ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRIỆU THỊ LINH

TÌNH CẢM THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2016

77

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRIỆU THỊ LINH

TÌNH CẢM THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học

Mã số : 60 22 03 01

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Nguyễn Thu Nghĩa

Chủ tịch hội đồng Giảng viên hƣớng dẫn

PGS. TS Nguyễn Anh Tuấn PGS. Nguyễn Thu Nghĩa

HÀ NỘI – 2016

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Triết học: “Tình cảm thẩm mỹ trong

hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá

nhân tôi.

Hà Nội, ngày 9 tháng 12 năm 2016

Tác giả luận văn

Triệu Thị Linh

2

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn

sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thu Nghĩa - người đã tận tình hướng dẫn tôi

trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Triết học,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

những người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình

học tập, nghiên cứu tại trường.

Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp

những người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và

hoàn thành luận văn Thạc sĩ.

Hà Nội, ngày 9 tháng 12 năm 2016

Tác giả luận văn

Triệu Thị Linh

3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 0

CHƢƠNG 1 ....................................................................................................... 17

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH CẢM THẨM MỸ VÀ ................ 17

HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC .............................................................................. 17

1.1. Tình cảm thẩm mỹ .................................................................................... 17

1.1.1.Quan niệm về tình cảm thẩm mỹ trong lịch sử mỹ học ............................. 17

1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của tình cảm thẩm mỹ ....................................... 20

1.2. Hoạt động âm nhạc ................................................................................... 28

1.2.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của âm nhạc ........................................... 28

1.2.2. Các hoạt động âm nhạc ........................................................................... 35

1.2.2.3 Hoạt động đánh giá âm nhạc ................................................................. 38

1.3. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ..................... 39

1.3.1. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo âm nhạc .......... 40

1.3.2. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động thưởng thức âm nhạc .... 41

1.3.3. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động đánh giá âm nhạc ......... 43

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ..................................................................................... 46

CHƢƠNG 2 ...................................................................................................... 47

TÌNH CẢM THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC .................. 47

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .................. 47

2.1. Một số nhân tố tác động đến tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm

nhạc ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 47

2.2. Thực trạng của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt

Nam hiện nay .................................................................................................... 54

2.2.1. Một số biểu hiện tích cực của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm

nhạc ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó ............................................ 54

2.2.2. Một số biểu hiện tiêu cực của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm

nhạc ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó ............................................ 63

4

2.3. Một số giải pháp cơ bản bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt

động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay................................................................ 75

2.3.1. Bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc gắn với việc

nâng cao nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc .................................................................. 75

2.3.2. Bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc gắn với việc

giáo dục thẩm mỹ âm nhạc................................................................................. 77

2.3.3. Bồi dưỡng và phát triển tình cảm th ẩm mỹ ở cả ba chủ thể thẩm mỹ : chủ thể sáng tạo, chủ thể thưởng thức và chủ thể đánh giá âm nhạc ................ 80

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ..................................................................................... 83

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 84

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 77

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tình cảm là trạng thái tâm lý không thể thiếu của con ngƣời và đƣợc

thể hiện dƣới nhiều cấp độ khác nhau. Nếu cuộc sống thiếu tình cảm thì con

ngƣời sẽ chỉ còn lại phần lí trí lạnh lùng. Bên cạnh các tình cảm nhằm đáp

ứng nhu cầu sinh lý, những nhu cầu xã hội nhƣ tình cảm đạo đức, tình cảm

tôn giáo... thì tình cảm nhằm đáp ứng nhu cầu về cái đẹp, cái hài, cái bi, cái

cao cả, việc thƣởng thức, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật là tình cảm thẩm mỹ

cũng rất đƣợc coi trọng.

Tình cảm thẩm mỹ có vai trò quan trọng đối với hoạt động sáng tạo,

thƣởng thức và đánh giá nghệ thuật. Ngƣời nghệ sĩ không thể nào sáng tạo ra

một tác phẩm nghệ thuật nếu chỉ có những tình cảm thông thƣờng. Sáng tạo

nghệ thuật chủ yếu dựa vào tình cảm thẩm mỹ và do tình cảm thẩm mỹ chi

phối. Tình cảm thẩm mỹ còn là động lực của các hoạt động thẩm mỹ khi phân

biệt giữa cái đẹp và cái xấu, yêu và ghét, tán thành hay phản đối, xót xa cái bi

thƣơng, khâm phục cái cao cả. Nó chi phối toàn bộ các hoạt động thƣởng

thức, đánh giá sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ.

Đảng và Nhà nƣớc ta luôn nhấn mạnh và quan tâm tới việc bồi dƣỡng

tình cảm thẩm mỹ cho ngƣời dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Tình cảm thẩm mỹ là

sức sống, là niềm vui của con ngƣời, là hạnh phúc của gia đình và toàn xã hội.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa XI về xây

dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển

bền vững đất nước khẳng định cần: “Tăng cƣờng giáo dục nghệ thuật, nâng

cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu

niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dƣỡng tâm hồn,

tình cảm của con ngƣời. Bảo đảm quyền hƣởng thụ và sáng tạo văn hóa của

mỗi ngƣời dân và của cộng đồng” [10, tr.50].

6

Nhu cầu vật chất của con ngƣời ngày càng đƣợc nâng cao kéo theo đó

là nhu cầu tinh thần, nhu cầu về thẩm mỹ, về việc cảm thụ, thƣởng thức các

giá trị nghệ thuật ngày càng tăng. Trong các loại hình nghệ thuật thì âm nhạc

là loại hình nghệ thuật phổ biến, đƣợc nhiều ngƣời yêu thích. Ở Việt Nam, âm

nhạc hiện diện suốt cả một vòng sinh tử, từ tiếng mẹ ru thuở lọt lòng và

những bài hát đồng dao khắc vào tâm can bài học đầu đời về kỹ năng sống, từ

tiếng hát giao duyên tuổi yêu đƣơng và những bài ca hòa nhịp điệu lao động,

cho đến những khúc hát, bản đàn gắn với sinh hoạt tập thể, tế lễ, thờ cúng, ma

chay...

Tình cảm nảy sinh khi tiếp xúc với âm nhạc không chỉ có ý nghĩa giải

trí, thỏa mãn những nhu cầu giải trí của cá nhân mà nó còn có ý nghĩa tới việc

giáo dục nhân cách con ngƣời. Những tác phẩm âm nhạc chân chính, có ý

nghĩa nhân văn sâu sắc sẽ có tác động tới cá nhân hình thành nên suy nghĩ, lối

sống cho cá nhân đó. Ngƣợc lại, những tác phẩm âm nhạc có tƣ tƣởng, ca từ

sáo rỗng, không hợp với thuần phong mỹ tục.... có thể ảnh hƣởng xấu tới suy

nghĩ, lối sống và hành động của cá nhân.

