ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**************************
ĐINH THỊ NHÀN
THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHUYẾN
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**************************
ĐINH THỊ NHÀN
THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHUYẾN
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Hải Yến
HÀ NỘI - 2016
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 4
2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về thơ Nguyễn Khuyến ............................................... 4
2.2. Lịch sử nghiên cứu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến .................................. 6
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 7
4. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 8
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................. 8
7. Cấu trúc của luâ ̣n văn .............................................................................................. 9
NỘI DUNG ............................................................................................................ 10
Chƣơng 1: Một số vấn đề văn học sử và phƣơng pháp tiếp cận cơ bản liên quan
đến đề tài ................................................................................................................. 10
1.1. Những vấn đề cơ bản của phê bình sinh thái và khả năng của nó trong
nghiên cứu văn chương .......................................................................................... 10
1.2. Thiên nhiên trong quan niệm của con người Việt Nam thời trung đại ........ 12
1.2.1. Quan hệ con người và tự nhiên – thế giới bên ngoài theo quan điểm Nho
giáo, Phật giáo và Đạo giáo .................................................................................... 12
1.2.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam ............................... 15
1.3. Những biến động tư tưởng, văn hóa Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX – đầu thế
kỉ XX ........................................................................................................................ 38
Chƣơng 2: Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến – “chốn cũ lui về” ............ 41
2.1. Thơ thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Khuyến .................................... 41
2.2. Thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến khi lui về chốn cũ ................... 46
2.2.1. Hệ thực vật trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến ...................... 47
2.2.2. Hệ động vật trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến ..................... 53
1
2.2.3. Bức tranh tứ thời trong thơ Nguyễn Khuyến ................................................. 56
2.2.4. Nơi chốn trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến .......................... 62
Chƣơng 3: "Phên giậu Hạ Di" giữa "hội Thăng Bình" ..................................... 71
3.1.Phức cảnh thời đại cựu tân qua bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến71
3.1.1. Trạng thái “đối cảnh” và thực trạng “tương dữ/tương cảm” của “thiên-
nhân”trong thơ Nguyễn Khuyến ............................................................................. 71
3.1.2. Thiên nhiên đổ vỡ trong đời sống tinh thần của “hưu quan” Nguyễn Khuyến
............................................................................................................................................ 77
3.2. Một môi sinh bất an - ảnh xạ của bi kịch tinh thần ....................................... 80
3.2.1. Vị thế xuất – xử của Nguyễn Khuyến ............................................................ 80
3.2.2. Môi sinh bất an hay bi kịch tinh thần của Nguyễn Khuyến .......................... 82
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 87
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Là một phần trong đời sống của con người, từ cổ kim Đông Tây, thiên nhiên
thườ ng là đề tài quen thuô ̣c củ a văn chương nghê ̣ thuâ ̣t . Quan hê ̣ này đặc biệt mâ ̣t
thiết ở thời kì tiền hiện đại , tiền công nghiệp khi con người và thiên nhiên còn gắn
bó rất chặt chẽ với nhau . Chính vì vậy , quan sát thiên nhiên trong văn học nghệ
thuật có thể hiểu được quan niệm của người sáng tạo về thế giới bên ngoài , cũng
như nhâ ̣n thứ c củ a ho ̣ về mối quan hệ thiên nhiên-con người. Và cũng như các đề tài
, về môi
khác, sự hiê ̣n diê ̣n củ a thiên nhiên trong văn chương nghê ̣ thuâ ̣t cũng mang tính lịch sử . Ở mỗi thời đại , thiên nhiên sẽ đươ ̣c hình dung và thể hiê ̣n theo những chuẩn mực riêng về tư tưở ng, thẩm mỹ hay văn hoá . 1.2. Thuô ̣c số những tác gia có đi ̣a vi ̣ văn ho ̣c sử đă ̣c biê ̣t cả về tư tưở ng và nghê ̣ thuật viết , Nguyễn Khuyến có khá nhiều tác phẩm viết về thiên nhiên trườ ng sống làng quê [miền Bắc ]. Theo thống kê củ a mô ̣t số nhà nghiên cứ u , thơ
viết về thiên nhiên chiếm một phần ba trong tổng số hơn bốn trăm bài thơ ông để lại
(gồ m cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm ). Bên cạnh đó, lịch sử văn học Việt Nam còn
ghi nhận thơ văn Nguyễn Khuyến là thành tựu cuối cùng của nền văn học trung đại,
là sự giao cắt giữa hai thời đại văn học trung đại và văn học cận hiện đại. Hình ảnh
thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến do đó sẽ có ý nghĩa phản chiếu những chuyển đổi trong cảm xú c , hình dung chủ quan , và nghệ thuật biểu tả của tác giả về thế giớ i tự nhiên bên ngoài , những thừ a tiếp từ hê ̣ hình văn ho ̣c phương Đô ng trung đa ̣i sang phương Tây câ ̣n hiê ̣n đa ̣i ở Viê ̣t Nam .
1.3. Giữa thập niên 90 của thế kỉ XX Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh xã
hô ̣i nhân văn là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa , tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh
thái, và đặt vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên
để nhìn nhận căn nguyên của tình trạng nói trên: "Trước tình trạng môi trường toàn
cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỉ XX Phê bình sinh thái đã ra
đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến
nguy cơ sinh thái, nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên"
3
[28]. Nói cách khác, sự xuất hiện của phê bình sinh thái không chỉ đem lại lợi thế
cảnh tỉnh thái độ ứng xử của con người với tự nhiên mà còn mở ra cách tiếp cận
mới trong nghiên cứu văn học. Khi nói về phê bình sinh thái trong văn chương, nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: "Phê bình văn học sinh thái ra đời từ gợi ý sinh
thái học, khoa học nghiên cứu quan hệ tương sinh, tương tác giữa các sinh thể cùng
mối quan hệ của chúng với môi trường xung quanh. Song phê bình sinh thái thịnh
hành ở nhiều nước phương Tây hiện nay tập trung vào vấn đề dùng tư tưởng sinh
thái để đánh giá văn học trong việc biểu hiện vấn đề sinh thái, khẳng định vai trò
của tự nhiên, xét lại quan điểm con người là trung tâm thời Khai sáng." [53]. Như
vậy, sứ mệnh của phê bình sinh thái là nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, khoa học,
phương thức sống và phương thức sản xuất, mô hình phát triển xã hội của con
người đã ảnh hưởng như thế nào đến hiện tượng xấu đi của môi trường tự nhiên, đã
dẫn đến nguy cơ sinh thái. Từ đây có thể thấy, phê bình sinh thái là một khuynh
hướng mang đậm tinh thần phê phán văn hóa , nó hướng đến cải cách văn hóa tư
tưởng, thúc đẩy cách mạng phương thức sống, phương thức sản xuất, mô hình phát
triển, xây dựng ý thức sinh thái. Còn trong nghiên cứ u văn chương , phê bình sinh thái là hướng tiếp cận các tác phẩm văn chương bằng các tri thức liên ngành , như xã
, đến hành vi đạo đức của con
hô ̣i ho ̣c , văn hóa ho ̣c , khoa học kỹ thuật nhằm tác động đến nhận thức của con ngườ i về sự tương tác củ a chính mình và tự nhiên ngườ i vớ i phần còn lại của thế giới tự nhiên.
Ba lí do mang tính thực tế và phương pháp luận nói trên là cơ sở để chúng tôi
nhìn lại việc thể hiện thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến - một đề tài đã được
nhiều nghiên cứu trước đây bàn luận nhưng phần lớn là ở góc độ bên trong của văn
chương.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về thơ Nguyễn Khuyến
Để khảo sát và làm rõ lịch sử nghiên cứu chung về thơ Nguyễn Khuyến,
chúng tôi dựa vào những nguồn tài liệu sau: Nguyễn Khuyến - về tác gia và tác
phẩm (do Vũ Thanh giới thiệu và tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, Hà Nội,
4
1998), những bài viết về Nguyễn Khuyến trên Tạp chí Văn học từ năm 1998 đến
nay, các luận văn , luận án về Nguyễn Khuyến đươ ̣c thực hiê ̣n ta ̣i mô ̣t số cơ sở đào
tạo tại Hà Nội.
Có thể thấy , kể từ bài viết đầu tiên về Nguyễn Khuyến xuất hiện trên Nam phong tạp chí những năm hai mươi của thế kỉ XX cho đến nay , lịch trình giới thiệu
và nghiên cứu Nguyễn Khuyến đã có gần 100 năm, vớ i nhiều thành tựu.
Nam Trướ c hết là vấn đề văn bản . Sau chù m bài “Thơ cu ̣ Yên Đổ” trên
Phong tạp chí , thơ văn Nguyễn Khuyến đươ ̣c rải rác giớ i thiê ̣u thêm đây đó . Nhưng phải đến n ăm 1984, khi Nguyễn Khuyến tác phẩm - công trình sưu tầm, biên dịch,
giới thiệu về Nguyễn Khuyến do Nguyễn Văn Huyền thực hiện - đươ ̣c xuất bản thì ngườ i đo ̣c mớ i có thể coi là được tiếp cận với một tuyển tập tác phẩm đầy đủ nhất. Từ góc độ văn học sử, người khởi phát nghiên cứu về Nguyễn Khuyến là
Dương Quảng Hàm qua công trình Việt Nam văn học sử yếu (năm 1941). Ông đã
xếp Nguyễn Khuyến vào khuynh hướng trào phúng. Cũng nhìn Nguyễn Khuyến từ
góc độ nhà thơ trào phúng nhưng tập trung khảo sát mảng thơ Nôm của ông , năm
1957, nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn đã dành 20 trang trong Lược thảo lịch sử văn học
Việt Nam. Đây là cuốn sách văn học sử đầu tiên của chế độ mới đánh dấu sự trưởng
thành của ngành nghiên cứu văn học . Đến năm 1959 xuất hiện chuyên khảo về
Nguyễn Khuyến - Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất của Văn Tân vớ i những nhâ ̣n diê ̣n, phân tích, và khái quát tư tưởng, bút pháp, gương mặt của nhà thơ
kiệt xuất này . Năm 1960, xuất hiện công trình nghiên cứu của Lam Giang - Vũ Kỷ
tìm hiểu xu hướng thiên về thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Khuyến. Đặc biệt năm
1971, Xuân Diệu cho ra đời cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến vớ i những cảm bình đô ̣c đáo, khi đi ̣nh danh cho Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương và dân tình Việt
Nam. Sau đó 7 năm, nhà nghiên cứu Phạm Văn Diêu viết cuốn Việt Nam văn học
giảng bình cũng tìm hiểu Nguyễn Khuyến với tư cách là nhà thơ của quê hương và
dân tình Việt Nam nhưng chủ yếu khai thác ở sắc thái trầm lặng, tiêu điều. Không
dừng lại ở đó, năm 1981, 1982, Xuân Diệu cho ra đời liên tiếp 2 tập Các nhà thơ cổ
điển Việt Nam, trong đó có đánh giá của ông về nhà thơ Nguyễn Khuyến: "...sở
5
trường nhất là những nhuần nhị của nét cảnh nông thôn" [16,42]. Ông nâng Nguyễn
Khuyến lên thành "nhà thơ của làng mạc và dân quê" [16,43], nhà thơ "bay bướm
và lãng mạn", "nhà thơ cổ điển duy nhất của mùa thu Việt Nam" [16,45]. Đến năm
1992, Vũ Tiến Quỳnh đã tuyển chọn và cho ra đời cuốn Phê bình, bình luận văn
học Nguyễn Khuyến tổng hợp những bài phê bình, bình luận xuất sắc về thơ ca của
Nguyễn Khuyến.
Viê ̣c nghiên cứ u thơ văn Nguyễn Khuyến đã đa ̣t đươ ̣c mô ̣t thành tựu mớ i vớ i công trình Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ (năm 1994). Đây là chuyên khảo quy mô, thể hiện được tư tưởng đổi mới về cách nhìn của tâ ̣p thể các nhà nghiên cứu xung quanh tác phẩm và tư tưở ng Nguyễn Khuyến . Toàn bộ những thành tựu tìm tòi của giới nghiên cứu trong quãng thời gian
nói trên đã đươ ̣c trưng cất trong Nguyễn Khuyến, về tác gia và tác phẩm [58]. Đây
chính là dữ liệu nghiên cứu có ý nghĩa để năm 2008 Biện Minh Điền thực hiện luận
án tiến sĩ với đề tài: Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Sự hình thành và
những đặc trưng).
Tóm lại, qua các công trình nghiên cứu từ trước đến nay , các nhà nghiên cứu
đều nhất trí ở nhiều điểm khi đánh giá về cuộc đời , sự nghiệp thơ văn của Nguyễn
Khuyến: Đó là một tác giả mang ý nghĩa dấu nối thơ ca trung đa ̣i vớ i hiện đại . Vớ i Nguyễn Khuyến, thơ Nôm nói riêng đã đa ̣t đến giá tri ̣ cổ điển , và thơ ca nói chung đã mang màu sắc dân tộc đô ̣c đáo.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến
Thiên nhiên chiếm một vị trí khá lớn trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn
Khuyến. Do vậy, đây là đề tài quen thuộc nhưng không nhàm chán để các nhà
nghiên cứu tìm hiểu, khai thác. Dưới đây xin được giới thiệu một vài bài viết tiêu
biểu có nghiên cứu về thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến.
Đầu tiên phải kể đến nhận xét của công trình của Lam Giang - Vũ Kỷ
(1960), Giảng luận về Nguyễn Khuyến (NXB Tân Việt, Sài Gòn): "...thơ Nguyễn
Khuyến mang bốn đặc tính giản dị, dễ hiểu, có tính dân tộc thuần túy, hướng về
thiên nhiên...". Kế đó, nhà nghiên cứu Phạm Văn Diêu trong cuốn Việt Nam văn học
6
giảng bình (1978) đã tái hiện khung cảnh trầm lặng tiêu điều dưới ngòi bút của một
nhà nho. Đặc biệt, Xuân Diệu (1998) với bài viết đặc sắc "Đọc thơ Nguyễn
Khuyến" trong cuốn Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - Tập 1 đã nghiên cứu một cách
tinh tế về thơ Nguyễn Khuyến. Ông nhận định: "Nguyễn Khuyến là nhà thơ của dân
tình làng cảnh Việt Nam". Gần với kiến giải trên, trong Thơ văn Nguyễn Khuyến -
Trần Tế Xương, nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn viết: "Gắn bó tha thiết với ngôi nhà
tranh, với mảnh vườn con đó là tấm lòng của Nguyễn Khuyến gần với nông dân
không phải bằng lí luận mà bằng tình cảm, bằng máu thịt của mình ...".
Qua những nghiên cứu công phu đó , các tác giả đã khai thác khá kĩ càng về
đề tài thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên họ mới tiếp cận thiên nhiên
trong thơ ông như một đề tài , một chủ đề chứ chưa tiếp cận nó như một môi sinh
vớ i những vấn đề liên quan.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi vấn đề: Với lí do chọn đề tài như đã xác định ở trên, luận văn sẽ
không đi sâu nghiên cứu toàn bộ những vấn đề xung quanh thơ mang chủ đề thiên
, tức là sự thể nhiên củ a Nguyễn Khuyến mà tìm hiểu từ góc nhìn phê bình sinh thái
hiện thiên nhiên qua ngòi bút của Nguyễn Khuyến như một môi trường sống của tác
giả trong thời kì giao thời.
Trong quá trình khảo sát, để làm rõ thêm các luận điểm , hoă ̣c tăng thêm tính thuyết phu ̣c khi nhâ ̣n đi ̣nh , luận văn sẽ so sánh với mảng sáng tác tương tự của các
tác giả trước và sau ông như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Tế Xương,
Tản Đà.
Phạm vi tư liệu: Như đã trình bày , năm 1984, Nguyễn Văn Huyền thực hiện công trình sưu tầm, biên dịch mang tên Nguyễn Khuyến tác phẩm (NXB Khoa học
xã hội , Hà Nội ). Đây là công trình đầy đủ nhất về tác phẩm củ a Nguyễn Khuyến cho đến nay , vì vậy luận văn sẽ sử dụng cuốn sách này làm nguồn dẫn chính trong suốt quá trình triển khai các vấn đề . 4. Mục đích nghiên cứu
7
Khảo sát vấn đề thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến , luâ ̣n văn sẽ làm rõ : 1) Thiên nhiên, với Nguyễn Khuyến , có ý nghĩa ra sao và liên quan thế nào v ới
hành xử xã hội-đạo đứ c-thẩm mỹ củ a nhà thơ; 2) Mối quan hê ̣ đó chi ̣u quy định như thế nào từ thế giớ i quan và nhân sinh quan của tác giả. Tất cả những ý tưở ng trên sẽ đươ ̣c đă ̣t trong khuôn khổ thờ i đại mà Nguyễn Khuyến sống và hành đạo . Từ những gơ ̣i ý củ a phê bình sinh thái , luâ ̣n văn sẽ tìm hiểu thiên nhiên như
mô ̣t môi sinh tự nhiên bên ngoài con ngườ i và như mô ̣t phần củ a môi sinh xã hô ̣i
qua tâm thế củ a tác giả .
5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Thực hiê ̣n đề tài, chúng tôi sử dụng hai cách tiếp cận
chính là:
Phương pháp nghiên cứu văn học sử
Đây là một đề tài văn học sử nên viê ̣c phân tích từ ng đơn vi ̣ tác phẩm hoă ̣c
đánh giá chú ng sẽ đươ ̣c đă ̣t trong hoàn cảnh xuất hiê ̣n củ a chú ng.
Phương pháp nghiên cứu phê bình sinh thái
Phương pháp nghiên cứu này là mô ̣t tham chiếu mới , cho phép luâ ̣n văn mở
rô ̣ng thêm góc quan sát thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến .
Cả hai phương pháp trên sẽ được cụ t hể hóa qua các thao tác : khảo sát, phân
tích, thống kê , miêu tả , so sánh đối chiếu giú p cho luâ ̣n văn có đươ ̣c kết luâ ̣n sau
cùng một cách thuyết phục.
6. Đóng góp của đề tài
Về khoa học
Trên phương diện lí thuyết, kết quả của luận văn góp phần kiểm định hướng
tiếp cận Phê bình sinh thái trong văn học.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần tìm kiếm một diễn giải mới về
thơ thiên nhiên của Nguyễn Khuyến.
Về thực tiễn
Do tính cấp thiết và giá trị nhân văn sâu rộng, vấn đề môi sinh đã được đưa
vào các giờ "Giáo dục công dân" hoặc các giờ học lồng ghép ở nhà trường phổ
thông.
8
Với tư cách là nhà thơ trung đại Việt Nam nổi tiếng giai đoạn cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX, thơ Nguyễn Khuyến đã được giảng dạy thường xuyên trong
chương trình văn học của nhà trường từ phổ thông đến đại học. Đề tài vì vậy còn
mang một ý nghĩa thiết thực đối với việc giáo dục môi trường sinh thái ở bậc học
phổ thông qua văn học.
7. Cấu trúc của luâ ̣n văn
Ngoài phần MỞ ĐẦ U , KẾ T LUẬN , và TÀI LIỆU THAM KHẢO , luâ ̣n
văn sẽ gồm 3 chương như sau:
Chƣơng 1. Mô ̣t số vấn đề văn ho ̣c sƣ̉ và phƣơng phá p tiếp câ ̣n cơ bả n liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến – “chốn cũ lui về”
Chƣơng 3: "Phên dậu Hạ Di" giữa "hội Thăng Bình"
9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
Một số vấn đề văn học sử và
phƣơng pháp tiếp cận cơ bản liên quan đến đề tài
1.1. Những vấn đề cơ bản của phê bình sinh thái và khả năng của nó trong
nghiên cứu văn chương
Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên
70 của thế kỉ XX, phê bình sinh thái đã ra đời ở Mỹ với sứ mệnh cao cả là phân tích
chỉ ra căn nguyên văn hóa, tư tưởng dẫn đến nguy cơ đó. Như vậy, ban đầu phê
bình sinh thái vốn là vấn đề chính trị, xã hội. Năm 1985, Hội ngôn ngữ học hiện đại
cho xuất bản cuốn sách do Frederick O. Waage chủ biên mang tên Dạy văn học môi
trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng phát triển (Teaching Environmental
Literature: Materials, methods, resources). Cuốn sách này phát huy tác dụng lớn
trong việc kích thích giảng dạy các môn học liên quan đến sinh thái và tiến hành
nghiên cứu lĩnh vực này , mà văn chương là một trong những môn học , chuyên
ngành được coi là đặc biệt quan trọng.
Trong bài dịch của Hải Ngọc "Những tương lai của phê bình sinh thái và văn
học", nhà nghiên cứu Karen Thornber cho rằng: "Phê bình sinh thái thường được
định nghĩa khá rộng" [64, 3]. Quả đúng như vậy, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã tìm
đến Phê bình sinh thái và họ đã cố gắng định nghĩa về nó. Scott Slovic xem đó là
khuynh hướng phê bình "khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về môi trường sinh thái và
quan hệ giữa con người - tự nhiên trong bất kỳ văn bản văn chương nào, kể cả
những văn bản (thoạt nhìn) dường như không để ý gì đến thế giới con người [64, 3].
Trong lời mở đầu cuốn sách Viết về môi trường: phê bình sinh thái và văn học, R.
Kerridge viết: Phê bình sinh thái là "một môn phê bình văn hóa của chủ nghĩa môi
trường mới trong văn học " [4, 6]. Dẫn nhâ ̣p quan niê ̣m phê bình này vào Viê ̣t Nam , Trần Đình Sử khẳng đi ̣nh: "Phê bình sinh thái ra đời từ gợi ý của sinh thái học, khoa
10
nghiên cứu mối quan hệ tương sinh, tương tác giữa các sinh thể cùng mối quan hệ
của chúng với môi trường vật chất xung quanh." [52, 1]. Trong số rất nhiều giới
định về thuật ngữ Phê bình sinh thái, định nghĩa được nhiều người tiếp nhận là định
nghĩa của một trong những người chủ chốt trong việc khởi xướng và phát triển Phê
bình sinh thái Mỹ - Cheryll Glotfelty. Năm 1996, bà đã viết trong cuốn sách Văn
bản Phê bình sinh thái: "Phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ con người và
môi trường vật chất xung quanh. Cũng giống như phê bình nữ quyền từ góc độ giới
tính mà phê bình ngôn ngữ và văn học. Phê bình mác xít đem phương thức sản xuất
và tự giác giai cấp làm nguyên tắc đọc hiểu văn bản, thì phê bình sinh thái lấy tư
tưởng quả đất làm trung tâm để phê bình văn học." [52, 7]
Như vậy, phê bình văn học sinh thái là mô ̣t kiểu nghiên cứ u liên ngành , kết hợp giữa Sinh thái học với Văn học nghệ thuật, giống như Phê bình Văn hóa học
hay Phê bình Phân tâm học. Nhưng "Phê bình sinh thái không phải đem phương
pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc phương pháp nghiên
cứu của bât kì khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học, "nó chỉ dẫn nhập
quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học mà thôi" [52].
