ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------------------

WANG YI QIAN

(VƢƠNG DI XUYẾN)

TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Việt Nam Học

Hà Nội – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

-----------------------------------------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

WANG YI QIAN

(VƢƠNG DI XUYẾN)

TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học

Mã số: 60220113

Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Minh Tân

Hà Nội – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các công trình

nghiên cứu khác có liên quan, được trích dẫn trong công trình đều được chú

thích rõ ràng ở phần tài liệu tham khảo. Mọi kiến giải, kết luận đều là kết

quả nghiên cứu của bản thân tôi, không sao chép bất kỳ tài liệu nào. Nếu có

bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2019

Người viết

WANG YIQIAN

LỜI CẢM ƠN

Trong hai năm học tập và thực hiện luận văn tại khoa Việt Nam học

của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi đã nhận được sự

giúp đỡ của các thầy cô cũng như các bạn trong khoa. Tại đây, tôi xin bày

tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô kính mến và các bạn thân mến trong khoa

Việt Nam học. Đồng thời, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới TS.Mai

Minh Tân, thầy đã nhận giúp đỡ tôi một cách nhiệt tình. Là một học viên

nước ngoài, thực hiện một luận văn bằng tiếng Việt thực sự rất khó đối với

tôi, thầy Tân đã hướng dẫn tôi và cho tôi rất nhiều ý kiến quý báu trong

suốt quá trình làm luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn mọi thành viên gia

đình của tôi đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong khi tôi sinh sống và học tập tại

Việt Nam.

Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người đã giúp đỡ tôi trong hai

năm qua.

Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2019

Người viết

WANG YIQIAN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3

1. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài ...................................... 3

2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................... 6

3. Mục đích nghiên cứu và giới hạn đề tài nghiên cứu ................................ 8

4. Phương pháp luận nghiên cứu và cơ sở tư liệu ...................................... 11

5. Những đóng góp cơ bản của luận văn .................................................... 14

6. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 14

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ 12 CON GIÁP .................................... 16

1.1. Khái quát cơ tầng của 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam ... 16

1.1.1. Trung Quốc ....................................................................................... 16

1.1.2. Việt Nam ............................................................................................ 21

1.2 . Nguồn gốc sự hình thành thiên can địa chi ..................................... 23

1.2.1. Ngũ hành ........................................................................................... 23

1.2.2. Thiên can .......................................................................................... 25

1.2.3. Địa chi ............................................................................................... 25

1.2.4. Mười hai con giáp ............................................................................ 27

1.3 Mƣời hai con giáp nhìn từ sinh thái học ........................................... 31

1.4. Mƣời hai con giáp nhìn từ đời sống tâm linh cổ đại Đông Á ......... 38

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ........................................................................... 59

CHƢƠNG 2: TƢƠNG ĐỒNG TRONG QUAN NIỆM TRONG 12

CON GIÁP Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC .................................... 60

2.1. Tín ngƣỡng cộng đồng ....................................................................... 60

2.1.1. Quan niệm về sự ra đời và nguồn gốc 12 con giáp .......................... 61

2.1.2. Khái niệm và quan hệ 12 con giáp .................................................... 62

2.1.3. Sự ảnh hưởng và ứng dụng 12 con giáp ........................................... 66

1

2.2. Lễ hội – văn hoá dân gian .................................................................. 71

2.2.1. Sùng bái linh vật ............................................................................... 71

2.2.2. Lễ hội truyền thống .......................................................................... 72

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ........................................................................... 75

CHƢƠNG 3: KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP Ở

VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC ............................................................. 76

3.1. Tín ngƣỡng cộng đồng ....................................................................... 76

3.1.1. Khác biệt về quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và Trung Quốc . 76

3.1.2. Dị biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với con

người ................................................................................................. 82

3.1.3. Khác biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với đời

sống văn hóa ................................................................................................ 89

3.2. Lễ hội – văn hoá dân gian .................................................................. 94

3.2.1. Lễ hội, phong tục trong văn hóa Việt Nam ....................................... 94

3.2.2. Lễ hội – phong tục trong văn hóa Trung Quốc ................................. 97

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ......................................................................... 102

KẾT LUẬN .............................................................................................. 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 105

2

MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài

1.1 . Ý nghĩa khoa học

Sau một tiến trình dài của lịch sử đã có hàng loạt các sự kiện lớn mang

tính chất vĩ mô, đánh dấu những cột mốc quan trọng trong lịch sử riêng của hai

quốc gia Trung Quốc và Việt Nam. Đó là các cuộc chiến như chiến tranh Bắc

phạt (1926 – 1928), chiến tranh Liên minh du kích chống Nhật ở Đông Bắc

(1932 – 1945), chiến tranh Trung – Nhật ( 1937 -1945), chiến tranh Trung

Quốc – Triều Tiên (1950 – 1953) ở Trung Quốc. Còn tại Việt Nam cũng có

kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954), kháng chiến chống đế quốc

Mỹ (1954 – 1975),…

Với một thời kỳ dài, hai dân tộc Trung Hoa và dân tộc Việt Nam đều

dồn hết sức và hết tâm cho các cuộc chiến tranh. Kết quả cuối cùng là đã

mang lại sự độc lập, hoà bình cho đất nước mình, đó là bước đệm để cả hai

quốc gia cùng bước vào thời kỳ phát triển mới.

Lịch sử của chiến tranh đã khép lại, mở màn cho sự phát triển chung

của thế giới chính là xu hướng đối thoại và hội nhập; Việt Nam và Trung

Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Tiêu biểu như cả Trung Quốc và Việt

Nam đều tham gia vào một số hiệp định lớn của châu lục cũng như thế giới

như Hiệp định thương mại tự do FTA, hiệp định thương mại tự do ASEAN

– Trung Quốc, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực PCEP, hiệp

định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP mà tiền

thân của nó là hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TTP,…

3

Xu hướng đối thoại và hội nhập, hội nhập và phát triển giữa các quốc

gia là những xu hướng không thể phủ nhận được trong sự tiến bộ của nhân

loại. Tuy

nhiên, đi cùng với các xu hướng đó chính là sự tồn tại và luôn song

hành một số biểu thị của một số điều mang tính bảo hộ dân tộc, quay trở lại

với những giá trị cổ xưa, mang tính truyền thống.

Mặc dù hội nhập và phát triển là xu hướng chung của thế giới, nhưng mỗi

một quốc gia muốn hội nhập đều phải có nền tảng, những cơ sở và những giá

trị mang tính chất tiêu biểu của riêng quốc gia mình. Cũng như việc các quốc

gia muốn hội nhập đều cần phải có bản sắc, có những tính đặc thù riêng của

quốc gia mình; mang cái riêng để đóng góp vào cái chung; hoà nhập mà không

hoà tan. Nhu cầu của mỗi đất nước trong thời kỳ phát triển là đều phải hội nhập

và phải hội nhập bằng cái bản sắc, cái nét riêng của chính quốc gia mình, điều

đó đã góp phần tạo nên tính cấp thiết cho đề tài.

Sau một thời kỳ dài chạy đua cho sự phát triển của kinh tế, vật chất thì

đến hiện tại, xu hướng chung của thế giới đều quay trở lại để tìm lại các giá

trị tinh thần. Trong các giá trị tinh thần, giá trị lớn nhất là các giá trị về

chuẩn mực, về tâm linh; các tiêu chuẩn này đều đã và đang được quay lại,

tìm lại. Điều đó đồng nghĩa với việc xu hướng chung của nhân loại bên

cạnh sự phát triển về kinh tế chính là quay trở lại những yếu tố mang tính

truyền thống nhằm tìm lại bản sắc của mình, để mang cái bản sắc đó ra

trường quốc tế mà hội nhập. Vì thế, hầu hết các quốc gia đang phát triển,

trong đó có cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nhu cầu quay trở lại, tìm

các giá trị và nội lực truyền thống đã bị đánh rơi và lãng quên.

4

Việc quay trở lại và tìm lại các giá trị tinh thần đã bị đánh mất để cho

giá trị tinh thần ít nhất bằng giá trị vật chất hoặc cao hơn giá trị vật chất.

Tinh thần luôn luôn là kim chỉ nam để dẫn dắt sự sáng tạo; khi tạo ra các ý

tưởng trong giá trị tinh thần thì những giá trị thuộc về chuẩn mực và tâm

linh sẽ được phục hồi và trỗi dậy.

Khu vực Đông Á, đặc biệt là khu vực Đông Á, từ cổ xưa, con người

sống tại khu vực này đã có niềm tin rất lớn vào các yếu tố tâm linh, trong

đó có giá trị của 12 con giáp. Sự phát triển và ứng dụng các giá trị của 12

con giáp vào trong tư duy cũng như lối sống của cư dân khu vực Đông Bắc

Á, đặc biệt là cư dân Trung Quốc và Việt Nam là rất lớn, nó thâm nhập vào

trong từng “ngõ ngách” của cuộc sống người dân hai quốc gia. Vì vậy sự

phục hồi và giải mã các yếu tố, các vấn đề của 12 con giáp là một vấn đề

quan trọng trong việc tiếp cận và tìm tòi các giá trị truyền thống mà nhân

dân Trung Quốc cũng như nhân dân Việt Nam ứng dụng từ ngàn đời nay,

để thấy rằng, các giá trị truyền thống sẽ không bị mất đi nếu biết cách tận

dụng và ứng dụng nó vào trong đời sống.

1.2 . Giá trị thực tiễn

Trong lan toả văn hoá, theo lý thuyết, trung tâm văn hoá và trung tâm

lan toả văn hoá ở châu Á có hai trung tâm lớn nằm ở Trung Quốc và Ấn

Độ. Trong sự lan toả này, cái mà cư dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam

ứng dụng khá nhiều là phong tục tập quán, chuẩn mực tư duy, các thang giá

trị của hệ thống ngũ hành, âm dương, bát quái, thiên chi, địa can, nông

lịch…và tất cả các thang giá trị này đều nằm trong vấn đề của 12 con giáp.

Khi gần như tất cả các giá trị cơ bản và cốt lõi của một nền văn minh

lớn như Trung Hoa đều có sự xuất hiện và tồn tại của các yếu tố 12 con

5

giáp thì việc đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sẽ khẳng định ý nghĩa nội hàm

cũng như các giá trị cốt lõi của văn hoá truyền thống Trung Hoa.

Văn hoá Trung Hoa là một nền văn hoá lớn của nhân loại, có sức lan

toả mạnh mẽ trong khu vực, đặc biệt là đất nước láng giềng Việt Nam. Vì

vậy sự ảnh hưởng cũng như sự tiếp biến các giá trị văn hoá, đặc biệt là các

giá trị văn hoá truyền thống là một điều tất yếu diễn ra trong quá trình lịch

sử lâu dài.

Với việc tìm hiểu những yếu tố truyền thống, tâm linh như là việc

nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới 12 con giáp, đặc biệt là những điểm

tương đồng cũng như dị biệt của nó trong quá trình ứng dụng vào đời sống

thường nhật của Trung Quốc và Việt Nam có thể thấy được con đường đi

và sự chuyển giao giá trị 12 con giáp từ Trung Quốc sang Việt Nam. Khi

sự chuyển giao giá trị được tìm hiểu và bộc lộ thì các thành tố liên quan tới

các giá trị truyền thống cũng sẽ được tiếp cận một cách cụ thể.

Khi các giá trị trong các chuẩn mực của các yếu tố trong văn hoá tâm

linh được so sánh thì những sự lệch pha giữa đời sống vật chất cũng như

đời sống tinh thần của cư dân Trung Quốc và Việt Nam nói riêng và văn

hoá Trung Hoa – Việt Nam nói chung cũng được làm rõ. Qua đó có thể góp

phần làm rõ thêm mối quan hệ sâu sắc về văn hoá giữa hai quốc gia trong

lịch sử cũng như hiện tại.

2. Lịch sử nghiên cứu

Nguồn gốc về sự ra đời của 12 con giáp vẫn chưa có cách nói thống

nhất. Tuy nhiên ngay từ buổi bình minh lịch sử Trung Hoa, dưới nhiều hình

6

thức và cách thức biểu hiện khác nhau, người Hoa Hạ đã có những mối

quan tâm nhất định đến 12 con giáp.

Giai đoạn Hạ Thương , tên của các loài động vật trong 12 con giáp đã

được ghi chép tỉ mỉ trong văn giáp cốt và nhiều văn vật khác. Đây cũng là

giai đoạn hình thành hệ thống lịch can chi.

Vào giai đoạn nhà Chu, Kinh Thi đã xuất hiện những ghi chép, nghiên

cứu đến 12 con giáp qua các bài thơ.

Tuy nhiên, đến giai đoạn nhà Tần - Hán, 12 con giáp và can chi đã

được nghiên cứu và ghi chép một cách có hệ thống qua sách tre. Đặc biệt,

trong các bộ sách tre được tìm thấy có bộ “Nhật Thư” và “Luận Hoàng” là

tài liệu nghiên cứu sớm nhất trong việc tổng hợp các mối quan hệ của 12

con giáp khi kết hợp với các yếu tố khác.

Từ giai đoạn Nguỵ Tấn và Nam Bắc Triều đến thời dân quốc, các

sách sử đã có những ghi chép và nghiên cứu về 12 con giáp.

Năm 1998, Hoàng Kiến Vinh trong “Thử luận nền tảng triết học của

văn hoá 12 con giáp” đã có những tìm luận cứ trong việc tìm hiểu cơ tầng

của 12 con giáp dưới góc độ tư tưởng và triết học.

Năm 2001, Thái Tiên Kim có nghiên cứu về ý nghĩa nhất định của địa

chi trong “Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên nghĩa”.

Năm 2004, trong “Thuyết minh văn hoá của 12 địa chi”, học giả Thái

Anh Kiệt đã nghiên cứu về 12 con giáp dưới góc độ mô tả địa chi trong văn

hoá học.

Ở Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống

về 12 con giáp. Hệ thống 12 con giáp chỉ xuất hiện trong các khảo cứu

7

nhằm mục đích đối sánh văn hoá Trung Hoa và văn hoá Việt Nam hoặc

trong các giáo trình cơ bản, nhập môn về văn hoá phương Đông như cuốn

“Cơ sở văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, “Giáo trình văn hoá

phương Đông” của Trần Lê Bảo.

3. Mục đích nghiên cứu và giới hạn đề tài nghiên cứu

3.1 . Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12

con giáp giữa Việt Nam và Trung Quốc” nhằm quay trở lại và khẳng định

những giá trị thực sự trong văn hoá truyền thống Trung Hoa, từ đó có thể

thấy được con đường đi, sự chuyển giao giá trị cũng như cách tiếp cận và

sự tiếp biến khi hệ thống 12 con giáp “sống” ở Việt Nam.

Theo dòng lịch sử, với hệ thống 12 con giáp, khi đi vào Việt Nam,

thang giá trị của nó đã được cải biến để phù hợp với văn hoá Việt và lối

sống cũng như con người Việt. Với đề tài nghiên cứu về sự tương đồng

cũng như di biệt giữa 12 con giáp ở Trung Quốc và ở Việt Nam có thể chỉ

ra được dưới thang văn hoá của người Việt, người Việt đã thay đổi đối

tượng tiếp nhận là hệ thống 12 con giáp như thế nào, kết quả là còn bảo lưu

được những yếu tố gì và những yếu tố gì được chuyển hoá,…

Với một yếu tố văn hoá ngoại lai nói chung và hệ thống 12 con giáp

nói riêng, khi tiếp nhận và chuyển biến, người Việt đã có một quá trình

chuyển hoá trong tư duy cũng như nhận thức nên việc tìm hiểu và nghiên

cứu về vấn đề 12 con giáp có thể đi sâu hơn vào các yếu tố mang tính chất

bản sắc của cả hai quốc gia là Trung Quốc và Việt Nam. Từ một vấn đề của

Trung Hoa, khi đưa sang Việt Nam có thể nhận thức được sự cải biên cũng

8

như quá trình thay đổi và tính ích dụng của nó trong đời sống người Việt

nói chung và đời sống văn hoá tâm linh nói riêng; qua đó có thể so sánh

được các giá trị, sự giống và khác nhau, cách tiếp cận và sự lệch pha trong

hệ thống 12 con giáp của hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam.

Với đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp

giữa Việt Nam và Trung Quốc” giúp thể hiện sức sống mãnh liệt của các

giá trị văn hoá truyền thống Đông Á nói chung và truyền thống Trung Hoa

– Việt Nam nói riêng, đặc biệt là những giá trị cố hữu, bất biến ở những

vấn đề tồn tại xung quanh hệ thống 12 con giáp. Khi nhận thức và tìm hiểu

được các vấn đề cốt lõi và cơ bản xung quanh hệ thống này có thể đối sánh

và nhìn nhận tầm quan trọng của việc ứng dụng hệ thống 12 con giáp trong

cuộc sống thường nhật của người dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam từ

ngàn đời nay.

Hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam – hai truyền thống dân tộc

trong quá khứ và hiện tại đã có những giao lưu văn hoá, quan hệ quốc tế rất

sâu sắc. Ngoài quan hệ chính trị thì không thể phủ định được quan hệ dân

tộc của hai cộng đồng dân tộc giữa người Hoa và người Việt là vô cùng

mật thiết. Tuy có những sóng gió trong lịch sử nhưng đó là sóng gió chính

trị, không phải là sóng gió do dân tộc. Vì vậy với việc tìm hiểu đề tài về sự

tương đồng cũng như dị biệt của hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và

Việt Nam góp phần làm tăng thêm mối quan hệ truyền thống giữa hai dân

tộc, nhất là hiện nay khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản

Việt Nam đã có những tiếp cận rất tốt, ngoại trừ những mâu thuẫn mang

tính thời cuộc.

9

3.2. Giới hạn đề tài nghiên cứu

Mọi đối tượng văn hoá, yếu tố văn hoá nếu muốn tồn tại và phát triển

đều cần phải có mối liên hệ, sự tương quan trong các yếu tố văn hoá khác,

có sự liên quan và tương tác lẫn nhau. Vì vậy khi muốn đi sâu vào tìm hiểu

và nghiên cứu một đối tượng văn hoá cụ thể đều phải đặt nó trong một hệ

thống các mối tương quan, sự liên hệ nhất định. Nghiên cứu về vấn đề 12

con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.

Sự xuất hiện, tồn tại và phát huy các giá trị nền tảng cũng như những

giá trị lan toả của 12 con giáp đều phải dựa vào một hệ thống tổng thể, các

mối liên hệ mật thiết từ tự nhiên, địa lý, lịch sử khu vực đến tư duy, triết

học, các học thuyết âm dương, phương vị, phong thuỷ, phong tục, tập

quán,….của người Đông Á nói chung và cụ thể hơn là người Trung Quốc

và Việt Nam.

Mọi vấn đề của văn hoá khi cần xuất hiện và tồn tại đều có nguồn gốc

về sự hình thành và phát triển của riêng nó. Vấn đề về 12 con giáp cũng

vậy. Sự ra đời của 12 con giáp đều bắt nguồn từ địa lý, điều kiện tự

nhiên của Trung Quốc và sự phát triển của nó song song với sự phát

triển của nền văn minh Hoa Hạ và diễn trình lịch sử của cộng đồng

người Hoa. Vì vậy khi tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của hệ

thống 12 con giáp chính là tìm hiểu về địa lý, tự nhiên cũng như tiến

trình lịch sử của dân tộc Trung Hoa.

Một yếu tố văn hoá khi nó phát triển một cách mạnh mẽ là khi nó

được tồn tại trong các mối tương quan của một hệ thống nhất định, 12 con

giáp cũng vậy. Song hành với sự phát triển của nó chính là các yếu tố, các

10

học thuyết về ngũ hành, âm dương, phương vị,…giúp nó củng cố và thâm

nhập một cách có hệ thống và ảnh hưởng sâu sắc vào tư duy cũng như tư

tưởng của người dân. Nói cách khác, khi tìm hiểu về vấn đề 12 con giáp

cũng chính là tìm hiểu về hệ thống liên kết của nó là các học thuyết cổ đại

cũng như tư duy của người phương Đông.

Tất cả các nền văn hoá khi phát triển đủ rực rỡ sẽ có sức lan toả sang

các nền văn hoá khác. Với cư dân lúa nước người Việt, trong diễn trình lịch

sử, đã tiếp nhận và tiếp biến một cách chọn lọc các yếu tố văn hoá của

người Hoa, trong đó có hệ thống 12 con giáp. Trong quá trình đón nhận,

người Việt đã dựa vào văn hoá truyền thống của mình là nền tảng để đón

nhận những cái phù hợp và thay đổi những cái chưa phù hợp của hệ thống

12 con giáp đối với văn hoá Việt. Vì vậy, khi nghiên cứu về sự giống và

khác nhau của hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam đều phải

tìm hiểu về văn hoá người Việt nói chung, mà cụ thể hơn chính là phong

tục, tập quán, lễ hội, tư duy của người Việt.

Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về hệ thống 12 con giáp cũng chính

là nghiên cứu về cả một hệ thống những vấn đề tồn tại bao quanh nó trong

suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai của hai quốc gia

Trung Quốc và Việt Nam.

4. Phƣơng pháp luận nghiên cứu và cơ sở tƣ liệu

4.1 . Phương pháp luận nghiên cứu

Nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng

hợp liên ngành để có thể dùng nhiều tiêu chuẩn của các ngành khoa học

như khu vực học, địa lý, văn hóa, lịch sử, khảo cổ học, folklore,...Đây là

11

phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong luận văn. Với phương pháp

này, chúng tôi có thể tiếp cận các vấn đề ở nhiều phương diện khác nhau

một cách chân thực và khoa học nhất. Bởi vì đây là một vấn đề vừa mang

tính thực tiễn, vừa mang tính lý thuyết, vừa mang tính lịch sử, vừa mang

tính hiện đại và vừa mang tính tương lai. Chính vì vậy nên một phương

pháp nghiên cứu sẽ không đáp ứng được. Đó là lí do khi nghiên cứu vấn đề

này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng hợp liên ngành xuyên suốt

luận văn.

Ngoài phương pháp chính là tổng hợp liên nghành, chúng tôi còn sử

dụng phương pháp như nghiên cứu khu vực học vì đối tượng nghiên cứu

của đề tài là hệ thống 12 con giáp trong khu vực Trung Quốc và Việt Nam.

Phương pháp khảo cứu lịch sử và so sánh lịch đại cũng được sử dụng

để thấy được sự thay đổi, chuyển di của hệ thống 12 con giáp ở Trung

Quốc sang Việt Nam. Bởi vì đây là một vấn đề mang tính trừu tượng, nó

chỉ có thể hiện diện và xuất hiện khi được đưa vào ứng dụng. Qua đó có thể

thấy được sự thay đổi trong quá trình chuyển di một yếu tố văn hoá giữa

hai quốc gia.

Ngoài các thao tác phục vụ nghiên cứu trên, chúng tôi còn sử dụng

phương pháp thống kê, liệt kê làm cơ sở tư liệu để phân tích và so sánh, để

từ đó có cái nhìn tổng quan hơn về sự giống nhau và khác nhau về hệ thống

12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam.

4.2 . Cơ sở tư liệu

Nguồn tài liệu mang tính lý thuyết được sử dụng xuyên suốt trong

luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu đã có về tính lý thuyết văn hóa, văn học,

12

lịch sử,... Có thể nói với đề tài hệ thống 12 con giáp hầu như không được

đề cập đến trong bất kỳ một cuốn sử chính thức của một triều đại nhất định

nào ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, vào giai đoạn nhà Tần –

Hán đã có một số ghi chép về vấn đề 12 con giáp và can chi qua sách tre,

đặc biệt là trong bộ “Nhật Thư” và “ Luận Hoàng”.

Bên cạnh một số ít bộ sách chính sử còn được lưu giữ lại còn có một

nguồn tài liệu hiếm hoi và hết sức quý giá là các công trình khảo cứu hoặc

các ghi chép của một số học giả Trung Quốc về đề tài và những vấn đề liên

quan đến 12 con giáp như cuốn “Thử luận nền tảng triết học của văn hoá 12

con giáp” của Hoàng Kiến Vinh hay như vấn đề địa chi cũng được học giả

Thái Tiên Kim đề cập đến trong cuốn “Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên

nghĩa”, hoặc Nam Hoài Cẩn cũng có đề cập đến một số vấn đề liên quan

đến 12 con giáp trong “Kinh dịch tạp thuyết”. Tuy mức độ thông tin xuất

hiện chưa được trọn vẹn, song người nghiên cứu vẫn có thể tìm chọn và

chắt lọc các tri thức để phục vụ cho đề tài.

Nguồn hệ thống tư liệu mang tính thực tiễn như quan sát, phỏng vấn

các cách ứng dụng và vận hành hệ thống 12 con giáp trong cuộc sống của

người dân Việt Nam và Trung Hoa ở một số khu vực nhất định của hai

quốc gia cũng được sử dụng trong luận văn.

Ngoài ra còn có nguồn tư liệu dã sử bao gồm các câu thơ hay truyền

thuyết dân gian, câu truyện cổ tích về sự ra đời của 12 con giáp. Cũng có

một số tài liệu truyền miệng phản ánh tương đối khách quan về ước vọng

và niềm tin của người dân về 12 con vật được hệ thống hoá thành 12 con

giáp đưa vào ứng dụng trong cuộc sống. Nhưng đặc điểm chung của những

13

nguồn tư liệu này đều mang tính ước lệ và giải thích theo cảm tính. Tuy

nhiên, nếu có sự so sánh, đối chiếu với các tư liệu loại khác thì nguồn tư

liệu truyền miệng cũng có thể cung cấp một nguồn thông tin dồi dào, phong

phú và sinh động để có thể hiểu hơn về đời sống vật chất cũng như đời

sống tinh thần của người dân Trung Quốc và Việt Nam thông qua hình

tượng 12 con giáp.

5. Những đóng góp cơ bản của luận văn

Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về đề tài 12 con

giáp ở Trung Quốc và Việt Nam. Qua đó, chúng tôi đã tổng hợp, hệ thống

hoá được các kết quả của các học giả đi trước và đề ra được một số bổ

khuyết, bởi những nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung tìm hiểu dưới

một góc độ nhất định và chưa đưa các lý thuyết này ứng dụng vào thực tiễn

để nghiên cứu. Với đề tài này, sẽ là một đề tài có hệ thống trong việc tìm

hiểu và so sánh sự tương đồng và dị biệt trong hệ thống 12 con giáp ở

Trung Quốc và Việt Nam.

Với đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp

giữa Việt Nam và Trung Quốc”, chúng tôi còn tổng hợp được các nguyên

lý trong quá trình vận hành hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt

Nam. Từ đó có thể tìm ra được những thiên di văn hoá trong lịch sử cũng

như hiện tại để từ đó có thể đề xuất những ý kiến trong việc bảo tồn, bảo

lưu và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống cổ xưa trong khu vực.

6. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm 4 phần lớn: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận

và tài liệu tham khảo.

14

Phần nội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về 12 con giáp.

Chương 2: Tương đồng trong quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và

Trung Quốc.

Chương 3: Khác biệt trong quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và

Trung Quốc.

15

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ 12 CON GIÁP

1.1. Khái quát cơ tầng của 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam

1.1.1. Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia có diện tích lớn thứ tư trên thế giới. Lãnh

thổ của Trung Quốc trải dài và giáp với 14 nước, trong đó có Việt Nam.

Biên giới với các nước chủ yếu là núi cao, phía đông giáp biển, mở rộng

ra Thái Bình Dương.

Về cơ bản, lãnh thổ Trung Quốc được chia làm 2 miền là miền Đông và

miền Tây. Nếu như miền Đông là nơi có các đồng bằng châu thổ rộng lớn, đất

phù sa màu mỡ thì miền Tây Trung Quốc lại có các dãy núi cao, các sơn

nguyên đồ sộ xen lẫn các bồn địa, vì thế kiến tạo địa lý của Trung Quốc đều

bắt nguồn trực tiếp bởi các đường nét sơn văn và thuỷ văn.