Có một thực trạng hiện nay đang diễn ra đó là giới trẻ dƣờng nhƣ xa lánh

và không có sự am hiểu về nghệ thuật truyền thống, các chƣơng trình âm nhạc

truyền thống không đƣợc giới trẻ yêu thích. Đặc biệt là xu hƣớng sính ngoại, yêu

thích âm nhạc nƣớc ngoài đã làm ảnh hƣởng không nhỏ tới lối sống, suy nghĩ và

tình cảm của một bộ phận các bạn trẻ. Phải chăng đó là do giới trẻ chƣa có định

hƣớng đúng đắn về việc cảm thụ, thƣởng thức nghệ thuật nói chung và âm nhạc

nói riêng, chƣa có tình yêu đối cái đẹp với nghệ thuật một cách đúng đắn?

Bên cạnh đó, hoạt động sáng tác âm nhạc hay phê bình âm nhạc cũng còn

rất nhiều bất cập và hạn chế. Thực tế các hoạt động đánh giá, phê bình âm nhạc

đều xuất phát từ ý kiến chủ quan, cá nhân chƣa dựa trên những tiêu chuẩn cụ thể

nào. Các nhà đánh giá, phê bình âm nhạc chủ yếu là những nhà báo nên không

đƣa ra những định hƣớng cho công chúng nghe nhạc. Việc đánh giá, phê bình

dựa trên ý kiến chủ quan cũng ảnh hƣởng không nhỏ tới giá trị của tác phẩm.

7

Chính từ những lý do trên mà tác giả chọn “Tình cảm thẩm mỹ trong

hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tình cảm thẩm mỹ và vai trò của tình cảm thẩm mỹ đã đƣợc rất nhiều

tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu. Trong cuốn Mỹ học cơ bản

và nâng cao do M.F.Ốpxiannhicốp chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà

Nội, 2001 có nghiên cứu về tình cảm thẩm mỹ và chỉ ra các đặc trƣng của tình

cảm thẩm mỹ. Theo ông, “tình cảm thẩm mỹ là một hiện tƣợng tâm lý phức

tạp. Nó chỉ có ở con ngƣời với tƣ cách là thực thể xã hội” [63, tr.130]. Đồng

thời ông chỉ ra vai trò của tình cảm thẩm mỹ đối với con ngƣời, nó giúp con

ngƣời khám phá ra vẻ đẹp của thế giới và của chính mình. Nhân cách của con

ngƣời cũng có những biến đổi lớn lao do ảnh hƣởng của tình cảm thẩm mỹ.

“chúng để lại dấu ấn không phai nhòa, thƣờng là suốt đời, trong ký ức ta” [63,

tr.131]. Bên cạnh những nghiên cứu về tình cảm thẩm mỹ Ốpxiannhicốp cũng

có những nghiên cứu về hoạt động âm nhạc. Ông cho rằng “nền tảng nội dung

của các hình tƣợng âm nhạc trƣớc hết là những tình cảm, cảm xúc của con

ngƣời” [63, tr.131]. Nhƣ vậy, tình cảm của con ngƣời tác động tới việc sáng

tạo âm nhạc và âm nhạc chính là sự biểu hiện những trạng thái thuộc thế giới

nội tâm của con ngƣời.

Trong cuốn Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin của tác giả Iu.A.Lukin do

Hoài Lam dịch cũng có đề cập tới tình cảm thẩm mỹ và mối quan hệ giữa tình

cảm thẩm mỹ với nhu cầu thẩm mỹ. Ông cho rằng “Cảm xúc thẩm mỹ là khả

năng rung cảm của con ngƣời trƣớc ấn tƣợng thẩm mỹ nhận đƣợc. Bản thân

những rung cảm này là sự xáo động của con ngƣời trải qua quá trình cảm thu

cái cao cả, là niềm vui lúc hƣởng thụ cái đẹp, là những xúc động đƣợc khơi

gợi lên bởi cái bi và cái hài trong cuộc sống và trong nghệ thuật” [59, tr.33].

Đồng thời tác giả cũng khẳng định “thiếu cảm xúc thẩm mỹ thì không có nhu

cầu thẩm mỹ” [59, tr.36]. Nhƣ vậy, đối với Iu.A.Lu-kin thì trong các yếu tố

của ý thức thẩm mỹ thì tình cảm thẩm mỹ và nhu cầu thẩm mỹ tác động qua

8

lại với nhau. Trong tác phẩm này Iu.A.Lukin cũng chỉ ra vai trò của tình cảm

đối với hoạt động âm nhạc: “Chính những biến động trong trạng thái tâm lý -

tình cảm con ngƣời đã giúp cho việc biểu đạt đƣợc mục tiêu của mỹ học sản

xuất... Chẳng hạn việc nghe nhạc cũng có ảnh hƣởng tốt đến hệ tim mạch và

hô hấp. Giai điệu nhạc khiến quá trình lao động trở nên nhịp nhàng và hạ thấp

đáng kể độ mệt mỏi. Do gây nên những cảm xúc tích cực, âm nhạc trong sản

xuất cải thiện hoạt động đó đạt mức tối ƣu và tiết kiệm năng lƣợng nhiều

nhất” [59, tr.137].

Trong cuốn Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc của tác giả Diệp

Lang, Nxb Thế giới, xuất bản năm 2014, tác giả có chỉ ra quan điểm của

Khổng Tử về tình cảm thẩm mỹ “Nghệ thuật bao hàm tình cảm ắt phải có sự

tiết chế, tình cảm có tính hữu hạn.Tình cảm nhƣ vậy phải phù hợp với quy

phạm của “lễ”, là tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm của âm thanh bài ca nƣớc

Trịnh quá mạnh, vƣợt quá hạn độ nhất định (dâm) không phù hợp với quy

phạm của “lễ”, cho nên không phải là tình cảm thẩm mỹ. Tiêu chuẩn thẩm mỹ

này của Khổng Tử, dùng một chữ để khái quát là chữ “hòa”. [57, tr.100].