Mô ̣t điểm nữa cũng cần chú ý ở đây là phê bình sinh thái xác định có hai loại chính là: Phê bình sinh thái tự nhiên và phê bình sinh thái tinh thần. Nếu phê bình
sinh thái tự nhiên nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thì phê bình
sinh thái tinh thần đặt ở một bình diện khác: nghiên cứu mối quan hệ giữa môi
trường tinh thần xã hội đối với đời sống tinh thần, với sáng tác văn học, tác động
của văn học đối với môi trường tinh thần của con người. Ở phương Tây nói đến phê
bình văn học sinh thái trước hết là nói đến phê bình văn học sinh thái tự nhiên. Tuy
nhiên, xu thế hiện nay, theo nhà triết học người Pháp Pierre Teilhar de Chardin yêu
cầu phải dành cho hiện tượng tinh thần một vị trí xứng đáng trong quá trình tiến hóa
của nhân loại, chứ không phải chỉ môi trường tự nhiên, sự lựa chọn tự nhiên. Phê
bình sinh thái tinh thần là kiểu phê bình lấy tư tưởng sinh thái làm trung tâm, qua đó
giải quyết các vấn đề sinh thái xã hội, xác lập lí tưởng sống cao đẹp, khắc phục các
ô nhiễm tinh thần, làm cho tinh thần trong sạch, cân bằng, góp phần làm ổn định xã
11
hội. Ở đây, văn nghệ được xem như một sinh thể, các yếu tố của môi trường văn
hóa tinh thần có tác dụng nuôi dưỡng, tác động đến văn nghệ gọi là môi trường sinh
thái văn nghệ. Con người là động vật văn hóa, vì có sự tương tác của ba cơ chế
thích nghi sinh thái học: cơ chế động lực tự duy trì sinh tồn của bản thân con người;
con người đòi hỏi một xã hội có giá trị sinh tồn cho nó; con người thúc đẩy sự nhận
thức các hiện tượng có quy luật của thế giới. Ba cơ chế này có giá trị phổ quát giải
thích sự ra đời của văn hóa, và đó cũng là mấu chốt của tính phổ biến của văn hóa
và văn học nghệ thuật nói chung.
Có thể thấy, so với các khuynh hướng nghiên cứu văn học khác thì phê bình
văn học sinh thái vẫn là một khuynh hướng nghiên cứu mới, có sự phát triển rất đa
dạng trong các lĩnh vực và đặc biệt không bị gò bó, khuôn phép trong bất kì một
phương pháp đơn lẻ nào. Học giả Timothy Clark đã nhận định: "Phê bình sinh thái
tạo ra một khu vực hoạt động rất năng động, chưa đánh giá hết được, nơi các vấn
đề, các chuyên ngành học thuật chính trị giao cắt nhau. Sức mạnh tiềm tàng của nó
không phải chỉ như một nhánh phê bình văn học khác, được đặt bên trong những
biên giới thiết chế đã có sẵn mà ở chỗ nó là một cách tiếp cận mang tính khiêu
khích cả trong việc phân tích văn học lẫn những vấn đề vừa động hiện, vừa che
khuất lẫn nhau của khoa học, đạo đức, chính trị và thẩm mĩ" [53].
Cũng diễn đạt tinh thần này nhưng bằng một ngôn ngữ khác, nhà nghiên cứu
Đỗ Văn Hiểu cho rằng: "Hệ sinh thái bị tàn phá là một hiện tượng toàn cầu nên cách
ứng xử của văn chương đối với tình trạng bị hủy hoại của môi trường thường vượt
qua những nền văn hóa sản xuất và có thể đem những cách ứng xử này cùng hình
thành nên các mạng lưới chủ đề và khái niệm liên văn hóa. Xem xét những mạng
lưới này sẽ là một phần thực hành Phê bình sinh thái, nếu không muốn nói đó là
tương lai của văn học" [28, 63].
1.2. Thiên nhiên trong quan niệm của con người Việt Nam thời trung đại
1.2.1. Quan hệ con người và tự nhiên – thế giới bên ngoài theo quan điểm
Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo
12
Ba hệ tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đều thống nhất với nhau ở
quan điểm coi trọng thiên nhiên, đề cao xu hướng hòa vào thiên nhiên. Bên cạnh đó,
mỗi hệ tư tưởng trên lại có điểm nhấn riêng thể hiện sự khác biệt. Quan hệ con
người và tự nhiên – thế giới bên ngoài theo quan điểm Nho giáo là thiên nhân tương
dữ, giao hòa; theo quan điểm của Phật giáo là thiên nhiên và con người bình đẳng,
Phật giáo rất coi trọng đức hiếu sinh; còn quan điểm của Đạo giáo có nét độc đáo là
coi trọng tự nhiên, lấy tự nhiên làm khuôn mẫu, thậm chí coi thiên nhiên như là tiêu
chuẩn cao nhất để con người hướng đến và khuyến khích con người hưởng thụ thế
giới tự nhiên.
Trong thế giới rộng lớn bên ngoài con người - vũ trụ, thực thể khách quan có
hàm chứa một thực thể là thiên nhiên. Như vậy, quan niệm về mối quan hệ con
người - thiên nhiên (hay vũ trụ - giới tự nhiên) thực chất là chịu sự quy ước của thế
giới quan.
Như đã nói ở trên, khi bàn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên - thế
giới bên ngoài nói chung, thiên nhiên nói riêng, theo quan niệm của Nho giáo là:
Thiên nhiên tương dữ, giao hòa. Suốt trong lịch sử phát triển của mình, kinh điển
Nho gia luôn khẳng định điều này. Và "kênh" phát lộ cái nhìn này ở những khía
cạnh đa dạng nhất chính là văn chương: "Nếu như trong cuộc sống của các nhà Nho
luôn tự buộc mình không ngừng phải vươn lên, vượt qua sự chi phối của hoàn cảnh
để tu luyện nhân cách bản thân, thì thiên nhiên của họ cũng là một thiên nhiên luôn
phải khắc phục, chống đỡ khó khăn do môi trường xung quanh đem lại để vươn lên.
Từ quan điểm trên của Nho gia, dễ hiểu vì sao trong thơ họ hình tượng tùng, cúc,
trúc, mai lại xuất hiện nhiều đến vậy" [48, 11].
Giống như Nho giáo , Đạo giáo cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng "Thiên nhân
hợp nhất" của Kinh Dịch, nhưng Đạo giáo đặt thiên nhiên, vũ trụ cao hơn thế giới
nhân sinh. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên - thế giới bên ngoài, theo quan
niệm của Nho giáo là: Thiên nhiên tương dữ, giao hòa và là trạng thái hợp nhất giữa
con người và phẩm chất đạo đức con người. Còn mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên - thế giới bên ngoài, theo quan niệm của Đạo giáo là: Coi trọng thiên nhiên,
13
lấy thiên nhiên làm khuôn mẫu cho con người "Nhân pháp Đi ̣a, Đi ̣a pháp Thiên ,
Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên" (Người bắt chướ c /theo Đất, Đất bắt
chướ c/theo Trờ i, Trờ i bắt chướ c /theo Đạo, Đạo bắt chướ c/theo Tự nhiên. Lão Tử -
Đạo đức kinh). "Đạo pháp tự nhiên" không chỉ chủ trương xuất thế, bất tranh, tri
túc, không bộc lộ sắc sảo mà còn yêu cầu con người phải coi trọng tự nhiên, lấy tự
nhiên làm khuôn mẫu. Trong Nam hoa kinh, Trang Tử có nhiều thiên thể hiện sự
yêu thích của con người do cảnh tượng thiên nhiên mang la ̣i : "Sơn lâm dư? Cao
nhưỡng dư? Sử ngã hân hân nhiên nhi thủy dư? " (Núi rừng ư? Gò đất cao bên sông
ư? Tất cả đều làm ta vui vẻ, vậy vui vẻ ở đâu? (Bắc chí du). Cả Lão Tử và Trang Tử
cho rằng: con người chỉ hòa vào thiên nhiên mới tìm thấy lạc thú. Con người hợp
nhất với thiên nhiên, lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm chủ, mặc sức tận hưởng vẻ đẹp của
thiên nhiên. Tư tưởng Lão – Trang, chủ trương quay về với tự nhiên nhằm đạt tới sự
“tiêu dao phóng nhiệm”. Nó chủ trương một cuộc sống không bị câu thúc bởi thế
tục, không vương vấn chuyện đời, cổ súy cho lối sống thuận theo tự nhiên, quên
thân mình, không ưu hoạn (Trang Tử - Nam hoa kinh).
Trong quan niệm của Đạo giáo, cái đẹp mang bản sắc tự nhiên, siêu việt,
công lợi, vô vi tự mỹ. Theo đó, cái đẹp của nhân cách chủ thể sáng tạo được giải
phóng. Đó là cái đẹp tinh thần nằm ngoài mọi ràng buộc. Đạo giáo mở đường cho
con người thâm nhập vào bề sâu cốt lõi của sự sống, hướng con người trở về với
bản tính nguyên sơ của mình [67, 57].
Khác với Nho giáo và Đạo giáo, khi bàn về mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên, quan điểm của Phật giáo là thiên nhiên và con người bình đẳng. Thậm chí,
trong con người có thiên nhiên và ngược lại. Ví dụ: Cái đẹp trong quan niệm của
Phật giáo là sự hòa tan giữa con người với thiên nhiên, không còn ranh giới giữa
"ta" và "vật", giữa "nội tâm" và "ngoại cảnh"; con người tồn tại trong trạng thái như
nhiên "đối cảnh vô tâm". Dáng vẻ, vần xoay của thiên nhiên: mây, gió, núi, trăng,
hoa... được miêu tả không để hiểu vấn đề "thời tiết" của tự nhiên mà như chính con
đường sinh - tử, sắc - không, hữu - vô... Theo Trần Văn Cường, Phật giáo quan
niệm: Con người là một phần của thiên nhiên, con người sinh ra từ chính các yếu tố
14
của thiên nhiên: "Con người là hợp thể của Lục giới (Lục đại). Lục giới (sad
dhatvah) là sáu yếu tố hình thành con người gồm: đất, nước, gió, lửa, không, thức
[13, 37].
Cùng chung quan niệm con người và thiên nhiên có mối liên hệ chặt chẽ như
trên nhưng xuất phát từ ý thức về môi sinh hiện đại, một số nhà Phật học quốc tế
gần đây đã chủ trương: Thiên nhiên là một phần cuộc sống của con người, nhân loại
lệ thuộc vào môi trường sinh thái. Các thái độ, hành vi được ươm mầm nội tại trong
mỗi con người. Vấn đề cơ bản được quan tâm ngày nay về đạo đức chính là mối
quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Cùng với đà phát triển, con người vẫn đang
cố gắng kiểm soát và làm chủ thiên nhiên, qua đó tận dụng thiên nhiên vì mục đích
hưởng thụ. Hành xử này dẫn đến sự hủy hoại môi trường. Theo các nhà Phật học
hiê ̣n đa ̣i, thiên nhiên có thể sử dụng cho sự hưởng thụ về mặt tinh thần. Tuy nhiên,
lời dạy của Phật là hãy để thiên nhiên như nó vốn hiện hữu, và chỉ nên thưởng thức
vẻ đẹp của thiên nhiên với một thái độ không ham muốn. Hay nói khác đi thiên
nhiên cần được đối xử bình đẳng như con người [13, 75].
Như vậy, theo Phật giáo, mặc dù con người sử dụng các yếu tố tự nhiên như
một công cụ để sinh tồn, nhưng môi trường sẽ là điểm kết thúc duy trì sự cân bằng
của tất cả mọi sinh vật. Con người cần phải thực hiện nghĩa vụ đối với sinh vật xung
quanh.
1.2.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam
Do ảnh hưởng bởi ba hệ tư tưởng như đã nói ở trên, nghệ thuật cổ trung đại
phương Đông rất coi trọng đề tài thiên nhiên, đúng như Hồ Chí Minh đã có lần nhận
xét khi đọc Thiên gia thi: "Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ".
Bốn mùa thiên nhiên chuyển vận đều gây cho con người cảm xúc khác nhau.
Nhà nghiên cứu Lưu Cương Kỷ trong cuốn Chu Dịch và mỹ học viết: “Còn như
ngọn gió cánh chim mùa xuân, vầng trăng tiếng ve mùa thu, tầng mây trận mưa rào
mùa hạ, ánh trăng, cái lạnh mùa đông, đó là cái cảm thụ bốn mùa thể hiện trong thơ.
Cuộc vui thì gửi thơ để bày tỏ tình thân thiết, xa cách thì mượn thơ để ngụ tình ai
oán” [40, 37].
15
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên. Quan điểm này đã từng xuất
hiện trong văn học dân gian. Ca dao xưa có câu: “Đi đâu mà chẳng biết ta/ Ta con
ông Sấm cháu bà Thiên Lôi/ Khi xưa ta ở trên trời/ Đứt dây rơi xuống làm người
trần gian”. Truyền thuyết Thánh Gióng cũng nói, người anh hùng làng Gióng là sản
phẩm của con người và trời đất (bà mẹ giẫm phải vết chân lạ rồi có thai)… Người
Việt thời trung đại cũng xem mình là một bộ phận của giới tự nhiên. Chịu ảnh
hưởng sâu sắc và lâu dài của tư tưởng Nho - Đạo - Phật, họ xây dựng lối sống hòa
hợp với tự nhiên theo nguyên lý “Vạn vật nhất thể”. Khi sáng tác, họ tuân thủ quan
niệm "Thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo" và qua bút pháp "tả cảnh ngụ tình", "tức cảnh
sinh tình".
Chịu ảnh hưởng của cả ba hệ tư tưởng nhưng ở mỗi giai đoạn sự ảnh hưởng
đó lại có sắc thái khác nhau.
Thơ ca thời Lý - Trần vẫn chịu sự ảnh hưởng của tam giáo nhưng tư tưởng
chủ yếu là Phật giáo Thiền tông. Qua khảo sát, chúng tôi thấy: dù là những vần thơ
mang tính triết học cao hay những bài thơ giản dị, thơ thời Lý - Trần đều đề cập đến
thiên nhiên, đề cập đến mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người, coi trọng thiên
nhiên. Tư tưởng chủ đạo chi phối là Phật giáo nên phần lớn các sáng tác của các
Thiền sư đều tập trung thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa con người và thiên
nhiên. Ở đây, con người đối xử với thiên nhiên không phải với tư cách của kẻ chinh
phục, kẻ sở hữu, khách thể bên ngoài mà coi nó như một người đồng đẳng để cảm
nhận, sẻ chia, thậm chí dùng nó để phát biểu các triết lí Thiền.
Ví dụ: Trong bài Thị đệ tử (Bảo các đồ đệ) dưới đây của nhà sư Vạn Hạnh
viết ngày 15 tháng 5 năm 1088, sư gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:
Thân như điện ảnh, hữu toàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Người đời như bóng chớp, có rồi lại không,
Như cây cối mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo.
16
Mặc cho vận đời thịnh hay suy, đừng sợ hãi.
Vì sự thịnh suy (cũng mong manh) như giọt sương đầu ngọn
cỏ).
Bài thơ chỉ có một chữ "thân" trực chỉ con người, những hình ảnh còn lại là
thuộc về thế giới tự nhiên. Và theo đó, nhà thơ muốn gửi gắm một thông điệp: con
người chỉ là một phần nhỏ bé của vũ trụ và nếu con người quên được "thân" (tức
"ngã") thì sẽ hòa được vào thế giới tuần hoàn đó, và đạt đến sự an nhiên, tự tại.
Cũng ảnh hưởng bởi tư tưởng Phật giáo, những sáng tác của Tuệ Trung
Thượng sĩ khi nhắc đến thiên nhiên đều thể hiện triết lí Thiền:
Sinh tử do lai bãi vấn trình,
Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành.
Sơn vân dã hữu xuất sơn thế,
Giản thủy chung vô đầu giản thanh.
Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu,
Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh.
A thùy hôi đắc nương sinh diện,
Thủy tín nhân thiên tống giả danh.
(Thôi đừng hỏi lai lịch về con đường sống chết làm gì,
Thời tiết của nhân duyên cứ tự nó hình thành.
Mây núi đã có cái thế bay ra khỏi núi,
Nước suối không tiếng nào không phải là tiếng nước gieo vào
lòng suối.
Hàng năm, hoa vẫn nở vào tháng ba,
Sáng sớm gà vẫn gáy vào canh năm.
Ai là người hiểu được mặt người mẹ,
Mới tin rằng người và trời đều giả danh.)
(An định thời tiết - Thời tiết an định)
17
Bài thơ mượn một loạt hình ảnh chuyển vận của thiên nhiên để bàn không
phải chỉ về vấn đề "thời tiết" của tự nhiên mà chính là để khẳng định đó là quy luật
sống của cả vũ trụ nhân sinh.
Trong một bài thơ khác của Thượng sĩ, ông cũng dùng thiên nhiên để lí giải
những vấn đề liên quan đến con người:
Hưu tầm Thiếu Thất dữ Tào Khê,
Thể tính minh minh vị hữu mê.
Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận,
Thiên phong xuy bất giản cao đê.
Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc,
Liên nhị hồng hương bất trước nê.
Diệu khúc bản lai tu cử xướng,
Mạc tầm Nam Bắc dữ Đông Tây.
(Đừng có tìm Thiếu Thất với Tào Khê,
Thể tính vằng vặc chưa có mê lầm.
Mặt trăng xưa soi kể gì xa hay gần,
Gió trời thổi nào chọn nơi cao hay thấp.
Ánh sáng mùa thu lúc đen lúc trắng tùy theo duyên sắc,
Nhị sen đỏ thơm chẳng nhuốm bùn.
Khúc kì diệu của bản lai nên cất giọng hát,
Chẳng phải tìm ở Nam, Bắc với Đông, Tây.)
(Thị chúng - Bảo mọi người)
Bài thơ là một lời "gợi bảo mọi người" về vấn đề tự tính bản thể con người.
Thượng sĩ khuyên mọi người nên đi tìm tự tính, chân như ở ngoài tâm. Bởi vì thể
tính là trong sáng vằng vặc và mỗi người đều có nó như là mặt trăng soi thì đâu phải
phân biệt xa, gần, gió thổi, đâu phân biệt nơi cao thấp. Tùy vào duyên mà mỗi
người chứng ngộ theo một cách khác nhau. Đây chính là một tư tưởng rất cơ bản
của Thiền tông được tác giả truyền tải qua các hình ảnh thiên nhiên.
18
Ngoài ra thiên nhiên thường xuất hiện trong thơ văn thời kỳ này chủ yếu là
để cho các nhà sư giảng dạy những lý thuyết Phật giáo của họ. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Kim Sơn cho rằng: "Có những bài thơ Thiền mang một loạt hình ảnh thiên
nhiên nhưng mục đích cuối cùng của Thiền gia không phải miêu tả thiên nhiên đó
mà dùng thiên nhiên như một "công cụ ngoại hóa" mang tải những tư tưởng của
Thiền Tông. Để lĩnh hội Thiền ý trong mỗi bài thơ, người đọc không thể không
thông qua một quá trình "giải mã" các hình tượng thiên nhiên được Thiền gia sử
dụng" [48, 16].
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ở giai đoạn này không hề cứng nhắc mà rất
giàu xúc cảm với một niềm tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống mặc dù thiên nhiên
trong thơ thường bị cái nhìn chi phối của “sắc – không”. Chẳng hạn Mãn Giác
Thiền Sư đã làm sáng tỏ quan điểm “sắc – không” của đạo Phật qua sự đối sánh thời
gian tuần hoàn của vũ trụ với thời gian ngắn ngủi của đời người đồng thời thể hiện
hy vọng của con người trong cuộc sống:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa đua nở
Việc đời trôi qua trước mắt
Cảnh già hiện ra trên mái đầu
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.)
(Cáo tật thị chúng - Có bệnh bảo mọi người)
Như vậy, các tác phẩm trên cho thấy thiên nhiên có vai trò rất quan trọng
trong văn chương Phật giáo nhưng sự tồn tại trong trạng thái tự thân thì ít có.
19
Sang thời Trần, so với thiên nhiên trong thơ văn ở chặng đầu, càng về sau
thiên nhiên mang nhiều nét thực hơn. Các nhà thơ không còn chỉ dùng thơ văn để
thuyết giáo cho những tư tưởng của nhà Phật nữa mà bắt đầu thể hiện những cảm
xúc tinh tế trước thiên nhiên mà bài thơ dưới đây của Trần Nhân Tông là một dẫn
chứng:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng nghịch lý ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói,
Bóng chiều tà nửa không, nửa có.
Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết,
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng.)
(Thiên Trường vãn vọng - Buổi chiều đứng
ở phủ Thiên Trường trông ra)
Như vậy, ở thời kỳ Lí - Trần, các sáng tác thơ ca nói chung và thơ viết về
thiên nhiên nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc và tập trung nhất là tư tưởng Phật giáo.
Bên cạnh đó, cần phải nhắc đến sự chi phối của tư tưởng Đạo giáo và Nho giáo
trong giai đoạn này. Khảo sát các sáng tác của Tuệ Trung Thượng Sĩ ta sẽ thấy điều
đó.
Tuệ Trung đã thể hiện tinh thần dung hợp tam giáo trong cách sống ở đời lẫn
sáng tác của mình. Trong kháng chiến chống quân Nguyên-Mông của nhà Trần, ông
đã hơn hai lần đem tài năng thao lược của mình ra giúp đất nước. Lúc đó, con người
Tuệ Trung đã thể hiện trọn vẹn tinh thần của một kẻ sĩ theo học Nho giáo: "Làm trai
cho đáng nên trai / Xuống Đông, Đông tĩnh; lên Đoài, Đoài yên" (Ca dao). Song
con người không ngại xông pha trận mạc ấy đồng thời cũng là một thiền gia, lại có
phong thái tiêu dao của tư tưởng Lão - Trang. Đất nước thái bình, Tuệ Trung tham
vấn Thiền cùng thiền sư Tiêu Dao. Khi lãnh hội được yếu chỉ, Thượng Sĩ lấy việc tu
Thiền làm thú vui, lui về điền trang sống đời bình dị, không màng đến danh lợi. Tuệ
20
Trung đã sống đúng với tinh thần "hòa quang đồng trần", trộn lẫn cùng thế tục, hòa
mình với cuộc đời. Song tư tưởng của ông qua thơ văn cũng thể hiện tương đối rõ
nét tinh thần của Đạo giáo. Khi không do dự trở về thái ấp, Tuê ̣ Trung đặt nơi ở của
mình là "Dưỡng Chân" nhằm trút bỏ mọi ảo vọng, giữ lấy chân tính:
Suy táp hình hài khởi túc vân,
Phi quan, lão hạc tị kê quần.
Thiên thanh vạn thúy mê hương quốc,
Hải dốc thiên đầu thị dưỡng chân.
(Tấm thân suy yếu kể chi mà,
Hạc nội nào đâu lẩn tránh gà.
Muôn tía ngàn xanh tràn đất nước,
Chân trời, góc bể dưỡng tình ta.)
Cũng thật khó tách bạch đâu là tư tưởng "tùy duyên" của Phật giáo, đâu là
tinh thần "vô vi" phóng nhiệm của Lão - Trang trong đoạn thơ này:
Đằng thử vô đoan tiệm tiệm xuân,
Quy lai chung lão quý sơn lâm.
Sài môn mao ốc cư tiêu sái,
Vô thị vô phi tự tại tâm.
(Nanh chuột dây bìm cứ lấn xâm,
Về thôi già gửi chốn sơn lâm.
Nhà tranh cửa liếp phong quang chán,
Phải trái đều không, tự tại tâm.)
(Tự tại)
Thiền sư vui cùng rừng núi, sống hài hòa với thiên nhiên vạn vật. Ông làm
theo đúng tinh thần "vân du" (đi ngao du thưởng ngoạn cảnh để nhàn tâm), "ly
phàm thế" (không bận tâm vào cõi phàm trần) trong luận thứ hai và thứ mười lăm
của Toàn chân giáo, đúng hơn là Đạo giáo.
Tiểu đĩnh trường giang đãng dạng phù,
Du dương trạo bát quá than đầu.
21
(Sông dài, thuyền nhỏ nổi lênh đênh,
Cất mái chèo qua đoạn thác ghềnh.)
(Giang hồ tự thích - Vui thích giang hồ)
Con người ở đây không phải là con người bị trói buộc bởi giáo lí Phật giáo,
mà là con người đạt đạo thuận theo tự nhiên.
Mặt khác, trong thi phẩm của Tuệ Trung cũng có những hình tượng tùng,
cúc, trúc, mai - những cây vốn rất quen thuộc trong văn chương nhà nho. Chẳng hạn
cây tùng:
Tối ái thanh tùng chùng kỷ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên.
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền.
(Rất yêu cây thông xanh trồng mấy năm trước,
Đừng thở than ở vào địa thế hưu quạnh.
