ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

VƢƠNG SỸ THÀNH

TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC

CỦA ĐÀI PT-TH LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG

DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

VƢƠNG SỸ THÀNH

TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC

CỦA ĐÀI PT-TH LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG

DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG

Chuyên ngành: Báo chí học

Mã số: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. Trần Duy

Chủ tịch hội đồng PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự

hướng dẫn khoa học của TS. Trần Duy. Các kết quả nghiên cứu, phát hiện mới là

trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học

nào trước đây. Luận văn có sử dụng, phát triển, kế thừa một số tư liệu, số liệu, kết

quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu... liên quan đến nội dung đề tài.

Tác giả luận văn

Vƣơng Sỹ Thành

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn Cao học, tôi đã nhận được rất

nhiều sự chỉ dẫn nhiệt tình của các thầy, cô giáo Viện Đào tạo Báo chí và Truyền

thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN) và Học viện Báo

chí và Tuyên truyền. Tôi vô cùng quý trọng, biết ơn sự chỉ bảo đó và xin được chân

thành gửi lời tri ân đến toàn thể các thầy, cô giáo.

Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời cám ơn sâu sắc nhất đến TS. Trần Duy đã nhiệt tình

hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Và hơn hết, trong quá trình

làm luận văn, tôi đã học tập ở thầy một tinh thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc,

cẩn thận, tỉ mỉ và một thái độ làm việc hết mình. Xin được gửi đến thầy sự biết ơn

và lòng kính trọng chân thành nhất.

Cám ơn bạn bè và đồng nghiệp những người luôn sẵn sàng giúp đỡ tôi hoàn

thành tốt luận văn của mình. Cảm ơn gia đình và những người thân yêu đã luôn tin

tưởng, động viên và ủng hộ.

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, do địa bàn nghiên cứu tập trung ở

miền núi – khó khăn về nhiều mặt và thời gian nghiên cứu cũng có hạn. Do vậy, luận

văn chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận

được sự đóng góp chân thành của Hội đồng khoa học, của quý thầy cô giáo cùng với

sự góp ý của bạn bè đồng nghiệp để luận văn hoàn thiên có chất lượng tốt hơn.

Hà Nội, tháng 06 năm 2020

Vương Sỹ Thành

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 7

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 9

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 11

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 12

5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 13

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ................................................ 13

7. Đóng góp mới của luận văn ..................................................................... 14

8. Bố cục luận văn ....................................................................................... 15

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC

ĐỘNG CỦA TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC ..................................... 16

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .............................................. 16

1.1.1. Tác động ............................................................................................ 16

1.1.2. Truyền hình ........................................................................................ 16

1.1.3. Chương trình truyền hình .................................................................. 19

1.1.4. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc ............................................ 21

1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc và tỉnh

Lạng Sơn về truyền hình tiếng dân tộc thiểu số ..................................... 22

1.3. Áp dụng các lý thuyết truyền thông trong việc đánh giá tác động của

truyền hình tiếng dân tộc đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc

địa phƣơng ................................................................................................... 27

1.3.1. Lý thuyết “viên đạn ma thuật” .......................................................... 28

1.3.2. Lý thuyết sử dụng và hài lòng ............................................................ 28

1.4. Điều kiện tự nhiên - xã hội và nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng

bào Tày - Nùng - Dao ở Lạng Sơn ............................................................ 29

1.4.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội ................................................................ 29

1

1.4.2. Nhu cầu tiếp nhận thông tin của người dân tộc thiểu số bản địa

Lạng Sơn ..................................................................................................... 31

Tiểu kết chƣơng 1: ..................................................................................... 38

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CHƢƠNG

TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC TRÊN ĐÀI PH-TH LẠNG

SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG ....................... 40

2.1. Vài nét về Đài PT-TH Lạng Sơn và chƣơng trình truyền hình tiếng

dân tộc trên sóng Đài PT-TH Lạng Sơn .................................................. 40

2.1.1. Đài PT-TH Lạng Sơn ......................................................................... 40

2.1.2. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc trên sóng Đài PT-TH

Lạng Sơn ..................................................................................................... 41

2.2. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu và hiệu quả chƣơng trình truyền

hình tiếng Dân tộc trên sóng Đài PT-TH Lạng Sơn ............................... 45

2.3. Đánh giá những tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-

TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phƣơng ............................ 57

2.3.1. Tác động tích cực trong việc nâng cao nhận thức về chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước .......................... 61

2.3.2. Tác động tích cực trong việc nâng cao dân trí, trình độ văn hóa, giáo

dục và đời sống vật chất .............................................................................. 64

2.3.3.Tác động tích cực trong việc nâng cao đời sống tinh thần ................ 66

2.3.4. Tác động tích cực trong việc nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa

dân tộc .......................................................................................................... 68

2.4. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ảnh hƣởng đến

hiệu quả tác động tích cực của chƣơng trình tiếng Dân tộc .................. 70

2.4.1. Những hạn chế ................................................................................... 70

2.4.2. Nguyên nhân hạn chế......................................................................... 74

Tiểu kết chƣơng 2: ..................................................................................... 75

2

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG

TÍCH CỰC CỦA CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC

ĐÀI PH-TH LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC ĐỊA

PHƢƠNG ....................................................................................................... 76

3.1. Những thách thức đặt ra hiện nay .................................................... 76

3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động tích cực của

chƣơng trình truyền hình tiếng dân tộc đài PH-TH Lạng Sơn đối với

cộng đồng dân tộc địa phƣơng .................................................................. 77

3.2.1. Nhóm giải pháp chung ....................................................................... 77

3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể ....................................................................... 79

Tiểu kết chƣơng 3: ..................................................................................... 94

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102

3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐBSCL Đồng bằng sông cửu long

GS Giáo sư

KHCN Khoa học công nghệ

KT-XH Kinh tế - xã hội

NĐ-CP Nghị định chính phủ

NXB Nhà xuất bản

PT-TH Phát thanh – truyền hình

TTĐC Truyền thông đại chúng

TS Tiến sĩ

UBND Ủy ban nhân dân

4

VH-XH Văn hóa – Xã hội

DANH MỤC HÌNH, BẢNG

Bảng 1.1. Số xã thu được tín hiệu phát thanh, truyền hình và có báo Đảng đến

trong ngày ........................................................................................................ 36

Bảng 2.1. Thống kê thiết bị máy phát sóng TH-TH Lạng Sơn ........................ 41

Bảng 2.2. Kết cấu chương trình truyền hình tiếng Tày – Nùng của Đài PT-TH

Lạng Sơn .......................................................................................................... 44

Bảng 2.3. Kết cấu chương trình truyền hình tiếng Dao của Đài PT-TH

Lạng Sơn ......................................................................................................... 45

Bảng 2.4 Những lợi ích về nội dung thông tin trong chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc đến công chúng Lạng Sơn ........................................................ 59

5

DANH MỤC NỘI DUNG BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

Biều đồ 2.1. Các phương tiện truyên thông hiện đang sử dụng của công chúng tại

Lạng Sơn ................................................................................................................... 46

Biểu đồ 2.2. Tần xuất xem chương trình truyền hình tiếng dân tộc của công chúng

tại Lạng Sơn .............................................................................................................. 47

Biều đồ 2.3. Các chuyên mục trong chương trình truyền hình tiếng Dân tộc yêu

thích của công chúng tại Lạng Sơn ........................................................................... 48

Biểu đồ 2.4. Độ tin cậy của công chúng Lạng Sơn vào thông tin trên chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc .......................................................................................... 49

Biểu đồ 2.5. Đánh giá của công chúng Lạng Sơn về thời lượng phát sóng chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn ...................................... 50

Biểu đồ 2.6. Lựa chọn của công chúng Lạng Sơn về thời điểm tốt nhất trong ngày

để phát sóng chương trình TH tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn ................. 52

Biểu đồ 2.7. Ý kiến của công chúng Lạng Sơn về việc sử dụng tiếng dân tộc làm

phương tiện truyền tải thông tin cho các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn ......................................................................................... 54

Biểu đồ 2.8. Ý kiến của công chúng Lạng Sơn về việc sử dụng phụ đề cho các

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn ......................... 55

Biểu đồ 2.9. Ý kiến đánh giá của công chúng Lạng Sơn về chất lượng hình ảnh, âm

thanh trong các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn.... 57

Biểu đồ 2.10. Những tác động về nội dung thông tin trong chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc đến công chúng Lạng Sơn .................................................................. 59

Biểu đồ 2.11. Mức độ sử dụng nội dung thông tin trong chương trình truyền hình

6

tiếng Dân tộc của công chúng Lạng Sơn .................................................................. 60

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta

luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có một vị trí vô

cùng quan trọng với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trong những năm qua, nhờ vào sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời

sống của đồng bào dân tộc thiểu số trong cả nước nói chung và dân tộc thiểu số ở

tỉnh Lạng Sơn nói riêng đã có những bước chuyển biến, văn hóa truyền thống được

giữ gìn, các hủ tục được từng bước đẩy lùi....Tuy nhiên, đời sống vật chất và tinh

thần của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn rất chênh lệch so với các vùng khác:

kinh tế còn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa vẫn còn tệ nạn

mê tín dị đoan, trình độ dân trí của số đông đồng bào còn hạn chế… Công tác thông

tin tuyên truyền của các kênh báo chí về những chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước đền với đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được thường xuyên, kịp thời,

do vậy hiệu quả đạt chưa cao. Trên thực đây là nơi thiếu thông tin và đang bị tranh

chấp thông tin. Chính vì vậy, ở một số địa phương, đồng bào dân tộc đã bị kẻ xấu

lợi dụng xúi giục, kích động, gây mất đoàn kết, làm mất ổn định an ninh chính trị,

lòng tin của đồng bào và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước phần nào bị suy giảm.

Tỉnh Lạng Sơn hiện nay có 11 huyện, thành phố trong đó có 10 huyện miền

núi, vùng cao, là địa bàn sinh sống của các dân tộc thiếu số Nùng, Tày, Dao, Hoa,

Mông.... Theo số liệu điều tra năm 2019, dân số Lạng Sơn có 781.655 người trong

đó, đồng bào dân tộc Nùng chiếm 42,97%, sinh sống chủ yếu ở các xã vùng cao,

biên giới thuộc các huyện Văn Lãng, Tràng Định, Bình Gia, Văn Quan, Cao Lộc;

đồng bào người Tày ở chiếm 35,92%, cư trú chủ yếu ở các huyện miền núi, vùng

cao như Văn Lãng, Chi Lăng, Tràng Định, Lộc Bình; người Kinh chiếm 16,5%;

người Dao, Hoa, Sán Chay, H’Mông chiếm 20,4% dân số... So với các dân tộc thiểu

số khác ở Lạng Sơn, dân tộc Tày, dân tộc Nùng là 2 dân tộc có dân số tương đối

đông, thể hiện rõ nét đặc trưng về phong tục tập quán trong sản xuất, sinh hoạt,

7

truyền thống văn hóa của mỗi tộc người trên dải đất Xứ Lạng. Đặc biệt, đồng bào

dân tộc dân tộc Tày, dân tộc Nùng, dân tộc Dao sinh sống chủ yếu tại các huyện

vùng cao, biên giới, nơi có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng của tỉnh. Nhiều

năm qua, nhờ vào sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, đồng bào thiểu số tỉnh Lạng

Sơn đã tiếp cận với nguồn thông tin chính thống, yên tâm chăm lo phát triển kinh tế,

xóa đói giảm nghèo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi vùng cao,

biên giới.

Đài PT-TH địa phương là một kênh thông tin quan trọng của Đảng bộ, chính

quyền và nhân dân các dân tộc của các tỉnh, thành. Và để đáp ứng yêu cầu thúc đẩy

phát triển kinh tế ở địa phương và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo an

ninh quốc phòng. Hơn 10 năm qua, các đài địa phương đã xây dựng chương trình

truyền hình tiếng dân tộc và chương trình tiếng dân tộc của tỉnh Lạng Sơn ra đời

cũng nằm trong xu hướng đó. Ngoài việc phát sóng ở Đài tỉnh trên các phương tiện

truyền dẫn như: Analog, truyền hình cáp, MyTV, trang thông tin điện tử, từ đầu năm

2013 chương trình còn phát trên vệ tinh Vinasat 2. Các chương trình đã thông tin

được chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và những vấn đề của

địa phương đến với đồng bào dân tộc không chỉ của tỉnh mà còn của cả nước. Đồng

thời cũng phản ánh được những tâm tư nguyện vọng của đồng bào dân tộc với Đảng

và Nhà nước, góp phần vào việc nâng cao đời sống cho bà con dân tộc trên địa bàn

tỉnh đặc biệt là những vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn. Chương trình truyền hình

tiếng dân tộc đã trở thành người bạn gần gũi, hữu ích, là món ăn tinh thần không thể

thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của công chúng dân tộc địa phương. Thông qua nội

dung thông tin, chương trình đã góp phần tích cực trong việc định hình tính chính

trị, phát triển KT-XH ở các địa phương, nâng cao dân trí đồng bào dân tộc thiểu số

trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

Hiện nay, việc sản xuất các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-

TH Lạng Sơn cũng đã đạt được một số thành tựu: Chương trình truyền hình tiếng

dân tộc đã và đang đem lại hiệu quả tích cực phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,

xây dựng đời sống văn hóa mới tại cộng đồng dân cư. Ngoài việc giúp đồng bào

nắm vững các các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

8

chương trình truyền hình tiếng dân tộc thiểu số còn giúp bà con tiếp cận với các tiến

bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng vào sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện

đời sống, xây dựng quê hương, bản làng ngày một thêm no ấm, yên vui. Bên cạnh

những thành công không thể phủ nhận của các nhà báo Đài phát thanh truyền hình

Lạng Sơn trong nỗ lực xây dựng các kênh truyền hình tiếng dân tộc cho bà con,

mức độ tác động thông tin của những chương trình này vẫn đăt ra nhiều vấn đề và

khoảng trống nghiên cứu cho bản thân những người làm nghề trực tiếp, cũng như

cho các chuyên gia về báo chí truyền thông. Cần thiết phải có sự đổi thay một cách

khoa học và hợp lý, tạo nên một bước đột phá mới trong kết cấu nội dung cũng như

hình thức chương trình truyền hình tiếng dân tộc nhằm đạt thông tin hiệu quả cao

nhất, đó là mục tiêu mà các Đài PT-TH địa phương nói chung và Đài TH-PT tỉnh

Lạng Sơn nói riêng cần hướng tới hướng tới.

Là người trực tiếp tham gia thực hiện các chương trình truyền hình tiếng dân

tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn và thường tác nghiệp ở địa bàn miền núi, vùng cao, nơi

có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề

“Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng

đồng dân tộc địa phương” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành báo chí học của

mình với mong muốn giải quyết những vấn đề nêu trên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hiện nay có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề

nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin, tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu

số như:

Công trình đề tài khoa học cấp bộ “Thông tin báo chí ở khu vực dân tộc và

miền núi phía Bắc. Thực trạng và giải pháp phát triển” của Tạ Ngọc Tấn, năm

1994. Tác giả đã phân tích được thực trạng thông tin báo chí ở các tỉnh miền núi

phía Bắc; đồng thời có những xem xét, đánh giá vai trò tích cực, hạn chế trong hoạt

động báo chí đối với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ở miền

núi phía Bắc.

Tác giả Hồ Anh Dũng – nguyên Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam có

bài viết “Sự nghiệp phát triển truyền hình ở dân tộc thiểu số” (trong cuốn Sổ tay

9

công tác dân tộc và miền núi), với kinh nghiệm nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực

truyền hình, tác giả đã chỉ sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng cường

đầu tư cho công tác thông tin tuyên truyền của Đài truyền hình Việt Nam đối với

vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới.

Tháng 02/2001, Bộ Văn hóa – Thông tin tổ chức hội thảo “Tăng cường và

đổi mới công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” đã đề

cập đến một số vấn đề về yêu cầu đổi mới công tác thông tin, phục vụ đồng bào dân

tộc thiểu số. Tuy nhiên, các tham luận tại Hội thảo đề cập đến nhiều báo cáo, tổng

kết hoạt động thông tin, tuyên truyền của đại diện các cơ quan báo chí mà chưa đi

sâu vào bàn thảo để tìm ra các giải pháp tăng cường đổi mới nội dung, hình thức,

chất lượng và hiệu quả công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số của

đơn vị mình.

Nhìn chung, các bài viết ở các đề tài trên, của các tác giả, nhà nghiên cứu

trên đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm, tầm quan trọng về kinh tế - chính trị, an

ninh quốc phòng của các địa phương miền núi, vùng cao, các tác giả nhấn mạnh vai

trò của báo chí, đặc biệt là báo chí truyền hình trong giai đoạn hiện nay đối với công

tác thông tin, tuyên truyền vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây sẽ là những tư liệu

quý báu về phát thanh tiếng dân tộc.

Đối với vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin, tuyên truyền cho

đồng bào dân tộc thiểu số, cách đây nhiều năm cũng đã có nhiều tác giả tiến hành

các đề tài nghiên cứu, đáng chú ý có các đề tài sau:

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Thông tin về dân tộc miền núi trên

VTV1 – Đài truyền hình Việt Nam của Nguyễn Xuân An Việt, năm 2001 tại Học viện

Báo chí tuyên truyền. Luận văn đã khảo, nghiên cứu, và đưa ra một số giải pháp cụ

thể nhằm nâng cao chất lượng chương trình, tăng cường hiệu quả thông tin về vấn đề

dân tộc miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam.

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Chương trình Dân tộc và Miền núi

trên sóng VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam của Phan Ngọc Bách, năm 2005, tại Học

viện Báo chí tuyên truyền. Qua việc nghiên cứu, khảo sát các chương trình dân tộc

miền núi trên VTV1 từ tháng 01/2004 - 06/2005, tác giả đã đưa ra những giải pháp

10

nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình.

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Nâng cao chất lượng chương

trình truyền hình tiếng dân tộc của các đài tỉnh miền núi Đông Bắc của Ân Thị

Thanh Thu, năm 2009, tại Học viện Báo chí tuyên truyền. Trên cơ sở đánh giá đúng

thực trạng chất lượng chương trình truyền hình tiếng dân tộc của các đài PT-TH khu

vực miền núi Đông Bắc về nội dung, hình thức, thời lượng phát sóng, cách tổ chức

sản xuất chương trình; luận văn đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng các chương trình truyền hình tiếng dân tộc của các đài PT-TH các tỉnh miền

núi Đông Bắc.

Chúng tôi nhận thấy, ở những đề tài trên, các tác giả hoặc nghiên cứu ở bình

diện lớn của cả khu vực, ở Đài truyền hình quốc gia hoặc nghiên cứu về một

chương trình truyền hình tiếng dân tộc thiểu số ở Đài PT-TH của một địa phương cụ

thể. Đề tài luận văn “Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng

Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương” sẽ kế thừa những vấn đề mang tính lí

luận đã có từ trước, đồng thời, có những nghiên cứu, khảo sát về chương trình

truyền hình tiếng dân tộc thiểu số - một chương trình có tính chuyên biệt trên sóng

truyền hình của Đài PH-TH Lạng Sơn. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn góp

phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả các chương trình

truyền hình tiếng dân tộc trên Đài PH-TH Lạng Sơn. Và vì vậy, có thể nói, cho đến

nay, đề tài này hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã từng được

công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở hệ thống hóa những lí luận và thực tiễn về

tác động của truyền hình tiếng dân tộc. Luận văn sẽ phân tích, đánh giá đúng thực

trạng tác động thông tin của chương trình truyền hình tiếng dân tộc đến bà con địa

phương. Cụ thể là phân tích thực trạng nhu cầu và hiệu quả chương trình truyền

hình tiếng Dân tộc trên sóng Đài PT-TH Lạng Sơn. Từ đó, đề xuất các giải pháp

nâng cao chất lượng chương trình truyền hình tiếng dân tộc thiểu số trên sóng

11

truyền hình Đài PH-TH Lạng Sơn trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện nhiệm vụ sau đây:

- Xác định cơ sở lí luận: những khái niệm, thế mạnh của báo chí truyền hình

– một loại hình báo chí phát triển mạnh mẽ, sâu rộng, có vai trò tác động và mang

lại hiệu quả xã hội cao đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn; chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc cũng như

vai trò của chương trình truyền hình tiếng dân tộc.

- Khảo sát nhu cầu thông tin, điều kiện tiếp cận sản phẩm báo chí truyền hình

của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn để từ đó thấy được: thực trạng tác

động chương trình truyền hình tiếng dân tộc, cụ thể là tiếng Tày-Nùng, tiếng Dao

của Đài PH-TH Lạng Sơn từ tháng 07/2017 - 07/2018; phân tích đánh giá một cách

toàn diện và sâu sắc những tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH

Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương nhằm rút ra được những ưu –

nhược điểm; tìm ra nguyên nhân của những hạn chế trong hiệu quả chương trình

tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình

truyền hình tiếng dân tộc thiểu số của Đài PH-TH Lạng Sơn.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH

Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu và khảo sát các tác phẩm báo chí truyền hình trong

chương trình tiếng dân tộc (Tày – Nùng, và Dao) do Đài PT-TH Lạng Sơn sản xuất.

Sở dĩ, chúng tôi chọn 2 chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, Dao

vì hiện nay được biệt ngoài chương trình truyền hình phổ thông bằng tiếng Kinh thì

Đài PT-TH Lạng Sơn đang thực hiện 2 chương trình truyền hình dành cho người dân

tộc đó là: chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, và chương trình truyền

hình tiếng dân tộc Dao. Cơ sở nghiên cứu của đề tài dựa trên sự theo dõi hàng ngày

chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn, đọc kịch bản chương

12

trình, xem lại một số chương trình có tin, bài quan trọng, lấy ý kiến của thính giả người

dân tộc thiểu số.

Về không gian: chọn khảo sát đồng bào dân tộc Tày-Nùng, Dao vì 3 dân tộc này

chiếm số lượng lớn tại tỉnh Lạng Sơn.

Về thời gian nghiên cứu: khảo sát giới hạn trong những chương trình truyền

hình tiếng dân tộc của Đài PH-TH Lạng Sơn từ tháng 07/2017 - 07/2018.

5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lí luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm của Đảng và Nhà

nước về công tác dân tộc, cơ sở lí luận về báo chí truyền thông và các khoa học liên

ngành; dựa trên những quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước về công tác dân tộc và những chức năng, nhiêm vụ, vai trò của báo

chí cách mạng Việt Nam trong đời sống xã hội hiện nay.

Ngoài ra, tác giả luận văn còn dựa vào khung lí thuyết về báo chí – truyền thông

để làm căn cứ chung cho quá trình nghiên cứu.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học

xã hội như:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thống kê, phân loại, phân tích, đánh giá

tổng hợp về các tài liệu đã có liên quan đến đề tài như các văn kiện, các công trình

nghiên cứu đã có về lý luận và thực tiễn…

- Phương pháp điều tra xã hội học: chúng tôi tiến hành phát 400 phiếu cho

đối tượng là công chúng đồng bào dân tộc Tày – Nùng, dân tộc Dao ở 4 huyện: Chi

Lăng, Văn Lãng, Lộc Bình, Hữu Lũng.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: Được thực hiện đối với 3 lãnh đạo địa

phương, 1 lãnh đạo Đài, 3 phóng viên biên tập viên thực hiện chương trình truyền

hình tiếng dân tộc thiểu số ở Đài PH-TH Lạng Sơn, một số người dân ở các huyện:

Chi Lăng, Văn Lãng, Lộc Bình, Hữu Lũng.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lí luận

Việc nghiên cứu đề tài luận văn có ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực.

13

Tìm ra những mặt đạt được, hạn chế tồn tại và những giải pháp hữu hiệu nhằm

không ngừng nâng cao hiệu quả chương trình truyền hình tiếng dân tộc, công tác

tuyên truyền đối với đối với đồng bào dân tộc tỉnh Lạng Sơn.

Đề tài sẽ giúp cho các cấp, các ngành chức năng của tỉnh Lạng Sơn hiểu rõ

hơn về vai trò của truyền thông nói chung, PT-TH nói riêng trong công tác lãnh đạo,

điều hành; giúp cho đội ngũ lãnh đạo và những người làm chương trình truyền hình

tiếng dân tộc tốt hơn. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa khoa học đối

với công tác thông tin tuyên truyền như: về phương pháp tác nghiệp, xây dựng nội

dung và hình thức thể hiện trong các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài

PH-TH Lạng Sơn.

Kết quả nghiên cứu cũng sẽ là tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên

ngành truyền hình.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu cũng là cơ sở để những người đang làm việc tại các cơ

quan báo chí cấp tỉnh ở các địa phương nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng

chương trình tiếng Tày-Nùng, tiếng Dao. Qua đó, các cơ quan báo chí có thể lựa

chọn giải pháp đổi mới, nâng cao chất chương trình. Đây cũng là cơ sở khoa học để

Đài PH-TH Lạng Sơn có thêm kinh nghiệm, tiếp tục có sự đầu tư, đổi mới, nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình phát thanh truyền hình mang tính

chuyên biệt khác ở Đài.

7. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên, đề cập một cách cụ thể đến tác

động của truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng

dân tộc địa phương. Mặc dù, đối tượng và phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào

một lĩnh vực truyền thông cụ thể ở Đài PT-TH Lạng Sơn, nhưng hy vọng, những

kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm phong phú hệ thống lí luận báo

chí ở nước ta về các chương trình phát thanh, truyền hình chuyên biệt tại các đài

PT-TH địa phương.

Đóng góp mới của đề tài này là góp phần làm sáng tỏ năng lực, tác động của

truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa

14

phương. Từ việc nghiên cứu, khảo sát lí luận và thực tiễn, luận văn cũng rút ra

những bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức thực hiện các chương trình

truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH địa phương; qua đó đề xuất các giải pháp

cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả các chương trình phát thanh

truyền hình, nhất là chương trình cho đồng bào dân tộc thiểu số.

8. Bố cục luận văn

Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ Lục, Nội dung

chính của luận văn gồm có 3 chương sau đây:

Chương 1. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về truyền hình tiếng dân tộc

Chương 2. Thực trạng về những tác động của chương trình truyền hình tiếng dân

tộc trên Đài PH-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương

Chương 3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động tích cực của chương

trình truyền hình tiếng dân tộc đài PH-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa

15

phương

CHƢƠNG 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA

TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài

1.1.1. Tác động

Trong xã hội loài người, mỗi cá nhân không thể tồn tại nếu như không có sự tác

động đến cá nhân khác hay cộng đồng của mình. Sự tác động này diễn ra cũng rất đa

dạng và trên nhiều lĩnh vực, bằng những cách thức khác nhau.

Theo Từ điển Tiếng Việt, tác động là “làm cho một đối tượng nào đó có

những biến đổi nhất định” [37, tr. 851]. Vậy tác động là một khái niệm rộng, bao

trùm nhiều lĩnh vực, chỉ cần một sự kích thích nào đó gây ra sự biến đổi (nội dung,

hình thức...) đều có thể coi là tác động, trong đó tác động đến con người là hình

thức phức tạp nhất.

Tóm lại, có thể hiểu tác động là sự khác biệt có thể thông báo được, có thể

xác định được mà một chương trình hay dự án mang lại cho con người. Thông

thường tác động ở đây thường được biểu hiện ở 2 khía cạnh: tích cực và tiêu cực.

Tuy nhiên, đối với đề tài tác động của truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH

Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương, theo quan điểm của tác giả, xét về

mục đích và tôn chỉ hoạt động của chương trình truyền hình tiếng dân tộc thì chỉ

xuất hiện yếu tố tích cực.

1.1.2. Truyền hình

Ra đời từ đầu thế kỷ XX truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng

chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh nhờ các phương tiện kỹ thuật.

Sự xuất hiện của truyền hình như một điều kì diệu trong sáng tạo của con người.

Truyền hình mang lại cho con người cảm giác về một cuộc sống thật đang hiện ra

trước mắt. Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi

quốc gia, mỗi dân tộc. Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm hệ thống truyền

thông đại chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng số lượng mà tăng về chất

16

lượng. Công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo khắp hành tinh.

Có nhiều khái niệm khác nhau về truyền hình. Hai tác giả người Pháp

Brigitte và Didier Deormeaux, trong cuốn Phóng sự truyền hình, quan niệm rằng

truyền hình là “truyền thanh có minh họa”.

Tác giả Tạ Ngọc Tấn trong cuốn Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc

gia Hà Nội, năm 2001 cho rằng: “Truyền hình là một loại phương tiện thông tin đại

chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh. Nguyên nghĩa của thuật ngữ

vô tuyến truyền hình bắt đầu bằng hai từ Tele có nghĩa “ở xa” và Vision có nghĩa

“thấy được”, tức là “thấy được ở xa” [44, tr. 143].

Trong Giáo trình báo chí truyền hình của Dương Xuân Sơn (2009), Khoa

Báo chí, Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN): “truyền hình là

một phương tiện thông tin đại chúng truyền đạt thông tin nhờ phương tiện kỹ thuật

đến đối tượng tiếp nhận là người xem. Thông tin trong truyền hình gồm: hình ảnh

và âm thanh. Hình ảnh trong truyền hình có cả hình ảnh động và hình ảnh tĩnh”

[42, tr. 3].

Tác giả Nguyễn Văn Dững trong Cơ sở lí luận báo chí, Nxb Lao động đưa ra

quan niệm: “Truyền hình là kênh truyền thông đại chúng ra đời sau, kế thừa các thế

mạnh của kênh trước đó như điện ảnh, báo in, phát thanh....và ngày nay đang tận

hưởng tối đa môi trường truyền thông số trên mạng internet. Truyền hình là kênh

truyền thông chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh động với nhiều màu sắc vốn có từ

cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động. Nhờ thế, truyền hình đem lại cho

công chúng bức tranh sống động với cảm giác như đang trực tiếp tiếp xúc và cảm

thụ. Đó là bức tranh về cuộc sống thật nhưng được thu nhỏ, được “rút gọn”, được

làm giàu thêm về ý nghĩa, làm sáng rõ hơn về hình thức” [14, tr. 118].

Cả ba định nghĩa trên đều xác định phương tiện ngôn ngữ của truyền hình là

hình ảnh và âm thanh. Đây chính là đặc trưng của truyền hình. Thực chất, cội nguồn

trực tiếp của truyền hình là điện ảnh. Chính điện ảnh đã cung cấp cho truyền hình

những ý tưởng đầu tiên về một phương thức truyền thông cũng như một kho tàng

những phương tiện biểu hiện phong phú, có sức thuyết phục mạnh mẽ, làm cơ sở cho

truyền hình có thể thích ứng nhanh chóng với những đặc trưng kỹ thuật của riêng

mình. Cho dù có những khác biệt về nhiều phương diện thì điện ảnh và truyền hình

17

vẫn có chung một cơ sở ngôn ngữ, cũng như một phương pháp tiếp nhận thông tin.

Về kỹ thuật, truyền hình hoạt động theo nguyên lí cơ bản sau: hình ảnh về sự

vật được máy ghi hình biến đổi thành tín hiệu điện trong đó mang thông tin về độ

sáng tối, màu sắc. Đó là tín hiệu hình ảnh (tín hiệu video). Sau khi được xử lí,

khuyếch đại, tín hiệu hình được chuyển đi trên sóng truyền hình nhờ máy phát sóng

hoặc hệ thống dây dẫn. Tại nơi nhận, máy thu hình tiếp nhận tín hiệu rồi đưa đến

đèn hình để biến đổi ngược từ tín hiệu hình thành hình ảnh trên màn hình. Phần âm

thanh cũng được thực hiện theo một nguyên lí tương tự như thế rồi đưa ra loa.

Ở thập kỷ 50 của thế kỷ XX, truyền hình được sử dụng như là công cụ giải

trí, thông tin. Đến ngày nay, truyền hình đã trực tiếp tham gia vào quá trình quản lí

và giám sát xã hội, có vai trò quan trọng trong định hướng dư luận xã hội. So với

các loại hình truyền thông đại chúng khác, truyền hình là phương tiện ra đời muộn,

song nó là sản phẩm của nền văn minh khoa học công nghệ phát triển. Truyền hình

kết hợp phương pháp tạo hình, tiếng của điện ảnh và phát thanh. Truyền hình tổng

hợp được nhiều ưu điểm từ các loại hình báo chí khác như có sự khái quát triết lí

của báo in, có tính chuẩn xác cụ thể bằng hình ảnh, âm thanh của điện ảnh, phát

thanh... có thể xem truyền hình là loại truyền thông có các yếu tố kỹ thuật hiện đại,

là sự kết hợp giữa kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật, kinh tế, báo chí.

Nhờ kết hợp các yếu tố kỹ thuật hiện đại, truyền hình có ưu điểm là cùng lúc

cung cấp cả hình và tiếng cho người xem. Do đó, truyền hình có khả năng hấp dẫn

cao hơn so với các loại hình báo chí khác. Tuy nhiên, vì phụ thuộc vào yếu tố kỹ

thuật nên truyền hình phụ thuộc vào phát sóng và phải có máy thu hình để theo dõi

thông tin. Cũng vì đặc tính riêng nên việc xây dựng một chương trình truyền hình

khó khăn hơn so với các loại hình báo chí khác.

Đội ngũ tham gia làm chương trình truyền hình mang tính tập thể cao bao

gồm sự tham gia của biên tập, phóng viên, đạo diễn, quay phim, họa sĩ, kỹ thuật và

các bộ phận hành chính phụ trợ khác dưới sự điều hành tổ chức chặt chẽ của một cơ

chế thống nhất.

Kế thừa quan điểm chung về truyền hình của các nhà nghiên cứu, tác giả

quan niệm: Truyền hình là một kênh chuyển tải thông tin một cách rõ ràng, trung

18

thực và hiệu quả đến công chúng qua sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh.

1.1.3. Chương trình truyền hình

Tác giả Tạ Ngọc Tấn trong cuốn Truyền thông đại chúng, đã định nghĩa

chương trình truyền hình như sau: “Thuật ngữ chương trình truyền hình được thực

hiện trong hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, người chương trình truyền hình để

chỉ toàn bộ nội dung thông tin phát ti trong ngày, trong tuần hai tháng của mỗi kênh

truyền hình hai của cả đài truyền hình. Trường hợp thứ hai, chương trình truyền

hình dùng để chỉ một hai hay nhiều tác phẩm hoàn chỉnh hoặc kết hợp với một số

thông tin tài liệu khác được tổ chức theo một chủ đề cụ thể với hình thức tương đối

nhất quán, thời lượng ổn định và được phát đi theo định kỳ” [44, tr. 142].