Về đường nét sơn văn: Vị trí kiến tạo của Trung Quốc bắt nguồn trực

tiếp từ dãy Thiên Sơn, Côn Luân và Himalaya. Vành cung Thiên Sơn và

Himalaya đi về Tứ Xuyên, Vân Nam, kéo dài và kết thúc ở đất nước

Malaixia. Hệ thống đứt gãy của hệ các vành cung này lại nằm ở hệ thống đảo

Indonexia thuộc khu vực Đông Nam Á nên cả Trung Quốc và Đông Nam Á,

trong đó có Việt Nam đều nằm trong một mạch kiến tạo chung và nó sẽ có

một số nét tương đồng giữa hai khu vực.

Về đường nét thuỷ văn: Khu vực miền Tây Trung Quốc có rất nhiều các

dãy núi cao, đồ sộ với rất nhiều rừng và đồng cỏ; đây cũng là nơi bắt nguồn

của các con sông lớn chảy về phía đông như sông Hoàng Hà, Trường Giang

và sông Lan Thương (Mê Kông).

16

Sông Lan Thương là một trong những con sông lớn nhất thế giới, bắt

nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua khu vực Tứ

Xuyên, Vân Nam của Trung Quốc, đi qua Lào, Myama, Thái Lan, Cam pu

chia và đổ ra Thái Bình Dương. Cũng như đường nét sơn văn, đường nét thuỷ

văn cũng đều nằm chung trong một hệ thống dòng chảy của sông Mê Kông

nên không chỉ vấn đề tự nhiên mà vấn đề xã hội, con người giữa hai khu vực

là Trung Quốc và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam cũng có sự tương đồng

nhất định. Không những thế, hệ thống hai sông lớn ở miền Bắc Việt Nam là

sông Hồng và sông Thái Bình đều bắt nguồn từ cao nguyên Vân Nam của

Trung Quốc nên tự nhiên và văn hoá Việt Nam cũng sẽ có sự ảnh hưởng nhất

định với văn hoá Trung Hoa.

Không phải con sông lớn nào cũng mang lại văn minh cho nhân loại,

nhưng những nền văn minh lớn, văn minh đầu tiên của nhân loại đều bắt

nguồn từ các con sông. Khu vực bắt đầu cho các nền văn minh đều phụ thuộc

vào một dòng sông. Ví dụ nền văn minh Ai Cập gắn với con sông Nin, nền

văn minh Babilon là sự gắn kết của hai con sông Tigơrơvà Ơphơrat, nền văn

minh Ấn Độ là sự kết tinh của sông Ấn và sông Hằng thì nền văn minh Trung

Hoa cũng là sự thăng hoa của hai dòng sông Hoàng Hà và Trường Giang.

Sông Hoàng Hà và Trường Giang đều bắt nguồn từ sơn nguyên Tây

Tạng, chảy về phía đông rồi đổ ra Hoàng hải và biển Đông Trung Hoa. Ở hạ

lưu các con sông bồi đắp thành những đồng bằng rộng lớn, màu mỡ.

Nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn từ khu vực trung lưu và hạ lưu sông

Hoàng Hà (tỉnh Thiểm Tây – Trung Quốc). Tuy nhiên, sông Hoàng Hà có chế

độ nước thất thường vì chảy qua các vùng khí hậu khác nhau. Mùa đông lưu

17

lượng nước rất nhỏ, nhưng mùa hạ lưu lượng nước cực kỳ lớn do lượng băng

tuyết tan ở thượng nguồn và mưa nên thường xảy ra lũ lụt, không thuận lợi

cho sản xuất và phát triển nông nghiệp ở khu vực này.Vì thế với người Trung

Hoa cổ, sự ra đời và phát triển nền văn minh của mình không phải bắt đầu từ

nguồn nước và phù sa màu mỡ của con sông Hoàng Hà mà nền văn minh

Trung Hoa nhận sự “ban ơn” từ chi lưu của con sông này. Vùng đất Thiểm

Tây phía bắc có núi cao, hiểm trở, phía nam có sông lớn và đồng bằng màu

mỡ, phì nhiêu nên thuận lợi cho việc trồng lúa, vì vậy về cơ bản, cội nguồn

của văn hoá Trung Hoa là nông nghiệp.

Bên cạnh hệ thống sông lớn, Trung Quốc còn có một hệ thống hồ rất lớn

đặc biệt là xuôi xuống khu vực miền trung và miền nam. Với cội nguồn là văn

hoá sản xuất nông nghiệp ở chi lưu sông Hoàng Hà và hệ thống hồ mang tính

chất tĩnh thì đặc trưng của văn hoá Trung Hoa là nền văn hoá trọng văn, thích

yên tĩnh và ưa sự hoà mục,…Vấn đề này được biểu hiện rất rõ trong các học

thuyết cũng như tư duy học của người Trung Quốc; nói theo cách khác, sự ra

đời của tư duy và các học thuyết cổ Trung Hoa đều bắt nguồn và ảnh hưởng

bởi các nét thuỷ văn trong đó có sông và hồ của người Hoa Hạ.

Văn hoá Trung Hoa phát nguyên ở khu vực trung và hạ du của sông

Hoàng Hà cách ngày nay khoảng 5000 năm, đây là một trong những nền văn

hoá cổ xưa nhất của nhân loại. Khi hoàn cảnh sinh tồn và điều kiện sinh sống

của cư dân gốc được xác lập thì đó chính là cột mốc cho sự hình thành của

một nền văn hoá. Đây cũng chính là mối quan hệ giữa tự nhiên và con người

mà người Trung Hoa đã nâng lên thành những hệ tư tưởng, những học thuyết

của riêng mình.

18

Điều kiện tự nhiên của khu vực sinh sôi ra các nền văn minh cổ đại trên

thế giới đều có những sự thuận lợi và khó khăn nhất định, và đó là quy luật tất

yếu, không thể tránh khỏi. Tuy nhiên chính những thuận lợi và khó khăn riêng

đã xác lập nên những nét khác biệt văn hoá của các cộng đồng dân tộc; con

người là yếu tố quyết định cho cái riêng của nền văn hoá ấy vì con người là

chủ thể quan trọng nhất cho một nền văn hoá. Nếu như sinh sống trong một

điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt thì con người sẽ dành toàn bộ tâm trí của

mình để tự vệ trước cái “hung dữ”và sức mạnh huỷ diệt của tự nhiên; nhưng

nếu sinh sống trong một môi trường tự nhiên quá thuận lợi, quá ưu việt sẽ làm

cho tư duy của con người bị bó hẹp và không thể phát triển được. Hai miền

tam giác châu thổ rộng lớn và phì nhiêu của sông Trường Giang và Chu

Giang không trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Hoa mà sự khó khăn

của con sông Hoàng Hà ở phía bắc lại là nơi hình thành nên cái nôi cho sự

văn minh của người Trung Quốc. Cũng chính bởi xuất phát điểm từ con sông

Hoàng Hà nên tại khu vực này đã nảy sinh rất nhiều học thuyết, hệ tư tưởng,

các phát kiến lớn của dân tộc Trung Hoa.

Văn hoá của dân tộc Trung Hoa là sản phẩm, là thành tựu của cả hai nền

văn hoá. Đó chính là văn hoá du mục ở phía bắc và văn hoá nông nghiệp ở

phía nam. Nếu như văn hoá du mục trọng về tính “động” và sức mạnh thì văn

hoá nông nghiệp thiên về tính “tĩnh” và sự hài hoà. Tuy có sự khác biệt nhưng

vẫn có sự hỗn dung nhất định. Điều này thể hiện rất rõ trong các học thuyết

của người Trung Hoa như âm dương, ngũ hành,…

Nhìn từ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong buổi bình minh

của nhân loại, bởi từ buổi sơ khai, sự hiểu biết của con người về tự nhiên còn

nhiều hạn chế nên đã nảy sinh tư tưởng sùng bái tự nhiên “kính thiên”, “tôn

19

thiên mệnh”,… Sau đó, ý thức về tự nhiên ngày một cao hơn trong quá trình

phát triển của chính mình, con người đã chuyển dần sự sùng bái thành chinh

phục tự nhiên. Người Trung Hoa cũng không phải là ngoại lệ, cũng nằm trong

chu trình phát triển của nhân loại. Khi ý thức được hình thành và dần thoát

khỏi sự kì bí của yếu tố tôn giáo thì nó sẽ trở thành một bộ phận quan trọng

cấu thành văn hoá dân tộc Trung Hoa. Những quan niệm, tư duy về can chi,

âm dương, ngũ hành, bát quái,… chính là kết quả của sự phát triển trong ý

thức của người Trung Quốc. Từ chỗ lo lắng, sợ hãi trước tự nhiên nên sùng

bái tự nhiên, người Trung Hoa đã chinh phục tự nhiên bằng cách quan sát để

tìm ra hệ thống các quy luật vận động của tự nhiên để sinh tồn và phát triển.

Dân cư cổ Trung Hoa phân bố chủ yếu nằm ở vùng ôn đới Bắc bán cầu

với hình thái kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ thể. Thời thượng cổ, khi môi

trường canh tác tương đối ổn định, Trung Quốc đã bước qua ngưỡng cửa văn

minh, thủ lĩnh thị tộc chuyển hoá thành giai cấp thống trị mới nổi nắm trong

tay mọi quyền lực. Cầu nối huyết thống và hệ thống hành chính quốc gia

thống nhất làm một, kết tụ thành kết cấu tầng sâu của xã hội, hình thành xu

hướng hướng nội, luân thường đạo lý, quần thể và tập quyền.

Tại lưu vực sông Hoàng Hà và Trường Giang, thời cổ đại Trung Quốc

đã phát triển mô hình sản xuất cày sâu cuốc bẫm, dùng đồ sắt và trâu cày. Từ

đây đã hình thành nên một nền kinh tế nông nghiệp mang tính cá chất cá thể,

có mối quan hệ phụ thuộc nhân thân tương đối lỏng lẻo, và chế độ tư hữu

ruộng đất cùng quan hệ giao kèo thuê ruộng.

Đại lục Trung Hoa cách văn minh phương Tây khá xa, qua núi cao, sa

mạc, đại dương, hình thành nên một đơn vị địa lý tương đối độc lập. Trong

không gian rộng rãi, được các vùng miền vây quanh, lại có các môi trường

20

như đất đai màu mỡ, rộng lớn thích hợp cho việc canh tác, có thảo nguyên,

duyên hải thích hợp với chăn thả, buôn bán, đánh cá, làm muối. Những môi

trường sinh tồn phong phú đa dạng này có lợi cho việc giao lưu xã hội và các

yếu tố bổ sung lẫn nhau.

Thời cổ Trung Quốc dựa vào sức sản xuất tiên tiến và ưu thế chỉnh thể

thống nhất, đã sáng tạo nên bốn phát minh lớn đánh dấu văn minh cổ đại huy

hoàng chói lọi, giữ vị trí hàng đầu trên thế giới trong một thời gian dài.

1.1.2. Việt Nam

Nước Việt Nam nằm ở đông nam lục địa châu Á, bắc giáp nước Cộng

hòa nhân dân Trung Hoa, tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và

vương quốc Campuchia, đông và nam giáp Thái Bình Dương. Từ thời cổ sinh

của trái đất (cách ngày nay từ 185 - 520 triệu năm) đây đã là một nền đá hoa

cương, vân mẫu và phiến ma nham vững chắc, tương đối ổn định. Vào kỷ thứ

ba của thời tân sinh (cách ngày nay khoảng 50 triệu năm) toàn lục địa châu Á

được nâng lên và sau nhiều biến động lớn của quả đất, dần dần hình thành các

vùng đất của Đông Nam Á.

Sự hình thành lâu đời và bền vững của lục địa châu Á đã ảnh hưởng rất

lớn đến sự ra đời của con người và xã hội trong khu vực. Năm 1892, nhà bác

học Hà Lan Ơgien Duy boa (Engène Dubois) đã tìm thấy hài cốt của người

vượn Java, sống cách đây khoảng 180 vạn năm. Việc phát hiện hài cốt người

nguyên thủy trong các thập niên qua đã chứng tỏ rằng Đông Nam Á là một

trong những quê hương của loài người.

Địa hình vùng đất liền của Việt Nam khá đặc biệt với hai đầu phình ra

(Bắc bộ và Nam bộ) ở giữa thu hẹp và kéo dài (Trung bộ). Địa hình miền Bắc

21

tương đối phức tạp. Rừng núi trải dài từ biên giới Việt Trung cho đến tây

Thanh Hóa với nhiều núi cao như Phanxipăng (3.142m), nhiều khu rừng nhiệt

đới, và nhiều dãy núi đá vôi như Cao Bằng, Bắc Sơn, Hòa Bình, Ninh Bình,

Phong Nha - Kẻ Bàng ... với hàng loạt hang động, mái đá. Cùng với nhiều

loại thực vật khác nhau, rừng Việt Nam còn có hàng trăm giống thú vật quý

hiếm; nhiều loại đá, quặng, tạo điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự sinh sống

và phát triển của con người.

Địa hình Trung bộ với dải Trường Sơn trải dọc phía tây về giải đồng

bằng hẹp ven biển. Vùng đất đỏ Tây Nguyên ,vùng ven biển Trung bộ và cực

nam Trung bộ, nơi cư trú của đồng bào nhiều dân tộc trong đại gia đình dân

tộc Việt Nam.

Địa hình Nam Bộ bằng phẳng, thoải dần từ đông sang tây là vựa lúa của

cả Việt Nam, hàng năm vẫn tiếp tục lấn ra biển.

Nằm trong khoảng 8"30' - 23"22' độ vĩ bắc với một chiều dài khoảng

1650 km, Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đởi gần xích đạo. Nhờ gió mùa hàng

năm, khí hậu điều hòa, ẩm, thuận lợi cho sự phát triển của sinh vật.

Việt Nam có nhiều sông ngòi. Hai con sông lớn Hồng Hà và Cửu Long bắt

nguồn từ cao nguyên Vân Nam (Trung Quốc) bồi đắp lên hai châu thổ lớn là đồng

bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam còn có hệ thống sông ngòi

phân bổ đều khắp từ bắc tới nam với lưu vực lớn, nguồn thuỷ sản phong phú, tiềm

năng thuỷ điện dồi dào thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và tụ cư của con

người, hình thành nền văn minh lúa nước lâu đời của người Việt bản địa.

Xét về mặt vị trí địa lý, phía bắc Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc; hệ

thống hai con sông lớn ở Việt Nam là sông Hồng và sông Cửu Long đều bắt

22

nguồn từ Trung Quốc. Hơn nữa, về mặt khí hậu, khí hậu Việt Nam, đặc biệt

là miền bắc Việt Nam có nhiều nét tương đồng với hình thái khí hậu của khu

vực miền nam Trung Quốc. Về vấn đề con người, người Việt vốn là dân tộc

có nguồn gốc từ cộng đồng Lạc Việt, một số khu vực của Trung Quốc, đặc

biệt là các khu vực xuôi về phía Nam, nguồn gốc và chủ thể của cộng đồng

người trong lịch sử là Âu Việt. Hay nói cách khác, người Lạc Việt và người

Âu Việt đều nằm trong một cộng đồng Bách Việt nên sẽ có rất nhiều nét

tương đồng về con người, lối sống, hình thái văn hoá,…Quan trọng nhất,

trong quá trình lịch sử lâu dài, người Việt đã có sự ảnh hưởng rất lớn của văn

hoá Trung Hoa. Với căn bản là các điều kiện tự nhiên, lịch sử có nét tương

đồng, cộng thêm một quá trình giao lưu, tiếp biến lâu dài thông qua nhiều

hình thức nên qúa trình tiếp nhận văn hoá Trung Hoa nói chung và các học

thuyết của cộng đồng người Hoa Hạ nói riêng của người Việt là một vấn đề

rất cơ bản và tự nhiên.

1.2 . Nguồn gốc sự hình thành thiên can địa chi

1.2.1. Ngũ hành

Người cổ đại xưa kia sống trong một điều kiện cực kỳ lạc hậu, phải trải

qua một quá trình đấu tranh gian khổ với thiên nhiên. Vì sự sinh tồn, con

người bắt buộc phải vận động bằng cách quan sát, tìm tòi, nghiên cứu, đúc kết

các kinh nghiệm về quy luật vận động của tự nhiên, của vũ trụ để có thể

chung sống một cách hoà bình với thiên nhiên.

Căn cứ nhận xét lâu đời về thế giới tự nhiên, người xưa đã thấy được sự

biến hoá không ngừng của sự vật: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh

tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái[1, tr25]; bát quái tương tác lẫn nhau, biến hoá

23

vô cùng để tạo ra vạn vật, thế giới. Ngoài ra, người xưa còn thấy được cơ cấu

của sự biến hoá không ngừng là sự ức chế lẫn nhau, giúp đỡ ảnh hưởng lẫn

nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.

Để biểu thị sự biến không ngừng và quy luật của sự biến hoá đó, người xưa

đã đặt ra học thuyết âm dương. Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào

mà là thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, sự việc. Trong quá trình

đối lập và chuyển hoá của hai cặp âm cực và dương cực, cùng nhau dung nạp và

tương khắc mà sinh ra 5 loại vật chất cơ bản gọi là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.

Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau

gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc.

Kim: những gì cứng rắn, kiên cố đều là Kim, thời thượng cổ không phân

loại vật chất như bây giờ, khi ấy những thứ có tính năng cứng rắn, kiên cố

trong thế giới vật chất đều được đại diện bằng chữ Kim.

Mộc: đại diện cho cây cỏ, cho công năng sinh và căn nguyên của sự

sống. Cây cỏ bị chặt, chỉ cần còn rễ là có thể mọc trở lại. Nhà thơ Bạch Cư Dị

có câu thơ “ly ly nguyên thượng thảo, nhất tuế nhất khô vinh, dã hoả thiêu bất

tận, xuân phong khảm hựu sinh” có nghĩa là cỏ trên cánh đồng bời bời, mỗi

năm một lần úa và một lần tươi, lửa đồng đốt không bao giờ cháy hết, khi gió

xuân thổi lại sinh sôi nảy nở. Đây là công năng của Mộc, nó có sức sống rất

mạnh, Mộc đại diện cho sự sống.

Thuỷ đại diện cho tính lưu động, tác dụng tuôn chảy, không ngừng nghỉ.

Hoả đại diện cho nhiệt năng.Thổ đại diện cho trái đất.Vì thế chúng được gọi

là ngũ hành bởi năm thứ này biến hoá lẫn nhau, tương tác với nhau, sự biến

hoá, tương tác gọi là sinh và khắc.

24

1.2.2. Thiên can

Để định thứ tự và gọi tên các đơn vị thời gian, người xưa dùng một hệ

đếm gọi là can chi, gồm hai hệ nhỏ là hệ can và hệ chi.

Hệ can gồm 10 yếu tố: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân,

Nhâm, Quý, được xây dựng trên cơ sở 5 hành phối hợp với âm dương mà

thành. Vì vậy hệ này còn gọi là nhập can hoặc thiên can.

Văn hoá thiên can cũng đã rất cổ xưa. Thiên can địa chi có thể tìm được

từ giáp cốt văn. Thứ khoa học mà người Trung Quốc phát triển sớm nhất là

thiên văn, khi phát triển đến mức độ cao thì quy nạp lại, dùng 10 ký hiệu để

đại diện. 10 ký hiệu này được gọi là thiên can. Thiên can chính là quy tắc của

ngũ hành, có nghĩa là trong hệ mặt trời, trái đất và các tinh tú bên ngoài tác

động lẫn nhau. Nói theo vật lý thiên văn ngày nay thì là công năng bức xạ của

trái đất và các tinh tú, thu hút lẫn hau và tác động lẫn nhau. Người Trung

Quốc từ xưa đã hiểu, đối với sự vận động của các thiên thể, sự vận động của

thế giới vật lý, họ dùng Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thuỷ để đại diện, thể hiện

nguyên lý tương sinh tương khắc. Nhưng khi văn hoá đã phát triển, nguyên

tắc sinh khắc của ngũ hành không đủ dùng, nên người xưa đã phát hiện ra tác

dụng song trùng của ngũ hành, đối với các thực thể trong thế giới vật lý, họ

lại dùng mười chữ làm ký hiện, đó là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh,

Tân, Nhâm, Quý và sắp xếp theo phương. Phương đông là Giáp Ất Mộc,

phương nam là Bính Đinh Hoả, phương Tây là Canh Tân Kim, phương Bắc là

Nhâm Quý Thuỷ, trung ương là Mậu Kỷ Thổ.

1.2.3. Địa chi

Hệ chi có 12 yếu tố: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,

Tuất, Hợi. Chúng gồm 6 cặp âm dương do Ngũ hành biến hoá mà ra, cho nên

25

được gọi là thập nhị chi hay địa chi. Tên mỗi chi ứng với một con vật sống trên

mặt đất, gần gũi với cuộc sống của người nông dân, hoặc theo trí tưởng tượng.

Hệ can và hệ chi có thể được dùng độc lập như những hệ đếm 10 và 12.

Hệ chi phổ biến hơn, dùng để chỉ 12 giờ trong một ngày. Ngày khởi đầu bằng

giờ Tí vào lúc nửa đêm, từ 23 giờ đến 1 giờ khi dương khí bắt đầu sinh ra, 12

tháng trong một năm: năm khởi đầu với tháng Tí, lúc giữa đông, khi dương

khí bắt đầu sinh ra.

Ngũ hành can chi có mỗi liên hệ mật thiết với thiên văn, vật lý địa cầu.

Theo quan niệm hiện đại, trái đất vận hành trong hệ mặt trời, tương tác với

các tinh tú khác, có một sức mạnh hỗ trợ, đó chính là địa chi.

Có 10 thiên can, ngũ hành của từng can phân thành hai cực, tức là sự

biến đổi âm dương của ngũ hành. Chi là sáu số, đạo âm dương sản sinh, biến

hoá mà thành 12 số. Có 12 địa chi, đại diện cho 12 tháng. Trên thực tế địa chi

là ký hiệu chỉ 12 cung hoàng đạo trong thiên văn. Cung ở đây là bộ vị, hoàng

đạo là đường biểu kiến của mặt trời mọc ở phía đông, lặn ở phía tây, một

vòng như vậy được gọi là mặt hoàng đạo.

Phối hợp các can chi với nhau được hệ đếm gồm 60 đơn vị với các tên

gọi như Giáp Tí, Ất Sửu,…Quý Hợi,… gọi là hệ can chi hay lục giáp.

Lục thập hoa giáp bắt nguồn từ can chi, thiên can phối với địa chi đại diện

cho sự biến đổi của vạn vật; trong đó sự biến đổi của khí tượng là lớn nhất, cũng là

rõ ràng nhất. Sự biến đổi của vạn vật mỗi thứ một khác nên dùng sự phối hợp với

can chi để biểu thị, hơn nữa là can dương phối với chi dương, can âm phối với chi

âm, dương phối với dương, âm phối với âm, luân lưu kết hợp theo thứ tự sẽ được

60 tổ hợp, thành một chu kỳ, rồi lại bắt đầu từ Giáp Tý, gọi là lục thập hoa giáp.

26

Sự kết hợp của lục thập hoa giáp ghi lại sự vận hành của thiên thể, 60

năm là một vòng quay lớn. Trong thiên văn học, mặt trời và trái đất một ngày

đi một độ, đi hết 365 độ và ¼ độ là một năm; lấy 365 ngày làm một năm, nếu

có số dư lại thành tháng nhuận, đây là cách tính âm lịch, còn dương lịch thì

mỗi năm có 7 tháng là 31 ngày, vì phương pháp khác nhau nên con số cũng

khác nhau, nhưng tính theo lục thập hoa giáp thì con số vũ trụ trong hàng vạn

năm cũng không thể sai được.

1.2.4. Mười hai con giáp

Con giáp của 12 địa chi, Tý là chuột, Sửu là trâu, Dần hổ, Mão thỏ, Thìn

rồng, Tỵ rắn, Ngọ ngựa, Mùi dê, Thân khỉ, Dậu gà, Tuất chó, Hợi lợn. Những

con giáp này có thể được du nhập từ Ấn Độ vào thời kỳ nhà Hán. 12 địa chi

của người Ấn khi ấy không hoàn toàn giống của người Trung Quốc, mà dùng

các ký hiệu trừu tượng để đại diện, dùng động vật để đại diện, sau đó trở

thành cách giải thích theo văn hoá Trung Quốc. Trong sách “Cổ kim đồ thư

tập thành – can chi bộ” viết “lấy thiên cầm, địa diệu của nhị thập bát tú phân

trực trên trời, để ghi lại 12 canh giờ, đó là khởi nguồn của 12 con giáp”.

Theo sách cổ Trung Quốc, nguồn gốc ra đời của 12 con giáp gắn liền với

Con đường tơ lụa. Người xưa tin rằng, những con vật này đều được Đức Phật

gửi tới, tuy nhiên không phải ai cũng đồng ý quan điểm này.

Theo một số nhà chiêm tinh của Trung Quốc, sự xuất hiện của 12 con

giáp gắn liền với các bộ lạc du mục cổ đại và họ thường săn bắt được những

con thú này trong những khoảng thời gian nhất định của năm.

Tại Trung Quốc, có rất nhiều câu chuyện dân gian về 12 con giáp như

Ngọc Hoàng mời các loài động vật lên để làm biểu tượng cho lịch thì đây là

27

12 con vật nhanh nhất. Còn trong 1 câu chuyện khác Ngọc Hoàng lại cần đến

12 vệ sĩ của cung điện nên ông tổ chức 1 cuộc thi đối với các loài động vật.

Dù sao, ở bất kỳ phiên bản nào, đây đều là những loài động vật rất thân thiện

với con người. Điều nhiều người thắc mắc là vì sao con chuột lại đứng đầu

tiên trong cuộc thi này không phải vì nó nhanh nhất mà là vì nó thông minh

nhất. Cũng nhờ bản tính vốn có của mỗi con vật nên mỗi người sinh ra tương

ứng với con vật nào sẽ có những đặc trưng của con vật ấy. Tuy nhiên, nhiều

người có thể sinh cùng ngày cùng năm, nhưng mỗi người đều có số phận khác

nhau. Điều này là bởi họ sinh khác nhau về giờ.

Việc tính giờ theo can chi cũng phần nào liên quan đến tập tính của các

con vật. Từ đây cũng có thể biết được khái quát tính cách của một người

thông qua tuổi của họ.

Người mang tuổi Tý rất duyên dáng và hấp dẫn người khác phái. Tuy

nhiên, họ rất sợ ánh sáng và tiếng động. Người mang tuổi này rất tích cực và

năng động nhưng họ cũng thường gặp lắm chuyện vặt vãnh. Người mang tuổi

Tý cũng có mặt mạnh vì nếu Chuột xuất hiện có nghĩa là phải có lúa trong bồ.

Trâu tượng trưng cho sự siêng năng và lòng kiên nhẫn, có tiến triển vững

vàng nhưng chậm và một sức mạnh bền bỉ; người mang tuổi Sửu thường có tính

cách thích hợp để trở thành một nhà khoa học. Trâu biểu tượng cho mùa Xuân

và nông nghiệp vì gắn liền với cái cày và thích đầm mình trong bùn. Người

mang tuổi này thường điềm tĩnh và rất kiên định nhưng rất bướng bỉnh.

Khi cọp trở về hang sau khi đi rình mò trong đêm nên một số người

mang tuổi hổ thường rất dễ nổi giận, thiếu lập trường nhưng họ có thể rất

mềm mỏng và xoay chuyển cá tính cho thích nghi với hoàn cảnh. Hổ là chúa

28

tể rừng xanh, thường sống về đêm và gợi lên những hình ảnh về bóng đen và

giông tố.

Mèo tượng trưng cho những người ăn nói nhẹ nhàng, nhiều tài năng,

nhiều tham vọng và sẽ thành công trên con đường học vấn. Họ rất xung khắc

với người tuổi Tý. Người tuổi Mão có tinh thần mềm dẻo, tính kiên nhẫn và

biết chờ thời cơ trước khi hành động.

Rồng chỉ là con vật do con người tưởng tượng ra, chứ không có thực.