Tài rường cột chưa được dùng người đời chớ lấy làm lạ,
Nơi đây có cỏ nội hoa nhàn đầy cả trước mắt.)
(Giản để tùng - Cây thông dưới khe)
Ở bài thơ trên, cây tùng tượng trưng cho phẩm chất mà nhà nho rất đề cao:
tài lương đống, làm trụ cột triều đình. Cây tùng ở "vị thế hưu quạnh", phải sống
cùng "cỏ nội hoa nhàn", chưa được sử dụng ở vị trí "rường cột" cũng giống như nhà
nho ẩn dật chờ thời. Trong một bài thơ khác của Tuệ Trung Thượng Sĩ, dù có hình
ảnh "ngọn gió thiền", "mặt trời Phật", thiền ý mênh mang nhưng rõ ràng vẫn có cái
ẩn ý của một nhà nho chưa gặp thời tạm náu mình trong rừng sâu, làm bạn cùng
muông thú chờ ngày được thi thố tài năng giúp đời:
Phúc đường cảnh chí dĩ lang đang,
Lại hữu thiên phong tập tập lương.
Lưu lạc tiêu sơ trìu duẩn sấu,
Môn đình u thúy tịch tung hoang.
Vị phùng thì thái hiền nhân xuất,
22
Thả hỉ lâm thâm thụy thú tàng.
Tảo vãn lão thiên khai Phật nhật,
Thông môn đào lý lộng xuân quang.
(Phong cảnh Phúc đường thật đã thoáng đãng,
Nhờ có ngọn gió Thiền vi vu mát rượi.
Giậu đổ tiêu điều, nảy chồi măng gầy,
Sân cổng thâm u kề gốc thông hoang.
Chưa gặp thời thịnh để cho người hiền xuất hiện,
Hãy mừng chốn rừng sâu có muông thú lành ẩn.
Sớm muộn trời già cũng mở mặt trời Phật,
Suốt từ ngõ vào đào mận đùa giỡn ánh xuân.)
(Phúc đường cảnh vật)
Trong bài thơ còn có chất phiêu diêu của cảnh sống phóng khoáng, thoát tục
- đặc điểm của tư tưởng Lão - Trang. Nhiều bài khác của ông đều có sự tịnh hành
của tư tưởng Phật giáo và tư tưởng Lão - Trang.
Ngoài ra, ở nhiều bài thơ thời kỳ này, thiên nhiên không chỉ là đối tượng
thẩm mỹ mà còn là điều kiện để các nhà thơ giãi bày, bộc lộ tâm sự của mình.
Chẳng hạn, Trần Minh Tông đã mượn tiếng mưa đêm để nói lên tâm trạng ân hận,
day dứt không nguôi suốt ba mươi năm vì một quyết định sai lầm của mình dẫn đến
cái chết cho hàng trăm người vô tội trong vụ án Trần Quốc Chẩn (1328):
Thu khí hòa đăng thất thự minh
Bích tiêu song ngoại độ tàn canh.
Tự tri tam thập niên tiền thác,
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh.
(Hơi thu hòa cùng ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai
Giọt mưa rơi trên tàu lá chuối ngoài song cửa tiễn tàn canh
Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm về trước
Nay đành ôm sầu ngồi nghe mưa rơi)
(Dạ vũ - Mưa đêm)
23
Nếu như những sáng tác viết về thiên nhiên trong thời kì Lý - Trần (thế kỷ X
- XIV) chịu ảnh hưởng chủ yếu của tư tưởng Phật giáo thì ở giai đoạn sau (thế kỷ
XV - hết thế kỷ XIX) lại chịu sự chi phối mạnh mẽ nhất của tư tưởng Nho giáo.
Nho giáo tác động đến sáng tác văn chương bằng những nguyên tắc sáng tác
"văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí" (văn chở đạo, thơ nói chí). Các sáng tác của văn
chương Nho giáo đều thể hiện mục đích này. Để thể hiện mục đích trên, các nhà
nho đã sử dụng bút pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học trung đại là "tức cảnh
sinh tình", "tả cảnh ngụ tình", và thi pháp này đã chi phối cách viết về thiên nhiên.
Nho giáo tác động đến văn chương không chỉ bằng những nguyên tắc sáng
tác nói trên mà nó còn tác động qua người viết - các nhà nho. Các nhà nghiên cứu
Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương đã chỉ ra có ba mẫu hình nhà nho ảnh hưởng
đến sáng tác văn học là: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử. Ở họ
có nền tảng chung là tư tưởng Nho giáo nhưng mỗi mẫu nhà nho lại có sắc thái khác
biệt.
Trước hết là nhà nho hành đạo. Suốt đời những nhà nho này coi hành đạo với
khát vọng "trí quân trạch dân", "tiên ưu hậu lạc", mang tài năng và sức lực của mình
để phục vụ chính thể, phục vụ chúng dân làm mục đích . Như vậy, đây là mẫu nhà
nho quan trọng nhất vì Nho giáo chủ trương hành đạo, nhập thế. Cách nhìn thiên
nhiên của những nhà nho hành đạo trướ c hết mang đặc điểm: thiên nhiên và con người tương dữ, giao hòa. Và vì nhà nho có mối quan tâm lớn đến quốc gia, dân
tộc, đời sống của nhân dân nên thiên nhiên của họ chủ yếu là thiên nhiên sống động,
mang không khí của đời sống, xã hội. Những nhà nho hành đạo có cơ hội đi ngao
du, trên hành trình di chuyển ấy ghi lại cảnh thiên nhiên với núi sông, cây cỏ, quê
hương, đất nước, đặc biệt là những bức tranh gắn liền với những danh lam thắng
cảnh, các di tích lịch sử của đất nước để thể hiện niềm tự hào về những chiến công
oanh liệt của dân tộc. Những sáng tác của Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu đã thể
hiện rõ điều đó:
Sóc phong suy hải khí băng băng,
Khinh khởi phong phàm quá Bạch Đằng.
24
Ngạc đoạn khinh khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích triết ngạn tằng tằng.
(Gió bắc thổi trên mặt hồ, khí thế bừng bừng,
Nhẹ giương cánh buồm qua sông Bạch Đằng.
Như cá sấu bị chặt, như cá kình bị chém, núi quanh co.
Như cây giáo bị chìm, như chiếc kích bị gãy, bờ đắp lởm chởm.)
(Nguyễn Trãi. Giang san như tạc anh hùng thệ -
Non sông vẫn như vẽ mà anh hùng đã đi mất)
Dòng sông Bạch Đằng tự nhiên trở thành biểu tươ ̣ng cho chiến công lịch sử. Cũng viết về dòng sông Bạch Đằng lịch sử - nơi ghi dấu bao chiến công, bài
thơ "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu đã làm sống dậy hai khung cảnh
Bạch Đằng ở hai thời điểm khác nhau. Cảnh thứ nhất là một Bạch Đằng “đương
đại” với những hình ảnh rộng lớ n:
Cửu giang, Ngũ hồ
Tam Ngô, Bách Việt
Nơi có người đi.
Đâu mà chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Nhân vật trữ tình - "khách" là con người hành động, nhập cuộc khác với các
cuộc nhàn du của các ẩn sĩ lánh đời. Cảnh thứ hai là một Bạch Đằng trong lịch sử.
Nó đã được sống dậy trong hồi tưởng của các bô lão:
- Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã
Cũng là bãi đất xưa thuở Ngô chúa phá Hoàng Thao
Với niềm tự hào về quê hương lịch sử, các bô lão hào hứng kể về trận đánh
"đương khi ấy":
Thuyền bè muôn đội
Tinh kì phấp phới
Tì hổ ba quân
Giáo gươm sáng chói.
25
Bên cạnh giọng điệu hào sảng, tự hào ở phần đầu của bài thơ, càng về cuối
giọng điệu càng lắng xuống trong niềm đau xót, hổ thẹn khi dòng sông lịch sử anh
hùng bị bỏ rơi trở thành hoang phế và hổ thẹn còn vì nghĩ đến bổn phâ ̣n kế nghiệp
của mình.
Các nhà nho hành đạo còn mượn hình ảnh thiên nhiên để ngôn chí. Nguyễn
Trãi là một ví dụ tiêu biểu. Chúng ta không khó tìm trong những bài thơ chữ Nôm
và chữ Hán của ông những bài thơ theo chủ đề này . Cũng giống như các nhà nho
khác, Nguyễn Trãi dùng thiên nhiên như những hình tượng mang tính chất biểu
trưng cho phẩm chất mà nhà nho muốn hướng tới trong quá trình tu dưỡng của
mình. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong những bài thơ ngâm vịnh các loại cây như:
tùng, cúc, trúc, mai. Cây tùng có khả năng tự nhiên là chống lại được gió rét, cứng
cáp: "cả nhà đòi phen chống khỏe thay"... tất là "tài lương đống cao ắt cả dùng":
Thu đến cây nào chẳng lạnh lùng,
Một mình lạt thủa ba đông.
Lâm tuyền ai rặng già làm khách,
Tài đống lương cao ắt cả dùng.
(Quốc âm thi tập – Tùng – bài 1)
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
(Xa nú i mườ i năm cảnh qua ̣nh hiu
Cúc tùng phần lớn vẫn xanh đều.)
(Ức Trai thi tập. Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác -
Cảm tác khi trở về Côn Sơn sau loạn)
Trúc lại có phẩm tính : ruột rỗng, đốt cứng, không vì gió mưa bão táp mà
nghiêng đổ:
Ưa mi vì bở i tiết mi thanh (Quốc âm thi tập - Hoa mộc môn -Trúc)
Hoa mai nở trong tuyết lạnh, có màu trắng tinh khiết, có sức sống mãnh liệt.
Vì vậy, hoa mai được nhắc đến như biểu tượng khí tiết của người quân tử trong thơ:
26
Xuân đến hoa nào chẳng tốt tươi,
Ưa mi vì tiết sạch hơn người.
Gác đông ắt đã từng làm khách,
Há những Bô tiên kết bạn chơi.
(Quốc âm thi tập – Hoa mộc môn – Mai – bài 1)
Hoa cúc trong khi "người đua nhan sắc thuở xuân dương" thì nó lại "nghỉ
chờ thu", nở muộn màng hơn các loại hoa khác nhưng vẫn đẹp - cái đẹp kín đáo,
không nổi trội:
Người đua nhan sắc thủa xuân dương,
Nghỉ chờ thu cực lạ nhường
Hoa nhẫn dành đeo danh ẩn dật,
Thức còn phô bạn khách văn chương.
Tính tình nào đoái bề ong bướm,
Tiết muộn chẳng nài thủa tuyết sương.
Dầu thấy xuân lan cùng lọn được,
Ai ai đều có mỗ mùi hương.
(Quốc âm thi tập – Hoa mộc môn – Cúc)
Tất cả các hình ảnh tự nhiên đó được nhà nho sử dụng làm hình ảnh ẩn dụ.
Cây tùng giống như khả năng gánh vác việc lớn, làm rường cột cho quốc gia của
nhà nho. Trúc tượng trưng cho khí tiết kiên cường, cái hư tâm không màng lợi lộc
của người quân tử. Mai trở thành vật tỉ dụ cho tấm lòng cao khiết, trong sạch của
nhà nho. Cúc tượng trưng cho vẻ đẹp tinh thần của nhà nho ẩn dật. Vậy là, nếu như
cũng có "phẩm tước" của trong đời sống, nhà nho có danh vị khác nhau thì cây cỏ
mình: tùng đại phu, trúc quân tử, mai ngự sử, cúc nhà nho ẩn dật. Thiên nhiên được
nhân cách hóa, trở thành những biểu tượng cho phẩm chất của con người.
Có những lúc thiên nhiên xuất hiện trong thơ của người hành đạo là không
gian của thành thị - một môi trường quen thuộc gắn liền với cuộc sống của họ:
Thú yên hà gửi nơi thành thị,
Nhớ Đông Ba, Gia Hội hai cầu.
27
Khi gió mát lúc trăng thâu,
Dập dìu những văn nhân tài tử.
(Nguyễn Công Trứ. Nhàn nhân với quý nhân)
Hoă ̣c đôi khi lại thấy xuất hiện thiên nhiên gắn liền với những biến động của
đời sống xã hội - đồng tiền làm đảo lộn lương tâm con người và hệ giá trị trong giới
nho sĩ:
Đương om sòm chớp giật sấm ran,
Nghe xóc xách lại gió hòa mưa ngọt.
Kẻ tài bộ đã vào phường vận đạt,
Không ngươi cùng nát với cỏ cây.
Người yêm yêm đành một phận trầm mai,
Có gã lại trở ra sừng gạc.
(Vịnh đồng tiền)
Song về căn bản, thơ văn viết về hoă ̣c mang chứ a thế giớ i thiên nhiên thườ ng
. Họ,
gắn vớ i không gian thôn dã , đă ̣c biê ̣t là trong sáng tác củ a các nhà nho ẩn dâ ̣t về căn bản là những người chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo trong hành xử
nhưng khi ẩn dật họ đã tiếp thu linh hoạt tư tưởng Lão - Trang và cả tư tưởng Phật
giáo. Trạng thái tinh thần đó đã quy định cách họ cảm nhận và hình dung thế giới
xung quanh, trong đó có thế giớ i tự nhiên.
Là nhà nho ẩn dật nên hình tượng thiên nhiên luôn hiện hữu trong thơ các
ông. Thêm nữa, hình ảnh thiên nhiên có sự gắn bó với đời sống sinh hoạt của người
nông dân. Có thể kể đến các tác giả nhà nho ẩn dật tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Hàng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm vui với bữa cơm dưa muối, ao bô, hài cỏ, chè mai, hiên
nguyệt...:
Cơm ăn chẳng mùi xa bạc,
Áo mặc nề chi tấm rách lành
Đẹp gót, mong theo người ẩn dật
Bận lòng lại tưởng án công dân.
28
(Bạch Vân quốc ngữ thi - Bài 10)
"Cơm", "áo" - những thứ vật chất ấy, lúc này với nhà thơ không còn quan
trọng nữa. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cho mình tâm thế đến với thiên nhiên như
đến một cõi vui, một chốn an lành - nơi không còn những bon chen vật chất, nơi chỉ
có thiên nhiên làm bạn bè:
Đêm quyến trăng xem bóng trúc
Ngày chờ gió hẹn tinh hoa.
(Bạch Vân quốc ngữ thi - Bài 19)
Hay:
Trăng trong gió mát là tương thức
Nước biếc non xanh ấy cố tri.
(Bạch Vân quốc ngữ thi - Bài 90)
Cũng là hình ảnh thiên nhiên gắn liền với đời sống sinh hoạt của người nông
dân nhưng khác với Nguyễn Bỉnh Khiêm, thiên nhiên xuất hiện trong thơ Nguyễn
Hàng thường xuất hiện phong cảnh và sinh hoạt của miền núi. Nét nổi bật trong thơ
phú Nôm của ông là niềm yêu mến thiên nhiên tha thiết. Bài thơ "Tịch cư ninh thể
phú" là một dẫn chứng cho điều đó:
Yêu thay miền thôn tịch,
Yêu thay miền thôn tịch!
Cư xử dầu lòng;
Ngao du mặc thích
Khó chiều người mến cảnh yên hà;
Dễ quyến khách niềm vui tuyền thạch,
Xó xỉnh góc trời, mom đất, một bầu trời thu cảnh mọn hẹp
hòi;
Áy o ruộng núi, vườn đèo, bốn mùa đủ thứ vui cọc cạch.
Bài thơ mở đầu với điệp khúc: "Yêu thay miền thôn tịch" đặc tả cảm xúc yêu
mến thiết tha của nhân vật trữ tình khi được đắm chìm vào thiên nhiên nơi đây.
29
Toàn bộ phần còn lại là hình ảnh của thiên nhiên. Con người dường như đã hòa
mình vào thiên nhiên, trở thành một phần của thiên nhiên.
Trong thơ Nguyễn Trãi, ta có thể bắt gặp những hình ảnh viết về thiên nhiên
thôn dã vừa tinh tế lại vừa giản dị:
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.
(Bao giờ làm được nhà dưới núi mây
Múc nước suối nấu chè, gối hòn đá ngủ)
(Ức Trai thi tập. Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác -
Cảm tác khi trở về Côn Sơn sau loạn)
Nhà thơ mơ ước được hòa mình với thiên nhiên: núi, mây, nước suối, đá;
được sống trọn vẹn với thiên nhiên. Dường như không có khoảng cách giữa con
người và cảnh vật:
Tả lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải rảnh mồng tơi
(Ngôn chí – bài 9)
Hay:
Ao quan thả gửi bè rau muống
Đất bụt ương nhờ một lảnh mùng.
(Thuật hứng – Bài 23)
Với quan điểm bình đẳng, thậm chí đề cao thiên nhiên, coi thiên nhiên là nơi
che chở, an ủi, bầu bạn cùng con người:
Cây rợp che am mát,
Hồ nằm nguyệt hiện bóng tròn
Lộ nằm hạc lẩn lên bầy bạn,
U ấp cùng ta làm cái con
(Ngôn chí – bài 21)
Qua những bài thơ trên của Nguyễn Trãi, ta thấy những ước lệ tượng trưng
trong việc miêu tả thiên nhiên được thay dần bằng chất liệu đời sống thực.
30
Thiên nhiên không chỉ là đối tượng thưởng ngoạn của các nhà nho ẩn dật mà
nó còn là nơi thể hiện những triết lí sống nhàn của các tác giả. Nguyễn Bỉnh Khiêm
dựa vào thiên nhiên để phát biểu triết lí này:
Lẩn thẩn ngày qua lại tháng qua,
Một năm xuân tới một phen già.
Ái ưu vằng vặc trăng mùa nước,
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.
Án sách vẫn còn án sách cũ,
Nước non bạn với nước non nhà.
Cuộc đời đua chí dù cao thấp,
Ta muốn thanh nhàn thú vị ta.
(Thú nhàn)
Thiên nhiên giản dị, tươi đẹp mang triết lí sâu cay về tư tưởng, lối sống ẩn
dật: ngưỡng mộ thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên để bảo vệ tiết tháo, bảo vệ sự
trong sạch:
Giang sơn tám bức là tranh vẽ
Hoa cỏ tứ mùa ấy gấm thêu.
(Bài 3)
Qua việc khảo sát các bài thơ của ba gương mặt tiêu biểu: Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Hàng, ta nhận thấy thơ viết về thiên nhiên của họ tuy
mang sắc thái riêng song vẫn gặp nhau ở chỗ thơ văn nói chí, thuật hứng nhưng
nghiêng nói nhiều về triết lí nhàn, bảo vệ tiết tháo, bảo vệ sự trong sạch. Thiên
nhiên có tác dụng cân bằng lại thế giớ i tinh thần của họ.
Bên cạnh đó do kết hợp với tư tưởng Lão - Trang nên họ thể hiện cảm xúc
thưởng ngoạn, thụ hưởng cảnh sắc đất trời. Trước tiên phải kể đến trường hợp của
Nguyễn Trãi. Trong mục "Tích cảnh thi" 13 bài, con ngườ i hiê ̣n lên trong chù m bài thơ liên hoàn này là mô ̣t kẻ nhâ ̣n thứ c đươ ̣c quy luâ ̣t vô tình vô ha ̣n củ a thờ i gian “xuân xanh chưa dễ hai phen la ̣i” và sự hữu tình hữu ha ̣n củ a đờ i ngườ i “những lê ̣ xuân qua tuổi tác thêm” . Cảm nhận được điều này nên tác giả muốn tận hưởng từng
31
,
phút, từ ng giây. Đây là điểm nhà nho Nguyễn Trãi nhườ ng chỗ cho sự khoáng đa ̣t hưở ng thu ̣ củ a tư tưở ng Lão Trang . Mạch ý đó còn được tô đậm hơn với “Côn Sơn
ca” (Bài ca Côn Sơn):
Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đê ̣m êm…
Khi con ngườ i có khả năng nghe đươ ̣c tiếng nha ̣c vui hay t
iếng than thở củ a thiên nhiên thì sẽ có cách cư xử đú ng đắn vớ i nó như những sinh thể có tâm hồn và . Tác giả không chỉ cuố i cù ng con ngườ i sẽ cảm nhâ ̣n từ nó những điều tương tự
lắng tai nghe “đàn nướ c” , không chỉ cảm nhâ ̣n sự êm ái củ a “đê ̣m đá” mà còn cảm nhâ ̣n đươ ̣c sự thư thái về tinh thần , khoan khoái về thể xác . Thị giác được “mãn nhãn” với cái “xanh mát” của rừng trúc bạt ngàn :
Trong ghềnh thông mô ̣c như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừ ng có bóng trú c râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Những câu thơ mở ra mô ̣t bứ c tranh đa chiều vớ i âm thanh , màu sắc gắn liền
. Tác giả là trung tâm của bức tranh ấy với sự thư
vớ i những cảm giác củ a tác giả thái, khoáng đạt đến cực đại . Ông, như mô ̣t nghê ̣ sĩ , đang thưở ng thứ c toàn bô ̣ âm hưở ng củ a thiên nhiên . Và Côn Sơn , thành nơi lí tưởng để Ức Trai “nghỉ ngơi” và
“ngâm thơ” hưở ng “nhàn” . Giống như Nguyễn Trãi, trong thơ của Nguyễn Hàng
cũng thể hiện cảm xúc thụ hưởng thiên nhiên như vâ ̣y:
Khách nhàn họp ba chồi cúc muộn, đứng dựa bên thềm;
Bạn lão sum vầy mấy gốc mai già, chen kề tận ngạch.
Gió nhân là quạt mát, điểm trần ai thay thảy tan không;
Nước trí ấy gương trong, niềm tục lụy lâng lâng rửa sạch.
Cảnh giúp con người quên được những nỗi ưu tư. Nguyễn Hàng đã thụ
hưởng những ưu đãi của thiên nhiên để rồi đưa ra những triết lý sống cũng như
32
những tình cảm sâu kín của mình vào trong thơ, tạo nên phong cách riêng cho mình.
Dường như không có sự phân biệt giữa con người và thiên nhiên. Mỗi câu thơ đều
là sự xuất hiện song song của hai đối tượng con người và thiên nhiên như thể tác giả
quan niệm con người và thiên nhiên làm một.
Như vậy, so với nhà nho hành đạo, các nhà nho ẩn dật đề cao vai trò của
thiên nhiên hơn, mối quan hệ giao hòa giữa thiên nhiên và con người chặt chẽ hơn
nhiều. Chất "tự nó" trong sáng tác về thiên nhiên rõ hơn nhiều so với nhà nho hành
đạo. Và một điểm khác nữa là thiên nhiên tĩnh lặng, khép kín, thanh bình, vắng
bóng cuộc sống sinh hoạt xã hội. Trong những sáng tác của họ dường như chỉ thấy
có sự tồn tại của nho sĩ đối diện với đất trời, vũ trụ, thiên nhiên.
Còn với người sáng tác là nhà nho tài tử ? Vẫn mang cái nhìn Nho giáo
nhưng nhà nho tài tử bị hấp dẫn bởi một hình tượng chính thống, quan niệm về
người "đại trượng phu". Chúng tôi xin đưa ra một trường hợp điển hình cho mẫu
nhà nho tài tử đó là Nguyễn Công Trứ.
Cuộc đời ông là cuộc đời của một người say mê hoạt động. Dườ ng như lúc
nào trong nhà thơ cũng vang lên một câu hỏi lớn:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Đi thi tự vịnh)
Hay:
Tang bồng là cái nợ
Làm trai chi sợ án công danh
(Quân tử cố cùng I)
Cái cốt cách tài tử của Nguyễn Công Trứ thể hiện ngay ở việc hành đạo - chí
hướng muốn lập công danh, thể hiện lý tưởng sống của người anh hùng. Nguyễn
Công Trứ là người say mê, sôi nổi của hoài bão lớn lao trên con đường hành đạo.