Tác giả Dương Xuân Sơn trong Giáo trình báo chí truyền hình, đưa ra khái

niệm cụ thể hơn về chương trình truyền hình: “Chương trình truyền hình là sự liên

kết, sắp xếp, bố trí hợp lý các tin bài, bảng biểu, tư liệu bằng hình ảnh và âm thanh

được mở đầu bằng giới thiệu, nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp ứng

yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình nhằm mang lại hiệu quả cao

nhất cho khán giả” [42, tr. 113].

Có thể thấy, các yếu tố tin, bài, tư liệu, hình ảnh... Đều là những bộ phận

quan trọng tạo nên một cấu trúc truyền hình phức tạp hơn - mà các chương trình

truyền hình. Dựa trên nhiệm vụ tuyên truyền và đối tượng công chúng tiếp nhận

thông tin, ta có thể thấy các chương trình truyền hình được phát sóng hàng ngày hay

hàng tuần như: thời sự, chuyên đề, giao lưu tọa đàm, phim truyện…. Được theo

từng khung thời gian trong kênh truyền hình hoặc theo các kênh truyền hình.

Một chương trình truyền hình được phát sóng là sản phẩm của một tập thể,

hoàn chỉnh, thống nhất về hình thức và nội dung thể hiện, được xâu chuỗi một cách

hợp lý, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của công chúng, đồng thời truyền tải trọn vẹn mục

đích ý tưởng sáng tạo của nhà truyền thông bằng phương tiện truyền hình.

Các tác phẩm báo chí truyền hình thể hiện bản lĩnh chính trị, năm và trách

nhiệm xã hội của phóng viên. Uy tín, ảnh hưởng của mỗi đài truyền hình trước hết

được quy định bởi khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện những vấn đề nổi cộm, có ý

nghĩa và phản ánh kịp thời, chân thực tới công chúng, góp phần nâng cao nhận thức,

19

mở rộng hiểu biết và định hướng tư tưởng cho công chúng.

Chương trình truyền hình là chương trình tổng hợp của nhiều loại chương

trình đề cập đến mọi mặt của cuộc sống như các vấn đề chính trị, kinh tế, VH-XH,

an ninh quốc phòng... Chất lượng của một chương trình truyền hình được đánh giá

một phần dựa trên mức độ thu hút sự quan tâm của khán giả đối với chương trình đó

và mức độ đạt được mục đích của những người làm chương trình.

Thực tế cho thấy, bất cứ một chương trình truyền hình nào cũng hàm chứa

những giá trị tư tưởng, văn đặc thù của mỗi dân tộc, quốc gia, giai cấp hay tầng lớp

xã hội cụ thể. Những giá trị này được phóng viên không những truyền tải qua nội

dung mà còn biểu hiện trong phương pháp sáng tạo và hình thức thể hiện mỗi tác

phẩm, cũng như cách thức xây dựng chương trình truyền hình.

Ngày nay để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khán giả, truyền

hình trung ương cũng như địa phương đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất

lượng các chương trình hình theo hướng phong phú, đa dạng và chuyên sâu hơn.

Việc sắp xếp các chương trình trong ngày hay trong tuần cũng được các đài

truyền hình cân nhắc kỹ lưỡng, bố trí sao cho tạo được sức hút liên tục đối với công

chúng. Để làm được điều này thì việc nghiên cứu công chúng đối tượng của chương

trình đó phải được đầu tư thực hiện một cách bài bản nhằm xây dựng các chương

trình truyền hình thu hút người xem và xác định được giờ phát sóng phù hợp đối với

đối tượng người xem.

Sự cạnh tranh về thông tin đã dẫn đến cuộc đua tăng kênh, tăng thời lượng

phát sóng của đài truyền hình. Điều này được thể hiện rõ qua việc hợp tác trao đổi

chương trình giữa các đài trong nước với nhau cũng như trao đổi, hợp tác sản xuất,

khai thác các chương trình truyền hình với các đài nước ngoài để đảm bảo sản xuất

chương trình đa dạng, phục vụ phát sóng và nhu cầu thông tin đến khán giả xem đài.

Như vậy, có thể hiểu chương trình truyền hình là sản phẩm lao động của

một tập thể bao gồm các nhà báo,các cán bộ kỹ thuật, bộ phận tài chính.

Chương trình truyền hình chính là sự gặp nhau giữa nhu cầu, thị hiếu của công

chúng với mục đích, ý tưởng sáng tạo của những người làm chương trình thông

qua phương tiện truyền hình. Chất lượng của một chương trình truyền hình được

đánh giá bằng mức độ thu hút sự quan tâm của khán giả đối với chương trình đó

20

và mức độ đạt được mục đích của người làm chương trình.

1.1.4. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc

- Dân tộc

Khái niệm dân tộc đã tồn tại từ lâu trong hệ thống các quan điểm khoa học

xã hội. Các nhà Dân tộc học cho rằng, điểm đặc trưng nhất của các dân tộc là ở chỗ

nó có tính bền vững và là những quy tắc tồn tại hàng nghìn năm. Mỗi dân tộc có sự

thống nhất xác định bên trong, cả những nét đặc thù để phân biệt nó với tộc người

khác. Để phân biệt các dân tộc, người ta căn cứ vào: tập quán của đời sống gia đình,

hôn nhân và các phong tục.

Khái niệm dân tộc thực chất phải được hiểu là tộc người (ethnic). Tộc người

là “hình thái đặc biệt của một tập đoàn xã hội xuất hiện không phải là do ý nguyện

của con người mà là trong kết quả của quá trình tự nhiên-lịch sử” [21, tr. 8]

“Dân tộc thiểu số” là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên thế

giới hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một thuật ngữ

chuyên ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những dân tộc có dân số ít.

Ngoài ra,còn có một số thuật ngữ có ý nghĩa gần gũi nhƣ: Dân tộc bản địa, Dân tộc

thiểu số bản địa, Bộ lạc, Bộ tộc, Sắc tộc, Tộc ngƣời, Dân tộc thiểu số, Dân tộc ít

người... Sự tồn tại nhiều thuật ngữ đó, do những nguyên nhân gắn liền với sự phát

triển của các dân tộc trên thế giới và sự xáo trộn của mỗi nước qua các thời kỳ biến

thiên lịch sử.

Khái niệm “dân tộc thiểu số” hiện đang được sử dụng tương đối phổ biến

trong các văn bản của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và trong

đời sống xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí

Minh, xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu số

không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc. Tiêu chí

để xác định thành phần dân tộc ở nước ta là: (1) Sự cộng đồng về mặt ngôn ngữ

(2); Có các đặc điểm chung về sinh hoạt – văn hóa; (3) Có ý thức tự giác tộc

người” [21, tr.137].

Những năm trước, khái niệm “dân tộc thiểu số”, có lúc, có nơi, nhất là còn

được gọi là “dân tộc ít người”, nhưng hiện nay đã có qui định sử dụng một khái

21

niệm thống nhất là “dân tộc thiểu số”.

- Chương trình truyền hình tiếng dân tộc

Có thể hiểu một cách đơn giản nhất chương trình truyền hình tiếng dân tộc là

một chương trình truyền hình được thực hiện bằng tiếng dân tộc. Như vậy, chương

trình truyền hình tiếng dân tộc cũng mang đặc điểm chung của chương trình truyền

hình, có gồm các tiêu chuẩn quy định về chủ đề, thời lượng, tính định kỳ và hình

thức thể hiện mang đặc thù của loại hình truyền hình khác ở ngôn ngữ được sử dụng

để thể hiện chương trình.

1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc và tỉnh

Lạng Sơn về truyền hình tiếng dân tộc thiểu số

- Quan điển của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc trên lĩnh vực báo chí

bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số

Lực lượng báo chí đã và đang tham gia có hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ

tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,

đồng thời chuyển tải nhiều thông tin thiết thực đến với đồng bào dân tộc thiểu số đã

nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị cho cán bộ Đảng viên và nhân dân. Củng cố

và tăng cường niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh khối đại đoàn kết

các dân tộc, giúp đồng bào xây dựng, ổn định cuộc sống ở thôn Bản, góp phần nâng

cao dân trí, xây dựng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trước mọi âm mưu, thủ

đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và

diễn biến hòa bình để chống phá cách mạng Việt Nam. Tuyên truyền, vận động

đồng bào xây dựng phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống; giới thiệu những mô

hình, điển hình gia đình làm kinh tế chăn nuôi, trồng trọt... Nhằm xóa đói giảm

nghèo và làm giàu chính đáng. Các báo, đài địa phương đã chú ý thông tin về

khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư nhằm phổ biến kiến thức làm ăn cho đồng

bào, hướng dẫn cách trồng và chăm sóc vật nuôi, giống cây phù hợp với điều kiện

tự nhiên từng vùng miền.

Hiện thực hóa những chính sách của Đảng và nhà nước với đồng bào dân

tộc, tăng cường và chiếm lĩnh thông tin ở các vùng dân tộc miền núi, đáp ứng nhu

22

cầu của đồng bào các dân tộc thiểu số muốn có một chương trình truyền hình bằng

tiếng dân tộc, đặc biệt là những tin tức của địa phương mình, từ các lý do đó

chương trình truyền hình tiếng dân tộc của các địa phương ra đời.

Cùng với các chương trình truyền hình tiếng dân tộc khác của cả nước

chương trình truyền hình tiếng dân tộc của tỉnh Lạng Sơn sau khi ra đời đã nhanh

chóng trở thành một kênh thông tin quan trọng với nhiệm vụ đưa chính sách của

Đảng, nhà nước đến với bà con đồng bào dân tộc tỉnh, góp phần thúc đẩy phát triển

kinh tế, nâng cao dân trí, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc và ổn định tình hình an

ninh trật tự trên địa bàn có đồng bào dân tộc. Những hiệu quả do chương trình

mang lại một phần do thế mạnh đặc trưng của truyền hình nói chung và truyền hình

tiếng dân tộc nói riêng. Trong Giáo trình báo chí truyền hình chỉ rõ: “truyền hình có

khả năng đến với tất cả các tầng lớp dân chúng rộng rãi nhất, thậm chí cả những

tầng lớp nằm bên ngoài ảnh hưởng của các phương tiện thông tin đại chúng” [42,

tr. 43]. Điều này đặc biệt đúng với đồng bào dân tộc thiểu số thường sinh sống ở địa

bàn chia cắt, các báo, tạp chí phải mất thời gian lâu mới có thể phát hành đến nơi thì

chương trình truyền hình với khả năng “hiện diện khắp nơi” là một trong những

phương tiện thông tin đại chúng hiệu quả nhất.

Cũng như truyền hình nói chung, truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH

Lạng Sơn với thế mạnh của một loại hình báo chí truyền hình là thông tin nhanh

nhạy, kịp thời, có sự lôi cuốn rất lớn. Truyền hình tiếng dân tộc rất phù hợp với tâm

lý tiếp nhận của bà con dân tộc tỉnh Lạng Sơn với tư duy trực quan, đơn giản, dễ

hiểu vì bằng chính thứ tiếng của người dân tộc mình vì không phải đồng bào dân

tộc nào cũng nghe, hiểu rõ ràng tiếng Việt. Truyền hình tiếng dân tộc Đài PT-TH

Lạng Sơn còn đáp ứng tâm lý tự tôn dân tộc, muốn nghe bằng chính tiếng của dân

tộc mình. Chính vì vậy, phải phát huy những lợi thế mạng của chương trình để nâng

cao hiệu quả tuyên truyền, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền đường lối của

Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, ổn định chính trị xã hội, phát triển kinh tế

và tạo lập môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh đập bản sắc riêng của các dân

tộc là điều cần thiết.

- Quan điển của Đảng, chính sách của Nhà nước về truyền hình tiếng dân tộc

Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát

23

của trung ương Đảng và Chính phủ qua các thời kỳ cách mạng đấu tranh giải phóng

dân tộc và xây dựng đất nước. Vấn đề này được thể hiện thông qua việc xác định

mục tiêu, tạo lập các thể chế hoạt động, định hướng nội dung chiến lược và cụ thể

cho từng giai đoạn, đầu tư nhân lực, vật lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện… Có thể

nói, vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở Việt Nam là biểu hiện của truyền thống

văn hóa, tính nhân văn sâu sắc của cha ông ta.

Bộ Chính trị, Ban bí thư, Chính phủ cũng như các Bộ, ngành trung ương liên

tục đưa ra nhiều chủ trương, chính sách, nhiều chương trình dự án đầu tư chăm lo tới

đồng bào dân tộc. Có thể kể tới một số nghị quyết của Bộ Chính trị, của Chính phủ từ

khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay:

Ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, ngày 27/1/1989

Bộ chính trị đã ra nghị quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương chính sách lớn của

chính phủ đối với việc phát triển kinh tế xã hội miền núi, trong đó có lĩnh vực

truyền thông đại chúng: “Tăng cường các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả

các phương tiện hiện đại như máy thu thanh các sét, máy thu hình, băng ghi hình,

để cải tiến và nâng cao các chương trình phát thanh, truyền hình ở địa phương, phổ

biến các văn hóa phẩm và tài liệu có nội dung thiết thực, phù hợp với yêu cầu và

truyền thống của đồng bào các dân tộc. Chú trọng sử dụng ngôn ngữ dân tộc (và

chữ viết nếu có) trong công tác thông tin tuyên truyền” [7, tr. 5].

Nghị quyết số 24 của ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Hội nghị

lần thứ 7 về công tác dân tộc đã tổng kết đánh giá sau 15 năm thực hiện đường lối

đổi mới của Đảng, đặc biệt mà từ khi có nghị quyết 22-NQ/TW. Hội nghị đã đưa ra

một số các tiêu chí chủ yếu trong lĩnh vực thông tin tuyên truyền, đến năm 2010

phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình, 100% được nghe đài phát thanh, các

giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số được bảo tồn

và phát triển.

Ngày 3/12/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 39 về việc đẩy mạnh

công tác văn hóa thông tin ở miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây được coi

là một trong những chỉ thị quan trọng về hoạt động báo chí tuyên truyền nói chung,

truyền hình nói riêng trong việc đầu tư các nguồn lực phục vụ công tác tuyên truyền

tại đồng bào dân tộc thiểu số. Mục tiêu của chỉ thị nhằm cải thiện và nâng cao một

24

bước mức hưởng thụ văn hóa thông tin ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số.

Đài truyền hình Việt Nam đã thực hiện dự án “Đưa sóng truyền hình về

miền núi”; xây dựng được 227 trạm phát lại truyền hình có công suất từ 100 -

300W, cấp hàng chục nghìn máy thu hình các loại cho đồng bào dân tộc. Cùng với

đó là mở rộng diện phủ sóng, Đài truyền truyền hình Việt Nam còn chú trọng tăng

cường xây dựng các chương trình tiếng dân tộc nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của

đồng bào dân tộc thiểu số. Tháng 4/1997, Đài truyền hình Việt Nam mở chuyên

mục “Dân tộc” phát định kỳ vào 20 giờ thứ tư hàng tuần với thời lượng 15 phút trên

sóng VTV1.

Đặc biệt, từ ngày 1/1/2004 kênh VTV5 của Đài truyền hình Việt Nam được

tách thành một ban, một kênh độc lập chuyên sản xuất các chương trình truyền hình

về dân tộc miền núi với nhiều thứ tiếng. Đến nay, VTV5 đã phát sóng gần 30 thứ

tiếng, thời lượng phát sóng 24 giờ một ngày. Hiện tại, Đài truyền hình Việt Nam

tiếp tục thực hiện dự án truyền hình tiếng dân tộc giai đoạn 2016 - 2021, hướng mục

tiêu nâng cao chất lượng, tăng thời lượng và mở rộng thêm kiến dân tộc. Ngoài ra,

Đài truyền hình Việt Nam còn phối hợp với các địa phương lập kế hoạch đào tạo,

phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tổng hợp, đưa vào chương trình mục

tiêu quốc gia “Đưa thông tin cơ sở về khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên

giới hải đảo” giai đoạn 2011- 2015. VTV5 là kênh có tính tổng hợp thông tin tuyên

truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước bằng

tiếng dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy sự phát triển KT-XH và

đáp ứng nhu cầu thủ hưởng văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nếu như

năm 2004, mới chỉ có 14 Đài PT-TH địa phương tham gia dự án thực hiện sản xuất

các chương trình truyền hình tiếng dân tộc thiểu số thì đến năm 2013, đã có gần 50

Đài PT-TH các tỉnh, thành phố tổ chức sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân

tộc thiểu số để phát sóng trên kênh địa phương và cộng tác với ban truyền hình

tiếng dân tộc Đài truyền hình Việt Nam.

Hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta với mục tiêu bao

trùm là thực hiện quyền bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, cùng phát triển giữa các dân

tộc trong công cuộc đổi mới đất nước. Để chủ trương chính sách của Đảng và nhà

25

nước đi vào cuộc sống, công tác thông tin, tuyên truyền luôn được xác định đóng

vai trò quan trọng. Lĩnh vực PT-TH nói chung, truyền hình tiếng dân tộc nói riêng

cũng đã nhận được sự quan tâm thích đáng của các bộ, ngành từ Trung ương đến

địa phương. Truyền hình tiếng dân tộc thiểu số dân trở thành một loại phương tiện

truyền thông đại chúng không thể thiếu, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây

dựng và phát triển đất nước nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.

- Chủ trương, chính sách của tỉnh Lạng Sơn về truyền hình tiếng dân tộc

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ XV đã ra Nghị quyết về phát

triển KT-XH trọng tâm của tỉnh trong giai đoạn 2010-2015. Theo đó, Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành quyết định số 196-QĐ/TU ngày 27/4/2011 về

chương trình phát triển KH-XH miền núi Lạng Sơn đến năm 2020, với mục tiêu

quan trọng mang tính chiến lược, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tại 10

huyện miền núi. Tỉnh Lạng Sơn cũng đã xây dựng lồng ghép nhiều chương trình dự

án đầu tư tại khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, vùng sâu vùng xa,

vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh. Theo đó, kết cấu hạ tầng điện - đường - trường -

trạm đã và đang từng bước hoàn thiện, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đời sống

của đồng bào dân tộc. Đến nay, điện lưới quốc gia đã phủ hầu khắp các bản làng

vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh. Đây là một trong những điều

kiện quan trọng, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các

dân tộc.

Đặc biệt, trên lĩnh vực PT-TH, tỉnh Lạng Sơn đã có sự quan tâm đầu tư về

cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực con người. Chỉ tính từ năm 2008

đến nay, riêng nhân lực cho chương trình PT-TH tiếng dân tộc, tỉnh Lạng Sơn đã bổ

sung thêm 8 biên chế cùng nhiều chế độ chính sách khác cho những người trực tiếp

thực hiện các chương trình tiếng dân tộc là con em đồng bào các dân tộc thiểu số.

Về trang thiết bị, tỉnh Lạng Sơn cũng đã hỗ trợ, đầu tư hàng tỷ đồng cho việc xây

dựng, lắp đặt các trạm thu phát lại truyền hình ở khu vực miền núi và đầu tư thêm

hai dây chuyền sản xuất chương trình mới cho Đài.

Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lạng Sơn, năm 2013, Đài PT-

TH Lạng Sơn đã xây dựng dự án phủ sóng PT-TH tại huyện vùng cao và tăng

26

cường thời lượng, chất lượng chương trình tiếng Tày - Nùng của Đài PT-TH Lạng

Sơn. Dự án đã được Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn phê duyệt thực hiện trong 3

năm, từ năm 2013 đến năm 2015. Mục tiêu của dự án, sau khi hoàn thành, sẽ cho

trên 90% các hộ đồng bào Tày Nùng thuộc các địa phương vùng sâu vùng xa, vùng

có điều kiện được theo dõi các chương trình PT-TH của Đài PT-TH Lạng Sơn nói

chung, và chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày, Nùng nói riêng.

Đặc biệt, nhằm tăng cường các chương trình khoa học, giáo dục phục vụ

đồng bào các dân tộc trong tỉnh, trong đó chủ yếu và chú trọng đối tượng khu vực

nông thôn, miền núi, góp phần thực hiện chủ trương đẩy mạnh tiến trình xây dựng

nông thôn mới, giảm nghèo nhanh và bền vững ở khu vực nông thôn và miền núi

trong tỉnh, được sự đồng ý của UBND tỉnh, Đài PT-TH Lạng Sơn đã và đang hoàn

tất các thủ tục đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép mở thêm chuyên

mục truyền hình tiếng dân tộc Tày của Đài PT-TH Lạng Sơn, vào tháng 7/2017

chương trình tiếng Tày đã chính thức được phát sóng. Như vậy, có thể thấy hiện nay

ở Đài PT-TH Lạng Sơn đã có 2 chương trình tiếng dân tộc Tày – Nùng và tiếng

Dao, điều này cho thấy những cố gắng của Đài PT-TH Lạng Sơn trong việc đưa

thông tin báo chí đến với bà con dân tộc thiểu số.

1.3. Áp dụng các lý thuyết truyền thông trong việc đánh giá tác động của

truyền hình tiếng dân tộc đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa

phƣơng

Có thể khẳng định, mối quan hệ giữa các phương tiện truyền thông đối với

công chúng hiện nay ngày càng mật thiết, những tác động của truyền hình tiếng dân

tộc của đài PT-TH Lạng Sơn ngày càng có ảnh hưởng đến nhận thức và tình cảm

đối với cộng đồng dân tộc địa phương. Việc bị ảnh hưởng bởi thông điệp truyền

thông trong các chương trình truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối

với cộng đồng dân tộc địa phương tuy chưa thực sự rõ nét nhưng cũng đã mang lại

những tác động nhất định. Vì vậy, để nghiên cứu đề tài này, lý thuyết truyền thông

có vị trí quan trọng.

Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, tác giả áp dụng Lý thuyết

“viên đạn ma thuật” – “Magic bullet” và Lý thuyết sử dụng hài lòng - Uses and

27

Gratifications vào nghiên cứu.

1.3.1. Lý thuyết “viên đạn ma thuật”

Lý thuyết này còn gọi là lý thuyết “mũi tiêm dưới da” đề phòng chống dịch

bệnh lây lan trong xã hội, được nghiên cứu bởi 2 tác giả là Laswell (1927) và

Hovland et.al. (1953). Harold Lasswell đã cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng của

truyền thông nói chung và các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh

và sau này là truyền hình nói riêng trong quá trình xảy ra các xung đột xã hội trong

nước và quốc tế. Tên gọi của lý thuyết này cho thấy truyền thông có tác dụng của

việc tạo ra hệ miễn dịch đối với những thông tin sai lệch, đồng thời lại như “viên

đạn ma thuật” không gây sát thương mà vẫn làm cho đối thủ phải khuất phục, tâm

phục, khẩu phục.

Lý thuyết này nhấn mạnh vai trò quyết định của truyền thông đối với nhận

thức, thái độ và hành vi của cá nhân, từ đó cho rằng có thể sử dụng truyền thông để

làm cho khán thính giả miễn dịch với các chiến dịch tuyên truyền của đối phương.

Theo lý thuyết này, việc cấm đoán những thông tin sai trái là chưa đủ. Lãnh đạo,

quản lý cần đảm bảo truyền thông cung cấp được các thông tin chân thực, chính

xác, đầy đủ, liên tục, thường xuyên để đảm bảo người dân miễn dịch với những tin

đồn và những luồng thông tin sai trái. Một nguyên lý truyền thông để hình thành và

định hướng dư luận xã hội ở đây là cung cấp thông tin tốt, xác thực lấn át thông tin

xấu, sai trái. Trên cơ sở lý thuyết “viên đạn ma thuật”, truyền hình tiếng dân tộc của

đài PT-TH Lạng Sơn cần tăng cường truyền tải những thông điệp hình ảnh tích cực

để tac động tích hơn hơn nữa trong cuộc sống của cộng đồng dân tộc địa phương.

1.3.2. Lý thuyết sử dụng và hài lòng

Thuyết sử dụng và hài lòng (Uses và gratifications – U&G) được khởi xướng

vào đầu năm 1920 trong Nghiên cứu của Quỹ Payne. Nghiên cứu này nhận định con

người là nạn nhân của những tác động mạnh mẽ từ truyền thông đại chúng. Đến

năm 1960, 1970, 1980, các học giả đặt câu hỏi: “Con người sử dụng ứng xử với

truyền thông ra sao?” chứ không phải: “Truyền thông tác động đến con người như

thế nào?”.

Khác với các thuyết khác luôn nhấn mạnh đến sức mạnh tác động đến nhận

28

thức, thái độ, hành vi, khả năng lôi cuốn sự chú ý và thuyết phục công chúng của

thông điệp truyền thông, thuyết sử dụng và hài lòng nhấn mạnh đến người tiêu dùng

- một bộ phận công chúng. Thuyết khẳng định rằng, hiệu quả và sự tác động của

truyền thông tới công chúng bị quyết định bởi lối sống, cách sống và cá tính riêng

của từng cá nhân tiếp nhận. Mỗi người có một cách sử dụng truyền thông riêng và

họ là chủ động tìm kiếm, lựa chọn và ứng xử với các phương tiện truyền thông và

chọn các nội dung thông tin cụ thể để thỏa mãn nhu cầu cụ thể của bản thân.

Lý thuyết sử dụng và hài lòng là lý thuyết quan trọng được sử dụng trong

luận văn. Bởi lẽ, theo các học giả, hiện này công chúng là những người hoàn toàn

chủ động và có mục đích khi sử dụng các sản phẩm truyền thông. Họ biết cách khai

thác lợi ích của truyền thông để thỏa mãn nhu cầu thông tin của mình. Họ không dễ

bị thuyết phục bởi những lời lẽ thu hút và thuyết phục của một thông điệp truyền

thông mà trên thực tế quyết định của họ có thể bị chi phối chính nhu cầu của bản

thân. Chính vì vậy, người làm truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn

cần phải thay đổi cách thức truyền thông một chiều sang hai chiều hoặc đa chiều,

tăng cường khai thác các kênh, bao gồm cả kênh truyền thông truyền thống và kênh

truyền thông mới để thu hút sự chú ý, tăng cường tính tương tác, tính chủ động và

tính dân chủ trong hoạt động truyền thông.

1.4. Điều kiện tự nhiên - xã hội và nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng

bào Tày - Nùng - Dao ở Lạng Sơn

1.4.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội

- Về vị tri địa lý: Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, thuộc vùng Đông Bắc với diện tích tự nhiên 8.310,09 km2, hẹp nhất là thành phố Lạng Sơn 77,94 km2, rộng nhất là huyện Đình Lập 1.189,56 km2. Lạng Sơn nằm ở vị trí đường quốc

lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây là

Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông là tỉnh Quảng Ninh, phía Nam là Bắc

Giang và phía Bắc tiếp giáp với Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung

Quốc, với 2 cửa khẩu quốc tế, 1 cửa khẩu chính và 9 cửa khẩu phụ.

- Địa hình: địa hình phức tạp, chủ yếu là núi thấp và đồi chiếm hơn 80%, độ

cao trung bình 252 m so với mặt nước biển, nơi thấp nhất là 20 m ở phía nam huyện

29

Hữu Lũng và nơi cao nhất là núi Mẫu Sơn 1.541 m. Khu du lịch Mẫu Sơn được quy

hoạch là khu du lịch Quốc gia, cách thành phố Lạng Sơn 31 km về phía Đông.

- Khí hậu: tỉnh Lạng Sơn tuy nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa nhưng có nét

đặc thù của khí hậu á nhiệt đới, nền nhiệt không quá cao, có mùa đông tương đối

dài và khá lạnh.

- Tài nguyên khoáng sản: có diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 512.559 ha,

chiếm 61,6% diện tích đất tự nhiên. Tài nguyên khoáng sản không nhiều, trữ lượng

các mỏ nhỏ, chủ yếu là mỏ đá vôi với khoảng 40 mỏ đang khai thác có tổng trữ lượng 405 triệu m3 để làm vật liệu xây dựng.

- Dân số: dân số đến tháng 4/2019 là 782.666 người, chủ yếu sinh sống ở khu vực nông thôn (chiếm 79,55%); mật độ dân số bình quân 94,18 người/km2, cao nhất là thành phố Lạng Sơn 1.326 người/km2, thấp nhất là huyện Đình Lập 24,05 người/km2. Người trong độ tuổi lao động là 514,3 nghìn người, chiếm 66,1% dân

số. Tỉnh Lạng Sơn có 7 dân tộc chủ yếu là: Nùng chiếm 42,8%, Tày 35,4%, Kinh

17,11%, Dao 3,5%, Sán chay 0,6%, Hoa 0,3%, Mông 0,17%, các dân tộc khác

chiếm 0,12%.

- Đơn vị hành chính: toàn tỉnh có 10 huyện và 1 thành phố loại II, với 226

đơn vị hành chính cấp xã (207 xã, 5 phường, 14 thị trấn), có 2.314 thôn, khối phố

(2.152 thôn, 162 khối phố); có 5 huyện, 20 xã và 1 thị trấn biên giới. Trong đó có 38

xã khu vực I, 63 xã khu vực II, 125 xã khu vực III; có 133 xã đặc biệt khó khăn, an

toàn khu, biên giới và 121 thôn đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực II trong diện

đầu tư Chương trình 135 giai đoạn 2017 - 2020.

- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm giai đoạn 2011 -

2017 đạt 8 - 9%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông

lâm nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Nông lâm

nghiệp chiếm 20,30%, công nghiệp - xây dựng 19,68%, dịch vụ 49,78%, thuế sản

phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 10,24%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2018 đạt

38,4 triệu đồng.

- Về văn hóa - xã hội: tỷ lệ thôn, khối phố có nhà văn hóa đến năm 2018 đạt

96%. Số trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2018 là 192 trường trên tổng số 694

30

trường. Đến hết năm 2018, tổng số xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế là 114 xã,

chiếm 50,4% số xã. Có 10,5 bác sỹ/vạn dân, 28,3 giường bệnh/vạn dân, Tỷ lệ người

dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5%.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2018 đạt 50%, lao động được giải quyết việc

làm hàng năm trên 14.600 người. Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều giảm trên 3%,

năm 2017 giảm 3,3%, năm 2018 giảm 3,24%. Hiện còn 30.583 hộ nghèo, chiếm

15,83%; 21.267 hộ cận nghèo, chiếm 11,01%.

1.4.2. Nhu cầu tiếp nhận thông tin của người dân tộc thiểu số bản địa

Lạng Sơn

1.4.2.1. Đặc điểm các dân tộc thiểu số Lạng Sơn

- Người Tày – Nùng

Tày và Nùng là hai tộc người nói ngôn ngữ thuộc nhóm Tày – Thái ở Việt

Nam. Người Tày - Nùng có số dân đông nhất trong các tộc người thiểu số ở Việt

Nam. Theo tài liệu thống kê năm 2019, số lượng người Tày là 1.626.392 người

(đứng sau tộc người Kinh), người Nùng là 968.800 người (đứng thứ 6 sau tộc người

Kinh). Riêng đối với Lạng Sơn, là tỉnh có người Nùng sống đông nhất Việt Nam .

Người Tày – Nùng sống chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang,

Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái và ngoài ra còn có một số ít bộ phận nhỏ sống ở

các tỉnh khác như Quảng Ninh, Bắc Giang, đặc biệt sau 1975, số lượng người Tày –

Nùng di cư vào phía Nam .

Trước đây người Tày và người Nùng tự phân biệt mình và gọi nhau một cách

thân mật là Cần lửa khao (người áo trắng) chỉ người Tày với Cần lửa đăm (người áo

đen) chỉ người Nùng. Người Tày ít có sự phân biệt giữa các nhóm địa phương còn

người Nùng thì điều này rất nổi bật.

Hai tộc người Tày, Nùng có quan hệ mật thiết, sống xem cài với nhau, giao

lưu văn hóa với nhau, nhất là sự hòa nhập giữa người Nùng Phàn Xình với người

Tày diễn ra rất mạnh mẽ, nên hiện nay nhiều nơi để phân biệt giữa văn hóa Tày và

Nùng rất khó, đặc biệt trong quá trình sinh sống họ còn tạo nên những yếu tố văn

hóa chung Tày – Nùng, thể hiện trong ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, văn hóa

dân gian…

Tín ngưỡng: người Tày – Nùng ở Lạng Sơn thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn

31

thờ tổ tiên của người Tày – Nùng đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian

riêng và được cung kính hết mực. Khách và phụ nữ có thai, mới sinh không được

phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ. Trong tôn giáo của người Tày-

Nùng, ngày tảo mộ (3/3 âm lịch) là ngày lễ quan trọng nhất của người Tày - Nùng.

Kinh tế: trong lĩnh vực kinh tế truyền thống, người Tày – Nùng ở Lạng Sơn,

nghề nông chiếm vị trí hàng đầu. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt và

chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm, đôi khi có nuôi ngựa và voi. Người Tày -

Nùng thạo nhiều nghề thủ công như đan lát, dệt vải, nấu rượu cần, rèn sắt, làm

gốm,.. trong đó phổ biến nhất là đan lát của nam giới và dệt thổ cẩm của nữ giới.

Nền kinh tế của người Tày - Nùng chủ yếu là tự cung tự cấp, các hoạt động trao đổi

sản phẩm còn mang tính thô sơ, theo phương thức vật dụng đổi lấy vật dụng,

thường mang tính ngẫu nhiên và ước lệ.

Nhà ở: nhà ở của người Tày – Nùng ở Lạng Sơn thuộc loại hình nhà sàn, nhà

đất mái lợp cỏ gianh và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong

nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Người Tày – Nùng sống định

cư, quây quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ.

Hôn nhân:Người Tày – Nùng ở Lạng Sơn cho phép tự do tìm hiều và lựa

chọn bạn đời. Khi đôi trai gái đã lựa chọn được người bạn đời ưng ý để tiến tới hôn

nhân thì đôi trai gái sẽ phải lấy một vật làm tin. Nếu mọi việc thuận lợi hai bên mới

bàn bạc tiến hành các bước chuẩn bị cho lễ cưới. Trong hôn nhân, con gái Nùng

được đề cao, nhà trai phải đáp ứng đủ các lễ như: Lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ

lại mặt và một số tục lệ khác. Đám cưới của người Nùng thường được tổ chức trong

3 ngày và nhiều thủ tục của lễ cưới truyền thống vẫn được duy trì.

- Người Dao

Người Dao là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, với số dân là 751.067

người (2009). Ở Lạng Sơn, 98% dân số người Dao sinh sống tại xã Mẫu Sơn, huyện

Lộc Bình.