Diệp Lang cũng có chỉ ra quan điểm của Tuân Tử về âm nhạc: Tuân Tử cho

rằng nhạc là một thứ khơi dậy tình cảm của con ngƣời. Tuân Tử cho rằng,

tính tình của con ngƣời ta, “tính” là tình, là thứ sinh ra sự ghét, vui, buồn, giận

dữ, đây là thiên tính của con ngƣời, là tự nhiên (vô đãi nhi thiên - không phải

đợi chờ mà tự nhiên nó thế) cho nên gọi là “thiên tính”. Tình cảm là thứ sinh

ra tự nhiên nhƣ là thứ nhận nhiệm vụ để phát triển”[57, tr.258].

Ở Việt Nam, tác giả Đỗ Huy là ngƣời có rất nhiều các công trình viết

về mỹ học. Có thể kể đến rất nhiều cuốn sách mà tác giả Đỗ Huy là chủ biên

và đồng chủ biên một số công trình viết về mỹ học nhƣ: Mỹ học với tư cách là

một khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học khoa học về

các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Đạo đức học, mỹ

học và đời sống văn học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002,

v.v..

9

Trong cuốn Mỹ học - khoa học về các quan hệ thẩm mỹ của tác giả Đỗ

Huy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm 2001 khi nghiên cứu về tình

cảm thẩm mỹ tác giả đã chỉ ra yếu tố cơ bản của tình cảm thẩm mỹ là yếu tố

khoái cảm, là trạng thái thức tỉnh tình cảm trƣớc sự hƣởng thụ nghệ thuật.

Tình cảm thẩm mỹ đã trở thành động lực để sáng tạo nghệ thuật. Trong cuốn

Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Thông tin Lý

luận, Hà Nội xuất bản năm 1987, tác giả Đỗ Huy cũng chỉ ra rằng, tình cảm

chi phối mỗi ngƣời trong thƣởng thức, đánh giá, biểu diễn, sáng tạo là tình

cảm thẩm mỹ. Đối tƣợng của tình cảm thẩm mỹ là cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái

hài, cái cao cả và cái anh hùng trong cuộc sống và nghệ thuật. Để hình thành

một chủ thể thẩm mỹ có khả năng sáng tạo đúng đắn, mỹ học Mác - Lênin

luôn luôn đòi hỏi mọi hoạt động của con ngƣời phải thống nhất giữa tình cảm

đạo đức với tình cảm thẩm mỹ.

Tác giả Đỗ Huy và Đỗ Văn Khang trong cuốn Mỹ học Mác - Lênin đã

có phân tích đầy đủ về tình cảm thẩm mỹ và các đặc trƣng của tình cảm thẩm

mỹ. Các ông có chỉ ra rằng “Tình cảm thẩm mỹ là lĩnh vực tinh tế của tâm

hồn, thế giới nhuần nhụy của xúc cảm, nhờ nó con ngƣời tiến sâu vào đối

tƣợng thẩm mỹ cuối cùng của cải tạo đối tƣợng”[38, tr.168]. Đồng thời các

ông cũng chỉ ra vai trò của tình cảm thẩm mỹ đối với hoạt động sáng tạo,

đánh giá nghệ thuật và khẳng định, xây dựng tình cảm mới trong đó có tình

cảm thẩm mỹ là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng con ngƣời phát

triển hài hòa và phong phú. Hai tác giả cũng đã chỉ ra và phân tích các đặc

trƣng của tình cảm thẩm mỹ đó là tình cảm thẩm mỹ trƣớc hết phải là tình

cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ không thể thiếu yếu tố khoái cảm.

Trong cuốn Mỹ học đại cương của tác giả Đỗ Văn Khang, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội, năm 2002, tác giả cũng có nghiên cứu về tình cảm thẩm mỹ

và chỉ ra những đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ. Tác giả cho rằng: “tình cảm

thẩm mỹ là năng lực mang tính bản chất ngƣời về tình yêu đối với cái đẹp và

sự căm ghét cái xấu”[40, tr.143]. Đồng thời tác giả cũng khẳng định tình cảm

10

thẩm mỹ chi phối toàn bộ quá trình định hƣớng, sáng tạo và thƣởng thức của

chủ thể thẩm mỹ.

Trong cuốn Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống, Nxb Chính trị Quốc gia

xuất bản năm 2004, tác giả Nguyễn Chƣơng Nhiếp ngoài việc nhấn mạnh tới

vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong hoạt động thƣởng thức, đánh giá, sáng tạo

nghệ thuật thì tác giả cũng nói tới vai trò của tình cảm thẩm mỹ với hoạt động

thƣởng thức, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật. Theo tác giả, nhu cầu thƣởng thức

thẩm mỹ hay nghệ thuật là nhu cầu tình cảm, do thế giới tình cảm của con

ngƣời chi phối, nếu không có tình cảm thẩm mỹ của con ngƣời về một khách

thể nào đó thì cũng không có nhu cầu thƣởng thức nó.

Trong cuốn Thụ cảm thẩm mỹ và người Hà Nội (2007), Nxb Chính trị

quốc gia, tác giả Hồ Sĩ Vịnh nghiên cứu tình cảm thẩm mỹ dƣới góc độ khác

đó là thụ cảm thẩm mỹ. Tác giả có chỉ ra rằng: hoạt động thẩm mỹ là phản

ứng tình cảm của con ngƣời trƣớc cái đẹp, cái bi, cái hài, cái duyên dáng, cái

xinh xắn, cái hài hòa, cái hoàn thiện và tất cả các dạng thẩm mỹ khác của

cuộc sống. Hoạt động cảm thụ thẩm mỹ là năng lực tinh thần của con ngƣời

khi thƣởng thức, bày tỏ tình yêu, liên tƣởng, đánh giá, sáng tạo những hiện

tƣợng thẩm mỹ trong cuộc sống cũng nhƣ nghệ thuật.

Tác giả Đào Duy Thanh là ngƣời có nhiều năm nghiên cứu về mỹ học,

trên blog của mình, ông cũng có bài viết về tình cảm thẩm mỹ và những đặc

trƣng của tình cảm thẩm mỹ. Theo ông tình cảm thẩm mỹ cũng là một hình

thái tình cảm xã hội của con ngƣời nhƣng nó khác với tình cảm đạo đức, trí

tuệ, tôn giáo... đó là sự rung động - cảm xúc bởi cái đẹp, cái bi, cái hài, cái

cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Trong bài viết ông cũng chỉ ra các

đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ đó là: tình cảm thẩm mỹ là cảm nghĩ - cảm

xúc và tình cảm thẩm mỹ là cơ chế tổng hợp cảm xúc.