Thế nhưng, cuộc đời không phải lúc nào cũng như ông muốn. Con đường hành đạo
cũng lắm chông gai:
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười
33
(Cây thông)
Khi đối mặt với những khó khăn ấy, Nguyễn Công Trứ không "bất lực thoái
thác đối với kiếp người". Lý do là vì ông chối từ làm người để được làm cây thông
ở kiếp sau với nhiều hoài bão và mơ ước về con người, về cuộc đời. Nhà thơ muốn
làm một cây thông xanh tươi trên vùng đất sỏi đã khô cằn, thông là biểu tượng của
lý tưởng sống: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất"
của bậc quân tử nho mà Nguyễn Công Trứ là đại diện.
Nguyễn Công Trứ lại có cá tính mạnh mẽ, không chịu sống bình lặng trong
khuôn phép của đạo lí phong kiến mà luôn luôn vươn tới khẳng định bản ngã, vượt
lên thế tục, ngông nghênh, ngất ngưởng giữa đời với những triết lý nhân sinh cực
đoan:
Không Phật không Tiên không vướng tục
Chẳng Trái Nhạc cũng vào phường Hàn Phú
(Bài ca ngất ngưởng)
Hay sự phóng túng thể hiện ở khát khao thoát khỏi sự ràng buộc:
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Cây thông)
Ngoài khát vọng công danh, khẳng định cái tôi, Nguyễn Công Trứ còn chủ
trương hành lạc. Ông không chỉ tài tử trong hành đạo mà còn tài tử trong hành lạc:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Hình ảnh thiên nhiên hiện lên với những nét vẽ phóng khoáng, tự nhiên.
Nhân vật trữ tình hòa mình với thiên nhiên với một tư thế ngạo nghễ, tự do.
Như vậy, với tư cách là người sáng tác, mặc dù đều lấy tư tưởng Nho giáo
làm nền tảng song ba mẫu nhà nho trên đã đóng góp ba sắc thái khác nhau trong
cách nhìn về thiên nhiên. Chính điều đó đã tạo nên sự khác biệt.
34
Từ nửa cuối thế kỷ XVIII trong đờ i sống văn chương Viê ̣t Nam xuất hiện
trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Giai đoạn này văn học gắn với những vấn đề của con
người trong đời sống bình thường. Bên cạnh những tác phẩm thể hiện triết lí Nho
gia giống như giai đoạn trước, văn chương thời kỳ này được bổ sung hàng loạt các
sáng tác về những con người bình thường (chẳng ha ̣n, sáng tác của Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương...), những sắc thái cảm xúc đậm nhân sinh như tình yêu nam nữ, tình
cảm gia đình. Văn chương giai đoạn này có nhiều hơn những tác phẩm bộc lộ khát vọng hạnh phúc trần gian. Và như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét thân - tâm -
tình là những yếu tố được thể hiện nhiệt thành, rõ rệt hơn ở giai đoạn trước. Ở giai
đoạn này, thiên nhiên là môi trường sống của cảm xúc trần thế . Tuy nhiên, mối
quan hệ giữa con người và thiên nhiên không có sự thay đổi so với giai đoạn trước.
Cụ thể là: thiên nhiên vẫn là chuẩn mực của con người về ngoại hình và cảm xúc,
thiên nhiên và con người hòa hợp, và thiên nhiên là môi trường sống gần gũi của
con người.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ta bắt gặp hình ảnh đẹp của Thúy Vân,
Thúy Kiều được ngầm ví với thiên nhiên:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Hay:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Nhà thơ mượn những hình ảnh đẹp, tinh túy của thiên nhiên như: trăng, hoa,
ngọc, mây, tuyết, làn nước mùa thu... để nói về vẻ đẹp con người. Theo đó, người
đọc hình dung ra vẻ đẹp đoan trang phúc hậu của Thúy Vân và vẻ đẹp sắc sảo, mặn
mà của Thúy Kiều. Thiên nhiên không chỉ là chuẩn mực cho con người về ngoại
hình mà nó còn là môi trường cảm xúc của con người:
Cỏ non xanh tận chân trời
35
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Tâm trạng háo hức dự lễ, hội xuân của chị em Thúy Kiều đã được thể hiện
qua bức tranh mùa xuân đầy sức sống. Cũng có khi đó là tâm trạng buồn thương
trong chia cắt của tình yêu đôi lứa cũng được gửi gắm vào trong cảnh thiên nhiên:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Hay:
Vầng trăng ai sẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Trong những sáng tác khác của Nguyễn Du, như Văn tế thập loại chúng sinh,
Long Thành cầm giả ca... những cung bậc cảm xúc buồn, vui, hờn giận, tủi hổ... của
con người bình dân cũng luôn gắn liền với, hoă ̣c lồng trong cảnh thiên nhiên.
Cũng giống như nhiều nhà thơ khác trong giai đoạn này, Hồ Xuân Hương
(hay những tác giả dướ i bú t danh Hồ Xuân Hương ) coi thiên nhiên là môi trường
của cảm xúc con người. Nhưng thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương chất sống la ̣i
có sắc thái đậm và sắc . Số lươ ̣ng các bài th ơ lấy đề tài từ cảnh vật thiên nhiên hay
cảnh sinh hoạt thường ngày chiếm hơn một nửa thi phẩm. Trong số đó có một ít bài
mà [các] tác giả viết ra không cốt để tả cảnh, mà chỉ mượn một cảnh, một vật nào
đấy để chế giễu hạng người tự xưng là “anh hùng”, “quân tử” (Quả mít, Con ốc
nhồi,…), có bài tác giả gửi gắm vào đó cả nỗi niềm của mình (Bánh trôi nước).
Cảnh vật trong mảng thơ có tên Hồ Xuân Hương tươi, đậm, và khỏe khoắn:
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
(Giếng nước)
Thế giới trong những bài thơ đó luôn cựa quậy:
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu, giọt sương gieo.
36
(Đèo Ba Dội)
Đứng trước thiên nhiên, hình như bao giờ các [tác giả] cũng có sự ngạc nhiên
thú vị, bao giờ cũng tìm thấy một hứng thú mới mẻ, một lý do để gắn bó với cuộc
sống:
Đá kia có biết xuân già dặn,
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
(Đá ông chồng bà chồng)
Không chỉ là người bình dân, những nhân vật quý tộc xuất hiện trong thơ của
Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều... cũng coi
thiên nhiên là môi trường cảm xúc của mình, là nơi để giãi bày tâm tư, nỗi lòng của
mình:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
đến cảnh đẹp trong một đêm trăng:
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
đều liên quan đến nỗi khát khao thầm kín nhưng thiết tha của người chinh phụ. Rồi
cảnh bạt ngàn của rừng chiều điểm bóng dáng một người lữ khách:
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
đã nói rất nhiều về nỗi lòng của người khuê phụ. Nhìn chung thiên nhiên trong
Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm mang nặng tính chất ước lệ tượng trưng
mặc dù thiên nhiên chủ yếu là dùng để miêu tả nội tâm nhân vật và những khát
vọng trong tâm hồn người chinh phụ.
Trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, lời oán thán của các
cung phi, cung tần đã từng được vua yêu, rồi lại bị ghét bỏ bởi những lời gièm pha,
ghen tuông lẫn nhau cũng được gửi gắm qua hình ảnh thiên nhiên:
37
Mây mưa mấy giọt chung tình
Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn
Tóm lại, ở nửa sau thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, các tác giả không phá
vỡ quy ước cảm nhận và biểu tả thiên nhiên đã hình thành từ giai đoạn trước mà nới
rộng phạm vi hình dung thiên nhiên đến nhiều giai tầng hơn. Nói cách khác, thiên
nhiên – môi trườ ng sống củ a con người trong văn chương Việt Nam nửa sau thế kỷ
XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX đã đa dạng hơn.
Như vậy, qua việc tìm hiểu thiên nhiên trong văn học trung đại đến nửa đầu
thế kỷ XIX, có thể thấy ở mỗi thời kỳ , thiên nhiên lại mang những đặc điểm riêng.
Tính chất công thức ước lệ tượng trưng nhìn chung đã được các tác giả sử dụng
trong việc miêu tả thiên nhiên nhưng nó cũng dần được bổ sung bằng chất liệu đời
sống hiện thực. Thế giới tự nhiên được hình dung như một môi sinh của con người
chủ yếu ở phương diện "tính" trong thời kỳ đầu dần dần được mở rộng sang cả con
người ở phạm vi thân xác và cảm xúc.
1.3. Những biến động tư tưởng, văn hóa Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX – đầu thế
kỉ XX
Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng chính thức
xâm chiếm nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã chọn phương sách nhượng bộ. Tình
thế đó đã đẩy tầng lớp trí thức (nho sĩ) đến sự phân hóa: một bên tán thành chủ
trương cầu hòa của triều đình, một bên chủ chiến, đứng về phía nhân dân chống
Pháp. Đây là sự kiện mang tính thử thách quyết liệt nhất đối với hệ tư tưởng Nho
giáo. Cả một thế hệ nhà nho đã phải day dứt giữa hai lẽ xuất - xử. Nhưng khác với
toàn bộ các giai đoạn trước đó, lần này ở cả hai ngả lựa chọn, nhà nho đều có những
chỗ khó minh bạch. Xuất thì không phải mang tội thấy loạn, thấy nguy mà không
phò đỡ nhưng phải đeo tiếng "đầu Tây". Xử thì có cơ hội bảo toàn thanh danh
nhưng lòng lại thẹn với những tấm gương trung nghĩa xả thân với "mã tà ma ní" và
khắc khoải khôn nguôi với "nợ áo cơm phải trả đến hình hài". Mặt khác, những
người lựa chọn con đường thứ hai còn phải đối diện với một thực tế: môi sinh vật
chất và tinh thần lúc này cũng đã không còn như trước.
38
Trước khi nước Pháp sang, con người sống gắn bó với họ hàng làng xóm và
đây là môi trường sống chủ yếu của đại đa số người dân Việt. Đô thị với những phủ
đệ, cung thất, dinh thự ... chỉ có một tỉ lệ khiêm tốn.
Sang đến thời kỳ thực dân hóa, môi trường đó bắt đầu có những thay đổi. Ở
thành thị, nơi xuất hiện những nhân vật như con buôn, thợ thủ công khéo tay, me
tây, gái giang hồ, những ông thầy khoán, học trò các trường thông ngôn, quan lại,
quý tộc, các công tử tiểu thư cành vàng lá ngọc... trở thành một mảng màu khác lạ,
dần ảnh hưởng đến sinh hoạt thôn quê. Trong Vấn đề xuất xử của nhà nho và sự
phát triển trong thơ Tam Nguyên Yên Đổ [36], tác giả Trần Đình Hượu đã phân tích
rất cụ thể về cả hai môi trường này. Chương 3 chúng tôi sẽ trở lại với vấn đề này bằng các phân tích cu ̣ thể từ sáng tác của Nguyễn Khuyến . Nguyễn Khuyến đã lựa chọn con đường ẩn dật và sáng tác trong tình huống
xuất xử khó khăn và môi trường bước đầu thực dân hóa rất khác lạ như vậy.
Tiểu kết
Từ những khảo sát cơ bản trên, có thể thấy:
Trong văn học trung đại Việt Nam, Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều bàn
đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Tuy ba hệ tư tưởng phân biệt nhau ở
quan niệm và vị thế vai trò của con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài
nhưng vẫn gặp nhau ở việc trao cho thiên nhiên một vị thế đặc biệt quan trọng và
hướng con người vào việc thiết lập, duy trì mối quan hệ hài hòa với thiên nhiên vì
chính sự tồn tại, phát triển của mình. Đây chính là cơ sở để Phê bình sinh thái trong
văn chương có thể được nhìn nhận đa diện hơn.
Tuy nhiên, những biến động lịch sử, tư tưởng Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX
- đầu thế kỷ XX chi phối đến tư tưởng và lựa chọn sống của tầng lớp nhà nho (trong
đó có trườ ng hơ ̣p Nguyễn Khuyến) sẽ đặt ra hàng loạt các câu hỏi về vị thế của
thiên nhiên cũng như mối quan hệ của nó với con người được phản ánh trong thời
kỳ này.
Sau hàng loa ̣t những công trình và thành tựu nghiên cứ u về Nguyễn Khuyến
từ gó c đô ̣ tư tưở ng, đă ̣c thù sáng tác thờ i trung đa ̣i , phê bình văn học sinh thái với tư
39
cách là một kiểu tiếp cận liên ngành mang tính "ngoại quan" sẽ là mô ̣t góc nhìn hứ a hẹn cho việc tìm hiểu vấn đề thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Khuyến cũng
như vai trò củ a lối tiếp câ ̣n này vớ i đa ̣o đứ c sinh thái củ a con ngườ i .
40
Chƣơng 2
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến – “chốn cũ lui về”
Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, ở luận văn này, chúng tôi tìm hiểu thiên
nhiên trong thơ Yên Đổ với tư cách là một môi trường sống bao gồm cả vật chất và
tinh thần, nhằm làm rõ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tức là trả lời
cho hai câu hỏi: 1. Con người sống trong môi trường đó như thế nào? 2. Con người
ứng xử với thiên nhiên ra sao? Để làm sáng tỏ cho hai câu hỏi trên, chúng tôi khảo
sát môi trường thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến qua hệ sinh vật, qua bức tranh
thiên nhiên bốn mùa và những nơi chốn được nhắc đến. Bởi đây là những phương
diện cơ bản, quan trọng để nhận xét về vị trí của tác giả trong quan hệ với thiên
nhiên cũng như cách cư xử, sự tương tác, gắn kết của tác giả với môi trường thiên
nhiên.
2.1. Thơ thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Khuyến
Dựa theo Nguyễn Khuyến tác phẩm [33] – tài liệu sưu tầm đầy đủ nhất thơ
văn ông, chúng tôi lập một bảng thống kê sơ giản về thơ thiên nhiên trong sáng tác
của Nguyễn Khuyến như sau:
Số bài Trước khi về Yên Đổ Sau khi về Yên Đổ
TN TN TN TN
Thơ xuất xuất xuất xuất 86
chữ Số bài hiện Số bài hiện hiện hiện
Nôm trực gián gián trực
tiếp tiếp tiếp tiếp
23 8 5 63 13 11
TN TN TN TN
Thơ xuất xuất xuất xuất 267
chữ hiện Số bài hiện Số bài hiện hiện
Hán trực gián gián trực
tiếp tiếp tiếp tiếp
81 37 11 186 41 14
41
Từ bảng thống kê trên, chúng tôi có nhận xét như sau: ở “Chốn cũ lui về” –
bước ngoặt quyết định nguồn cảm hứng sáng tác, thơ ông nhiều hơn về số lượng và
cao hơn về chất lượng so với thời kì trước. Cụ thể: trước khi về Yên Đổ, ông sáng
tác 104/353 bài chiếm 29,5% số lượng sáng tác của ông; còn sau khi về Yên Đổ tỉ lệ
lớn hơn nhiều chiếm 70,5% với 249/353 bài. Trong thời gian này, thơ viết về thiên
nhiên hoặc có nhắc đến thiên nhiên chiếm tỉ lệ lớn thể hiện qua các số liệu sau:
trước khi về Yên Đổ, trong thơ chữ Nôm chiếm 56,5%, trong thơ chữ Hán chiếm
59,3%; thời kì sau khi về Yên Đổ, trong thơ chữ Nôm chiếm 38,1% còn trong thơ
chữ Hán chiếm 29,5%. Như vậy, thơ viết về thiên nhiên hoặc có nhắc đến thiên
nhiên chiếm 1/3 số lượng các bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến
(kể cả chữ Hán và chữ Nôm).
Dừng lại ở quãng thời gian trước khi về Yên Đổ của Nguyễn Khuyến, chúng
ta thấy: nếu tính từ năm 18 tuổi đi thi hương khóa đầu tiên (1852) cho đến lúc quyết
định cáo quan , Nguyễn Khuyến có khoảng trên 30 năm theo đuổi hoài bão, chí
hướng. Trong khoảng 30 năm Nguyễn Khuyến làm quan (kể từ năm 1852 - đi thi
hương khóa đầu tiên đến năm 1884 - ông cáo quan về ở ẩn) xã hội, đất nước trải qua
nhiều sóng gió: nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn sụp đổ. Bản thân bạn bè ông -
những nhà Nho trí thức vốn mang trong mình lý tưởng và sứ mệnh cứu nước, cứu
đời nay cũng thất thế. Còn Nguyễn Khuyến chọn cho mình con đường từ bỏ quan
trường trở về với đời sống nông thôn. Với sự phức tạp về bối cảnh xã hội và bản
thân như vậy nên thiên nhiên - môi trường sống vật chất và tinh thần trong thơ ông
cũng khá phức tạp.
Trước khi về Yên Đổ, Nguyễn Khuyến có điều kiện đi rất nhiều nơi. Những
không gian rộng lớn, tươi đẹp của núi non, sông hồ, những danh thắng đều được
ông ghi lại trong thơ. Chùm thơ hành trình (40 bài) như một tập nhật kí đi đường
ghi lại những địa danh, những cảnh quan tác giả đi qua, chiêm ngưỡng. Cảnh vật
vào thơ ông từng mảng khối mà ít có những góc cạnh sắc sảo, sinh động, nếu xóa đề
bài bài thơ đi thì dùng vào cảnh nào tương tự cũng được:
Bóng non khói loãng dường như vẽ
42
Nét đá sương thưa có chút gày
(Núi Ngọc Nữ)
Thơ đề tài vịnh thời kì này loại cảnh và vật không gắn với một địa danh cụ
thể nào mà như đâu cũng có: Đêm thu trên núi, bóng hoa dưới suối xuân; tiếng ve
kêu, tiếng suối reo, cỏ tóc tiên, hoa râm bụt…
à một không gian Thiên nhiên trong sáng tác củ a Nguyễn Khuyến lú c này l
hoạt động khoáng đạt, hào hùng:
Bát diện thôn khư nhất đính cô,
Tài đăng vạn tượng nhập trung đô.
Phong kinh vân lộng Thường Nga ảnh,
Vũ tễ thiên cao Bắc Đẩu khu.
Phẩm vật nhất thiên kim thế giới,
Giang sơn tứ cố ngọc dư đồ.
Sương minh hà xứ thu thanh đáp,
Hoán khởi Âu Dương táo tứ tô.
(Chon von một ngọn bốn bên làng,
Tầm mắt thu đầy cảnh tám phương.
Mây giỡn bóng Nga cơn gió thoảng,
Mù tan, sao Đẩu đỉnh trời quang.
Non sông khắp phía long lanh ngọc,
Cảnh vật đầy trời rực rỡ vàng.
Hiu hắt hơi thu sương thánh thót,
Cảnh tình gợi lại phủ An Dương.)
(Thu sơn tiêu vọng - Đêm thu trên núi ngắm cảnh)
Thiên nhiên trên núi trong một đêm thu được quan sát từ trên cao "đăng cao
viễn vọng" này rất phổ biến trong văn chương trung đại. Ở vị trí này, cảnh và người
rõ ràng tách biệt nhau, nhưng nguyên tắc "tả cảnh ngụ tình" lại kéo cảnh và người
lại gần nhau. Mối quan hệ này ta có thể tìm thấy trong một bài thơ khác của Nguyễn
Khuyến:
43
Vạn lại vô thanh nhĩ ngoại doanh,
Trung sơn tối ái ngọc tuyền thanh.
Xuyên nham độ lĩnh tùy phong chuyển,
Khích thạch minh cầu đới vũ thanh.
Khê giản tung hoành ngư xuất thính,
Sinh ca hòa đáp điểu đa tình.
(Giữa lúc bốn bề vắng lặng, lại có tiếng suối rộn bên tai,
Ấy là tiếng suối ngọc trong núi mà ta thích nhất.
Luồn qua hang, vượt qua núi, vang vọng chuyển theo làn gió
Xô vào đá, xiết vào cuội, trong trẻo kèm theo tiếng mưa rơi.
Ngang dọc trong khe núi, cá cũng ra lắng nghe,
Như tiếng họa đáp của sênh ca, chim cũng gợi tình.)
(Tuyền vận - Tiếng suối reo)
Âm thanh tiếng suối giữa không gian vắng lặng đem lại cảm giác thư thái
trong tâm hồn người thưởng cảnh. Ở đây, người viết đã thể hiện được sự hòa nhập
tự nhiên giữa thế giới bên ngoài và bên trong.
Đến bài:
Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh,
Đội tọa thư đường khán nguyệt minh.
Hà xứ phong thu xuy nhất diệp,
Dẫn lai vô hạn cố viên tình.
(Bốn mặt non sông vắng lặng tờ,
Phòng văn tựa ghế ngắm gương Nga.
Lá thu một chiếc bay trong gió,
Khêu gợi bao nhiêu nỗi nhớ nhà.)
(Thu dạ hữu cảm - Cảm xúc đêm thu)
thì thiên nhiên chia sẻ tâm tư, nỗi niềm của tác giả.
44
Xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến trước khi về Yên Đổ với tư cách là một
môi trường sống, thiên nhiên trong thơ ông cũng có khi thể hiện cảm nhận hoài cổ
khi đứng trước những phế tích:
Nhất đới Hoành Sơn thiên địa gian,
Khách trình thu tứ tại cầm tôn.
Huyền nhai khê thị bán không thủy,
Phù hải sơn như nhất điểm ngân.
Đao chủy hữu đào kinh khách đĩnh,
Ngưu sơn vô thụ ẩn hàn thôn.
Ninh công cố lũy lư hà ngoại,
Đối thử kim nhân dục đoạn hồn.
(Trời đất một vùng núi chắn ngang,
Rượu đàn mượn giải nỗi đường trường
Suối treo non biếc phơi dòng bạc,
Đảo nổi khơi xanh vết sẹo loang.
Sóng mỏm Đao kinh thuyền mái lạ,
Bóng đồi Ngưu giấu rặng tre làng,
Lũy ông Ninh rậm lau cùng lách,
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.)
(Quá Hoành Sơn - Qua đèo Ngang)
Không khí thê lương còn trở lại trong một bài thơ khác của ông:
Thử hương thủy thạch lâm tuyền địa,
Tiền đại y quan lễ nhạc đình.
Đồng đính vô nhân mi lộc ngọa,
Nguyên điền hữu vũ thử miêu thanh.
Bá vương hưng phế đẳng nhàn sự,
Kim cổ vãng lai nhân thế tình.
Trù tướng kiều đầu tần diểu vọng,
Vân yên thụ tế nhất cầm thanh.
45
(Làng này là đất có đủ suối rừng, non nước,
Chính là chốn mũ áo, lễ nhạc của triều trước.
Ruộng bờ nay không bóng người, chỉ có hươu nai nằm,
Đồng ruộng được mưa, lúa mạ đều xanh tốt.
Sự nghiệp bá vương thịnh rồi suy, là chuyện gác ngoài tai,
Xưa qua nay lại là tình người đời.
Đứng đầu cầu, nhìn ra xa, lòng buồn man mác,
Trong đám cây lẫn mây mù, vẳng một tiếng chim kêu.)
(Bố Vệ kiều hoài cổ - Trên cầu Bố Vệ, chạnh nhớ chuyện xưa)
Bài thơ vẽ ra cảnh đối lập giữa xưa: "Làng này là đất có đủ suối rừng, non
nước/Chính là chốn mũ áo, lễ nhạc của triều trước" - môi trường sống bình yên lãng
mạn, trù phú và nay: " Ruộng bờ nay không bóng người, chỉ có hươu nai nằm /
Đồng ruộng được mưa, lúa mạ đều xanh tốt" - môi trường sống hoang tàn, thê
lương, vắng bóng con người. Hình ảnh thế giới tự nhiên tiêu điều thành biểu tượng
cho sự đổi thay lịch sử, thậm chí nó được gộp hợp vào để làm tăng thêm sức biểu
cảm của bài thơ.
Tóm lại, sáng tác viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến trước khi về Yên
Đổ có hình ảnh thiên - nhân gắn bó, giao hòa, và cũng có một hình bóng con người
phủ khắp cảnh vật được khắc họa.