Tín ngưỡng: dân tộc Dao rất coi trọng chữ hiếu họ có phong tục thờ cúng tổ

tiên vì họ cho rằng tổ tiên, ông bà luôn dõi theo chân họ phù hộ cho họ vào các

32

ngày rằm.Việc thờ cúng do thầy nên người thầy cúng rất được coi trọng đối với dân

tộc đạo thì họ luôn giúp đỡ nhau họ Sùng bãi tổ tiên nhưng ngày nay theo sự hướng

phát triển thì có một số đi theo các đạo khác như thiên Chúa giáo....

Kinh tế: Người Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và ruộng nước.

Ngoài lúa họ còn trồng màu. Ngài ra, còn phát triển một số nghề thủ công như dệt

vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu…Thức ăn của người Dao chủ yếu là măng, rau,

thỉnh thoảng có thịt cá. Họ nuôi nhiều lợn, gà, nhưng chủ yếu dùng trong những

ngày ma chay, cưới xin, lễ tết.

Hôn nhân: Đối với việc cưới hỏi, trong Lễ ăn hỏi nhà trai mang gà, rượu, thịt

sang nhà gái đưa đồng bạc trắng, tuỳ từng địa phương số tiền thách cưới là 1,20

hoặc 30 đồng bạc hoa xoè. Số bạc này nhà gái dùng để chuẩn bị quần áo, tư trang để

cô dâu về nhà chồng. Từ khi ăn hỏi đến khi cưới khoảng 1 năm để cô gái phải thêu

thùa quần áo cưới. Để báo hỉ cho khách đến dự đám cưới, hai bên gia đình dùng vỏ

quả bầu khô cắt ra từng viên nhỏ như hạt bầu nhuộm bằng màu hồng. Người thân

thường cho hai hạt (nghĩa là người được nhận hạt vỏ bầu này được mời thêm một

người nữa, thường là vợ hoặc chồng). Bao nhiêu khách thì chuẩn bị bấy nhiêu hạt.

1.4.2.2. Nhu cầu tiếp nhận thông tin của người dân tộc thiểu số bản địa Lạng Sơn

Trong cuốn Truyền thông đại chúng, tác giả Tạ Ngọc Tấn khẳng định: “Điều

kiện tiếp nhận thông điệp như trạng thái tâm lí, trình độ nhận thức, kinh nghiệm

sống... cũng tham gia chi phối quy mô,tính chất hiệu ứng xã hội truyền thông đại

chúng” [61, tr. 30].

Trong bài viết “Mối quan hệ giữa tâm lí dân tộc và chính sách dân tộc”, tiến

sĩ Lê Hữu Xanh cho rằng: “Tâm lí học dân tộc là những cảm xúc, tình cảm, nhận

thức, ý chí, tâm trạng, thói quen, truyền thống, các quá trình, trạng thái, thuộc tâm

lí của mỗi dân tộc được biểu hiện trong công việc và đời sống hàng ngày, được hình

thành và phản ánh các mối quan hệ giữa con người trong điều kiện KT-XH nhất

định” [43, tr. 8].

Như vậy, nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí được hiểu là động cơ, mục đích

tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng, là cái công chúng cần. Công chúng ở

33

đây được hiểu là các nhóm người có tiếp cận, sử dụng và chịu ảnh hưởng của sản

phẩm báo chí. Nhu cầu về thông tin và bình đẳng về thông tin đối với đồng bào miền

xuôi là nhu cầu chính đáng, thiết thực của đồng bào dân tộc thiểu số. Thông tin, tuyên

truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến

đồng bào, tìm hiểu cách phát triển kinh tế, cách giữ gìn các giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc mình, được phản ánh những vấn đề của đời sống xã hội của địa

phương mình... là những nhu cầu thông tin chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số

ở Lạng Sơn.

- Loại hình thông tin trực tiếp

Thông tin trực tiếp đến đồng bào dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn được thực hiện

bằng các đội thông tin lưu động, những cuộc họp dân, lễ hội, cung cấp thông tin về

mọi mặt đời sống xã hội, đến từng người dân tộc bản địa, từng thôn bản, từng gia

đình. Cụ thế của loại hình thông tin trực tiếp rất rõ ràng: hình thứcthông tin đa dạng,

trực quan, sinh động, thu hút sự chú ý công chúng, tác động nhanh chóng đến nhận

thức và suy nghĩ của công chúng.

Cuộc sống của dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn thiếu ổn định với tập quán du

canh du cư, lương thực chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Sản xuất kém

phát triển, mang nặng tính tự cung, tự cấp, độc canh là phổ biến, do đó sản phẩm

làm ra không nhiều, sức tiêu thụ thấp. Tập quán này không thể thay đổi một sớm

một chiều mà phải có thời gian và sự kết hợp giữa cộng đồng dân cư với chính

quyền. Thông tin liên quan đến kinh tế, đến cái ăn, cái mặc, về tác hại của việc du

canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy,... được cụ thể hoá qua những hoạt động thiết

thực, bằng các buổi nói chuyện thân mật, gần gũi sẽ dần đi vào lòng người dân.

Thông tin vừa có tính loan báo, vừa có tính định hướng để bà con nhận ra lợi ích,

học tập làm theo, tiếp nhận được mọi chính sách liên quan đến cuộc sống của mình.

Loại hình thông tin trực tiếp thường được thực hiện thông qua đội ngũ cán bộ làm

công tác tuyên truyền miệng tại địa phương, các đội tuyên truyền lưu động của tỉnh,

của huyện. Các già làng, trưởng bản, trưởng các dòng họ là nhân vật đóng vai trò

quan trọng để thực hiện loại hình thông tin này bởi họ là những người có uy tín,

được dân làng kính trọng và noi gương theo. Thông qua các cuộc nói chuyện

34

thường xuyên ở Nhà rông, già làng sẽ nói rõ cho dân làng biết tình hình tại địa

phương, trong nước và thế giới, phân tích cho dân làng thấy rõ mưu đồ của bọn

phản động với các chiêu thức gì để lừa bịp bà con... Từ đó, bà con dân bản tự ý thức

được những việc làm đúng sai, hoạt động trái pháp luật nguy hiểm như thế nào, ảnh

hưởng đến đời sống của chính mình ra sao. Hiện nay, toàn tỉnh Lạng Sơn có 12 đội

Tuyên truyền lưu động, với số lượng cán bộ là 101 người, kinh phí hoạt động trung

bình 400 triệu đồng/năm. Hoạt động của các đội thông tin cổ động đã mang đến cho

công chúng nhiều thông tin quan trọng về đƣờng lối, chủ trương chính sách của

Đảng và Nhà nước, những sự kiện quan trọng trong nước và quốc tế. Hình thức

thông tin trực tiếp được phát triển ở hầu hết mọi nơi, phương thức hoạt động không

ngừng được đổi mới, đưa thông tin kịp thời đến tận cơ sở đã góp phần quan trọng

vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, ổn định chính trị, tư tưởng trong các tầng

lớp nhân dân.

Thông tin trực tiếp là loại hình thức thông tin đơn giản, ít tốn kém, dễ thực

hiện, nhưng hoạt động này ít được tổ chức thường xuyên cho nên hiệu quả truyền

thông sẽ không cao, không đáp ứng đủ nhu cầu thông tin toàn diện trên mọi lĩnh vực.

- Loại hình thông tin gián tiếp:

Thông qua hình thức cấp báo đến tận địa phương, tận trụ sở nhà văn hóa của

bản, làng, xã. Các tờ báo được cấp thông thường là: Báo Nhân dân, Báo Lạng Sơn,

Báo Dân tộc và Phát triển, Báo Lao động, Báo Nông nghiệp... rất được đồng bào

dân tộc thiểu số yêu thích. Tuy nhiên, do giao thông còn khó khăn, công tác vận

chuyển báo chưa được nhanh chóng nên không phải lúc nào thông tin cũng đến với

công chúng kịp thời. Thậm chí, phải đến cả tháng sau khi báo phát hành mới đến

được với công chúng các xã biên giới: Xã Công Sơn (huyện Cao Lộc); xã Trấn Yên

(huyện Bắc Sơn); xã Yên Lỗ (huyện Bình Gia); xã Sơn Hà (huyện Hữu Lũng); xã

Tân Lang (huyện Văn Lãng); xã Chi Lăng (huyện Chi Lăng); xã Đồng Thắng

(huyện Đình Lập; xã Tú Mịch (huyện Lộc Bình),... Bên cạnh đó, trình độ dân trí của

phần đông đồng bào còn hạn chế, tỷ lệ mù chữ và tái mù vẫn cao, số người trực

tiếp đến đọc báo không nhiều. Gần đây, truyền hình đã có bước phát triển khá

nhanh, nhiều hộ dân ở vùng xa xôi cũng đã trang bị được máy thu hình, đón xem

35

thường xuyên các chương trình thời sự, kinh tế, văn hóa... Đặc trưng của truyền

hình là thông tin bằng hình ảnh và âm thanh, điều này là ưu điểm song cũng là hạn

chế của truyền hình. Bởi để tiếp thu thông tin, công chúng dân tộc thiểu số buộc

phải ngồi trước máy thu hình, trong khi đó họ thường bận rộn với công việc ruộng

nương, nhà cửa, rất ít khi đủ thời gian để chỉ ngồi xem truyền hình. Với đặc trưng

về địa hình, công chúng ở các vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa rất khó tiếp nhận

thông tin từ báo in, truyền hình, báo điện tử, nên phát thanh trở thành phương tiện

truyền thông đơn giản mà hiệu quả nhất.

Bảng 1.1. Số xã thu được tín hiệu phát thanh, truyền hình và có báo Đảng đến

trong ngày

Stt Địa phương Thu tín Thu tín hiệu Đài Xã có báo

hiệu Đài Truyền hình Việt Đảng đến

Tiếng nói Nam (vệ tinh mặt trong ngày

Việt Nam đất)

Toàn tình 117 51 61

1. Tp. Lạng Sơn 21 17 21

2. Huyện Bắc Sơn 12 2 4

3. Huyện Bình Gia 8 2 5

4. Huyện Cao Lộc 9 2 4

5. Huyện Chi Lăng 9 2 4

6. Huyện Đình Lập 7 7 2

7. Huyện Hữu Lũng 9 2 4

8. Huyện Lộc Bình 11 5 5

9. Huyện Tràng Định 11 5 4

10. Huyện Văn Lãng 11 4 4

11. Huyện Văn Quan 9 3 4

(Nguồn: Thống kê của tác giả luận văn, tháng 01/2019)

Dựa vào bảng số liệu 1.1 trên chúng ta có thể nhận ra sự chênh lệch khá lớn

giữa các địa phương thu được tín hiệu Đài Truyền hình Việt Nam (51), xã có báo Đảng

36

đến trong ngày (61) và xã thu được tín hiệu Đài Tiếng nói Việt Nam (97). Thậm chí, có

nhiều xã của huyện chỉ thu được tín hiệu của Đài Tiếng nói Việt Nam mà thôi. Điều đó

chứng tỏ truyền hình và sóng phát thanhđã phủ sóng rộng lớn trên địa bàn tỉnh và trở

thành kênh thông tin hữu ích, thiết thực. Nội dung chương trình trên sóng PT-TH ngày

càng đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số ở

Lạng Sơn:

Thông tin về dự báo thời tiết, khí hậu:Khi xảy ra thiên tai, lũ lụt, giao thông

cách trở, thông tin liên lạc khó khăn, các chương trình PT-TH mới phát huy hết hiệu

quả của mình: liên tục cập nhật thông tin về đường đi của bão, sức gió, mực nước ở

đầu nguồn, về diễn biến thời tiết mưa to, gió lớn.Nhanh chóng thực hiện các chuyên

đề bổ sung thông báo diễn biến tình hình, cảnh báo về những nguy hiểm những tai

nạn có thể xảy ra, hướng dẫn cách sơ cứu người khi bị đuối nước...Ví dụ: Cơn bão

số 3 tháng 08/2019 được xem là một trong những cơn bão mạnh nhất, để lại hậu quả

nặng nề nhất. Trọng tâm của cơn bão ở khu vực cư trú của người Dao, Tày, Nùng –

khu vực Mẫu Sơn. Nhờ có các thông tin được cập nhật liên tục qua làn sóng PT-TH,

bà con đã nắm vững được tình hình di chuyển cơn bão, chuẩn bị các tình huống ứng

phó, giảm các trường hợp thương vong.

Thông tin về văn hóa, văn nghệ, giải trí: người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn

với tâm lý yêu thích các dịp lễ hội, đó chính là thời gian để họ vui chơi, giải trí sau

những tháng ngày làm việc vất vả. Bà con rất mong muốn có thật nhiều chương

trình văn hóa, văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc mình, sử dụng các loại nhạc cụ

mang tính đặc trƣng như: trống, cồng chiêng, khèn, sáo,...điều này vừa giúp họ có

tâm trạng thoải mái, giải trí lành mạnh vừa góp phần gìn giữ vốn văn hóa bản địa

độc đáo.Thực tế chứng minh rằng, chương trình PT-TH nào cung cấp thông tin

phong phú, thiết thực cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn thì chương trình

PT-TH ấy được đông đảo công chúng đón xem. Tính chất phong phú này phù hợp

với nhóm công chúng trong những tình hình và điều kiện cụ thể, trong những hoàn

cảnh cụ thể. Thông tin trên các chương trình PT-TH mang tính tổng hợp, thông tin

phong phú nhưng nhất định phải có tính định hướng dư luận xã hội, định hướng

nhận thức, thái độ và hành vi cho công chúng. Đây là yêu cầu xuyên suốt, bao trùm

37

mọi hoạt động truyền thông đại chúng, đặc biệt là PT-TH. Định hướng là nhu cầu

của nhận thức và của hoạt động thông tin báo chí, xuất phát từ bản chất hoạt động

chính trị và xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống. Thông tin mang tính quảng bá, tỏa

sóng rộng khắp, không bị ngăn cách bởi địa hình và không phụ thuộc vào giao

thông là nhờ sóng PT-TH có thể vươn đến những vùng sâu, vùng xa, biên

giới.Những nội dung thông tin trong các chương trình PT-TH dành cho đồng bào

dân tộc thiểu số, sử dụng chính tiếng nói của họ thật sự là những chương trình hữu

ích, gần gũi, đáp ứng tính thời sự và nhu cầu thông tin của bà con. Do đó, dù ở xa

xôi về địa lý nhưng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn vẫn có thể tiếp nhận

thông tin một cách nhanh chóng và đúng thời điểm. Đây là một tiến bộ lớn, một

bước tiền đề tiến tới rút ngắn khoảng cách thông tin dành cho đồng bào dân tộc

thiểu số với đồng bào miền xuôi. Trong phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá”nhiều xã, thôn đã đầu tư cho việc xây dựng các trạm PT-TH không

dây để làm phương tiện thông báo cho nhân dân trên địa bàn. Để đồng bào dân tộc

thiểu số ở Lạng Sơn hiểu chính xác thông điệp, dẫn đến thay đổi nhận thức và hành

vi, người làm PT-TH tiếng dân tộc ở Lạng Sơn cần tìm ra phương thức hữu

hiệu nhất, phù hợp với tâm lý, trình độ của đối tượng để thông điệp phát huy

38

được hiệu quả của mình.

Tiểu kết chƣơng 1:

Trong chương 1, tác giả luận văn đã nêu ra những vấn đề mang tính lí luận và

thực tiễn của chương trình truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn. Đó là

cái nhìn mang tính tổng quát về công tác thông tin, tuyên truyền cho đồng bào dân

nói chung và đồng bào dân tộc Tày - Nùng - Dao ở Lạng Sơn nói riêng.

Cũng trong chương này của luận văn, tác giả đã giải thích một số thuật ngữ,

khái niệm liên quan đến đề tài như: tác động, truyền hình, chương trình truyền hình

tiếng dân tộc, chương trình truyền hình, chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày

- Nùng, chương trình truyền hình tiếng dân tộc Dao. Tác giả cũng đưa ra các quan

điểm của Đảng và Nhà nước, của tỉnh Lạng Sơn về truyền hình tiếng dân tộc. Đây

chính là những khái niệm cơ bản nhất về mặt lí luận trong quá trình thực hiện đề tài.

Ngoài những lí luận cơ bản trên, trong chương 1 này, tác giả luận văn cũng

dành phần nhiều nội dung nghiên cứu về điều kiện tự nhiên - xã hội của các huyện

vùng cao, biên giới, nơi có nhiều đồng bào dân tộc Tày – Nùng – Dao sinh sống,

tâm lí dân tộc và nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào Tày - Nùng - Dao ở

Lạng Sơn.

Những kết quả đạt được trong chương 1 là cơ sở lý luận và thực tiễn để khảo

39

sát chương 2 của luận văn.

CHƢƠNG 2:

THỰC TRẠNG VỀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN

HÌNH TIẾNG DÂN TỘC TRÊN ĐÀI PH-TH LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG

ĐỒNG DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG

2.1. Vài nét về Đài PT-TH Lạng Sơn và chƣơng trình truyền hình tiếng

dân tộc trên sóng Đài PT-TH Lạng Sơn

2.1.1. Đài PT-TH Lạng Sơn

Đài PT-TH Lạng Sơn được thành lập theo quyết định số 18 UB/QĐ-TC ngày

12/02/1979 của UBND và sau này là quyết định số 127/UB/QĐ-TC ngày 18/3/1991

về việc thành lập Đài PT-TH Lạng Sơn.

Về nhân lực: Đài PT-TH Lạng Sơn từ 28 cán bộ, nhân viên khi mới thành lập

đến nay đã có 164 cán bộ công nhân viên chức, trong đó trình độ đại học chiếm trên

70% (trên 84% có trình độ đại học Báo chí).

Về cơ cấu tổ chức: gồm có 1 Giám đốc, 2 Phó giám đốc và có 10 phòng

chuyên môn: Phòng Tổ chức hành chính; Phòng Kỹ thuật và công nghệ sản xuất

chương trình; Phòng Kỹ thuật và công nghệ truyền dẫn phát sóng; Phòng Chương

trình tiếng Dân tộc; Phòng Thời sự; Phòng Chuyên đề; Phòng Biên tập; Phòng Văn

nghệ giải trí; Phòng Dịch vụ quảng cáo; Phòng Thông tin điện tử.

Về phương tiện kỹ thuật: Đài PT-TH Lạng Sơn trang bị hệ thống máy phát

sóng truyền thanh và phát hình

Bên cạnh đó Đài PT-TH Lạng Sơn được trang bị 50 camera kỹ thuật số, 15

bộ bàn dựng phi tuyến tính, hai trường quay thời sự, một xe truyền hình lưu động và

nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất các chương trình truyền thanh và

40

truyền hình.

Bảng 2.1. Thống kê thiết bị máy phát sóng TH-TH Lạng Sơn

Máy PH Công suất Máy PT Công suất Ăngten Trạm PLTH

AM-BE 10KW 75m 67 TOSHIBA 5KW

VTC 2KW 1KW PM-

BDC

THONCAST 0,5KW 0,5KW

(Nguồn: Báo cáo Đài PT-TH Lạng Sơn năm 2018)

Hiện nay, tại Đài PT-TH Lạng Sơn duy trì tiếp sóng các kênh truyền hình 24

giờ/ngày: kênh 12, kênh 21, kênh 7, kênh 33 tiếp sóng của đài VTV1, VTV2,

VTV3, VTV6. Đến thời điểm này diện phủ sóng truyền hình đạt 98% địa bàn tỉnh

với hơn 80% số hộ dân trong tỉnh được xem truyền hình tỉnh và truyền hình của các

Đài trung ương, đối với việc tiếp sóng các kênh của VTV, tiếp sóng chương trình

truyền hình LSTV của Đài tỉnh với lượng thời gian 18 giờ/ngày. Một trong những

nhiệm vụ trọng tâm tuyên truyền của Đài là nâng cao chất lượng nội dung tuyên

truyền. Số giờ phát sóng chương trình địa phương của Đài PT-TH Lạng Sơn mỗi

năm là 3360 giờ; trong đó phát chương trình tiếng dân tộc là 144 giờ; số giờ phát

các chương trình Truyền hình địa phương trên kênh LSTV là 4.560 giờ, trong đó

chương trình tiếng dân tộc là 156 giờ

Đối với Đài PT-TH Lạng Sơn, công tác thông tin tuyên truyền nói chung và

công tác thông tin tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng luôn là một

trong những nhiệm vụ được Đảng bộ, Ban Giám đốc Đài quan tâm, đầu tư. Trong

nhiều năm qua Đài PT-TH Lạng Sơn đã liên tục có sự đổi mới, có sự đầu tư thích

đáng cho các chương trình PT-TH tiếng dân tộc như đầu tư cơ sở vật chất, trang

thiết bị, tuyển dụng các phóng viên, biên tập viên là người dân tộc Tày –Nùng và

Dao nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, thời lượng các chương

trình PT-TH của Đài.

2.1.2. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc trên sóng Đài PT-TH Lạng Sơn

Đài PT-TH Lạng Sơn là một trong những đài địa phương trong cả nước sớm

sản xuất và phát sóng chương trình truyền hình tiếng dân tộc thiểu số.

41

Những năm đầu thế kỷ XXI, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật của

đài được đầu tư, trang bị tương đối đồng bộ, có khả năng đáp ứng cho việc sản xuất

các chương trình phục vụ đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây cũng là thời điểm mà

nhiều chương trình dự án hỗ trợ cho các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng

đặc biệt khó khăn của tỉnh bắt đầu được triển khai, trong đó, có công tác thông tin,

tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thời điểm đó, đội ngũ biên tập viên,

biên dịch viên, phóng viên cũng đã đủ năng lực, trình độ để có thể đáp ứng cho việc

sản xuất các chương trình truyền hình tiếng dân tộc - một thể loại truyền hình mang

tính chuyên biệt dành cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn.

Năm 2001, theo yêu cầu của công việc, ban giám đốc Đài PT-TH Lạng Sơn

quyết định thành lập tổ chương trình tiếng dân tộc trực thuộc Ban Giám Đốc. Tổ

tiếng dân tộc chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc trong việc xây dựng các chương

trình tiếng dân tộc gồm: tiếng Dao, Tày - Nùng trên cả hai loại hình báo chí là phát

thanh và truyền hình.

Nhận thức được vai trò của truyền thông tiếng dân tộc trong đời sống tỉnh

nhà, ngay từ khi vừa thành lập Đài, Ban lãnh đạo đã đề xuất thành lập Phòng các

thứ tiếng dân tộc với nhiệm vụ:

- Tham mưu cho Ban giám đốc về xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các

chương trình tiếng dân tộc, phát trên sóng PT-TH của địa phương và Đài Quốc gia.

- Nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức thể hiện, tăng sức hấp dẫn, tạo sự

quan tâm, theo dõi của bà con nhân dân các dân tộc trong tỉnh.

- Chủ động phối hợp với các phòng chuyên môn liên quan tổ chức thực hiện

các tác phẩm, chương trình theo kế hoạch của chương trình tiếng dân tộc.

- Khai thác các làn điệu dân ca,nhạc cụ dân tộc của đồng bào dân tộc thiểu số

bản địa để làm phong phú thêm chương trình và góp phần bảo tồn và phát huy vốn

văn hoá dân tộc.

- Xây dựng mạng lƣới cộng tác viên tiếng dân tộc và thực hiện các nhiệm vụ

khác do lãnh đạo phân công.

Cùng với các chương trình tiếng Việt, một trong những thế mạnh của Đài

42

PT-TH Lạng Sơn trong những năm qua đó là các chương trình tiếng dân tộc. Hiện

nay, Đài PT-TH Lạng Sơn đang phát sóng 2 chương trình tiếng dân tộc thiểu số. Đó

là chương trình tiếng Dao, tiếng Tày - Nùng. Trong những năm qua, mặc dù các

phương tiện thông tin đại chúng phát triển mạnh mẽ sau các chương trình truyền

hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn vẫn thể hiện là một kênh thông tin hữu

ích - là người bạn thân thiết không thể thiếu đối với đồng bào ở những là vùng cao,

vùng xa của tỉnh Lạng Sơn.

Để các chương trình truyền hình có chỗ đứng trong lòng khán giả, cùng với

việc mở rộng thời lượng thì vấn đề nâng cao chất lượng luôn được ban biên tập đưa

lên hàng đầu và coi đó là yếu tố quan trọng làm nên sức sống của mỗi chương

trình. Hiện nay, ngoài các chương trình tiếng Việt, Đài PT-TH Lạng Sơn còn sản

xuất các chương trình truyền hình bằng tiếng dân tộc là tiếng Dao và tiếng Tày -

Nùng. Với kết cấu gọn, nhẹ các bài viết, phóng sự phản ánh chân thực hơi thở

cuộc sống của người dân vùng cao, biểu dương kịp thời các gương người tốt việc

tốt, giới thiệu những kinh nghiệm, những cách làm sáng tạo của các địa phương

trong quá trình vận dụng đưa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và nhà nước đi vào

cuộc sống, đồng thời góp phần cổ vũ, thúc đẩy các phong trào thi đua ở cơ sở.

Ngoài các tin tức thời sự còn có các chương trình văn hóa, văn nghệ được phát

sóng vào cuối tuần. Chương trình này đem đến cho người dân đồng bào dân tộc có

cái nhìn sâu sắc hơn về những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc Việt Nam.

Từ các lễ hội truyền thống, các làn điệu dân ca, dân vũ đến các phong tục tập

quán. Qua đó không chỉ giúp cho người dân thấy được các giá trị to lớn của văn

hóa dân tộc mà từ đây còn giúp cho người dân ý thức hơn trong việc giữ gìn và

phát triển các giá trị văn hóa đặc sắc riêng có của dân tộc mình. (những nhận xét

như thế này là nhạy cảm, nên tránh hoặc là phải có con số hay trích nguồn uy tín),

tỷ lệ người dân chưa biết chữ và tái mù chữ vẫn còn phổ biến thì việc xây dựng

các chương trình truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số của Đài PT-TH Lạng Sơn

đã phát huy tích cực, góp không đưa các chủ trương đường lối của Đảng, chính

43

sách pháp luật của Nhà nước đến với người dân.

- Chương trình truyền hình tiếng Tày – Nùng

Theo khảo sát của tác giả luận văn, tính đến tháng 6/2018, trong khung thời

lượng 30 phút, chương trình truyền hình tiếng Tày – Nùng được kết cấu như sau:

Bảng 2.2. Kết cấu chương trình truyền hình tiếng Tày – Nùng của Đài PT-TH

Lạng Sơn

Chương trình số Thời lượng Nội dung

Thứ 3 - Thời sự trong tỉnh 5 phút

- Phóng sự 6 phút

- Phổ biến kiến thức 3 phút

Thứ 5 - Thời sự trong tỉnh 5 phút

- Phóng sự 6 phút

- Chính sách pháp luật 3 phút

Thứ 7 - Thời sự trong tỉnh 5 phút

- Phóng sự 6 phút

- Phổ biến kiến thức 3 phút

(Nguồn: Khảo sát tác giả tháng 8/2018)

Hiện tại, phòng Chương trình tiếng dân tộc có 15 người, trong đó có 6 người

là phóng viên, biên dịch viên, phát thanh viên là người đọc tiếng Tày - Nùng (bao

gồm: 1 thạc sĩ, 4 đại học, 1 cao đẳng). Đội ngũ phóng viên, biên tập viên, phát

thanh viên thực hiện chương trình tiếng Tày – Nùng được đào tạo cơ bản, có trình

độ chuyên môn, đủ năng lực sản xuất chương trình PT-TH tiếng Tày - Nùng phát

sóng vào thứ 3 - 5 - 7 hàng tuần của Đài.

- Chương trình truyền hình tiếng Dao

Chương trình truyền hình tiếng Dao có kết cấu tương tự như chương trình

truyền hình tiếng Tày-Nùng. Với thời lượng chương trình 30 phút, chương trình

truyền hình tiếng Dao được phát sóng vào thứ 2 – 4 – 6 hàng tuần và có kết cấu như

44

sau:

Bảng 2.3. Kết cấu chương trình truyền hình tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn

Chương trình số Nội dung Thời lượng

Thứ 3 - Thời sự trong tỉnh 5 phút

- Phóng sự 6 phút

- Phổ biến kiến thức 3 phút

Thứ 5 - Thời sự trong tỉnh 5 phút

- Phóng sự 6 phút

- Chính sách pháp luật 3 phút

Thứ 7 - Thời sự trong tỉnh 5 phút

- Phóng sự 6 phút

- Phổ biến kiến thức 3 phút

(Nguồn: Khảo sát tác giả tháng 8/2018)

Về nhân lực thực hiện chương trình truyền hình tiếng Dao hiện nay có 3 biên

dịch viên và phát thanh viên (trong đó: 1 biên dịch viên đã tốt nghiệp đại học; 2

biên dịch viên có trình độ trung cấp) là người dân tộc Dao được biên chế, hợp đồng

làm việc chính thức và 2 cộng tác viên người Dao. Với đội ngũ nhân lực hiện tại,

mỗi tuần các biên dịch viên, phát thanh viên phải đảm nhận sản xuất 3 chương trình

truyền hình tiếng Dao với thời lượng chương trình 30 phút.

Với kết cấu gọn nhẹ, trong một chương trình, sau phần tin là các bài viết, phóng

sự, phản ánh chân thực bức tranh KT-XH của đồng bào các dân tộc miền núi, vùng cao.

Chương trình cũng kịp thời biểu dương gương người tốt việc tốt, giới thiệu những kinh

nghiệm hay, những cách làm sáng tạo của địa phương trong phát triển KT-XH, xóa đói

giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa mới, đồng thời góp phần cổ vũ thúc đẩy các

phong trào thi đua cơ sở. Ngoài ra, trong các dịp lễ tết các chương trình tiếng Tày –

Nùng, tiếng Dao thường được “mềm hóa” bằng các chương trình văn hóa, văn nghệ,

giới thiệu những ca khúc, những điệu dân ca, dân vũ mang đạm bản sắc truyền thống

dân tộc ca gợi Đảng, Bác Hồ, ca gợi quê hương, bản làng ngày một thêm đổi mới.

2.2. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu và hiệu quả chƣơng trình truyền

hình tiếng Dân tộc trên sóng Đài PT-TH Lạng Sơn

Để biết được chương trình truyền hình tiếng dân tộc trên Đài PT-TH có những

tác động như thế nào đối với cộng đồng dân tộc địa phương tại Lạng Sơn, tác giả luận

45

văn đã tiến hành cuộc khảo sát lấy ý kiến từ những người dân tộc đang sinh sống và

làm việc tại Lạng Sơn về chất lượng nội dung và hình thức mà nhà Đài đang từng ngày

cố gắng làm tốt trong việc thông tin báo chí đến với cộng đồng người dân địa phương

mình. Kết quả của cuộc khảo sát sẽ trả lời câu hỏi: Chương trình truyền hình tiếng dân

tộc trên Đài PT-TH có những tác động như thế nào đối với cộng đồng dân tộc địa

phương tại Lạng Sơn?

Trong quá trình thực hiện, tác giả luận văn đã thống kê, khảo sát 156 chương

trình tiếng Dao và 157 chương trình tiếng Tày - Nùng đã phát sóng trên Đài PT-TH

Lạng Sơn từ tháng 01/7/2017- 30/6/2018. Mỗi chương trình có thời lượng 30 phút.

Phát sóng lúc 16h40 chương trình truyền hình tiếng Tày – Nùng vào thứ 3-5-7;

chương trình truyền hình tiếng Dao vào lúc 10 giờ các ngày 2 - 4 - 6.

Song song với đó, là nghiên cứu những hiệu quả chương trình và những tác

động của của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng

dân tộc địa phương, tác giả đã tiến hành phát 400 phiếu khảo sát, thu về 400 phiếu

tại các huyện: Chi Lăng, Văn Lãng, Lộc Bình, Hữu Lũng. Phiếu khảo sát chủ yếu

công chúng ở các huyện có dân tộc Tày, Nùng, Dao sinh sống. Trong phiếu khảo sát

đưa ra mức độ tiếp nhận thông tin, đánh giá của khán giả xe truyền hình về chương

trình, mức độ tiếp nhận, những tác động của chương trình truyền hình tiếng dân tộc

Đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương.

Kết quả khảo sát hiệu quả chương trình truyền hình tiếng dân tộc bao gồm:

- Về số hộ gia đình có tivi và truyền hình internet

Trước tiên, với câu hỏi: Gia đình ông/bà hiện tại có các phương tiện truyên

thông nào? chúng tôi thu được kết quả sau (xem biểu đồ 2.1):

Biều đồ 2.1. Các phương tiện truyên thông hiện đang sử dụng của công chúng tại

46

Lạng Sơn

Kết quả khảo sát biểu đồ 2.1 trên cho thấy ở Lạng Sơn hiện nay có đầy đủ

các phương tiện truyền thông để cho theo dõi tin tức. Trong đó, Đài là loại hình

phương tiện truyền thông có tỷ lệ người dùng nhiều nhất chiếm 29,75%; tiếp đến là

Tivi với 28,5%; máy tính có kết nối internet cũng chiếm 17,25%. Tuy nhiên, có đến

24,5% ý kiến của người dân nơi đây cho biết hiện tại gia đình họ vẫn chưa có tivi,

đài, và máy tính có kết nối internet.

- Về tần suất xem:

Và để biết được những tác động của chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

đến công chúng đồng bào các dân tộc đang sinh sống và làm việc tại Lạng Sơn,

chúng tôi đã tiến hành khảo sát về mức độ xem chương trình truyền hình tiếng dân

tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn và thu được kết quả sau (xem biểu đồ 2.2):

Biểu đồ 2.2. Tần xuất xem chương trình truyền hình tiếng dân tộc của công chúng

tại Lạng Sơn

Qua kết quả khảo sát phụ lục 2 và biểu đồ 2.2 trên, có thể thấy tần xuất xem

và tiếp cận thông tin qua chương trình truyền hình tiếng dân tộc của công chúng tại

Lạng Sơn có sự chênh lệch khá lớn giữa các mức độ xem. Trong đó, tỉ lệ xem một

vài lần/tuần chiếm 45,7%; tỉ lệ xem hàng ngày chiếm 22%; tỉ lệ xem một vài

lần/tháng chiếm 16,5%; tỉ lệ xem một vài lần/năm chiếm 10,3%; điều đặc biệt là

vẫn có 5,5% công chúng không bao giờ xem chương trình truyền hình tiếng dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn. Kết quả này cho thấy chương trình truyền hình tiếng dân

47

tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có sức hút đối với công chúng là người dân tộc. Điều

đó cũng là một trong những cơ sở để khẳng định những tác động tích cực của

chương trình truyền hình tiếng dân tộc đối với công chúng Lạng Sơn.