Con rồng trong huyền thoại của người phương Đông là tính Dương của vũ

trụ, biểu tượng uy quyền hoàng gia. Theo đó, rồng hiện diện ở khắp mọi nơi,

dưới nước, trên mặt đất và không trung. Rồng là biểu tượng của nước và là

dấu hiệu thuận lợi cho nông nghiệp. Người tuổi Rồng rất trung thực, năng nổ

nhưng rất nóng tính và bướng bỉnh. Họ là biểu tượng của quyền lực, sự giàu

có, thịnh vượng và của hoàng tộc.

Người tuổi rắn nói ít nhưng rất thông thái, họ thích hợp với vùng đất ẩm

ướt. Rắn tượng trưng cho sự tiến hóa vĩnh cửu của tuổi tác và sự kế vị, sự

phân hủy và sự nối tiếp các thế hệ của nhân loại. Người tuổi rắn rất điềm tĩnh,

hiền lành, sâu sắc và cảm thông nhưng thỉnh thoảng cũng hay nổi giận, họ rất

kiên quyết và cố chấp.

Ngựa có dương tính cao. Người tuổi Ngọ thường ăn nói dịu dàng, thoải

mái và rộng lượng. Do đó, họ dễ được nhiều người mến chuộng nhưng họ ít

khi nghe lời khuyên can. Người tuổi này thường có tính khí rất nóng nảy. Tốc

độ chạy của ngựa làm người ta liên tưởng đến mặt trời rọi đến trái đất hàng

ngày. Trong thần thoại, mặt trời được cho là liên quan đến những con ngựa

đang nổi cơn cuồng nộ. Tuổi này thường được cho là có tính thanh sạch, cao

29

quý và thông thái. Người tuổi này thường được quý trọng do thông minh,

mạnh mẽ và đầy thân ái tình người.

Người mang tuổi Mùi thường rất điềm tĩnh nhưng nhút nhát, rất khiêm

tốn nhưng không có lập trường. Họ ăn nói rất vụng về, vì thế họ không thể là

người bán hàng giỏi nhưng họ rất cảm thương người hoạn nạn và thường hay

giúp đỡ mọi người. Họ thường có lợi thế vì tính tốt bụng và nhút nhát tự

nhiên của họ.

Người tuổi Thân thường là một nhân tài có tính cách thất thường. Họ rất

tài ba và khéo léo trong các vụ giao dịch tiền bạc. Người tuổi này thường rất

vui vẻ, khéo tay, tò mò và nhiều sáng kiến, nhưng họ lại nói quá nhiều nên dễ

bị người khác xem thường và khinh ghét. Khuyết điểm của họ nằm trong tính

khí thất thường và không nhất quán.

Năm Dậu tượng trưng cho một giai đoạn hoạt động lao động cần cù

siêng năng vì gà phải bận rộn từ sáng đến tối. Cái mào của nó là một dấu hiệu

của sự cực kỳ thông minh và một trí tuệ bác học. Người sinh vào năm Dậu

được xem là người có tư duy sâu sắc. Đồng thời, gà được coi là sự bảo vệ

chống lại lửa. Người sinh vào năm Dậu thường kiếm sống nhờ kinh doanh

nhỏ, làm ăn cần cù như "một chú gà bới đất tìm sâu."

Năm Tuất cho biết một tương lai thịnh vượng. Trên khắp thế giới, chó được

dùng để giữ nhà chống lại những kẻ xâm nhập. Những cặp chó đá thường được

đặt hai bên cổng làng để bảo vệ. Năm Tuất được tin là năm rất an toàn.

Lợn tượng trưng cho sự giàu có vì loài lợn rừng thường làm hang trong

những khu rừng. Người tuổi Hợi rất hào hiệp, ga lăng, tốt bụng và dũng cảm

nhưng thường rất bướng bỉnh, nóng tính nhưng siêng năng và chịu lắng nghe.

30

1.3. Mƣời hai con giáp nhìn từ sinh thái học

Nền văn minh của dân tộc Trung Hoa bắt nguồn từ hệ thống sông Hoàng

Hà. Bên cạnh nền văn minh sông Hoàng Hà, xuôi xuống vùng phía nam, cộng

đồng người Hoa còn có một nền văn minh rực rỡ không kém với nền văn

minh Hoàng Hà là văn minh từ dòng sông Trường Giang. Đã có nhiều ý kiến

khác nhau về những nền văn minh này, nhưng tất cả đều nhận định, nền văn

minh Trung Hoa cũng giống như bao nền văn minh của các nước phương

phương Đông khác, đều mang trong mình xuất phát điểm từ nông nghiệp.

Từ xa xưa và cho đến tận bây giờ, công việc sản xuất nông nghiệp luôn

gắn liền và phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Vào thời cổ xưa, khi mà khoa

học kĩ thuật chưa phát triển, con người đều dựa vào tự nhiên để sinh tồn và

phát triển, chính vì thế quá trình lâu dài đó còn được hiểu là một quá trình vừa

chinh phục, vừa sợ hãi, vừa sùng bái tự nhiên.

Sản xuất nông nghiệp không chỉ đơn thuần là trồng các cây lương

thực, các cây nông nghiệp như lúa, ngô, khoai, sắn, các cây thuộc dòng

đậu, đỗ mà bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp còn gắn liền với việc chăn

nuôi của con người.

Đã có một số con vật, qua một quá trình thời gian lâu dài, người cổ xưa

đã thuần hoá nó, để nó trở thành người bạn với con người và thân thuộc với

cuộc sống của con người như con chó, con mèo, … Cũng có một số con vật,

người xưa đã tận dụng sức kéo của nó để phục vụ cho công cuộc sản xuất

nông nghiệp như con trâu, con ngựa,… Cũng có một số con vật đã được con

người nuôi để tăng gia sản xuất hoặc để cung cấp chất dinh dưỡng trong bữa

ăn hàng ngày như con lợn, con gà. Cũng có một số con vật sống trong tự

31

nhiên nhưng ảnh hưởng không tốt đến việc sản xuất nông nghiệp của người

dân như con chuột, con rắn,… Ngoài ra, còn có con vật không có thật, nhưng

với ước mong mưa thuận gió hoà, phát triển, sinh sôi nảy nở mà người xưa đã

liên tưởng đến nó và hoá thân nó thành một hình tượng kì vĩ là hình tượng

con rồng.

Trong văn hóa phương Đông, chuột tồn tại sóng đôi với nghề nông

nghiệp, đặc biệt là cây lúa. Trên những cánh đồng lúa bạt ngàn, loài chuột

cùng kiếm ăn, sinh sôi nảy nở. Mặc dù có những biểu tượng tiêu cực nhưng

trong 12 con giáp, chuột chiếm vị trí đầu tiên. Đó là vì theo văn hoá cổ Trung

Hoa về nguồn gốc vạn vật thì: Trời mở hội ở Tí, Đất mở hội ở Sửu, Người mở

hội ở Dần,… tạo thành Tam Tài ( Thiên, Địa, Nhân). Vì vậy, tính Năm phải

lấy Trời làm Khởi (Tí); tính Mùa phải lấy Đất làm Nền (Sửu); tính Tháng

phải lấy Sửu làm Phát. Các nhà bốc phệ thường bấm ngón tay; vì Tí thuộc

Trời nên đứng đầu, số 1 khởi Thuỷ, số dương. Sửu thuộc Đất - thứ 2 thuộc

âm. Dần đứng đầu các vật, thuộc người, cách Tiên Thiên nên cũng thuôc

dương, tháng Giêng bao giờ cũng là tháng Dần. Mang cốc theo cung Tí

(năm); cung Dần (tháng),…

Điều này cho thấy người dân phương Đông vẫn dành cho sự hiện diện

của linh vật này một chỗ đứng trang trọng, trước cả hổ, rồng.

Trong văn hoá đại chúng, hình tượng con trâu phổ biến trong văn hoá

phương Đông và gắn bó với cuộc sống người dân ở vùng Đông Nam Á và

Nam Á, đặc biệt là trong văn hóa Việt Nam. Trong văn hóa phương Đông,

trâu là một trong 12 con giáp còn được gọi là Sửu, đứng ở vị trí thứ 2, đồng

thời là gia súc đứng đầu lục súc gồm trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn. Trâu có vai

32

trò cực kỳ quan trọng trong nông nghiệp lúa nước. Trâu là con vật dùng vào

việc lễ tế thần thánh. Từ khi được thuần hóa, trâu là một trong những con vật

rất gần gũi với con người.

Hình tượng con hổ hay chúa sơn lâm đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó

với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hoá khác nhau trên thế giới,

hình ảnh con hổ gợi lên những liên tưởng về sức mạnh, sự thanh thế, oai linh,

vẻ đẹp rực rỡ nhưng đầy bí hiểm, sự uyển chuyển với cơ thể vằn vện thấp

thoáng lượn sóng cũng như tính hung hãn, thú tính của một dã thú là động vật

săn mồi hàng đầu và là một biểu tượng của đẳng cấp chiến binh đồng thời toát

lên vẻ đẹp khôi vĩ và sức mạnh.

Về bản chất tự nhiên, hổ là dã thú có sức mạnh, to khỏe, nhanh nhẹn,

thuần thục về kỹ thuật chiến đấu, thành thạo về kỹ năng săn mồi, loài vật này

còn đặc trưng bởi tính hung dữ, táo bạo, liều lĩnh, dám tấn công hay đối địch

nhiều thú to khỏe khác cùng với tiếng gầm rống rung chuyển núi rừng, gây

khiếp đảm cho muôn loài và còn là động vật tinh khôn từ đó hổ được người ta

tôn lên vị trí Chúa tể của rừng núi và coi hổ là con vật linh thiêng.

Loài thỏ được con người biết đến đầu tiên đó là những con thỏ châu

Âu vào khoảng 1000 năm trước công nguyên bởi những người xứ Phoenician.

Thỏ rừng châu Âu là loài thỏ duy nhất được thuần hóa. Thỏ vừa được xem là

thú nuôi, làm thực phẩm (thịt thỏ) và cũng là những kẻ phá hoại ruộng vườn.

Mèo đã sống gần gũi với loài người ít nhất 9.500 năm, cho đến gần đây,

mèo được cho rằng đã bị thuần hóa trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, nơi chúng

được thờ cúng và hiện nay chúng là con vật phổ biến nhất trên thế giới với

hơn 600 triệu con và mèo đã trở thành con vật quen thuộc của nhiều gia đình,

là người bạn thân thiết của con người.

33

Mèo có nhiều loại và có nhiều bộ lông khác nhau. Tuỳ theo bộ lông mà

người ta gọi mèo trắng (lông màu trắng), mèo mướp (lông màu xám có vằn

đen nhạt), mèo nhị thể (lông hai màu thường là đen trắng hoặc vàng xám hay

vàng trắng), mèo tam thể (lông ba màu thường là vàng, trắng, xám…), mèo

đen (lông đen tuyền). Mèo đen có nơi gọi là linh miêu. Trong các nền văn hóa

khác nhau trên thế giới, ý nghĩa biểu tượng của mèo rất không thuần nhất, vừa

xấu vừa tốt. Điểu này có thể giải thích bằng thái độ vừa dịu dàng, vừa vờ vĩnh

của con vật này.

Rồng là một biểu tượng văn hoá, ra đời từ sự nỗ lực của con người trong

việc tìm hiểu và nhận thức thế giới tự nhiên. Ở phương Đông, rồng là biểu

tượng của bản nguyên tích cực và sáng tạo, là sức mạnh của sự sống. Nguồn

gốc sâu xa của biểu tượng này là do điều kiện tự nhiên như địa lý, khí hậu và

xã hội như lịch sử, kinh tế quy định. Ở Trung Hoa xưa, con người xem rồng là

tinh linh núi, là thần linh bảo hộ năm vùng, nghĩa là bốn phương và vùng

trung tâm; là kẻ bảo hộ năm hồ, bốn biển. Trong quá trình hình thành và phát

triển các dân tộc phương Đông, rồng dần được gán thêm các ý nghĩa mới, phù

hợp với tính chất của thời đại như biểu tượng nguồn gốc dân tộc, vương

quyền, cao sang, may mắn, thịnh vượng,…

Rắn là loài sinh vật có mặt nhiều nơi trên trái đất. Trong một số nền văn

hoá, rắn là một siêu biểu tượng, biểu trưng cho sự sống (tính đa giá trị và mâu

thuẫn tự thân): cho vật tổ (totem) của tộc người, cho nước và lửa, cho linh hồn

và nhục dục, huỷ diệt và tái sinh, sự linh hoạt và thụ động, quyết đoán và đa

nghi… Chính nét đặc trưng sinh học của loài rắn đã góp phần quyết định ý

nghĩa biểu tượng của nó: cách di chuyển uyển chuyển và sự siết chặt trong

34

động tác bắt mồi khiến nó biểu trưng cho sức mạnh; sự lột da biểu trưng cho

sự tái sinh; nọc độc của rắn có liên hệ đến đặc tính xấu; tính lưỡng giới tượng

trưng cho khởi nguồn của vũ trụ; thân hình rắn là một đường ngoằn ngoèo

không đầu không đuôi kéo dài vô tận hoặc là một đường tròn thể hiện tính

luân hồi của sống và chết.

Ngựa vốn là loài vật gắn bó với con người. Nó nằm trong “lục súc” - 6

loại gia súc nuôi trong nhà như ngựa, trâu/bò, cừu/dê, chó và lợn. Trước khi

kết thúc thời đại đồ đá mới, các cư dân Á Đông đã thuần hóa thành công 6

loại gia súc này trước tiên.

Ngựa là con vật thông minh, khôn ngoan, sống gần người và được con

người yêu quý. Trong đời sống vất vả, ngựa không chê chủ nghèo mà luôn

trung thành, cần mẫn lao động với chủ. Khi xông pha trận mạc, ngựa lại kề

vai sát cánh, cùng chung sinh tử với chiến binh. Xuất phát từ đặc điểm tự

nhiên của loài ngựa mà hình tượng con ngựa luôn đại diện cho những gì đẹp

đẽ. Ngựa vừa có dáng vẻ đẹp đẽ, tính cách mạnh mẽ, sức lực sung mãn, vừa

có đức tính trung thành, tình nghĩa thủy chung.

Từ thời tiền sử hình tượng con dê đã xuất hiện trong đời sống văn hóa,

nghệ thuật, vật chất và tâm linh của nhân loại từ Đông sang Tây. Dê là động

vật được con người thuần dưỡng rất sớm. Trên đầu dê với bộ sừng uốn cong,

hình tượng ấy đã được khắc vẽ trên các vách đá, hang động cách đây khoảng

10- 20 nghìn năm.

Bản tính của dê là một động vật hiền lành, dễ thuần dưỡng và rất thân

thiện với con người. Do vậy, sự ảnh hưởng của nó lại rất mạnh mẽ, phong

phú, đa dạng và tích cực tới đời sống văn hóa, nghệ thuật của nhiều dân tộc và

35

quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là ý nghĩa tinh thần, văn hóa tâm linh và

mang tính biểu tượng nghệ thuật cao. Ở Trung Quốc, dê sống rất gần gũi với

con người, nên có nhiều điển tích rất lý thú và hấp dẫn về dê trong đời sống,

văn hóa xã hội. Một trong những điển tích nổi tiếng là điển tích Dương xa

(tức xe dê kéo).

Trong các nền văn hóa, hình ảnh con khỉ thường là biểu tượng cho sự

nghịch ngợm, tinh ranh, láu lỉnh, nhanh nhẹn. Cũng có khi, khỉ trở thành biểu

tượng thần thánh như Tôn Ngộ Không trong văn hóa Trung Hoa, hay

Hanuman trong văn hóa Ấn Độ.

Trong văn hóa Trung Quốc, văn chương thời xưa cho khỉ là loài cao

quý, ví như người quân tử chốn rừng xanh. Có những câu chuyện dân gian

còn thêu dệt nên sự huyền bí cho loài khỉ, khi cho rằng chúng có thể sống tới

nghìn năm, rồi thành tinh, hóa thành người. Hình tượng khỉ nổi tiếng nhất

trong văn hóa Trung Hoa phải kể tới nhân vật Tôn Ngộ Không - nhân vật

chính trong bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký”.

Con gà, đặc biệt là gà trống, hiện diện trong nhiều nền văn hóa phương

Đông và phương Tây. Là vật nuôi được con người thuần hóa từ lâu trong lịch

sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại.

Từ thời cổ đại, gà đã là loài vật linh thiêng trong nhiều nền văn hóa, gắn

chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng, hoạt động thờ cúng tôn giáo, với tư cách

của một lễ vật. Gà có vai trò quan trọng trong đời sống xa xưa, đặc biệt ở

vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người,

là vẻ đẹp về thanh âm của những vùng quê yên ả.

36

Trong văn hóa phương Đông, gà là một trong 12 con giáp. “Dậu” (từ để

chỉ gà) cũng nằm trong lục súc (6 loại gia súc nuôi trong nhà, gồm ngựa (mã),

trâu/bò (ngưu), cừu/dê (dương), chó (cẩu), lợn (trư), và gà (kê).

Trong số các giống vật nuôi của con người, con chó có mặt từ rất sớm.

Di cốt của chúng đã được tìm thấy ở nhiều di chỉ khảo cổ học trên thế giới, có

niên đại từ thời đại đồ đá giữa cách nay hàng chục vạn năm. Dựa vào các đặc

điểm hình thái, giải phẫu của sọ và răng chó, các nhà khảo cổ khẳng định chó

nhà có nguồn gốc từ chó rừng và chắc chắn hơn một vạn năm trước, vào thời

đại đồ đá mới, chó đã được con người thuần dưỡng.

Chó là con vật có những đặc điểm quý: tinh khôn, nhanh nhẹn, dễ nuôi

(nuôi chó không phải nấu thêm cơm[24, tr43]), trung thành với chủ... Do đó

con người nuôi chó để dùng vào các công việc khác nhau. Chó giúp người

canh nhà. Chó cùng người đi săn thú rừng. Chó hộ vệ con người. Vào thế kỷ

trước, con chó Lai ca đã góp phần vào công cuộc chinh phục vũ trụ vì mục

đích hòa bình. Ngành công an sử dụng chó để truy tìm dấu vết tội phạm. Chó

còn dùng làm vật thí nghiệm trong y học...

Chó gần gũi với đời sống con người. Người ta nuôi chó trong nhà trong

khi trâu, bò, lợn, gà phải làm chuồng riêng. Bước vào đời sống loài người,

chó phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chủng loại.

Lợn là một chi động vật móng guốc có nguồn gốc ở đại lục Á-Âu được

gộp nhóm tổng thể với danh pháp khoa học là Sus, thuộc họ Lợn (Suidae).

Lợn rừng đã được thuần hóa và được nuôi như là một dạng gia súc để lấy thịt

cũng như da. Lợn nhà là một gia súc được thuần hóa, được chăn nuôi để cung

cấp thịt.

37

Là con vật có sự gần gũi với đời sống con người nên hình ảnh của nó đã

đi vào thơ ca, ca dao, hội họa dân gian, và là một biểu tượng văn hóa. Trong

12 con giáp, heo nằm trong số ba con vật cuối cùng (gà, chó, và heo) có mối

liên hệ gần với đời sống hàng ngày của con người hơn các con vật khác như

rồng, cọp, khỉ.

Trong ba con vật cuối cùng của 12 địa chi (gà, chó và lợn), lợn là con vật

có thể nói đã từng song hành với con người trong suốt quãng đường dài tiến hóa.

Lợn là một trong những con vật có một mối liên hệ lâu đời nhất với con người,

không chỉ người Á châu mà còn cả châu Âu và các nền văn minh khác.

Sự hiện diện và tồn tại của những con vật thân thuộc với cuộc sống của

con người thông qua nhiều hình thức đã vô tình đi vào trong tâm thức của

người xưa. Dựa vào các đặc điểm, tính cách, hình thái,… của những con vật

đó mà người xưa đã nâng tầm giá trị của các con vật đó lên, đưa nó trở thành

những biểu tượng một cách có hệ thống trong các quy luật, các học thuyết về

thế giới tự nhiên xung quanh.

1.4. Mƣời hai con giáp nhìn từ đời sống tâm linh cổ đại Đông Á

Văn hoá Đông Á là tổng hoà các giá trị vật chất và tinh thần do các dân

tộc Đông Á sáng tạo ra. Bởi vì văn hoá Đông Á thuộc văn hoá phương Đông,

có cội nguồn từ văn hoá nông nghiệp nên giữa con người và môi trường tự

nhiên có mối quan hệ tương tác rất lớn với nhau. Người cổ đại Đông Á tin

vào sức mạnh của chủ thể là bản thân, chính là con người nhưng đồng thời

cũng tin vào sức mạnh đến từ tự nhiên. Tự nhiên trong tư tưởng của người

Đông Á không chỉ đơn thuần là các vị thần thiên nhiên như sơn, thuỷ, mộc mà

tự nhiên còn chính là những động vật tồn tại xung quanh cuộc sống của cư

38

dân; nó không những có vai trò, ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống mà còn

biểu hiện một cách chân thực và sinh động về tư duy, hoạt động cũng như lối

sống của cư dân Đông Á.

Tý (chuột)

Có lẽ Trung Hoa là dân tộc gắn cho loài chuột nhiều màu sắc nhất. Văn

hóa Trung Hoa mang trong mình đủ các loại hình của văn hóa thế giới, từ chất

du mục trên thảo nguyên, đến chất nông nghiệp cạn (kê, mạch, ngô) miền bắc

và nông nghiệp lúa nước miền nam. Chính vì thế, văn hóa của họ từ khắp mọi

miền, ở đâu cũng có dấu ấn của chuột. Trong văn hóa Hán, chuột được xem là

biểu tượng của sự trung thực, lòng vị tha, óc cầu tiến, tính cách dễ dãi và sự

hào phóng. Các dân tộc thiểu số khác như Di, Tạng, Thái Vân Nam, Choang,

Nasi (Nạp Tây), Uigur (Duy Ngô Nhĩ),.. vẫn chọn chuột đứng đầu trong dãy

12 con giáp, dù sau chuột, các con vật khác được chọn thay đổi theo quan

niệm của từng tộc người. Ngoài Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên cũng chọn

chuột đứng đầu dãy Hoàng đạo của mình.

Nông dân một số vùng Bắc Trung Hoa ngày nay vẫn còn tục “chuột lấy

chồng”. Những ngày diễn ra phong tục, người ta phải tắt đèn đi ngủ sớm để

tránh làm kinh động đến chuột với hy vọng chúng sẽ không phá hoại mùa

màng. Ám ảnh về sự phá hoại của loài chuột cũng như khả năng dự báo thiên

tại của chúng là nguyên nhân chính khiến người Trung Hoa tôn thờ chuột.

Nhiều vùng dựng miếu bái chuột. Trong tiếng Trung Hoa, chỉ có chuột và hổ

mới được gọi tên một cách kính cẩn bằng cách gắn thêm từ “lão” phía trước:

lão thử (cụ chuột) và lão hổ.

Xứ sở kim chi thì hình ảnh mượn lũ chuột háu ăn để nói về lòng tham

của con người. Lũ chuột nhắt và một con chuột già sống bám vào một kho

39

thóc có một chú mèo canh giữ. Lũ chuột háu ăn, chẳng bao lâu kho thóc vơi

đi thấy rõ dù lần nào lân la đến kho thóc đều bị chú mèo đuổi bắt. Chúng lập

mưu định lén cột vào cổ mèo một cái chuông to để không còn bị quấy rối nữa.

Chỉ mỗi lão chuột già từ chối, bảo “đó là việc làm ngu ngốc, là tự hại thân

mình”. Lũ chuột con vẫn giữ nguyên kế hoạch. Lão chuột già khôn ngoan đã

chạy vào rừng. Chính chiếc chuông cột vào cổ mèo đã báo động cho người

chủ kho thóc biết được sự có mặt của lũ chuột, và vì thế chúng bị tiêu diệt

sạch, chỉ mỗi lão chuột già được sống thảnh thơi trên núi.

Người dân xứ Phù Tang cũng góp mặt với câu chuyện Chiếc bánh gạo.

Chiếc bánh vô tình rơi xuống và lăn xuống một cái hang. Lão nông dân lần theo

tìm, phát hiện ra một cộng đồng nhà chuột cư ngụ đông đúc. Ăn xong chiếc bánh,

lũ chuột cảm ơn ông lão, bày một buổi tiệc linh đình và còn tặng ông lão một món

bảo vật. Ngoài xã hội, người Nhật Bản vẫn thường nhắc tên trộm lừng danh

Jirokichi sống vào thế kỷ 18-19 mang biệt hiệu Nezumi Kozo (Thử Tiểu Tăng)

chuyên đánh cắp tiền của giới quý tộc để phân chia cho dân nghèo, đã khiến triều

đình Edo thời bấy giờ phải dùng đến hàng trăm võ sĩ samurai mới bắt được.

Sửu (trâu)

Theo cách phân chia thời gian năm tháng ở châu Á chịu ảnh hưởng văn

hóa Trung hoa thời xưa, con Trâu cũng là một biểu tượng cho một

năm. Trong 12 địa chi (thập nhị chi), trâu mang pháp danh là sửu, đứng hàng

thứ hai sau tý và đứng trước 10 con vật khác, 12 con vật được đứng trong

sách lịch pháp trên nay là đại diện cho các loài. Về tính âm dương, 12 con vật

được chia xếp thành hai cực âm và dương đứng đan xen nhau, trong đó con

trâu (Sửu) thuộc âm.

40

Người phương Đông đã tìm thấy và đặt tên cho bốn chòm sao, gồm 28

ngôi sao chính gọi là nhị thập bát tú, trong đó có sao Ngưu thuộc chòm sao

Huyền Vũ nằm ở phương Bắc, ứng với hành thuỷ, thuộc về mùa Đông. Theo

quan niệm của người phương Đông thì sao Ngưu, sao Đẩu là những ngôi sao

sáng và thường được gắn cho những người có trí tuệ trác việt. Ở văn hóa

phương Đông, một trong những tôn giáo lớn là đạo Phật có nhiều câu chuyện

về trâu, mượn hình ảnh loài vật này để nói về triết lý, văn hóa, đạo lý sống, đó

là tự chăn tâm mình, tự chăn tâm ngã như là thuần phục một con trâu. Biểu

hiện cụ thể là bộ tranh chăn trâu gồm 10 bức với 2 dòng trâu tiệm hóa minh

họa cho con đường giác ngộ của Phật giáo Tiểu thừa và trâu toàn đen dẫn bày

các yếu chỉ thiền cho người học theo tư tưởng Phật giáo Đại thừa.

Với người Trung Quốc, con trâu cũng đóng một vai trò quan trọng trong

đời sống của họ trên nhiều phương diện văn học, hội họa, ca dao, tục ngữ,

phong tục... Người ta quan niệm trâu là thánh vật nên thường dùng làm vật tế

lễ, là biểu tượng cho cầu nối giữa trời và đất, người và tiên để cho thần tiên

ban phước lành cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân gian an bình.

Trâu còn được coi là tượng trưng cho sự tốt lành, ai mơ trâu vàng đến nhà là

điềm phú quý, cưỡi trâu vào thành là có hỉ sự, trâu sinh nghé là tâm thành ý

nguyện. Trong “Phong Thần”, Thái Thường Lão Quân cưỡi Thanh Ngưu

(Trâu xanh).

Trâu còn biết đến trong tín ngưỡng như: Đầu trâu, mặt ngựa (Ngưu đầu,

Mã diện) là 2 sinh vật thuộc hạ của Diêm Vương chuyên thực hiện việc hành

hạ, tra tấn người ở địa ngục. Trong Tây Du Ký có nhân vật Ngưu Ma Vương

là vua của các loài trâu. Có bức tranh vẽ nhà hiền triết Lão Tử cưỡi Trâu

41

xuyên khắp cánh đồng đi về hướng Tây. Ngoài ra còn có truyền thuyết Ngưu

Lang Chức Nữ với chiếc cầu Ô Thước (Ô là con quạ, Thước là con chim

Khách). Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Thượng đế vì say mê một tiên nữ

dệt vải tên là Chức Nữ, nên bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng

sáo của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận, bắt cả hai phải

ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng

thương tình nên cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần trên cầu Ô

Thước vào đêm mùng 7 tháng Bảy. Lúc chia tay nhau cả hai đều khóc, nước

mắt của họ rơi xuống trần gian thành cơn mưa nhẹ gọi là mưa Ngâu. Trâu còn

là vật cưỡi của viên tướng Hoàng Phi Hổ.