Trước những biến động phức tạp của xã hội, Nguyễn Khuyến đã dứt khoát ra
về: "sống ở quê nhà, phần vì già yếu, phần vì loạn lạc, đi lại phiền phức, cuộc sống
ẩn dật của ông thu hẹp lại trong xóm làng" [36, 210]. Ở bước ngoặt đó, Nguyễn
Khuyến không chỉ cởi bỏ mũ áo mà còn giải phóng nhiều ràng buộc khác để từng
bước nhận thức lại giá trị của đời sống, xác định lại ý nghĩa của đời sống. Các nhà
nghiên cứu đều đánh giá hành động trở về Yên Đổ của Nguyễn Khuyến, là bước
ngoặt quan trọng nhất của đời ông, chính bắt đầu từ đây những tác phẩm thơ xuất
sắc nhất của ông ra đời.
2.2. Thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến khi lui về chốn cũ
46
Có thể tìm thấy một sưu tập nhỏ về các loài sinh vật vừa lạ vừa quen trong
những bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến không phải
trường hợp đặc biệt khi hệ sinh vật được tác giả lựa chọn nhắc đến trong thơ là hệ
thống sinh vật quen thuộc mang tính biểu tượng, ước lệ trong văn học trung đại.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn là sự xuất hiện của những "sinh vật lạ". Lạ so với thư
tịch nhưng lại gần gũi với đời sống thường nhật và hoạt động sản xuất của người
bình dân. Hơn nữa, khi về ở ẩn, với sự phức tạp của bối cảnh xã hội và tư tưởng của
bản thân nên thiên nhiên - môi trường sống vật chất, tinh thần trong thơ ông cũng
trở nên đặc biệt hơn.
2.2.1. Hệ thực vật trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến
Trước tiên, phải kể đến các loài thực vật quen thuộc trong văn học cổ là:
tùng, cúc, trúc, mai. Nói đến những loài cây này là nói đến những phẩm chất cao
quý, tốt đẹp của người quân tử. Thi pháp chung của văn học trung đại dẫn các tác
giả đến việc đồng nhất các hiện tượng cuộc sống vào một số hình ảnh tiêu biểu. Khi
tìm hiểu về những loài cây này, nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Sơn cho rằng một
trong những đặc trưng thẩm mĩ của văn chương nhà nho là lấy các hình ảnh của
tùng, cúc, trúc, mai để đại diện cho cái đẹp nhân cách chủ thể: "Nhân cách ấy cứng
cỏi, ngay thẳng như trúc, thanh khiết như bông mai, ưu trội như cúc vàng trong tiết
thu. Nhân cách ấy được nhìn nhận là thiên tính bất biến như cây tùng, cây bách.
Những tùng, cúc, trúc, mai với phẩm chất thiên phú ưu việt thực chất là những phù
hiệu nghệ thuật, là công cụ ngoại hóa cho cái đẹp của tinh thần nội tại, cái đẹp nhân
cách nhà nho" [49, 5].
Thế nhưng, có thể nói , riêng “tù ng” la ̣i vắng mă ̣t trong sáng tác củ a Nguyễn Khuyến. Điều đó cũng có nghĩa là biểu tươ ̣ng kèm theo lo ại cây này để thể hiện một trong những phẩm chất củ a ngườ i quân tử đã khuyết vắng ở Nguyễn Khuyến . Còn hình tượng bông cúc vượt lên trên mọi loài, khác với mọi loài chính là ở
sức mạnh tiềm ẩn của tinh thần nội tại, nó là biểu tượng của sự kí thác của một đời
sống tâm tính nội tại:
Nào hoa chẳng bén khí dầm hâm,
47
Có mấy bầu sương nhụy mới đâm.
Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn,
Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
(Nguyễn Trãi. Cúc)
Nhà nho coi bông cúc nở trong sương cũng như người quân tử tu dưỡng đạo đức,
cốt cách, tinh thần. Khó khăn, gian khổ là điều kiện rèn luyện họ, là điều kiện để họ
thực hiện những phẩm chất riêng có của mình.
Cây tùng có khả năng tự nhiên là chống trọi được với gió rét, cứng cáp "nhà
cả đòi phen chống khỏe thay":
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông.
Lâm tuyền ai rặng già làm khách,
Tài đống lương cao ắt cả dùng.
(Nguyễn Trãi. Tùng - bài 1)
Nhà nho coi ngoại cảnh khốc liệt, khó khăn chính là cơ hội để rèn luyện, để
thực hiện những phẩm chất ưu trội. Năm rét để thách thức tùng bách.
Trúc lại có vẻ đẹp riêng của nó: ruột rỗng, đốt cứng, không vì gió mưa, bão
táp mà nghiêng đổ. Trúc tượng trưng cho chí khí kiên cường, cái hư tâm không
màng lợi lộc của người quân tử:
Kỳ viên dưỡng dục nẻo sơ đông,
Dạn mặt dầu cành thuở gió rung.
Giá chẳng xâm hay tiết cứng,
Trăng những tỏ biết lòng không.
(Hồng Đức quốc âm thi tập. Trúc thụ - Cây trúc)
Mai trở thành vật tỷ dụ cho tấm lòng cao khiết của nhà nho:
Càng thuở già, càng cốt cách
Một phen giá, một tinh thần.
(Nguyễn Trãi. Thơ mai)
48
Trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, trúc được nhắc đến 8 lần;
cúc: 5 lần; mai: 7 lần còn lại là thủy tiên: 3 lần, hoa trà: 1 lần, sen: 4 lần, cỏ: 7 lần,
liễu: 3 lần...
Điều đặc biệt là trúc được nhắc đến trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến lại rất gần gũi, quen thuộc. Trong 8 lần xuất hiện1, hầu hết trúc đều là hình
ảnh của tự nhiên, của phong cảnh nông thôn miền Bắc bình dị.
Trong bài "Vịnh mùa thu", trúc là một nét vẽ được tạo ra với hai không gian:
trời - nước:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao.
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Ở không gian bao la ấy, những cần trúc xa xa từ thôn vắng lả ngọn theo làn
gió thu nhẹ nhàng, uyển chuyển càng tô đậm sắc thu: "Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu"
như làm sống động bầu trời vốn tĩnh lặng. Không gian được mở ra với nhiều tầng từ
cao xuống thấp, một không gian tĩnh lặng, nên thơ khơi dậy nỗi lòng của thi sĩ: một
niềm hoài vọng quá khứ. Ở đây , trúc hoàn toàn nằm ngoài tính biểu tượng quen
thuộc của nó.
Có khi, trúc lại là tín hiệu báo thu về:
Khứ tuế phùng quân kim nhất niên,
Hoàng hoa thúy trúc nhập thu niên.
(Năm ngoái gặp bác đến nay vừa một năm,
Cúc vàng, trúc biếc trời đã sang thu.)
(Ký Khắc Niệm Dương niên ông –
1 Vịnh mùa thu, Câu cá mùa thu, Xuân hứng, Ký Khắc Niệm Dương niên ông, Đinh Hợi
nguyên Đán, Vịnh cúc, Nhân tặng nhục, Ức Long Đọi sơn.
49
Gửi bạn đồng khoa họ Dương ở xã Khắc Niệm)
Cũng có khi nhà thơ Yên Đổ lại mượn trúc để nói về cách cư xử của con
người trong xã hội:
Thập niên hồi thủ độc sầu dư,
Thế sự nhân tình tiệm bất như.
Đồng loại tương tranh, trúc phọc trúc,
Lợi tâm vô yếm, ngư thôn ngư.
Khả liên kim nhật thùy vi ngạnh,
Sở dĩ tiền nhân dục phế thư.
Ký ngữ thành môn tương thức giả:
Phong trần mãn lộ, vị qui dư?
(Ngoảnh lại mười năm trước, mà lòng ta buồn riêng,
Thế thái nhân tình dần dần khác xưa.
Cùng giống mà tranh giành nhau, thật là tre lại trói tre,
Lòng tham lợi quá đỗi, thành ra cá lại nuốt cá.
Đáng thương thay nỗi khổ ngày nay bởi ai mà nên?
Vì vậy, người xưa đã muốn bỏ sách xuống mà than thở.
Gửi lời nhắn người quen thuộc nơi thành thị:
Gió bụi đầy đường rồi mà còn chưa về ư?)
(Độc thán - Than một mình)
Như vậy, những sáng tác trên của Nguyễn Khuyến cho thấy điều đặc biệt
hình ảnh của trúc không mang ý nghĩa biểu tượng cho phẩm chất của người quân tử
thường thấy trong thơ cổ, lại càng không phải là hình ảnh trúc của Đông Pha trong
sách vở. Trúc xuất hiện trong thơ Yên Đổ có lúc là nét vẽ của phong cảnh nông
thôn, có lúc lại gắn bó với con người trong một mối quan hệ thật gần gũi.
Bên cạnh sự xuất hiện của trúc, trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn
Khuyến còn có sự xuất hiện của cúc, mai. Trước hết, nó là hình ảnh đẹp của tự
nhiên, là loài cây quen thuộc trong vườn nhà của vị hưu quan:
Bùi viên ngô cựu trạch,
50
Tứ thập niên kim nhật phú qui lai
Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,
Phiêu nhiêu hữu khâu hác lâm tuyền chi dật thú.
(Vườn Bùi, nơi nhà cũ của ta,
Đã bốn mươi năm, ngày nay mới lại trở về.
Này tùng, này cúc, này mai,
Phơi phới có cái dật thú núi, khe, rừng, suối.)
(Bùi viên cựu trạch ca - Bài ca nhà cũ ở xứ vườn Bùi)
Cúc và mai xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến không đơn thuần là yếu tố tự
nhiên mà còn là người bạn tâm giao để ông trò chuyện:
Bách hoa khai thời nhĩ vị khai,
Bách hoa lạc hậu nhĩ phương lai.
Độc đương hàn tuế thùy vi ngẫu?
Bất lạc phương tâm chân khả ai!
Ly bạn sâm si bán lục trúc,
Song tiền niểu ná tấn hồng mai.
Hàm bôi tọa khán nhất vi tiếu,
Bất phụ hưu ông tích nhật tài.
(Khi trăm hoa nở thì ngươi chưa nở,
Trăm hoa rụng rồi mới thấy ngươi đến.
Một mình chọi với rét mướt hàng năm, lấy ai làm bạn?
Giữ được tấm lòng thơm không lạt, nghĩ thật đáng thương!
Trong lúc đó bên bờ giậu lô nhô những cây trúc xanh nửa vời,
Trước cửa sổ cây mai hồng mềm mại mới nẩy.
Ta ngậm chén ngồi nhìn, mỉm miệng cười:
Thật không phụ công ông già về hưu đã vun trồng tự trước.
(Vịnh cúc)
Hay:
Thử tử bất tri hà xứ lai?
51
Tiểu viên cách tuế ngẫu nhiên tài.
Diệp do vị phát, hoa tranh phát,
Hoa kỳ bất phai, diệp thủy khai.
Oái uất dĩ phi quần thảo ngũ,
Thanh vân ưng thị bách hoa khôi.
Túy ông thần tịch các tương úy,
Thế mạc tử tri, chân khả ai!
(Không biết từ đâu đến đây?
Ngẫu nhiên năm trước được trồng vào mảnh vườn của ta.
Lá còn chưa mọc, hoa đã đua nở,
Hoa không nở nữa, lá mới nẩy ra.
Rườm rà tươi tốt, mọi cây đã không thể sánh kịp.
Mùi hương mát dịu, đáng đứng đầu trăm hoa.
Chỉ có ông say sớm tối thường an ủi người,
Con người đời không biết ngươi thật đáng buồn.
(Vịnh mai)
Hình ảnh của cúc, mai trong những bài thơ trên khiến người đọc liên tưởng
đến những phẩm chất cao đẹp của người quân tử (chí khí kiên cường, tấm lòng cao
khiết). Nhưng cũng như cây trúc, cúc và mai trong những bài thơ này còn là chỗ
tâm giao của một lão nhân. Như vậy, hàm nghĩa của biểu tượng này đã được mở
rộng hơn.
Bên cạnh những hình ảnh về các loài cây "truyền thống" như trên, chúng ta
còn thấy một hệ thực vật ít đặt chân đến địa hạt của thơ ca trước đó. Những loại rau
củ, sản vật nông thôn: cải (1 bài), cà (1 bài), bầu (2 bài), mướp (1 bài), lúa (13 bài),
gạo (1 bài), trầu (5 bài), vải (3 bài), hòe (3 bài), lạc (2 bài), hành (2 bài), đỗ (5 bài),
chuối (7 bài), dâu (5 bài)... những thứ cây có "thân phận" thấp bé: bèo (2bài), cỏ (18
bài), ấu (3 bài), lau sậy (5 bài)... Hay những loài cây quen thuộc ở nông thôn, điển
hình là cây tre (14 bài):
Khước thử ly tiền tu trúc hợp
52
Ngâm phong trì bạn tiểu lăng khai.
(Lùm tre cao ken lại trước hàng rào che bớt ánh nắng,
Đám ấu nhỏ bên bờ ao reo vui trong gió.)
(Hạ nhật thư hương sinh Nguyễn thị trang –
Ngày hè đề nhà Hương sinh họ Nguyễn)
Tác giả hiện lên là một lão nông thực sự giữa ruộng vườn:
Chỉ hữu tiểu viên thông giới tú,
Bất lao quán khái tự bà sa.
(Chỉ có cải, hành ở vườn nhỏ này là xanh tốt,
Không cần vun tưới khó nhọc, nó vẫn rườm rà.)
(Thái viên - Vườn rau)
Toàn bộ thế giới nói trên là những hình ảnh thiên nhiên có mối quan hệ mật
thiết với đời sống sản xuất của người nông dân. Các sinh vật nhỏ bé đã là đối tượng
phản ánh hơn nữa lại là đối tượng thẩm mĩ trong thơ. Những hình ảnh này đã được
tác giả đặt vào những vị trí có thể coi là đồng đẳng với hệ thống biểu tượng truyền
thống, và cả hai cùng hòa vào đời sống con người. Đây có thể coi là một cách phát
biểu triết lí môi sinh của Nguyễn Khuyến: chúng sinh bình đẳng, cân bằng sinh thái.
2.2.2. Hệ động vật trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến
Trong thơ Yên Đổ cũng xuất hiện những con vật mang tính biểu tượng hay
thuộc về điển tích, điển cố như: cuốc, cá, chim, ngỗng nhưng với số lượng ít (5 bài)
nhưng điểm khác biệt ở đây là chúng xuất hiện rất giản dị như là một phần của đời
sống nông thôn. Bên cạnh đó là những loài ít hoặc chưa từng xuất hiện trong thi ca:
lợn (5 bài), đom đóm (2 bài), gà (4 bài), trâu (5 bài), chuột (4 bài), chấy (1 bài), mèo
(3 bài), bọ ngựa (2 bài), ve (3 bài), cóc (4 bài), muỗi (3 bài), giun (2 bài), nhặng (1
bài), con thiêu thân (1 bài), mọt (1 bài).
Như đã nói, "Tả cảnh ngụ tình" không chỉ là quan niệm sáng tác mà còn là
đặc điểm mang tính thi pháp của văn học trung đại. Qua cảnh vật, đối tượng, tác giả
muốn bày tỏ cảm xúc, gửi gắm tâm trạng của mình. Điều đó có nghĩa là cảnh trong
văn chương Việt Nam trung đại về căn bản hiếm những cảnh vật "tự nó" mà thường
53
được dùng để chuyển tải "thế giới ý niệm". Nó luôn là thiên nhiên thể hiện qua lăng
kính chủ quan của tác giả với nền tảng tư tưởng định sẵn và ít nhiều tâm trạng, cảm
xúc riêng tư. Trong tình hình chung đó, sự xuất hiện những hình ảnh ít gặp trong
thư tịch sẽ là dấu hiệu hoặc tín hiệu nhất định cho một sự vượt thoát về tư tưởng,
cảm nhận.
Tần châm cựu úng dao tương tận,
Mỗi khủng đê điền cốc bất thu.
Tham thụy bất tri hề tữ túc.
Ái sơ đa vị sắt bôn đầu.
(Rượu ngon trong vò cũ, rót mãi đã cạn,
Lúa cấy ở ruộng thấp, sợ lại mất không.
Ngủ say đến nỗi chuột nhắt gậm chân mà không biết,
Thích chải lược vì đầu lắm chấy bò.)
(Thu vũ - Mưa thu)
Thơ xưa nay vẫn chuộng mỹ tự và sự tao nhã. Khó có thể tưởng tượng những
con vật nhỏ bé, hạ tiện như chuột nhắt, chấy… có thể đi vào thi ca. Vậy mà ở thơ ca
của Nguyễn Khuyến đã có. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền có nhận xét: "Có
thơ của một nhà thơ nào, nhất là các nhà thơ cổ điển lại có nhiều bóng dáng con vật
đến thế? Và đều là những con vật gắn bó, gần gũi với người nông dân, nhất là dân
đồng bằng chiêm trũng... có tới sáu, bảy mươi con vật khác nhau. Có con đom đóm
lập lòe đêm sâu. Có con cá vượt khóm rau lên mặt nước. Có tiếng cuốc kêu khắc
khoải thâu đêm ròng rã. Có bóng cò ngoài lũy nhấp nhô. Có con trâu bụi gốc già phì
hơi nắng. Có con chó nhỏ bên ao cắn tiếng người. Thậm chí có con sứa, con tôm,
con ba ba, con mèo... [33, 65].
Từ bóng hình các con vật bạn nhà nông đến các loài cây đồng quê li ti như
cải, bầu, mướp... thậm chí đến cả hạt lúa lúc nảy mầm, một bông hoa thập thò hé
nở... từ một tiếng trống ếch ình ịch ẩm hơi nước đến tiếng thở dài của một ông láng
giềng góa vợ...
54
Thơ trung đại vẫn ít nhắc đến động vật hơn thực vật như một hiện tượng khó
giải thích. Tuy nhiên, trong thơ Nguyễn Khuyến chúng ta thấy số lượng cũng như
tần số xuất hiện của các động vật khá thường xuyên. Đặc biệt, có cả những con vật
bé mọn như trong bài thơ được trích ở trên. Hơn nữa, chúng xuất hiện một cách tự
nhiên, chung sống hài hòa, có lúc đan xen với thực vật, và thậm chí đôi khi còn đem lại cảm giác an vui cho con người, hòa vào sinh hoạt của con người.
2.2.3. Bức tranh tứ thời trong thơ Nguyễn Khuyến
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến được đặt trong sự biến đổi không
ngừng về thời gian, sự tuần hoàn vô hạn của tạo hóa đồng thời được đặt trong thế
giới tâm tư tình cảm của tác giả: xuân - hạ- thu - đông. Sự tuần hoàn của vũ trụ thể
hiện qua sự đắp đổi các mùa trong năm.
Thống kê trong những sáng tác viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, thấy
có 13 bài thơ viết về mùa xuân, 26 bài viết về mùa hè, 28 bài viết về mùa thu, 3 bài
nói về mùa đông. Phải chăng có một sự thiên ái, ở đây?
Từ bao đời nay mùa xuân tươi đẹp giàu sức sống không chỉ làm say đắm
lòng người mà còn là đề tài bất tận của thơ ca. Mùa xuân cũng đã từng thức dậy ở
Nguyễn Khuyến nguồn thi hứng dồi dào. Trước Nguyễn Khuyến, trong văn học
Việt Nam chúng ta gặp không ít những bài thơ xuân sâu sắc ý tình. Mỗi tác giả, mỗi
giai đoạn văn học lại có một phong vị riêng, một sắc thái thơ xuân riêng, biểu hiện
cái cốt cách của nhà thơ và thời đại mình. Có thể nói Phạm Sư Mạnh muốn lấy cả
dòng xuân làm nghiên mực, một Trần Nhân Tông chợt thấy mùa xuân đã về qua vẻ
quyến luyến của đôi bướm trắng, một Chu Văn An nhìn cuộc sống mùa xuân đang
vươn lên với phong thái an nhiên của một ẩn sĩ cao khiết. Chúng ta đã biết một mùa
xuân trong nỗi khắc khoải chờ đợi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của
Đoàn Thị Điểm, mùa xuân của những gặp gỡ trong Sơ kính tân trang.
Đến Nguyễn Khuyến, thơ xuân không có cái đắm say, tâm hồn tác giả không
quan tâm nhiều đến những giá trị thẩm mĩ cao đẹp của mùa xuân mà thường là nỗi
cám cảnh cho thân phận con ngườ i, trong đó có chính nhà thơ. Với ông già Yên Đổ, mùa xuân giờ đây khơi dậy nỗi đau thương li loạn:
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
55
Người gặp khi cùng, cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?
(Ngày xuân dặn các con)
Hay bệnh tật tuổi già:
Tân thiều đán đán mãn thiên sương,
Thán tức nhân cùng tuế hựu hoang!
Dược vị thục thời tiên hữu khí!
Hoa tương lạc xứ thả lưu hương.
Sầu đa dạ lãn thính nhi độc,
Tửu quý xuân nan hoán khách thường,
Chỉ hữu tạc tiêu phùng tiểu vũ,
Bệnh trung sải đắc nhất phân cường.
(Mới sang xuân, sớm sớm trời đầy sương,
Than nỗi người đã nghèo mà mùa lại mất!
Thuốc sắc chưa chín, mùi thuốc đã bay lên,
Hoa sắp rụng rồi, mùi hương còn phảng phất.
Buồn quá, đêm ngại nghe con đọc sách,
Rượu đắt, khó có thể mời khách thưởng xuân.
May có tối qua nhận được trận mưa nhỏ,
Bệnh tật cũng đỡ đi được đôi phần.
(Xuân bệnh, II - Mùa xuân bị ốm, II)
Rất hiếm có bài thơ nào thể hiện niềm hứng khởi của nhà thơ khi mùa xuân
về. Thậm chí, ngày đầu xuân - khoảng thời gian dễ làm lòng người phấn chấn, vui
say với cảnh sắc đầu năm, lòng người rộn ràng đón chờ một năm mới an lành,
nhưng với Nguyễn Khuyến, niềm hứng khởi ấy cũng thật miễn cưỡng. Trong bài
"Khai bút", tác giả có viết:
Ình ịch đêm qua tiếng trống làng,
Ai ai mà chẳng rước xuân sang.
56
Rượu ngon nhấp miệng đưa vài chén,
Bút mới thò tay thử mấy hàng.
Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ Tổng,
Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang.
Để rồi cuối bài thơ xuất hiện một tâm trạng ưu tư, còn nhiều lo lắng, phân
vân:
Mỗi năm một tuổi trời cho tớ!
Tuổi tớ trời cho tớ lại càng...
(Khai bút)
Còn đây là bức tranh mùa hè. Như con số thống kê trên đã chứng tỏ, đây là
mùa được tác giả nói đến nhiều nhất.
Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thật oi ả.
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả,
Nỗi ấy ngỏ cùng ai?
(Mùa hè)
Nguyễn Khuyến đã cực tả được cái oi ngột của ngoại cảnh qua hai nét chấm
phá điển hình là âm thanh của tiếng dế và đàn muỗi để thể hiện những bức b ối nội
tâm.
Hay:
Hè này nóng khổ quá,
Cỏ khô, đầm cạn cả.
Lại thêm ngọn gió tây,
Vật gì chẳng tàn tạ.
...Than ôi! Khổ trăm chiều!
Sao lại còn nghiệt ngã?
(Mùa hè năm Nhâm Dần)
57
Bài thơ thể hiện cái oi bức ngột nồng đến rã rượi. Chưa bao giờ cái ấn tượng
về nhiệt lại bức bối trong thơ như Nguyễn Khuyến. Bởi những vật vã vì thời tiết
mùa này thực ra là sự vật vã trong tâm can Nguyễn Khuyến. Và chính bởi ý nghĩa
này mà tần suất dày đặc của mùa hè trong thơ Nguyễn Khuyến thành một chi tiết có
ý nghĩa phá cách, dù cách liên tưởng thì dường như không mới.