- Về mức độ yêu thích chương trình truyền hình dân tộc:

Hiện nay các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Lạng Sơn (chương

trình truyền hình tiếng dân tộc Tày - Nùng, chương trình truyền hình tiếng dân tộc

Dao) đang duy trì với thời lượng 30 phút/chương trình. Mỗi chương trình gồm các

mục: Chính trị, an ninh quốc phòng; Phóng sự; Gương sáng bản làng; Nét đẹp vùng

cao; Tiếng nói từ thôn bản; Khoa học kỹ thuật; Ẩm thực xứ lạng. Mỗi chuyên mục

đều có thời lượng và có hình hiệu riêng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể chương trình được

sản xuất theo quy trình khép kín, xuyên suốt. Các mục kết nối, móc xích với nhau

bởi người dẫn chương trình và hình hiệu của từng mục. Đây cũng chính là cách tạo

sự hấp dẫn, lôi cuốn cho khán giả xem truyền hình.

Với câu hỏi Qúy vị quan tâm nhiều đến chuyên mục nào sau đây? Chúng tôi

thu được kết quả như sau (xem biểu đồ 2.3).

Biều đồ 2.3. Các chuyên mục trong chương trình truyền hình tiếng Dân tộc yêu

48

thích của công chúng tại Lạng Sơn

Nhìn vào kết quả biểu đồ 2.3 có thể thấy tất cả các chuyên mục trong chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc tại Đài PT-TH Lạng Sơn đều được công chúng yêu

thích, trong đó chuyên mục Tiếng nói từ thôn bản được công chúng yêu thích nhất

với 288/400 người ưu thích (chiếm 72%); tiếp đó là các chuyên mục Gương sáng

bản làng, Nét đẹp vùng cao và Ẩm thực xứ Lạng đều chiếm tỉ lệ trên 60%; chuyên

mục Phóng sự có tỉ lệ người xem yêu thích ít nhất với 237/400 chiếm 59,3%.

- Độ tin cậy về nội dung:

Thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng

luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các cơ quan báo chí và sự hưởng

ứng của đông đảo nhân dân. Nhờ có thông tin trên báo chí mà rút ngắn được khoảng

cách giữa đồng bằng và miền núi, thành thị và nông thôn. Thông tin đã giúp cho mọi

người dân nắm bắt được những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước; giúp cho nhân dân nhanh chóng xóa đói giảm nghèo, phê phán những hủ

tục lạc hậu... Chính vì vậy mà khi chúng tôi tiến hành khảo sát điều tra thì đa số người

được hỏi đều đánh giá cao độ tin cậy của thông tin được phản ánh trong chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Đài PT-TH Lạng Sơn (xem biểu đồ 2.4):

Biểu đồ 2.4. Độ tin cậy của công chúng Lạng Sơn vào thông tin trên chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc

Với kết quả biểu đồ 2.4 có thể thấy rằng có đến 59% số lượng công chúng

49

cho rằng các thông tin trên chương trình truyền hình tiếng Dân tộc là tin tin cậy; có

31% số lượng công chúng cho rằng thông tin trên chương trình truyền hình tiếng

Dân tộc là khá tin cậy và có 10% công chúng cho rằng thông tin trên chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc là không đáng tin cậy. Như vậy, kết quả này cho thấy

thông tin trên chương trình truyền hình tiếng Dân tộc đã đáp ứng và được nhu cầu

thông tin của công chúng đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn.

- Đánh giá về hình thức

Về thời lượng phát sóng: Đài PT-TH Lạng Sơn mỗi tuần sản xuất 2 chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc (chương trình tiếng Tày – Nùng; chương trình

tiếng Dao) với tổng thời lượng cho mỗi chương trình là 30 phút. Trong đó, mỗi

chương trình có 3 mục, mỗi mục có thời lượng 10 phút. Khảo sát công chúng về

sự phù hợp hay không phù hợp của thời lượng chương trình truyền hình tiếng Dân

Biểu đồ 2.5. Đánh giá của công chúng Lạng Sơn về thời lượng phát sóng chương

tộc, chúng tôi thu được kết quả biểu đồ 2.5 (xem hình 2.5):

trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn

Theo kết quả biểu đồ 2.5 trên cho thấy số công chúng Lạng Sơn cho rằng

thời lượng phát sóng chương trình truyền hình tiếng Dân tộc với 30 phút có tỉ lệ cao

nhất cho rằng phù hợp, có 23,5% cho rằng rất phù hợp, chỉ có 9,5% cho rằng không

phù hợp, ngoài ra còn có 3,5% công chúng cho rằng hoàn toàn không phù hợp.

Về thời gian phát sóng: chương trình truyền hình tiếng Dân tộc là một chương

50

trình truyền hình dành cho đối tượng chuyên biệt cho nên sự sắp xếp thời gian có ý

nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền cũng như có tác

động đến hiệu quả tuyên truyền. Việc xây dựng thời điểm phát sóng chương trình hợp

lí sẽ vừa thu hút được một số lượng công chúng lớn, đồng thời góp phần nâng cao hiệu

quả tuyên truyền của chương trình.

Hiện nay, tại Đài PT-TH Lạng Sơn có 2 chương trình truyền hình tiếng Dân

tộc Tày – Nùng, Dao phát sóng vào 16 giờ 40 phút và phát lại vào 10 giờ sáng hôm

sau (đối với chương trình tiếng Dao phát thứ 2,4,6; chương trình tiếng Tày phát thứ

3,5,7). Nhìn chung có thể thấy ở cả 2 chương trình truyền hình phát sóng trên Đài

PT-TH Lạng Sơn được phát sóng đều đặn trong tuần vào nhiều khung giờ khác nhau

nhưng chủ yếu là phát vào buổi giữa trưa và giữa chiều mà không có khung giờ phát

sóng vào giờ nghỉ trưa và buổi tối.

Để biết được khung giờ phát sóng chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn phát sóng vào khung giờ nào để đạt hiệu quả nhất, chúng

tôi có đặt ra câu hỏi: Theo quý vị thời điểm tốt nhất trong ngày để phát sóng chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn để đến với đông đảo công

chúng là lúc nào? kết quả thu được từ ý kiến của công chúng xem truyền hình

Lạng Sơn như sau (xem biểu đồ 2.6):

Với kết quả biểu đồ 2.6 trên cho thấy thời điểm tốt nhất trong ngày để phát

sóng chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn được công

chúng Lạng Sơn lựa chọn nhiều nhất ở khung giờ thời gian buổi tối với 61,5%, tiếp

đến là thời điểm buổi trưa với 25%, thời gian buổi sáng chỉ có 13,5%. Lựa chọn này

cho thấy sự phù hợp về hoàn cảnh của công chúng vì thời điểm buổi sáng bà con

thường phải lên nương, lên rẫy để làm công việc nên họ không thể xem chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc được, chỉ có thời gian vào giữa trưa và buổi tối trong

và sau bữa cơm gia đình họ mới có thời gian để xem chương trình truyền hình tiếng

51

Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn.

Biểu đồ 2.6. Lựa chọn của công chúng Lạng Sơn về thời điểm tốt nhất trong ngày

để phát sóng chương trình TH tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn

Về ngôn ngữ: Như đã giới thiệu ở phần mở đầu, về dân số của tỉnh Lạng Sơn

hiện nay có 832.000 người trong đó, đồng bào dân tộc Nùng là 314.295 người

(chiếm 42,97% tổng dân số người Nùng tại Việt Nam), sinh sống chủ yếu ở các xã

vùng cao, biên giới thuộc các huyện Văn Lãng, Tràng Định, Bình Gia, Văn Quan,

Cao Lộc; đồng bào người Tày ở Lạng Sơn có 259.532 người (chiếm 31,5% tổng

dân số người Tày tại Việt Nam), cư trú chủ yếu ở các huyện miền núi, vùng cao như

Văn Lãng, Chi Lăng, Tràng Định, Lộc Bình; người Dao chiếm 3,5 % dân số. Chính

vì điều kiện đa dạng về các dân tộc mà hiện nay tại Đài PT-TH Lạng Sơn đã xây

dựng và phát sóng 2 chương trình truyền hình tiếng Dân tộc đan xem nhau giữa các

ngày trong tuần. Qua quan sát và thực tế sinh sống và làm việc tại đây bản thân tác

giả luận văn nhận thấy trong suốt quá trình phát triển các dân tộc thiểu số ở Lạng

Sơn ít sử dụng chữ viết riêng, mà đồng bào các dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn giao

tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình. Bởi vậy, khả năng tiếp nhận thông

tin truyền thông nói chung, thông tin báo chí phát thanh, truyền hình nói riêng vẫn

còn những mặt hạn chế.

Thực tế cho thấy, công tác thông tin tuyên truyền đến với đồng bào dân tộc

thiểu số nói chung còn hạn chế. Người dân thường không có điều kiện để mua và

52

tiếp cận sách báo thường xuyên nên cũng thường xuyên không tiếp nhận những

thông tin cần thiết trên sách báo. Điều quan trọng hơn là đồng bào các dân tộc thiểu

số tỉnh Lạng Sơn không chỉ thiếu thông tin mà còn bị những phần tử xấu và các thế

lực thù địch, phản động truyền bá những thông tin sai lệch, đi ngược với lợi ích

quốc gia, dân tộc. tại các huyện, thị xã – nơi có người dân tộc thiểu số sinh sống, số

người nói thành thạo tiếng phổ thông chủ yếu là giới trẻ, được đi học và từng bước

thoát ly. Còn một bộ phận lớn dân cư là người trung tuổi, phụ nữ, người già có uy

tín trong bản, làng thì họ biết ít tiếng phổ thông. Chính những điều này đã làm cho

quá trình truyền thông về phổ biến các chủ trương, chính sách của Đàng và pháp

luật của Nhà nước cũng như việc động viên người dân tích cực trong sản xuất, xóa

đói giảm nghèo và xây dựng Nông thôn mới. Chính từ thực tế này mà chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc chính là sự lựa chọn vô cùng quý báu cho đồng bào dân

tộc thiểu số tại tỉnh Lạng Sơn hiện nay.

Với câu hỏi Theo quý vị việc sử dụng tiếng dân tộc làm phương tiện truyền

tải thông tin cho các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn có cần thiết không? chúng tôi thu được kết quả sau (xem biểu đồ 2.7):

Qua biểu đồ 2.7 có thể thấy có đến 84,7% ý kiến của công chúng Lạng Sơn

cho rằng việc sử dụng tiếng dân tộc làm phương tiện truyền tải thông tin cho các

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn là rất cần thiết và

cần thiết, có 14% ý kiến công chúng cho rằng không cần thiết và chỉ có 1,3% ý kiến

của công chúng Lạng Sơn cho rằng việc sử dụng tiếng dân tộc làm phương tiện

truyền tải thông tin cho các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

Lạng Sơn là hoàn toàn không cần thiết. Như vậy, với kết quả khả sát này cho thấy

công chúng Lạng Sơn đặc biệt quan tâm và coi trọng các chương trình truyền hình

53

tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn.

Biểu đồ 2.7. Ý kiến của công chúng Lạng Sơn về việc sử dụng tiếng dân tộc làm

phương tiện truyền tải thông tin cho các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn

Phụ đề chương trình: Theo quy trình làm phụ đề hiện nay ở Đài PT-TH Lạng

Sơn gồm có các bước như sau: rút tít chính; đánh chữ, ghép chữ, kiểm duyệt câu

chữ ở bản dựng hoàn tất. Trong quá trình biên tập, Biên tập viên dàn câu phụ đề có

rút ngắn câu văn gốc, giúp cho câu phụ đề ngắn gọn, dễ hiểu song vẫn bảo đảm chất

lượng nội dung thông tin của bài viết. Trong quá trình tổ chức sản xuất chương trình

truyền hình lãnh đạo phòng giao nhiệm vụ cho phóng viên biên tập có trình độ, am

hiểu tiếng dân tộc thực hiện khâu này. Có như vậy, mới có thể biên tập, hiểu và lựa

chọn trong việc rút tít chính. Riêng các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc chỉ

gửi VTV5 phát sóng trên đài quốc gia, phụ đề được đánh trên thanh bar nền màu

trắng viền vàng và logo của VTV5.

Để biết được hiệu quả đáp ứng của phụ đề chương trình truyền hình đối với

sự tiếp nhận của công chúng ra sao, chúng tôi sử dụng câu hỏi Theo quý vị phụ đề

cho chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn hiện nay đã

đáp ứng nhu cầu xem truyền hình của đồng bào dân tộc hay chưa? Và đã thu được

kết quả biểu đồ 2.8 (xem biểu đồ 2.8).

Với kết quả biểu đồ 2.8 có thể thấy có đến 87,9% công chúng Lạng Sơn

cho rằng việc sử dụng phụ đề cho các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn là rất cần thiết và cần thiết, có 12,1% ý kiến cho rằng

54

không cần thiết.

Biểu đồ 2.8. Ý kiến của công chúng Lạng Sơn về việc sử dụng phụ đề cho các

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn

Về hình ảnh: Hình ảnh có một vai trò vô cùng quan trọng trong các chương

trình truyền hình nói chung và chương chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên

Đài PT-TH Lạng Sơn nói riêng. Vì hình ảnh được coi như là ngôn ngữ đặc trưng

nhất của nó. Là phương tiện truyền tải thông tin mạnh mẽ đến với công chúng khán

giả. So với các đặc trưng của các thể loại báo chí khác, thì ngôn ngữ hình ảnh tạo ra

hiệu quả nhận thức, tâm lí và hành vi tiếp nhận trực tiếp nhất, nhanh nhất. Đó là

nguyên nhân diễn ra sự phát triển như vũ bão của các loại hình báo chí này so với

loại hình báo chí khác. Do đó, một tác phẩm báo chí truyền hình thành công hay

không thì vai trò của hình ảnh là rất lớn. Vì vậy, để có được hình ảnh tốt yêu cầu

đầu tiên là khuân hình, bố cục, góc máy, ánh sáng và màu sắc phải chuẩn. Tiếp đến

là cảnh quay then chốt. Cảnh quay then chốt thực chất chỉ là một chi tiết của sản

phẩm báo chí truyền hình. Một tác phẩm có lôi cuấn, hấp dẫn khán giả hay không

thì phóng viên, quay phim phải tìm ra các chi tiết, hình ảnh đắt của nó.

Ngôn ngữ hình ảnh đều có những tác động mạnh và trực tiếp, cụ thể, sinh

động đến nhận thức của công chúng, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số. ngôn

ngữ hình ảnh của các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn thể hiện khá thành công trong việc khai thác tâm lí, tập quán truyền thống,

những vấn đề hiện tại liên quan đến đời sống của đồng bào dân tộc tại Lạng Sơn.

Về âm thanh: trong chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

55

Lạng Sơn bao gồm có tiếng động hiện trường, âm nhạc và khoảng lặng.

Trong đó, tiếng động hiện trường bao giờ cũng đi kèm với mỗi cảnh quay

của người quay phim. Tiếng động hiện trường chính là những âm thanh của cuộc

sống được ghi lại một cách tự nhiên, khách quan. Những tác phẩm truyền hình hay

cần sử dựng những hình ảnh đi kèm với tiếng động hiện trường. Nó có vai trò hỗ trợ

và tạo ra không khí, bối cảnh của không gian mà người quay phim muốn chuyển tải

đến với công chúng khán giả.

Âm nhạc có vai trò quan trọng trong các tác phẩm truyền hình. Nó góp phần

tương hỗ trợ cho lời bình, giúp nâng cao hiệu quả tác phẩm truyền hình. Tuy nhiên,

hiện nay việc sử dụng âm nhạc trong các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn mới chỉ dừng lại ở các phóng sự trong mục Nét đẹp vùng

cao và Ẩm thực xứ Lạng.

Khoảng lặng được coi là yếu tố của âm thanh khi lời bình nhường hẳn cho

hình ảnh chiếu trên màn hình. Vì lúc này giá trị của thông tin hình ảnh có khoảng

lặng mang lại là cao nhất và không một lời bình nào có thể sánh được. Tuy nhiên,

thực tế hiện nay các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn ít có chương trình nào làm được điều này.

Qua câu hỏi khảo sát Quý vị đánh giá như thế nào về hình ảnh, âm thanh

trong các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn? tác giả

luận văn thu được kết quả biểu đồ 2.9 (xem biểu đồ 2.9).

Như vậy, với kết quả biểu đồ 2.9 trên có thể thấy có đến 62,2% ý kiến của

công chúng Lạng Sơn cho rằng chất lượng hình ảnh, âm thanh trong các chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn là rất tốt và tốt, có 24,5%

ý cho rằng tương đối tốt và có 13% ý kiến cho rằng chất lượng hình ảnh, âm thanh

trong các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn là chưa

56

tốt và hoàn toàn chưa tốt.

Biểu đồ 2.9. Ý kiến đánh giá của công chúng Lạng Sơn về chất lượng hình ảnh, âm

thanh trong các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn

2.3. Đánh giá những tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-

TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phƣơng

Trong cuốn Truyền thông đại chúng, tác giả Tạ Ngọc Tấn đã xác định: “Hiệu

quả truyền thông đại chúng chính là việc đạt được mục đích thực tế của truyền

thông đại chúng” [44, tr. 28]. Tác giả cũng chia hiệu quả xã hội của truyền

thông đại chúng ra làm ba mức độ, đố là: hiệu quả tiếp nhận, hiệu ứng xã hội và

hiệu quả thực tế. Tác giả cũng chỉ ra rằng: “Những giá trị này không chỉ được

chuyển tải qua nội dung mà còn biểu hiện cả trong phương pháp sáng tạo và

hình thức thể hiện của các tác phẩm, tài liệu cũng như cách tổ xây dựng

chương trình” [42, tr. 138-139].

Như vậy, với kết quả khảo sát ở phụ lục 2 và mục 2.2 ở chương 2 cho thấy

rằng chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn (chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, chương trình truyền hình tiếng dân tộc Dao)

hiện nay đang sẽ trở thành một kênh thông tin, một món ăn tinh thần bổ ích với

đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống và làm việc tại Lạng Sơn. Các chương

trình truyền hình dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn (chương trình truyền hình tiếng

dân tộc Tày – Nùng, chương trình truyền hình tiếng dân tộc Dao) cho tới thời điểm

57

tác giả luận văn tiến hành khảo sát đã trở thành nhịp cầu nối giữa Đảng, Nhà nước

và Nhân dân. Qua khảo sát trên cho thấy nội dung chương trình dân tộc của Đài PT-

TH Lạng Sơn (chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Dao) đã góp phần tuyên truyền các chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của tỉnh đến với đồng bào các dân

tộc; tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật về khuyến nông – lâm – ngư

cho đồng bào; phản ánh các gương người tốt, việc tốt của đồng bào dân tộc, các

điển hình tiên tiến ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa... đồng

thời, chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn (chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, chương trình truyền hình tiếng dân tộc Dao)

còn phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc đối với Đảng, Nhà

nước và các cấp chính quyền địa phương để điều chỉnh các chính sách về dân tộc

cho phù hợp.

Qua khảo sát các chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH

Lạng Sơn (chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, chương trình truyền

hình tiếng dân tộc Dao) trong thời gian từ tháng 7/2017-7/2018 cho thấy nội dung

thông tin khá phong phú, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau. Trong tổng số 156

chương trình tiếng Dao và 157 chương trình tiếng Tày phát sóng ở các mục Phóng

sự; Gương sáng bản làng; Nét đẹp vùng cao; Tiếng nói từ thôn bản và Ẩm thực xứ

Lạng đã có 2.040 tác phẩm được sản xuất phát sóng. Nội dung các tác phẩm phản

ánh sâu kỹ về mọi khía cạnh của cuộc sống như: tuyên truyền các chủ trương đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm phục vụ các nhiệm vụ chính

trị của các cấp ủy, chính quyền địa phương, phản ánh những tâm tư nguyện vọng

chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật;

phát triển KT-XH; chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất; nêu gương người

tốt, việc tốt; lưu giữ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của đồng bào các

dân tộc trong tỉnh... Từ đó, cho thấy các chương trình truyền hình tiếng dân tộc của

Đài PT-TH Lạng Sơn (chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, chương

trình truyền hình tiếng dân tộc Dao) đã có những tác động tích cực tới nhận thức và

58

hành động của bà con dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn (xem biểu đồ 2.10):

Biểu đồ 2.10. Những tác động về nội dung thông tin trong chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc đến công chúng Lạng Sơn

Với kết quả khảo sát trên chúng tôi tiếp tục đặt câu hỏi đi tìm lí do vì sao nội

dung thông tin có tác động tích cực, chúng tôi nhận được câu trả lời từ 43,8-84,5%

công chúng cho rằng nội dung thông tin chương trình truyền hình tiếng Dân tộc thật

sự là thiết thực đối với họ. Còn lại từ 5,5 – 10,3% công chúng cho rằng cho rằng nội

dung thông tin chương trình truyền hình tiếng Dân tộc không mang lại lợi ích thiết

thực đối với họ, họ chỉ xem để thư giãn và giết thời gian... Các lí do ấy được cụ thể

bằng bảng 2.4 (xem bảng 2.4):

Bảng 2.4 Những lợi ích về nội dung thông tin trong chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc đến công chúng Lạng Sơn

Các lợi ích Số lượng Tỉ lệ (%)

Có thêm nhiều kiến thức chung 338 84,5

Nắm được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách 275 68,8

pháp luật của Nhà nước

Nâng cao niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chống lại luận 264 66,0

điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch

Mở rộng sự hiểu biết về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội 261 65,3

ở địa phương, cả nước và trên thế giới

Nắm được chính sách dân tộc 288 72,0

Giúp nâng cao dân trí và hưởng thụ văn hóa 255 63,8

Tăng cường sự hiểu biết và ứng dụng các tiến bộ khoa học 286 71,5

59

kỹ thuật vào sản xuất

Theo dõi tin tức thời sự 324 81,0

Học tập cách ứng xử, tu dưỡng đạo đức 296 74,0

Để biết các thông tin thực tế hàng ngày 331 82,8

Giải trí 175 43,8

Để giết thời gian 41 10,3

Lợi ích khác 22 5,5

(Nguồn: Khảo sát của tác giả luận văn tháng 6/2018)

Để đo sự hiệu quả từ những tác động tích cực của chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn chúng tôi tiếp tục đặt câu hỏi: Mức độ áp

dụng những nội dung của chương trình này trong các hoạt động liên quan đến học

tập, nghiên cứu, ứng dụng sản xuất của quý vị là như thế nào? và đã thu được kết

quả sau (xem biểu đồ 2.11):

Biểu đồ 2.11. Mức độ sử dụng nội dung thông tin trong chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc của công chúng Lạng Sơn

Như vậy, với biểu đồ 2.11 có thể thấy rằng có 45,7% công chúng sử dụng tất

cả các nội dung trong chương trình truyền hình tiếng Dân tộc; 52,3% công chúng

chỉ sử dụng một phần nội dung thông tin trong chương trình truyền hình tiếng Dân

tộc và chỉ có 2% công chúng không thể sử dụng nội dung thông tin trong chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc. kết quả này cho thấy nhu cầu khác nhau của đồng

bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn trong việc tiếp nhận thông tin phát sóng từ

60

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc.

Và để đánh giá những tác động tích cực của chương trình truyền hình tiếng

dân tộc thiểu số của Đài PT-TH Lạng Sơn tới đồng bào dân tộc thiểu số, tác giả luận

văn tập trung phân tích, đánh giá trên các phương diện sau:

2.3.1. Tác động tích cực trong việc nâng cao nhận thức về chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước

Như đã giới thiệu ở phần 2.1 của chương 2 Đài PT-TH Lạng Sơn là cơ quan

báo chí của Đảng bộ, chính quyền tỉnh; là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ và chính

quyền địa phương, do đó, tôn chỉ hoạt động của Đài PT-TH Lạng Sơn là phổ biến,

tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước. Những hoạt động của Đài PT-TH Lạng Sơn là phục vụ mục đích chính trị của

Đảng và Nhà nước. Vì thế, các chương trình truyền hình được phát sóng trên Đài

PT-TH Lạng Sơn đều thể hiện tính Đảng rất cao.

Với tôn chỉ hoạt động như vậy, trong những năm qua chương trình truyền

hình của nhà Đài nói chung và chương trình truyền hình tiếng Dân tộc nói riêng đã

không ngừng nỗ lực đưa các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước vào

cuộc sống.

Lạng Sơn là một tỉnh có biên giới giáp Trung Quốc, tại đây tình trạng buôn

bán ma túy, bắt cóc và buôn bán phụ nữ trẻ em, tình trạng buôn lậu.... diễn ra rất

phức tạp. Trước đây khi chưa có chương trình tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp

luật do nhận thức của bà con đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế; thế lực thù

địch, phản động luôn tìm các chiêu bài để lôi kéo kích động làm cho đồng bào dân

tộc thiểu số hoang mang, giao động về tư tưởng, từ đó dẫn đến những hành động vi

phạm pháp luật.

Đứng trước những mối hiểm họa nguy hại trên, chính quyền địa phương, các

cơ quan chức năng phối hợp với Đài PT-TH Lạng Sơn đã sử dụng các phương tiện

truyền thông trong đó có truyền hình để tiếp cận, tuyên truyền cho đồng bào dân tộc

thiểu số trong tỉnh nhờ đó mà bà con có những nhận thức đúng đắn về những việc

làm pháp luật nghiêm cấm.

61

Hiện nay, ở Đài PT-TH Lạng Sơn có khá nhiều chuyên mục phổ biến các chủ

trương, chính sách, pháp luật. Với các chuyên mục đáng chú ý như: Phổ biến giáo

dục pháp luật, Pháp luật cuộc sống, An ninh trật tự, Vì an ninh cuộc sống, Xây

dựng Đảng, Chính sách mới, Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,

Văn bản mới, chính sách mới... được tổ chức phát sóng. Cùng với đó mục đích

chính sách cuộc được được cơ cấu cứng trong chương trình truyền hình tiếng dân

tộc với tiếng Tày – Nùng, và tiếng Dao đã góp phần nâng cao ý thức của bà con

đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn chống lại các thế lực xấu, thế lực có âm

mưu “diễn biến hòa bình” và kịp thời nắm bắt, nhận thức đúng các chính sách của

Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương.

Chuyên mục Chính sách cuộc sống trong chương trình truyền hình tiếng dân

tộc Tày – Nùng ngày 04/10/2017 trên Đài PT-TH Lạng Sơn có bài “Nạn mua bán

người trên biên giới Lạng Sơn: Nỗi lo chưa dứt”. Nội dung tác phẩm nêu: “... Gần

đây ở khu vực biên giới đối diện với tỉnh Lạng Sơn nổi lên hiện tượng bọn tội phạm

mua bán người ở hai bên biên giới VN-TQ câu kết với nhau để bắt cóc nạn nhân là

phụ nữ người VN đang lao động thuê tại TQ, sau đó điện thoại cho gia đình họ

mang tiền sang chuộc. Do hành vi phạm tội xảy ra ở ngoài biên giới quốc gia nên

chỉ khi có sự hợp tác với cơ quan chức năng TQ, người bị hại mới được giải cứu

hoặc trốn thoát trở về tố giác với cơ quan chức năng thì mới điều tra làm rõ được

đối tượng để truy tố trước pháp luật” [Chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày –

Nùng ngày 04/10/2017 trên Đài PT-TH Lạng Sơn].

Cũng trong chuyên mục Chính sách cuộc sống trong chương trình truyền

hình tiếng dân tộc Dao ngày 13/09/2017 Đài PT-TH Lạng Sơn có phát sóng bài

“Hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn”.

Nội dung tác phẩm đưa dẫn chứng cụ thể chủ yếu liên quan đến các lĩnh vực: đất

đai, hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình…, cụ thể: “Từ năm 2016 đến nay, Trung

tâm TGPL tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức được 97 cuộc truyền thông về TGPL cho 5.465

người, tại các xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn của 10 huyện trên địa bàn tỉnh.

Qua công tác truyền thông nhận thức về TGPL cũng như hiểu biết về chính sách,

pháp luật của người dân được nâng lên, giúp họ có quyền và cơ hội để tiếp cận với

công lý.” [Chương trình truyền hình tiếng dân tộc Dao ngày 13/09/2017 Đài PT-TH

62

Lạng Sơn].

Trên đây là hai trong số rất nhiều tác phẩm được sản xuất và phát sóng trong

chương trình tiếng Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn. Sau nhiều năm

tuyên truyền, với học thuyết “mũi kim tiên”, và phương châm “mưa dầm thấm lâu”

đã giúp bà con đồng bào dân tộc thiểu số từng bước nâng cao nhận thức của mình

về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. chính điều này mà có

đến 45% công chúng là đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn cho rằng nhờ xem

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn họ đã “nắm được

Chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước” nhờ đó mà họ

“nâng cao niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chống lại luận điệu xuyên tạc của các thế

lực thù địch”.

Đặc biệt, khi tiến hành phỏng vấn sâu Trưởng Ban Ban Dân tộc tỉnh Lạng

Sơn cho rằng: “Chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn là

một kênh thông tin bổ ích, hữu hiệu để tuyên truyền những chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là tình hình của địa phương đến đồng bào dân tộc

bằng tiếng dân tộc” (PVS, PL3).

Còn Phó Chủ tịch UBND huyện Lộc Bình cho rằng: “Chúng tôi thường

xuyên theo dõi các chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao

của Đài PT-TH Lạng Sơn. Chương trình không chỉ đem đến cho chúng tôi các

thông tin bổ ích, thiết thực mà còn giới thiệu nhiều cách làm hay, sáng tạo trong

phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo để từ đó các cấp ủy chính quyền của địa

phương có thể học tập và làm theo. Đồng thời còn tuyên truyền, phổ biến những

chủ trương mới của Đảng và Nhà nước đến đồng bào dân tộc đang sinh sống và

làm việc tại tỉnh” (PVS, PL3).

Với những kết quả trên cho thấy, các chương trình truyền hình tiếng dân tộc

Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn đã đem lại những tác động tích

cực đối với nhận thức của bà con vùng đồng bào dân tộc. Điều này cũng cho

thấy chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn có vai trò

quan trọng trong việc đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước vào trong cuộc sống. Nhờ đó mà bà con vùng đồng bào dân tộc

63

thiểu số có những nhận thức đúng đắn, kịp thời và tin tưởng tuyệt đối vào sự

lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương, góp phần cùng với nhân dân địa

phương đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Vì vậy, mà phía nhà Đài phải đặc biệt chú hơn về nội dung và hình thức thể hiện

tác phẩm để ngày càng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công chúng đồng bào

dân tộc thiểu số trong tỉnh mình.

2.3.2. Tác động tích cực trong việc nâng cao dân trí, trình độ văn hóa, giáo

dục và đời sống vật chất

Qua thực tiễn hoạt động làm việc và quan sát trong cuộc sống tác giả luận

văn nhận thấy hiện nay có rất nhiều người vẫn chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với

các nền văn hóa bởi các yếu tố về không gian sống và điều kiện phát triển của từng

vùng, thế nhưng điều đó bây giờ trở thành quá đơn giản vì công chúng ngày nay có

thể biết đến những nền văn hóa, không gian văn hóa – những điều thú vị của các

nền văn hóa đó qua màn hình nhỏ tivi. Điều này cho thấy Đài PT-TH là kênh thông

tin quan trọng giúp nâng cao dân trí, trình độ văn hóa, giáo dục của công chúng, đặc

biệt là đối với bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thực tế đã chứng minh Đài PT-TH địa phương là một trong những cơ quan báo

chí và đại diện ngôn luận của Đảng bộ, chính quyền địa phương. Do đó, các chương

trình truyền hình đều phục vụ cho sự nghiệp chính trị, phát triển KT-XH ở địa phương.

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn cũng không phải là

trường hợp ngoại lệ. Vai trò của chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

Lạng Sơn được thể hiện như sau:

Thứ nhất là chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn tuyên truyền kịp thời các chủ chương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước đến đồng bào Dân tộc, giúp đồng bào nắm nhanh, nhận thức đúng và thực

hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai là các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn còn cung cấp thông tin đa chiều về nhiều lĩnh vực của đời sống KT-XH giúp

cho đồng bào nâng cao tri thức, trình độ văn hóa, giáo dục, hiểu biết về ứng dụng

tiến bộ của khoa học kỹ thuật để từ đó có thể nâng cao hiệu quả sản xuất và từng

64

bước thoát nghèo, nâng cao được chất lượng cuộc sống.

Thứ ba là các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

Lạng Sơn phản ánh tình hình đời sống, sản xuất, những thay đổi trong vùng dân

cư đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn; những điển hình tiên tiến trong sản

xuất, kinh doanh, thoát nghèo bền vững để vươn lên khá giàu để người dân học

tập và làm theo.

Thứ tư là các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn cung cấp các chương trình văn hóa văn nghệ, giải trí nhằm nâng cao đời sống

văn hóa tinh thần và góp phần gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Thứ năm là các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn còn góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Chính vì có những vai trò quan trọng như trên mà trong những năm qua các

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn ngày càng được

chú trọng phát triển, chất lượng các chương trình, các chuyên mục, tiểu mục trong

các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn ngày càng

được nâng cao.

Trong quá trình khảo sát các tác phẩm phát sóng trong chương trình truyền

hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn từ tháng 07/2017 - 07/2018, tác giả luận

văn đã lựa chọn một số bài viết để phân tích cụ thể hơn về hiệu quả của chương trình

trong việc nâng cao dân trí, trình độ văn hóa, giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số

tại Lạng Sơn, tiêu biểu là tác phẩm “Nâng bước học sinh dân tộc thiểu số đến

trường”. Nội dung tác phẩm nêu: “...Theo Thượng tá Lê Xuân Men, Chủ nhiệm

Chính trị Bộ đội Biên phòng Quảng Ninh, chương trình “Nâng bước em đến trường”

do Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh

phát động từ đầu năm 2016. Mục tiêu của chương trình này là chia sẻ khó khăn với

học sinh vùng biên, giúp đỡ để các em học sinh có điều kiện khó khăn đến trường,

góp phần nâng cao dân trí, tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa cán bộ, chiến sĩ

biên phòng với đồng bào, góp phần xây dựng nền biên phòng toàn dân vững chắc,

bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia” [Chương trình tiếng Dao, Đài PT-TH

Lạng Sơn ngày 12/6/2018].

