lân cận trong khu vực, nhất là Việt Nam.
103
Trước khi có sự tác động của văn hoá Hán, người Việc cũng đã có
một nền văn hoá dân gian mang đậm tính truyền thống của riêng mình. Trong
quá trình giao lưu, tiếp biến và hỗn dung văn hoá với cộng đồng Hoa Hạ thì
khuynh hướng hỗn dung và tiếp biến của nền văn minh lúa nước châu thổ sông
Hồng luôn luôn là Việt hoá, trong đó có hệ thống 12 con giáp và những vấn đề
liên quan. Đó như là một cách thể hiện sự uyển chuyển trong việc chọn lựa
những yếu tố ngoại lai cần và đủ để kết tinh vào văn hoá nhận thức, văn hoá sản
xuất và văn hoá tinh thần của riêng người Việt.
Văn hoá Trung Quốc và văn hoá Việt Nam có sự giao lưu và ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nhau, trong đó có rất nhiều những giá trị tốt đẹp được
tiếp biến, lưu giữ, ứng dụng và phát triển một cách mạnh mẽ cho đến tận
thời điểm hiện tại. Đó như là một chuẩn mực trong sự giao lưu và tiếp xúc
văn hoá, bởi đây chính là một quy luật và tồn tại của mọi nền văn hoá, văn
minh nhân loại. Chỉ có quá trình duy trì, ảnh hưởng, giao lưu, chắt lọc, tiếp
biến và ứng dụng thì các giá trị văn hoá truyền thống mới không bị mai
một; và điều này đã được dân tộc Hán và dân tộc Việt làm rất tốt để bảo
lưu cũng như giữ gìn và phát triển nền văn hoá của riêng mình.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Di Kinh(2017),Nxb Li Giang
2. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Hồng Đức,
2016.
3. Đào Duy Anh (1931), Từ điển Hán Việt. quyển thượng, Nxb Minh
Tân, Paris.
4. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương,
Hà Nội.
5. Đào Duy Anh (1946), Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Nxb Hàn Thuyên,
Hà Nội.
6. Đào Duy Anh (1954), Vấn đề hình thành của dân tộc Việt nam, Nxb
Xây dựng, Hà Nội.
7. Đoàn Trung Còn, Tam Thiên Tự, NXB Thời Đại 2015
8. Đới Hưng Hòa, Dương Mẫn, “Nguồn gốc và ứng dụng của thiên can
địa chi” Nxb khí tượng, năm2006
9. Đinh Văn Tuấn, Biểu tượng khởi thủy của Địa Chi Mão là tên gọi con
thỏ hay tên gọi con mèo?, Tạp chí Ngôn ngữ số 3/2012.
10. Hà Hưng Lượng, “Nguồn gốc văn hóa nhân loại và văn hóa tô-têm”,
Nxb văn liên Trung Quốc, Bắc Kinh, năm 1991
11. Hà Hưng Lượng, “Tô-tem và văn hóa Trung Quốc”, Nxb nhân dân
Giang Tô, năm 2007
12. Hội biên soạn toàn thư đại bách khoa Trung Quốc. “đại bách khoa
Trung Quốc”, Nxb toàn thư đại bách khoa Trung Quốc, năm 2009
13. Hoàng Kiến Vinh, “ Thử luận nền tảng triết học của văn hóa con
giáp”, Học báo viện sĩ Hải Nam, năm 1998
105
14. Mặc Minh Anh, “Tam thông hội mệnh”, Văn uyên các, năm 2000
15. Ngô Tất Tố (dịch và chú giải), Kinh dịch (trọn bộ), NXB Văn hoá
thông tin, 2014.
16. Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập (1970), Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb
Bộ Giáo dục.
17. Nhất Thanh, Đất lề quê thói, NXB Hồng Đức, 2016.
18. Nhóm Trí thức Việt, Quan hệ giao bang và những sứ thần tiêu biểu
trong lịch sử Việt Nam, NXB Thời đại, 2014.
19. Nguyễn Tài Đông (chủ biên), Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, NXB Đại học Sư phạm, 2016.
20. Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, NXB Hội nhà văn, 2017.