Là thi sĩ của cảnh quê, của các mùa nông thôn, Nguyễn Khuyến làm nhiều
bài về mùa xuân, mùa hạ, mùa đông nhưng nhiều nhất vẫn là mùa thu. Với không
gian nhè nhẹ, bàng bạc, đậm chất u hoài, hơi thu se sắt thấu tận tâm can, vạn vật
chớm tàn phai nhưng lại đẹp đến nao lòng. Đáng kể nhất là chùm thơ thu 3 bài của
Nguyễn Khuyến: Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh. Mỗi bài mang một nét đẹp khác
nhau, đều thể hiện được sự giao hòa giữa cảnh thu và nhà thơ. Điều đáng chú ý là cả
3 bài thơ thu này đều nói đến màu xanh của bầu trời thu. Đây là cái ấn tượng, điểm
nhấn về không gian trong tâm hồn nhà thơ Yên Đổ. Có lẽ cái hồn, cái thần nằm ở
bầu trời thu xanh ngắt đó.
Ở "Thu điếu" là:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Trong "Thu ẩm" là:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Còn ở "Thu vịnh" là:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Thế nhưng, khoảnh khắc đẹp của mùa thu như đã khảo sát ở trên không phải
là nhiều. Điều đặc biệt trong những bài thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến là ám
ảnh về thời tiết với những lo âu:
Bán yểm sài phi tọa vãn thu,
Phong phong vũ vũ sử nhân sầu.
Tần châm cựu úng dao tương tận,
Mỗi khủng đê điền cốc bất thu.
Tham thụy bất tri hề tữ túc.
Ái sơ đa vị sắt bôn đầu.
58
Tiền trình thản tức đồ nê thậm,
Nễ kính u hoàng hệ điếu chu.
(Cuối thu, ngồi bên cửa sài hé mở,
Gió gió, mưa mưa làm dạ thêm sầu.
Rượu ngon trong vò cũ, rót mãi đã cạn,
Lúa cấy ở ruộng thấp sợ lại mất không.
Ngủ say đến nỗi chuột nhắt gậm chân mà không biết,
Thích chải lược chỉ vì đầu lắm chấy bò.
Than thở vì con đường phía trước quá bùn lầy,
Chỉ còn biết buộc thuyền câu vào bụi tre trong ngõ tối.)
(Thu vũ - Mưa thu)
Mùa thu là thời điểm người nông dân vào mùa gă ̣t hái. Công việc này phụ
thuộc rất nhiều vào thời tiết, ấy thế mà trời cứ "gió gió mưa mưa" khiến nhà thơ lo
lắng cho vụ mùa "sợ lại mất không".
Thâ ̣m chí, đôi khi mùa thu la ̣i có cái nóng bất thường : Dĩ quá trùng dương khí thượng ôn,
Hàm bôi, tận nhật ỷ sài môn.
Lục hoàn thủy đái nghi tương thúc,
Thanh nhiễm thiên y bất kiến ngân.
Phong thử thường như ngũ lục nguyệt,
Vũ lôi viễn nhập lưỡng tam thôn.
(Đã qua tiết trùng dương mà khí trời vẫn còn nóng,
Suốt ngày chỉ ngồi tựa cửa sài uống rượu.
Dòng nước biếc vây quanh, tưởng như cái đai thắt lại.
Da trời xanh ngắt như chiếc áo không thấy vết khâu.
Nắng gió vẫn như ngày tháng năm tháng sáu,
Tuy có mưa sấm nhưng ở tận mấy làng xa.)
(Thu nhiệt - Mùa thu trời nóng)
Hay lụt bất thường khiến ông già Yên Đổ hoang mang:
59
Vô đoan thu lạo trướng pha đường,
Thu vũ thu phong thu khí lương.
Dã đỉnh một cao tam xích thiển
Viên sơ bại diệp nhất phân hoang.
Nhiễu đình xác thực nga khuy úng,
Ty thấp đầu can khuyển thượng sàng.
Thụy khởi đông phong sầu độc tọa,
Kiêm hà diểu diểu vọng thiên phương.
(Bỗng dưng lụt thu dâng lên ngập hết ao bờ,
Mưa thu, gió thu làm cho khí trời mát mẻ.
Thuyền đi ngoài đồng, nước lút con sào, nơi nông cũng ba thước,
Vườn rau nát cả lá, bỏ hoang mất một phần.
Con ngỗng tìm ăn quanh sân, ngó đầu vào vại,
Con chó tránh ướt tìm khô, nhảy cả lên giường.
Ngủ dậy, buồn ngồi một mình với gió đông,
Xa xa khắp mọi phía chỉ thấy một màu lau lách.)
(Thu lạo - Lụt mùa thu)
Còn vớ i mùa đông, Nguyễn Khuyến dườ ng như bi ̣ ám ảnh về cái lạnh tê tái:
Úy hàn, dạ bão hỏa lô miên.
Cận lai lãn hướng tây viên thươ ̣ng,
(Sợ lạnh, đêm ôm lòng ấp mà ngủ,
Gần đây lười không ra thăm vườn tây.)
(Đông chí - Tiết Đông chí)
Nguyễn Khuyến có rất nhiều thơ về bốn mùa, về những chuyển động của
mùa vụ, tiết trời nhưng có một điều dường như "bất di ̣ch" đó là tâm trạng bất lực,
không lối thoát của thi nhân. Đọc thơ Nguyễn Khuyến có thể nhận ra rất rõ sự chu
chuyển âm dương thể hiện thành vòng xoay bốn mùa, song dường như nó chỉ chu
chuyển một thứ, đó là tâm sự "lui về" của một bộ phận không nhỏ trí thức nho học
60
lúc bấy giờ. Trạng thái này có thể coi là một kiểu hòa trộn cũ - mới trong cách nhìn,
cách sử dụng thiên nhiên.
Thiên nhiên bốn mùa trong thơ Nguyễn Khuyến rõi theo bước đi của thời
gian trong tâm trạng hắt hiu, cô độc. Thời gian gắn chặt với tâm trạng buồn chán
của chủ thể cảm thụ ở Nguyễn Khuyến bộc lộ khá rõ. Mùa xuân trong thơ ông chủ
yếu là những xuân hàn, xuân bệnh, xuân sầu, hay “xuân về ngày loạn càng lơ
láo”… Mùa hè là nỗi khổ vì oi nóng, lũ lụt. Mùa thu buồn, lạnh, tĩnh mịch, cảnh vật
cũng như con người đều nằm trong thế vận động yếu ớt, vận động mà như bất động
(thể hiện rõ nhất trong chùm thơ thu ba bài mà điển hình nhất là Thu điếu). Mùa
đông cảnh hoang lương, con người nén buồn sợ lạnh, trễ nải, đồng hồ nước điểm
từng giọt, thời gian trôi đi kéo theo bao nỗi buồn thương (Đông chí, Trừ tịch,…).
Nguyễn Khuyến đã có những bước vượt thoát ra bên ngoài công thức vịnh bốn mùa. Chẳng hạn: hoa lan, hơi dương, hội đạp thanh…tượng trưng cho mùa xuân; lửa lựu,
sen tàn….tượng trưng cho mùa hạ; gió vàng hiu hắt, bóng nhạn thưa… tượng trưng
cho mùa thu; tuyết đưa hơi lạnh, gió phẩy mùa băng …tượng trưng cho mùa đông
… Bóng dáng, tâm trạng của nhân vật trữ tình buồn vui theo dòng chảy của tứ thời,
và thời gian thiên nhiên mang đậm màu sắc Việt Nam chưa bao giờ đậm nét đến
như thế trong thơ của Nguyễn Khuyến, đặc biệt qua thơ mùa thu và mùa hè.
2.2.4. Nơi chốn trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến
"Trong phê bình sinh thái, khái niệm nơi chốn có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu bên cạnh ba mối quan tâm lớn là chủng tộc, giai cấp và giới" [53, 2]. Không
phải ngẫu nhiên mà ở giai đoạn đầu, trong cái nhìn của các nhà sinh thái, nơi chốn
thể hiện sự tương giao, kết nối giữa lịch sử của con người với môi trường địa lí và
vật lí mà con người hít thở, chứng nghiệm.
Khi tác giả về ở ẩn tại Yên Đổ, không gian sống gắn liền với ao sâu, ngõ tối,
ruộng, vườn, ngôi nhà...., gắn với những hình ảnh nhỏ bé, bình dị. Tác giả tự miêu
tả như cuộc sống của mình như một lão nông trong thiên nhiên, trong không khí
làng quê. Môi trường đó thuần khiết bởi dường như chỉ có quan hệ giữa tác giả với
núi sông, cây cỏ, thú chim, trăng, gió... Trong môi sinh làng quê, vƣờn là một trong
61
những nơi chốn được Nguyễn Khuyến nói đến nhiều (19 lần)2. Vườn trong thơ ông,
dù có tên (Bùi viên) hay không có tên (Tiểu viên) đều là những không gian nhỏ.
Nhà thơ thường chọn khoảng thời gian ban ngày để miêu tả mảnh vườn với sắc
màu, âm thanh và hương thơm. Ở không gian này, nhà thơ dườ ng như tìm thấy sự
thư thái trong tâm hồn. Và chính nhờ gần gũi với đời sống thườ ng nhâ ̣t đó , tác giả đã đưa thơ ca về với cuộc sống.
Nhắc đến môi sinh làng quê, bên cạnh không gian vườn, còn phải kể đến
không gian ruộng. Người dân làng quê ông lấy nghề trồng lúa nước làm nghề chính
nên không gian này rất quen thuộc. Trong thơ Nguyễn Khuyến, không gian ruộng xuất hiện 17 lần3. Vùng quê Yên Đổ của tác giả là vùng chiêm trũng nên ấn tượng
về ruộng ở đây là thường thấp, và bị ngập úng.
Khi trở về Yên Đổ, phần vì loạn lạc, phần vì tuổi già nên Nguyễn Khuyến ít
đi đâu xa. Không gian gắn bó nhất với ông là ngôi nhà mình ở. Đó cũng là lí do vì sao không gian này xuất hiện nhiều nhất trong thơ ông (40 bài thơ)4. Không gian
2 Anh giả điếc, Bạn đến chơi nhà, Tặng người làng ra làm quan, Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy
mươi tuổi, Xuân nhật - I, Bùi viên cựu trạch ca, Bùi viên đối ẩm trích cú ca, Mộ xuân tiểu
thán, Hạ nhật ngẫu thành - I, Thư tứ tử Hoan lai kinh điện thí, Thái viên, Trúc phượng, Bùi
viên biệt thự hỉ thành, Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư, Thu lạo, Đông
chí, Ái quất, Tiểu viên - I, Tiểu viên - II. 3 Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi, Hỏi thăm quan tuần mất cướp, Tự thuật - II, Mạn
hứng, Xuân nhật hữu cảm, Thu vũ, Thư tứ tử Hoan lai kinh điện thí, Vãn đồng niên Vân
Đình tiến sĩ Dương thượng thư, Hạ nhật tân tình, Hỷ vũ - I, Hỷ vũ - II, Hạ nhật vãn điếu,
Thu lạo, Trúc phượng, Nghĩa ưng, Điền gia tự thuật, Điền gia tức sự ngâm. 4 Trở về vườn cũ, Cáo quan về ở nhà, Vịnh lụt, Uống rượu mùa thu, Lụt hỏi thăm bạn,
Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi, Ký môn đệ Mai Khê tú tài Hoàng Mạnh Trí, Xuân
nhật - II, Xuân hứng, Tức sự, Hạ nhật tân tình, Hạ nhật, Thu vũ, Tiểu viên - I, Hạ thực, Tự
thuật - I, Bệnh trung, Độc thán, Ngẫu tác, Ngẫu thành - I, Ngẫu thành - II, Độc tọa, Nhàn
tọa, Bài muộn- I, Xuân bệnh - I, Xuân bệnh - II, Hạ nhật ngẫu thành - I, Hạ nhật ngẫu
thành - II, Khổ nhiệt, Hàn vũ, Dạ muộn, Xuân nhật thị chư nhi - I, Phụng ủy nguyên Nam
62
ngôi nhà được miêu tả có lúc cụ thể, sinh động, thấp thoáng trong lời thơ là sự hài
lòng, mãn nguyện của tác giả:
Dư qui ngũ lục tải,
Sở cư nhất gian đường.
Tây nam trì thủy thanh,
Phủ kiến ngư dương dương.
Đông bắc ly trúc đa.
Song khai thần khí lương.
Phù cùng tứ xuất nhật,
Bằng kỷ tùy đê ngang.
Thừa hứng triếp túng ẩm,
Nhất ẩm lũy thập trường.
(Ta về nghỉ đã năm sáu năm,
Nơi ở có ngôi nhà bảy gian.
Phía tây nam có ao nước trong,
Cúi nhìn cá bơi lội thung thăng.
Phía đông bắc có bờ tre rậm,
Mở cửa sổ ra, khí giời buổi sáng mát mẻ.
Chống gậy tha hồ đi ra đi vào.
Tựa ghế ngồi muốn thấp muốn cao tùy ý.
Cao hứng lên rót rượu uống tràn,
Mỗi lần uống hàng mấy chục chén.)
(Hạ nhật ngẫu thành - 1. Ngày hè ngẫu thành - 1)
Có lúc không gian ngôi nhà chỉ xuất hiện một cách gián tiếp qua sự miêu tả
của tác giả:
Xương doãn Hoàng thúc, Hạ nhật thư hương sinh Nguyễn thị trang, Dữ ấp nhân dục thoại,
Tăng hành nhân Nguyễn đài, Ký Hà Nội Khiếu tiên sinh, Thư thị đồng xã tú tài Vũ Quy
Phú, Thư ký Nam đốc Dương niên ông, Vãn Vụ Bản xã Trần Đài (húy Xuân) mẫu táng.
63
Hà xứ huân phong nhập thảo đường,
Đông song thụy giác mộng hồn lương.
Lan tùng diệp chiếu hương qui tụ,
Trà uyển quang dao ảnh thướng lương.
Liễu xế thiềm tranh kinh lạp nghĩ,
Cách chi tước tứ bộ thiền lang.
Tiểu viên diệc hữu vô cùng thú,
Bằng kỷ trầm ngâm độc tự lường.
(Gió ấm từ nơi nào thổi vào nhà tranh,
Ngủ dậy bên cửa sổ phía đông, hồn mộng mát mẻ.
Khóm lan, lá xô xát nhau, đưa mùi hương vào tay áo,
Chén trà rọi bóng sáng long lanh trên xà nhà.
Bên thềm, con cóc đớp con kiến đang vác hạt gạo,
Cành cây bên cạnh, chim sẻ rình con bọ ngựa đang bắt ve.
Vườn nhỏ cũng có thú vị vô cùng,
Trầm ngâm ngồi tựa ghế một mình suy nghĩ.)
(Tiểu viên,1 - Vườn nhỏ, 1)
Dù là xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp, không gian ngôi nhà vẫn là nơi tác giả
gắn bó và tâm đắc nhất. Đây là nơi không chỉ che chở nắng mưa mà còn là nơi ông
sống thật với lòng mình nhất: "Cao hứng lên rót rượu uống tràn/Mỗi lần uống hàng
mấy chục chén."; "Trầm ngâm ngồi tựa ghế một mình suy nghĩ".
Một không gian nhỏ hẹp nữa cũng xuất hiện trong thơ ông đó là ngõ. Ngõ trong thơ Nguyễn Khuyến xuất hiện trong 4 bài thơ5 hầu hết là không gian tối, chật
chội, quanh co - đặc trưng của làng quê:
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
(Câu cá mùa thu)
Hay:
5 Câu cá mùa thu, Uống rượu mùa thu, Hạ nhật ngẫu thành - II, Dạ muộn.
64
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
(Uống rượu mùa thu)
Một không gian nữa nơi làng quê cũng được nhắc đến nhiều trong thơ
Nguyễn Khuyến là ao. Quê hương tác giả trước đây lắm ao, lắm vũng. Ao xuất hiện trong thơ ông 15 lần6 gắn với thú vui câu cá. Có lẽ không riêng gì Nguyễn Khuyến
mà dân quê cả vùng nhất là các ông già, lúc rảnh rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả
mồi câu cá, coi đó là một thú tiêu khiển chăng? Đối với cụ Tam nguyên câu cá dưới
ao quả là một lạc thú. Chẳng vậy, chỉ tính riêng chùm thơ thu 3 bài: Vịnh mùa thu,
Câu cá mùa thu, Uống rượu mùa thu đều xuất hiện không gian ao:
Nước biếc trông như tầng khói phủ
(Vịnh mùa thu)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
(Câu cá mùa thu)
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Uống rượu mùa thu)
Tóm lại, vườn, ruộng, ngôi nhà, ngõ, ao hay rộng hơn là thiên nhiên và thế
giới tự nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến đã trở thành một điểm nhấn quan trọng khi
lí giải mối gắn kết giữa lịch sử của mỗi cá nhân và nơi nuôi dưỡng họ.
Đối lập với nơi chốn "quê" là nơi chốn "thành thị". Nơi chốn này cũng được
nhắc đến nhiều trong thơ Nguyễn Khuyến. Chúng tôi thống kê có 23 bài liên quan đến "đô thị", "thành thị"7.
6 Câu cá mùa thu, Uống rượu mùa thu, Vịnh mùa thu, Anh giả điếc, Bạn đến chơi nhà, Sơn
hạ, Túy hậu, Ngẫu thành - II, Xuân hứng, Hạ nhật ngẫu thành - I, Nhâm Dần hạ nhật, Hạ
nhật thư hương sinh Nguyễn thị trang, Thu vũ, Thu lạo, Bùi viên biệt thự hỉ thành. 7 Gửi bạn, Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi, Hội tây, Độc thán, Mạn hứng, Ngẫu tác,
Độc Đào Nguyên ký hữu cảm, Vũ hậu xuân túy cảm thành, Xuân hàn cảm thành, Mộ xuân
tiểu thán, Tự trào, Tử Hoan lai kinh hội thí phú thi họa nguyên vân dĩ tặng, Thư tứ tử Hoan
lai kinh điện thí, Châu Giang Bùi thượng thư kinh hồi dục phong bất quả, thi dĩ ký - I,
65
Có lúc nó được nhắc đến một cách trực tiếp. Đó là nơi phồn hoa đô hội sầm
uất, náo nhiệt:
Cao trượng xa cải tẩu hồng trần
(Thôi cứ việc giương lọng, phóng xe trên cõi bụi hồng)
(Trào Cổ Pháp điện Thiếu Khanh -
Đùa ông Thiếu Khanh ở Cổ Pháp)
Đó cũng là nơi con người bon chen chạy theo vật chất, luôn tìm cách để hại nhau:
Thập niên hồi thủ độc sầu dư,
Thế sự nhân tình tiệm bất như.
Đồng loại tương tranh, trúc phọc trúc,
Lợi tâm vô yếm, ngư thôn ngư.
Khả liên kim nhật thùy vi ngạnh,
Sở dĩ tiền nhân dục phế thư.
Ký ngữ thành môn tương thức giả:
Phong trần mãn lộ, vị qui dư?
(Ngoảnh lại mười năm trước, mà lòng ta buồn riêng,
Thế thái nhân tình dần dần khác xưa.
Cùng giống mà tranh giành nhau, thật là tre lại trói tre,
Lòng tham lợi quá đỗi, thành ra cá lại nuốt cá.
Đáng thương thay nỗi khổ ngày nay bởi ai mà nên?
Vì vậy, người xưa đã muốn bỏ sách xuống mà than thở.
Gửi lời nhắn người quen thuộc nơi thành thị:
Gió bụi đầy đường rồi mà còn chưa về ư?)
(Độc thán - Than một mình)
Phụng họa Hiến Đình nguyên vân, Ký khắc niệm Dương niên ông, Tiễn môn đệ Nghĩa
Định sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký kinh thành chư môn đệ - I, Tiễn môn đệ Nghĩa Định
sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký kinh thành chư môn đệ - II, Điệu quyên, Đấu xảo ký văn,
Mẹ Mốc, Đĩ cầu Nôm, Lấy tây.
66
Đây là cách cảm nhận và hình dung rất quen thuộc của nhà nho (như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm). Chúng ta nhận thấy Yên Đổ cũng như các tác gia văn
học trung đại luôn đặt khái niệm "thành thị" và "nông thôn" ở vị thế đối lập, trái
ngược nhau. Điều này không phải ngẫu nhiên bởi: Trong văn chương nhà Nho xưa,
thành thị là nơi hoặc con người chạy theo công danh (thành, đô) hoặc là nơi chạy
theo vật chất (thị). Nơi có sự giao tiếp, va chạm căng thẳng, thường xuyên giữa con
người với con người như ở thành thị, người ta dễ đánh mất đi tính thiện của mình.
Thành thị là môi trường nuôi dưỡng danh lợi, để giữ vững phẩm chất trong sạch,
nhà nho chủ trương thoát khỏi cái môi trường danh lợi ấy [60, 82]. Đây cũng là lí do
tại sao lại có hành vi rời bỏ chốn thành thị để trở về sống trong môi trường thiên
nhiên, với vườn cũ quê nhà, với thiên nhiên, cây cỏ, muông thú. Nguyễn Khuyến đã
bày tỏ niềm vui mừng khi các bạn của ông lần lượt "giũ áo ra về", cùng ông hưởng
"gò suối tươi đẹp" nơi quê hương:
Khứ thu Định doãn phất y hồi,
Kim nhật Xuân thương giả tổ lai.
Khả hạnh chư quân năng dũng thoái,
Vị ưng nhất chức tẫn phi tài.
Bách niên hiên tứ hà vi giả,
Ngô ấp khâu lăng diệc mỹ tai!
Lão bệnh vô năng duy hữu túy,
Phù vân tán tận bắc song khai.
(Mùa thu năm ngoái, ông huyện Trực Định đã giũ áo ra về,
Ngày nay ông Thương Xuân Trường lại buông dải ấn nghỉ việc.
Đáng mừng các bạn biết mạnh dạn lui về,
Đâu phải là đối với chức vụ mình không làm nổi.
Cuộc đời trăm năm xe ngựa có là trò gì,
Mà ở quê chúng ta gò suối vẫn tươi đẹp lắm.
Ta nay già yếu không làm được gì nữa chỉ có chén thôi,
Khi mây nổi tan hết, thì cửa sổ hướng bắc mở toang ra.)
67
(Vũ hậu xuân túy cảm thành - Cảm hoài trong bữa chén xuân, sau cơn mưa) Nhưng trong thơ Nguyễn Khuyến còn có một thành thị mới khác trước. Khi
có sự xuất hiện của thực dân Pháp, chốn thị thành càng trở nên náo nhiệt, nhố nhăng
với đủ thứ trò chơi vô bổ làm mất đi truyền thống văn hóa của người Việt đã có từ
bao lâu nay:
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo!
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo!
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế!
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Hội tây)
Hay:
Đấu xảo trường khai bách vật trần,
Y! Hà xảo dã? Xảo nhi tân!
Cận lai thùy tạc kiền khôn khổng?
Đáo thử phương tri vũ trụ xuân.
Viên quốc phục trang chân quỉ dị,
Thâm lâm điểu tuyệt kỳ trân!
Tầm thường tệ ấp vô tha xảo,
Liêu tác quan thường mộc ngẫu nhân!
(Cuộc đấu xảo mở ra, trăm thứ được đem trưng bày,
Ôi! Sao khéo thế! Khéo mà lại mới nữa!
Không biết gần đây ai đã khoét kiền khôn ra thành lỗ,
Có đến tận đây mới biết cảnh xuân của vũ trụ.
Nào là cách ăn mặc của các nước phương xa trông rất lạ lùng,
Nào là chim muông trong rừng sâu rất hiếm có.
Xứ tôi tầm thường không có gì khéo cả,
68
Gọi là tạc pho tượng cũ có đủ mũ, xiêm đem ra trưng bày.)
(Đấu xảo ký văn -
Ghi những điều nghe thấy trong cuộc đấu xảo)
Bức tranh thành thị của Nguyễn Khuyến còn xuất hiện những con người mới
hèn hạ, tội nghiệp đó là các cô gái làm đĩ. Họ đã bất chấp thuần phong mĩ tục, bất
chấp danh dự để kiếm một cuộc sống đầy đủ hơn về vật chất:
Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ
Trời sinh ra cũng để mà chơi
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời
Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích
Đĩ bao tử càng chơi càng lịch
Tha hồ cho khúc khích chị em cười:
Người ba đấng của ba loài
Nếu những như ai thì đĩ mốc
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc
Khá khen thay làm đĩ có tông!