Tác giả Nguyễn Thanh Tú trong bài viết Giáo dục, bồi dưỡng tình cảm

thẩm mỹ cho thanh thiếu niên đăng 2 kỳ trên website báo Quân đội nhân dân

ngày 25 và 26 tháng 3 năm 2015 phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự sa

11

sút, phai nhạt về tình cảm thẩm mỹ hiện nay. Tác giả đã chỉ ra năm nguyên

nhân làm giảm sút, phai nhạt tình cảm thẩm mỹ của một bộ phận thanh niên ở

nƣớc ta hiện nay. Đó là: 1. Mặt trái của cơ chế thị trƣờng, 2. Chủ nghĩa vị kỉ

lên ngôi, 3. Tình trạng “xâm lăng văn hóa” bằng nhiều con đƣờng, 4. Xu

hƣớng đô thị hóa quá nhanh gây mất cân đối giữa nông thôn và thành thị, 5.

Sự thoái hóa biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên. Chính

những nhân cách tồi lại ở vị trí lãnh đạo sẽ làm xói mòn niềm tin, tình cảm

của ngƣời dân với lý tƣởng tốt đẹp, trong sáng mà Đảng ta đã đề ra. Từ đó,

tác giả nêu ra một vài kiến nghị, giải pháp nhằm xây dựng tình cảm thẩm mỹ

tốt đẹp cho thanh thiếu niên. Giải pháp chung mang tính chiến lƣợc là xây

dựng một xã hội “sống để yêu thƣơng” và một xã hội học tập. Xây dựng xã

hội học tập vừa phát huy truyền thống hiếu học, văn hóa “trọng chữ”, vừa

khuyến khích mọi ngƣời tích cực thu nhận kiến thức mới, học mọi nơi, mọi

lúc, không kể.

Nghiên cứu về hoạt động âm nh ạc, nhạc sĩ Thế Bảo có cuốn “Cảm

nhận mỹ học âm nhạc”, Nxb Thanh niên, 2013. Cuốn sách gồm 5 phần. Phần

I, nguyên lý mỹ học âm nh ạc đƣợc tác giả vi ết trong 6 chƣơng với 36 đề mục giới thiệu nhƣ̃ng đ ặc điểm của âm nhạc, lịch sử và những vấn đề mỹ học âm

nhạc quan tâm; mối quan hê ̣ giữa các thành tố âm nhạc cũng nhƣ quan hê ̣ âm

nhạc, triết ho ̣c, văn học, hội họa, múa, điện ảnh, sân khấu và các loại trình

diễn khác. Trong phần này, tác giả cũng đ ề cập đến việc giáo dục mỹ học âm

nhạc cho ngƣờ i sáng tác, biểu diễn và nhất là cho ngƣờ i thƣởng thức. Phần II,

Câu chuyện, giai thoại âm nhạc của các nhạc sĩ và các danh nhân. Phần III,

Hƣơng sắc âm nhạc phƣơng Tây qua các thời đại. Phần IV, Thƣởng thức nhạc

giải trí. Phần V là nét đẹp nhạc Việt.

Trên website của Hội Nhạc sĩ Việt Nam (http://vnmusic.com.vn) có rất

nhiều bài viết tâm huyết bàn về âm nhạc.Nhiều suy tƣ trăn trở của các nhạc sĩ,

nghệ sĩ về tình hình âm nhạc nƣớc nhà liên tục đƣợc đăng tải. Tác giả Nguyễn

Văn Việt trong bài “Thực trạng nhạc trẻ ở Việt Nam” trên ngày 12/12/2012

12

đã chỉ ra những tồn tại hiện nay trong nhạc trẻ và chỉ ra nguyên nhân của nó.

Theo tác giả, vẫn có nhiều nha ̣c sĩ , ca sĩ trẻ hiê ̣n nay đam mê dòng nha ̣c quê , mô ̣c ma ̣c nhƣng rất đe ̣p , hƣơng. Nhiều bài hát đƣơ ̣c viết vớ i ca tƣ̀ giản di ̣ mang hình ảnh quê hƣơng , cánh cò ,… tƣ̀ ca khú c đó , nhạc sĩ vẫn có thể vẽ nên mô ̣t bƣ́ c tranh thủ y ma ̣c sống đô ̣ng nhƣ bài hát “Giấc mơ trưa” của nhạc sĩ Giáng Son và Nguyễn Vĩnh Tiến , “Phố Cổ” - Nguyễn Duy Hù ng… Tuy nhiên, có nhiều các nha ̣c sĩ , ca sĩ trẻ ít đƣơ ̣c đào ta ̣o qua trƣờ ng lớ p , các ca khúc đƣợc sáng tác dƣờng nhƣ không có tình cảm . Ngƣờ i viết la ̣i thiếu kinh nghiê ̣m cả về tiết tấu lẫn ca tƣ̀ là lý do xuất hiện nhiều ca khú c có ca tƣ̀ quá nhố nhăng, lố bi ̣ch. Để hạn chế điều này, tác giả cho rằng, các ban quản lý

văn hóa cần phải giám sát , đánh giá các ca khú c mớ i trƣớ c khi cho biểu diễn . Hơn nƣ̃a, chống đa ̣o nha ̣c nƣớ c ngoài, đă ̣t ca tƣ̀ bƣ̀ a bãi, gieo rắc đô ̣c ha ̣i về tƣ tƣởng và thẩm mỹ ; đồng thờ i cũng cần phổ câ ̣p âm nha ̣c bác ho ̣c đến các trƣờ ng phổ thông, đă ̣c biê ̣t là các trƣờ ng chuyên về âm nha ̣c ; các hội âm nhạc, hô ̣i nha ̣c sĩ thƣờ ng xuyên tổ chƣ́ c các lớ p bồi dƣỡng sáng tác ca khú c cho các nhạc sĩ trẻ…

Ngoài ra, có thể kể đến các bài “Bàn về công tác phê bình âm nhạc”

của tác giả Tố Mai ngày 11/10/2011; “Âm nhạc trong đời sống xã hội hiện

nay” của tác giả Trần Lệ Chiến ngày 25/12/2012; “Quản lý nghệ thuật từ góc

nhìn âm nhạc” của tác giả Nguyễn Thị Minh Châu, ngày 18/12/2012; “Thực

trạng ca khúc dành cho thiếu nhi “nói” hay “làm”? của tác giả Nguyễn Tiến

Mạnh ngày 11/10/2012; “Âm nhạc với tuổi trẻ hiện nay, đôi điều suy ngẫm”

của Nhạc sĩ Doãn Nho ngày 5/2/2013;..