Theo truyền thuyết trâu đã giúp vua Vũ nhà Hạ trị thủy. Thời Chiến

Quốc, Tử Đồi là con vua Chu Trang Vương nuôi hàng trăm con trâu cho ăn

gạo thóc, mặc gấm vóc, lại có kẻ hầu người hạ. Họ ca ngợi nghề chăn trâu của

những Sào Phủ, Nịnh Thích. Trên đồ đất nung từ thời Thương Chu đã có hoa

văn hình trâu. Đời Tiền Hán có nhiều tượng trâu bằng đồng, nhất là vùng Vân

Nam. Theo truyền thuyết thì trâu biểu hiệu sự sống lâu. Lão Tử soạn Đạo Đức

Kinh sinh vào thế kỷ thứ VI trước CN (thời Chiến Quốc), Lão Tử khi về già

nhận thấy chính sự của vương quốc đang tan rã đã cưỡi trâu xanh đi về hướng

Tây qua đồi núi đến nước Tần và từ đó mất dạng. Quân sư Tôn Tẩn thường

ngồi xe, còn có giai thoại ông cưỡi trâu ra trận. Thời chiến quốc cũng có ghi

lại chuyện Điền Đan dùng hỏa ngưu kế đánh bại quân địch.

Nhiều địa phương trên đất nước Trung Quốc vẫn duy trì tục trâu xuân,

người ta đắp hình con trâu bằng đất hoặc làm bằng giấy cao 4 thước, dài 8

thước, tượng trưng cho 4 thời trong 8 tiết. Con trâu mô hình này được rước rất

42

long trọng kèm theo các hoạt động vui chơi như ca hát, múa, rước đèn lồng...

gọi là xuân ngưu (trâu mùa xuân), sau đó lấy roi vừa quất vào nó vừa đọc lời

chúc an lành. Các dân tộc thiểu số khác còn tổ chức nhiều lễ như lễ Ngưu

vương, cúng Ngưu vương để cầu con, phòng bệnh, đuổi tà ma...

Dần (hổ)

Đối với nhiều nước phương Đông có loài hổ phấn bố thì hổ là biểu

tượng của sức mạnh, thực lực, uy quyền và tâm linh. Tại đây, hổ được coi là

có vị trí thống trị trong giới động vật nên nhân dân ở một số nước phương

Đông đã thần thánh hóa loài này với tập tục thờ hổ hay thờ thần hổ đã đi

vào tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, cộng đồng nhất là ở những chốn

rừng núi sâu thẳm thì hổ luôn được thờ phụng. Một số dân tộc khác còn tôn

thờ hổ như thần giám hộ, nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng hình ảnh con

hổ là biểu tượng của đất nước là vật tổ của dân tộc mình. Hình ảnh con hổ đã

đi sâu vào văn hoá, lịch sử, nghệ thuật như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ,…

và các nước Đông Nam Á.

Ở một số nơi khác, hổ cũng tượng trưng cho quyền uy, thực lực, sức

mạnh, uy mãnh, hung hiểm, và ở một khía cạnh nào đó, những tập tính của hổ

được đánh giá cao và được hình mẫu như là biểu hiện cho nhiều phẩm chất

của con người như phẩm chất kiên trì ẩn nhẫn, do khi quan sát tập tính của nó

người ta thấy con hổ còn thể hiện phẩm chất kiên nhẫn và dũng cảm vì bản

năng các con hổ biết khi nào nên nằm yên phục kích con mồi, là bậc thầy về

nguỵ trang, chúng từ từ tiếp cận con mồi một cách âm thầm từng bước một,

tận dụng mọi vật bình phong che chắn để nguỵ trang, dấu mình, và một khi

43

điều kiện chưa chín muồi, thời cuộc chưa rõ ràng, nó sẽ tránh bọc lộ quá sớm

ý đồ của mình, hành sự kín đáo, không nóng vội.

Các triều đại phong kiến ở các nước Phương Đông coi hổ cùng

với rồng là biểu trưng cho vương quyền, trong quân sự, võ học và cho những

thành đạt trong khoa cử, chính vì vậy mà hình ảnh con hổ xuất hiện khá phổ

biến trong cung cấm, doanh trại và trong trường thi. Đứng hàng thứ ba

trong thập nhị địa chi, hổ là vị vua mang nhiều ẩn dụ nhất trong các loài dã

thú. Trong dân gian Việt Nam, hình ảnh con hổ phổ biến trong các kiến trúc

đình, miếu. Dưới chế độ quân chủ của triều đình phong kiến, hình ảnh Hổ

được biểu tượng cho sức mạnh quân sự, cho các vị võ tướng và thường được

thêu trên áo các võ quan hàng tứ phẩm. Ở một khía cạnh khác, người ta

thường kể nhiều chuyện dân gian, vẽ tranh, tạc tượng về con hổ có rất nhiều

và khiến cho nó trở thành những nhân vật trung tâm của nhiều tác phẩm văn

học nghệ thuật đại chúng.

Mão (thỏ/ mèo)

Hình ảnh con thỏ là mô-típ phổ biến trong nghệ thuật có ý nghĩa thần

thoại trong các nền văn hóa khác nhau. Thỏ mang ý nghĩa phục sinh và là một

biểu tượng của sự sinh sôi, tính hình hiền lành, dễ thương, đáng yêu. Hình

tượng con thỏ trắng cũng gợi lên những ý niệm thân thiện và hiền hòa. Thỏ

cũng là biểu tượng may mắn cho chuyện sinh nở. Chân sau của thỏ được xem

là vật may mắn trong rất nhiều nền văn hóa

Theo quan niệm của người Trung Quốc thì con thỏ tượng trưng cho nét

thanh lịch, sự nhạy cảm với nghệ thuật, âm thanh và cái đẹp. Thỏ thường gắn

liền với các vị thần mặt trăng, chị Hằng (Thỏ ngọc). Trong văn hóa Khmer,

44

thỏ vừa là biểu tượng tôn giáo vừa là biểu tượng cho công lý, hạnh phúc và sự

may mắn, phẩm chất con thỏ thông minh, dũng cảm.

Ở các nước châu Á khác như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, con

Thỏ là một trong 12 con giáp xếp sau con Trâu và trước con Hổ. Con Thỏ

được coi là may mắn nhất trong số 12 con giáp, vì con Thỏ có nguồn gốc

từ cung trăng, là biểu tượng của sự trường thọ. Trong tranh dân gian Trung

Quốc, con Thỏ đứng gần một tảng đá dưới gốc cây và cầm tiên đan. Ở Việt

Nam, con thỏ được thay thế bằng con mèo trong 12 con giáp, vì Việt Nam

không có điều kiện môi trường để loài thỏ phát triển sinh sôi do Việt Nam là

văn hoá thảo mộc chứ không phải văn hoá thảo nguyên.

Trong thế giới đạo Phật, mèo bị chê trách là con vật đã cùng với con rắn

không mảy may xúc động trước sự từ trần của Đức Phật… Ở Ấn Độ, người ta

tìm thấy tượng những con mèo khổ hận biểu thị cho phúc lạc của thế giới

động vật. Ở Trung Quốc cổ đại, mèo hay được xem như một con vật báo lành

và người ta bắt chước điệu bộ của nó cũng như con báo, trong các điệu múa

nông nghiệp. Ngày nay ở Campuchia, người ta vẫn nhốt mèo vào lồng rồi vừa

đi vừa ca hát, rước nó từ nhà này sang nhà khác để cầu mưa: mỗi người dân

làng tưới nước cho mèo và tiếng kêu của nó, như người ta nói, làm động lòng

thần Indra, người phân phối nước làm phì nhiêu đất.

Thìn (rồng)

Về nguồn gốc của rồng, có quan niệm cho rằng, sau khi Hoa Hạ thống

nhất các bộ tộc Trung Nguyên đã kết hợp vật tổ của mình với vật tổ các bộ tộc

khác để tạo thành con rồng

Trong Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, GS. Trần Ngọc Thêm đã nêu

lên nguồn gốc của rồng từ văn hoá gốc nông nghiệp, chính nếp sống tình cảm,

45

hiếu hoà của cư dân nông nghiệp đã biến con cá sấu (vốn có rất nhiều ở vùng

Đông Nam Á) hung dữ thành con rồng hiền, cai quản và ban phát nguồn nước

dồi dào cho họ.

Hình mẫu chung phổ biến của rồng phương Đông là mình thuôn dài như

rắn, đầu lạc đà, sừng hươu, vảy cá sắc nhọn phủ khắp mình, chân phối hợp

giữa chân hổ và móng vuốt chim ưng, thở ra mây và phun ra nước. Rồng

thường được thể hiện kết hợp với một vật hình cầu, mà người ta thường gọi

nó là viên ngọc quý của rồng, có khả năng điều khiển được nước triều, chứa

đựng tinh thần của vũ trụ. Người ta cho rằng, viên ngọc phát triển từ trạng

thái hơi qua trạng thái nước kết tinh thành ngọc sáng chói vô cùng. Viên ngọc

là đặc trưng của thần thánh, có thể thâu lượm được nhưng phải trải qua quá

trình khổ hạnh hàng thế kỷ. Thông thường trong nghệ thuật tạo hình, viên

ngọc được trình bày như một vật hình cầu lơ lửng ngay gần miệng rồng để

diễn tả ý rồng nhả ngọc, rồng chầu ngọc, hay rồng tranh ngọc...

Riêng rồng trong văn hoá Hàn Quốc thường cắp ngọc đỏ trong miệng

hay trong lòng bàn chân tượng trưng cho trí tuệ và chân lý.

Với người phương Đông, rồng là một biểu tượng cho nguồn nước. Rồng

phun nước tưới mát hoa màu, cung cấp sự sống nhưng cũng có lúc loài người

làm rồng nổi giận gây ra lũ lụt, nhấn chìm hoa màu, cướp đi sự sống. Dù như

thế nào, rồng cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của con người. Người

phương Đông vừa tôn thờ vừa khuất phục trước sức mạnh của rồng và chưa

bao giờ nghĩ đến việc giết rồng. Vì vậy, có thể nói rồng là một biểu tượng của

văn hoá gốc nông nghiệp.

Vì là biểu tượng của nguồn nước nên khi xây dựng hình tượng về rồng,

cư dân nông nghiệp cũng lấy hình ảnh của những con vật sống dưới nước làm

46

chủ đạo: cá sấu, rắn, vảy cá... Và khi thể hiện sức mạnh, rồng phun ra nước

tức là tạo ra điều kiện cần thiết nhất để trồng trọt (khác với rồng phương Tây

phun ra lửa để thiêu cháy con người).

Tị (rắn)

Con rắn là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ

biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn đã được kết hợp với một số các

nghi lễ cổ xưa nhất được biết đến của nhân loại. Rắn đại không những đại

diện mà nó còn biểu hiện cho hai mặt thiện và ác của con người.

Trong văn hóa sự hiện diện của loài rắn được diễn ra từ cổ chí kim, từ

văn hóa phương Đông đến văn hóa phương Tây, từ văn minh cổ xưa cho đến

quan niệm về rắn thời hiện đại. Rắn không chỉ là loài động vật sống trên khắp

thế giới, nó còn là biểu tượng cho nước, lửa, linh hồn, nhục dục, quyết đoán,

đa nghi,… Ngoài ra, rắn biểu trưng cho cả giới tính nam và nữ, là một vị thần

sáng thế, biểu trưng cho vũ trụ thời hỗn mang.

Trong quan niệm về rắn ở các nước phương Đông, trong một số nền văn

hóa, hình tượng rắn có vị trí quan trọng trong thế giới biểu tượng. Rắn thường

thể hiện hình ảnh khác nhau như thần hiền, thần ác, điều tốt, điều xấu, sự hủy

diệt, tái sinh, tình yêu. Trong văn hóa Việt Nam, rắn không chỉ là loài động

vật bình thường mà còn trở thành một biểu tượng tâm linh. Tị là một trong số

12 địa chi của Thiên Can Địa Chi, trong lịch Trung Quốc và Việt Nam và quý

tỵ được biểu hiện bằng con rắn.

Trong thần thoại Nhật Bản còn có con rắn Yamata no Orochi (Nhật: 八

岐の大蛇? Bát Kì Đại Xà), hay còn được gọi tắt là Orochi. Đây là một sinh

vật dạng rắn trong Thần đạo Nhật Bản. Yamata no Orochi được miêu tả có

47

tám cái đầu, tám cái đuôi cùng 8 cặp mắt với màu đỏ. Thân hình khổng lồ của

Orochi được miêu tả trải dài 8 thung lũng, 8 quả đồi. Nó ngụy trang bằng rêu

phong, cây bách và cây tuyết tùng trên lưng nên trông nó không khác gì một

dãy núi.

Ở Trung Quốc tồn tại từ lâu hình tượng thần Phục Hy đầu người đuôi

rắn, thần Nữ Oa đầu người mình rắn. Ngoài ra, ở Trung Quốc còn có truyền

thuyết Bạch Xà truyện (白蛇傳), còn có tên là Hứa Tiên và Bạch Nương Tử (

許仙與白娘子) là một trong bốn truyền thuyết dân gian lớn của Trung Quốc.

Câu chuyện ra đời vào thời Nam Tống hoặc sớm hơn và được lưu truyền rộng

rãi dưới thời nhà Thanh, là sản phẩm sáng tác tập thể của dân gian Trung

Quốc. Nội dung Bạch Xà truyện miêu tả câu chuyện tình yêu giữa một Bạch

xà tinh tu luyện thành người (Bạch Nương Tử) và một chàng trai ở trần gian

(Hứa Tiên). Câu chuyện đã nhiều lần được chuyển thể thành Kinh kịch, phim

điện ảnh và phim truyền hình , nổi bật là bộ phim Truyền thuyết Bạch Xà.

Bạch Xà truyện được lưu truyền rộng rãi ở Trung Quốc, ban đầu là

truyền miệng, sau đó nhiều hình thức truyền bá dân gian xuất hiện như bình

thoại, thuyết thư, đàn từ xuất hiện, dần dần được chuyển thể thành kịch. Sau

này còn có tiểu thuyết, sau Dân quốc còn có ca kịch, kịch Đài Loan, truyện

tranh. Đến hiện đại Bạch Xà truyện còn được quay thành phim điện ảnh, cải

biên thành múa hiện đại, tiểu thuyết kiểu mới... Tên gọi Bạch Xà truyện có thể

xuất hiện vào cuối thời Thanh, trước đó không có tên gọi cố định nào. truyền

thuyết Bạch Xà truyện có liên quan đến Ấn Độ giáo. Chuyện sáng thế trong

Ấn Độ giáo cũng bắt đầu từ hai con rắn lớn (Naga) khuấy động biển.

Ngọ (ngựa)

48

Ngựa là một trong 12 con giáp của văn hóa phương Đông, đồng thời

cũng nằm trong số lục súc theo quan niệm của văn hóa một số nước. Ngựa là

hình tượng đặc trưng cho phương Bắc, là biểu tượng cho sự trung thành và

tận tụy đồng thời là biểu tượng cho tài lộc, thành công, hình ảnh con ngựa

tung vó hý vang biểu tượng cho sự kiêu hãnh và tự do và thanh khiết.

Ở Triều Tiên có Ngựa thần Chollima (Thiên Lý Mã) xuất hiện trong

thần thoại châu Á: Giống như loài ngựa trắng có cánh Pegasus của thần thoại

Hy Lạp, Chollima trong văn hóa dân gian châu Á cũng sở hữu đôi cánh sải

rộng. Bốn con ngựa của Apocalypse trong Thần thoại Kitô giáo: Chúng là

biểu tượng của sự chinh phục, chiến tranh, nạn đói và cái chết.

Trong văn hóa Trung Quốc có hình tượng về Bạch Long Mã là một con

ngựa trắng có nguồn gốc từ con rồng. Bạch Long Mã (chữ Hán: 白龍馬)

hay Tiểu Bạch Long là con của Tây Hải Long Vương (em Đông Hải Long

Vương) là đồ đệ thứ tư của Đường Tăng đi thỉnh kinh ở Tây Thiên trong tiểu

thuyết Tây du ký của Ngô Thừa Ân. Do có lỗi lầm nên Quan Thế Âm Bồ

Tát đã cho phò giá Đường Tăng để chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra.

Trong Phật giáo, ngựa là biểu tượng của sức mạnh và sự nỗ lực trong

việc thực hành pháp. Nó cũng tượng trưng cho khí (prana) mà nó chạy xuyên

khắp cơ thể và là phương tiện di chuyển của tâm. Cái được gọi là “ngựa gió”

là biểu tượng của tâm. Tâm có phương tiện đi lại của nó là gió, và nó có thể

được cưỡi đi. Điều đó muốn nói rằng chúng ta có khả năng kiểm soát tâm và

gió và hướng dẫn chúng theo bất kỳ chiều hướng nào và ở bất kỳ tốc độ nào

mà chúng ta muốn. Trong Phật giáo có con ngựa Kantaka, con ngựa của thái

tử Siddhartha Gautama. Khi thái tử rời hoàng cung xuất gia làm ẩn sĩ, con

49

ngựa của ông ta nhận thấy rằng nó sẽ không bao giờ còn gặp lại chủ nhân của

mình nữa nên đã vỡ tim mà chết. Nó sau đó đã sanh về một trong các cõi trời.

Hình tượng ngựa đã được thể hiện thành những hình tượng trên bích họa

và trong các bức quốc hoạ. Ngoài ra, nó còn được lắng đọng trong nhiều câu

chuyện dân gian trong các dân tộc phương Đông cũng như phương Tây. Trên

đồ gốm cổ Việt Nam cũng trang trí những hình ngựa có cánh. Những con

ngựa này được diễn tả trong tư thế đang bay trong không trung. Như thế, con

ngựa trong nghệ thuật gốm Việt Nam cũng hoá thân vào huyền thoại, và ít

nhiều nó đã mang màu sắc tôn giáo như con ngựa trong văn hoá Ấn Độ hay

văn hoá Trung Quốc.

Câu chuyện "con ngựa thành Troa" có nguồn gốc từ thần thoại Hy Lạp.

Còn câu chuyện "tái ông thất mã " lại là một câu chuyện từ phương Đông nói

lên triết lý họa có thể trở thành họa, họa đó lại có thể trở thành phúc. Sự

chuyển hoá cũng là vô tận. Về nhân tướng, theo quan niệm của Phương Đông

thì những người sinh năm con ngựa thường có cá tính phóng khoáng, không

căn cơ, có năng lực suy nghĩ độc lập và ít để bụng. Gặp việc gì họ cũng

thường bắt tay làm ngay, không chần chừ do dự. Nhưng chính sự nhanh nhẹn

đó lại cấu thành nên điểm yếu của họ: nóng vội và thiếu kiên nhẫn.

Mùi (dê)

Trong văn hóa phương Đông, dê là con giáp đại biểu cho địa chi Mùi

mang ý nghĩa triết lý và nhân văn. Giờ Mùi kéo dài từ 13-15h, là thời gian mở

đầu buổi chiều, con người vừa ăn trưa xong, đang thanh thản nghỉ ngơi và sẵn

sàng bước vào buổi lao động mới. Trong 12 con giáp, dê được xem là biểu

tượng của tính ôn hòa, thuần hậu nhưng cũng không kém phần nhanh trí.

50

Trong văn hóa Trung Quốc có nhiều điển tích gắn với dê. Điển tích nổi

tiếng nhất là “Dương xa” (xe dê kéo) của vua Tấn Vũ Đế. Vua thường dùng

xe dê kéo đi lại trong cung cấm hằng đêm, nếu dê dừng ở cửa phòng cung phi

nào thì đêm ấy nhà vua sẽ ở lại với cung phi đó.

Đối với người Việt Nam, dê cũng chứa đựng những giá trị tinh thần

phong phú, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh và văn hoá nghệ thuật

của người Việt Nam. Dê là một trong sáu con vật nuôi thông dụng nhất trong

“lục súc” (gồm dê, gà, chó, lợn, ngựa, trâu); và là một trong ba thứ lễ vật đặc

biệt để cầu cúng, tế dâng trong “tam sinh” (gồm dê, lợn, bò)[21, tr60].

Hình ảnh dê trở nên sinh động, gần gũi hơn qua những trò chơi và lễ hội

truyền thống, nổi tiếng nhất có trò bịt mắt bắt dê. Đối với trẻ nhỏ, trò chơi này

đem lại niềm vui hồn nhiên, nhưng đối với thanh niên, đặc biệt trong thời kỳ

phong kiến, “bịt mắt bắt dê” là một dịp để nam nữ tiếp cận, vượt qua ranh giới

nghiêm khắc của lễ giáo.Trong những ngày hội đầu xuân, người ta thường tổ

chức trò bịt mắt bắt dê để nam nữ cùng chơi, với ngụ ý cầu mong âm dương

hòa thuận, mùa màng tươi tốt.

Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, có bức bịt mắt bắt dê rất nổi tiếng,

khắc họa cảnh chú dê vừa chạy trốn vừa ngoái nhìn đôi thanh niên nam nữ

đang bị bịt mắt, lần mò tìm bắt nó.

Sách Lĩnh Nam Chích Quái kể lại rằng từ thời xa xưa, người Việt trong

hôn nhân đã biết giết trâu, dê làm đồ lễ, con dê đã được nuôi làm gia súc và

sử dụng vào việc tế lễ. Vào giữa thế kỷ XVI, trong bài Đào Nguyên Hành thì

Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan đã tả cảnh nông thôn Việt Nam là Trâu bò,

gà lợn, dê ngan/Đầy lũ đầy đàn, rong thả khắp nơi. Vào thời nhà Nguyễn, con

51

dê chỉ được sử dụng trong việc tế lễ: Dê vốn thật thuộc loài tế lễ/... Để hòng

khi tế thánh tế thần/... Hễ có việc lấy dê làm trước/Dê dâng vào người mới lạy

sau. Theo Ðại Nam thực lục Chính Biên, dưới Triều đại vua Minh Mạng, mùa

Ðông năm Minh Mạng (1836) thứ 17, nhà vua sai mua 220 dê đực và 100 dê

cái, chọn 20 con dê đực giao Tể sinh làm lễ vật tế lễ Nam Giao, đặt tại đàn

Thượng có thịt dê ướp dương hải.

Thân (khỉ)

Trong 12 con giáp, Thân, tức con khỉ, đứng ở vị trí thứ 9. Loài khỉ được

đánh giá là thông minh hơn nhiều loài vật khác và đã đi vào đời sống văn hóa

Á Đông từ xa xưa.

Trong các nền văn hóa, hình ảnh con khỉ thường là biểu tượng cho sự

nghịch ngợm, tinh ranh, láu lỉnh, nhanh nhẹn. Cũng có khi, khỉ trở thành biểu

tượng thần thánh như Tôn Ngộ Không trong văn hóa Trung Hoa, hay

Hanuman trong văn hóa Ấn Độ.

Trong văn hóa Trung Quốc, văn chương thời xưa cho khỉ là loài cao

quý, ví như người quân tử chốn rừng xanh. Có những câu chuyện dân gian

còn thêu dệt nên sự huyền bí cho loài khỉ, khi cho rằng chúng có thể sống tới

nghìn năm, rồi thành tinh, hóa thành người.

Hình tượng khỉ nổi tiếng nhất trong văn hóa Trung Hoa phải kể tới nhân

vật Tôn Ngộ Không - nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký”.Tôn

Ngộ Không đã trở thành hình ảnh thân thuộc trong đời sống văn hoá của

nhiều thế hệ người Trung Quốc và vẫn không ngừng truyền cảm hứng cho

nghệ thuật đương đại. Là nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký”,

Tôn Ngộ Không là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của văn học

Trung Hoa.

52

Trong văn hóa Ấn Độ, thần khỉ Hanuman là một nhân vật thần thoại của

đạo Hindu, được kể lại trong sử thi Ramayana. Trong sử thi, Hanuman đã

giúp đỡ cho người anh hùng Rama trong cuộc chiến chống lại vua quỷ

Ravana. Thần khỉ Hanuman là nhân vật trung tâm trong hai bộ sử thi vĩ đại và

lừng danh của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata.

Các đền thờ trên khắp đất nước Ấn Độ đều có hình ảnh Hanuman, vị

thần khỉ nổi tiếng với vũ khí là quả chùy (gada), biểu tượng của lòng dũng

cảm. Thần rất sùng bái người bạn của mình là Rama (vị vua anh hùng được kể

trong sử thi Ramayana), và cũng được Rama rất thương yêu, nên có khi người

ta vẽ Hanuman với hình Rama xăm trên ngực.

Rama được coi là hóa thân của vị thần Vishnu, là một trong ba vị thần

tạo nên bộ tam thần trong văn hóa Ấn Độ. Trong cuộc chiến đấu giữa vua

Rama anh hùng và quỷ Ravana, thì thần khỉ Hanuman là người phụng sự vua

đắc lực nhất, trung thành nhất.

Thần thoại Ấn Độ qua mấy ngàn năm không ngừng truyền tụng các kỳ

tích của thần khỉ Hanuman, vì vậy, Hanuman sớm trở thành một hình ảnh

quen thuộc, phổ biến trong mỹ thuật Ấn Độ. Tất cả những điều này đã củng

cố đức tin của người Ấn Độ rằng sùng kính thờ phụng thần khỉ Hanuman thì

sẽ được thần phù hộ khỏi bị tà ma quấy phá. Ngày thứ ba hàng tuần là ngày

vía của thần khỉ Hanuman, và hàng triệu tín đồ ở Ấn Độ thường dâng lễ cầu

nguyện thần khỉ phù hộ cho họ được khỏe mạnh, sung túc.

Trong văn hóa Việt Nam, khỉ đã có mặt trong văn chương truyền khẩu

từ lâu, như trong bài dân ca “Lý qua đèo” ở Huế hay “Ăn ở trong rừng” của

quan họ Bắc Ninh. Ca trù có điệu xẩm huê tình cũng nhắc đến vượn. Ca dao

53

thì thường nhắc đến vượn để hàm ý nói đến sự xa xôi, cách trở, hoang dã:

“Má ơi! Đừng gả con xa/Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu”.

Trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, khỉ cũng thường được nhắc

đến. Ở miền sông nước, chiếc cầu tre bắc qua kênh rạch thường được gọi là

“cầu khỉ”. Thành ngữ, tục ngữ về khỉ có nhiều câu, chẳng hạn: Khỉ ho cò gáy,

giết gà dọa khỉ, rung cây dọa khỉ, nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Ngoài

ra, còn có những cụm từ đặc trưng gắn liền với khỉ như “làm trò khỉ”, “mặt

nhăn như khỉ”, “khỉ gió/khỉ khô/khỉ mốc”, “đồ khỉ/đồ khỉ gió”…

Dậu (gà)

Con gà, đặc biệt là gà trống, hiện diện trong nhiều nền văn hóa phương

Đông và phương Tây. Là vật nuôi được con người thuần hóa từ lâu trong lịch

sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại.

Từ thời cổ đại, gà đã là loài vật linh thiêng trong nhiều nền văn hóa, gắn

chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng, hoạt động thờ cúng tôn giáo, với tư cách

của một lễ vật. Gà có vai trò quan trọng trong đời sống xa xưa, đặc biệt ở

vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người,

là vẻ đẹp về thanh âm của những vùng quê yên ả.

Gà là một trong 12 con giáp. “Dậu” là một trong 12 chi của địa chi, và là

địa chi thứ mười, đứng trước nó là Thân, đứng sau nó là Tuất. Tháng Dậu

trong nông lịch là tháng 8 âm lịch. Về thời gian trong ngày, giờ Dậu tương

ứng với khoảng từ 17-19h. Về phương hướng, Dậu chỉ phương chính Tây.