65

Theo đánh giá, các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

Lạng Sơn đã có những tác động tích cực đối với đời sống đồng bào dân tộc tại Lạng

Sơn hiện nay. Từ kết quả khảo sát phụ lục 2 và bảng 2.1 ở trên cho thấy, chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn là kênh thông tin giúp cho đồng

bào dân tộc tại Lạng Sơn có thêm những thông tin về các kiến thức chung; mở rộng

sự hiểu biết về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương, cả nước và thế giới;

giúp nâng cao dân trí và hưởng thụ văn hóa; tăng cường sự hiểu biết và ứng dụng các

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất... Qua phỏng vấn sâu Nhà NCVHDG Thôn

Khòn Lèng, phường Tam Thanh, TP Lạng Sơn cho biết: “Chương trình truyền hình

tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn có nhiều chuyên mục hướng dẫn cụ thể về cách

chăm sóc sức khỏe con cái hoặc cách phòng trừ dịch bênh... qua những chương trình

truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn đã giúp chúng tôi nâng cao kiến

thức về giữ gìn vệ sinh môi trường xung quanh nhà sạch sẽ. Bên cạnh đó, chương

trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn đã tạo điều kiện cho đồng bào

các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc chưa thông thạo tiếng phổ

thông, còn thiếu thông tin được tiếp cận về các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt

là việc học tập những điển hình tiến tiến trong phát triển kinh tế, hướng dẫn khoa học

kỹ thuật trong sản xuất, hiểu biết các biện pháp chăm sóc sức khỏe, thực hiện kế

hoạch hóa gia đình thông qua các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-

TH Lạng Sơn” (PVS, PL3).

2.3.3.Tác động tích cực trong việc nâng cao đời sống tinh thần

Nói đến tinh thần là nói đến sự hoạt động của ý thức con người, là sự phản

ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người; đó không phải là một sự

phản ánh thụ động, sao chép giản đơn về hiện thực khách quan, mà là một sự phản

ánh tích cực năng động và sáng tạo. Có thể khẳng định trong những năm qua Đài

PT-TH Lạng Sơn là một trong những kênh thông tin quan trọng giúp nâng cao đời

sống tinh thần của công chúng, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số. Các

chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn mang nội dung

phong phú, giải trí và trở thành món ăn tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số,

giúp họ xua tan những mệt mỏi sau ngày làm việc vất vả, góp phần tái tạo sức lao

66

động cho ngày mới tiếp theo.

Được sự quan tâm của chính quyền các cấp, các ngành chức năng, đời sống

tinh thần của nhân dân nói chung và nhất là đối với bà con vùng đồng bào dân tộc

đang sinh sống và làm việc tại Lạng Sơn nói riêng ngày càng được nâng cao. Qua đó,

đồng bào không chỉ tiếp tục lưu giữ được các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc mà

còn tại tiền đề cho việc phục dựng, bảo tồn và phát triển một cách có hệ thống. Điển

hình như một số loại hình dân ca của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao đang bị mai

một nay đã được phục hồi và phát triển. Thông qua sóng truyền hình đã kịp thời phản

ánh các hoạt động, sự kiện do địa phương tổ chức như ngày hội văn hóa, thể thao các

dân tộc. Tại đây, các hoạt động thi hát dân ca, trang phục dân tộc, ẩm thực... luôn diễn

ra sôi nổi, giúp đồng bào đoàn kết, gắn bó, hiểu thêm về bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong quá trình khảo sát các tác phẩm phát sóng trong chương trình truyền

hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn từ tháng 07/2017 - 07/2018, tác giả

luận văn đã lựa chọn một số bài viết để phân tích cụ thể hơn về hiệu quả của

chương trình trong việc nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số

tại Lạng Sơn, tiêu biểu là tác phẩm “Hội hát sli-nét đẹp văn hóa dân tộc Nùng”. Nội

dung tác phẩm nêu: “Trong vốn văn hóa đặc sắc của đồng bào Nùng phải nói đến

dân ca Nùng với làn điệu hát sli hết sức phong phú như: Người Nùng Giang có sli

Giang, Nùng Cháo có sli Sình Làng, Nùng Phàn Sình có sli Phàn Sình…Mỗi

hình thức làn điệu lại có cách thể hiện tâm hồn riêng thông qua những lời

ca”[Chương trình tiếng Tày –Nùng, Đài PT-TH Lạng Sơn ngày 9/2/2018].

Trong quá trình phỏng vấn sâu Chủ tịch UBND xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình

tỉnh Lạng Sơn có nhận xét: “Chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

Lạng Sơn là một kênh thông tin quan trọng để truyền tải các chủ trương, chính sách

của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phổ biến các kinh nghiệm và thành tựu khoa

học kỹ thuật trong sản xuất. Là nơi giữ gìn và phát huy những bản sắc văn hóa dân

tộc điều này đặc biệt quan trọng đối với người dân tộc thiểu số của tỉnh. Các chương

trình truyền hình tiếng dân tộc có đóng góp rất lớn trong việc nâng cao dân trí, xóa

bỏ hủ tục lạc hậu, vận động con em đi học. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn đã đem đến cho đồng bào món ăn tinh thần bổ ích, giúp

67

người dân có điều kiện học hỏi, cải thiện đời sống, phát triển kinh tế” (PVS, PL3).

Qua khảo sát bằng bảng hỏi xã hội học về lợi ích của chương trình truyền

hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH cho thấy mặc dù các chương trình có liên quan

đến nâng cao đời sống tinh thần của dân tộc thiểu số chiếm số lượng chưa nhiều

song phần nào đáp ứng được nhu cầu của bà con. Các chương trình truyền hình là

kênh thông tin để nâng cao đời sống tin thần của đồng bào dân tộc tại Lạng Sơn.

2.3.4. Tác động tích cực trong việc nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn

hóa dân tộc

Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc về việc nâng cao ý thức giữ gìn bản

sắc văn hóa dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đặc biệt là

trong thời kỳ xã hội hiện nay sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, sự du

nhập của những luồng văn hóa ngoại lai không lành mạnh khiến cho các bản sắc

văn hóa của dân tộc có nguy cơ bị mất dần. Cho nên việc giữ gìn và phát huy các

giá trị bản sắc văn hóa trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với tất cả các cấp, các

ngành, các đơn vị địa phương... nên các nhà báo cũng luôn cần phải có ý thức và

trách nhiệm trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong những năm qua, ngoài chức năng tuyên truyền, giải thích các chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào dân tộc

thiểu số; hướng dẫn tư vấn sản xuất, chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên

Đài PT-TH Lạng Sơn còn có nhiệm vụ quan trọng là giữ gìn bản sắc văn óa truyền

thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn trong đại gia đình dân tộc Việt

Nam, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chính vì đêì đó mà việc xây

dựng các chuyên mục về giữ gìn bản sắc văn hóa trong chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn là điều vô cùng quan trọng.

Khảo sát các tác phẩm truyền hình về tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn từ tháng 07/2017 - 07/2018 cho thấy, mặc dù các chương trình liên quan đến

bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số chiếm số lượng khá lớn.

Cũng trong quá trình khảo sát ý kiến của công chúng ở biểu đồ 2.3 trên cho thấy

mục giữ gìn bản sắc văn hóa có đến 255/400 ý kiến của công chúng (chiếm 63,8%)

cho rằng họ yêu thích. Sở dĩ, chuyên mục này được công chúng Lạng Sơn lựa chọn

yêu thích vì thông qua các chương trình này đã giới thiệu được nét đẹp văn hóa,

68

vùng đất con người, lễ hội, phong tục, tập quán, ẩm thực, trang phục, ngôn ngữ, du

lịch.... của đồng bào dân tộc. Nó đã góp phần gìn giữ, phát huy và phổ biến văn hóa

truyền thống của đồng bào dân tộc tại Lạng Sơn, đồng thời chung tay góp phần xây

dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong các tác phẩm phát sóng trong thời gian từ tháng 07/2017 - 07/2018

trên Đài PT-TH Lạng Sơn, tác giả luận văn đã lựa chọn một số bài viết để phân tích

cụ thể hơn về hiệu quả của chương trình truyền hình tiếng Dân tộc về việc nâng cao

ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn, tiêu biểu là tác

phẩm “Cao Lộc: Gìn giữ bản sắc văn hóa trong trường học”. nội dung tác phẩm

nêu: “Chuẩn bị cho lễ khai giảng năm học mới với nhiều công việc bề bộn nhưng

các thầy, cô Trường Tiểu học xã Hòa Cư không quên nhắc nhở phụ huynh kiểm tra

lại trang phục truyền thống dân tộc cho học sinh để mặc đúng vào dịp khai giảng.

Những bộ trang phục đó là do nhà trường đặt may làm đồng phục với sự tư vấn của

các bậc phụ huynh sao cho vừa đảm bảo tiện lợi cho các em trong học tập, sinh

hoạt ở trường, lớp, vừa gìn giữ bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc” [Chương trình

tiếng Tày –Nùng, Đài PT-TH Lạng Sơn ngày 12/6/2018].

Đối với người dân tộc các lễ hội và trang phục có ý nghĩa vô cùng quan trọng

trong sinh hoạt tập thể của cộng đồng, đánh giá về tầm quan trọng một người dân xã

Hòa Cư, huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn nhận xét: “Xã Hòa Cư ở đây chủ yếu là bà

con dân tộc sinh sống, chúng tôi rất háo hức xem các chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn. Chương trình đã giúp bà con có một kênh

thông tin bổ ích, tuyên truyền đường lối đến người dân. Tuy nhiên, các chương trình

truyền hình tiếng dân tộc cần đề cập nhiều hơn đến những tấm gương phát triển

kinh tế, những kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống của bà con đồng bào dân thiểu

số vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó cần tích cực tuyên truyền các nét đẹp văn hóa

của bà con, phát huy hơn nữa vai trò của mình trong chống lại sự mai một bản sắc

dân tộc của cộng đồng dân tộc ít người” (PVS, PL3).

Thông qua các chương trình đã góp phần giới thiệu, gìn giữ, phát huy và phổ

biến văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn. Tuyên

truyền, giáo dục đồng bào dân tộc thiểu số ra sức gìn giữ và phát huy các giá trị văn

hóa tốt đẹp và đạo đức truyền thống của dân tộc mình, xóa bỏ dần các tập tục lạc

69

hậu, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phê phán những hiện

tương lai căng và quay lưng với văn hóa truyền thống của dân tộc. Văn hóa thực sự

là một lĩnh vực rất rộng nên phải đặt văn hóa trong mối quan hệ với môi trường xã

hội rộng lớn, và như vậy, chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

Lạng Sơn không chỉ để bà con dân tộc cảm nhận về những truyền thống văn hóa tốt

đẹp của dân tộc mình mà còn góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ

tục của dân tộc, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có tác dụng tích cực đến tâm

tư, tình cảm và tạo khối đại đoàn kết dân tộc.

2.4. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ảnh hƣởng đến

hiệu quả tác động tích cực của chƣơng trình tiếng Dân tộc

2.4.1. Những hạn chế

Bên cạnh những hiệu quả đạt được và những tác động tích cực của chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn vẫn còn bộc lộ những hạn chế

nhất định với các vấn đề về nội dung, hình thức và cách thức tổ chức sản xuất chương

trình. Chính những điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến những tác động tích cực

của chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn đối với công

chúng nói chung và công chúng đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn.

Thứ nhất phải kể đến đó là hạn chế về con người.

Con người mà tác giả luận văn nhắc đến ở đây chính là các Biên tập viên,

phóng viên, biên dịch viên, phát thanh viên, kỹ thuật viên... là những người đang

trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn. Vì họ chính là những người trực tiếp đưa nội dung, lựa

chọn phương thức thể hiện sinh động để thu hút công chúng xem chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn. Mặc dù, Đài PT-TH Lạng Sơn

trong những năm qua đã có sự cố gắng và nỗ lực trong việc đầu tư vào nguồn lực

con người như: tuyển dụng, đào tạo, cử đỉ học để bồi dưỡng và nâng cao trình độ

năng lực và nghiệp vụ... thế nhưng, theo quan sát vào thực tế công tác tại nhà Đài

bản thân tác giả luận văn nhận thấy đội ngũ những người tham gia vào quá trình sản

xuất chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn còn thiếu và

yếu, nhất là về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ...; những người làm chương trình

70

tại nhà Đài hiện còn đang kiêm một lúc khá nhiều việc – một phóng viên vừa phải

đi thực tế địa phương, viết lời bình, dựng hình và đọc lời bình để có thể cho ra một

tác phẩm hoàn chỉnh.

Hiện nay, ở Đài PT-TH Lạng Sơn đang thực hiện 2 chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc Tày – Nùng và Dao. Phòng Chương trình tiếng dân tộc được thành

lập từ tháng 4/2011, hiện tại có 15 người. Gồm 2 lãnh đạo phòng, 7 biên dịch kiêm

phát thanh viên, 2 biên tập viên, 3 phóng viên và 1 kĩ thuật viên. Nhìn chung số

lượng nhân lực 15 người để sản xuất 2 chương trình truyền tiếng Dân tộc đan xem

nhau nhân lực như vậy là mỏng để có thể sản xuất khối lượng chương trình khá lớn

nên đã dẫn đến tình trạng có nhiều lúc rơi vào cảnh phải chạy theo số lượng việc

này sẽ dẫn đến chất lượng chương trình truyền hình sẽ thấp và kém hấp dẫn. Phải

đánh giá một cách thực chất, nguồn lực làm chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn vẫn chưa ngang tầm và chưa đáp ứng được yêu cầu thông

tin, chương trình vẫn còn thiếu những biên tập viên, phóng viên, phát thanh viên,

biên dịch viên giỏi là người dân tộc. Chính vì vậy mà có nhiều bài viết, chương

trình tuy có nhiều sự cố gắng song hiệu quả thông tin, tuyên truyền chưa cao vì

người viết, người biên tập chưa thấu hiểu hết văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống

và suy nghĩ của bà con đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn.

Thứ hai là những hạn chế về nội dung và hình thức thể hiện.

Về nội dung chương trình có thể thấy vấn đề dân tộc, tôn giáo hiện nay được

xem là những vấn đề nhạy cảm và được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, thực hiện

nhiều chủ trương, chính sách đãi ngộ, nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc

trong cộng đồng dân tộc Việt Nam là điều hết sức quan trọng hiện nay.

Các đề tài phản ánh chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH

Lạng Sơn hiện nay mới chỉ xoay quanh trong phạm vi nhỏ hẹp như hiệu quả thực

hiện các chính sách dân tộc trong công tác xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế,

xã hội, các lễ hội, tết cổ truyền của dân tộc..., những đề tài này hầu như mới chỉ

phản ánh chung chung những điểm tích cực trong khi đó những đề tài có tính chất

tiêu cực chưa thấy xuất hiện nhiều trong các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn, làm giảm rõ rệt hiệu quả và những tác động tích cực đến

71

với công chúng Lạng Sơn.

Về hình thức thể hiện chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-

TH Lạng Sơn qua quan sát và thực tế hoạt động tại cơ quan Đài, tác giả luận văn

nhận thấy hình thức thể hiện chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-

TH Lạng Sơn ít có sự thay đổi và thiếu sự linh hoạt.

Trước đây, khi mới sản xuất chương trình truyền hình tiếng Dân tộc, Đài

PT-TH Lạng Sơn thực hiện theo kết cấu như một chương trình mang tính chất

thời sự tổng hợp bình thường, sử dụng các thể loại tác phẩm báo chí truyền hình

thiếu sự linh hoạt, gây cảm giác cho người xem như là sự kết hợp ngẫu nhiên,

không theo chủ đề cụ thể, chưa có điểm nhấn trong chương trình. Tuy nhiên, từ

năm 2014 và năm 2017 trở lại gần đây Đài PT-TH Lạng Sơn đã có sự thay đổi

kết cấu chương trình gồm 3 mục chính là Chính sách cuộc sống, Nét đẹp vùng

cao và Ẩm thực xứ Lạng.

Qua khảo sát ý kiến của công chúng Lạng Sơn về những hạn chế về hình

thức cho thấy ở chương trình truyền hình tiếng Dân tộc hiện nay vẫn còn tồn tại một

số hạn chế: vẫn còn sự rập khuân, ít có sự thay đổi, các chương trình đều có hình

thức thể hiện giống nhau, chỉ có sự thay đổi về ngày, tháng, năm. Các phát thanh

viên lên hình chào, giới thiệu nội dung chương trình tiếp nối là các tiết mục, cứ thế

nối tiếp nhau và sau cùng là chào cuối chương trình. Nguyên nhân dẫn đến tình

trạng trên là do sự thiếu quan tâm đầu tư cho các thể loại tác phẩm truyền hình dành

cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn của Đài PT-TH Lạng Sơn.

Thứ ba là về tổ chức sản xuất chương trình.

Qua việc khảo sát và thực tiễn làm việc của mình tại Đài PT-TH Lạng Sơn,

tác giả luận văn nhận thấy việc tổ chức sản xuất chương trình truyền hình tiếng Dân

tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Điều này được thể

hiện rõ ngay từ chính những người phóng viên được giao nhiệm vụ sản xuất chương

trình truyền hình tiếng Dân tộc. Bởi hầu hết những người tham gia sản xuất chương

trình đều không phải là những người dân tộc thiểu số (Tày, Nùng, Dao...), họ không

biết tiếng của người dân tộc thiểu số nên trong quá trình tác nghiệp họ chưa tạo

72

được sự gần gũi, cởi mở để khai thác thông tin. Kỹ thuật viên sản xuất chương trình

cũng là người Kinh, không biết tiếng dân tộc nên đôi khi ghép lời bình, phỏng vấn

và hình ảnh không ăn khớp với nhau.

Thứ tư là vấn đề về thời lượng và thời điểm phát sóng.

Thời lượng và thời điểm phát sóng chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

trên Đài PT-TH Lạng Sơn hiện nay là cố định, nhưng qua khảo sát công chúng cho

thấy khung giờ phát sóng này chưa thực sự phù hợp với thời gian rảnh rỗi của bà

con dân tộc thiểu số. Vì khung giờ này bà con dân tộc đang lên rẫy làm việc. Đã

hơn 10 năm công tác tại bộ phận sản xuất chương trình truyền hình tiếng Dân tộc

của Đài PT-TH Lạng Sơn tác giả luận văn chưa thấy nhà Đài có một cuộc điều tra

công chúng để sắp xếp thời điểm phát sóng một cách phù hợp.

Thứ năm là về nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất của nhà Đài.

Đài PT-TH Lạng Sơn là đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND tỉnh Lạng Sơn, vì

vậy nguồn lực tài chính của Đài chủ yếu dựa vào ngân sách tỉnh cấp hàng năm và

nguồn thu từ dịch vụ quảng cáo. Tuy nhiên, nguồn kinh phí này nhìn chung còn khá

hạn hẹp so với nhu cầu thực tế hoạt động. Thiếu kinh phí để làm truyền thông chuyên

biệt dành cho nhóm đối tượng công chúng đặc thù là người dân tộc thiểu số. Mặc dù,

được đầu tư nâng cấp thường xuyên song trang thiết bị hiện đại cho sản xuất chương

trình vẫn chưa đáp ứng nhu cầu.

Đó là những vấn đề đặt ra trong quá trình sản xuất chương trình truyền hình

tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn. Những vấn đề này đã tồn tại trong nhiều năm

qua (từ năm 2006 bắt đầu có chương trình truyền hình tiếng Dân tộc Dao trên Đài PT-

TH Lạng Sơn). Điều này đã khiến cho chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài

PT-TH Lạng Sơn chưa phát huy được thế mạnh của mình cũng như những tác động

tích cực đến đời sống, lao động của bà con dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn.

Thứ sáu là về điều kiện và trình độ nhận thức của đồng bào dân tộc.

Hiệu quả của chương trình chương trình truyền hình tiếng dân tộc không chỉ

liên quan đến “nhà đài” mà còn phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng tiếp nhận thông

tin chương trình. Do đó, điều kiện sống, trình độ nhận thức của đồng bào dân tộc

thiểu số tại Lạng Sơn cũng là một trong những hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả

73

chương trình tiếng dân tộc.

Hiện nay, đa số đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn cư trú ở vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều nơi sóng truyền hình bị ảnh

hưởng bởi “vùng lõm”, chất lượng điện áp thấp, phập phù không đảm bảo cho hoạt

động sản xuất, sinh hoạt của người dân. Nhiều đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng

Sơn hiện nay có đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, còn rơi vào cảnh đói nghèo

cần sự giúp đỡ của Nhà nước nên việc mua sắm thiết bị vô tuyến điện tử là điều xa

xỉ. Những đối tượng này chưa hề tiếp cận thông tin từ các phương tiện truyền thông

đại chúng nhất là truyền hình. Ngoài ra, hạn chế về trình độ học vấn cũng là một

trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp nhận thông tin và sự tác động tích cực

của thông tin đến với đồng bào dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn.

2.4.2. Nguyên nhân hạn chế

Thứ nhất, là do công tác phối hợp giữa Đài PH-TH Lạng Sơn với các cơ

quan quản lí nhà nước, cơ quan chuyên môn liên quan đến lĩnh vực tuyên truyền

cho đồng bào Dân tộc ở Lạng Sơn nói chung còn lỏng lẻo.

Thứ hai là kể từ khi chương trình tiếng Dân tộc Dao bắt đầu từ năm 2006, đến

chương trình truyền hình tiếng Tày – Nùng năm 2017 cho đến thời điểm tác giả thực

hiện luận văn Đài PH-TH Lạng Sơn chưa hề có bất cứ một hình thức nào nghiên cứu

nhu cầu thông tin của công chúng đồng bào Dân tộc tại Lạng Sơn, dẫn đến thông tin

mang tính áp đặt và nhiều khi không thiết thực với nhu cầu của khán giả.

Thứ ba, là do đội ngũ những người làm chương trình biên tâp viên, phát

thanh viên, biên dịch viên, phóng viên, kỹ thuật viên tuy đã được tăng cường biên

chế, đào tạo tập huấn nâng cao chuyên môn nghiệp vụ nhưng vẫn còn hạn chế. Đội

ngũ biết tiếng Tày-Nùng, Dao còn quá ít, chưa thực sự đáp ứng được để sản xuất

hoàn chỉnh các chương trình để phục vụ phát sóng. Nhiều bài vẫn phải dịch chuyển

từ chương trình tiếng phổ thông sang tiếng dân tộc Tày-Nùng, Dao dẫn đến không

phù hợp với tâm lí tiếp nhận của đồng bào Dân tộc. Đây là một trong những nguyên

nhân tác động mạnh nhất đến yếu tố nội dung và hình thức làm giảm rõ dệt đến hiệu

quả tuyên truyền và những tác động tích cực của chương trình đối với bà con Dân

74

tộc thiểu số tại Lạng Sơn.

Thứ tư là do các quy trình sản xuất các chương trình còn chậm đổi mới, chưa

thực hiện được theo quy trình khoa học, dẫn đến chưa phát huy được vai trò của

hình ảnh trong truyền hình. Đây cũng chính là một trong những lí do làm giảm rõ

dệt đến hiệu quả tuyên truyền và những tác động tích cực của chương trình đối với

bà con Dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn.

Thứ năm là do chế độ chi trả nhuận bút của Đài PT-TH Lạng Sơn được quy

định tại Quyết định 36/2015/QĐ-UBND tỉnh Lạng Sơn chưa được thực hiện đầy đủ;

chưa có cơ chế khuyến khích đặc thù cho phóng viên làm chương trình truyền hình

75

tiếng Dân tộc như đi vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Tiểu kết chƣơng 2:

Trong chương 2 của luận văn, tác giả luận văn cũng đã nêu vài nét khái quát

về sự hình thành và phát triển, cơ cấu và tổ chức Đài PT-TH Lạng Sơn; sự ra đời và

phát triển của chương trình truyền hình tiếng dân tộc cũng như một số nét chính về

chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày - Nùng, chương trình truyền hình tiếng

dân tộc Dao của Đài.

Đồng thời tác giả cũng đã tiến hành khảo sát làm rõ thực trạng về những tác

động của chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PH-TH Lạng Sơn đối với

cộng đồng dân tộc địa phương. Từ kết quả khảo sát tác giả rút ra được những hạn

chế tồn tại của chương trình như: nhân lực, con người; nội dung và hình thức cũng

như những cơ chế chính sách, nhiệm vụ chính trị và cơ sở vật chất của Đài PH-TH

Lạng Sơn. Để từ đó tác giả luận văn nêu lên những phương hướng và các giải pháp

cơ bản, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả và tác động tích cực của chương trình

truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PH-TH Lạng Sơn hiện nay sẽ được trình bày ở

76

chương 3 của luận văn.

CHƢƠNG 3:

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC

CỦA CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC ĐÀI PH-TH

LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG

3.1. Những thách thức đặt ra hiện nay

Nghị quyết hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về

công tác dân tộc nêu rõ: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình phủ sóng phát

thanh truyền hình, tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin, truyền thông về cơ

sở, tăng thời lượng nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình

bằng tiếng dân tộc thiểu số, làm tốt công tác nghiên cứu sưu tầm, giữ gìn và phát

huy các giá trị, truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc” [22, tr. 2]. Qua đó

nhằm tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách về phát triển KT-XH vùng

dân tộc và miền núi cho đồng bào các dân tộc thiểu số. nghị quyết cho thấy đây thực

sự là một nhiệm vụ quan trọng, mang tính chiến lược của đất nước.

Như vậy, có thể thấy việc cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với phát thanh truyền hình nói

chung, truyền hình tiếng dân tộc nói riêng, cần nhiều nguồn lực, sự góp sức của cả

hệ thống chính trị và của những người trực tiếp sản xuất các chương trình truyền

hình tiếng dân tộc.

Từ sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp ủy, chính

quyền và người dân khu vực miền núi, đời sống vật chất, tinh thần của người dân

vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được nâng lên. Theo đó, nhu cầu về đời

sống tinh thần, nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào cũng được nâng lên. Đã đến

lúc, những người làm phát thanh truyền hình nói chung, những người làm truyền hình

tiếng dân tộc nói riêng hiểu rằng: những món ăn tinh thần mà chúng ta mang đến cho

công chúng không phải là sản phẩm chúng ta có mà phải là những sản phẩm, những

thông tin mà công chúng cần. Hơn nữa, cuộc sống luôn vận động và biến đổi không

ngừng, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống xã hội, đòi hỏi đội ngũ những

77

người làm truyền hình cần phải lặn lội, bám sát cơ sở, lắng nghe từng mạch đi, nhịp

thở của cuộc sống để kịp thời thông tin, tuyên truyền và định hướng dư luận xã hội.

Tuy nhiên, phần lớn đồng bào dân tộc lại ở vùng sâu vùng xa, vùng giao thông đi lại

khó khăn. Nhiều xã ở vùng cao từ trung tâm huyện đến trung tâm các xã có khi mất

mấy ngày trời, chưa kể phải mất thêm thời gian khá dài để đi đến các bản. Thêm vào

đó, trình độ văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ của đồng bào dân tộc cũng là một

trở ngại tới quá trình tác nghiệp của phóng viên và những người thực hiện chương

trình truyền hình tiếng dân tộc.

Với sự phát triển của KHCN, các thiết bị thu sóng ngày càng phổ biến, đặc

biệt là các chảo thu sóng vệ tinh. Đời sống của đồng bào các dân tộc đã ngày một

được cải thiện, nên nhiều người dân có thể mua và sử dụng các thiết bị này. Do vậy,

đồng bào dân tộc có thêm cơ hội để tiếp cận với các sản phẩm truyền thông, tiếp cận

với nhiều kênh truyền hình khác nhau cả trong nước và trên thế giới. Để các chương

trình truyền hình tiếng Tày – Nùng, Dao trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu

đối với đồng bào, đòi hỏi những người làm truyền hình tiếng dân tộc cần có sự nỗ

lực, có sự đổi mới về cả nội dung chương trình và hình thức thể hiện mới mong

thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền trong tình mới.

3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động tích cực của

chƣơng trình truyền hình tiếng dân tộc đài PH-TH Lạng Sơn đối với cộng

đồng dân tộc địa phƣơng

3.2.1. Nhóm giải pháp chung

3.2.1.1. Đối với lãnh đạo tỉnh Lạng Sơn

Thực tiễn cho thấy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả tác động tích cực của

chương trình truyền hình tiếng dân tộc đài PH-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân

tộc địa phương thì cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá và quan tâm hơn nữa từ phía

lãnh đạo, các cấp, các ngành trong tỉnh.

Thứ nhất, cần có sự nhận thức rõ ràng và đúng đắn về tầm quan trọng của

chương trình này, từ phía lãnh đạo các cấp, các ngành. Có như vậy, mới có sự quan

tâm, đầu tư thỏa đáng cho chương trình, nhằm góp phần định hướng dư luận xã hội,

tuyên truyền cổ vũ các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ KT-XH ở địa phương.

78

Điều này càng quan trọng hơn, khi đa phần đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao lại cư

trú tại các huyện vùng cao, biên giới, nơi có vị trí chiến lược quan trọng trong việc

đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi vùng biên.

Thứ hai, việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật vẫn đang là yêu cầu đặt ra cấp

thiết đối với chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao. Để đổi

mới, nâng cao chất lượng các chương trình, trang thiết bị cần tiếp tục được đầu tư cả

phần tiền kỳ, hậu kỳ cũng như việc nâng cao diện phủ sóng của chương trình. Trong

khi đó, nguồn kinh phí đầu tư, hỗ trợ hàng năm của tỉnh cho Đài còn hạn hẹp,

nguồn thu từ dịch vụ quảng cáo của Đài PT-TH Lạng Sơn còn hạn chế, việc đầu tư

chủ yếu vẫn phải dựa vào nguồn vốn của trung ương và địa phương. Do đó, nguồn

kinh phí đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị sản xuất chương trình chỉ mới dừng

lại ở việc cầm chừng.

Thứ ba, chế độ đãi ngộ đối với những người thực hiện chương trình truyền

hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao, công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực đã

được quan tâm nhưng chưa thực sự thỏa đáng. Tỉnh Lạng Sơn cần có sự đầutư, hỗ trợ

để Đài PT-TH Lạng Sơn có điều kiện thực hiện cơ chế chính sách quan tâm hỗ trợ

cho những người thực hiện chương trình là con em đồng bào dân tộc thiểu số, tăng

cường thêm số lượng biên chế cho phòng tiếng dân tộc, nhất là đối với các phát thanh

viên, biên dịch viên là người dân tộc Tày, Nùng, Dao... bởi hiện tại, trong số nhân lực

tiếng Tày – Nùng, tiếng Dao của phòng mới chỉ có 1 người biên chế, còn lại 3 người

là lao động hợp đồng.

3.2.1.2. Đối với Đài PT-TH Lạng Sơn

Để nâng cao hiệu quả tác động tích cực của chương trình truyền hình tiếng

dân tộc đài PH-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương Đài PT-TH

Lạng Sơn cần sự quan tâm đầu tư hơn nữa của lãnh đạo nhà Đài đối với các chương

trình mang tính đặc thù này.

Thứ nhất là cần có cơ chế chính sách phát triển nguồn nhân lực, từng bước tiêu

chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, viên chức cho những người tham gia vào sản xuất chương

79

trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao trên Đài PT-TH Lạng Sơn.

Thứ hai là cần phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lí,

đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày

– Nùng, tiếng Dao, tin học nhằm đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Thư ba là cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ làm

chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao như: chế độ nhuận

bút, thanh toán công tác phí, tiền lưu trú, phương tiện đi lại tác nghiệp..., nhằm tạo

điều kiện tốt cho người lao động là người dân tộc Tày, Nùng, Dao an tâm công tác,

tạo được nguồn động viên, khuyến khích được khả năng sáng tạo trong hoạt động

chuyên môn, nghiệp vụ.

Thứ tư là cần có chế độ khen thưởng, kỷ luật kịp thời và nghiêm minh, nhằm

đảm bảo người làm tốt công việc được biểu dương, khen thưởng kịp thời về tinh

thần lẫn vật chất, ngược lại xử lí nghiêm minh những đối tượng vi phạm kỉ luật, vi

phạm đạo đức nghề nghiệp.

Thứ năm là có cơ chế tài chính thích hợp, ưu tiên cho việc đầu tư phát triển

chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao để chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao có thể chủ dộng trong sản xuất sản

phẩm truyền hình, nâng cao chất lượng trình để vừa đảm bảo hiệu quả thông tin, có

những tác động tích cực cho người dân địa phương trong bối cảnh tình hình kinh tế,

chính trị, xã hội hiên nay đang ngày càng có nhiều biến động.

Thứ sáu là cần nghiên cứu và đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản

xuất và chú trọng công tác nghiên cứu của công chúng.

3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể

Các giải pháp cụ thể về cơ chế, chính sách, tổ chức, bộ máy và đôị ngũ cán

bộ là những giải pháp mang tính chất quyêt định và lâu dài để duy trì và phát triển

đồng bộ các thế mạnh của báo chí truyền hình của chương trình truyền hình tiếng

dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao. Bên cạnh đó cần có sự quan tâm từ phía nhà nước

và lãnh đạo của Đài PT-TH Lạng Sơn. Qua đó để không ngừng đổi mới, xây dựng

các chính sách có liên quan đến sự phát triển của chương trình truyền hình tiếng dân

tộc đài PH-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương, góp phần phát huy

80

những hiệu quả tích cực của chương trình, hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyên truyền.

3.2.2.1. Về phía nhà nước

Quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta đã xác định các nhiệm vụ chủ yếu,

cấp bách trong công tác dân tộc đó là phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách

phát triển KT-XH vùng dân tộc và miền núi cho đồng bào dân tộc ít người nói

chung và dân tộc Tày - Nùng, Dao ở Lạng Sơn nói riêng là bộ phận không thể tách

rời trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Vì vậy, cần phải quan tâm cụ thể hóa các

quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng đối với báo chí nói chung và chương

trình truyền hình tiếng dân tộc đài PH-TH Lạng Sơn nói riêng; cần hoàn thiện và bổ

sung các chính sách dân tộc, thể hiện tinh thần đoàn kết, hòa hợp hướng tới tương

lai. Hoàn thiện các cơ sở chính sách là cơ sở quan trọng trong việc củng cố khối đại

đoàn kết dân tộc để cho chương trình truyền hình tiếng dân tộc đài PH-TH Lạng

Sơn tham gia tích cực hơn nữa trong công tác tuyên truyền giúp đồng bào bà con

dân tộc Tày, Nùng, Dao có cái nhìn toàn diện mọi mặt của đất nước. Một số các giải

pháp đề xuất ra như sau:

Thứ nhất là về cơ chế chính sách nguồn lực

Chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao ở Đài PT-TH

Lạng Sơn có vai trò hết sức quan trọng đối với tỉnh Lạng Sơn nói riêng và các tỉnh

miền núi phía Bắc nói chung, đây là vùng đất có nhiệm vụ chiến lược lâu dài trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa

phương cần có chính sách đầu tư phát triển mạnh mẽ chương trình truyền hình tiếng

dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao.