Nhƣ vậy, có thể thấy có rất các công trình nghiên cứu tiếp cận tình cảm

thẩm mỹ ở những góc độ khác nhau cũng nhƣ các bài viết nghiên cứu về hoạt

động âm nhạc. Tuy nhiên vấn đề “Tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm

nhạc ở Việt Nam hiện nay”còn đang đƣợc để ngỏ. Vì thế, tác giả mong muốn

có sự đóng góp nhất định vào việc chỉ ra vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong

hoạt động âm nhạc, cũng nhƣ phân tích thực trạng, chỉ ra các nhân tố tác động

13

và đề xuất giải pháp để bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng

tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Làm rõ vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt

động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc. Từ thực trạng tình cảm thẩm

mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc ở Việt Nam hiện

nay, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần bồi dƣỡng tình

cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc ở Việt

Nam hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích này luận văn giải quyết

các nhiệm vụ sau:

+ Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về tình cảm thẩm mỹ và các

hoạt động sáng tạo, thƣởng thức và đánh giá âm nhạc: quan điểm của một số

nhà mỹ học tiêu biểu trong lịch sử mỹ học, khái niệm, đặc trƣng và vai trò của

tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc.

+ Phân tích thực trạng và chỉ ra một số nhân tố tác động đến tình cảm

thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay.

+ Đề xuất một số giải pháp góp phần bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ

trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình cảm thẩm mỹ trong hoa ̣t

đô ̣ng âm nhạc ở Viê ̣t Nam hiện nay.

Phạm vi luận văn nghiên cứu vấn đề tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động

âm nhạc ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

văn hóa nghệ thuật, đồng thời tham khảo một số bài viết, công trình nghiên

cứu đã công bố trong và ngoài nƣớc có liên quan trực tiếp đến đề tài.

14

Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phƣơng pháp luận biện chứng duy

vật, luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy

nạp, logic - lịch sử, khái quát, đối chiếu, so sánh…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu nội dung, vai trò của tình cảm

thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay.

- Vận dụng tình cảm thẩm mỹ trong hoa ̣t đô ̣ng âm nhạc vào giáo dục con

ngƣời, đặc biệt là thế hệ trẻ.

- Luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên

cứu, giảng dạy mỹ học, nghệ thuật học tại các trƣờng Đại học, các trƣờng

chuyên nghiệp.

15

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn gồm 2 chƣơng và 6 tiết.

16

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH CẢM THẨM MỸ VÀ

HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC

1.1. Tình cảm thẩm mỹ

1.1.1.Quan niệm về tình cảm thẩm mỹ trong lịch sử mỹ học

Mỹ học là khoa học về bản chất của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm

mỹ của con ngƣời, nhằm khám phá, phát minh ra những giá trị trên cơ sở quy

luật của cái đẹp, trong đó nghệ thuật là giá trị cao nhất.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chia đời sống ra thành hai bộ phận đó là tồn tại

xã hội và ý thức xã hội. Ý thức xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của

tồn tại xã hội. Ý thức xã hội xuất hiện dƣới dạng ý thức thông thƣờng và ý

thức lý luận (gồm một hệ thống các hình thái ý thức nhất định). Ý thức lý luận

gồm: quan điểm lý luận chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, khoa học,

triết học... và ý thức thẩm mỹ.

Ý thức thẩm mỹ là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Ý

thức thẩm mỹ là sự phản ánh thực tại một cách toàn vẹn, sinh động, đầy sắc

thái tình cảm, nhằm đáp ứng nhu cầu thƣởng thức, đánh giá và sáng tạo hiện

thực “theo quy luật của cái đẹp”. Tình cảm thẩm mỹ là một trong những thành

tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ.

Tình cảm thẩm mỹ là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp vì nó liên quan tới

tâm lý, tâm trạng của con ngƣời và nó liên quan tới xã hội. Đã có rất nhiều

những quan niệm khác nhau về tình cảm thẩm mỹ, mỗi thời đại lại có những

quan điểm khác nhau.

Từ xa xƣa, các nhà mỹ học Trung Quốc đã có những nghiên cứu và đƣa

ra những quan niệm khác nhau về tình cảm thẩm mỹ.

Khổng Tử (551 - 479 TCN) là nhà tƣ tƣởng đầu tiên trong lịch sử

Trung Quốc coi trọng và đề xƣớng giáo dục thẩm mỹ. Ông cũng đƣa ra nhiều

tƣ tƣởng về tác dụng của nghệ thuật trong đời sống xã hội. Khổng Tử cho

rằng, nghệ thuật có thể có tác dụng làm cho ngƣời ta tu dƣỡng ý thức nhƣng

17

không phải loại nghệ thuật nào cũng đều có thể dẫn đến tác dụng này mà chỉ

có nghệ thuật phù hợp với yêu cầu của “nhân” mới có thể đem đến tác dụng

này. Ông khẳng định, nghệ thuật bao hàm tình cảm ắt phải là một thứ có sự

tiết chế, tình cảm có tính hữu hạn. Tình cảm nhƣ vậy phù hợp với quy phạm

của “lễ”, là tình cảm thẩm mỹ.

Lƣơng Khải Siêu (1873 - 1929), ngƣờ i nổi tiếng trong lịch sử mỹ học cận đại Trung Quốc là ngƣời tích cực đề xƣớng về giáo dục thẩm mỹ. Lƣơng

Khải Siêu coi giáo dục thẩm mỹ thành giáo dục hứng thú hoặc giáo dục tình

cảm. Công cụ của giáo dục tình cảm chính là nghệ thuật. Âm nhạc, mỹ thuật,

văn học là ba món bảo bối, giúp nắm chắc “bí mật tình cảm” trong tay. Một

trong những quan điểm tiến bộ của ông là ông đã chỉ ra trách nhiệm xã hội

của nhà nghệ thuật, yêu cầu nhà nghệ thuật phải từ phƣơng diện ƣu việt, đẹp

đẽ để bồi dƣỡng tình cảm của bản thân.

Chu Quang Tiềm (1897-1986), nhà mỹ học nổi tiếng của Trung Quốc

thì cho rằng, nghệ thuật và tình cảm có mối quan hệ với nhau. Nghệ thuật

mang đầy cá tính phải biểu hiện tình cảm và khích động tình cảm.