21. Lí Linh, “Tổng quát phương thuật Trung Quốc”, Nxb nhân dân Trung
Quốc, năm 1993
22. Lưu Lạc Hiền, “Nghiên cứu nhật thư tre thời Tần Thụy Hổ Địa” Nxb
Văn tân, Đài Loan, năm 1994
23. Tào Đại Vi, Tôn Yến Kinh, Lịch sử Trung Quốc, NXB Truyền bá Ngũ
Châu – NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2012.
24. Thái Anh Kiệt, “Thuyết minh văn hóa của nười hai địa chi”, Học báo
đại học dương châu, năm 2004
25. Thái Tiên Kim, “ „ Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên nghĩa”, Nxb
đông nam, năm 2001
26. Tiêu Cát, “Toàn giải ngũ hành đại nghĩa”, Nxb khí tượng, năm 2015
27. Toan Ánh (1963), Nếp cũ con người Việt Nam, 5 tập.
28. Toan Ánh (1974), Hội hè, đình đám, quyển 2.
29. Toan Ánh (1991), Phong tục Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
106
30. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 2009
31. Trần Lê Bảo, Giáo trình Nhập môn khu vực học và Việt Nam học,
NXB Đại học Sư phạm, 2013.
32. Trần Lê Bảo, Giáo trình Văn hoá phương Đông, NXB Đại học Sư
phạm, 2012.
33. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 2009.
34. Trần Tuân Quỳ “Thiên văn sử Trung Quốc” Nxb nhân dân Thượng
Hải năm 1980
35. Trần Quốc Vượng, Biểu tượng ngựa và năm con ngựa, Tạp chí khoa
học xã hội năm 1990
36. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 2009.
37. Trần Quốc Vương, Biểu tượng Ngựa và năm con ngựa, Văn hóa Việt
Nam tìm tòi và suy ngẫm , NXB Văn học, Hà Nội 2003.
38. Trần Quốc Vượng, Lịch ta và nền văn hoá lúa nước cổ truyền, Tạp chí
khoa học năm 1987
39. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn
học, Hà Nội 2003
40. Triệu Bác Đào, “ Mười hai con giáp dân tộc Trung Hoa”, Nxb khí
tượng, năm 2012
41. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
42. Trần Lâm Biền, Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật xuất bản.
43. Trương Bồi Du, Trần Mỹ Đông, Bạc Thụ Nhân, Hồ Thiết Zhu “Lịch
Pháp cổ đại Trung Quốc”, Nxb kỹ thuột khoa học Trung Quốc Bắc
Kinh, năm 2008
107
44. Trương Nham, “Sơn thủy kinh và xã hội cổ đại”, Thư xã Tề Lỗ, năm
2004
45. Phan Huy Lê (1993), Về bản chất nền văn hóa truyền thống Việt Nam,
Hà Nội.
46. Phan Huy Lê (1997), Tìm về cội nguồn Tập I, Nxb Thế giới, Hà Nội.
47. Phan Cẩm Thượng, Tập tục đời người, NXB Hội nhà văn, 2017.
48. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Văn học, 2011.
49. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn học 2015.
50. Daniel K. Gardner, Dẫn luẫn về Nho giáo, NXB Hồng Đức, 2016.
51. Kang Sung Ryung, Lịch sử Triết học phương Đông viết cho thanh
thiếu niên, NXB Thế giới, 2016.
52. Tim Bayne, Dẫn luận về tư duy, NXB Hồng Đức, 2016
53. http://kbchn.net/giao-su-tran-quoc-vuong-noi-ve-con-trau-va-nen-van-
hoa-viet-nam-89373.html
54. http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNa
m/ThongTinTongHop/dialy
55. https://loingotan.violet.vn/entry/nam-mao-tet-con-meo-cua-viet-nam-
va-tet-con-tho-cua-trung-quoc-4954409.html
56. ttp://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/1318-nam-mao-va-con-
meo-qua-tho-van.aspx
57. https://baomoi.com/nguon-goc-y-nghia-tet-doan-ngo-cua-nguoi-
viet/c/26561119.epi