Theo ngũ hành, Dậu tương ứng với Kim; theo âm dương, Dậu là âm.

Dậu mang ý nghĩa co nhỏ lại, chỉ trạng thái của quả cây sau khi đã phát

triển tột bậc sẽ bắt đầu teo tóp tại (ứng với tháng 8 mùa thu, khi nhà nông đã

hoàn tất việc thu hoạch nông sản).

54

Theo quan niệm dân gian của nhiều nước Á Đông, gà là vật phẩm cúng

lễ không thể thiếu để kính dâng lên tổ tiên, thần thánh. Trong tiếng Hoa, “đại

kê” (gà trống) gần âm với từ “đại cát” mang ý nghĩa may mắn, tốt lành.

Trong văn hóa Việt, gà gắn liền với đời sống nhà nông. Trên trống đồng

Đông Sơn, hình ảnh gà được thể hiện khá nhiều.

Trong truyền thuyết về vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa cũng có

xuất hiện hình ảnh của gà, theo đó, thành đắp đến đâu, đất lở đến đấy, rùa

thần Kim Quy báo cho nhà vua biết ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống

đến ngàn năm hóa thành yêu tinh ẩn trong núi, nếu diệt được nó thì việc xây

thành sẽ thành công. Hay trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, gà cũng

được nhắc đến với tư cách là một trong ba lễ vật thách cưới của Vua Hùng

trong cuộc kén rể cho con gái Mỵ Nương, gồm “voi chín ngà, gà chín cựa,

ngựa chín hồng mao”.

Trong võ thuật cổ truyền Việt Nam, có “Hùng kê quyền” (quyền gà

chọi) mô phỏng các kỹ thuật của gà chọi. Đặc trưng của bài quyền này là

những động tác dũng mãnh như gà chọi - loài vật dù nhỏ bé nhưng rất nhanh

nhạy, dũng mãnh trước đối thủ.

Trong nghệ thuật dân gian, gà là một chủ đề quen thuộc của tranh dân

gian Đông Hồ. Điều này đã được thể hiện trong hai câu thơ nổi tiếng của bài

thơ “Bên kia sông Đuống” của nhà thơ Hoàng Cầm: “Tranh Đông Hồ gà lợn

nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.

Tuất (chó)

Loài chó chính là một trong những động vật được loài người thuần hóa

sớm nhất trong lịch sử. Ngày nay, chó được coi như là “người bạn tốt” của

55

con người. Nhưng từ trước đó, các xã hội cổ đại, bao gồm cả Trung Quốc cổ

đại cũng chia sẻ quan niệm này. Trong xã hội Trung Quốc cổ đại, loài chó giữ

nhiều vai trò quan trọng, không chỉ trong đời sống thường nhật mà còn cả

trong những câu chuyện thần thoại của người dân.

Trong văn hóa Á Đông chó được xếp vào 12 con giápở vị trí thứ 11 với

chi Tuất và một trong những con vật thuộc lục súc. Trong quan niệm

của người Việt thì chó là con vật có thể đem đến những điều may mắn, mang

đến thuận lợi và nhiều niềm vui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang).

Trên đất nước Nhật Bản, chó rất được cảm tình, là bạn trung thành của

người, bảo hộ cho trẻ em và giảm nhẹ sự nhọc nhằn, đau đớn cho các sản phụ.

Ở Trung Hoa, chó là bạn đồng hành không kém phần trung thành của các vị

tu Tiên, cho đến tận khi họ đắc đạo. Đấng Đại Tôn xuất hiện trên núi Thái

Tôn dưới triều hoàng đế Vũ Hán, dắt theo mình một con chó vàng, con chó

của Han - tseu đã đổi màu thành màu đỏ như con chó trời, đã mọc cánh và trở

thành bất tử. Nhà luyện đan Wei Po - Yang đã bay lên trời cùng với con chó

của mình. Chó đá ở nông thôn Trung Hoa có chức năng canh giữ yêu quái vào

làng, có làng mang tên làng Chó Đá. Tuy chó đá không có vai vế như thần

Thổ Địa, không thấy thắp nhang, trẻ con có thể tuỳ tiện cưỡi lên lưng nó.

Nhưng chó đá cũng chiếm một vị trí đặc biệt trong tâm thức dân làng.

Ở Trung Quốc, Chó Bắc Kinh được coi là những con chó thiêng liêng,

thần thánh mà được kính trọng như theo một truyền thuyết về Thạch sư với

khả năng xua đuổi tà ma cho gia chủ. Chúng có thể chỉ được nuôi bởi Hoàng

tộc Trung Hoa và được tôn trọng như thần thánh và nếu ai ăn trộm một trong

những con chó này đều sẽ bị hành hình. Những người không thuộc quý tộc

56

phải cúi chào chúng. Khi hoàng đế băng hà, chó của Hoàng tộc sẽ được hi

sinh để có thể bảo vệ hoàng đế ở thế giới bên kia.

Truyền thuyết về ông tổ chó cũng còn thấy ở nhiều dân tộc khác ở Việt

Nam như Xê Đăng, S’tiêng, Giẻ Triêng, Chăm, Dao, Lô Lô… Ngày

nay người Dao vẫn coi mình là con cháu của Bàn Hồ do đó họ có tục thờ chó,

trang phục mô phỏng chó hay trang trí hình chó và để tóc kiểu chó. Cách để

tóc mái bằng trước trán mà người Pháp gọi là "theo kiểu chó" (à la chien)

ở người Cơ Tu, đó là kiểu để tóc thường thấy ở một số nhóm Xê Đăng, Tà Ôi,

Bru (các tộc cùng có truyền thuyết về ông tổ chó), người Cơ Tu ở Quảng Nam

bị gọi là "mọi có đuôi" vì nam giới Cơ Tu thường để đuôi khố dài phía

sau. Người Pa Cô còn giữ tục kiêng giết và ăn thịt chó như con vật tổ. Truyền

thuyết của người Pa Cô kể lại rằng, bà tổ và ông tổ chó vẫn sống cùng nhau ở

nơi đất liền với trời. Người Khuyển Nhung tự xưng tổ tiên là hai con chó

trắng (Bạch Khuyển), sùng bái vật tổ chó trắng.

Hợi (lợn)

Lợn là một trong 12 con vật tượng trưng cho chu kỳ 12 năm của Địa Chi

trong nhiều tính toán liên quan tới Can Chi của người Trung Quốc, Việt Nam,

Nhật Bản, Triều Tiên,… nó gắn liền với địa chi Hợi. Những người tin tưởng vào

chiêm tinh học Trung Hoa luôn gắn con vật với đặc điểm, đặc tính cá nhân.

Đối với người Việt Nam và Trung Quốc, lợn được nhân cách hóa qua

nhân vật hư cấu nửa người nửa heo Trư Bát Giới, một vị thần trên Thiên đình,

trong truyện nổi tiếng Tây du kí.

Đối với các dân tộc sống tại các đảo ngoài lục địa Đông Nam Á, ngoài

việc lợn là nguồn cung cấp thực phẩm, nó còn là biểu tượng của sự giàu có, là

57

quà cưới cho cô dâu và có khi còn là đơn vị hàng hóa quan trọng trong thương

trường. Đối với người theo đạo Ấn Độ giáo, thần Visnu có hình dạng con lớn,

chuyên hành hiệp cứu độ chúng sinh.

Trong văn hóa người Việt, lợn mặc dù là biểu trưng cho sự trù phú, an

nhàn, tốt lành và may mắn nhiều đến thế, nhưng hình ảnh của lợn cũng không

ít lần bị gắn với những điều xấu xí, tiêu cực.

Trong văn hóa dân gian Việt Nam, con lợn được thể hiện qua các bức

tranh dân gian Đông Hồ. Hình ảnh con lợn hiện hữu trên tấm lịch tường gia

đình để thể hiện sự sung mãn, phồn thực, vui vẻ hạnh phúc. Con lợn trong

quan niệm văn hóa cổ truyền thuộc dòng Âm ôn hòa nhã nhặn, sinh nở đầy

đàn nên yếu tố phồn thực được đề cao trong loại tranh dân gian, chúc tụng

năm mới gặp nhiều may mắn, con cháu đông vui, phúc lộc. Bức tranh lợn đàn

là biểu tượng của sự sung túc, no đủ, phồn thực.

58

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Thiên văn và chiêm tinh là hai ngành khoa học ra đời khá sớm. Khoa

chiêm tinh ra đời theo hai hệ thống: Phương Đông và Phương Tây. Thuật

chiêm tinh phương Tây dựa theo phương thức vận hành của các thiên thể, còn

thuật chiêm tinh phương Đông bắt nguồn từ 12 con giáp.

Hệ thống 12 con giáp được nhân dân khu vực châu Á, đặc biệt là Trung

Quốc và Việt Nam ứng dụng rất nhiều trong cuộc sống. Tại phương Đông

vẫn còn nhiều quốc gia sử dụng âm lịch. Âm lịch được lập theo các chu kỳ

thay đổi đều đặn của mặt trăng. Vì sử dụng âm lịch nên các ngày chính xác

của một năm mới luôn thay đổi theo từng năm và mỗi năm đều được “cầm

tinh” bởi một trong số 12 con vật.

Theo cung Hoàng đạo của người Việt, con đầu tiên là con Chuột (Tý),

sau đó là con Trâu (Sửu) và tiếp đến theo thứ tự là con Hổ (Dần), Mèo (Mão),

Rồng (Thìn), Rắn (Tỵ), Ngựa (Ngọ), Dê (Mùi), Khỉ (Thân), Gà (Dậu), Chó

(Tuất) và cuối cùng là con Lợn (Hợi). Trong số các con giáp này thì con Rồng

là con vật thần thoại và Tý, Dần, Tỵ và Thân là những con vật sống hoang dã

và thường tránh gặp con người. Bảy con còn lại là những vật nuôi trong nhà.

Cứ mỗi chu kỳ 12 năm, lại mang tên con vật cũ.

Ngày nay, không chỉ thuật chiêm tinh của phương Tây mà thuật chiêm

tinh của phương Đông vẫn còn vô vàn những điều bí ẩn mà loài người chưa

có câu trả lời thích hợp trên một số khía cạnh của vấn đề. Tuy vậy, trong thực

tế cuộc sống, nó vẫn tồn tại với những giá trị bất biến theo thời gian nhờ vào

khả năng và quá trình đúc kết kinh nghiệm và sự chiêm nghiệm của người

xưa về quy luật tương tác giữa vũ trụ và con người nên hiện nay nó vẫn giữ

được một cách toàn vẹn tính đúng đắn trong cuộc sống thực tiễn.

59

CHƢƠNG 2: TƢƠNG ĐỒNG TRONG QUAN NIỆM TRONG 12

CON GIÁP Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

2.1. Tín ngƣỡng cộng đồng

Văn minh Trung Hoa trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên một

hệ thống quan điểm - tư tưởng luận rất phức tạp. Đó là triết lý nhị nguyên

(âm dương), ngũ hành, 12 con giáp…. Hệ thống kiến thức này là sự bổ

sung xây dựng, hoàn thiện không ngừng. Hệ thống tư tưởng ấy cũng đã ảnh

hưởng mạnh mẽ tới suy nghĩ của con người và xuất hiện trong mọi quyết

định, sự kiện quan trọng như sinh nở, cưới hỏi và cách đối đãi trong quan

hệ nhân sinh.

Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ về vị trí địa lý cùng lịch sử phát

triển lâu dài. Từ cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam có sự

giao lưu - tiếp biến văn hóa với văn minh Trung Hoa, văn minh Ấn Độ và

và văn hóa phương Tây. Trong đó sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa

đối với văn hóa Việt Nam đặc biệt lâu dài về lịch sử, sâu sắc về tính chất và

rộng lớn về phạm vi. Trong quá trình giao thoa và tiếp biến, mọi yếu tố văn

hóa đều có thể có sự biến đổi bởi nhiều lý do khác nhau. Các yêu tố ấy như

điều kiện tự nhiên – khoảng cách địa lý, thay đổi tính chất trên quá trình

truyền bá, thêm hoặc bớt các yếu tố để phù hợp với văn hóa bản địa …

Thậm chí khi đã trở thành một phần của văn hóa bản địa thì những thành tố

này cũng không ngừng phát triển và thay đổi theo biến thiên xã hội và lịch

sử. Không nằm ngoài quy luật đó, hệ thống can – chi nói chung, 12 con

giáp nói riêng cũng có những điểm khác biệt nhất định giữa văn hóa Trung

Quốc và văn hóa Việt Nam. Về điểm tương đồng, sẽ có một số điểm là:

60

- Quan niệm về sự ra đời và nguồn gốc 12 con giáp

- Khái niệm và quan hệ 12 con giáp

- Sự ảnh hưởng và ứng dụng của 12 con giáp

2.1.1. Quan niệm về sự ra đời và nguồn gốc 12 con giáp

Phần lớn các quan niệm cho rằng hệ thống thiên can, địa chi và 12

con giáp là xuất phát từ văn minh Trung Hoa. Điều này thể hiện qua nhiều

thư tịch và các tài liệu lịch sử có từ sớm được các triều đại Trung Quốc ghi

chép lại. Người Trung Quốc cũng có truyền thuyết về việc hình thành thứ

tự 12 con giáp như sau:

Vào thời xa xưa, Ngọc Hoàng thượng đế muốn tìm ra cách để tính thời

gian và đã tổ chức một cuộc đua với sự tham gia của các loài động vật. Mười

hai con vật đầu tiên vượt qua được dòng sông sẽ được đứng trong lịch, loài

nào về trước sẽ được tính trước. Con chuột thức dậy rất sớm và xuất phát vào

lúc Mặt Trời mọc, sau đó nó tình cờ gặp ngựa, hổ và trâu lúc trên đường đến

dòng sông.

Con chuột rất nhỏ và không bơi giỏi, nó đã nhờ các con khác to lớn

hơn giúp đỡ. Nhưng hổ và ngựa từ chối thì trâu tốt bụng đã đồng ý đưa

chuột qua sông. Khi chúng chuẩn bị sang đến bờ bên kia, thì chuột đã nhảy

khỏi lưng trâu và chạy đến đích đầu tiên. Sau đó trâu về nhì còn hổ về thứ

ba. Còn Thỏ vì quá nhỏ bé để chống lại dòng nước xiết nên nó đã nhảy trên

những tảng đá và khúc cây nổi trên sông để về thứ tư.

Về vị trí thứ 5 là rồng, mặc dù nó đã có thể bay thẳng qua sông nhưng

đã dừng lại để để làm mưa giúp người nông dân. Tiếp đến là ngựa, nó

đang phi thật nhanh qua sông, nhưng khi gần về đến đích thì có một con

rắn lại trườn qua, làm ngựa giật mình dừng lại. Và rắn đã thay vào vị trí

của ngựa về thứ 6, còn ngựa thứ 7.

61

Ngọc Hoàng nhìn ra phía dòng sông, thấy dê, khỉ, gà đang ở trên một

chiếc bè và cùng nhau đẩy để thoát khỏi dòng sông. Tới khi chúng sang

được bờ bên kia thì cả ba lại quyết định nhường vị trí thứ tám cho dê, con

vật hiền nhất trong nhóm. Sau tiếp đó mới tới khỉ và gà. Vị trí thứ 11 là

chó, nó đang cố gắng bò lên bờ sông. Con chó bới rất giỏi nhưng vì mải

chơi dưới nước nên đã về đích ở vị trí gần cuối. Vị trí cuối cùng thuộc về

lợn vì nó đói quá nên đã dừng lại để ăn và ngủ một giấc ngắn trước khi bơi

qua sông để về đích.

Cuộc đua trên được xem như quyết định những con vật nào được thờ

trong lịch Hoàng đạo của Trung Hoa

Ngoài ra thì còn một số người bao gồm cả người Trung Quốc và

người Việt Nam giải thích nguyên nhân có 12 con giáp là từ tập quán của

các con vật này mà con người quan sát được. Một số nghiên cứu gần đây

cho rằng nguốn gốc 12 con giáp có từ văn minh các nước trồng lúa nước

phía Nam sông Dương Tử trong đó có Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu

lại cho rằng 12 con giáp xuất phát từ Trung Quốc, sau đó có kế thừa và bổ

sung các yếu tố từ văn minh phía Nam để hoàn thiện như hiện này….

Tóm lại ở cả hai quốc gia đều cho thấy 12 con giáp có nguồn gốc từ

lâu đời, không có thời gian ra đời cụ thể hay tác giả cụ thể. Ở mỗi vùng,

mỗi dân tộc sẽ có những truyền thuyết để giải thích về sự ra đời của 12 con

giáp khác nhau. 12 con giáp hình thành và thay đổi qua quá trình lâu dài, là

sản phẩm của việc nghiên cứu thiên văn, địa lý, tự nhiên, động vật…. của

các nhà tri thức cổ đại. Sau đó được bổ sung kết hợp bằng các kiến thức

dân gian và bằng chính kinh nghiệm trong đời sống của người dân.

2.1.2. Khái niệm và quan hệ 12 con giáp

Bảng 2.1: Thứ tự tên gọi 12 con giáp trong tiếng Trung và tiếng Việt

62

TT Thập nhị địa chi Tên gọi con Tên gọi Con vật

giáp trong tiếng trong tiếng tƣơng ứng

Trung Việt

1 Tý 子 (zǐ) 老 鼠 (láoshǔ) Tý Chuột

(lão thử)

2 Sửu 丑 (chǒu) 牛 (níu) Sửu Trâu

(ngưu)

3 Dần 老 虎 (láohǔ) Dần Hổ/ Cọp 寅

(yín) (lão hổ)

卯 4 Mão 兔子 (tùzi) Thỏ

(mǎo) (Thố tử)

Mão Mèo

5 Thìn 辰 (chén) 龍 (lóng) Thìn Rồng

(龙 long)

6 Tỵ 巳 (sì) 蛇 (shé ) Tỵ Rắn

(xà)

7 Ngọ 午 (wǔ) 馬 (mǎ ) Ngọ Ngựa

(马 mã)

8 Mùi 未 (wèi) 羊 (yáng ) Mùi Dê

(dương)

9 Thân 申(shēn) 猴子 (hóuzi) Thân Khỉ

(hầu tử)

10 Dậu 酉 (yǒu) 雞 (jī ) Dậu Gà

(kê 鸡)

63

11 Tuất 戌 (xū) 狗 (gǒu) Tuất Chó

(cẩu)

12 Hợi 亥 (hài) 猪 (zhū ) Hợi Lợn

(trư)

- Tương đồng trong quan niệm 12 con giáp

Điều đầu tiên có thể khẳng định đó là ở Việt Nam và Trung Quốc

đều có hệ thống Thiên Can – Địa Chi trong đó có mười Thiên Can và mười

hai Địa Chi có tên gọi và tính chất giống nhau. Tương ứng với các Địa Chi

cũng là 12 con giáp mang những đặc điểm, tính chất và ý nghĩa cụ thể. Đây

là điểm tương đồng quan trọng nhất giữa 2 nền văn hóa.

Điểm tương đồng thứ hai của 12 con giáp trong văn hóa Trung Quốc

và Việt Nam đó là đều có tính phổ biến giống nhau. Cả người Việt Nam và

người Trung đều coi đây là một thành tố rất quan trọng trong cuộc sống,

gắn liền với hầu hết các lĩnh vực và đều là cơ sở của nhiều hoạt động văn

hóa truyền thống khác đối với cả hai đất nước. Cả người Việt và người Hoa

đều gắn cho các con giáp những đặc điểm, tính chất, quy luật xuất phát từ

những con vật cả trong thực tế và không có thật. Từ đó, các đặc điểm, tính

chất, quy luật này tác động và chi phối tới đời sống con người và xã hội. Ở

cả hai nền văn hóa chúng ta đều thấy việc hình thành 12 con giáp là do con

người nghĩ ra, phân tích và liên tưởng rồi sau đó lại tác động lại đời sống

của con người, đặc biệt đối với văn hóa truyền thống và trong tôn giáo tín

ngưỡng.

Thứ ba, đối với 12 con giáp, cả người Trung Quốc và người Việt

Nam đều có những quan niệm về ý nghĩa, tương đồng của sinh chúng với

64

tính cách và tác động của 12 con giáp tới cuộc sống con người. Những

quan niệm này có thể xuất phát từ đặc trưng của các loài vật ở đời thực.

Tý – con chuột: đại diện của sự thông minh, nhanh nhẹn.

Sửu – con bò, con trâu: đại diện cho sự cần cù, chăm chỉ, ổn định.

Dần – con hổ: đại điện cho sự dũng mãnh, hung dữ, nguy hiểm.

Mão – con thỏ/con mèo: đại diện cho sự linh hoạt, khéo léo, hữu ích.

Thìn – con rồng: biểu hiện của quyền lực, may mắn, giàu mạnh.

Tỵ - con rắn: đại diện cho việc sinh sôi, tính tinh ranh.

Ngọ - con ngựa: đại diện cho sức mạnh, việc di chuyển, thay đổi.

Mùi – con dê: sự chuẩn mực, điềm đạm, kiên trì.

Thân – con khỉ: sự nhanh nhẹn, hoạt bát và dễ thay đổi.

Dậu – con gà: sự kỷ luật, dũng cảm.

Tuất – con chó: biểu hiện sự trung thành, thông minh.

Hợi – con lợn: biểu hiện tính ổn định, bình an, chậm chạp.

- Tương đồng trong thứ tự và các quy luật

Ở cả hai nền văn hóa, 12 con giáp có điểm thống nhất đối với thứ tự

các con giáp và các quy luật gắn với tính chất của chúng. Trong đó có 3

quy luật tương đồng phổ biến và quan trọng nhất là quy luật xung – hợp

của các địa chi và con giáp ứng với ngũ hành. Cụ thể:

Tính chất 12 địa chi theo ngũ hành như sau:

Tý Thủy Thìn Thổ Thân Kim

Sửu Thổ Tỵ Hỏa Dậu Kim

Dần Mộc Ngọ Hỏa Tuất Thổ

Mão Mộc Mùi Thổ Hợi Thủy

65

Đặc tính âm – dương của 12 địa chi như sau: Tý – dương; Sửu – âm;

Dần – dương; Mão – âm; Thìn – dương; Tỵ - âm; Ngọ - dương; Mùi – âm;

Thân – dương; Dậu – âm; Tuất – dương; Hợi – âm.

Tam hợp: Từ tính chất 12 địa chi theo ngũ thành, mọi người quan niệm

các con giáp này có tính chất phù hợp nhau, tốt và may mắn khi kết hợp với

nhau cụ thể:

- Tam hợp Hỏa cục gồm có Dần, Ngọ, Tuất. Bắt đầu từ Dần -Mộc,

tiến tới Ngọ - Hỏa rồi đi vào Tuất Thổ.

- Tam hợp Mộc cục gồm có Hợi, Mão, Mùi. Bắt đầu từ Hợi - Thủy,

tiến tới Mão - Mộc rồi đi vào Mùi - Thổ.

- Tam hợp Thủy cục gồm có Thân, Tý, Thìn. Bắt đầu từ Thân - Kim,

tiến tới Tý - Thủy rồi đi vào Thìn - Thổ.

- Tam hợp Kim cục gồm có Tị, Dậu, Sửu. Bắt đầu từ Tị - Hỏa, tiến tới

Dậu - Kim rồi đi vào Sửu - Thổ.

Lục xung, lục hợp và lục hại. Cũng từ tính chất các địa chi theo ngũ

hành mà chúng được chia ra các cặp xung nhau và hợp nhau và hại nhau

trong đó:

- Lục xung gồm: Tý – Ngọ; Mão – Dậu; Thìn – Tuất; Sửu – Mùi; Dần

– Thân; Tỵ - Hợi.

- Lục hợp gồm : Tý – Sửu, Dần – Hợi, Mão – Tuất, Thìn – Dậu, Tị –

Thân, Ngọ – Mùi.

- Lục hại gồm: Tý – Mùi; Sửu – Ngọ; Dần – Tỵ; Mão – Thìn; Thân –

Hợi; Dậu – Tuất.

2.1.3. Sự ảnh hưởng và ứng dụng 12 con giáp

 Tương đồng trong lịch pháp

66

Cách tính thời gian hay còn gọi là lịch pháp là điểm tương đồng nổi

bật nhất của 12 con giáp của người Việt Nam, trường Trung Quốc và các

nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nói chung.

Trên Thế giới có rất nhiều loại lịch. Các loại lịch được thiết lập dựa

trên căn cứ khác nhau như dựa vào quỹ đạo di chuyển của trái đất và mặt

trời, dựa vào sự thay đổi của các chòm sao, dựa vào qui luật của các hiện

tượng tự nhiên (con nước)… Ngoài được gọi theo thứ tự số đếm thì vì

những nguyên nhân khác nhau mà mỗi nền văn hóa lại có những cách tính

lịch và tên các tháng, năm khác nhau.

Quá trình hình thành lịch theo mặt trăng ở các nước khu vực châu Á

nói chung và âm lịch nói chung trải qua quá trình lâu dài, có nhiều thay đổi

và điều chỉnh để có diện mạo như ngày nay. Văn minh Trung Hoa trải qua

nhiều đời đã hình thành ra một loại lịch được mã hóa theo hệ thống can

(10) chi (12). Tên các can gồm: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân,

nhâm, quý. Tên các chi gồm: tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu,

tuất, hợi. Tất cả các thông số thời gian về giờ, ngày,tháng, năm đều được

mã hóa bằng các đơn vị trên. Ví dụ như giờ Mậu Tí, ngày Tân Hợi, tháng

Quý Dậu, năm Kỷ hợi (ngày 00 giờ ngày 13 tháng 8 năm Kỷ Hợi – âm lịch;

ngày 11 tháng 9 năm 2019 dương lịch). Quá trình hình thành lịch này trải

qua nhiều biến đổi lâu dài: “Lịch Thương kiến Sửu (tháng 12 là tháng đầu

năm), lịch Chu kiến Tí (tháng 11), lịch Tần Hán Sở kiến Hợi (tháng 10)”.

Từ thời Sở, lịch đã lấy tháng Dần là tháng đầu năm – tháng Giêng, muộn

hơn hai tháng so với lịch Chu. Đến các thời Tần, Hán đều sử dụng lịch kế

thừa từ thời Sở.

67

Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng lịch sử dụng 12 con giáp

ứng với 12 tháng trong năm được xây dựng từ những nền văn hóa trồng lúa

nước phía nam sông Dương Tử (bao gồm cả Việt Nam). Lý do nói như vậy

là vì sản xuất nông nghiệp lúa nước thì các qui trình thời gian rất quan

trọng. Người nông dân phải biết rất rõ đặc điểm thời tiết trong năm để có

thể sản xuất do đó họ đã hình thành nên lịch từ quan sát trăng, sao và các

hiện tượng thời tiết. Sau đó họ đã mã hóa các đơn vị thời gian này bằng

việc gọi tên bằng các con vật.

Văn hóa dân gian ở cả hai nước cũng đưa ra cách giải thích việc dùng

12 con giáp để tính giờ đó là dựa và các đặc điểm sinh hoạt của loài vật. Cụ

thể như: giờ tý (23 giờ đến 00 giờ 59) là giờ chuột hoạt động mạnh nhất;

giờ sửu (1 giờ đến 2 giờ 59) là giờ trâu bò đang nhai lại, giờ dần (3 giờ đến

4 giờ 59) là giờ con hổ đáng sợ nhất; giờ mão (5 giờ đến 6 giờ 59) là giờ

loài thỏ, loài mèo thức dậy bắt đầu đi kiếm ăn; giờ thìn (7 giờ đến 8 giờ 59)

là giờ rồng xuất hiện thường tạo mưa (tuy nhiên rồng là con vật thần thoại

không có thật); giờ tỵ (9 giờ đến 10 giờ 59) là giờ loài rắn không hại người;

giờ ngọ (11 giờ đến 12 giờ 59) là thời điểm nóng nhất (theo truyền thuyết

loài ngựa kéo xe mặt trời bay qua vũ trụ; ngọ là tính dương); giờ mùi (13

giờ đến 14 giờ 59) hời gian dê ăn cỏ không ảnh hưởng tới việc cây cỏ

mọc lại; giờ thân (15 giờ đến 16 giờ 59) là thời gian loài khỉ hiếu động

và gọi nhau; giờ dậu (17 giờ đến 18 giờ 59) là giờ loài gà về chuồng;

giờ tuất (19 giờ đến 20 giờ 59) là thời gian bắt đầu buổi đêm, loài chó

bắt đầu hoạt động trông nhà; giờ hợi (21 giờ đến 22 giờ 59) là thời gian

loài lợn ngủ say nhất.