(Đĩ cầu Nôm)
Đây là một bức tranh đô thị đặc biệt chi tiết và giàu chất sống thực. Với
không gian thành thị này, Nguyễn Khuyến thể hiện thái độ xa lánh, thậm chí là
khinh bỉ. Ông giữ khoảng cách rất xa, miêu tả nó với tư cách là người đứng ngoài.
Và ở đó thiên nhiên dường như vắng mặt.
Tiểu kết
Dựa trên những gơ ̣i ý củ a phê bình sinh thái , chúng tôi đã làm một khảo sát
cụ thể về thơ thiên nhiên của Nguyễn Khuyến viết khi Tam Nguyên Yên Đổ chọn
con đườ ng “lui về”.
. Song, bên ca ̣nh
Có thể thấy từ hệ sinh vật , qua vòng chu chuyển bốn mù a và những nơi chốn mà tác giả miêu tả , thế giớ i nhiên củ a ông trướ c hết là “chốn cũ”. Đó là những hình ảnh biểu tượng , gắn vớ i những quan niê ̣m truyền thống về tư tưở ng về bú t pháp . Đây là sự nối dài củ a môi sinh truyền thống ở giai đoa ̣n giao thờ i đó, cách cảm nhận và lựa ch ọn miêu tả thế giới tự nhiên ở Nguyễn Khuyến cũng có
69
những tín hiê ̣u khác trướ c. Hê ̣ sinh vâ ̣t hay vòng chu chuyển mù a vu ̣ đươ ̣c mở rô ̣ng , để đón nhận thêm nhiều hoặc các môn loại hoặc những khoảnh khắc ít được chú ý ở
. Và cũng xuất hiện những quan tâm nhiều hơn
các giai đoa ̣n văn chương trướ c đó đến không gian phi quan phương
(ngôi nhà , ngõ nhỏ , vườ n, ruô ̣ng,…); đă ̣c biê ̣t , trong thơ Nguyễn Khuyến xuất hiê ̣n mô ̣t kiểu không gian mớ i - đô thi ̣ thực dân h óa mà ở đó thế giới tự nhiên gần như biến mất).
và là trạng
Nhìn từ khoảng cách thiên -nhân có thể nhâ ̣n thấy bao trù m lên mo ̣i hình ảnh thế giớ i tự nhiên vẫn là quan niê ̣m “thiên nhân tương cảm , tương dữ”. Trong tra ̣ng thái này, thiên nhiên củ a Nguyễn Khuyến , không khác gì trong sáng tác củ a Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm , Nguyễn Du ; đó là mô ̣t thiên nhiên vi ̣ nhân sinh . Tuy nhiên, như đã phân tích ở các mu ̣c củ a chương , “tứ c cảnh sinh tình” , hay “hữu cảm nhi tác” ở Nguyễn Khuyến đã đôi khi chấp nhận song hành cùng bút pháp tả thực trực cảm, do đó đã mang la ̣i những hình ảnh thiên nhiên như nó vốn có thái từ xú c cảm của buổi giao thời.
Ngoài ra , có thể thấy , toàn bộ thế giớ i tự nhiên (sinh vâ ̣t , bức tranh thiên nhiên bốn mùa, những nơi chốn ) theo cách miêu tả củ a Nguyễn Khuyến, dù mang giá trị biểu tượng vốn có hay được cộng thêm nét nghĩa hiện thực cụ thể , đều là một
. Tuy nhiên, nó kh ó
i con ngườ i cả về vâ ̣t chất và tinh thần môi sinh thân thiết vớ đem la ̣i sự cân bằng , an la ̣c hoàn toàn cho Nguyễn Khuyến mà chỉ có thể “an ủ i lão đá” mà thôi.
70
Chƣơng 3
"Phên giậu Hạ Di" giữa "hội Thăng Bình"
3.1. Phức cảnh cựu tân của thời đại qua bức tranh thiên nhiên của Nguyễn
Khuyến
Khi giới thiệu về phê bình sinh thái, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Hiểu đã khẳng
định sứ mệnh của nó: "là nghiên cứu tư tưởng, khoa học, phương thức sống và
phương thức sản xuất, mô hình phát triển xã hội của con người đã ảnh hưởng như
thế nào đến hiện tượng xấu đi của môi trường tự nhiên, đã dẫn đến nguy cơ sinh thái
như thế nào. Từ đây có thể thấy phê bình sinh thái là một xu hướng nghiên cứu
mang đậm tinh thần phê phán văn hóa tư tưởng, thúc đẩy mạnh phương thức sống,
phương thức sản xuất, mô hình phát triển, xây dựng văn minh sinh thái" [28, 5-6].
Theo xác định này thì qua thiên nhiên có thể nhận ra bức tranh xã hội, phương thức
sống, mô hình phát triển của con người và những tác động tích cực - tiêu cực của
chúng đến môi trường thiên nhiên. Đồng thời, hình ảnh thiên nhiên cũng sẽ là ảnh
chiếu của nhịp sống con người và trạng thái xã hội tương ứng. Những xác lập cụ thể
trên đây của phê bình sinh thái sẽ là cơ sở để chúng tôi phân tích sâu hơn về hình
ảnh thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Khuyến.
3.1.1. Trạng thái “đối cảnh” và thực trạng “tương dữ/tương cảm” của “thiên-
nhân” trong thơ Nguyễn Khuyến
Như đã trình bày ở chương 1, thế giới quan của ba hệ tư tưởng Nho - Phật -
Đạo đã ước định cách hình dung ở thời trung đại thiên nhiên hài hòa với con người,
đặc biệt là người ẩn dâ ̣t. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã đưa ra nhận định:
"Trong nền văn chương trung đại, con người nhìn nhận thiên nhiên là trung tâm và
toàn bộ mọi ứng xử nghệ thuật của nhà thơ trung đại chịu sự chi phối, chế ước của
chủ trương hòa tan chủ thể vào thiên nhiên" [62, 704-705].
Hầu hết những sáng tác về thiên nhiên trướ c Nguyễn Khuyến đều đem la ̣i
hình ảnh về một thiên nhiên thuần khiết, lí tưởng. Mô ̣t môi sinh thuần khiết, lí
tưởng cần phải có các yếu tố sau: thứ nhất, đó là môi trường nguyên sơ; thứ hai, ở
71
môi trường đó, quan hệ giữa con người và thiên nhiên thường ở trạng thái thân thiết,
giao hòa; thứ ba, bản thân những cá thể thiên nhiên cũng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong sự hài hòa, cân đối; và cuối cùng, con người tác giả đã nhập vào
không gian đó với tư cách là một cá thể cấu thành, không sự phân biệt mà trân
trọng, nâng niu.
Trong những sáng tác viết về thiên nhiên (hay có nhắc đến thiên nhiên) của
Nguyễn Khuyến ở giai đoạn quy ẩn cũng có một môi sinh như vậy:
Tây nam trì thủy thanh,
Phủ kiến ngư dương dương.
Đông bắc ly trúc đa.
Song khai thần khí lương.
Phù cùng tứ xuất nhập,
Bằng kỷ tùy đê ngang.
Thừa hứng triếp túng ẩm,
Nhất ẩm lũy thập trường.
Thẩn thử tân cốc cam,
Kiêm chi viên thái hương…
(Phía tây nam có ao nước trong,
Cúi nhìn cá bơi lội thung thăng.
Phía đông bắc có bờ tre rậm,
Mở cửa sổ ra khí trời buổi sáng mát mẻ,
Chống gậy tha hồ đi ra đi vào.
Tựa ghế ngồi muốn thấp muốn cao tùy ý,
Cao hứng lên rót rượu uống tràn
Mỗi lần uống hàng mấy chục chén.
Phương chi gạo mới cơm ngon
Lại thêm có rau vườn thơm tho…)
(Hạ nhật ngẫu thành, 1 - Ngày hè ngẫu thành, 1)
72
Nguyễn Khuyến đã dùng mọi giác quan để cảm nhận cảnh vật thiên nhiên, để
chiêm nghiệm. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên ở đây đã đạt đến trạng
thái thân thiết, giao hòa. Con người đã tìm thấy trong tự nhiên sự thảnh thơi, an
lành. Trong một bức tranh khác, Nguyễn Khuyến đã nhập vào không gian bên suối
để đắm say, tận hưởng vẻ đẹp của những cánh hoa mùa xuân:
Duyên khê hoa lạn chính xuân thâm,
Tối ái ba gian ảnh bất trầm.
Đạm đạm tàn hồng phong diệc động,
Thâm thâm nộn bạch thủy nan xâm.
Cận lâm thác ngạc khiên ngư nhỡn,
Viễn khán tân phân loạn điệp tâm.
Thử cảnh thử tình miêu bất tận,
Liêu bằng hoa bút sách thi ngâm.
(Xuân về đã lâu, hoa ven suối rực rỡ,
Thích nhất là giữa lòng sóng, bóng hoa vẫn không chìm.
Sắc hồng nhàn nhạt, gió cũng phải rung động,
Màu trắng nõn nà, nước không thể lấn tới,
Đến gần, bóng hoa xen nhau rối rít, cá nhìn phải quyến luyến,
Từ xa, trông rườm rà tươi tốt, bướm cũng phải xốn xang.
Cảnh ấy tình này, vẽ sao cho hết,
Tạm nhờ bút hoa, tìm thơ ngợi ca.)
(Xuân khê hoa ảnh -
Bông hoa trên suối xuân)
Sự giao hòa, quấn quýt không chỉ xảy ra giữa con người và thiên nhiên mà
nó còn tồn tại ngay trong mối quan hệ giữa những cá thể thiên nhiên với nhau: "Đến
gần, bóng hoa xen nhau rối rít, cá nhìn phải quyến luyến". Điều này cũng xảy ra
trong một bài thơ khác của Nguyễn Khuyến:
Vân liễu oanh mang hoàng chức loạn,
Tầm mai điệp thố bạch quan tà.
73
(Oanh vội thăm liễu, như dệt tơ vàng rối rít,
Bướm lần tìm mai, dường ngả mũ trắng ngó nghiêng.)
Không gian làng quê thanh bình ấy đã đem lại cho nhân vật trữ tình cảm giác
thư thái, ấm áp. Đây là chỗ Nguyễn Khuyến chia sẻ vớ i các nhà nho thời trung đại
khi viết về thiên nhiên. Những bức tranh ấy về sau có thể sẽ trở thành những bảo
tàng nghệ thuật giúp con người thời kĩ trị tìm lại được niềm thư thái, lấy lại được
cân bằng khi thưởng thứ c chúng.
Cách nhìn nhận và thể hiện thiên nhiên như vậy có cơ sở triết lý sâu
xa mà chúng tôi đã đề cập ở chương 1. Có một điểm cần nói thêm ở đây . Theo Chu Dịch, ý nghĩa của tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” chủ yếu thể hiện ở ba mặt. Thứ nhất,
con người do trời đất sinh ra, hoặc con người là một phần của tự nhiên. Do đó, giữa
con người và tự nhiên không phải là mối quan hệ tách rời, đối kháng với nhau, mà
là quan hệ liên quan, dung hòa lẫn nhau. Thứ hai, con người được trời đất sinh ra,
con người không thể tồn tại khi tách khỏi trời đất. Cho nên hành vi của con người
tương thông, nhất trí với sự vận hành của trời đất, trật tự của xã hội và trật tự của tự
nhiên. Một mặt, mọi cảm quan, sinh lý, dục vọng cùng những hoạt động trong phạm
vi xã hội, chính trị, luân lí, đạo đức của con người đều phải hợp với tự nhiên. Mặt
khác, tất cả các hiện tượng xuất phát từ tự nhiên đồng thời cũng có ý nghĩa xã hội,
chính trị, luân lí, đạo đức. Chu Dịch cho rằng: “Bậc đại nhân cùng trời đất hợp đức,
cùng mặt trời, mặt trăng hợp sáng, cùng bốn mùa hợp trình tự, cùng quỷ thần hợp
cát hung.” (Văn ngôn truyện); “Trời đất cảm mà muôn vật hóa sinh, thánh nhân cảm
hóa lòng người mà thiên hạ hòa bình” (Soán từ truyện) [40, 30]. Trong tư tưởng của
Chu Dịch, tự nhiên không chỉ là tượng trưng của đạo đức tinh thần, mà còn là tượng
trưng cho toàn bộ cuộc sống. Tự nhiên không phải là sự tồn tại của thế giới vật chất
lạnh lùng khô cứng, không quan hệ với con người, mà là tồn tại sự sống thấm đẫm
tinh thần và tình cảm của con người.
Ở trên, chúng tôi đã khẳng định , thơ Nguyễn Khuyến thể hiện mối quan hệ
tương thông, tương cảm hai chiều giữa nhà thơ và thiên nhiên. Thiên nhiên được
74
nhân cách hóa như người bạn tri âm tri kỉ chia sẻ với ông mọi tâm tư nỗi niềm. Vì
vâ ̣y đã có không ít lần thiên nhiên thành nơi chia sẻ cùng ông nỗi niềm xót xa: Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
(Cuốc kêu cảm hứng)
Khảo sát những sáng tác viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, ta cũng
nhận thấy, trạng thái giao hòa ở Nguyễn Khuyến khác với những tác giả trước ông.
Càng về sau, tâm trạng của tác giả xuất hiện nhiều bi kịch nên chi phối cách nhìn
thiên nhiên - một môi sinh bất an. Theo đó, mối quan hệ giữa con người và thiên
nhiên cũng xuất hiện những khoảng cách. Về điều này, chúng tôi sẽ làm rõ ở mục
3.1.2 dướ i đây.
Như nhiều nhà nghiên cứ u đã chỉ ra , trong thơ Nguyễn Khuyến rất dễ gă ̣p
những tâm sự dằn vặt, trăn trở về chức năng phận vị của nhà nho trước thế sự.
Tự liên kính phát tam phần bạch,
Thặng hữu đan tâm nhất điểm linh.
(Tự thương mình mái tóc trong gương đã ba phần bạc trắng,
Nhưng lòng son vẫn còn một điểm thiêng liêng.)
(Lão thái -Vẻ già)
Và Nguyễn Khuyến lúc này không còn mượn thiên nhiên làm biểu tượng để
nói chí mà chỉ tập trung cho hình ảnh thiên nhiên liên quan đến tiết tháo hoặc sự
trong sạch. Để bô ̣c lô ̣ phứ c cảm vừ a kính tro ̣ng vừ a xót xa cho thân phận của các nghĩa sĩ trong phong trào Cần vương, Nguyễn Khuyế n đã mươ ̣n hình ảnh những con thiêu thân lao mình quyết chết trong luồng ánh sáng : Tiễn nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn,
Đầu minh nhi tử, tử nhi an.
Nhược vị thảng thốt lâm nghi dị,
Đáo đắc thoan tuần biện diệc nan
75
Tố phú tri năng dọ vị dẫn,
Đương tiền danh lợi bất tương quan.
Cô đăng sát nhĩ, do liên nhĩ,
Đãi đáo thành hôi lệ vị can.
(Khen mày là loại có cánh bé nhỏ
Lại biết gieo mình vào chỗ sáng mà chết, chết rồi thì yên tâm.
Nếu mà thảng thốt mà xông vào chỗ chết thì còn dễ,
Nhưng dùng dằng mà quyết chết được, thực là khó.
Trời phú cho mày có lương tri, lương năng chưa đến nỗi mất,
Cho nên danh lợi trước mắt cũng không vướng víu gì.
Ngọn đèn le lói tuy giết mày, nhưng vẫn thương mày:
Cho đến lúc thành tro mà lệ vẫn chưa khô.)
(Xuân dạ liên nga -
Đêm xuân thương con thiêu thân)
Những trăn trở này ta còn gặp lại trong một bài thơ khác của Nguyễn Khuyến:
Trù tướng đông hoàng giá vị quy,
Bi đề dạ dạ huyết triêm y.
Thử tâm dĩ bất vấn sinh tử,
Đương nhật hà tu luận thị phỉ.
Khổ tiết ám nghi Tinh Vệ thạch,
Thanh phong trường đối Thú Dương vi.
Thôn thanh kinh khởi vị quân khấp,
Tường ngoại phân phân phong điệp phi.
(Bùi ngùi về nỗi Đông hoàng chưa về,
Đêm đêm kêu gào thảm thiết, máu chảy đầm áo.
Lòng này đã không kể gì đến sự sống chết,
Thì còn cần gì bàn đến lẽ phải trái lúc bấy giờ?
Tiết tháo bền bỉ tưởng chừng như viên đá của chim Tinh Vệ,
Phong cách thanh cao sánh mãi với rau vi ở núi Thú Dương.
76
Giật mình trở dậy, vì ngươi mà khóc nghẹn ngào,
Đã thấy ở ngoài tường, ong bướm đang bay rối rả.)
(Điệu quyên - Viếng con cuốc)
Trạng thái "đối cảnh" của Nguyễn Khuyến và thực trạng "tương dữ/ tương
cảm" của "thiên- nhân" như vâ ̣y chính là những bức tranh ẩn chứa tâm trạng. Điển hình là hai mùa hạ và xuân mà chúng tôi đã phân tích ở chương 2.
Tóm lại , thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến là những bức tranh phản
chiếu tâm trạng bức bối, dằn vặt, vật vã trong ông. Vì vậy, không gian ấy không chỉ
là bóng hình của tự nhiên mà thực sự là mô ̣t phứ c cảm.
3.1.2 Thiên nhiên đổ vỡ trong đời sống tinh thần của “hưu quan” Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ của nhà
Nguyễn sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ "trị quốc bình thiên hạ" của ông không thực
hiện được. Lúc này Nam Kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra
Hà Nội. Năm 1885, thực dân Pháp bắt đầu tấn công vào kinh thành Huế. Kinh thành
thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi nhưng
cuối cùng phong trào Cần vương tan rã. Có thể nói, sống trong thời kì phong trào
đấu tranh yêu nước bị dập tắt, cả thế hệ nhà nho bị phân hóa. Bất lực vì không làm
được gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam tâm làm tay sai cho bọn thực dân
Pháp, Nguyễn Khuyến cho ̣n con đườ ng thoái lui .
Như đã nói trong phần 1.2 của chương 1, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta,
xây dựng nhiều đô thị lớn phục vụ cho công việc khai thác thuộc địa. Công cuô ̣c
này đã dẫn đến nhiều hệ quả xã hội và cả tự nhiên.
Đo ̣c thơ củ a Nguyễn Khuyến có thể nhâ ̣n ra rằng c hính tâm trạng bế tắc, bất mãn của ông là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi cách nhìn về thiên nhiên: không
còn chỉ có một thiên nhiên hài hòa, thanh khiết, lý tưởng như đã trình bày ở trên mà
thay vào đó là một thiên nhiên bất an, thảm họa, thiên nhiên tách khỏi con người.
Điều đáng lưu ý ở đây là nhà thơ đã mượn thiên nhiên để phản ánh sự đổ vỡ trong
tư tưởng và sự đổ vỡ của xã hội.
77
Trước tiên, qua thiên nhiên đã thể hiện sự đổ vỡ về tinh thần. Từ khi cáo
quan về ở ẩn, nỗi buồn triền miên day dứt cứ trở đi trở lại trong thơ ông như một
nỗi ám ảnh. Chủ trương một lối sống lánh đời tất mang sắc thái lội ngược dòng,
lánh đục về trong và tất có nét cô độc vì cảnh: "độc hành kì đạo, độc thiện kì thân":
Độc dương hàn tuế thùy vi ngẫu,
Bất lạc phương tâm chân khả ai.
(Chọi rét một thân ai là bạn,
Chẳng lạt lòng son thật đáng thương.)
(Vịnh cúc)
Thật đáng trọng nhưng cũng thật đáng thương. Câu thơ chua xót biết bao!
Cũng có lúc ông bị người đời lãng quên như loài hoa mai trong vườn:
Oái uất dĩ phi quần thảo ngũ,
Thanh phân ưng thị bách hoa khôi.
Túy ông thần tịch sác tương úy,
Thế mạc tử tri, chân khả ai!
(Xanh tươi hơn mọi cây rồi,
Mà hương thanh lại khác vời trăm hoa.
Ông say hôm sớm mặn mà,
Người đời hờ hững, thực là đáng thương.)
(Vịnh mai)
Tinh thần hữu trách là một phẩm chất đặc trưng của nhà nho. Nhà nho tin
tưởng vào sứ mệnh thiêng liêng cao cả mà một nhân cách đứng giữa trời đất như
mình có được, tin tưởng vào tính hữu ích của học vấn mà mình có được nhờ sách
thánh hiền. Nhưng đến Nguyễn Khuyến, dường như mỗi khi nghĩ tới điều đó, ông
lại có một mặc cảm lớn. Ông luôn tự dằn vặt, trăn trở, day dứt về sự bất lực của bản
thân trong tư cách một nhà nho, một nhân vật văn hóa.
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
(Ngày xuân dặn các con)
78
Tất cả hiện thực này không được tác giả miêu tả trực tiếp mà nó được ẩn giấu
trong những bức tranh thiên nhiên. Ông nhìn cuộc khai thác, cướp bóc nước ta mà
thực dân Pháp đang tiến hành là việc làm man rợ, hoang dã:
Phương kiến hoàn diên đại khai tịch,
Vị tri thiên địa bất hồng hoang.
(Đang thấy vũ trụ mở mang ghê gớm,
Biết đâu trời đất lại trở lại thời hồng hoang.)
Tô ̣i ác củ a thực dân đươ ̣c nhìn thành mô ̣t bứ c tranh thiên nhiên đang bi ̣ tàn
phá bở i công cuô ̣c khai thác thuô ̣c đi ̣a:
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên dậu hạ di rồi.
Theo mấy câu thơ trên đây, thực dân Pháp có hai tội ác: một là đẩy hàng vạn
người vào nơi rừng thiêng nước độc để làm đường, khai mỏ; hai là việc làm đường,
khai mỏ có hại cho môi trường tự nhiên, làm tổn thương long mạch quốc gia.
Là người ẩn dật , trăn trở vì chưa tròn bổn phâ ̣n kẻ sất phu khi quốc gia hữu
sự, nhưng Nguyễn Khuyến la ̣i giễu cơ ̣t những "Anh giả điếc" lựa vù ng thôn quê:
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu,
Khi chè sen năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu.
số ng cảnh “sáng tai ho ̣ điếc tai cày” .
Ông đã giễu ngườ i để tự trào : "Có thể nói, qua thơ Nguyễn Khuyến, lần đầu tiên trong lịch sử, nhà nho tự thú về sự vô dụng của mẫu người mà mình đại diện.
Trước ông, chúng ta chỉ bắt gặp một nỗi buồn mênh mông nhưng đầy kiêu hãnh của
nhà nho khi lí tưởng hành đạo của họ gặp trắc trở. Còn giờ đây, ở thơ Nguyễn
Khuyến, ta chứng kiến cảnh nhà thơ tự trách vấn, tự xỉ vả, thậm chí tự mạt sát" [62,
557-558].
79
Trong những cơn hoạn nạn: thiên tai địa ách, đói rét, ngoại xâm... giọng thơ
của ông trở nên bi thiết trước số phận của cộng đồng mà ông là một thành viên
không thể tách rời:
Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi!
Gạo dăm ba bát cơ còn kém
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi...
Đi đâu cũng thấy người ta nói
Mười chín năm nay lại cát bồi!
(Lụt Hà Nam)
Đó cũng là nông thôn với cảnh đời lam lũ, cái lo toan tất bật của công việc
đồng áng, vị chua mặn mòi của giọt mồ hôi vất vả, cảnh lụt lội nước ngập trắng
đồng. Khung cảnh thiên nhiên nói lên một sự chán nản thất vọng trước một tai họa
không sao ngăn cản được. Và điều đó có ý nghĩa tố cáo sự bất lực, hay đúng hơn sự
bỏ rơi dân chúng của giai tầng thống trị bấy giờ. Đồng thời hiện tượng lũ lụt này đã
nhắc nhở cho con người về vị trí thực sự của họ trong mối quan hê ̣ vớ i tự nhiên.