Đảng, Nhà nước ta cần xác định, thông tin tuyên truyền cho đồng bào bà con dân

tộc thiểu số là bộ phận quan trọng về công tác dân tộc trong tình hình mới hiện nay.

Chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao là chương trình dành

cho đối tượng dân tộc Tày, Nùng, Dao chính vì vậy cần có chủ trương, chính sách

cụ thể để đầu tư cho chương trình thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền,

vận động bà con dân tộc.

Thông tin tuyên truyền về dân tộc là mảng đề tài có ý nghĩa rộng lớn và mang

tính chất chiến lược lâu dài của Đảng. Điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ phóng viên,

81

biên tập viên, biên dịch viên, kỹ thuật viên... những người tham gia trực tiếp làm

chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao là điều rất càn thiết để

chủ động chiếm lĩnh thông tin, đây là nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với các phương

tiện truyền thông địa chúng. Vì vậy, cần phải phát triển đội ngũ phóng viên, biên tập

viên, biên dịch viên... là những người sáng tạo tác phẩm, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ

tuyên truyền là người dân tộc Tày, Nùng, Dao phải được bồi dưỡng chuyên nghiệp,

có trình độ nghiệp vụ cao, có kiến thức về công tác dân tộc, có tâm huyết với nghề, có

trách nhiệm với công việc và có phẩm chất đạo đức cách mạng và chính trị rõ ràng.

Nhà nước cần có cơ chế chính sách đầu tư cho công tác đào tạo đội ngũ

phóng viên là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu, nó mang tính quyết

định đến chất lượng và hiệu quả tuyên truyền của chương trình. Để chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao đạt chất lượng và mang lại nhiều

tác động tích cực trong công tác tuyên truyền, trước hết phải có đội ngũ làm truyền

hình tiếng Tày, Nùng, Dao là con em đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao mới hiểu

tường tận được ngôn ngữ, tâm lí, phong tục tập quán và những tâm tư nguyện vọng

của dân tộc mình. Khi thực hiện chương trình từ khâu phát hiện đề tài cần tuyên

truyền cho đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao xây dựng kịch bản, thâm nhập thực tế,

khai thác tài liệu gặp thuận lợi hơn. Vì vậy, việc đào tạo đội ngũ phóng viên, biên

tập viên, biên dịch viên, phát thanh viên , kỹ thuật viên chuyên trách.... về chương

trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao để thực hiện tốt nhiệm vụ

chính trị của Đảng, Nhà nước ta đáp ứng nhu cầu thông tin tuyên truyền cho công

chúng đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao trong tình hình mới. Tăng cường kiểm soát

chất lượng tác phẩm phát sóng kết hợp với việc phê phán nghiêm túc với cách làm

báo quan liêu, dễ làm khó bỏ, xã rời thực tế, không nêu cao trách nhiệm, thiếu tâm

huyết với nghề và dễ dãi tùy tiện đối với sản phẩm báo chí truyền hình trong

chương trình.

Thứ hai là cần phải có cơ chế tài chính hợp lí

Đài PT-TH Lạng Sơn là đơn vị sự nghiệp có thu, do cơ chế thu chi tài chính

hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của UBND tỉnh. Nguồn ngân sách được cung

cấp hàng năm không đủ chi phí cho đầu tư phát triển sự nghiệp. Thu nhập của cán

82

bộ phóng viên chỉ có từ nguồn lương cơ bản theo ngạch viên chức. Định mức và

chế độ chi trả nhuận bút còn quá thấp, chưa tương xứng với năng lực việc làm của

người lao động, không thể khuyến khích, phát huy hết năng lực và trách nhiệm công

tác của đội ngũ cán bộ phóng viên. Đây là vấn đề được đặt ra, cần được Nhà nước

quan tâm và có chính sách tài chính thích hợp, tương xứng với đội ngũ lao động có

chất xám để tạo ra những sản phẩm tinh thần phục vụ nhu cầu thông tin tuyên

truyền mang lại lợi ích chung cho cộng đồng xã hội.

Thứ ba là cần phải đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ hiện đại

Kỹ thuật truyền hình đã và đang thay đổi ngày càng hiện đại từ công nghệ

Analog sang công nghệ Digital (công nghệ kỹ thuật số). Nhiều nhà nghiên cứu cho

rằng công nghệ Analog đã hết vai trò lịch sử của nó khi công nghệ Digital xuất hiện.

Hiện nay, ở hầu hết các Đài PT-TH trong cả nước đang sử dụng công nghệ Digital.

Công nghệ này có tính năng ưu việt của nó là cho chất lượng hình ảnh vượt xa gấp

nhiều lần so với tín hiệu băng từ, đáp ứng yêu cầu tính chuyên nghiệp hóa kỹ thuật

trong sản xuất chương trình truyền hình.

Bên cạnh sử dụng công nghệ hiện đại, Nhà nước cần quan tâm chú trọng đầu

tư đầy đủ về số lượng trang thiết bị phục vụ sản xuất chương trình. Trước tình trạng

chung của Đài PT-TH địa phương là thiếu thiết bị ghi hình và thiết bị dựng hình,

nên trong sản xuất chương trình bị khống chế thời gian nhất định, dẫn đến làm giảm

chất lượng sản phẩm báo chí truyền hình. Vì vậy, cần phải tính toán đến việc đầu tư

trang thiết bị hiện đại để tương xứng với yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ sản xuất

chương trình truyền hình nói chung và chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày –

Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn nói riêng, nhằm không ngừng nâng cao

chất lượng chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao trong thời

gian tới. Có như vậy thì mới có nhiều tác động tích cực đến với công chúng là bà

con dân tộc thiểu số tỉnh Lạng Sơn.

3.2.2.2. Về phía nhà Đài PT-TH Lạng Sơn

Trước mắt, điều kiện để phát triển chương trình truyền hình tiếng dân tộc của

Đài PT-TH Lạng Sơn hiện nay còn nhiều hạn chế. Các chương trình truyền hình

tiếng dân tộc chủ yếu được biên dịch từ các chương trình tiếng phổ thông để phát

83

sóng trong chương trình tiếng dân tộc Tày- Nùng - Dao. Mặc dù nội dung tuyên

truyền luôn bám sát đúng theo quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả tác động tích cực như mong

muốn, chương trình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn vẫn chưa phản ánh hết

được những tâm tư, nguyện vọng của công chúng người đồng bào dân tộc tỉnh Lạng

Sơn. Nên vấn đề đặt ra ở đây là cần có sự đổi mới trong hoạt động sản xuất chương

trình sao cho phù hợp với nhu cầu của công chúng, có nhiều tác động tích cực hơn

nữa đến với đời sống của bà con người dân tộc trên địa bàn tỉnh. Điều đó đòi hỏi

nhà đài cần phải đáp ứng nội dung cũng như phương hướng mục đích nhiệm vụ

thông tin tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc sao cho tốt hơn.

Chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Lạng Sơn cho rằng: “Để hướng tới nâng cao hiệu

quả các chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao ở Đài PT-TH

Lạng Sơn, nên: Thứ nhất là việc thay đổi quan điểm, nhận thức của lãnh đạo Đài,

lãnh đạo địa phương về chương trình truyền hình tiếng dân tộc. Quan điểm coi nhẹ

hiệu quả của chương trình chính là một trong những trở ngại khiến cho chương

trình chưa phát huy hết được hiệu quả của nó; Thứ hai là Đài PT-TH Lạng Sơn cần

đẩy mạnh sản xuất các chương trình văn nghệ, giải trí; Thứ ba là Đài PT-TH Lạng

Sơn cần đào tạo đội ngũ phóng viên và các cấp lãnh đạo đài từ trung ương đến địa

phương quan tâm hơn nữa trong việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để sản

xuất chương trình tốt hơn” (PVS, PL3).

Như vậy, việc nâng cao chất lượng chương trình nhằm thu hút công chúng

đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh và chương trình truyền hình dân tộc có những

tác động tích cực hơn nữa, trước hết cần tìm ra phương hướng hữu hiệu nhất, đó là

vấn đề đào tạo con người trong đơn vị sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân

tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn hiện nay.

Thứ nhất là cần phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức

nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị cho người sản xuất chương trình

Trong điều kiện xã hội ngày càng đổi mới, KHCN ngày càng phát triển như

vũ bão, các phương tiện truyền thông không ngừng ra sức cạnh tranh thông tin về

mọi mặt và phát huy đặc trưng cũng như thế mạnh của nó để thu hút được công

84

chúng của mình. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc trên đài PT-TH Lạng

Sơn là chương trình hết sức quan trọng trong công tác tuyên truyền quan điểm,

đường lối, chính sách dân tộc mà Đảng, nhà ta đối với đồng bào dân tộc, để trực

tiếp sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân tộc lại yếu tố quyết định đến

chất lượng chương trình. Đào tạo đội ngũ người dân tộc, họ sẽ dễ dàng tiếp cận

thông tin đồng bào hơn so với các dân tộc khác (người Kinh) trên cơ sở đó, việc

nâng cao, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ

người làm báo là người dân tộc trên địa bàn tỉnh là yếu tố quyết định đến chất

lượng chương trình. Đào tạo đội ngũ người dân tộc tại địa phương họ sẽ dễ dàng

tiếp cận thông tin trong đồng bào hơn so với các dân tộc khác, am hiểu về ngôn

ngữ, văn hóa dân tộc cũng như những tâm tư nguyện vọng của bà con mong

muốn từ đó sẽ có những tác động tích cực từ chương trình truyền hình tiếng dân

tộc đến với bà con dân tộc địa phương.

Từ những thực trạng chất lượng của chương trình truyền hình tiếng dân tộc

trên sóng Đài PT-TH Lạng Sơn qua khảo sát thực tế cho thấy bên cạnh những hiệu

quả tốt và mang lại những những tác động tích cực thì chương trình truyền hình

tiếng dân tộc vẫn còn nhiều các hạn chế trong quá trình sản xuất khiến chưa thể phát

huy hết những tác động tích cực của chương trình truyền hình tiếng dân tộc đến với

bà con địa phương.

Trưởng phòng Chương trình tiếng Dân tộc chịu trách nhiệm, tổ chức sản

xuất chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng, Đài PT-TH Lạng Sơn đưa ra quan

điểm: “Để chương trình truyền hình tiếng dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có

những tác động tích cực hiệu quả hơn nữa thì đòi hỏi nhà đài cần phải thay đổi về

quy trình tổ chức sản xuất nội dung chương trình truyền hình tiếng dân tộc sao cho

phù hợp hơn. Trước hết là cần tăng cường đội ngũ phóng viên, phát thanh viên là

người dân tộc, có những bài viết dành riêng cho chương trình. Sau đó, cách thức tổ

chức sản xuất chương trình cũng phải thay đổi theo hướng hiện đại và thích hợp.

Đặc biệt, là đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về

truyền hình; đổi mới hình thức thể hiện trong tuyên truyền, có như thế chúng ta mới

cạnh tranh được với các đại hiện nay. Và có như thế mới thu hút công chúng đồng

85

bào dân tộc thiểu số quan tâm và theo dõi chương trình truyền hình tiếng dân tộc

thường xuyên hơn, từ đó, họ sẽ có những nhận thức mới để áp dụng vào trong cuộc

sống tốt hơn” (PVS, PL3).

Đây là yêu cầu đòi hỏi thực tế khách quan của Đảng ta trong tình hình mới

hiện nay, trước tiên là nguồn lực con người, vốn kiến thức xã hội chung, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, công nghệ kỹ thuật... Có thể thấy trong

mọi công việc yếu tố con người bao giờ cũng là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định

đến sự thành công hay thất bại của nó.

Qua khảo sát và thực tế tác giả đang làm việc tại cơ quan Đài PT-TH Lạng

Sơn cho thấy chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài

PT-TH Lạng Sơn còn rất hạn chế. Cho nên, trên cơ sở đó vấn đề đặt ra hiện nay là

nên có phương hướng, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bổ sung lực lượng những

người làm truyền hình giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng,

giàu tâm huyết với nghề để đảm bảo trong cải tiến đổi mới, nâng cao chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn để đáp

ứng nhu cầu thông tin và ngày càng có nhiều tác động tích cực đến với công chúng

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao.

Bên cạnh đó, người làm báo nói chung và làm chương trình truyền hình tiếng

dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn nói riêng đều phải có năng

lực lựa chọn, xử lí thông tin nhanh chóng, trung thực, chính xác, phản ánh đúng tâm

tư nguyện vọng của công chúng, từ đó có những tác động tích cực, hiệu quả đến tiến

bộ xã hội.

Quá trình nhận thức và phản ánh các vấn đề, sự kiện trong thực tế của người

làm báo, ví dụ như cách tiếp cận sự kiện, cách lựa chọn các chi tiết, cách thẩm định,

lí giải và đánh giá sự kiện.. luôn luôn bị chi phối bởi các hoạt động những yếu tố,

trong đó đặc biệt quan điểm chính trị của bản thân họ. Tính khách quan của những

thông tin trên báo chí nói chung không tách rời những lợi ích và quan điểm chính trị,

xã hội của nhà báo và của cơ quan báo chí.

Người làm báo nếu có phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp thì vẫn

chưa đủ. Họ còn phải có vốn sống phong phú và kiến thức sâu rộng về nhiều mặt

86

của đời sống xã hội, có chính kiến, kinh nghiệm sống và trình độ văn hóa sẽ tạo ra

cơ sở cho phương pháp hoạt động thực tiễn một cách khoa học, hiệu quả của những

người làm báo. Thay vì một tác phẩm báo chí truyền hình bao giờ cũng là kết quả

của một quá trình lao động tập thể khá phức tạp. Người làm báo không chỉ là một

người phản ánh sự kiện mà quan trọng hơn còn phải là người khám phá ra hình thể

và linh hồn của sự kiện và để làm được như vậy đòi hỏi những người làm truyền

hình phải có năng lực quan sát tinh tường và trên cơ sở đó tiến hành lựa chọn.

Việc nâng cao kỹ năng nghề nghiệp và trình độ nghiệp vụ thành thạo là để

nắm bắt được công nghệ làm truyền hình hiện đại cũng là yêu cầu thể thiếu được

với những người làm truyền hình hiện nay. Cùng với những điều đó, sự năng động,

linh hoạt và say mê thâm nhập cuộc sống để phản ánh những điển hình và nhân tố

mới, tinh thần đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác vì lợi ích chung của cộng đồng là

một yêu cầu không thể thiếu được đối với người làm truyền hình trong đời sống xã

hội hiện đại. Tác phẩm báo chí truyền hình có nhiệm vụ thông tin kịp thời về cái

mới nên nhà báo phải là người đặc biệt nhạy bén trước cái mới. Tất nhiên sự nhạy

bén đó trước hết phải được đặt trên cơ sở của sự hiểu biết về đời sống xã hội và sự

nhạy cảm về chính trị. Người làm báo truyền hình phải có trách nhiệm tuyên truyền

đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, biểu dương

những gương sáng tiêu biểu, những điển hình tiên tiến đồng thời cũng cần phải phê

phán những hành vi vi phạm pháp luật, những hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội

trong giai đoạn hiện nay. Điều này đòi hỏi những người làm báo truyền hình cần

phải có bản lĩnh chính trị vững vàng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có tư duy

sắc bén, có vốn sống và phương pháp khoa học – đó là những yêu cầu cơ bản và là

cơ sở nền tảng trong phương hướng để nâng cao chất lượng chương trình truyền

hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn để từ đó có

những tác động tích cực đến với công chúng xem truyền hình hình các dân tộc đang

sinh sống và làm việc tại Lạng Sơn.

Để chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài

PT-TH Lạng Sơn đạt được chất lượng cao trong tuyên truyền, phải có kế hoạch đào

tạo đội ngũ phóng viên, biên tập viên, biên dịch viên và kỹ thuật viên làm chương

87

trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao còn rất hạn chế về số lượng

lượng và chất lượng, đa số là chưa được đào tạo qua bậc đại học mà chỉ qua một vài

khóa tập huấn nghiệp vụ truyền hình ngắn do Ban Truyền hình tiếng dân tộc do Đài

Truyền hình Việt Nam tổ chức. Cho nên, đội ngũ này chưa đi sâu, đi sát vào vấn đề

dân tộc cũng như chuyên môn, nghiệp vụ của mình đang làm.

Việc quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên

là người dân tộc Tày, Nùng, Dao cho chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày –

Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn là điều hết sức cần thiết. Bởi vì, người

dân tộc họ chỉ am tường ngôn ngữ mẹ đẻ của dân tộc mình, am hiểu về văn hóa, tập

tục truyền thống, năm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của bà con dân tộc để tiện

cho việc phát hiện đề tài cần tuyên truyền, xây dựng kịch bản, xâm nhập thực tế,

cách khai thác tài liệu... được thuận lợi hơn. Điều này nói lên cách thể hiện các đầ

tài phù hợp với tâm lí bà con dân tộc Tày, Nùng, Dao đang sinh sống và làm việc tại

Lạng Sơn, giúp công chúng – bà cn dân tộc dễ dàng tiếp nhận thông tin. Qua đó,

chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng

Sơn mới có thể đảm bảo chất lượng và có những tác động tích cực trong công tác

thông tin.

Thứ hai là cần phải đổi mới cơ chế quản lí và bộ máy hoạt động

Từ góc độ quản lí của đài tỉnh, Đài PT-TH Lạng Sơn cần quan tâm, chú trọng

nhiều hơn nữa đến chương trình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao. Đặt ra những

yêu cầu về nội dung, kỹ thuật, khuyến khích phát thanh viên, biên tập viên của Đài

PT-TH Lạng Sơn xuống cơ sở để học hỏi ngôn ngữ, tìm hiểu nhu cầu tâm lí của bà

con vùng dân tộc, coi đây là một trong những nhiệm vụ phải làm hàng tháng của đội

ngũ này. Từ đó, xây dựng các kênh phản hồi, mối liên hệ chặt chẽ với công chúng

truyền hình của mình ở các vùng đồng bào dân tộc thiếu số - dân tộc ít người.

Khuyến khích đội ngũ phát thanh viên, biên tập viên tiếng dân tộc thực hiện

các tác phẩm truyền hình bằng tiếng Tày, Nùng, Dao, từng bước hạn chế việc biên

dịch chuyển ngữ từ tiếng phổ thông sang tiếng Tày, Nùng, Dao. Đề ra kế hoạch sản

xuất chương trình cụ thể, nghiêm túc yêu cầu đội ngũ người làm chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao. Đề ra kế hoạch sản xuất chương

88

trình cụ thể, nghiêm túc yêu cầu đội ngũ những người làm chương trình tiếng dân

tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn tự sản xuất tổ chức tin, bài.

Trong điều kiện con người hạn chế, cần có kế hoạch, sắp xếp công việc để đội ngũ

phát thanh viên tiếng dân tộc tham gia vào quá trình sản xuất tin, bài cho chương

trình truyền hình tiếng dân tộc.

Cơ cấu phòng tiếng dân tộc, tổ tiếng dân tộc phù hợp, có đủ phát thanh viên,

biên tập viên, phóng viên.

Có cơ chế khuyết khích, thu hút cộng tác viên, đặc biệt là những cộng tác

viên am hiểu về phong tục, tập quán, ngôn ngữ của các dân tộc, thậm chí là các

già làng, trưởng bản... là những người có tiếng nói, có uy tín trong cộng đồng

người dân tộc.

Thường xuyên tổ chức cho đội ngũ những người làm chương trình truyền

hình tiếng dân tộc đi học tập kinh nghiệm ở những Đài bạn, Đài trung ương, đặc

biệt là kênh VTV5 để học hỏi cách làm cũng như cách tổ chức sản xuất một chương

trình truyền hình tiếng dân tộc.

Ưu tiên tuyển dụng đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên là những

người dân tộc Tày, Nùng, Dao... Bố trí các chức danh lãnh đạo và cán bộ phòng, cán

bộ phụ trách biên tập tiếng Tày, Nùng, Dao, am hiểu về ngôn ngữ cũng như văn hóa

dân tộc Tày, Nùng, Dao và giao nhiệm vụ thẩm định, kiểm duyệt trực tiếp về nội

dung và các hoạt động có liên quan đến các chương trình truyền hình tiếng dân tộc

Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn.

Có kế hoạch đầu tư trang thiết bị sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân

tộc cũng như tăng diện phủ sóng của chương trình.

Thứ ba là chương trình truyền hình tiếng dân tộc cần phải đổi mới nội dung

và hình thức thể hiện chương trình

Đổi mới nội dung và hình thức của chương trình là đáp ứng tốt hơn nhu cầu

thông tin, giải trí của đồng bào dân tộc. Theo đó, nội dung chương trình phải đảm

bảo được ba yếu tố: “đúng”, “trúng” và “hay”, trong đó, “đúng” có nghĩa là tuyên

truyền đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đúng đối

tượng; “trúng” nghĩa là trúng thời điểm tuyên truyền, trúng cái mà đồng bào các dân

89

tộc thiểu số đang cần; “hay” chính là yếu tố quan trọng, thu hút sự quan tâm theo

dõi của công chúng, phù hợp với yêu cầu văn hóa và tâm lí tiếp nhận thông tin của

đồng bào dân tộc thiểu số. Để nâng cao chất lượng chương trình, cần có sự đổi mới

và cải tiến cả về nội dung và hình thức thể hiện.

Từ thực tế khảo sát, tác giả luận văn nhận thấy, nhu cầu của đồng bào dân tộc

Tày, Nùng, Dao về chương trình truyền hình tiếng dân tộc, tác giả luận văn mạnh

dạn đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới nội dung và hình thức đa dạng hóa

chương trình như sau:

Về đổi mới nội dung trong quá trình thực hiện nhà Đài nên xây dựng kế

hoạch, định hướng trong công tác tuyên truyền.

Chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-

TH Lạng Sơn không giống như các chương trình khác. Nội dung cập nhập thông tin

thiếu chủ động, phản ánh thông tin không kịp thời như chương trình hoặc bản tin

thời sự tiếng Việt cập nhập thông tin nhanh nhậy kịp thời vào các buổi trong ngày.

Chính vì điều đó chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của

Đài PT-TH Lạng Sơn cần có kế hoạch tuyên truyền theo dòng chủ lưu thời sự, căn

cứ vào mục tiêu nhiệm vụ chính trị - xã hội của từng địa phương trong từng giai

đoạn định kỳ nhất định theo tính chất và đặc trưng của nó, nội dung luôn bám sát

những vấn đề trọng tâm các sự kiện nổi bật ở địa phương.

Để đạt được hiệu quả và có những tác động tích cực trong công tác tuyên

truyền, lãnh đạo Đài PT-TH Lạng Sơn và những người trực tiếp làm nội dung nên

thường xuyên xây dựng kế hoạch, định hướng thông tin vừa mang tính thời sự, vừa

đi theo chủ đề tuyên truyền trong khoảng thời gian cụ thể trong tháng hoặc trong

năm để phân công đội ngũ phóng viên lập đề cương định hướng nội dung thông tin

trước khi trực tiếp xuống hiện trường thực hiện đề tài theo tính chất, vấn đề sự kiện,

thể hiện dưới nhiều thể loại khác nhau sao cho phù hợp với góc độ phản ánh của

chủ đề.

Xây dựng kế hoạch, định hướng thông tin tuyên truyền là cơ sở nền tảng

hướng tới xây dựng và sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng,

tiếng Dao có chủ đề rõ ràng để phục vụ đúng đối tượng chính là đồng bào các dân

90

tộc Tày, Nùng, Dao đang sinh sống và làm việc tại Lạng Sơn. Đây cũng là yếu tố

cần để cuốn hút người xem, mang lại hiệu quả tuyên truyền. Nếu không có định

hướng thông tin tuyên truyền rõ ràng trong chương trình chỉ phản ánh chung chung

như tình trạng như hiện nay thì hiệu quả tác động của chương trình sẽ chưa đạt như

mong muốn.

Bên cạnh việc xây dựng kế hoạch, định hướng thông tin tuyên truyền thì việc

cải tiến nội dung thông tin cũng đóng vai trò quan trọng. Thực tiễn khảo sát chương

trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn cho

thấy nội dung thông tin ở chương trình truyền hình tiếng dân tộc của nhà Đài hiện

nay có nội dung chương trình khô cứng, nghèo nàn, đơn điệu. Để giảm bớt và khắc

phục những hạn chế trên về nội dung trên những người chịu trách nhiệm nội dung

chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng

Sơn cần phải mạnh dạn và kiên quyết thực hiện nguyên tắc loại bỏ những thông tin

không quan trọng khi két cấu nội dung chương trình. Chọn lọc những bài vieets bộc

lộ sự sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm công dân, ý đồ thông điệp

muốn truyền tải đến công chúng của nhà báo phải mang lại lợi ích cho công chúng,

cho xã hội.

Cần phải tăng cường hơn nữa những thông tin khai thác từ thực tiễn của cuộc

sống, cần đi sâu vào những vấn đề khó khăn, bức xúc trong đời sống xã hội vùng

đồng bào dân tộc, đảm bảo tính chân thực, khách quan của thông tin báo chí. Khi

thực hiện thông tin cần có sự kết hợp hài hòa, sử dụng nhiều phương pháp, hình

thức thể loại và phương pháp sáng tạo tác phẩm báo chí truyền hình khác nhau.

Cần phản ánh thông tin một cách toàn diện, sắp xếp thông tin theo kết cấu

chương trình hợp lí theo giá trị thông tin, điểm nhấn thông tin trong chương trình.

Người phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên cần tuân thủ nguyên tắc về

thời lượng của mỗi tác phẩm truyền hình để đảm bảo độ chính xác về thời lượng

trong lúc biên tập viên kết cấu chương trình.

Cần phải tăng sản xuất các chương trình văn nghệ, các loại hình văn hóa

nghệ thuật truyền thống của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao nhằm đáp ứng nhu

cầu giải trí cho đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao đang sinh sống và làm việc tại

91

Lạng Sơn.

Cần mở thêm một số tiểu mục mới trong chương trình truyền hình tiếng dân

tộc cũng là giải pháp để tăng hiệu quả và những tác động tích cực của chương trình

đến với bà con dân tộc thiểu số. Bởi hiện nay, các chương trình tiếng Tày – Nùng,

tiếng Dao đang duy trì luân phiên hai chuyên mục Phổ biến kiến thức và Chính

sách pháp luật. Vì vậy, việc xây dựng, mở thêm các chuyên mục khác về kinh tế,

văn hóa, giáo dục, văn nghệ là cần thiết vì đây là những nội dung quan trọng, vô

cùng thiết thực đối với đời sống của đồng bào, góp phần làm sinh động, phong phú

hơn các chương trình truyền hình tiếng dân tộc.

Cần mở rộng thời lượng và chọn thời điểm phát sóng chương trình phù hợp.

Việc tăng thời lượng nhằm thu hút lượng khán giả đồng bào dân tộc thiểu số Tày,

Nùng, Dao trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đến với truyền hình. Chương trình truyền

hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn hiện tại có 30

phút đối với chương trình truyền hình tiếng Dao (phát vào các thứ 2, 4, 6); và 30

phút đối với chương trình truyền hình tiếng Tày (phát vào các thứ 3, 5, 7) là quá ít.

Qua kết quả khảo sát phụ lục 2 cho thấy nhu cầu của công chúng tỉnh Lạng

Sơn ở cả chương trình tiếng Tày – Nùng, tiếng Dao cho thấy có đến hơn 40% công

chúng cho rằng chương trình truyền hình tiếng dân tộc chưa đáp nhu cầu công

chúng một cách đầy đủ. cho nên, việc tăng thời lượng chương trình phát sóng tiếng

Tày – Nùng, tiếng Dao là đòi hỏi từ nhu cầu thực tế của công chúng đồng bào dân

tộc tỉnh Lạng Sơn.

Để làm được điểu này trước tiên nhà Đài phải tăng cường đội ngũ phóng

viên, biên tập viên, phát thanh viên và kỹ thuật viên; xây dựng nội dung chương

trình đa dạng và hấp dẫn; cần đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, tăng thời lượng

chương trình và chọn thời điểm phát sóng hợp lí để nâng cao chất lượng chương

trình, mang lại hiệu quả tuyên truyền.

Chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của Đài PT-

TH Lạng Sơn cần cập nhập những công nghệ mới để thay đổi tổ chức sản xuất

chương trình, tăng lượng phát sóng để phục vụ công chúng của mình một cách hiệu

quả thì mới có những tác động tích cực được.

Đài PT-TH Lạng Sơn cũng nên đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao chất

92

lượng hình ảnh. Hình ảnh là đặc trưng cơ bản nhát của truyền hình. Truyền hình

được xem như là nghệ thuật thay đổi điểm nhìn được thể hiện rõ nét và sinh động.

Để có chất lượng hình ảnh, trước hết đòi hỏi phóng viên quay phim phải có trình độ

năng lực chuyên môn cao cùng với trang thiết bị kỹ thuật phục vụ tác nghiệp.

Hình ảnh là một cách chuyển tải được thông tin về bối cảnh, không gian, địa

điểm diễn ra sự kiện một cách chân thật.

Thứ tư cần phải thay đổi khung giờ phát sóng

Hiện tại, chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao của

Đài PT-TH Lạng Sơn có khung giờ phát sóng đi là 16h40, và phát lại vào 10h sáng

hôm sau (với chương trình tiếng Dao phát thứ 2, 4, 6; và tiếng Tày phát thứ 3, 5, 7).

Điều này dễ nhận thấy, thời điểm phát sóng của cả hai chương trình không phải là

giờ vàng, nghĩa là đây là thời điểm mà khán giả xem truyền hình ít nhất trong ngày.

Trước hết, nói về thời điểm phát sóng đi và phát sóng lại của chương trình

truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao vào 16h40, và 10h sáng hôm sau

thời điểm này phát sóng hoàn toàn không phù hợp với tâm lí tiếp nhận và thời gian

theo dõi của bà con dân tộc. bởi đây là thời điểm bà con vùng đồng bào dân tộc

thiểu số đang trên nương trên rẫy, tăng gia sản xuất, thường khoảng thời gian vào

lúc 12h trưa cho đến 17h – 18h buổi tối họ mới có mặt ở nhà nên không thể xem

trọn vẹn các chương trình tiếng dân tộc. Qua kết quả khảo sát phụ lục 2 cho thấy có

đến gần 70% công chúng cho rằng chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày –

Nùng, tiếng Dao nên phát sóng vào buổi trưa và phát lại vào buổi tối.

Như vậy, từ thực tế khảo sát trên có thể nhận thấy rằng khung thời gian phát

sóng của chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày – Nùng, tiếng Dao trên Đài PT-

TH Lạng Sơn là chưa phù hợp với điều kiện tiếp nhận của đồng bào, cần thiết phải

sự thay đổi khung giờ phát sóng cho chương trình này. Bằng thực tiễn trong quá

trình làm việc theo tác giả luận văn, trong khung giờ truyền hình hàng ngày của Đài

PT-TH Lạng Sơn rất khó bố trí chương trình truyền hình tiếng dân tộc vào khung

giờ khác (thời điểm từ 17h -22h) bởi khung giờ này thường được bố trí cho các

chương trình thời sự, các chuyên mục – chuyên đề, chương trình phim truyện và

93

đăng thông tin quảng cáo.

Thứ năm là cần phải chú trọng nghiên cứu truyền thông về công chúng.

Công chúng luôn có vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của các loại

hình báo chí trong đó có chương trình phát thanh, truyền hình (báo nói, báo hình).

Vì vậy, công tác nghiên cứu công chúng là công việc quan trọng và hết sức cần thiết

phải tiến hành khảo sát, thăm dò thường xuyên và liên tục. Số lượng công chúng

khán giả chính là thước đo chất lượng và uy tín của mỗi chương trình. Đây cũng là

giải pháp trước mắt đồng thời cũng là chiến lược lâu dài nâng cao chất lương trình

truyền hình tiếng dân tộc.

Mặc dù chương trình truyền hình tiếng dân tộc ra đời được 12 năm (2006-

2018), nhưng cho đến nay, Đài PT-TH Lạng Sơn chưa quan tâm và chưa có một

cuộc điều tra phản hồi nào từ phía công chúng về thành phần, độ tuổi, trình độ, tâm

lí và hành vi tiếp nhận thông tin... trong đó, đáng chú ý nhất là về tâm lí tiếp nhận,

cách tiếp nhận của công chúng, những tác động tích cực của chương trình và những

mong muốn của công chúng xem truyền hình. Việc điều tra sẽ tránh được lối truyền

thông áp đặt, một chiều. Đây chính là kênh để công chúng có thể tham gia vào hoạt

động truyền thông, nhằm nâng cao tính hiệu quả của thông tin báo chí.

Như vậy có thể thấy, đối với chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày –

Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn việc nghiên cứu kênh phản hồi chính là

nghiên cứu đối tượng tác động của chương trình, là giải pháp quan trọng trong mọi

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thông tin, tuyên truyền. Bởi lẽ,

qua những phản hồi từ phía công chúng, Ban lãnh đạo Đài và những người làm

chương trình mới nhận diện một cách khách quan nhất về về nội dung và chất lượng

của chương trình, mới đo đếm được mức độ và hiệu quả tác động của nó đối với

công chúng là đồng bào các dân tộc.

Rõ ràng, đã đến lúc Đài PT-TH Lạng Sơn cần tính đến việc xây dựng kênh

phản hồi từ phía công chúng đối với chương trình truyền hình tiếng dân tộc Tày –

Nùng, tiếng Dao của Đài PT-TH Lạng Sơn. Mỗi năm một lần, Đài PT-TH Lạng Sơn

cần có những nghiên cứu, khảo sát, điều tra công chúng ở những địa bàn miền núi,

vùng cao, nơi có đông đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao sinh sống. Để từ đó có

những điều chỉnh, cải tiến, đổi mới sao cho phù hợp với điều kiện và nhu cầu thông

94

tin của đồng bào.

Tiểu kết chƣơng 3:

Từ thực trạng chương trình truyền hình tiếng dân tộc thiểu số trên Đài PT-TH

Lạng Sơn, trong chương 3 của luận văn tác giả đã đưa ra hai nhóm giải pháp, bao

gồm: nhóm giải pháp chung và nhóm giải pháp cụ thể cho lãnh đạo tỉnh và về phía

nhà Đài.

Về các giải pháp cụ thể được đề ra cho cả phía nhà nước như: về cơ chế

chính sách nguồn lực; cơ chế tài chính hợp lí; cần phải đầu tư cơ sở vật chất, kỹ

thuật công nghệ hiện đại.