Trong lịch sử mỹ học phƣơng Tây đã có những quan điểm khác nhau

về tình cảm thẩm mỹ nhƣ:

Immanuel Kant (1724 - 1804) là nhà triết học duy tâm chủ quan Đức

với những nghiên cứu công phu của mình, ông là ngƣời có nhiều đóng góp

quan trọng cho sự phát triển của mỹ học. Theo Kant, nhận thức của con ngƣời

đƣợc chia làm ba bộ phận: bộ phận hiểu biết, bộ phận ham muốn và bộ phận

thích thú. Tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy của ông nghiên cứu bộ phận

thứ nhất: hiểu biết. Tác phẩm Phê phán lý tính thực tiễn của ông nghiên cứu

bộ phận thứ hai: ham muốn. Tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán của ông

nghiên cứu sự thích thú, sự thỏa mãn. Theo ông, tình cảm thẩm mỹ là năng

lực thích thú, là sự thỏa mãn về tinh thần chứ không phải là năng lực nhận

biết. Năng lực này chủ yếu dựa vào thị hiếu và năng khiếu.

18

Cùng với việc gắn cảm xúc thẩm mỹ với cái đẹp, Kant đã coi cảm xúc

thẩm mỹ cũng gắn với cái cao cả. Đối với Kant, cảm xúc về cái đẹp mang tính

khoan khoái vô tƣ, còn cảm xúc về cái cao cả mang tính tôn kính; khoái cảm

đẹp gắn với hình thức, khoái cảm cao cả gắn với tâm linh.

Theo Kant, tình cảm thẩm mỹ chỉ là một sự thích thú “vô tƣ”. Kant

thừa nhận yếu tố thích thú, yếu tố khoái cảm trong tình cảm thẩm mỹ nhƣng

không phân biệt thích thú ấy, khoái cảm ấy với các thích thú, các khoái cảm

do lợi ích vật chất đƣa lại trực tiếp cho chủ thể nên Kant đã dẫn tình cảm thẩm

mỹ đến “vô tƣ”.

Hegel (1770 - 1831) là nhà triết học và mỹ học cổ điển Đức, cũng rất

quan tâm tới các hoạt động thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ. Trong tác phẩm

Hiện tượng học tinh thần năm 1807, Hegel đã nghiên cứu các vấn đề pháp

quyền, tâm lý, tôn giáo, triết học tinh thần, tâm lý học, mỹ học. Theo ông, tinh

thần tuyệt đối là những ý niệm chung gắn với các hình thức tôn giáo. Ý niệm

tuyệt đối đƣợc thể hiện bằng hình ảnh đó là hình thức thẩm mỹ hay là hình

thức nghệ thuật. Nhƣ vậy, theo Hegel cảm xúc thẩm mỹ có nguồn gốc từ ý

niệm tuyệt đối đƣợc thể hiện bằng hình ảnh. Hegel cũng đƣa ra quan niệm về

tình cảm thẩm mỹ. Ông cho rằng, hành vi cao nhất của lý tính bao quát tất cả

mọi ý niệm là hành vi thẩm mỹ , rằng chỉ có trong vẻ đe ̣p thì chân lý và điều tốt mớ i hơ ̣p nhất vớ i nhau bằng nhƣ̃ng mối liên hê ̣ thân thuô ̣c…không thể coi kỳ lĩnh vực nào nếu không có là đƣợc phát triển về mặt tinh thần trong bất

tình cảm thẩm mỹ.

C.Mác (1818 - 1883), nhà triết học ngƣời Đức đã chỉ ra rằng, lao động

chính là nguồn gốc hình thành nên con ngƣời, là hoạt động tạo ra của cải vật

chất duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài ngƣời và còn là dấu hiệu để

phân biệt con ngƣời với con vật. Theo Mác, loài vật chỉ lao động theo bản

năng nhằm phục vụ những nhu cầu thể xác trực tiếp còn con ngƣời thì lao

động sản xuất ngay cả khi không còn bị chi phối bởi nhu cầu vật chất. Loài

vật lao động một cách máy móc còn con ngƣời lao động một cách tự do.

19

Trong quá trình lao động, bên cạnh việc tạo ra các sản phẩm nhằm thỏa mãn

nhu cầu vật chất con ngƣời còn tạo ra niềm vui, sự tự tin, lòng hân hoan, phấn

khởi trƣớc những thành tựu của mình, những tình cảm thẩm mỹ cũng phát

sinh trong quá trình đó. Chính nhờ những tình cảm thẩm mỹ, những niềm vui

của lao động sáng tạo mà con ngƣời “có thể sản xuất theo kích thƣớc của bất

cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối

tƣợng; do đó con ngƣời cũng xây dựng theo các quy luật của cái đẹp"[47,

tr.137]. Nhƣ vậy, lao động sáng tạo thẩm mỹ là hoạt động tạo ra các sản phẩm

theo quy luật của cái đẹp và chính trong quá trình đó thì tình cảm thẩm mỹ

đƣợc nảy sinh.

1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của tình cảm thẩm mỹ

1.1.2.1. Khái niệm tình cảm

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tình cảm là sự rung động trƣớc một đối

tƣợng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu của bản thân” [64,

tr.1274].

Từ điển thuật ngữ Tâm lý học có viết: “Tình cảm là những trạng thái

cảm xúc ổn định của con ngƣời đối với những sự vật, hiện tƣợng của hiện

thực, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên quan với nhu cầu và động cơ

của họ”[6, tr.570].

Trong cuốn Tâm lý học đại cương, tác giả Phạm Minh Hạc định nghĩa:

“Tình cảm là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tƣơng đối bền vững (có thể

trong một thời gian, có khi cả đời) của chủ thể đối với sự đồng thuận (thỏa

mãn, thích thú) hay không đồng thuận (không thỏa mãn, chán ngán) với nhu

cầu, mong muốn, do tác động từ thế giới khách quan hay suy tƣ chủ quan

mang lại” [17, tr.216].

Từ điển Triết học của tác giả Cung Kim Tiến đƣa ra định nghĩa: “Tình

cảm là sự cảm động của con ngƣời trong quan hệ của mình đối với thực tại

xung quanh (đối với mọi ngƣời, đối với những hiện tƣợng nào đó), và đối với

bản thân mình”[81, tr.1187].

20

Theo quan điểm của các nhà triết ho ̣c mácxít, “tình cảm là sự cảm động của con ngƣời trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh và đối với bản

thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại, nó

phản ánh quan hệ của con ngƣời đối với nhau, cũng nhƣ đối với thế giới

khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con ngƣời và giữ một

vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con ngƣời. Tình cảm có

thể mang tính chủ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc tích cực, cũng nhƣ trở

thành thụ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc tiêu cực. Tình cảm tích cực là

một trong những động lực hoạt động sống của con ngƣời”[4, tr.199].