Trước sức mạnh của tự nhiên, con người cảm thấy sợ sệt. Tuy nhiên đó không phải
là chủ ý hay nhận thức của bản thân Nguyễn Khuyến . Khi khắc họa trạng thái "đổ
vỡ" trên của thiên nhiên, Nguyễn Khuyến không (hoă ̣c chưa) xuất phát từ cảm nhâ ̣n về nguy cơ sinh thái mà chỉ nhằm bộc tả những nỗi niềm về nhân sinh trướ c hoa ̣
thực dân hoá.
Càng về cuối đời thơ Nguyễn Khuyến càng hằn lên những cảm nhận cay
đắng, bi thương về thời gian. Ông tìm về quá khứ, không gian phế tích. Cảm xúc
này đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong hàng loạt bài thơ như: "Miếu vua Lê",
"Đền Cuông - núi Dạ", "Đền hai trạng nguyên", "Chùa Hàng", "Hồ Hoàn Kiếm"...
3.2. Một môi sinh bất an - ảnh xạ của bi kịch tinh thần
3.2.1. Vị thế xuất – xử của Nguyễn Khuyến
Xuất xử - ra làm quan hay không ra làm quan – vốn là vấn đề lớn thường làm
cho các nhà nho băn khoăn suy nghĩ. Xuất xử thực ra không chỉ là chuyện quyết
80
định việc nhận hay không nhận một chức vụ mà là lựa chọn một thái độ sống. Qua
sự lựa chọn đó, ta biết phẩm chất đạo đức, thái độ chính trị và một phần thực tế
chính trị - xã hội trong con mắt của nhà thơ.
: vấn đề xuất xử ở Như nhà nghiên cứ u Trần Đình Hươ ̣u đã nhâ ̣n đi ̣nh
Nguyễn Khuyến không đặt ra một cách nôn nóng, ồn ào như ở Nguyễn Công Trứ,
cũng không đặt ra một cách day dứt như ở Nguyễn Trãi. Nguyễn Khuyến không
như Nguyễn Công Trứ xuất thế vào lúc nhà Nguyễn mới lên, không như Nguyễn
Công Trứ thị tài tin vào một sự nghiệp lẫy lừng mà mình cầm chắc sẽ thực hiện
được. Nguyễn Khuyến cũng không như Nguyễn Trãi không dứt áo ra về được vì
đằng sau còn để lại một sự nghiệp to lớn, đang dang dở. Kẻ sĩ không có gì phải lựa
chọn: trước mắt đã vạch sẵn một con đường là học – thi đỗ - làm quan. Nguyễn
Khuyến có chí quyết khoa, đỗ Tam nguyên nhưng hoạn lộ của ông bằng phẳng,
không hiển hách. Thế rồi tình hình chuyển thành nguy kịch. Thực dân Pháp chiếm
Bắc Bộ. Thực dân Pháp chiếm kinh thành. Tự Đức chết. Triều đình lộn xộn.
Nguyễn Khuyến lấy cớ ốm đau xin cáo quan về quê. Vấn đề đối với ông là về hay
ở. Ông đã giải quyết vấn đề đó một cách nhanh gọn. Ông tự cho thế là dũng thoái,
ra về dứt khoát, nhẹ nhàng không dùng dằng mất nhiều thì giờ. Chọn con đường rút
lui Nguyễn Khuyến cũng có cân nhắc nhưng vấn đề đặt ra là tính toán về sức lực, là
mình với người khác, là bản thân với gia đình. Cho đến năm, sáu năm sau, Nguyễn
Khuyến tạm hài lòng với cuộc sống ẩn dật của mình được thể hiện trong bài thơ chữ
Hán: “Hạ nhật ngẫu thành”, “Vũ hậu xuân túy cảm thành”. Tuy nhiên, xã hội thực
dân hóa xâm thực đến cả đời sống nông thôn đã làm cho đời sống ẩn dật của
Nguyễn Khuyến không yên ổn. "Không yên thân được quả là khổ, mà không yên
tâm được lại còn khổ hơn. Với sự quấy rầy của ngoại cảnh, nhà thơ đã đối phó bằng
cách làm ngơ, thậm chí giả điếc. Nhiều trường hợp ông chống đối và bộc lộ một
cách ngang nhiên, có khi khá thách thức. Dù gì đi chăng nữa, chúng ta không thấy
ông hối hận khi đã chọn ở ẩn" [36, 218-219]. Nhà thơ cười với cái nghèo, và nói về
cái thú vị trong việc dạy con, đọc sách và làm thơ. Ông sống những thú vui của
người xưa và tự hào thấy mình giữ được như người xưa. Nhưng sau đó chắc là
81
không lâu, không những bạn bè ra làm quan mà con ông cũng ra làm quan. Mặc dù
tự hào nhưng ông vẫn thấy không vui và rầy rà. Không những vậy, chính những
người chủ chiến đến cùng khiến Nguyễn Khuyến cảm thấy lựa chọn con đường ẩn
dật là bất minh.
3.2.2. Môi sinh bất an hay bi kịch tinh thần của Nguyễn Khuyến
Trước hiện trạng đổ vỡ về tư tưởng và xã hội như đã trình bày ở các mục 3.1,
là một nhà nho, một nhân vật văn hóa, Nguyễn Khuyến tất sẽ bày tỏ trạng thái cảm
xúc của mình. Môi sinh bất an xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là tấm gương
phản ánh bi kịch tinh thần của tác giả. Nói cách khác, chính bi kịch tinh thần đã chi
phối cách nhìn thiên nhiên của Nguyễn Khuyến.
"Môi sinh bất an" là một bộ phận của thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến.
Nó được thể hiện trước hết trong những bài thơ phản ánh thiên tai như nóng mùa
hè, lụt lội, mất mùa, rét mùa đông - những hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt.
Nói đến mùa hè, ngoài cái ám ảnh về "nóng" như đã trình bày ở mục 3.1.2
thì "lũ lụt" cũng được nhà thơ nhắc đến nhiều như một dẫn chứng tiêu biểu cho một
môi sinh bất an. Chốn quê là nơi triền miên chìm trong cảnh lụt lội, mất mùa, đói
rét, nợ nần. Chưa thấy nhà thơ nào viết nhiều, viết sâu sắc, tinh tế với cái nhìn cận
cảnh đặc tả về lụt lội, mất mùa như Yên Đổ. Hàng loạt các bài thơ phản ánh hiện
thực lụt lội, mất mùa: Vịnh lụt, Nước lụt Hà Nam, Gái góa than lụt, Lụt hỏi thăm
bạn, Lụt mùa thu (Thu lạo)…, Hung niên (Năm mất mùa): có đến 5 bài liền cùng
chung một chủ đề Hung niên. Lụt lội và mất mùa đối với người nông dân Việt Nam,
nhất là đối với người nông dân đồng bằng chiêm trũng thì đây quả là nỗi ám ảnh:
Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
...
Tiếng sáo vo ve chiều nước đọng,
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.
(Nước lụt Hà Nam)
Hay:
82
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
(Nhà nông than thở)
Như vậy, đến đây cách nhìn thiên nhiên của Nguyễn Khuyến đã có sự thay
đổi: ông không còn chỉ nhìn thiên nhiên là một môi sinh tươi đẹp, gần gũi theo
hướng tích cực nữa mà thiên nhiên ở đây đã có thêm nét dữ dằn, khắc nghiệt.
"Môi sinh bất an" xuất hiện còn là do sự xâm nhiễm, tàn phá nặng nề của
thực dân Pháp. Với mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cống, nhà máy,
xí nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ công cuộc khai thác thuộc
địa, thực dân Pháp đã không tiếc tay tàn phá môi sinh. Khắp đất nước, từ nông thôn
đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, thiên nhiên bị tàn phá nặng nề:
Hải nội nhập khai tân thế giới,
Dân phong ưng nhập cổ hồng hoang.
(Vũ trụ hình như mở ra một thế giới mới,
Dân phong hình như trở lại đời hồng hoang.)
Trong con mắt của nhà nho Yên Đổ, thế giới bên ngoài , bao gồm cả phong
cảnh thiên nhiên không còn là điểm tựa nữa mà đã thành một “tân thế giớ i” bất an .
Chính môi sinh này đã phản ánh bi kịch tinh thần của Nguyễn Khuyến.
Tiểu kết
Như vậy, với chương 3, chúng tôi đã tìm hiểu sự phức cảm thời đại cựu tân qua bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến . Có một thiên nhiên tích cực , tươi
đẹp, bình dị gần gũi , giao hòa vớ i con người . Thiên nhiên ấy chia sẻ v ới con người
những buồn vui , là nơi Nguyễn Khuyến tìm về nương náu . Nhưng còn có mô ̣t thế giớ i tự nhiên khác mà Nguyễn Khuyến không thể không hướ ng đến : Thiên nhiên dữ dằn, khắc nghiê ̣t, thiên nhiên bị phá hủy, xâm nhiễm. Thiên nhiên ấ y sẽ là hiểm họa
đối với cuộc sống của con người cả về vâ ̣t chất và tinh thần.
Vớ i môi trườ ng thiên nhiên đổ vỡ , Nguyễn Khuyến về căn bản không gắn nó đổ vỡ
vớ i hành vi tàn phá môi sinh củ a con ngườ i mà mươ ̣n nó để trình bày mô ̣t sự lý tưởng của thế hệ mình. Hoă ̣c, nói cách khác, chính sự đổ vỡ trong tư tưởng, trong
83
lý tưởng sống đã khiến cái nhìn thế giới bên ngoài của Nguyễn Khuyến bắt đầu
chao đảo. Ứng xử đó của Nguyễn Khuyến , mô ̣t mă ̣t cho thấy ông vẫn tuân thủ thi pháp truyền thống ; mă ̣t khác, chứ ng tỏ ông đã ta ̣o ra mô ̣t kết nối nhuần nhuy ̣ giữa môi sinh tự nhiên và môi sinh tinh thần nhân loa ̣i.
84
KẾT LUẬN
1. Nử a sau thế kỷ XIX , sự áp đă ̣t củ a thực dân Pháp đã gây ra những đổ vỡ , mất mát trên nhiều phương diê ̣n cho Viê ̣t Nam . Vong quốc kéo theo những bi ki ̣ch giai tầng, bi ki ̣ch cá nhân . Sống trong giai đoa ̣n li ̣ch sử đen tối đó , Nguyễn Khuyến đã có nhiều sáng tác phản ánh bối cảnh xã hội, mà thiên nhiên là một phương diện.
2. Là môi trường sống quen thuộc của con người thời trung đại nói chung và
các tác gia thời trung đại nói riêng, thiên nhiên đã thành mô ̣t chủ đề xuyên suốt cuô ̣c đờ i sáng tác củ a N guyễn Khuyến . Thiên nhiên cũng chiếm số lươ ̣ng lớ n các bài thơ
còn lại của ông, cả Hán và Nôm.
Toàn cảnh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến đem lại cho người đọc cảm giác
quen thuô ̣c kèm theo những biê ̣t lê ̣. Chúng ta thấy Nguyễn Khuyến sống giữa những hê ̣ sinh vâ ̣t mà nhiều bâ ̣c tiền bối củ a ông cũng từ ng trải nghiê ̣m , trong tra ̣ng thái hòa mục, gần gũi, tương cảm tương thông . Chỗ la ̣ là phần lớ n sáng tác củ a Nguyễn Khuyến ra đờ i khi ông cho ̣n con đườ n g quy ẩn , nhưng ít thấy ông thích thảng vớ i . Điểm thiên giớ i , và gần như không gặp ở ông trạng thái phóng dật với tự nhiên
khác nữa là ông hầu như không mượn thiên nhiên làm nơi gửi chí , ký thác ý nguyện
, của cá như mô ̣t bâ ̣c quân tử ; mà nương theo những trắc trở của thế giới tự nhiên để bô ̣c lô ̣ bi kịch tinh thần của chính mình . Bở i vâ ̣y có thể nói môi trườ ng sinh thái củ a Nguyễn Khuyến hoàn toàn tương hơ ̣p vớ i môi sinh tinh thần củ a thờ i đa ̣i
nhân ông.
3. "Đọc" lại mảng thơ văn viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến dưới
những chỉ dẫn của Phê bình sinh thái học có thể thấy: 1/ Môi sinh thiên nhiên này
đã trở thành một phức cảm . 2/ Sự cảm nhận và miêu tả thiên nhiên của Nguyễn
Khuyến cũng ở giữa "có thể" và "không thể": thiên nhiên và con người một mặt vẫn
là một thể cộng sinh, giao hòa, gần gũi; nhưng mặt khác đã bắt đầu xuất hiện cảm
giác lo ngại trước thế giới tự nhiên, nói cách khác thiên nhiên đã không thể mãi mãi
chỉ là bạn hữu tri âm. Hoàn cảnh lịch sử của đất nước thời Nguyễn Khuyến là lựa
chọn ứng xử của cá nhân ông đã để ông nhập sâu vào thế giới tự nhiên trong trạng
85
thái không lối thoát . Và những tác phẩm viết về hoặc mượn hình ảnh thiên nhiên
của Nguyễn Khuyến vừa vô tình vừa tất yếu ghi lại chính sự rạn vỡ tinh thần đó . 3/
Nguy cơ sinh thái trong sáng tác của Nguyễn Khuyến được ông thể hiện hai chiều :
thiên nhiên gây bất tiện hoặc đe dọa cuộc sống của con người (nóng, lạnh, lũ lụt...)
và con người tàn phá thiên nhiên (khai thác). Tuy nhiên, ở phương diện thứ hai,
Nguyễn Khuyến chưa tự ý thức về nguy cơ sinh thái mà mới chỉ như một ám dụ, vì
đằng sau nguy cơ sinh thái này là nguy cơ dân tộc mà tác giả chưa thể trực diện thể
hiện. Nói cách khác , nguy cơ dân tô ̣c đã đươ ̣c hàm ẩn sau ám dụ nguy cơ môi sinh
này.
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Vân Anh (2002), Nỗi niềm non nước trong thơ Tản Đà, Khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. ĐHQG Hà Nô ̣i.
2. Lại Nguyên Ân (chủ biên) - Bùi Văn Trọng Cường (1997), Từ điển văn học Việt
Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Đồng Khánh Bính (Trung Quốc), "Phê bình sinh thái- cội nguồn và sự phát
triển", nguồn: http://dovanhieu.wordpress.com/2012/11/27/phe-binh-sinh-thai-coi-
nguon-va-su-phat-trien-phan
5. Nguyễn Sỹ Cẩn (1979), Mấy vấn đề về giảng dạy thơ văn cổ, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
6. Phạm Tú Châu (1997), "Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Lê Thánh Tông", Tạp chí
Văn học (8), 13-18.
7. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên, 1977), Thơ văn Lí Trần, Tập 2, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên,1994), Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Đình Chú (1985), "Nguyễn Khuyến với thời gian", Tạp chí Văn học (4),
13-20.
10. Nguyễn Đình Chú (chủ biên,1990), Tác giả văn học Việt Nam, Tập 1, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Đình Chú (1986), "Tú Xương, bậc thần thơ thánh chữ", Tú Xương tác
phẩm giai thoại, NXB Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh.
12. Bùi Văn Cường (chủ biên, 2000), Văn nghệ dân gian Hà Nam, Hội Văn học
nghệ thuật Hà Nam xuất bản.
13. Trần Văn Cường (2010), Quan niệm về con người trong Triết học Phật giáo,
Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Phật giáo Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
87
14. Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề lí luận của văn học so sánh, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Duy Diễn (1952), Luận đề về Nguyễn Khuyến, NXB Thăng Long, Hà
Nội.
16. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Xuân Diệu (1971), Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Phan Đại Doãn (chủ biên,1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Triêu Dương (1972), "Về cuốn thơ văn Nguyễn Khuyến và bài tiểu luận của
Xuân Diệu", Tạp chí Văn học (6), 52-66.
20. Phan Cự Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, NXB Văn học, Hà Nội.
21. Vũ Minh Đức, Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ lý
thuyết phê bình sinh thái, nguồn: vietvan.vn/vi/bvct/id3683/Buoc-dau-tim-hieu-
truyen-ngan-Nguyen-Huy-Thiep-tu-diem-nhin-phe-binh-sinh-thai.
22. Lam Giang, Vũ Kỷ (1960), Giảng luận về Nguyễn Khuyến, NXB Tân Việt, Sài
Gòn.
23. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa - Huế.
24. Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Văn học, Hà Nội.
25. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, NXB Văn học, Hà Nội.
26. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Nguyễn Khuyến phê bình bình luận văn học, NXB Văn
nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn Xuân Hiếu - Trần Mộng Chu (1960), Khảo luận về Nguyễn Khuyến,
Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn.
28. Đỗ Văn Hiểu, "Phê bình sinh thái - Khuynh hướng nghiên cứu văn học mang
tính cách tân", Tạp chí Sông Hươ ng, nguồn http ://tapchisonghuong.com.vn/tin-
tuc/p0/c7/n11088/Phe-binh-sinh-thai-khuynh-huong-nghien-cuu-van-hoc-mang-
tinh-cach-tan.html
29. Hà Ngọc Hòa (biên soạn, 2006), Nguyễn Khuyến - Nhà thơ của làng quê Việt
Nam, NXB Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh.
88
30. Nguyễn Công Hoan (1972), "Về cuốn "Thơ văn Nguyễn Khuyến"", Tạp chí Văn
học (5), 79-90.
31. Nguyễn Văn Hoàn (1964), "Nguyễn Khuyến", chương III, mục IV, Sơ thảo lịch
sử Văn học Việt Nam (Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX), NXB Văn học, Hà Nội, 185-
212.
32. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Huyền (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu,1984), Nguyễn Khuyến tác
phẩm, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Mai Hương (Tuyển chọn và biên soạn, 2000), Nguyễn Khuyến - Thơ, lời bình và
giai thoại, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
35. Trần Ngọc Hưởng (1999), Luận đề về Nguyễn Khuyến, NXB Thanh niên, Hà
Nội.
36. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
37. Đinh Gia Khánh (chủ biên, 1997), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, NXB Văn học,
Hà Nội.
38. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1997), Văn học Việt Nam từ
thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, NXB Giáo dục, Hà Nội.
39. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Lưu Cương Kỷ, Phạm Minh Hoa (2002), Chu dịch và mỹ học (Hoàng Văn Lâu
dịch), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
41. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
42. Lê Hoài Nam (1978), "Văn học hiện thực trào phúng Nguyễn Khuyến", Lịch sử
văn học Việt Nam, Tập IVA, Chương VI, NXB Giáo dục, Hà Nội, 123-152.
43. Đoàn Hồng Nguyên (biên soạn, 2010), Tú Xương toàn tập, NXB Văn học,
Thành phố Hồ Chí Minh.
89
44. Hoàng Ngọc Phách - Lê Trí Viễn - Lê Thước (1957), Thơ văn Nguyễn Khuyến,
Bộ Giáo dục xuất bản, Hà Nội.
45. Lê Thị Phương (2011), Ảnh hưởng của văn học dân gian qua trường hợp thơ Á
Nam Trần Tuấn Khải và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Luận văn Tha ̣c sĩ Văn ho ̣c , Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nô ̣i. 46. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn, 1992), Phê bình, bình luận văn học Nguyễn
Khuyến, NXB Khánh Hòa.
47. Samamtha Ilangakoon, Thích nữ Hương Nhũ (dịch, 2006), Quan niệm của Phật
giáovềsinhthái,nguồn:https://www.google.com/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source
=web&cd=1&ved=0CBwQFjAAahUKEwjOsrDlpu_IAhXGYqYKHaWEAR4&url
=http%3A%2F%2Fthuvienhoasen.org
48. Nguyễn Kim Sơn, Trần Thị Mỹ Hòa, Mấy phương diện thẩm mỹ của Nho gia và
Thiền gia (Qua khảo sát một số trường hợp viết về thiên nhiên), nguồn:
http:/khoavanhoc.edu.vn/vh-vn/287-my-phng-din-thm-m-ca-th-nho-gia-va-thin-gia-
qua-kho-sat-mt-s-trng-hp-th-vit-v-thien-nhien.
49. Nguyễn Kim Sơn, Tâm tính học Nho gia với đặc trưng thẩm mỹ của vănchương
nhà Nho, nguồn: http:/www.nguyenkimson.net/?p=153.
50. Nguyễn Kim Sơn, Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mỹ trong thơ Huyền
Quang,
nguồ n:http:/khoavanhoc.edu.vn/index.php?option=comcontent&view=article&id=2
44:thammy-tho-huyenquang&catid=42:cong-trinh-khoa-hoc-hc<emid=166.
51. Phạm Văn Sơn (1965), "Một tấm gương tiết tháo: Cụ Nguyễn Khuyến", Văn
hóa nguyệt san, năm thứ XIV (6), 937-945.
52. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
53. Trần Đình Sử, Phê bình sinh thái trong tinh thần nghiên cứu văn học hiện nay,
nguồn: http:/trandinhsu.wordpress.com/2015/02/09/phe-binh-sinh-thai-tinh-than-
trong-nghien-cuu-van-hoc-hien-nay.
90
54. Văn Tân (1959), Nguyễn Khuyến nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, NXB Văn Sử Địa,
Hà Nội.
55. Khâu Chấn Thanh (1959, Mai Xuân Hải dịch), Lý luận văn học nghệ thuật cổ
điển Trung Quốc, NXB Văn học, Hà Nội.
56. Trần Thị Băng Thanh (1987), "Thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến: Những vần thơ
tâm sự", Tạp chí Văn học (3), 87-90.
57. Hoài Thanh (1980), Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm, NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội, 55-75.
58. Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu, 1998), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Tịnh Thy, Phê bình sinh thái – nhìn từ lý thuyết cấu trúc,
nguồn:vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/1498355/phe-binh-van-nghe/sang-
tac-phe-binh-sinh-thai-tiem-nang-can-khai-thac-cua-van-hoc-viet-nam.html.
60. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, NXB Giáo dục, Hà Nội.
61. Trần Nho Thìn (1993), "Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện cái tôi tác giả",
Tạp chí Văn học (6), 33-36.
62. Trần Nho Thìn (2003), Văn học Trung đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
63. Đỗ Đình Thọ (1991), "Một cuộc hội ngộ giữa ông tú Vị Xuyên và cụ nghè Yên
Đổ", Nhân dân Chủ nhật (12), 13-17.
64. Karen Thornber, "Những tương lai của Phê bình sinh thái văn học", nguồn:
https://hieutn1979.wordpress.com/tag/phe-binh-sinh-thai/
65. Nguyễn Văn Tú - Đỗ Ngọc Toại - Hoàng Tạo - Nguyễn Văn Hoàn... (1971),
Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, Hà Nội.
66. Nguyễn Tuân (1982), Thời đại và thơ ca Tú Xương, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
67. Đinh Vạn Anh Tuấn (2006), So sánh tự nhiên quan của Nho gia và tự nhiên
quan của Đạo gia, Luận văn Tha ̣c s ĩ Văn học , ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn,
Hà Nội.
91
68. Kiều Văn (Tuyển chọn, 1996), Thơ Nguyễn Khuyến thơ ca Việt Nam chọn lọc,
NXB Đồng Nai.
69. Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu, Trương Chính... (1957), Lược thảo lịch sử Việt Nam,
NXB Xây dựng, Hà Nội.
70. Lê Trí Viễn (1973), Thơ văn Nguyễn Khuyến - Trần Tế Xương, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
71. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình tác giả văn học - Nhà Nho tài tử và văn
học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
72. Tủ sách Đại học Sư phạm (1971), Lịch sử văn học Việt Nam (tập IV A), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
73. Nguyễn Khắc Xương (giới thiệu, 1996, tái bản 2002), Toàn tập Tản Đà (5 tập),
NXB Giáo dục, Hà Nội.