68

Như vậy, ở cả hai nước đều có việc sử dụng 12 con giáp làm tên cho

các đơn vị thời gian. Cụ thể một ngày có có 12 (canh) giờ bắt đầu từ giờ Tý

(23 giờ) đến giờ Hợi (22 giờ 59 phút). Một tháng có 27 đến 30 ngày được

tính liên tục kết hợp theo Can – Chi. Một năm có 12 tháng bắt đầu từ tháng

dần (tháng Giêng) và cũng kết hợp cùng với các Thiên Can. Các năm được

đặt tên theo các thiên can liên tục, 12 năm từ Tý đến Hợi là 1 giáp. Kết hợp

giữa thiên can và địa chi có qui luật 60 năm là một Hoa Giáp, người Việt

Nam còn gọi là “một Hội”. 10 Thiên can kết hợp với 12 địa chi theo

nguyên tắc là can dương sẽ kết hợp với chi dương, còn can âm sẽ kết hợp

với chi âm tạo nên một tổ hợp thiên can địa chi từ 1 đến 60 là kết thúc. Sau

đó lại tuần hoàn tiếp một vòng mới đó chính là một hoa giáp.

Một nét rất đặc biệt của văn hóa các nước trong phạm vi ảnh hưởng

của văn hóa Hán đó là quan tâm tới tính chất của các ngày. Việc gọi tên các

năm, tháng, ngày, giờ theo hệ thống can chi đồng nghĩa với việc đặt cho

thời gian mang những đặc điểm tính chất của thiên can, địa chi đó. Mọi

người thường suy nghĩ một cách đơn giản hơn đó là các năm, tháng, ngày,

giờ sẽ mang tính chất của con giáp đó. Ví dụ ngày 5/5 là ngày tết Đoan

Ngọ thường trong thời gian nóng nhất vào mùa hè, vì người ta quan niệm

chi Ngọ thuộc dương hỏa, biểu tượng cho sức nóng, hoặc nhiều người cũng

nghĩ năm Thìn – rồng là năm có nhiều may mắn…. Quan niệm này chính là

nguyên nhân hình thành nhiều phong tục tập quán của cả hai nước như

chọn ngày giờ may mắn, phán đoán tính các đối đối tác, chọn người sinh có

các tuổi phù hợp trong công việc, hôn nhân…

69

 Tương đồng trong ứng dụng 12 con giáp đối với đời sống xã hội.

Cũng từ việc mã hóa thời gian mà đặc biệt là đơn vị năm bằng các địa

chi mà ở cả Việt Nam và Trung Quốc đều hình thành quan niệm “tuổi”,

“cầm tinh” các con giáp đối với người sinh vào các năm tương ứng. Và con

giáp có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống từng cá nhân trong suốt cuộc

đời thông qua đặc điểm tính cách, khả năng bản thân, mức độ may mắn

trong cuộc sống.

Những quan niệm, qui luật xoay quanh 12 con giáp còn tác động đến

mọi các lĩnh vực trong đời sống văn hóa xã hội ở cả hai nền văn hóa đặc

biệt trong các mối quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa con người

với công việc và quan quan hệ giữa con người với các thời điểm.

Cả người Việt và người Hoa đều rất quan tâm đến ngày tháng năm

sinh của bản thân mình với mong muốn nhờ đó có thể biết được một phần

tương lai, cuộc đời thông qua khoa học tính toán suy luận mang tên tử vi.

Đây là một môn khoa học rất phức tạp trong đó 12 con giáp là một yếu tố

rất quan trọng. Cả người Trung Quốc và người Việt Nam đều cho rằng các

yếu tố về ngày - giờ sinh sẽ quyết định cuộc đời một người.

Ở cả hai nền văn hóa, còn có thể thấy sự ảnh hưởng của 12 con giáp

tới các quan hệ cơ bản như quan hệ bố mẹ - các con; quan hệ vợ - chồng;

quan hệ bạn bè hay quan hệ đối tác trong công việc. Mọi người thường cố

gắng lựa chọn các đối tượng có tính chất hợp và tránh những trường hợp

không hợp hoặc xung khắc với nhau theo quan hệ của 12 con giáp. Ngoài

ra mọi người cũng thường dùng việc này để đưa ra các lựa chọn hay giải

thích những mâu thuẫn, sự cố trong các mối quan hệ trong đời. Việc ảnh

70

hưởng của các qui luật 12 con giáp là phổ biến ở cả hai nền văn hóa Việt

Nam và Trung Quốc.

2.2. Lễ hội – văn hoá dân gian

2.2.1. Sùng bái linh vật

Trên thực tế, khi con người chọn các loài động vật làm con giáp thì

chúng đã trở thành những loài vật đặc biệt khác với động vật nói chung. Ở

cả 2 nền văn hóa, 12 con giáp là những con vật thường thấy hoặc có thể

thấy trong cuộc sống thực (trừ con rồng). Các con vật này gần gũi, có quan

hệ bình thường đối với đời sống con người, con người sử dụng nó để lao

động và đi lại (con trâu, bò, ngựa), tiêu diệt chúng (con chuột), nuôi làm

vật nuôi (con chó, mèo), nuôi làm thực phẩm (lợn, dê, bò…) hay sẵn sàng

giết thịt hầu hết các loài chúng để làm món ăn (trừ rồng). Thậm chí với

những con vật được cho là người bạn thân thiết với con người như chó,

mèo thì người Việt và người Hoa cũng có thể chế biến thành các món ăn.

Ngoài việc là kiến thức dân gian thì ở cả hai nền văn hóa, 12 con giáp

đều được gắn với đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Với đặc trưng đa thần,

nhiều nước khu vực châu Á đều có hiện tượng các loài động vật trở thành

linh vật đối với con người. Văn hóa của người Việt và người Hoa, các con

vật trong 12 con giáp cũng mang những ý nghĩa đặc biệt. Ví dụ như họ đều

rất tôn trọng con trâu, bò vì nó có giá trị lớn với kinh tế gia đình. Họ cũng

thờ cúng một số loài như hổ, rắn và coi đây là các loài vật có sức mạnh siêu

nhiên. Họ có rất nhiều truyền thuyết và các nhân vật ma quỉ hoặc thần từ

các loài này ví dụ như Hổ Tinh trong Tây Du Ký, Thanh Xà, Chằn tinh…

trong các truyền thuyết Việt Nam và Trung Quốc. Hình tượng Long Mã

71

trong số truyền thuyết Trung Quốc hay thờ cúng các “Ông Ngựa” của

người Việt Nam… Các con vật trong 12 con giáp trong quan niệm của cả

hai nền văn hóa còn mang những thông điệp về cuộc sống như con lợn là

no ấm, con chó là sự an toàn, trung thành… Một hiện tượng rất thống nhất

nữa đó là con rồng trong hai nền văn hóa. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều

cho rằng con rồng mang lại trời mưa (Long Vương) tốt cho nông dân. Con

rồng cũng là hình ảnh của quyền lực chính trị. Các con rồng thường đồng

hành cùng với các vua chúa phong kiến và được trang trí trên cung điện,

quần áo và các đồ dùng có liên quan đến vua. Ở cả hai nước, các con vật

đều được thờ cúng, sử dụng trong nhiều hoạt động văn hóa, tâm linh với

những ý nghĩa khác nhau. 12 con giáp còn được vẽ thành tranh, tạc

tượng, chạm khắc ở nhiều khu đền, chùa, các công trình văn hóa truyền

thống. Nhiều người cũng bày các bức tượng con giáp, treo tranh con

giáp, đeo các loại trang sức có hình con giáp của mình với hi vọng sẽ có

được may mắn, được mọi người biết đến hoặc đơn giản hơn là vì họ yêu

thích và muốn ghi nhớ năm sinh, tuổi và bản thân của mình.

Như vậy ta thấy, cả ở văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam đều

xuất hiện việc các con vật trong 12 con giáo trở thành linh vật trong tín

ngưỡng dân gian. Mặt khác, chúng ta cũng thấy ở cả hai văn hóa các linh

vật 12 con giáp đều vừa là động vật bình thường trong cuộc sống, vừa là

loài có sự linh thiêng. Điều này rất khác với một số tôn giáo và văn hóa

như con bò hay con lợn trong Hồi giáo.

2.2.2. Lễ hội truyền thống

Một điểm tương đồng nữa của 12 con giáp trong văn hóa Việt Nam

và Trung Quốc đó là trong các hoạt động văn hóa dân gian. Ở cả hai dân

72

tộc chúng ta đều bắt gặp sự xuất hiện của các con giáp gắn với các lễ hội,

ngày lễ… tuy có từng lễ hội khác nhau. Có thể nói tới như ngày tết Đoan

Ngọ hay tết Đoan Dương (5/5 âm lịch); Trung Thu (15/8 âm lịch), đặc biệt

là ngày Trung Thu. Cả người Việt Nam và người Trung Quốc đều có

phong tục gắn với hình tượng con thỏ vào ngày này. Người Trung Quốc vẽ

tranh thỏ, dán hình thỏ ở cửa…. còn người Việt thì làm đèn lồng hình con

thỏ tròn cho trẻ em chơi.

Người Dao ở Việt Nam và một số tộc người phía nam Trung Quốc

gần biên giới cũng có Lễ hội 12 con giáp hay còn gọi là Lễ hội cầu mùa.

Họ nghĩ rằng, mỗi năm đều có vị thần khác nhau quản lý. Một năm có 12

tháng, tương ứng với 12 vị thần trông nom là 12 con giáp: Tý, Sửu, Dần,

Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Muốn gia đình bình

yên, hạnh phúc và nông nghiệp phát triển thì hàng năm dân làng phải tổ

chức cầu nguyện 12 vị thần con giáp.

Lễ cúng có: đầu con lợn, gà, xôi; hoa quả; gạo, đèn, nhang... được đặt dưới

cây nêu, tượng trưng cho trời và đất. Dưới cây nêu có 12 lá cờ ứng với 12

con giáp. Người dân xây 2 ngôi nhà nhỏ để thần ở. Mang các lễ vật đến và

nói giống như “Chúng tôi mong muốn thần 12 con giáp về giúp cho con

cháu mạnh khỏe, nông nghiệp phát triển, thời tiết tốt”. Thầy pháp thuật sẽ

xin phép và mời 12 con giáp hiện về. Mỗi thần linh con giáp sẽ có tính

cách đặc trưng của từng con vật. 12 con giáp được thầy pháp thuật làm

phép thuật, mời ăn uống... và cuối cùng đưa vào miếu thờ để trông coi

mùa màng hàng tháng. 12 con giáp cũng được thầy pháp thuật cho tới

73

quan tâm từng nhà để mọi người mạnh khỏe, không ốm đau và bệnh tật.

Sau khi lễ xong, mọi người cùng vui chơi lễ hội, nhảy múa, ca hát.

Con người còn làm các loại đèn lồng theo hình 12 con giáp trong các

lễ hội ở cả hai nước rất đẹp. Ở Trung Quốc và ngày Nguyên Tiêu (15 tháng

1) mọi người làm các đèn lồng rất lớn theo nhiều hình khác nhau để bày.

Rất nhiều người làm các đèn lồng theo chủ đề con giáp năm đó hoặc bộ 12

con giáp. Ở Việt Nam vào ngày Trung Thu, mọi người cũng làm đèn lông

theo hình 12 con giáp, trang trí giống 12 con giáp để trẻ em chơi hoặc bày

ra đường cho đẹp. Ngoài ra mọi người còn mặc quần áo, hóa trang, đeo mặt

nạ theo các hình con giáp khi đi chơi ngoài đường.

Trong văn học nghệ thuật ở cả hai đất nước, các con giáp đêu trở

thành chủ đề sáng tác của nhiều các nghệ sĩ thông qua các bài thơ, các câu

chuyện thần thoại… Hình tượng các con giáp cũng được sáng tác qua các

tác phẩm dân gian như các bức phù điêu trang trí, các chi tiết gỗ trên mái

nhà, các bức tranh dân gian theo năm, các bức tượng phong thủy và các

hình giấy dán trang trí vào năm mới. Ở cả hai nước, hình ảnh các con giáp

đều được mọi người sử dụng với nhiều ý nghĩa và mục địch khác nhau.

Đặc biệt vào ngày tết ở cả hai đất nước, mọi người có rất nhiều việc

liên quan đến con giáp của năm đó như treo tranh ảnh có con giáp, viết các

bài thơ và các câu chúc tết liên quan đến con giáp năm đó. Nhiều năm gần

đây thì ở cả hai nước đều có in các bộ tem kỷ niệm theo các năm của 12

con giáp.

74

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Cả ở văn hóa Trung Quốc và Việt Nam, 12 con giáp nói riêng hệ

thống Can Chi nói chung đều rất phổ biến và có vai trò quan trọng trong

đời sống. Tuy là hai nền văn hóa có ngôn ngữ và nhiều đặc điểm khác nhau

nhưng có thể thấy nhiều điểm tương đồng về 12 con giáp. Đó là tương

đồng về nguồn gốc lâu đời và các giải thích đa dạng về sự ra đời của 12

con giáp; Sự tương đồng về khái niệm, thứ tự và quan hệ của 12 con giáp

và sự ảnh hưởng rộng lớn và ứng dụng của 12 con giáp tới lịch pháp, quan

hệ gia đình, quan hệ xã hội và lao động sản xuất. 12 con giáp trong văn hóa

Việt Nam và Trung Quốc còn tương đồng trong việc đều có các tín ngưỡng

sùng bái linh vật, việc xuất hiện các ngày lễ, lễ hội và sáng tác nghệ thuật

có liên quan tới các con giáp hoặc cả 12 con giáp.

Vì có vị trí địa lý gần nhau, điều kiện tự nhiên nhiều nơi giống nhau

và đặc biệt là văn hóa, lịch sử có nhiều quan hệ với nhau nên 12 con giáp ở

hai nước có nhiều điểm tương đồng.

75

CHƢƠNG 3: KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP

Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

3.1. Tín ngƣỡng cộng đồng

3.1.1. Khác biệt về quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và Trung Quốc

Từ bảng 2.1 ta cũng có thể thấy rõ thập nhị chi trong văn hóa Việt

Nam và Trung Quốc tuy khác biệt về mặt ngôn ngữ trong phát âm nhưng

vẫn gồm 12 chi lần lượt: Tý - 子, Sửu - 丑, Dần - 寅, Mão - 卯, Thìn - 辰,

Tị - 巳, Ngọ - 午, Mùi - 未, Thân - 申, Dậu - 酉, Tuất - 戌, Hợi -亥.Tuy

nhiên ta cũng dễ dàng thấy sự khác biệt trong hiện thân của chi thứ 2

(Ngưu 牛) thứ 4 (Mão - 卯) đó là tương ứng với con vật khác nhau trong

văn hóa Việt Nam và con thỏ trong văn hóa Trung Quốc.

1. Khác biệt trong quan niệm vê địa chi Sửu

Đối địa chi Sửu trong văn hóa Trung Quốc có sinh tiếu là ngưu (牛)

và ở Việt Nam là con Trâu. Nếu không chú ý thì nhiều người dễ đồng nhất

và không thấy sự khác biệt này. Cụ thể trong sách Tam thiên tự (Hán –

Nôm – Quốc ngữ) có viết 牛 (ngưu) - Trâu trong khi trong tiếng Trung 牛

lại có nghĩa là con bò hoặc các con thuộc giống bò (ví dụ 奶牛 – Nǎiniú là

bò sữa; 印度野牛 - Yìndù yěniú là bò tót…). Trên thực tế con trâu trong

tiếng Trung phải là 水牛 (Shuǐniú) – thủy ngưu có nghĩa là loài bò có thể

sống ở môi trường nước. Nói cách khác, sinh tiếu của địa chi Sửu trong văn

hóa Trung Quốc là các loài thuộc giống bò, có thể là bò vàng (黄牛 –

Huángniú – Hoàng ngưu); bò xám ( 林 牛 - Lín niú); trâu ( 水 牛 -

Shuǐniú)…. Trong khi ở Việt Nam chi Sửu chỉ có sinh tiếu là con trâu/ trâu

nước (水牛). Về khác biệt này, giáo sư Trần Quốc Vượng có đưa ra nguyên

76

nhân là do sự hiểu lầm của các thầy đồ Nho học trước đây. Cụ thể như sau:

Người Hoa khởi nguồn từ miền hoàng thổ khô hạn vùng Hoa Bắc, lưu vực

Hoàng Hà, ở đó chỉ có giống bò và ngưu (牛) chỉ có nghĩa là “bò”.Triển

nở và bành trướng xuống miền nam, người Hoa mới thấy con trâu và mệnh

danh nó là “thủy ngưu” (bò nước) hay “hắc ngưu” (bò đen). Trên thực tế

thì đặc trưng sinh học của loài trâu nước mà người Việt biết vốn chỉ phù

hợp với khí hậu vùng nhiệt đới, các vùng có khí hậu nóng ẩm và có địa

hình sông ngòi, các đầm nước phong phú. Cũng theo giáo sư Trần Quốc

Vượng thì vùng đầm lầy Đông Nam Á là quê hương của loài trâu và tên gọi

“trâu – tre – klu – kéc bau…” là một từ thuần Đông Nam Á.

2. Khác biệt về địa chi Mão

Đối với địa chi thứ 4 (Mão - 卯) đó là tương ứng với con mèo trong

văn hóa Việt Nam và con thỏ trong văn hóa Trung Quốc. Sự khác biệt này

được giải thích bằng nhiều các khác nhau.

Theo từ nguyên học, có một số tác giả và nhà nghiên cứu như

Philippe Papin, An Chi, Nguyễn Quảng Tuân, Phạm Thị Hảo, Nguyễn

Cung Thông… đưa ra một số ý kiến giải thích về nguồn gốc sự khác biệt

của địa chi Mão ở Việt Nam và Trung Quốc.

Theo Philippe Papin thì Mão (thỏ) trong tiếng Hán gần (âm)

với mèo trong tiếng Việt. Ở đây, do cái đà (trớn) của âm thanh mà ta có

một sự trượt nghĩa, như vẫn thường thấy. Điều này có nghĩa là trong quá

trình gặp gỡ văn hóa, khi bắt gặp âm “mão” (thỏ) của tiếng Hán gần với âm

“meo” hoặc “mèo” của tiếng Việt nên từ thỏ mới trở thành mèo. Từ đó có

thể đưa ra ý tưởng về sự khác biệt là do sự giống nhau trong phát âm với

77

khái niệm đã có của bản địa dẫn tới sự thay đổi trong từ ngữ . Tuy nhiên

cách giải thích này vẫn chưa thực sự thuyết phục vì theo nhà nghiên cứu

An Chi thì con thỏ chỉ là sinh tiếu (生肖) của địa chi Mão, không thể đồng

nhất hai khái niệm địa chi và con vật cầm tinh.

Cũng căn cứ vào sự biến đổi của ngôn ngữ, theo Phạm Thị Hảo thì sự

khác biệt địa chi Mão ở Việt Nam và Trung Quốc có thể xuất phát từ sự

nhầm lẫn về chữ viết và biến đổi về ngữ âm. Cụ thể: Chữ “Thố 兔 ” (Thỏ) gần

giống với chữ “miễn 免”, chỉ khác một dấu chấm nên có sự nhầm lẫn trong

quá trình ghi chép, dịch sách…. Bên cạnh đó có một hiện tượng biến đổi âm

“iên” thành “an”, “miễn” biến thành “mãn”, “mãn” trong tiếng Việt cổ là

mèo. Do đó, ở Việt Nam mèo trở thành con vật biểu trưng của địa chi Mão.

Theo giáo sư Nguyễn Quảng Tuân thì nguồn gốc tên 12 con giáp

chính là từ tiếng Việt cổ và xuất phát cổ nhất từ thời Tiên Tần. Ông phân

tích: cách viết của chữ miêu 猫 - 貓 (con mèo, giọng Bắc Kinh là mao) thì

được viết bằng bộ 犭(khuyển) hoặc bộ 豸 (trĩ) với chữ miêu 苗 (mầm

mống), còn chữ 兔 thỏ - thố lại viết theo lối tượng hình (giọng Bắc Kinh

là tù. Chữ 兔 (thỏ) lại viết giống chữ 免 (miễn) chỉ có thêm một nét để chỉ

cái đuôi. Hai chữ này không có khác biệt trong văn tự cổ thời Xuân Thu

(770-476 trước CN) theo cuốn Ngữ lâm thú thoại cho nên chữ miễn một

dạng cổ của mãn trong tiếng Việt cổ đã có nghĩa là con mèo. Nghĩa này

được ghi trong tự điển Việt - Hoa - Pháp của Gustave Hue - 1937

(Mãn: Chat: con mèo. Con mãn tam thể: chat à trois couleurs) và trong Tự

điển Việt Nam của Khai trí Tiến đức - 1954 (Mãn: Con mèo). Tuy nhiên

cách giải thích này cũng không thực sự thuyết phục bởi từ “mãn” có nghĩa

78

là con mèo xuất hiện không nhiều và chỉ thực sự có từ thời cận đại. Tác giả

Đinh Văn Tuấn cũng chứng minh luận điểm này không chính xác bởi

không chỉ thấy từ “mãn” để chỉ con mèo trong Việt Nam tự điểm và Việt –

Hoa – Pháp xuất bản trong những năm 1931 – 1937 mà không hề thấy

trong các tài liệu trước đó bao gồm cả trong ca dao, tục ngữ truyền thống từ

thời Trần cho tới đầu thời Nguyễn.

Theo phương pháp khảo cứu thư tịch, khảo cổ, thì không phát hiện

được bằng chứng xác thực được sự xuất hiện của 12 địa chi và 12 con giáp

vào thời Thuộc Hán. Theo các thư tịch còn lại thì 12 địa chi lần đầu tiên

được ghi chép tìm được là vào thời Trần. Trong Việt Sử Lược có đoạn chép

về vua Lý Thái Tổ sinh năm Giáp Tuất. Tác giả Đinh Văn Tuấn trong Biểu

tượng khởi thủy của Địa Chi Mão là tên gọi con thỏ hay tên gọi con mèo?

Đã chứng minh việc con rằng ban đầu địa chi Mão ở Việt Nam có sinh tiếu

là con thỏ, sau đó mới thay đổi thành mèo. Cụ thể, tác giả đã dẫn chứng

việc ghi chép ở câu sấm vĩ: Thố kê thử nguyệt nội (兔 雞 鼠 月 內)[23,

tr83](Thỏ gà chuột: ngày thỏ, tháng chuột, năm gà). Đinh Văn Tuấn còn

trích trong Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn ở Thế kỷ XVIII cũng đã dựa

theo thư tịch của Trung Hoa giải thích chi Mão có sinh tiếu là con thỏ.

Cũng theo kết quả khảo cứu của tác giả thì chi Mão có sinh tiếu là mèo ở

Việt Nam xuất hiện sớm nhất tìm được là trong Sấm ký của Nguyễn Bỉnh

Khiêm (Thế kỷ XVI) và từ điển Việt – Bồ - La của Alexandre de Rhodes

(Thế kỷ XVII). Sự không thống nhất của địa chi Mão trong các thư tịch

khảo cứu được cho thấy có thể trước kia người Việt cũng sử dụng Thỏ là

con vật đại diện của địa chi Mão sau đó mới thay đổi thành con mèo. Tuy

79

nhiên phương pháp này mới chỉ cho thấy sự thay đổi của địa chi Mão trong

văn hóa Việt Nam chưa chứng minh được cụ thể vì sao lại có sự thay đổi đó.

Dựa vào điều kiện và đặc thù tự nhiên, kinh tế - xã hội cũng có nhiều

tác giả giải thích nguyên nhân có sự khác biệt của địa chi Mão giữa Việt

Nam và Trung Quốc. Văn hóa Trung Quốc được phát triển từ văn minh

sông Hoàng Hà hay còn gọi là văn minh Hoa Hạ, nằm ở phía bắc sông

Dương Tử và có diện tích nhỏ hơn hiện nay rất nhiều. Đây là vùng có khi

hậu khô hanh, mùa đông lạnh giá và có địa hình tự nhiên là các bình

nguyên cao ráo. Nói theo cách của Sim Sang – Joon thì đây là nền văn hóa

bình nguyên với cây trồng vật nuôi và lối sống đặc trưng. Điều kiện tự

nhiên này thích hợp cho loài thỏ sinh sôi và chúng dần gắn liền với cuộc

sống của người dân Hoa Hạ. Điều kiện này không thực sự phù hợp với đặc

trưng sinh lý của loài mèo (loài mèo sợ lạnh). Mặt khác một số ý kiến cho

rằng loài mèo ở Trung Quốc vốn dĩ xuất phát từ giống mèo ở vùng Ai Cập,

không phải loài động vật bản địa nên trước đây không thực sự có vai trò

quan trọng trong hệ sinh thái và đời sống người dân. Thỏ cũng trở thành

loài vật đặc biệt trong quan niệm của người Hán khi là con vật đại diện cho

vẻ đẹp, sự trong sáng, thanh lịch với hình tượng Thỏ ngọc (ngọc thố) là

linh vật gắn liền với nguyệt cung (cung điện trên mặt trăng). Trong tiếng

trung “ngọc thỏ” (玉兔) còn được đồng nghĩa với mặt trăng. Thỏ cũng là

biểu tượng của sự thông minh, nhanh trí và may mắn. Điều này thể hiện

qua truyện cổ tích về thứ tự 12 con giáp; thể hiện qua một số bức tranh tết

truyền thống có hình ảnh thỏ dưới gốc cây cổ thụ ngậm linh đơn hay thỏ

ngậm trái đào trường thọ.

80

Trái lại, văn hóa người Việt (Kinh) xuất phát từ khu vực châu thổ

sông Hồng dần phát triển mở rộng ra khắp vùng Bắc bộ - Trung bộ và Nam

bộ với đặc điều kiện tự nhiên nhiệt đới gió mùa. Khí hậu nóng ẩm mưa

nhiều cùng với địa hình trung du và đồng bằng dần hình thành nền văn

minh lúa nước. Điều kiện tự nhiên phù hợp với đặc trưng sinh học của loài

mèo cùng việc việc sinh hoạt, sản xuất và nông sản của con người thường

bị chuột bọ phá hoại nên từ sớm mèo trở thành vật nuôi phổ biến và hữu

ích. Do đó, con mèo thân thiết và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống

con người Việt Nam. Mèo là loại động vật dễ sinh sản, dễ nuôi trong điều

kiện đơn giản, dễ chăm sóc; là loài vật thông minh lại giúp người nông dân

bắt chuột bảo vệ mùa màng nên dễ dàng gắn bó với đời sống người Việt và

đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Nếu không phải rất thân

thiết với đời sống con người thì mèo không thể đi vào nhiều tục ngữ đến

thế. Người Việt sử dụng hình tượng con mèo một cách phổ biến nguyên

liệu trong các sáng tác của mình trong mọi chủ đề từ đúc kết kinh nghiệm,

phản ảnh thực trạng cuộc sống, tâm tư nguyện vọng cho đến châm biếm,

hài hước. Có thể nói tới các câu: mèo mả gà đồng, mèo khen mèo dài đuôi,

chó chê mèo lắm lông, chó treo mèo đậy, cơm treo mèo nhịn đói…. Với

đặc trưng sinh lý loại thỏ có thể sinh trưởng ở Việt Nam tuy nhiên không

dễ dàng và hữu ích đối với người Việt do đó nó không có vai trò nhiều

trong đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa truyền thống Việt Nam.