Trong sự phát triển của tâm lý con ngƣời thì tình cảm xuất hiện sau

cảm xúc. Tình cảm đƣợc hình thành theo con đƣờng khái quát những phản

ứng cảm xúc cụ thể, trở thành thuộc tính, sau đó chính nó lại quy định sự thể

hiện các phản ứng cảm xúc cụ thể. Nhƣ vậy tình cảm đƣợc hình thành từ các

cảm xúc và thể hiện bằng các cảm xúc khác nhau.

Nhƣ vậy, có thể hiểu, tình cảm là thái độ cảm xúc của con người đối

với sự vật, hiện tượng và con người xung quanh.

Tình cảm có vai trò quan trọng và là điều kiện cần thiết cho sự phát

triển nhân cách con ngƣời. Tình cảm đƣợc hình thành theo sự phát triển ý

thức của cá nhân và dƣới ảnh hƣởng của các tác động giáo dục của gia đình,

nhà trƣờng và xã hội. Do đó mà tình cảm có bản chất xã hội.

Tình cảm đƣợc phân thành hai loại: tình cảm cấp thấp và tình cảm cấp

cao.

- Tình cảm cấp thấp có liên quan đến sự thỏa mãn các nhu cầu sinh lý.

- Tình cảm cấp cao liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu tinh thần.

bao gồm:

+ Tình cảm đạo đức: là những tình cảm liên quan đến sự thỏa mãn

những nhu cầu đạo đức của con ngƣời;

+ Tình cảm trí tuệ: là những tình cảm nảy sinh trong hoạt động trí tuệ,

nhận thức;

21

+ Tình cảm thẩm mỹ: là những tình cảm liên quan đến sự thỏa mãn nhu

cầu thẩm mỹ, nhu cầu về cái đẹp.

1.1.2.2. Khái niệm tình cảm thẩm mỹ

Tình cảm thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của ý thức thẩm mỹ. Ý

thức thẩm mỹ là một bộ phận của đời sống tinh thần xã hội, bao gồm toàn bộ

những tƣ tƣởng, tình cảm, những tri thức, quan điểm, quan niệm của con

nguời về phƣơng diện thẩm mỹ.

Tình cảm thẩm mỹ bắt đầu từ những cảm xúc thẩm mỹ. Tình cảm và

cảm xúc là hình thức hoạt động tâm lý trong đó không có sự phân biệt giữa cá

nhân đang suy lý với thế giới bên ngoài.

Cảm xúc thẩm mỹ là rung động trực tiếp của con ngƣời trƣớc những

hiện tƣợng thẩm mỹ khách quan. Đây là khâu đầu tiên, tín hiệu đầu tiên xác

nhận sự thiết lập của quan hệ thẩm mỹ. Nằm trong hệ thống các phản xạ có

điều kiện, cảm xúc thẩm mỹ chỉ xảy ra khi có sự vật hiện tƣợng khách quan

mang giá trị thẩm mỹ tác động trực tiếp tới con ngƣời thông qua các giác

quan. Đặc trƣng cơ bản cảm xúc thẩm mỹ là tính cảm tính trực tiếp, nó không

phải là loại cảm xúc mơ hồ, không đối tƣợng. Nói cách khác, cảm xúc thẩm

mỹ chính là phản ứng của con ngƣời trong khi cảm thụ cái đẹp, phê phán, xa

lánh cái xấu.

Cảm xúc thẩm mỹ là kết quả đầu tiên của chủ thể khi tiếp xúc với đối

tƣợng thẩm mỹ. Thông qua cảm giác thẩm mỹ, các đặc tính của sự vật đƣợc

hình thành, đƣợc tổng hợp trong biểu tượng thẩm mỹ. Biểu tƣợng thẩm mỹ là

hình ảnh của các đặc trƣng rõ nét của các hiện tƣợng thẩm mỹ phản ánh vào ý

thức. Tiếp theo đó, các phán đoán thẩm mỹ sẽ dần dƣợc hình thành. Phán

đoán thẩm mỹ là sự đánh giá chủ quan về mặt thẩm mỹ của mỗi cá nhân đối

với các hiện tƣợng thẩm mỹ khách quan. Toàn bộ cảm giác, các biểu tƣợng,

các phán đoán thẩm mỹ đều nằm ở giai đoạn đầu tiên của tình cảm thẩm mỹ

đó là giai đoạn xúc cảm thẩm mỹ. Đến các giai đoạn sau cao hơn, ổn định

22

hơn, có định hƣớng rõ rệt hơn, đó là giai đoạn của thị hiếu thẩm mỹ và lý

tƣởng thẩm mỹ.

Từ điển thuật ngữ Tâm lý học có viết: “Tình cảm thẩm mỹ là những

tình cảm có liên quan tới sự thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu về cái đẹp.

Nó biểu hiện thái độ thẩm mỹ của con ngƣời với hiện thực (tự nhiên, xã hội,

lao động, con ngƣời…)”[6, tr.571].

Từ điển Triết học của tác giả Cung Kim Tiến có định nghĩa: “Tình cảm

thẩm mỹ là trạng thái xúc cảm xuất hiện trong quá trình cảm thụ thẩm mỹ

những hiện tƣợng trong thực tại hoặc các tác phẩm nghệ thuật. Tình cảm thẩm

mỹ là cảm xúc đặc thù nảy sinh ra từ cảm thụ này, và đóng vai trò là tình cảm

về cái đẹp hoặc cái cao thƣợng, cái bi hoặc cái hài. Thái độ thẩm mỹ của con

ngƣời không hạn chế ở những tình cảm thẩm mỹ, nhƣng nó chỉ tồn tại với

những tình cảm ấy. Tình cảm thẩm mỹ là sản phẩm của quá trình phát triển

lịch sử loài ngƣời. Nó phản ánh trình độ ý thức thẩm mỹ của xã hội. Những

tác phẩm nghệ thuật vật chất hóa trong các hình tƣợng nghệ thuật những tình

cảm thẩm mỹ và là phƣơng pháp có hiệu lực không những trong tƣ tƣởng, mà

cả trong giáo dục tình cảm nữa; chúng có nhiệm vụ làm nguồn vui sƣớng và

cảm hứng đối với con ngƣời”[81, tr.1189].

Tình cảm thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của ý thức thẩm mỹ, là

những phản ứng của chủ thể nẩy sinh trong quá trình đồng hóa thực tại về mặt

thẩm mỹ. Trong cuộc sống, trong hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải tạo

xã hội, con ngƣời nẩy sinh những rung động, những cảm xúc trƣớc cái đẹp,

cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn,… Những rung động, những

xúc cảm đó chính là tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ là những cảm xúc

nảy sinh ở con ngƣời do tác động của những đối tƣợng có ý nghĩa thẩm mỹ

hết sức đa dạng, phong phú trong thế giới hiện thực.