Còn về phía nhà Đài bao gồm các giải pháp về nâng cao trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị cho người sản xuất chương

trình; cần phải đổi mới cơ chế quản lí và bộ máy hoạt động; cần phải đổi mới nội

dung và hình thức thể hiện chương trình; cần phải thay đổi khung giờ phát sóng; và

phải chú trọng nghiên cứu truyền thông về công chúng có như vậy chương trình

mới thực sự mang lại hiệu quả trong công tác thông tin tuyên truyền đối với đồng

95

bào.

KẾT LUẬN

Nghị quyết số 09-NQ/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi tỉnh Lạng Sơn đến năm

2020 có nhấn mạnh: “... Các cơ quan thông tấn, báo chí tăng tần suất, thời lượng và

đa dạng hóa các hình thức thông tin tuyên truyền; chú trọng tuyên truyền trực tiếp,

trực quan bằng tiếng dân tộc đến đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn,

khu vực biên giới để người nghèo có điều kiện tốt hơn trong việc tiếp cận và thực

hiện các chủ trương, chính sách giảm nghèo, các mô hình sản xuất, kinh doanh,

những tấm gương phát triển kinh tế hộ gia đình, từ hộ nghèo vươn lên thành hộ khá;

phê phán những địa phương, đơn vị có tư tưởng trông chờ, ngại khó, thiếu quyết liệt

trong tổ chức thực hiện giảm nghèo. Phát triển hệ thống phát thanh xã, thôn, bản, ở

những nơi có điều kiện để đưa thông tin kịp thời, đầy đủ đến người dân”.

Từ những vấn đề trong Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh cho thấy,

công tác thông tin tuyên truyền tới đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc

Tày, Nùng, Dao nói riêng có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn

hiện nay. Chương trình truyền hình tiếng Tày – Nùng, tiếng Dao trên Đài PT-TH

Lạng Sơn đã và đang truyền tải những vấn đề, sự kiện, những thông tin bổ ích đến

với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày, Nùng, Dao nói riêng.

Tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày, Nùng,

Dao nói riêng thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước, tuyên truyền phổ biến khoa học kỹ thuật về khuyến nông – lâm –

ngư cho đồng bào; phản ánh các gương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến ở

vùng đồng bào dân tộc thiểu số góp phần nâng cao nhận thức, kiến thức của đồng

bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày, Nùng, Dao nói riêng; giữ gìn và phát

huy tiếng nói, phong tục tập quán, những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của

cộng đồng.

Trong thời điểm hiện nay đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc

Tày, Nùng, Dao nói riêng rất cần được sự quan tâm, tăng cường đầu tư về mọi mặt,

96

tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân được bình đẳng tiếp nhận thông tin một

cách chính xác, phù hợp, có định hướng thông qua các cơ quan thông tin đại chúng.

Đây là trách nhiệm của nhiều cơ quan, ban ngành, đoàn thể các cấp, đặc biệt là cơ

quan báo chí tuyên truyền, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vận

động, hướng dẫn xóa đói giảm nghèo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền

thống của dân tộc, xây dựng cuộc sống mới trong thông bản vùng đồng bào dân tộc

thiểu số nói chung và dân tộc Tày, Nùng, Dao nói riêng.

Với những tác động như vậy, trong những năm qua Đài PT-TH Lạng Sơn đã

từng bước phát triển nguồn lực, đầu tư trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật trong sản

xuất chương trình tiếng dân tộc để phục vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung

và dân tộc Tày, Nùng, Dao nói riêng đang sinh sống và làm việc tại Lạng Sơn.

Tác giả luận văn đã tiến hành việc nghiên cứu về đặc điểm dân cư, tâm lí,

nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày,

Nùng, Dao nói riêng. Đề tài đã nêu ra được những đặc trưng cơ bản nhất về công

tác thông tin tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày,

Nùng, Dao nói riêng trên sóng truyền hình, những nhu cầu đáp ứng, những tác động

tích cực, những hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả chương trình

truyền hình tiếng dân tộc, từ đó đề ra những giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm nâng

cao hiệu quả và có nhiều tác động tích cực hơn nữa trong việc tiếp nhận thông tin

của công chúng đối với chương trình truyền hình. Đồng thời, trên cơ sở đó giúp cho

những người làm chương trình truyền hình tiếng dân tộc tại Đài PT-TH Lạng Sơn

có cơ sở lí luận cũng như nắm bắt rõ về vai trò và tầm quan trọng trong việc thực

hiện nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình tiếng dân

tộc của tỉnh mình trong tình hình mới nhiều sự phức tạp đang diễn biễn tại khu vực

vùng núi như hiện nay. Từng bước củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số

nói chung và dân tộc Tày, Nùng, Dao nói riêng với Đảng và Nhà nước, củng cố khối

đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

Dù gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài, song, tác giả luận

văn kỳ vọng với những kết quả nghiên cứu trên, đề tài sẽ đóng góp thêm một căn cứ

sát thực và điểm nhìn ban đầu về PT-TH ở các Đài PT-TH địa phương nói chung và

97

chương trình tiếng dân tộc Tày, Nùng, Dao ở Đài PT-TH Lạng Sơn nói riêng. Tác

giả mong muốn luận văn sau này, sẽ có được những đúc kết lí luận để tiếp tục tham

gia nghiên cứu những đề tài khoa học khác trong lĩnh vực báo chí, PT-TH, từ đó,

ứng dụng vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của người

làm báo nói chung. Hy vọng, sau nghiên cứu này, tác giả sẽ có thêm nhiều kinh

nghiệm quý về cách tiếp cận, kiến giải và phân tích đánh giá trong nghiên cứu khoa

học.

Những luận điểm và kết luận, thiết nghĩ, mới chỉ là những kết quả khảo sát

bước đầu, chắc chắn còn chưa thỏa mãn tất cả những yêu cầu đối với một công trình

nghiên cứu khoa học. Vì vậy, chúng tôi rất mong được các nhà nghiên cứu, hội

đồng chấm luận văn và các thầy cô giáo, cùng các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến

để chúng tôi có hướng nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện đề tài, làm cho nó có ý nghĩa

lí luận và thực tiễn cao hơn, phục vụ việc đánh giá những tác động của truyền hình

tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương.

Sau khi nghiên cứu đề tài luận văn này, tác giả luận văn cũng đã rút ra cho

mình những kinh nghiệm trong việc tiếp cận với phương pháp triển khai, nghiên

cứu một vấn đề khoa học. Đây cũng sẽ là bài học bổ ích để tác giả vận dụng vào

việc tổng kết thực tiễn, rút ra kinh nghiệm mới, nhằm không ngừng hoàn thiện kỹ

98

năng nghiệp vụ, nâng cao chất lượng hiệu quả công việc của bản thân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Anh (2003), Một số vấn đề sử dụng ngôn ngữ báo chí, Nxb Lao động xã

hội, Hà Nội.

2. Phan Ngọc Bách (2005), Luận văn thạc sĩ Báo chí học “Chương trình Dân tộc

và Miền núi trên sóng VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam” tại Học viện Báo chí

tuyên truyền, Hà Nội.

3. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương (2000), Sổ tay công tác dân tộc và miền

núi, Hà Nội.

4. Bộ Văn hóa Thông tin (2001), Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục

vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Hà Nội.

5. Ban tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Hội nhà báo Việt Nam (2004), Tư tưởng

Hồ Chí Minh về Báo chí cách mạng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 22 về một số chủ trương lớn phát triển kinh

tế xã hội miền núi, Hà Nội.

7. Bộ văn hóa thông tin (2001), Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục

vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Hà Nội.

8. Chính phủ (1998), Chỉ thị số 39/CT-TTg về việc đẩy mạnh công tác văn hóa

thông tin ở miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số, Hà Nội.

9. Các dân tộc ít người Việt Nam (1978), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc (2000), Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

11. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

12. Hồ Anh Dũng (2001), Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2006), Truyền thông – lí thuyết và kỹ năng cơ

bản, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lí luận báo chí, Nxb Lao động, Hà Nội.

15. Đài PT-TH Lạng Sơn, Báo cáo tổng kết năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ

99

năm 2018, Lạng Sơn.

16. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1999), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp

hành trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc, Hà Nội.

17. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp

hành trung ương Đảng khóa X về công tác dân tộc, Hà Nội.

18. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và

hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà

Nội.

19. Bế Văn Đằng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội ở

miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia – Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

20. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994) (1996), Báo chí – những vấn đề lí luận thực

tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Lê Sĩ Giáo (2005), Giáo trình Dân tộc học đại cương (Sách dùng cho các

trường cao đẳng và đại học) (Danh mục các dân tộc thiểu số ở Việt Nam), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

22. Vũ Quang Hào (2014), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà

Nội.

23. Đỗ Thu Hằng (2000), Những vấn đề cơ bản về Tâm lí tiếp nhận của công

chúng báo chí, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

24. Đinh Thị Thúy Hằng (2007), Giáo trình giảng dạy Truyền hình trong xã hội

hiện đại, Học viện báo chí tuyên truyền (tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội.

25. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Văn hóa dân tộc trong quá

trình mở cửa ở nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Thế Huệ (2000), Dân số các dân tộc miền núi và trung du Bắc Bộ từ

sau đổi mới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

27. Đinh Văn Hường, Dương Xuân Sơn, Trần Quang, Đặng Thu Hương, Nguyễn

Thanh Hường, Đỗ Anh Đức, Bùi Tiến Dũng (2005), Thể loại báo chí, Nxb Đại

học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

28. Đinh Văn Hường (2007), Tổ chức và hoạt động của tòa soạn, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

100

29. Trần Bảo Khánh (2002), Sản xuất chương trình truyền hình, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

30. Trần Bảo Khánh (2011), Công chúng truyền hình Việt Nam, Nxb Thông tấn, Hà

Nội.

31. Khoa Báo chí – Đại học khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà

Nội (1996), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiến, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

32. Claudia Mast (2003), Công tác biên tập, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

33. Ma Thị Minh (2010), Những vấn đề thuận lợi và khó khăn trong việc thể hiện

giọng đọc cho thính giả miền núi bằng tiếng Tày, Khóa luận tốt nghiệp báo chí

học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), Hà Nội.

34. Hoàng Đức Nghi (20000, Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi mới (1999-

2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Nhiều tác giả (1996), Từ điển báo chí, Nxb Thành Phố. Hồ Chí Minh, Hồ Chí

Minh.

36. Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề về lí luận và thực

tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Hoàng Phê (1992) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà

Nội.

38. Trần Hữu Quang (2008), Xã hội học truyền thông đại chúng, Nxb Đại học Mở

thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

39. Hoàng Quyết (chủ biên) (1993), Văn hóa dân tộc Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

40. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Qúy Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội

học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

41. Nguyễn Xuân An Việt (2001), Luận văn thạc sĩ Báo chí học “Thông tin về dân

tộc miền núi trên VTV1 – Đài truyền hình Việt Nam” tại Học viện Báo chí tuyên

truyền.

42. Dương Xuân Sơn (2009), Giáo trình báo chí truyền hình, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

43. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa – Thông

101

tin, Hà Nội.

44. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Tạ Ngọc Tấn (2005), Cơ sở lí luận báo chí, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội.

46. Nguyễn Thị Minh Thái (2001), Đào tạo báo chí là đào tạo người làm nghề báo,

Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà

Nội.

47. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

48. An Thị Thanh Thu (2009), Luận văn thạc sĩ “Nâng cao chất lượng chương

trình truyền hình tiếng dân tộc của các đài tỉnh miền núi Đông Bắc” tại Học

viện Báo chí tuyên truyền.

49. Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời

kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Ủy ban dân tộc học (2002), Miền núi Việt Nam – Thành tựu và phát triển những

năm đổi mới, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

Hà Nội.

102

51. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,

PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 (PHỤ LỤC 1) Mẫu 1: Phiếu thăm dò ý kiến tiếng Tày - Nùng (Ngòi xét slim châư cúa tứng cần )

PHIẾU KHẢO SÁT TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC

CỦA ĐÀI PT-TH LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG

DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG (Phiếu ngòi xét ký tối mấu cúa truyền hình Tiểng dân tộc nọi cần cúa Đài PT-TH

Lạng Sơn)

Kính thưa: Qúy ông/bà! (Pỉ noọng slương điếp ) Để phục vụ cho nghiên cứu, xây dựng luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học, chúng tôi thực hiện cuộc khảo sát về tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương; rất mong nhận được sự hợp tác, giúp đỡ của quý vị qua việc đánh dấu vào ô trống trong câu hỏi dưới đây. Kết quả từ cuộc khảo sát này sẽ phục vụ cho việc nghiên cứu, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền các giải giáp nhằm nâng cao tổ chức sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn. (Sle pao hử việc nghiên cứu, hết luận văn Thạc sỵ chuyên ngành Báo chí học, boong khỏi đạ mì pan ngòi xét mừa ký piến tối cúa truyền hình tiểng dân tộc nọi cần cúa Đài PT-TH Lạng Sơn tói sáu cần dân tỉ phuông; ngầu slưởng đảy ký mòn cáp hạp, pang chỏi cúa pỉ noọng quá việc việt dấu chẩm khẩu ký ô sle váng lăng nẩy. Quá pan ngòi xét nẩy sẹ pao đây hử việc nghiêu cứu, chiềng khửn cơ quan mì thẩm quyền ký pản pháp pao hết đây việc tẳng có chương trình truyền hình tiểng dân tộc nọi cần cúa đài PT-TH Lạng Sơn).

Xin quý vị vui lòng trả lời các câu hỏi bằng cách khoanh tròn vào đáp án mà quý vị cho là đúng nhất trong Phiếu khảo sát này. Những câu trả lời của quý ông/bà sẽ là nguồn tư liệu quý để chúng tôi thực hiện luận văn của mình.

(Xo pỉ noọng pjá cằm khẩu ký cằm xam lăng nẩy bặng cách việt mừn khẩu ký cằm pja đảy ngòi la trúng nhất chang Phiếu ngòi xét nẩy. Ký cằm pjá cúa pỉ noong sẹ la mòn chăn pèng quý sle boong khỏi hết luận văn cúa lầu).

Xin chân thành cám ơn sự cộng tác của quý ông/bà! (Xo piom bái pỉ noọng)

Tác giả luận văn (Cần hết luận văn) Vương Sỹ Thành

103

A. THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƢỜI TRẢ LỜI

(A. THÔNG TIN CÖA CẦN PJÁ CẰM XAM)

1. Giới tính (Tải ết: Giới tính)

A. Nam (A.Chài) B. Nữ (B. Nhình) 2. Độ tuổi (Tải nhỉ: Xám pi)

A. Từ 20 – 30 (A. Tứ 20 thâng 30 pi) B. Từ 30 – 40 (B. Tứ 30 thâng 40 pi) C. Từ 40 – 60 (C. Tứ 40 thâng 60 pi) D. Trên 60 (D. Tềnh 60 pi )

3. Địa bàn sinh sống (Tải slam. Tỉ phuông kin dú)

A. Thị trấn (A. Thị trấn ) B. Nông thôn (B. Dú kha bản) C. Miền núi (C. Dú khau pò )

5. Trình độ học vấn (Tải hả. Trình độ slon slư)

A. Trên đại học (A. Tềnh đại học) B. Đại học (B. Slon đại học) C. Cao đẳng (C. Slon Cao đẳng) D. Trung cấp (D. Slon trung cấp ) E. Trung học (E. Slon trung học) F. Không biết, không nhớ (F. Mí chắc, đạ lùm )

6. Nghề nghiệp (Tải hốc. Nghề hết công)

A. Công chức, viên chức (A. Công chức, viên chức) B. Làm trong doanh nghiệp (B. Hết công chang doanh nghiệp) C. Đã về hưu (C. Đạ mà chải hưu) D. Học sinh, sinh viên (D. Học sinh, sinh viên) E. Làm nghề tự do (E. Hết nghề táng lược, mí hết chang nhà nước) F. Không nghề nghiệp(F. Mí mì việc hết) G. Khác nếu có ghi rõ (G. Mì nghề lăng đai them táng việt khảu)......

104

B. NỘI DUNG KHẢO SÁT (B: MÕN NGÕI XÉT)

Câu hỏi 1: Gia đình ông/bà hiện tại có các phƣơng tiện truyên thông nào?

A. Tivi B. Máy tính có kết nối internet C. Đài D. Khác (nếu có ghi rõ......)

Câu hỏi 2: Mức độ theo dõi các chƣơng trình tiếng Tày ở Đài PT-TH Lạng Sơn của quý vị là nhƣ thế nào? (chọn 1 đáp án) (Cằm xam tải ất: Pỉ noong ngòi chương trình tiểng Tày cúa Đài PT-TH Lạng Sơn kỷ lai)

A. Hàng ngày (A. Vằn hâư cụng ngòi) B. Một vài lần/tuần (B. Kỷ pày mọi tuần ) C. Một vài lần/tháng (C. Kỷ pày mọi bươn) D. Một vài lần/năm (D. Kỷ pày mọi pi) E. Không bao giờ (E. Mí ngòi slắc pày) Nếu không xem chƣơng trình tiếng dân tộc xin chuyển sang câu 14 (Hạy cạ mí

ngòi chương trình tiểng dân tộc nọi cần pỉ noong tối quá cằm xam slíp slí)

Câu hỏi 3: Qúy vị quan tâm nhiều đến chuyên mục nào sau đây? (có thể chọn nhiều phƣơng án) (Cằm xam tải nhỉ: Pỉ noọng lồng slim lai thâng chuyên mục ký chuyện mục lăng nẩy?)(Pỉ noong đảy lược lai cằm pjá)

A. Chính sách cuộc sống (A. Chính sách mừa tởi slổng ) B. Phóng sự (B. Phóng sự ) C. Gương sáng cộng đồng (C. Bỏng cương đây) D. Nét đẹp vùng cao (D. Mòn đây mjac búng khau pò ) E. Giữ gìn bản sắc văn hóa (E. Ngòi chướng ăn pỏn văn hóa) F. Khoa học kỹ thuật (F. Khoa học kỵ thuật)

Câu hỏi 4: Quý vị có thấy nội dung các chƣơng trình có rõ ràng và dễ hiểu không? (xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải slam: Pỉ noong hăn ký mòn chang chương trình rọ ràng vạ chứ ngải mí ? (Lược cằm pjá nâng )

A. Có (A. Hăn) B. Không (B. Mí) C. Lí do khác nếu có ghi rõ................(C. Hăn mòn lăng them pỉ noọng việt

rọ.............................)

Câu hỏi 5: Theo quý vị thông tin trong chƣơng trình truyền hình tiếng Tày có tin cậy hay không? (xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải slí: Sleo pỉ noọng thông tin dú chang chương trình Tiểng Tày slứn đảy mí ?) (Lược cằm pjá nâng)

A. Tin cậy(B. Slứn đảy)

105

B. Khá tin cậy (C. Bắn slứn đảy) C. Không tin cậy (D. Mí slứn đảy)

Câu hỏi 6: Khi xem chƣơng trình tiếng Tày, quý vị hiểu thêm về điều gì?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải hả: Pửa ngòi chương trình Tiểng Tày pỉ noọng thông rọ

đảy mòn lăng? ( Lược cằm pjá nâng)

A. Có thêm nhiều kiến thức chung (A. Mì them lai kiến thức chung) B. Nắm được Chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước (B. Thông rọ đảy Chủ trương, tàng lỏ cúa Đảng, chính sách pháp luật

cúa Nhà nước)

C. Nâng cao niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chống lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch (C. Them slứn slim khẩu Đảng, Nhà nước, tảng làn đảy ký việc hết mí đây cúa poong slấc)

D. Mở rộng sự hiểu biết về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương, cả nước và trên thế giới (D. Thông rọ đảy lai mòn mừa kinh tế, chính trị, văn

hóa xạ hội dú tỉ phuông, tằng nước vạ tềnh tỉ dả)

E. Nắm được chính sách dân tộc (E. Thông rọ ký chính sách dân tộc) F. Giúp nâng cao dân trí và hưởng thụ văn hóa(F. Pao tải slung nẳm nghị vạ

tải slung văn hóa)

G. Tăng cường sự hiểu biết và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản

xuất (G. Thông rọ lai mòn, chắc au khoa học kỵ thuật khẩu hết kin)

H. Theo dõi tin tức thời sự (H.Ngòi mừa tin tức thời sự) I. Học tập cách ứng xử, tu dưỡng đạo đức (I. slon cách chập nả, tẳng có cách

slổng hử đây)

J. Để biết các thông tin thực tế hàng ngày (J. Sle chắc ký thông tin ăn vằn) K. Giải trí (K. Sle cần nẩu nỏ slim châư) L. Để giết thời gian (L. Sle thuổn vằn) M. Lợi ích khác nếu có ghi rõ....(M. Mòn đây lăng them pỉ noọng việt rọ..........)

Câu hỏi 7: Nội dung các chƣơng trình truyền hình tiếng Tày đã đáp ứng nhu cầu thông tin của quý vị nhƣ thế nào? (xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải hốc: Ký

mòn chang chương trình truyền hình tiểng Tày đạ pao đây thông tin hử pỉ noọng pện slừ)

A. Đáp ứng đúng và kịp thời (A. Pao đây đo vạ lập slì) B. Đáp ứng đúng nhưng chưa kịp thời (B. Pao đo, trúng tọ bắn lập slì) C. Chưa đáp ứng (C. Bắn pao đây)

Câu hỏi 8: Nội dung chƣơng trình truyền hình tiếng Tày có tác động nhƣ thế nào tới nhận thức của quý vị?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải chất: Ký mòn chang chương trình truyền hình tiểng Tày hết tối mâứ slim châư cúa pỉ noọng pện slừ) (Lược cằm pjá nâng)

106

A. Tác động tích cực (A. Tối mấư đây) B. Tác động không tích cực (B. Tối mấư mí đây) C. Không tác động gì (C. Mí tối mấư lăng chạy) D. Không rõ (D. Mí slụ) E. Lí do khác nếu có ghi rõ (E. Mòn lăng them pỉ noọng việt rọ)

Câu hỏi 9: Mức độ áp dụng những nội dung của chƣơng trình này trong các

hoạt động liên quan đến học tập, nghiên cứu, ứng dụng sản xuất của quý vị là nhƣ thế nào? (xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải pét: Pỉ noọng au ký mòn cúa chương trình

nẩy khảu viêc slon tập, nghiên cứu, au khảu hết kin đảy pện slừ ) (Lược cằm pjá nâng)

A. Sử dụng cả (A. Au khẩu dủng thuổn) B. Sử dụng một phần, vì….(B. Dủng phấn nâng, vỉ.....) C. Không thể sử dụng, vì... (C. Mí dủng đảy, vỉ…........)

Câu hỏi 10: Thời điểm, thời lƣợng phát sóng những chƣơng trình này có phù hợp với quý vị không? (xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải cẩu: Slì phát sóng chương

trình vạ thời lượng phát sóng hạp sáu pỉ noọng mí ? (Lược cằm pjá nâng)

A. Rất phù hợp (A. Chăn tải hạp) B. Phù hợp (B. Hạp) C. Không phù hợp (C. Mí hạp) D. Hoàn toàn không phù hợp (D.Mí cần hạp)

Câu hỏi 11: Theo quý vị thời điểm tốt nhất trong các ngày phát sóng những chƣơng trình này để đến với đông đảo công chúng là lúc nào?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam tải slíp: Slèo pỉ noong chương trình nẩy phát đây nhất sle pỉ noọng đảy ngòi la khẩu slì hâư ?)(Lược cằm pjá nâng)

A. Buổi sáng (A. Tằng nâư) B. Buổi trưa (B. Thâng slai) C. Buổi tối (C. Tằng cẳm)

Câu hỏi 12: Theo quý vịviệc sử dụng tiếng Tày làm phƣơng tiện truyền tải

thông tin cho các chƣơng trình truyền hình trên Đài PT-TH Lạng Sơn là?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam slíp ất: Slèo pỉ noọng việc dủng tiềng Tày sle au ký ký thông tin

thâng mọi cần la ?) (lược cằm pjá nâng )

A. Rất cần thiết (A. Chăn cẩn diếu) B. Cần thiết (B. Cẩn diếu) C. Không cần thiết (C. Mí cẩn diểu) D. Hoàn toàn không cần thiết (B. Mí cẩn diếu)

Câu hỏi 13: Theo quý vị phụ đề cho chƣơng trình truyền hình tiếng Tày hiện

nay đã đáp ứng nhu cầu xem truyền hình của đồng bào dân tộc hay chƣa?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam slíp nhỉ: Slèo pỉ noọng, phụ đề cúa chương trình truyền hình tiểng

107

Tày cà này đạ pao đây hử việc pỉ noọng cần dân tộc ngòi bắn ? (Lược cằm pjá nâng)

A. Đã đáp ứng, lí do….(A. Đạ pao đây, vỉ mền ….....) B. Chưa đáp ứng, lí do... (B. Bắn pao đây, vỉ mền .....)

Câu hỏi 14: Quý vị đánh giá nhƣ thế nào về hình ảnh, âm thanh trong các chƣơng trình truyền hình tiếng Tày?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam slíp slam: Pỉ noọng hăn hình ảnh, tiểng nằn chang ký chương trình truyền hình tiểng Tày pện slừ ?)

A. Rất tốt (A. Đây lai) B. Tốt (B. Đây) C. Tương đối tốt (C. Đảy) D. Không tốt (D. Mí đây) E. Rất không tốt (E. Chăn mí đảy đây)

Câu hỏi 15: Quý vị thƣờng theo dõi chƣơng trình nào trên Đài PT-TH Lạng Sơn?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam slíp slí:Pỉ noọng xường sli ngòi chương trình lăng cúa Đài PT-TH Lạng Sơn?) (Lược cằm pjá nâng)

A. Thời sự (A. Thời sự) B. Phóng sự/phim tài liệu (B. Phóng sự/phim tài liệu) C. Chuyên đề/tạp chí (C.Chuyên đề, tạp chí) D. Văn hóa, nghệ thuật (D. Văn hóa, nghệ thuật) E. Thể thao (E. Thể thao) F. Phim truyện (F. Ngòi phim) G. Đáp án khác nếu có ghi rõ ..................... (G. Mòn lăng đai them pỉ noọng

việc rọ)...................................

Câu hỏi 16: Theo qúy vị không theo dõi chƣơng trình tiếng Tày trên Đài PT- TH Lạng Sơn?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam slíp hả: Slèo pỉ noọng mí ngòi chương trình tiểng Tày cúa Đài PT-TH Lạng Sơn la vỉ? (Lược cằm pjá nâng)

A. Không thích xem (A. Mí ái ngòi) B. Thấy không cần thiết (B. Hăn mí cẩn diếu) C. Phát không đúng thời điểm (C. Phát mí trúng slì) D. Không đáp ứng được nhu cầu thông tin (D. Mí pao đây đảy ký mòn ái đảy

ngòi)

E. Thiếu hấp dẫn (E. Mí đây ngòi)

Câu hỏi 17: Theo qúy vị nguyên nhân khiến một bộ phận không theo dõi chƣơng trình tiếng Tày trên Đài PT-TH Lạng Sơn là gì?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm

xam slíp hốc: Sleo pỉ noọng cốc co hết hử phấn ký cần mí ngòi chương trình tiểng Tày cúa Đài PT-TH Lạng Sơn la mòn lăng? (Lược cằm pjá nâng)

A. Nội dung không thiết thực (A. Ký mòn chang chương trình mí chăn cẩn

diếu)

108

B. Chủ đề chưa phong phú, không tiêu biểu (B. Bắn mì lai chủ đều táng căn,

mòn mí chăn luông)

C. Hình thức chưa đảm bảo chất lượng (C. Chương trình bắn chăn đây) D. Chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin (D. Bắn pao đảy ký thông tin nắt

ngòi)

E. Thiếu hấp dẫn (E. Mí đây ngòi) F. Lí do khác nếu có .................................(F. Mòn lăng đai them pỉ noọng việt

rọ........................................................)

Câu hỏi 18: Nếu chƣơng trình tiếng Tày trên Đài PT-TH Lạng Sơn có sự thay đổi, nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình thì quý vị có xem không?(xin chọn 1 phƣơng án) (Cằm xam slíp chất: Hạy cạ chương trình tiểng Tày Đài PT-TH Lạng Sơn tối mấư tải slung chất lượng ký chương trình pỉ noọng ngòi mí ? (Lược cằm pjá nâng)

A. Có (A. Ngòi) B. Có thể xem nếu chương trình thay đổi (B. Sẹ ngòi hạy cạ pửa tối mấư

chương trình)

C. Không xem với bất kỳ sự thay đổi nào (C. Mặc cạ tối mấư pện slừ cụng mí

ngòi)

Xin cám ơn quý vị đã nhiệt tình cộng tác với chúng tôi! (Xo pjom bái pỉ noọng pang chỏi hử boong khỏi)

109

Mẫu 2: Phiếu thăm dò ý kiến tiếng Dao

PHIẾU KHẢO SÁT TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC CỦA ĐÀI PT-TH LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG(PHIẾU LÓ HÍU MŨI TÌU LẬY DIÊM LẦY CHÌNG TRUYỀN HÌNH DÌU MIỀN VẢ TỎI CẮP MỦA TÕI DÂN

TỘC CHỤ MIỀN TẦY PUNG)

Kính thưa: Qúy vị! (Mủa tòi chiên nắm)

Để phục vụ cho nghiên cứu, xây dựng luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học, chúng tôi thực hiện cuộc khảo sát về tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH

Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương; rất mong nhận được sự hợp tác, giúp đỡ của quý vị qua việc đánh dấu vào ô trống trong câu hỏi dưới đây. Kết quả từ cuộc khảo sát

này sẽ phục vụ cho việc nghiên cứu, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền các giải giáp nhằm nâng cao tổ chức sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng

Sơn.(Liều phục vụ pun sị ló híu, chẩu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học, dia bua đạ chẩu căn dủn ỏi vả duẩnmũi tìu lậy diêm lầy chìng Truyền hình dìu miền vả, Đài PT –

TH Lạng Sơn nây, tỏi cắp mủa tòi dân tộc chụ miền tầy pung; dia bua mồng cóng lẻng tú sự pang đợ diêm mủa tòi, quỷa sị khằn kín ỏi dật chẩu vả gang nái nưng. Quỷa coó chẩu

vả nài, sẹ phục vụ pun sị ló híu, đề xuất cắp cơ quan mài lìn lầu coó khèo kiếy, liều chẩu xiết tú coó lầy chìng Truyền hình dìu miền vả khù mẳng hơn).

Xin quý vị vui lòng trả lời các câu hỏi bằng cách khoanh tròn vào đáp án mà quý vị cho là đúng nhất trong Phiếu khảo sát này. Những câu trả lời của quý vị sẽ là nguồn tư liệu quý để chúng tôi thực hiện luận văn của mình. (Mủa tòi kín ỏi dật diêm coó chẩu vả,

mủa tòi puột chuổng nhất diêm Phiếu ló híu nái. Coó chẩu và mủa tòi kín, sẹ bế hùa kìn liều dia bua chẩu lổng khằn nây luận văn.)

Xin chân thành cám ơn sự cộng tác của quý vị! (Hắt tú híu ên mủa tòi đạ pang đợ)

Tác giả luận văn (Miền chẩu luận văn)

Vương Sỹ Thành

110

A. THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƢỜI TRẢ LỜI (THÔNG TIN PUẦN SIN MIỀN TAU VẢ NÂY )

1. Giới tính (Miền chặng, miền xía)

A. Nam (Miền chặng) B. Nữ (Miền xía) 2. Độ tuổi (Nhẳng keng)

A. Từ 20 – 30 (Tứ nghỉ chiệp thảu phà chiệp) B. Từ 30 – 40 (Tứ phà chiệp thảu phẩy chiệp) C. Từ 40 – 60 (Tứ phẩy chiệp thảu lụa chiệp) D. Trên 60 (Tứ lụa chiệp nhẳng miền tá phảo)

3. Địa bàn sinh sống (Tỏng diêm)

A. Thị trấn (Thị trấn) B. Nông thôn (Lắng chàng) C. Miền núi (Tầy hăng)

4. Trình độ học vấn (Nhầu chòi sầu dẳng) A. Trên đại học (Hăng hơn Đại học) B. Đại học (Đại học) C. Cao đẳng (Cao đẳng) D. Trung cấp (Trung cấp) E. Trung học (Trung học) F. Không biết, không nhớ (Má híu, má chẳng)

5. Nghề nghiệp (Sị chẩu)

A. Công chức, viên chức (Chẩu sị diêm cơ quan) B. Làm trong doanh nghiệp (Chẩu sị diêm doanh nghiệp) C. Đã về hưu (Đạ duẩn hưu) D. Học sinh, sinh viên (Họ seng, sinh viên) E. Làm nghề tự do (Chẩu nghề tự do) F. Không nghề nghiệp (Má mài sị chẩu) G. Khác nếu có ghi rõ ....... (Khằn lềnh hảy cóng mài vả đọ .......................) B. NỘI DUNG KHẢO SÁT (LẦY NHẪU LÓ HÍU)

Câu hỏi 1: Gia đình ông/bà hiện tại có các phƣơng tiện truyên thông nào?

A. Tivi B. Máy tính có kết nối internet C. Đài D. Khác (nếu có ghi rõ......)

111

Câu hỏi 2: Mức độ theo dõi các chƣơng trình tiếng Dao ở Đài PT-TH Lạng Sơn của qúy ông/bà là nhƣ thế nào? (chọn 1 đáp án) (Sị tắng mẳng coó lầy chìng dìu

miền vả diêm Đài PT- TH Lạng Sơn, mủa tòi nây bế ây hải? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Hàng ngày (Mằng duần) B. Một vài lần/tuần (Chỉa luần diêm tuần) C. Một vài lần/tháng (Chỉa luần diêm hả) D. Một vài lần/năm (Chỉa luần diêm nhẳng) E. Không bao giờ (Má mẳng)

Nếu không xem chƣơng trình tiếng dân tộc xin chuyển sang câu 14 (Hảy cóng

má mẳng lầy chìng dìu miền vả bế chủi quỷa chẩu chiệp phẩy)

Câu hỏi 3: Qúy ông/bà quan tâm nhiều đến chuyên mục nào sau đây? (có thể chọn nhiều phƣơng án) (Diêm chỉa chuyên mục gang nái, mủa tòi liều phiêm thảu hải chuyên mục? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Chính sách cuộc sống (Chính sách diêm nhàn lầu) B. Phóng sự (Phóng sự) C. Gương sáng cộng đồng (Nom mềnh tàu giăng diêm tầm chuổng) D. Nét đẹp vùng cao (Mũi tìu duẩy diêm tầy hăng) E. Giữ gìn bản sắc văn hóa (Siếu chiến cóo nom vuồn mềnh) F. Khoa học kỹ thuật (Khoa học kỹ thuật)

Câu hỏi 4: Qúy ông/bà có thấy nội dung các chƣơng trình có rõ ràng và dễ hiểu không? (xin chọn 1 phƣơng án) (Mủa tòi puột lầy nhẫu diêm coó lầy chìng đọ đàng má kèng cắp híu tú hẩy má kèng? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Có (Tú á) B. Không (Má kèng tú) C. Lí do khác nếu có ghi rõ ............ (Còn pẻng khằn lềnh hảy cóng mài vả

đọ.....................)