Như vậy, cũng có thể dùng điều kiện và đặc trưng tự nhiên – kinh tế -

xã hội để giải vì sao địa chi Mão ở Trung Quốc có sinh tiếu là con thỏ trong

khi ở Việt Nam là con mèo. Tuy nhiên điều này cũng đặt ra một câu hỏi

81

nữa rằng nếu người Việt đã thay đổi con vật đại diện của chi Mão từ loài

thỏ thành loài mèo vì mèo gần gũi hơn với đời sống người Việt thì tại sao

lại là con mèo mà không phải loài vật khác. Ngoài mèo người Việt cũng có

rất nhiều loại súc vật khác có gắn bó với đời sống hàng ngày mà không hề

có trong 12 con giáp như con bò, con vịt, con ngỗng… Thậm chí cũng có

thể là các loại thủy sản và lưỡng cư vốn rất phổ biến trong môi trường tự

nhiên bản địa và gắn liền với đời sống người dân như cá chép, con cua, con

ốc, con ếch, con tôm…. Do vậy, cách giải thích này khá hợp lý nhưng lại

chưa thực sự thuyết phục một cách đầy đủ nhất.

Từ các nguyên nhân giải thích về sự khác biệt của địa chi Mão nêu

trên có thể thấy nếu chỉ xét trên góc độ chuyên ngành thì không thể giải

thích một cách thấu đáo thuyết phục mà phải sử dụng phương pháp nghiên

cứu liên ngành. Tuy nhiên ta cũng có thể khẳng định một điều rằng địa 12

địa chi và 12 con giáp vốn xuất phát từ văn hóa Trung Quốc. Đối với địa

chi Mão vốn dĩ có sinh tiếu là con thỏ sau đó khi được người Việt thay đổi

thành con mèo bởi nhiều nguyên nhân. Có thể tạm đưa ra một giả thuyết đó

là người Việt đã sử dụng con mèo là sinh tiếu của địa chi Mão bởi hai

nguyên nhân (có thể đồng thời). Thứ nhất đó là do sự khác biệt về chữ viết

và phát âm dẫn tới những biến đổi về ngữ nghĩa trong quá trình dịch thuật.

Thứ hai do vị trí của hai con vật này trong điều kiện tự nhiên và đời sống

kinh tế - văn hóa của hai dân tộc: con thỏ với người Trung Quốc và con

mèo với người Việt Nam.

3.1.2. Dị biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với

con người

Việc mã hóa thời gian theo các linh vật, con giáp diễn ra phổ biến ở

nhiều nền văn hóa. Ở châu Âu cũng bắt gặp 12 cung hoàng đạo tương ứng

82

với 12 chòm sao bao gồm: Bảo Bình, Song Ngư, Bạch Dương, Kim Ngưu,

Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ, Thiên Bình, Thần Nông, Nhân Mã, Ma

Kết. Ở Kazakhstan, các con giáp lần lượt là: chuột, bò, báo, thỏ, ốc sên,

rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó và lợn; dụ Ấn Độ có các con giáp và xếp theo

thứ tự: Chuột, Trâu, Sư tử, Thỏ, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, chim Kim sí

(Garuda)… Trong văn hóa Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc…

thời gian được mã hóa triệt để theo bằng hệ thống can – chi với chu kỳ hoa

giáp (60: từ Giáp Tý tới Quý Hợi) vào tính năm, tháng, ngày và giờ. Tương

ứng với can chi của năm, tháng, ngày, giờ mà người ta quan niệm nó ảnh

hưởng tới cuộc sống của con người. Đặc biệt nhất là quan niệm đối với giờ

sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh của từng người (cầm tinh). Cả

người Trung Quốc và người Việt Nam đều cho rằng con người ít nhiều

chịu ảnh hưởng bởi phẩm chất, đặc điểm từ con giáp mà họ cầm tình, có

thể thể hiện qua tính cách, phẩm chất, khả năng thậm chí bao gồm tất cả

vận mệnh cuộc đời. Và tương ứng với tính chất đó là mối quan hệ giữa con

người với con người trong cuộc sống, làm ăn, ứng xử… hay vận mệnh của

các cá nhân trong các thời điểm, không gian nhất định bằng các quy luật

xung – hợp (tam hợp, tứ hành xung), may mắn hay không may mắn (hợp –

hạn) … Phần lớn quan niệm về các địa chi và ảnh hưởng của chúng tới đời

sống con người giống nhau ngoại trừ các chi: Tý, Dần, Mão và Thân.

 Chi Tý, con giáp tý – chuột:

Trong văn hóa Trung Quốc, Tý là địa chi đứng đầy thập nhị địa chi với

con giáp tương ứng là con chuột, tính dương, mệnh thủy. Chuột được xem là

biểu tượng của sự thông minh, lòng vị tha, óc cầu tiến, tính cách dễ dãi và sự

hào phóng. Tuy là con vật sống ở môi trường tự nhiên, thường gặm nhấm phá

hoại đồ dùng, nông sản, mùa màng nhưng người Hoa không quá miệt thị loài

83

vật này. Hơn nữa còn gọi nó với tên gọi khá trang trọng là láoshǔ (lão thử) với

ý nghĩa e dè sợ chuột sẽ phá phách tài sản, hoa màu. Cũng có truyền thuyết là

Đường Tăng tìm thấy Giáp Tý Kinh trong kho sách của Như Lai và con chuột

còn lấy giúp cho Đường Tăng bộ kinh đó. Để khen thưởng công lao cho Đường

Tăng cho chuột vị trí đầu trong 12 con giáp. Ngoài ra, năm tý, thang tý… đối

với người Trung Quốc còn được xem là tháng may mắn, sung túc bởi loài chuột

chỉ Một truyền thuyết khác lại nói là Đường Tăng tìm thấy Giáp Tý Kinh trong

kho sách của Như Lai và còn lấy giúp cho Đường Tăng bộ kinh đó. Để khen

thưởng công lao cho Đường Tăng cho chuột vị trí đầu trong 12 con giáp. Câu

chuyện này lại đề cao chuột được thưởng công xứng đáng đứng hàng đầu trong

12 con giáp với vóc dáng nhỏ bé nhất của mình. sống ở những nơi có đồ ăn dồi

dào, tức là nơi ấy có lương thực thực phẩm phong phú, đời sống ấm no. Địa chi

Tý, hình tượng con chuột thường được tạo hoặc vẽ là con chuột bên đồng tiền

hoặc chuột ôm đĩnh vàng với mong muốn mang lại sự giàu có.

Một điều khá đặc biêt trong văn hóa Trung Quốc là địa chi Tý, con chuột

tuy được gọi là “lão thử” nhưng lại thiên về giống cái. Điều này thể hiện qua lễ

hội lấy chồng cho chuột, hình tượng chuột thành tinh trong truyện và kịch Tây

Du ký.

Tương ứng với các đặc trưng nêu trên, người Hoa quan niệm rằng

những người tuổi tý thường là những người mang phẩm chất thông minh,

nhạy bén, chăm chỉ và có trực giác tốt. Đối với đàn ông thường là những

người coi trọng bạn bè, bình tĩnh và tỉnh táo trong khi phụ nữ thường là

người nhiệt thành, cần kiệm, đảm đang. Tuy nhiên người tuổi này lại mang

những đức tính không tốt như thường chấp nhặt chuyện nhỏ, ích kỉ và có

phần keo kiệt.

84

Văn hóa Việt Nam không dành nhiều ưu ái cho loài chuột bởi sự phá

hoại và khó tiêu diệt của chúng. Hình tượng chuột trong văn hóa Việt là

loài vật nhỏ bé (đầu voi đuôi chuột), xấu xí (Mặt như mặt chuột (Mặt như

chuột kẹp)), hèn nhát (Len lét như chuột ngày), không có giá trị (Ném chuột

vỡ chum)…. Con chuột cũng là biểu tượng của sự nhỏ bé, thân phận nhỏ

mọn trong xã hội (bức tranh Đám cưới chuột)…Tiêu cực hơn, hình tượng

con chuột còn được dùng để ám chỉ những thành phần trộm cướp, đục

khoét tham nhũng trong xã hội. Tuy nhiên đối với người Việt thì địa chi Tý

không quá tiêu cực. Người Việt quan niệm Tý như một sự khởi đầu để mọi

thứ có thể bắt đầu lại (chi Tý bắt đầu một vòng 12 địa chi mới) do đó nó

mang ý nghĩa mới mẻ. Người tuổi tý cũng được coi là người mang phẩm

chất nhạy bén, tỉ mỉ, cần cù, có tính toán và đặc biệt là người kiên trì.

Người Việt Nam cũng quan niệm những người tuổi tý sẽ có thể có một số

phẩm chất không tốt đó là tự mãn, độc đoán…

 Dần

Địa chi Dần ứng với tính dương, mệnh mộc. Ở cả Việt Nam và Trung

Quốc, sinh tiếu của chi Dần đều là con hổ (cọp). Có quan niệm khá thống

nhất giữa hai nền văn hóa đó là con hổ là con vật mạnh mẽ “chúa sơn lâm”,

có diện mạo đẹp và khả năng chiến thắng và tiêu diệt đối thủ. Người Hoa

cũng dành sự kinh trọng để nói tới loài vật này bằng danh xưng “lão hổ”.

Từ đặc trưng vằn lông của hổ và người Hoa thấy giống với chữ Vương (王)

mang ý nghĩa người đứng đầu, quyền lực, sang trọng. Loài hổ cũng trở

thành biểu tượng của chiến tranh, quân đội mang ý nghĩa uy dũng, chiến

thắng với các danh hiệu Hổ tướng, Ngũ Hổ tướng hay Hổ Nương (người

85

phụ nữ dũng mãnh)[21,tr48]… Trong thứ tự các linh vật tượng trưng, hổ

chỉ đứng dưới con rồng (gắn liền với hình ảnh vua chúa), là tượng trưng

của quý tộc và quan lại phẩm hàm cao. Trong đời sống xã hội người Trung

Quốc thì những người đặc biệt xuất sắc cũng được gọi là hổ, những gia

đình có nhiều thế hệ thành công thường được khen ngợi là “hổ phụ sinh hổ

tử”(虎父无犬子)[23, tr37].Trẻ em Trung Quốc thường được đội mũ hình

mặt hổ, mặc áo vằn giống hổ với hi vọng hổ sẽ giúp trừ tà, tránh được bệnh

tật, hơn nữa còn có hi vọng đứa trẻ lớn lên sẽ có tài năng xuất chúng.

Theo hoàng đạo Trung Quốc người tuổi dần là người có uy tín, tài

lãnh đạo bẩm sinh, dũng cảm, hiếu thắng và hiếm khi phải thua cuộc tuy

nhiên dễ bị xúc động và không thể làm tốt khi bị áp lực.

Trong văn hóa Việt Nam ngoài việc là biểu tượng của sự dũng mãnh,

biểu tượng của tầng lớp quý tộc hay những người xuất chúng thì loài hổ -

chúa sơn lâm còn là loài vật đáng sợ bởi tính hung dữ và đe dọa tới an gia

súc, gia cầm và thậm chí mạng sống của con người. Do đó, từ sớm người

Việt đã có tâm lý kiêng sợ loài vật này và gọi là “ông Hổ”, “ông Hùm”,…

thậm chí còn thờ cúng và coi đó là các vị thần.

Theo quan niệm người Việt Nam thì ngày, tháng, năm dần đều mang

sự tích cực mang nhiều may mắn. Người tuổi Dần cũng có các tính các

giống với quan niệm người Trung Quốc tuy nhiên người Việt thường gắn

cho người tuổi này tính cách hung dữ, đáng sợ. Đặc biệt hơn nữa là suy

nghĩ cực đoan về phụ nữ tuổi dần. Nhiều người Việt Nam cho rằng phụ nữ

tuổi dần là những người đáng sợ, hung dữ hoặc nếu không thì rất khó có cuộc

sống gia đình tốt, khó có con và sinh con…. Đây cũng là một điểm khác biệt

giữa Việt Nam và Trung Quốc.

86

 Mão

Từ sự khác biệt trong sinh tiếu của địa chi Mão ở Trung Quốc và Việt

Nam dẫn tới quan điểm khác nhau trong ảnh hưởng của địa chi này tới đời

sống con người ở hai nước rất rõ.

Ở Trung Quốc con thỏ là hình ảnh của cái đẹp, nhanh nhẹn, sạch sẽ và

nhút nhát. Thỏ cũng là loại động vật thân thiện với con người và rất hiền.

Do đó năm, tháng, ngày mão là thời gian khá may mắn. Người sinh năm

Mão theo hoàng đạo Trung Hoa thường là người tính cách cẩn thận, thông

minh, nhanh nhẹn. Tuy nhiên lại thường là những người quá nhút nhát, dè

dặt hoặc thiếu thực tế.

Ở Việt Nam, con mèo rất thân thiết với con người. Mèo giúp con

người bắt chuột, bào vệ cây trồng và nông sản. Mèo cũng là loại động vật

rất nhanh nhẹn và thông minh, hơn nữa rất dễ nuôi do đó chúng đóng vai trò

quan trọng trong đời sống sinh hoạt của người nông dân. Do có đặc điểm thân

hình mềm mại, di chuyển nhanh nhẹn và thường ăn vụng nên mèo còn bị người

Việt xem là có những tính cách không tốt. Giống với người Trung Quốc, người

Việt cũng cho rằng người sinh năm Mão là những người nhanh nhẹn, thông

minh, cẩn thận tuy nhiên cũng có điểm khác biệt đó là quan niệm người tuổi

mèo có thể là những người có tính cách không minh bạch, không rõ ràng hoặc

là người quá ích kỉ. Đây cũng là quan niệm khác nhau giữa hai nền văn hóa về

địa chi Mão và tuổi mão.

 Địa chi Thân, con giáp thân, con khỉ

Địa chi Thân ứng với nhân tố dương, mệnh kim, với sinh tiếu là con

khỉ. Đối với người Trung Quốc, loài khỉ là loài vật thông minh, hoạt bát với

87

hình tượng tiêu biết nhất là nhân vật Tôn Ngộ Không đầy quyền phép và có

cá tính đặc sắc trong tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Trong mỹ

thuật truyền thống Trung Hoa khỉ thường được vẽ và tạc với hình ảnh khi

bên trái đào (thể hiện sự minh mẫn, trường thọ); đôi khỉ bên gốc cây hoa

mai (thể hiện sự viên mãn)… Năm Thân, tháng Thân, ngày Thân theo

người Trung Quốc không phải may mắn như Thìn hay Ngọ nhưng do nằm

giữa Mùi và Dậu được coi là kém may mắn hơn nên cũng được mọi người

ưu ái trong việc chọn thời gian hoàng đạo. Do đó người Trung Quốc cũng

quan niệm người tuổi thân là những người có tư chất vô cùng thông minh,

tràn đầy nghị lực và tháo vát tuy nhiên tự mãn và thích thể hiện bản thân.

Khác với Trung Quốc, con khỉ đối với người Việt Nam tuy là con vật

nhanh nhẹn thông minh nhưng lại không tích cực. Điều này thể hiện qua

thành ngữ và cách so sánh như: Khỉ ho cò gáy, nhăn như khỉ, khỉ gió, khỉ

khô… Cùng với đó, năm Thân là năm không may mắn, nói cách khách

người Việt không thích năm thân. Hơn nữa bởi quan điểm năm Thân là

năm không may mắn mà người Việt còn không muốn sinh vào năm Thân

hoặc cảm thấy mình không may mắn nếu cầm tinh còn khỉ, điều đó thể hiện

rất rõ qua câu tục ngữ:

- Tuổi Thân thì mặc tuổi Thân

Sinh đúng giờ Dần thì cứ sướng hơn làm vua

(có dị bản là: Đẻ vào giờ Dần thì sướng hơn vua)

Người Việt thường cho rằng người có tuổi thân là những người có

số phận lận đần, vất vả mặc dù có thực tài, hoặc cũng là những người

nghịch ngợm, thiếu chín chắn, sống mờ nhạt. Người tuổi thân để có thể có

88

cuộc sống may mắn phải là người được sinh vào giờ Dần hoặc phải là

người rất có tài năng, kiên trì và vượt qua được mọi vất vả chông gai để làm

lên sự nghiệp. Đây chỉ là quan niệm dân gian, không đủ căn cứ và sự thật

cũng có nhiều trường hợp chứng minh điều này không chính xác, tuy nhiên

đây vẫn là điểm khác biệt rất rõ trong văn hóa Việt Nam và Trung Quốc.

3.1.3. Khác biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với

đời sống văn hóa

 Về việc sinh con và đặt tên

Đối với văn hóa Trung Quốc, giờ sinh – ngày sinh – tháng sinh – năm

sinh rất quan trọng, người ta gọi đó là “sinh thần bát tự” và đây là những số

liệu đi theo và gắn bó và ảnh hưởng tới một người trong suốt cuộc đời. Với

những gia đình có điều kiện, bát tự sẽ được người trong gia đình lập thành

tứ trụ để từ đó xây dựng lên những quy luật về đặc điểm tính cách, các yếu

tố phù hợp và xung khắc trong cuộc sống, thậm chí cả về bức tranh tương

lai của họ. “sinh thần bát tự được cấu tạo từ giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh

và năm sinh theo hệ can chi mà mang những tính chất âm – dương; xung –

hợp theo qui luật của hệ thông can chi. Một số tộc người, gia tộc người Hoa

còn có tập tục sau khi đứa trẻ sinh ra thì viết lại sinh thần bát tự. Nhiều

vùng đất và gia đình ở Trung Quốc có phong tục khi đứa trẻ sinh ra sẽ được

viết lại họ tên và sinh thần bát tự vào giấy đỏ sau đó sẽ được cha mẹ chôn

cùng với nhau thai theo một số thứ như gạo, tiền, vàng bạc… với hi vọng

đứa trẻ sẽ có một cuộc sống bình an lớn lên và gặp được nhiều may mắn

trong cuộc sống sau này.

Thông tin từ giờ sinh - ngày – tháng – năm sinh tương ứng với can

chi còn giúp các gia đình lựa chọn tên cho con cái của mình. Can - chi và

89

các con giáp mang các đặc điểm âm – dương. Họ xem tên với người hợp

nhau hoặc có mâu thuẫn với nhau. Từ số liệu này người Hoa lựa chọn các

tên, tên đệm để giúp âm dương bằng nhau hoặc bổ sung các chữ khác phù

hợp với số phận em bé. Người Trung Quốc nói chung rất chú trọng sinh

thần và tên tuổi và coi đó là những thông tin quyết định toàn bộ cuộc đời

một người. Do vậy người Trung rất cẩn thận trong tính toán tên gọi cho trẻ,

nhiều gia đình còn nhờ những người có kiến thức về tử vi hoặc những thầy

tử vi chuyên nghiệp đặt tên cho con cái của mình để hợp với sinh thần.

Ngoài ra thì còn cách đặt tên đơn giản hơn đó là các gia đình dùng chính

tên con giáp của năm sinh hoặc tên các con vật tương ứng với các chi làm

tên chính hoặc tên phụ. Cụ thể như các tên: Sửu, Dần, Thân, Hợi, Tuất,…

hoặc các tên gọi như A Ngưu (tuổi Sửu), A Cẩu (tuổi Tuất), Tiểu Long

(tuổi Thìn), Tiểu Hổ (tuổi Dần…

Đối với văn hóa Việt Nam, mọi người cũng quan trọng giờ sinh, ngày

sinh, tháng sinh, năm sinh… tuy nhiên phần lớn không có hệ thống chặt

chẽ như trong văn hóa Trung Quốc. Trước kia chỉ một số những gia đình

như vua quan, nhà giàu mới có việc lưu ý thông tin bát tự ngày sinh của

con cái và tính toán tử vi cho chúng cũng như vận dụng vào đặt tên. Thậm

chí người Việt trước kia ở nông thôn còn thường không biết hay nhớ ngày,

tháng, năm sinh của mình hoặc chỉ nhớ khi gắn nó vào các sự kiện khác (ví

dụ: sinh năm vỡ đê sông…./ sinh cuối năm cùng với nhà khác/ sinh vào

tháng thu hoạch lúa hè/ sinh vào giờ gà gáy…..). Do đó, những tính toán

của người Việt trước kia trong việc bói toán thường chỉ dừng lại ở dữ liệu

năm sinh và không tới những số liệu cụ thể như tháng sinh, ngày sinh hay

90

giờ sinh giống người Hoa. Hiện nay với trình độ phát triển cùng với đời

sống và trình độ người dân cao hơn, người Việt Nam đã lưu lại những

thông tin của con cái về giờ - ngày – tháng – năm theo âm – dương lịch và

can chi. Tuy nhiên người Việt phần lớn không sử dụng việc tính toán quá

nhiều trong cuộc sống và công việc hàng ngày mà chỉ dùng trong nhưng

việc quan trọng trong cuộc đời.

Đối với việc đặt tên, người Việt Nam cũng sử dụng 12 con giáp trong

đặt tên người nhưng phần lớn là xuất phát từ việc gắn năm sinh với người

đó để có tên đồng thời nhớ được năm sinh của người. Nhiều gia đình cũng

dùng trực tiếp tên của các con giáp năm sinh để đặt tên cho con mình là:

Sửu. Dần, Mão, Thìn… Và điểm khác biệt với người Trung đó là phần lớn

người Việt Nam dùng sinh thần bát tự để tính toán đặt tên cho các con mà

dùng cách đặt tên rất đơn giản. Điều này xuất phát từ các nguyên nhân như

trình độ của người dân hạn hẹp, việc sinh nhiều con và phong tục đặt tên

xấu cho con của người Việt.

 Trong giao tiếp và công việc

Như đã nói ở phần trên về sự quan trọng của sinh thần bát tự đối với

người Trung Quốc. Cũng vì thông tin về sinh thần rất quan trọng nên người

Hoa rất hạn chế để người khác biết sinh thần bát tự của mình bởi sợ người

khác có thể dùng nó làm các việc mê tín hãm hại mình. Họ thường chỉ cho

người khác biết thông tin về năm sinh của mình. Người Trung Quốc rất chú

trọng tới các mối quan hệ trong công việc và xã hội do đó họ cũng rất

thường xuyên sử dụng kiến thức về 12 con giáp để ứng dụng vào giao tiếp,

công việc và làm ăn. Nếu như đối với các nước khác trên Thế Giới hỏi tuổi

người khác bị coi là thiếu lịch sự thì ở Việt Nam và Trung Quốc đều coi

91

đây là việc giao tiếp rất bình thường, tuy nhiên ở mỗi nước lại có những

đặc điểm khác nhau.

Khi bắt đầu một cuộc nói chuyện với những người lạ, đặc biệt là trong

công việc và kinh doanh người Trung Quốc thường tìm hiểu những thông

tin riêng của đối phương trước như tên, quê quán, gia đình, công việc và

tuổi. Trong các cuộc trò chuyện thì việc hỏi tuổi cũng là câu hỏi xã giao

phổ biến. Do kiến thức về can chi rất rất phổ thông ở Trung Quốc nên ngay

khi có câu trả lời thì người hỏi đã có thể biết được đối phương sinh năm

nào theo Can Chi và suy luận ra được một số thông tin về người đó.

Ví dụ năm nay là năm 2019 (Kỷ Hợi), người hỏi sinh năm 1990

(Canh Ngọ) và câu trả lời của người nghe là “tôi 26 tuổi”. Người hỏi sẽ

hiểu ngay là người kia sinh năm Giáp Tuất – 1994, nên thuộc…. Có thể

mang một vài phẩm chất tính cách như sôi nổi, trung thành,… Và quan

trọng hơn là hai tuổi này thuộc nhóm “Tam hợp” (Tuất – Ngọ - Dần), phù

hợp với nhau và có thể mang lại may mắn với nhau trong công việc hoặc

quan hệ.

Điều này đặc biệt quan trọng với những người Trung Quốc làm việc

trong các lĩnh vực kinh doanh, tìm kiếm đối tác hay những người cần tuyển

dụng. Mọi người cũng chú ý trong các sự kiện như khai trương cửa hàng,

động thổ xây dựng nhà mới…

Ở Việt Nam, người Việt Nam cũng có thói quen hỏi tuổi tác trong lần

đầu tiên gặp. Tuy nhiên người Việt sẽ có hai cách trả lời khác nhau đó là số

tuổi hoặc năm sinh (theo số, không phải theo con giáp). Trên thực tế thì

việc hỏi tuổi của người Việt Nam đa số nhằm mục đích để lựa chọn đại từ

92

xưng hô phù hợp do đây là điều rất quan trọng trong tiếng Việt. Người Việt

Nam sẽ thấy không vui, không lịch sự hoặc có thể tức giận nếu người khác

gọi mình chưa đúng đại từ (ví dụ gọi người lớn tuổi hơn là “em”; gọi người

thế hệ cha – mẹ mình là “anh/chị”…) và người nói có thể bị coi là vô lễ. Do

đó việc hỏi tuổi của người Việt Nam không mang quá nhiều ý nghĩa phức

tạp giống người Trung Quốc. Việc hỏi tuổi để biết các thông tin về Can Chi

chủ yếu được mọi người dùng khi có ý định phát triển quan hệ gia đình với

người kia hoặc các gia đình muốn biết về bạn gái, bạn trai của các con họ.

Hiện nay người Việt cũng có nhiều người dùng cách hỏi tuổi để đánh giá

đối phương nhưng phần lớn họ đều phải có quá trình suy luận hoặc chuẩn

bị, không trực tiếp trong lúc nói chuyện giống như văn hóa của người

Trung Quốc.

 Trong việc cưới hỏi

Đám cưới là sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người. Cả

người Trung Quốc và người Việt Nam đều cho rằng có rất nhiều điều ảnh

hưởng tới việc có quan hệ và kết hôn của hai vợ chồng. Nếu người Châu

Âu nghĩ rằng tình yêu là điều quyết định vợ chồng có sống hạnh phúc với

nhau trong cuộc đời thì người Hoa và người Việt lại cho rằng số mệnh của

con người điều khiển tất cả. Và số mệnh của mỗi người chính là được biết

từ tuổi (ngày sinh, tháng sinh, năm sinh).

Người Trung Quốc trước kia rất coi trọng việc tìm hiểu và tính toán

tuổi của cô dâu, chú rể trước khi họ quen biết nhau và kết hôn. Trong văn

hóa truyền thống Trung Quốc, ngay từ việc lựa chọn người để trở thành

người yêu mọi người đã có những tiêu chí về tuổi để có thể có người phù

93

hợp. Các gia đình càng coi trọng việc này khi quyết định giới thiệu, hỏi

cưới cho con cái mình. Khi các đôi nam nữ tự nguyện yêu nhau và mong

muốn có thể cưới, họ tới gặp gia đình nhau và mang theo thông tin giờ

sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh của mình tới để thể hiện nguyện vọng

và sự thành thật của mình. Có thể nói trong văn hóa truyền thống Trung

Quốc, dựa vào các thông tin sinh thần bát tự mà mọi người lựa chọn

vợ/chồng của mình, do đó họ luôn coi việc xem tử vi tư khi còn trẻ và chú

ý xem xét tuổi của đối phương từ khi bắt đầu mối quan hệ.

Khác với Trung Quốc, yếu tố tuổi trong hôn nhân cũng quan trọng

nhưng được người Việt linh hoạt hơn. Người Việt Nam lựa chọn vợ/chồng

dựa trên những kinh nghiệm được nói ra rất đơn giản như “gái hơn hai

(tuổi), trai hơn một (tuổi). Người lớn tuổi trong các gia đình thì khá chú

trọng việc xem tuổi cho con dâu/ rể cho con mình nhưng đây không phải

ưu tiên hàng đầu. Đối với người trẻ, thường thì người Việt thường bắt đầu

các mối quan hệ trước, yêu nhau sau đó tới khi quyết định kết hôn mới tới

gặp các “thầy bói” (những người nghiên cứu về tử vi) để họ phân tích và

tư vấn. Nếu có các vấn đề như tuổi không phù hợp nhau (tuổi xung) thì họ

sẽ nói ra các cách giúp sửa chữa việc này (ví dụ như cưới 2 lần hoặc đi

lễ…). Do đó có thể thấy việc ứng dụng 12 con giáp nói chung của người

Việt Nam trong đám cưới. Hơn nữa, có thể do tính cách người Việt Nam có

linh hoạt hơn so với người Trung Quốc.

3.2. Lễ hội – văn hoá dân gian

3.2.1. Lễ hội, phong tục trong văn hóa Việt Nam

 Phong tục xông đất của người Việt Nam

94

Hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán, người Việt Nam và người Trung

Quốc có rất nhiều phong tục giống nhau như: dán câu đối đỏ, đốt pháo, lì

xì… nhưng xông đất là phong tục chỉ người Việt Nam có. Trong văn hóa

Việt Nam, người đầu tiên vào nhà hoặc đến thăm gia đình trong năm mới

được gọi là người xông đất. Người Việt Nam cho rằng người này nếu là

người tốt bụng và phù hợp thì họ sẽ có năm mới may mắn và ngược lại. Do

đó người Việt luôn muốn người có tuổi phù hợp với chủ nhà, phù hợp với

con giáp của năm mới tới xông đất. Nhiều gia đình người Việt Nam chuẩn

bị việc này rất cẩn thận. Họ tìm những người thân có tuổi hợp và mời họ tới

xông đất cho gia đình mình ngay sau giao thừa với hi vọng có được một

năm mới may mắn và giàu có.

 Tết Đoan Ngọ

Cũng giống như nhiều nước ở khu vực châu Á, Tết Đoan Ngọ là

ngày lễ rất quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Đoan Ngọ diễn ra vào ngày

5/5 âm lịch. Theo sách Việt Nam phong tục thì Tết Đoan Ngọ của người

Việt Nam cũng là do người Việt theo người Trung Quốc để tiến hành. Tuy

nhiên thì về phong tục người Việt lại làm hoàn toàn khác, người dân đa số

không biết ông Khuất Nguyên và càng không cúng lễ ông này. Người Việt

Nam gọi ngày này với tên đơn giản hơn là ngày giết sâu bọ. Người Việt có

một câu truyện khác về sự tích tết Đoan Ngọ như sau:

Ngày xưa, vào một ngày sau vụ mùa nông dân chúng đang ăn mừng

vì trúng mùa, nhưng sâu bọ năm ấy kéo dày ăn mất cây trái, thực phẩm đã

thu hoạch. Nhân dân không biết làm cách nào để có thể tiêu diệt được các

loại sâu bọ này và bảo vệ cây cối thì bỗng nhiên có một ông lão từ xa đi tới

95

tự giới thiệu là Đôi Truân. Ông chỉ dân chúng mỗi nhà lập một đàn cúng

gồm đơn giản gồm có bánh gio, rượu nếp, trái cây sau đó ra trước nhà mình

mà vận động thể dục. Nhân dân làm theo và chỉ một lúc sau đó các đàn sâu

bọ đều rơi ngã xuống đất chết. Lão ông còn bảo thêm: Sâu bọ hằng năm

vào ngày này rất hung hăng, mỗi năm vào đúng ngày này cứ làm theo

những gì ta đã dặn thì sẽ trị được chúng. Dân chúng định cảm ơn thì ông

lão đã đi mất. Để tưởng nhớ việc này, dân chúng đặt cho ngày này là ngày

"Tết diệt sâu bọ".

Theo Trần Quốc Vượng thì Ngựa là biểu tượng của mặt trời, thuộc

Dương Hỏa tức tượng trưng luôn cho Sức Nóng. Đó là lẽ vì sao trong một

ngày, giờ nóng nhất (giữa trưa) được biểu thị bằng giờ Ngọ, và trong năm,

tháng nóng được biểu thị bằng tháng Ngọ (Tháng theo lịch trăng). Tháng

đó có tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5) bao giờ cũng xoay quang ngày Hạ

Chí của lịch thiên văn (21 tháng 6 dương lịch)[39. tr63].

Vào ngày này, người Việt Nam có rất nhiều phong tục quan trọng

như: tắm trước khi mặt trời mọc, bôi vôi vào cổ, nhuộm màu móng tay…

với ý nghĩa tránh các loại bệnh tật, ban ngứa mà mọi người, đặc biệt là trẻ

em thường gặp vào mùa hè. Ngoài ra còn các phong tục ăn hoa quả vào

sáng sớm, ăn rượu nếp, kê, bánh đa, uống nước dừa, ăn bánh gio… gọi là

giết sâu bọ. Phần lớn các phong tục vào ngày này đều có ý nghĩa giúp mọi

người mạnh khỏe, có được cơ thể sạch sẽ (đặc biệt với trẻ em), tránh được

tà ma và các loại bệnh mùa hè. Người Việt cũng làm cỗ cúng nhưng là

cúng tổ tiên, cỗ rất đa dạng, có thể là các món ngọt, món chay như xôi, chè

đường, các loại bánh làm từ gạo hoặc cỗ mặn từ thịt lợn, gà, vịt… Nhưng

trên bàn thờ không thể thiếu các loại hoa quả của mùa hè.

96

Ngoài ra người Việt còn cho rằng vào ngày tết Đoan Ngọ là ngày mà

các loài rắn sẽ bất ngờ thay đổi trở nên sợ con người, yếu ớt và con người

dễ dàng bắt chúng “len lét như rắn mùng năm”. Có thể dựa vào đặc điểm

của loài rắn do đây là dịp giữa mùa hạ rất nắng, loài rắn rất sợ trời nắng

nóng. Tuy nhiên cũng có thể hiểu là rắn ở đây là các loại sâu bọ con trùng

và các loại có hại nói chung, do đây là thời điểm con người ta hành tiêu

diệt để làm bảo vệ cây cối, dọn dẹp nhà cửa và vườn cây nên chúng thường

bị giết vào ngàu ngày nên người Việt mới cho rằng như vậy.

3.2.2. Lễ hội – phong tục trong văn hóa Trung Quốc

 Chi Tý và hiện tượng sùng bái chuột

Khác với người Việt, nhiều tộc người và vùng đất ở Trung Quốc có

hiện tượng sùng bái chuột (Nguyên nhân đã phân tích ở phần 3.1). Có thể

kể tới một số như:

Người Trung Quốc cổ tưởng tượng ra con chuột thành các loại hình

dáng kỳ lạ, ví dụ trong Sơn Hải Kinh Bác Sơn Kinh, người ta hình dung

một thú vật hình như chuột, đầu như thỏ, thân như nai, tiếng như chó, dùng

cái đuôi để bay. Người Trung Quốc cùng thờ cúng chuột với những nghi lễ

cụ thể đối với mỗi vùng miền. Thời Thanh Phương Tuấn Sư có viết trong

Tiêu Hiên Tùy Lục là tục lệ này có từ thời Hán dùng rượu và thịt kho thờ

cúng con chuột Tác giả cũng cho rằng, thực ra nó ẩn dụ một ý nghĩa kính

sợ con chuột.

Ở vùng Tây Vực có sùng bái thần chuột, đây là sản vật của Phật giáo

Ấn Độ và văn hóa Tây Vực kết hợp với nhau, tiêu chí chủ yếu là kết hợp

Tiên Vương với thần chuột. Thiên vương Vaiśrava (Đa Văn Thiên), một trong

97

bốn Thiên Vương trong phật giáo, thần này là thần cho phúc, trong tay có một

con chuột. Theo quan niệm của người Tây Vực, Thiên Vương này là tài thần, là

thần tổ tiên, thần bảo hộ. Nếu là thời chiến tranh, thần này sẽ trở thành thần hộ

quân. Việc này làm cho chuột trở thành hóa thân của thân linh với tính thần và

tính linh.

Phong tục “chuột đếm tiền” thịnh hành ở phía nam. Tức là trong đêm

khuya và bình minh, tiếng chuột kêu người ta nghĩ nó giống như tiếng đếm

tiền đồng. Đối với hiện tượng này, những người của các nơi có cảm nhận

khác. Khu vực Thường Hải cho rằng là hiện tượng xấu, không may mắn ,

mọi người thường đi thắp hương và cầu thần phật để tránh tai nạn. Tuy

nhiên, khu vực Hồ Bắc, Chiết Giang thì cho rằng đây là điềm lành, họ tin

rằng con chuột kêu trong đêm sẽ có tiền.

Dân tộc Di của Quảng Tây, có một truyền thuyết rằng vào thời cổ đại,

thiên hạ gặp một trận hạn hán, người chết rất nhiều. Trong lúc đó, loài chuột

đã đưa nhiều hạt giống và lương thực kịp thời, cứu con người ra khỏi cảnh

dấu sôi lửa bỏng. người ta tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ của con chuột, làm ngày

này là “tết chuột”, dùng thịt sống nuôi mèo, để tránh việc chuột bị bắt.

Ở Trung Quốc còn có mộ phong tục mà ở nhiều vùng có đó là lấy

vợ/lấy chồng cho chuột. Đối với thời gian của con chuột lấy vợ, các nơi có

cách nói khác nhau, phần lớn đều là trước và sau Tết âm lịch. Các vùng

Thiệu Hưng Chiết Giang, Hàng Châu, Nam Kinh, Tô Châu, Hồ Bắc,

Giang Hán, Phật Sơn Quảng Đông, Kim Môn, Phúc Kiến… thì chọn buổi

tối giao thừa. Phía Bắc, ở Sơn Tây, Sơn Đông và khu vực Thương Lạc của

Tỉnh Thiểm Tây, ngày hai mươi ba tháng chạp vừa là ngày thần lên trời,

98

vừa là ngày con chuột lấy vợ. Trong ngày con chuột lấy vợ, các nơi có thờ

cúng và quy định cấm kỵ khác nhau. Trước đây ở Thượng Hải, trong ngày

mười sau tháng riêng mọi nhà đều xào kẹo hạt mè, để chuẩn bị bánh kẹo

cưới cho con chuột. mội số nơi ở Tứ Xuyên, phải đặt một số cơm dưới

giường, cho rặng sau con chuột ăn thì có thể đảm bảo sang năm được mùa

ngũ cốc. có nơi khác phải thờ cúng muối và bánh ngọt….. đây nghĩa là

người ta bày tỏ lòng hữu nghị với chuột, nịnh bợ họ để sau này có thể ăn ở

với hòa bình, đảm bảo lương thực được mùa.

Vào ngày lấy vợ/chồng cho chuột cũng có rất nhiều các loại cấm kỵ. để

“tránh chuột”, trong ngày con chuột lấy vợ, phụ nữ một số nơi phải tránh đi cửa

chính, không trở về nhà tùy tiền. Khu vực Thiểm Tây có phong tục không thắp

đèn, không ồn ào, nếu không thì sẽ có một năm không may mắn. Có một cấm

kỵ nữa đó là để đề phòng mất đồ. Phụ nữ Thiển Bắc cất kỹ quần áo và kéo, để

phòng vợ chuột cướp dùng để của hồi môn. Người già Sơn Đông thì dăn con

cái cất giữa giày của mình, nếu không thì con chuột sẽ cướp đề dùng làm kiệu

hoa đón dâu….

Trên thực tế, ngày lấy vợ/chồng cho chuột cũng xuất phát từ tâm lý sợ

loài chuột phá hoại mùa màng, đe dọa cuộc sống của người dân nên mọi

người mới cưới vợ và cung cấp lương thực cho chúng. Người xưa nghĩ

rằng khi con chuột có gia đình, được con người tôn trọng và có đủ lương

thực thì sẽ không còn phá hoại cuộc sống của họ nữa.

 Chi Mão và phong tục liên quan tới loài thỏ

Với quan niệm của người Trung Quốc, con thỏ có thể ra vào cung

trăng, đi với tiên, lên trời xuống trần, có thể nói là thân linh thật. nên ở toàn

Trung quốc thời cổ, dân tộc Hán có tập tục “treo đầu thỏ”. Theo Tuế Thời

Tạp Ký của Trần Nguyên Tịnh người thời Tống, mỗi năm mồng 1 tháng

riêng, người ta treo mặt nạ đầu thỏ hoặc mặt nạ của xà trên tấm cửa, hoặc

99

dùng đồ tre đựng nước tuyết, cùng treo với cái phướn và mặt nạ, dùng để

trấn tà miễn tai. Ngày mười lăm tháng riêng, dùng bột mì hoặc giấy làm

đèn hình thỏ, nói là “bó đèn thỏ”.

Khu vực Đông Bắc đến ngày mồng ba tháng ba thì tổ chức hoạt động

bắn thỏ gỗ, người tham dự cưỡi ngựa bắn một con thỏ gỗ, bắn chuẩn thì

thắng. người thua phải quỷ xuống kính rược cho người tháng, ý là chúc mừng;

người tháng tiếp nhận chung rược, phải uống hết rượu. đây là một hoạt động

có tính tượng trưng thịnh hành giữa dân tộc du mục, có thể chứng tỏ tài nghệ

của người thờ săn, cũng có thể cầu nguyện đi săn thành công.

Tết Trung Thu của ngày mười lăm tháng tám là tết truyền thông quan

trọng trong dan gian Trung Quốc., hình ảnh con thỏ xuất hiện ở khắp nơi.

Trên bánh trung thu thưởng có mẫu con thỏ. Khu vực Bắc Kinh và Thiên

Kinh thịnh hành “giấy ánh trăng”, cũng thiết lập “Mã Tử ánh trăng” dùng

để thờ cúng mặt trăng. Trên Giấy ánh trăng và mã tử ánh trang đều có hình

ảnh ngọc thỏ. Mã tử ánh trăng và giấy ánh trăng giống nhau, cũng nói là mã

tử mặt trăng, khu vực Bắc Kinh, Thiên Kinh, Hà Bắc Hà Nam rất phổ biến,

lớn bé hình dạng và cấu tạo đa dạng, có một số chỉ in một người có mặt

thỏ; có một số in ngọc thỏ đang giã thuốc dưới cây quý.

Hôn tục dân gian Trung Quốc có câu “蛇盘兔,必定富”“狗撵兔, 不到头”[24, tr58], nghĩa là cầm tinh con thỏ (Mão) và con rắn (Tỵ) kết hôn

thì may mắn như ý, nhưng kết hôn với người cầm tinh con chó (Tuất) thì bị

khắc tới chết. Con rắn là tượng trưng sinh sản nhiều và bảo hộ thế hệ mai

sau và con thỏ cũng là động vật sinh đẻ thịnh vượng. Thỏ và rắn – Mão và

Tỵ kết hợp với nhau thì cấu thành văn hóa vận may của dân gian. Con thỏ

có năng lực sinh sản rất mạnh, cho nên trong văn hóa truyền thống Trung

Quốc, no trở thành tượng trưng đa tử đa phúc.

Từ thời Minh, khu vực Kinh Tân xuất hiện hình tượng “ông thỏ” và

“thỏ màu”. Trong Hoa Vương Các Thặng Cảo của Kỷ Khôn thời minh có

100

đoạn: “京师中秋节多以泥砖抟兔形,衣冠据坐如人状,儿女礼而百之

”[40, tr56]. Con gái thờ cúng con thỏ là cầu nguyện con thỏ có thể mang

cho họ may mắn. Tạo hình của “ông thỏ” đa số là mô hình, vẽ hoa văn

màu, ăn vận đẹp đẽ và rực rỡ, một số mặc giáp đội mũ nồi, cắm vào cờ sau

lưng, trong tay nắm dao lớn hoặc cái chày thuốc, cưỡi ngựa, hươu và kỳ

lân, oai phong lẫm liệt tuy nhiên cũng gây cười hài hước. Ông là đối tượng

phụ nữ thờ cúng đồng thời là tạo hình trong đồ chơi của trẻ em.

 Tết Đoan Ngọ

Khác với Việt Nam, theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc làm phát sinh kỷ

niệm vào ngày 5 tháng 5 gắn với câu chuyện vị quan đồng thời là nhà thơ nổi

tiếng tên Khuất Nguyên ở Trung Quốc sống vào thời Chiến Quốc.

Ngoài ra, có truyền thuyết khác về sự bắt nguồn của ngày tết Đoan

Ngọ, nhiều nguồn tin cho rằng tập tục tết Đoan Ngọ là bắt nguồn từ Hạ Trí

trong thời cổ, có người thì cho rằng, đây là sự tôn sùng vật tổ của người

dân vùng sông Trường Giang.

Vào ngày tết Đoạn Ngọ, người dân nhiều nơi ở Trung Quốc thường tổ

chức các hoạt động trên sông như đua thuyền rồng, cúng bên bờ sông…

Đặc biệt là nhiều vùng người dân làm các loại bánh gạo để vào trong thân

cây tre sau đó buộc dây chỉ (có 5 màu) bên ngoài và thả xuống sông. Cách

làm này có hai ý nghĩa: một là họ cúng ông Khuất Nguyên; hai là một số

vùng cho rằng họ cho cá ăn, cá ăn no rồi sẽ không ăn ông Khuất Nguyên.

101

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng 12 con giáp trong văn hóa

Trung Quốc và Việt Nam cũng có nhiều điểm khác biệt. Đó là những khác

biệt trong chính quan niệm các con giáp. Tương đồng trong khái niệm và

quan hệ 12 con giáp ăn hóa Việt Nam và Trung Quốc, chúng ta thấy sự khác

biệt ở địa chi Sửu và Mão với sinh tiếu là hai loài vật khác nhau. Cùng có

những tính chất của các địa chi nhưng người Việt Nam và người Trung Quốc

lại thấy những phẩm chất và đặc điểm của con giáp khác nhau rất nhiều. Sự

khác biệt còn được thể hiện qua quan niệm và mức độ khác nhau sự ảnh hưởng

của 12 con giáp đối với đời sống văn hóa và đời sống cá nhân của con người.

Đối với văn hóa truyền thống nói chung, ở Việt Nam và Trung Quốc cũng có

nhiều phong tục và lễ hội liên quan đến 12 con giáp khác nhau hoặc cùng có

một tên gọi nhưng cách làm lại khác nhau.

Sự khác biệt này không phải là hiện tượng lạ do đặc điểm phát triển

khác nhau của hai đất nước. Thậm chí chỉ ở những vùng nhỏ cũng có

những phong tục khác nhau. Chính điều này tạo nên sự đa dạng văn hóa

giữa các tộc người, các vùng miền và các quốc gia.

102

KẾT LUẬN

Văn hoá Trung Hoa là một nền văn hoá lâu đời, mênh mông với ít

nhất 5 nền văn hoá khác nhau. Đó là nền văn hoá vùng sa mạc Tây Bắc

mang tính chất du mục; nền văn hoá Tây Nam, Tây Tạng mang nhiều ảnh

hưởng của văn hoá Ấn; nền văn hoá Hoa Nam, tuy đã Hán hoá nhưng nó

vẫn mang trong mình dáng dấp của văn hoá Đông Nam Á, đồng thời vùng

ven biển cũng chịu ảnh hưởng lớn của văn hoá phương Tây. Tuy hỗn dung

trong mình nhiều nền văn hoá khác nhau, nhưng văn hoá Trung Hoa vẫn

tồn tại mà đại biểu cho nó chính là nền văn minh lưu vực sông Hoàng Hà

của cộng đồng người Hoa Hạ kèm theo đó là những giá trị văn hoá rực rỡ

của nó.

Trung Hoa chính là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân

loại và là trung tâm của văn hoá Đông phương. Đó là một nền văn hoá mở

bắt đầu từ sự quan sát, tư duy, chiêm nghiệm về thế giới tự nhiên của con

người để từng bước hình thành và hoàn thiện thế giới quan với những kết

quả là các học thuyết lớn của loài người như ngũ hành, âm dương, thiên

can địa chi,…

Hệ thống 12 con giáp là kết quả, là thành tựu, là dấu ấn của nền văn

minh Hoàng Hà nói riêng và cũng là bước phát triển mới trong tư duy của

người Trung Quốc trong quá trình nhận thức và cải tạo thiên nhiên, chinh

phục thiên nhiên.

Với lợi thế về địa mạo và con người, văn hoá Trung Hoa, trong lịch

sử bằng nhiều cách, nền văn minh Hoàng Hà đã tạo sự ảnh hưởng mạnh mẽ

đến các nước lân cận trong khu vực, nhất là Việt Nam.

103

Trước khi có sự tác động của văn hoá Hán, người Việc cũng đã có

một nền văn hoá dân gian mang đậm tính truyền thống của riêng mình. Trong

quá trình giao lưu, tiếp biến và hỗn dung văn hoá với cộng đồng Hoa Hạ thì

khuynh hướng hỗn dung và tiếp biến của nền văn minh lúa nước châu thổ sông

Hồng luôn luôn là Việt hoá, trong đó có hệ thống 12 con giáp và những vấn đề

liên quan. Đó như là một cách thể hiện sự uyển chuyển trong việc chọn lựa

những yếu tố ngoại lai cần và đủ để kết tinh vào văn hoá nhận thức, văn hoá sản

xuất và văn hoá tinh thần của riêng người Việt.

Văn hoá Trung Quốc và văn hoá Việt Nam có sự giao lưu và ảnh

hưởng mạnh mẽ đến nhau, trong đó có rất nhiều những giá trị tốt đẹp được

tiếp biến, lưu giữ, ứng dụng và phát triển một cách mạnh mẽ cho đến tận

thời điểm hiện tại. Đó như là một chuẩn mực trong sự giao lưu và tiếp xúc

văn hoá, bởi đây chính là một quy luật và tồn tại của mọi nền văn hoá, văn

minh nhân loại. Chỉ có quá trình duy trì, ảnh hưởng, giao lưu, chắt lọc, tiếp

biến và ứng dụng thì các giá trị văn hoá truyền thống mới không bị mai

một; và điều này đã được dân tộc Hán và dân tộc Việt làm rất tốt để bảo

lưu cũng như giữ gìn và phát triển nền văn hoá của riêng mình.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Di Kinh(2017),Nxb Li Giang

2. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Hồng Đức,

2016.

3. Đào Duy Anh (1931), Từ điển Hán Việt. quyển thượng, Nxb Minh

Tân, Paris.

4. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương,

Hà Nội.

5. Đào Duy Anh (1946), Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Nxb Hàn Thuyên,

Hà Nội.

6. Đào Duy Anh (1954), Vấn đề hình thành của dân tộc Việt nam, Nxb

Xây dựng, Hà Nội.

7. Đoàn Trung Còn, Tam Thiên Tự, NXB Thời Đại 2015

8. Đới Hưng Hòa, Dương Mẫn, “Nguồn gốc và ứng dụng của thiên can

địa chi” Nxb khí tượng, năm2006

9. Đinh Văn Tuấn, Biểu tượng khởi thủy của Địa Chi Mão là tên gọi con

thỏ hay tên gọi con mèo?, Tạp chí Ngôn ngữ số 3/2012.

10. Hà Hưng Lượng, “Nguồn gốc văn hóa nhân loại và văn hóa tô-têm”,

Nxb văn liên Trung Quốc, Bắc Kinh, năm 1991

11. Hà Hưng Lượng, “Tô-tem và văn hóa Trung Quốc”, Nxb nhân dân

Giang Tô, năm 2007

12. Hội biên soạn toàn thư đại bách khoa Trung Quốc. “đại bách khoa

Trung Quốc”, Nxb toàn thư đại bách khoa Trung Quốc, năm 2009

13. Hoàng Kiến Vinh, “ Thử luận nền tảng triết học của văn hóa con

giáp”, Học báo viện sĩ Hải Nam, năm 1998

105

14. Mặc Minh Anh, “Tam thông hội mệnh”, Văn uyên các, năm 2000

15. Ngô Tất Tố (dịch và chú giải), Kinh dịch (trọn bộ), NXB Văn hoá

thông tin, 2014.

16. Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập (1970), Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb

Bộ Giáo dục.

17. Nhất Thanh, Đất lề quê thói, NXB Hồng Đức, 2016.

18. Nhóm Trí thức Việt, Quan hệ giao bang và những sứ thần tiêu biểu

trong lịch sử Việt Nam, NXB Thời đại, 2014.

19. Nguyễn Tài Đông (chủ biên), Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt

Nam, NXB Đại học Sư phạm, 2016.

20. Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, NXB Hội nhà văn, 2017.

21. Lí Linh, “Tổng quát phương thuật Trung Quốc”, Nxb nhân dân Trung

Quốc, năm 1993

22. Lưu Lạc Hiền, “Nghiên cứu nhật thư tre thời Tần Thụy Hổ Địa” Nxb

Văn tân, Đài Loan, năm 1994

23. Tào Đại Vi, Tôn Yến Kinh, Lịch sử Trung Quốc, NXB Truyền bá Ngũ

Châu – NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2012.

24. Thái Anh Kiệt, “Thuyết minh văn hóa của nười hai địa chi”, Học báo

đại học dương châu, năm 2004

25. Thái Tiên Kim, “ „ Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên nghĩa”, Nxb

đông nam, năm 2001

26. Tiêu Cát, “Toàn giải ngũ hành đại nghĩa”, Nxb khí tượng, năm 2015

27. Toan Ánh (1963), Nếp cũ con người Việt Nam, 5 tập.

28. Toan Ánh (1974), Hội hè, đình đám, quyển 2.

29. Toan Ánh (1991), Phong tục Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

106

30. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 2009

31. Trần Lê Bảo, Giáo trình Nhập môn khu vực học và Việt Nam học,

NXB Đại học Sư phạm, 2013.

32. Trần Lê Bảo, Giáo trình Văn hoá phương Đông, NXB Đại học Sư

phạm, 2012.

33. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 2009.

34. Trần Tuân Quỳ “Thiên văn sử Trung Quốc” Nxb nhân dân Thượng

Hải năm 1980

35. Trần Quốc Vượng, Biểu tượng ngựa và năm con ngựa, Tạp chí khoa

học xã hội năm 1990

36. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 2009.

37. Trần Quốc Vương, Biểu tượng Ngựa và năm con ngựa, Văn hóa Việt

Nam tìm tòi và suy ngẫm , NXB Văn học, Hà Nội 2003.

38. Trần Quốc Vượng, Lịch ta và nền văn hoá lúa nước cổ truyền, Tạp chí

khoa học năm 1987

39. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn

học, Hà Nội 2003

40. Triệu Bác Đào, “ Mười hai con giáp dân tộc Trung Hoa”, Nxb khí

tượng, năm 2012

41. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

42. Trần Lâm Biền, Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa, Tạp chí Văn hóa

Nghệ thuật xuất bản.

43. Trương Bồi Du, Trần Mỹ Đông, Bạc Thụ Nhân, Hồ Thiết Zhu “Lịch

Pháp cổ đại Trung Quốc”, Nxb kỹ thuột khoa học Trung Quốc Bắc

Kinh, năm 2008

107

44. Trương Nham, “Sơn thủy kinh và xã hội cổ đại”, Thư xã Tề Lỗ, năm

2004

45. Phan Huy Lê (1993), Về bản chất nền văn hóa truyền thống Việt Nam,

Hà Nội.

46. Phan Huy Lê (1997), Tìm về cội nguồn Tập I, Nxb Thế giới, Hà Nội.

47. Phan Cẩm Thượng, Tập tục đời người, NXB Hội nhà văn, 2017.

48. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Văn học, 2011.

49. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn học 2015.

50. Daniel K. Gardner, Dẫn luẫn về Nho giáo, NXB Hồng Đức, 2016.

51. Kang Sung Ryung, Lịch sử Triết học phương Đông viết cho thanh

thiếu niên, NXB Thế giới, 2016.

52. Tim Bayne, Dẫn luận về tư duy, NXB Hồng Đức, 2016

53. http://kbchn.net/giao-su-tran-quoc-vuong-noi-ve-con-trau-va-nen-van-

hoa-viet-nam-89373.html

54. http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNa

m/ThongTinTongHop/dialy

55. https://loingotan.violet.vn/entry/nam-mao-tet-con-meo-cua-viet-nam-

va-tet-con-tho-cua-trung-quoc-4954409.html

56. ttp://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/1318-nam-mao-va-con-

meo-qua-tho-van.aspx

57. https://baomoi.com/nguon-goc-y-nghia-tet-doan-ngo-cua-nguoi-

viet/c/26561119.epi

108