Câu hỏi 5: Theo quý ông/bà thông tin trong chƣơng trình truyền hình tiếng Dao có tin cậy hay không? (xin chọn 1 phƣơng án) (Ây mủa tòi, lầy nhẫu diêm lầy chìng

truyền hình dìu miền vả siển tú má? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Rất tin cậy (Chiên siển tú) B. Tin cậy (Siển tú) C. Chưa đáng tin cậy (Má kèng siển tú) D. Không tin cậy (Má siển tú)

Câu hỏi 6: Khi xem chƣơng trình tiếng Dao, quý ông/bà hiểu thêm về điều gì?(xin chọn 1 phƣơng án) (Khi mẳng lầy chìng dìu miền vả, mủa tòi híu tú thim duẩn hải

112

muồn? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Có thêm nhiều kiến thức chung (Híu tú duẩn thắm muồn) B. Nắm được Chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước (Híu tú chủ trương, kiùng kiắu Đảng nây, chính sách pháp lỉng cúa

chàng nây)

C. Nâng cao niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chống lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch (Mài nhấu siển pịa Đảng, cúa chàng, híu bùng sím kiằn chạ phỏ vại cách mẹng)

D. Mở rộng sự hiểu biết về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương, cả nước và trên thế giới (Tò hăng nhầu chòi duẩn kìa tìng, chính trị, vuồn

mềnh, xà hội diêm tầy pung, diêm cùa nhùa cúa cắp diêm lùng đía)

E. Nắm được chính sách dân tộc (Híu tú chính sách dân tộc) F. Giúp nâng cao dân trí và hưởng thụ văn hóa (Pang tò hăng nhầu chòi sầu

dẳng)

G. Tăng cường sự hiểu biết và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất (Tò hăng nhầu chòi cắp híu lổng coó tiến bộ khoa học kỹ thuật pịa

chẩu nhằn)

H. Theo dõi tin tức thời sự (Tắng mẳng coó nom phiển kiom) I. Học tập cách ứng xử, tu dưỡng đạo đức (Hụ tụ tò hăng nhầu chòi diêm dìa

lầu)

J. Để biết các thông tin thực tế hàng ngày (Liều híu tú coó nom phiển chiên sị

hòng noi)

K. Giải trí (Mẳng liều pun nhầu chòi huyền hấy) L. Để giết thời gian (Tú khủng bế mẳng) M. Lợi ích khác nếu có ghi rõ.......................... (Tìu lậy khằn lềnh hảy cóng mài

vả đọ.......................................)

Câu hỏi 7: Nội dung các chƣơng trình truyền hình tiếng Dao đã đáp ứng nhu cầu thông tin của quý ông/bà nhƣ thế nào? (xin chọn 1 phƣơng án) (Lầy nhẫu coó lầy chìng truyền hình dìu miền vả đạ chẩu tú ây mồng thông tin mủa tòi nây má kèng? (Diêm

chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Đáp ứng đúng và kịp thời (Đạ chẩu tú ây mồng cắp lộp sị) B. Đáp ứng đúng nhưng chưa kịp thời (Chẩu tú ây mồng si má kèng lộp sị) C. Chưa đáp ứng (Má kèng chẩu tú ây mồng)

Câu hỏi 8: Nội dung chƣơng trình truyền hình tiếng Dao có tác động nhƣ thế nào tới nhận thức của quý ông/bà?(xin chọn 1 phƣơng án) (Lầy nhẫu lầy chìng truyền hình dìu miền vả, pang puồn chẩu thẩy viền nhầu chòi mủa tòi má? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

113

A. Tác động tích cực (Chiên lổng) B. Tác động không tích cực (Má lổng) C. Không tác động gì (Má hay thẩy viền tú đị muồn) D. Không rõ (Má đọ) E. Lí do khác nếu có ghi rõ.........................(Còn pẻng khằn lềnh hảy cóng mài

vả đọ .................................)

Câu hỏi 9: Mức độ áp dụng những nội dung của chƣơng trình này trong các

hoạt động liên quan đến học tập, nghiên cứu, ứng dụng sản xuất của quý ông/bà là nhƣ thế nào? (xin chọn 1 phƣơng án) (Diêm hụ tụ, chẩu nhằn, mủa tòi sử lổng tú coó lầy

nhẫu diêm lầy chìng dìu miền vả má? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Sử dụng cả (Sử lổng tú liu) B. Sử dụng một phần, vì....... (Sử lổng dật puần, vẩy.............) C. Không thể sử dụng, vì........ (Má sử lổng tú, vẩy................)

Câu hỏi 10: Thời điểm, thời lƣợng phát sóng những chƣơng trình này có phù hợp với quý ông/bà không? (xin chọn 1 phƣơng án) (Sì hù phát sóng coó lầy chìng nài, phù họp cắp mủa tòi má kèng? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Rất phù hợp (Chiên phù họp) B. Phù hợp (Phù họp) C. Không phù hợp (Má kèng phù họp) D. Lí do khác nếu có ghi rõ.........(Còn pẻng khằn lềnh hảy cóng mài vả

đọ..............)

Câu hỏi 11: Theo quý ông/bàthời điểm tốt nhất trong các ngày phát sóng những chƣơng trình này để đến với đông đảo công chúng là lúc nào?(xin chọn 1 phƣơng án) (Ây mủa tòi, sì hù lổng nhất liều phát sóng coó lầy chìng nài bế hải chằn? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Buổi sáng (Lùng đom) B. Buổi trưa (Lùng án) C. Buổi tối (Lùng muống)

Câu hỏi 12: Theo quý ông/bàviệc sử dụng tiếng Dao làm phƣơng tiện truyền

tải thông tin cho các chƣơng trình truyền hình trên Đài PT-TH Lạng Sơn là?(xin chọn 1 phƣơng án) (Ây mủa tòi, sị sử lổng dìu miền nây vả liều tò bủa thông tin diêm coó

lầy chìng truyền hình, diêm Đài PT- TH Lạng Sơn chụ siểm má? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Cần thiết, vì.......................(Chụ siểm, vẩy.........................) B. Không cần thiết, vì.............(Má chụ siểm, vẩy...................)

114

Câu hỏi 13: Theo quý ông/bà phụ đề cho chƣơng trình truyền hình tiếng Dao hiện nay đã đáp ứng nhu cầu xem truyền hình của đồng bào dân tộc hay chƣa?(xin chọn 1 phƣơng án) (Ây mủa tòi, kiằn chây nây dẳng tú vả diêm lầy chìng truyền hình dìu miền vả, ỳ chằn đạ chẩu tú ây mồng mằng truyền hình diêm mủa tòi chụ miền má kèng? (Diêm chỉa chẩu

vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Đã đáp ứng, lí do............. (Đạ chẩu tú ây mồng, vẩy....................) B. Chưa đáp ứng, lí do......... (Má kèng chẩu tú ây mồng, vẩy....)

Câu hỏi 14: Quý ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về hình ảnh, âm thanh trong các chƣơng trình truyền hình tiếng Dao?(xin chọn 1 phƣơng án) (Mủa tòi mẳng tài ây hải duẩn coó nom phảng diêm coó lầy chìng truyền hình dìu miền vả? (Diêm chỉa chẩu vả

gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Rất tốt (Dất lổng) B. Tốt (Lổng) C. Tương đối tốt D. Không tốt (Má lổng) E. Rất không tốt (Má lổng đị đíng)

Câu hỏi 15: Qúy ông/bà thƣờng theo dõi chƣơng trình nào trên Đài PT-TH Lạng Sơn?(xin chọn 1 phƣơng án) (Mủa tòi hay mẳng hải lầy chìng, diêm Đài PT-TH

Lạng Sơn? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Thời sự (Thời sự) B. Phóng sự/phim tài liệu (Phóng sự/ phim tài liệu) C. Chuyên đề/tạp chí (Chuyên đề/ tạp chí) D. Văn hóa, nghệ thuật (Vuồn mềnh, nghệ thuật) E. Thể thao (Thể thao) F. Phim truyện (Phim truyện) G. Đáp án khác nếu có ghi rõ........(Đáp án khằn lềnh hảy cóng mài vả

đọ..................)

Câu hỏi 16: Theo qúy ông/bà không theo dõi chƣơng trình tiếng Daotrên Đài PT-TH Lạng Sơn?(xin chọn 1 phƣơng án) (Mủa tòi má mẳng lầy chìng truyền hình dìu

miền vả diêm Đài PT- TH Lạng Sơn vẩy hải muồn? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Không thích xem (Má nắt mẳng) B. Thấy không cần thiết (Má hay chụ siểm) C. Phát không đúng thời điểm (Phát má chuổng sì hù) D. Không đáp ứng được nhu cầu thông tin (Má chẩu tú ây mồng thông tin) E. Thiếu hấp dẫn (Má khù mẳng)

115

Câu hỏi 17: Theo qúy ông/bà nguyên nhân khiến một bộ phận không theo dõi chƣơng trình tiếng Dao trên Đài PT-TH Lạng Sơn là gì?(xin chọn 1 phƣơng án) (Ây

mủa tòi, còn dầu chẩu pun mài puần mủa tòi má mẳng lầy chìng dìu miền vả diêm Đài PT- TH Lạng Sơn bế hải muồn? (Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Nội dung không thiết thực (Lầy nhẫu má chiên sị) B. Chủ đề chưa phong phú, không tiêu biểu (Má kèng mài thắm lầy nhẫu) C. Hình thức chưa đảm bảo chất lượng (Lầy chìng má kèng khù mẳng) D. Chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin (Má kèng chẩu tú ây mồng thông tin) E. Thiếu hấp dẫn (Má pển mẳng) F. Lí do khác nếu có..........(Còn pẻng khằn lềnh hảy cóng mài vả đọ.............)

Câu hỏi 18: Nếu chƣơng trình tiếng Dao trên Đài PT-TH Lạng Sơn có sự thay đổi, nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình thì quý ông/bà có xem không?(xin chọn 1 phƣơng án) (Piấy lầy chìng dìu miền vả diêm Đài PT- TH Lạng Sơn thẩy viền, mủa tòi tắng mẳng má?( Diêm chỉa chẩu vả gang nái, khằn kín ỏi dật chẩu nưng)

A. Có (Mẳng) B. Có thể xem nếu chương trình thay đổi (Piấy thẩy viền bế mẳng) C. Không xem với bất kỳ sự thay đổi nào (Thẩy viền chây má mẳng)

Xin cám ơn quý ông/bà đã nhiệt tình cộng tác với chúng tôi! (Chiên híu ên mủa tòi đạ liều sì hù pang đợ dia bua)

116

PHỤ LỤC 2:

KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC

CỦA ĐÀI PT-TH LẠNG SƠN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC ĐỊA PHƢƠNG

Để đề tài này được hoàn thành một cách trọn vẹn, khách quan và chính xác hơn,

chúng tôi đã phát phiếu khảo sát nhằm thăm dò ý kiến những ý kiến của công chúng về vấn đề “Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng

dân tộc địa phương”. Tổng số phiếu tác giả phát ra là 400 phiếu thu về 400 phiếu. Đối tượng công chúng được thăm dò bao gồm: công chức, viên chức (chiếm 20%), làm trong

doanh nghiệp (10%), không nghề nghiệp (chiếm 10%) học sinh, sinh viên (5%), đã về hưu (6%), làm nghề tự do (chiếm 40%), khác (chiếm 9%); có độ tuổi từ 20-30 (chiếm 16%), từ

30-40 tuổi (chiếm 35%), từ 40-60 tuổi (chiếm 37%), trên 60 tuổi (chiếm 12%); trong 400 phiếu thu về có 192 phiếu là nam giới (chiếm 48%), 208 phiếu là nữ giới (chiếm 52%);

Đánh giá sự hiểu biết, nhận thức của công chúng về “Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương” qua kết quả

thu được từ phiếu khảo sát, tác giả luận văn có nhận định rằng: “đại đa số công chúng đều đã đánh giá “truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn trong thời gian qua đã có

những tác động tích cực đến đời sống, sản xuất và sinh hoạt đối với họ”.

Kết quả khảo sát đƣợc thể hiện cụ thể qua các bảng thống kê dƣới đây:

117

BẢNG THỐNG KÊ PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

Stt

Nội dung

Chi Lăng

Lộc Bình Hữu Lũng

Văn Lãng

Tỷ lệ chung

4 đơn vị

SL

SL

TL %

SL TL %

SL TL %

TL %

1.

Gia đình ông/bà hiện tại có các phương tiện truyên thông nào?

7,3

30

7,5

27

6,8

7,0

114

28

28,5

29

Tivi

4,3 7,5 6,8

20 30 24

4,0 7,5 6,0

16 29 25

4,0 7,3 6,3

4,0 7,5 5,5

69 119 98

16 30 22

17,3 28,5 24,5

17 30 27

2.

19

25

6,0 6,3 4,8 11,5 50 12,5 42 10,5 4,5 4,0 3,8 2,5 2,5 2,3 1,3 1,3 1,5

18 10 5

16 10 5

5,0 88 11,3 183 66 4,3 41 3,0 22 1,5

20 45 17 12 6

22,0 45,7 16,5 10,3 5,5

24 46 15 9 6

Máy tính có kết nối internet Đài Khác Qúy ông/bà có hay xem chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn hay không? Hàng ngày Một vài lần/tuần Một vài lần/tháng Một vài lần/năm Không bao giờ

3.

Qúy ông/bà quan tâm nhiều đến chuyên mục nào sau đây?

15,0 63 15,8 55 13,8 16,3 66 16,5 70 17,5 16,5 15,3 65 16,3 66 17,5 73 18,3 74 18,5

14,8 237 17,0 268 16,3 256 17,8 288

59 68 64 71

59,3 67,0 64,0 72,0

60 64 61 70

Phóng sự Gương sáng bản làng Nét đẹp vùng cao Tiếng nói từ thôn bản

118

Ẩm thực xứ lạng

61

15,3 63 15,8 60 15,0

62

15,5 246

61,5

4.

84 10 6

21,0 81 20,3 79 19,8 3,3 2,8 2,5 2,0 2,0 1,5

13 8

11 8

19,5 322 47 3,3 31 2,3

80,4 11,8 7,8

78 13 9

5.

24

25

27 61 9 3

6,3 6,0 6,8 15,3 59 14,8 58 14,5 3,3 3,0 2,3 1,0 1,3 0,8

12 5

13 4

98 5,5 15.0 238 48 3,5 16 1,0

24,5 59,5 12,0 4,0

22 60 14 4

6.

88 70

22,0 83 20,8 85 21,3 17,3 67 16,8 17,5 69

20,5 338 17,3 275

84,5 68,8

82 69

61

15,3 69 17,3 68 17,0

66

16,5 264

66,0

66

16,5 65 16,3 66

16,5

64

16,3 261

65,3

Qúy ông/bà có thấy nội dung các chương trình có rõ ràng và dễ hiểu không? Có Không Lí do khác Theo quý ông/bà thông tin trong chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có tin cậy hay không? Rất tin cậy Tin cậy Bình thường Không tin cậy Khi xem chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn, quý ông/bà hiểu thêm về điều gì? Có thêm nhiều kiến thức chung Nắm được Chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Nâng cao niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chống lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch Mở rộng sự hiểu biết về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương, cả nước và trên thế giới Nắm được chính sách dân tộc Giúp nâng cao dân trí và hưởng thụ văn hóa Tăng cường sự hiểu biết và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật

74 66 71

18,5 73 18,3 70 17,5 16,5 64 16,3 63 15,8 17,8 73 18,3 70 17,5

71 62 72

17,8 288 15,5 255 18,0 286

72,0 63,8 71,5

119

vào sản xuất Theo dõi tin tức thời sự Học tập cách ứng xử, tu dưỡng đạo đức Để biết các thông tin thực tế hàng ngày Giải trí Để giết thời gian Lợi ích khác

84 71 88 46 9 6

21,0 81 20,3 80 20,0 19,0 17,8 75 18,8 76 22,0 81 20,3 80 20,0 11,5 43 10,8 42 10,5 2,5 2,5 2,3 1,3 1,3 1,5

10 5

10 5

19,8 324 18,5 296 20,5 331 11,0 175 41 3,0 22 1,5

81,0 74,0 82,8 43,8 10,3 5,5

79 74 82 44 12 6

7.

Nội dung các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT- TH Lạng Sơn đã đáp ứng nhu cầu thông tin của quý ông/bà như thế nào? Đáp ứng đúng và kịp thời Đáp ứng đúng nhưng chưa kịp thời Chưa đáp ứng

53 31 16

13,3 48 12,0 56 14,0 6,8 8,0 7,8 4,3 5,0 4,0

27 17

32 20

13,0 209 120 7,5 71 4,5

52,3 30,0 17,7

52 30 18

8.

Nội dung chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có tác động như thế nào tới nhận thức của quý ông/bà? Tác động tích cực Không tác động gì

91 6

22,8 90 22,5 91 22,8 1,3 1,3 1,5

5

5

22,5 362 22 1,5

90,5 5,5

90 6

3

0,8

5

1,3

4

1,0

1,0

16

4,0

4

9.

Không rõ Mức độ áp dụng những nội dung của chương trình này trong các hoạt động liên quan đến học tập, nghiên cứu, ứng dụng sản xuất của quý ông/bà là như thế nào? Sử dụng cả Sử dụng một phần

46 53

11,5 50 12,5 42 10,5 13,3 48 12,0 56 14,0

45 52

11,3 183 13,0 209

45,7 52,3

120

1

0,3

2

0,5

2

0,5

0,8

8

3

2,0

10.

24

23

25 64 8 3

6,3 5,8 6,0 16,0 62 15,5 65 16,3 2,3 2,5 2,0 0,8 1,0 0,8

10 4

9 3

22 63 11 4

5,5 94 15,8 254 38 2,8 14 1,0

23,5 63,5 9,5 3,5

11.

14 23

13 25

3,0 54 100 6,0 16,0 246

15 28 57

3,8 3,3 3,5 5,8 6,3 7,0 14,3 62 15,5 63 15,8

12 24 64

13,5 25,0 61,5

12.

24

26

17 58 22 3

6,0 6,5 4,3 14,5 60 15,0 63 15,8 3,0 3,0 5,5 0,8 1,0 0,8

10 3

10 4

22 60 14 4

89 5,5 15,0 241 56 3,5 14 1,0

22,3 60,2 14,0 3,5

13.

Không thể sử dụng Thời điểm, thời lượng phát sóng những chương trình này có phù hợp với quý ông/bà không? Rất phù hợp Phù hợp Không phù hợp Lí do khác Theo quý ông/bà thời điểm tốt nhất trong ngày để phát sóng chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn để đến với đông đảo công chúng là lúc nào? Buổi sáng Buổi trưa Buổi tối Theo quý ông/bà việc sử dụng tiếng dân tộc làm phương tiện truyền tải thông tin cho các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có cần thiết không? Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết Theo quý ông/bà phụ đề cho chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn hiện nay đã đáp ứng nhu cầu xem truyền hình của đồng bào dân tộc hay chưa? Rất đáp ứng

16

4,3

15

7,0

17

6,8

16

6,5

98

18,0

121

47 30 7

11,8 64 16,0 62 15,5 4,5 4,0 7,5 0,8 1,3 1,8

18 3

16 5

62 17 5

15,5 235 81 4,3 14 1,3

58,2 20,3 3,5

14.

16

18

15 46 27 6 6

4,5 4,0 3,8 11,5 50 12,5 42 10,5 6,8 5,3 6,8 2,0 2,0 1,5 1,3 1,3 1,5

21 8 5

27 8 5

17 45 23 9 6

66 4,3 11,3 183 98 5,8 31 2,3 22 1,5

16,5 45,7 24,5 7,8 5,5

15.

71 47 53 58 57 86 6

17,8 73 18,3 70 17,5 11,8 64 16,0 62 15,5 13,3 48 12,0 56 14,0 14,5 60 15,0 63 15,8 14,3 62 15,5 63 15,8 21,5 83 20,8 84 21,0 2,0 2,0 1,5

8

8

72 62 52 60 64 84 9

18,0 286 15,5 235 13,0 209 15,0 241 16,0 246 21,0 337 31 2,3

71,5 58,2 52,3 60,2 61,5 84,3 7,8

16.

Đáp ứng Bình thường Chưa đáp ứng Quý ông/bà đánh giá như thế nào về hình ảnh, âm thanh trong các chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn? Rất tốt Tốt Bình thường Không tốt Hoàn toàn không tốt Qúy ông/bà thường theo dõi chương trình nào trên Đài PT-TH Lạng Sơn? Thời sự Phóng sự/phim tài liệu Chuyên đề/tạp chí Văn hóa, nghệ thuật Thể thao Phim truyện Đáp án khác Vì sao qúy ông/bà không theo dõi chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn? Không thích xem Thấy không cần thiết Phát không đúng thời điểm

6 6 6

1,5 1,5 1,5

5 5 5

1,3 1,3 1,3

5 5 5

1,3 1,3 1,3

6 6 6

1,5 1,5 1,5

22 22 22

5,5 5,5 5,5

122

6 6

1,5 1,5

5 5

1,3 1,3

5 5

1,3 1,3

1,5 1,5

22 22

5,5 5,5

6 6

17.

27 28 31 24 30 15

6,8 7,0 7,8 6,0 7,5 3,8

21 25 32 19 16 16

5,3 6,3 8,0 4,8 4,0 4,0

27 23 27 25 18 18

6,8 5,8 6,8 6,3 4,5 4,5

5,8 6,0 7,5 5,0 4,3 4,3

98 100 120 88 81 66

24,5 25,0 30,0 22,0 20,3 16,5

23 24 30 20 17 17

18.

Không đáp ứng được nhu cầu thông tin Thiếu hấp dẫn Theo qúy ông/bà nguyên nhân khiến một bộ phận không theo dõi chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn là gì? Nội dung không thiết thực Chủ đề chưa phong phú, không tiêu biểu Hình thức chưa đảm bảo chất lượng Chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin Thiếu hấp dẫn Lí do khác Nếu chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có sự thay đổi, nâng cao chất lượng các chương trình thì quý ông/bà có xem không? Có Có thể xem nếu chương trình thay đổi Không xem với bất kỳ sự thay đổi nào

86 8 6

21,5 83 20,8 84 21,0 2,8 2,8 2,0 1,3 1,3 1,5

11 5

11 5

21,3 338 40 2,5 22 1,5

84,5 10,0 5,5

85 10 6

123

PHỤ LỤC 3:

Nội dung phỏng vấn sâu

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- tự do- hạnh phúc

----------o0o---------- ĐƠN ĐỀ NGHỊ CUNG CẤP THÔNG TIN

Kính gửi:

Nhà quản lý Lãnh đạo Đài

Biên tập viên các đài Bạn xem truyền hình

Tôi là: Vương Sỹ Thành Đơn vị công tác: Đài PT-TH Lạng Sơn

Website: www.langsontv.vn Chức vụ:

Hiện nay, Tôi đang thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ tại Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), Đề tài có tựa

đề như sau: “Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương”. Vì vậy, Tôi làm đơn này kính đề nghị Qúy vị tạo điều kiện hỗ

trợ cung cấp những thông tin cần thiết giúp tôi trong việc khảo sát các nội dung và phương thức báo chí về: Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương. Kèm theo đơn này là các biên bản phỏng vấn sâu các thông

tin tôi cần thu thập trong quá trình khảo sát phục vụ cho việc nghiên cứu của mình.

Rất mong nhận được sự giúp đỡ của Quý vị để tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.

124

BẢN TRẢ LỜI PHỎNG VẤN SÂU Đề tài: “Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với

cộng đồng dân tộc địa phương”.

Thời gian phỏng vấn: tháng 09/2018

1. Dành cho Cấp ủy, chính quyền địa phƣơng 1.1. Ông Triệu Văn Lạng Trƣởng Ban Ban Dân tộc tỉnh Lạng Sơn Câu hỏi:Thưa ông, xin ông cho biết chương trình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có những tác động tích cực như thế nào đối với các cấp ủy, chính quyền địa

phương?

Trả lời: Chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn là một

kênh thông tin bổ ích, hữu hiệu để tuyên truyền những chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là tình hình của địa phương đến đồng bào dân tộc bằng tiếng dân tộc.

Xem chương trình, chúng tôi thấy được những cách làm hay của địa phương về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, từ đó có những giải pháp phù hợp để áp dụng vào điều kiện

của địa phương. Đồng thời, các chương trình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn là nơi lưu trữ những giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc của tỉnh từ đó những giá trị văn hóa của

tỉnh sẽ được giữ gìn và phát huy hơn nữa những giá trị tích cực.

1.2. Ông Hoàng Văn Minh - Phó Chủ tịch UBND huyện Lộc Bình Câu hỏi:Thưa ông, xin ông cho biết chương trình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có những tác động tích cực như thế nào đối với các cấp ủy, chính quyền địa phương?

Trả lời: Chúng tôi thường xuyên theo dõi các chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn. Chương trình không chỉ đem đến cho chúng tôi các thông tin

bổ ích, thiết thực mà còn giới thiệu nhiều cách làm hay, sáng tạo trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo để từ đó các cấp ủy chính quyền của địa phương có thể học tập và làm

theo. Đồng thời còn tuyên truyền, phổ biến những chủ trương mới của Đảng và Nhà nước đến đồng bào dân tộc đang sinh sống và làm việc tại tỉnh.

2. Dành cho Lãnh đạo Đài PT-TH Lạng Sơn 2.1. Ông Hoàng Đình Hôm - Chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Lạng Sơn Câu hỏi:Từ góc độ nhà quản lí, xin ông cho biết làm thế nào để hiệu nâng cao hiệu quả tác động tích cực của chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng

Sơn?

Trả lời: Hướng tới để nâng cao hiệu quả các chương trình truyền hình tiếng dân tộc

ở Đài PT-TH Lạng Sơn, theo tôi:

Thứ nhất là việc thay đổi quan điểm, nhận thức của lãnh đạo Đài, lãnh đạo địa phương về chương trình truyền hình tiếng dân tộc. Quan điểm coi nhẹ hiệu quả của chương trình chính là một trong những trở ngại khiến cho chương trình chưa phát huy hết được

125

hiệu quả của nó.

Thứ hai là Đài PT-TH Lạng Sơn cần đẩy mạnh sản xuất các chương trình văn nghệ,

giải trí.

Thứ ba là Đài PT-TH Lạng Sơn cần đào tạo đội ngũ phóng viên và các cấp lãnh đạo

đài từ trung ương đến địa phương quan tâm hơn nữa trong việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để sản xuất chương trình tốt hơn.

2.2. Ông Nguyễn Đông Bắc - Giám đốc Đài PTTH Lạng Sơn Câu hỏi: Từ góc độ nhà quản lí, xin ông cho biết làm thế nào để hiệu nâng cao hiệu

quả tác động tích cực của chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn?

Trả lời: Đài PT-TH Lạng Sơn sẽ đầu tư thích đáng về kỹ thuật và đào tạo nhân lực. Vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc vốn lâu nay ít được quan tâm chú ý, nhất là đào tạo

về chính trị, vì thế Đài PT-TH Lạng Sơn sẽ quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối

của Đảng đối với báo chí cách mạng. Đồng thời đào tạo, bồi dưỡng cả về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp...

Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Đài tỉnh Lạng Sơn với các Đài PT-TH các địa phương, Đài truyền hình Việt Nam trong việc xây dựng lực lượng, đào tạo nguồn nhân

lực cho việc sản xuất chương trình, mở các lớp tập huấn, đào tạo ngắn và dài hạn về chuyên môn để nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên... để sản xuất chương trình tiếng dân tộc đạt chất lượng như các chương trình

tiếng phổ thông.

Tổ chức mạng lưới cộng tác viên rộng khắp ở các ngành, địa phương, nhằm đảm

bảo tính kịp thời trong thông tin, tuyên truyền. Mở rộng quan hệ phối hợp với các Đài địa phương và Đài bạn – các tỉnh lân cận, Đài trung ương, các công ty quảng cáo, công ty giải

trí, viễn thông để sản xuất các chương trình giao lưu, giải trí...

Nâng cao chất lượng chương trình PT-TH theo hướng bổ ích, thiết thực. Chú trọng

công tác đào tạo lí luận chính trị, quan điểm lập trường, đạo đức người làm báo, nâng cao tay nghề cho đỗi ngũ phóng viên, biên tập viên, quay phim, dẫn chương trình... thông qua

các lớp chuyên ngành Trung ương và khu vực.

3. Dành cho ngƣời trực tiếp sản xuất chƣơng trình truyền hình tiếng Tày -

Nùng, tiếng Dao

3.1. Bà Nông Thị Hảo - Trƣởng phòng Dân tộc, Đài PTTH Lạng Sơn Câu hỏi:Xin chị cho biết làm thế nào để hiệu quả chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn ngày càng có những tác động tích cực và ngày càng thu hút được khán giả?

Trả lời: Để nâng cao hiệu quả chương trình và có những tác động tích cực sao cho

126

ngày càng thu hút được độc giả thì chương trình truyền hình tiếng dân tộc của Đài PT-TH Lạng Sơn trước hết cần phải thay đổi quan điểm nhận thức của những người trực tiếp sản

xuất chương trình, nâng cao vai trò quản lí, không nên xem nhẹ chương trình tiếng dân tộc của các đài địa phương. Bên cạnh đó cần phải xây dựng chiến lược cho các đài địa phương

có kế hoạch tuyển dụng phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên là người dân tộc, đào tạo cơ bản và không ngừng nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ; tiếp tục đầu tư trang thiết

bị cho các chương trình. Đặc biệt, nhà Đài nên có cơ chế thoáng cho đội ngũ cán bộ phóng viên là người dân tộc là những người dân tộc đang trực tiếp tham gia sản xuất chương

trình; cần phải mở rộng đội ngũ cộng tác viên cơ sở.

3.2. Chị Vƣơng Thị Mai Loan- Biên tập viên Đài PTTH Lạng Sơn Câu hỏi:Xin chị cho biết làm thế nào để hiệu quả chương trình truyền hình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn ngày càng có những tác động tích cực và ngày càng thu

hút được khán giả?

Trả lời: Về nội dung chương trình thì cần phải đa dạng hóa thông tin, về hình thức

tuyên truyền cũng phải đổi mới. Cần phải thay đổi quy trình sản xuất một chương trình truyền hình tiếng dân tộc cho phù hợp. Trước hết là tăng cường đội ngũ phóng viên, phát

thanh viên là người dân tộc, có những bài viết dành riêng cho chương trình. Sau đó, cách thức chương trình cũng phải thay đổi theo hướng hiện đại và thích hợp. Đặc biệt là đào tạo

nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về truyền hình.

4. Dành cho Ngƣời dân, ngƣời có uy tín 4.1. Ông Dƣơng Trồng Mình - Chủ tịch UBND xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình

tỉnh Lạng Sơn

Câu hỏi:Xin ông cho biết chương trình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có

những tác động tích cực như thế nào đối với cuộc sống của mọi người?

Trả lời: Chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn là một kênh

thông tin quan trọng để truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phổ biến các kinh nghiệm và thành tựu khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Là nơi

giữ gìn và phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc điều này đặc biệt quan trọng đối với người dân tộc thiểu số của tỉnh. Các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH

Lạng Sơn có đóng góp rất lớn trong việc nâng cao dân trí, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, vận động con em đi học. Chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn đã đem đến

cho đồng bào món ăn tinh thần bổ ích, giúp người dân có điều kiện học hỏi, cải thiện đời sống, phát triển kinh tế.

4.2. Ông Vi Hồng Nhân - Nhà Nghiên cứu văn học dân gian thôn Khòn Lèng,

phƣờng Tam Thanh, Thành phố Lạng Sơn

Câu hỏi:Xin ông cho biết chương trình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có

những tác động tích cực như thế nào đối với cuộc sống của mọi người?

127

Trả lời: Tôi xem chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn có nhiều chuyên mục hướng dẫn cụ thể về cách chăm sóc sức khỏe con cái hoặc cách phòng

trừ dịch bênh... qua những chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn đã giúp chúng tôi nâng cao kiến thức về giữ gìn vệ sinh môi trường xung quanh nhà sạch

sẽ. Bên cạnh đó, chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn đã tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc chưa thông

thạo tiếng phổ thông, còn thiếu thông tin được tiếp cận về các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là việc học tập những điển hình tiến tiến trong phát triển kinh tế, hướng dẫn khoa

học kỹ thuật trong sản xuất, hiểu biết các biện pháp chăm sóc sức khỏe, thực hiện kế hoạch hóa gia đình thông qua các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn.

4.3.Ông Hoàng Quốc Khợ - Ngƣời dân Hồ Nà Pàn, xã Hoàng Văn Thụ, huyện

Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn

Câu hỏi:Xin ông cho biết chương trình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có

những tác động tích cực như thế nào đối với cuộc sống của mọi người?

Trả lời: Các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn ngày càng có chất lượng, phản ánh sâu, chân thực cuộc sống lao động, sinh hoạt của người dân.

Nhất là phổ biến kinh nghiệm sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, giúp người dân ứng dụng vào khoa học kỹ thuật trong sản xuât. Nội dung các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở

Đài PT-TH Lạng Sơn phản ánh đầy đủ về các lĩnh vực đời sống văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp.

4.4. Ông Triệu Viết Khái - Ngƣời Cao tuổi Thôn Pò Pheo, xã Hoàng Việt,

huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn

Câu hỏi: Xin ông cho biết chương trình tiếng Dân tộc trên Đài PT-TH Lạng Sơn có

những tác động tích cực như thế nào đối với cuộc sống của mọi người?

Trả lời: Thôn Pò Pheo, xã Hoàng Việt chúng tôi có cả người Tày, Nùng, Dao sinh

sống, chúng tôi rất háo hức xem các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn. Chương trình đã giúp bà con có một kênh thông tin bổ ích, tuyên truyền đường

lối đến người dân. Tuy nhiên, các chương trình truyền hình tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Lạng Sơn nên cần đề cập nhiều hơn nữa những tấm gương phát triển kinh tế, những kinh

nghiệm thực tiễn trong đời sống của bà con vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, cần tích cực tuyên truyền các nét đẹp văn hóa của bà con, phát huy hơn nữ vai trò của mình trong chống

lại sự mỉa mai một bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc ít người.

128