Mỹ học Mác - Lênin đã khẳng định, tình cảm thẩm mỹ là hình ảnh chủ

quan của thế giới khách quan. “Tình cảm thẩm mỹ là phản ứng tình cảm của

con ngƣời trƣớc cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái duyên dáng, cái xinh xắn,

23

cái hài hòa và mất hài hòa, cái ở trong độ và v.v.. Tình cảm thẩm mỹ còn là

năng lực tinh thần của con ngƣời khi thƣởng thức, đánh giá, yêu thƣơng, liên

tƣởng, sáng tạo những giá trị thẩm mỹ phong phú của cuộc sống và nghệ

thuật”[38, tr.170].

Nhƣ vậy, có thể hiểu, tình cảm thẩm mỹ là những rung cảm nảy sinh

khi cảm thụ thẩm mỹ, thể hiện thái độ thẩm mỹ của con người đối với hiện

thực (tự nhiên, xã hội, lao động và bản thân con người), thể hiện nhu cầu

thẩm mỹ , thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ và được thể nghiệm trong

những trạng thái khoái cảm nghệ thuật đặc trưng. Tình cảm thẩm mỹ được

nảy sinh trong đời sống xã hội, bị quy định bởi xã hội và thể hiện trình độ

phát triển về mặt xã hội của cá nhân, là động lực thôi thúc cá nhân sáng tạo,

thưởng thức và đánh giá nghệ thuật.

1.1.2.3. Một số đặc trưng cơ bản của tình cảm thẩm mỹ

Tình cảm thẩm mỹ nảy sinh trong quá trình đồng hóa thực tại về thẩm

mỹ. Đó là những rung động của con ngƣời trƣớc cái đẹp. Cái đẹp giữ vị trí

trung tâm của các quan hệ thẩm mỹ cho nên tình cảm thẩm mỹ cũng xoay

quanh cái đẹp. Không có cái đẹp thì cũng không có cái bi, cái hài, cái cao cả,

không có cái đẹp thì cũng không có nhu cầu thẩm mỹ , lý tƣởng thẩm mỹ và thị hiếu thẩm mỹ.

Thế giới tự nhiên và xã hội của chúng ta luôn luôn vận động và phát

triển, đời sống của con ngƣời cũng thay đổi do đó tình cảm thẩm mỹ cũng

phải thay đổi. Do đó, đặc trƣng đầu tiên của tình cảm thẩm mỹ chính là mang

tính thời đại. Nó không phải là cái bất biến, nó đƣợc nảy sinh trong quá trình

hoạt động thực tiễn của con ngƣời, thông qua hoạt động cải tạo tự nhiên và

cải tạo xã hội con ngƣời vừa làm biến đổi tự nhiên, xã hội vừa làm thay đổi

bản thân mình.

Bên cạnh những đặc điểm của thời đại thì tình cảm thẩm mỹ còn chịu

sự chi phối của yếu tố dân tộc, xã hội có giai cấp thì tình cảm thẩm mỹ cũng

mang tính giai cấp. Trong xã hội có phân chia giai cấp, tình cảm thẩm mỹ của

24

con ngƣời luôn chịu ảnh hƣởng của giai cấp mà nó thuộc về nhƣ: điều kiện,

hoàn cảnh sống, lý tƣởng đạo đức, lý tƣởng chính trị, lý tƣởng thẩm mỹ...

TSécnƣsépxki, nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga thế kỷ XIX đã nói đến sự

khác biệt mang tính giai cấp trong quan niệm về cái đẹp khi đƣa ra ví dụ

những ngƣời lao động chốn thôn quê quan niệm về một ngƣời con gái đẹp

phải là ngƣời khoẻ mạnh, rắn chắc, có khả năng lao động tốt, còn đối với

nhƣ̃ng ngƣờ i ở xã hội thƣợng lƣu lại ƣa những cô tiểu thƣ mảnh dẻ, yểu điệu, gày gò, “gió thổi bay”: “Một thiếu nữ nông thôn, do làm việc nhiều mà rắn

chắc, lại đƣợc ăn uống đầy đủ thì sẽ có sức khoẻ dồi dào - đó cũng là điều

kiện cần thiết của một ngƣời đẹp ở thôn quê. Còn đối với ngƣời đẹp “gió thổi

bay”, mảnh dẻ, gầy gò của xã hội giao tế hào hoa thì ngƣời thôn quê lại dứt

khoát cho là “vô duyên”, và thậm chí còn cảm thấy khó chịu nữa, vì rằng

ngƣời thôn quê vẫn quen cho rằng “gầy còm” là kết quả của ốm yếu hay của

một “số phận đắng cay”[84, tr.24]. Giải thích nguyên nhân vì sao lại có hiện

tƣợng này, Tsécnƣsépxki cho là do địa vị giai cấp của họ. Chính sự khác biệt

về giai cấp sẽ đƣa đến những quan niệm khác nhau về thẩm mỹ: “Những

ngƣời sống nhàn rỗi thì máu ít chảy xuống chân tay, gân thịt chân tay của mỗi

thế hệ lại một yếu dần đi, xƣơng trở nên càng nhỏ, kết quả tất nhiên của tất cả

cái đó là chân tay nhỏ bé. Chúng là dấu hiệu của một cuộc đời mà chỉ những

giai cấp trên trong xã hội mới có, một cuộc đời không lao động chân tay. Nếu

một ngƣời đàn bà lịch thiệp mà chân tay to lớn thì là một ngƣời đàn bà xấu

xí hoặc không xuất thân từ một gia đình lƣơng thiện và cổ kính”[84, tr.25].

Tính dân tộc của tình cảm thẩm mỹ gắn với nhu cầu thẩm mỹ của dân

tộc. Mỗi dân tộc có điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế và bản sắc văn hóa

khác nhau nên những nhu cầu thẩm mỹ cũng khác nhau và việc thỏa mãn

những nhu cầu thẩm mỹ đó làm cho tình cảm thẩm mỹ của mỗi dân tộc cũng

khác nhau. Đối với ngƣời dân Việt Nam khi xa quê hƣơng và nghe những làn

điệu dân ca quê nhà sẽ làm cho chúng ta xúc động và nhớ về quê hƣơng. Đối

với các bạn Lào thì họ lại thấy hào hứng khi thƣởng thức điệu múa lăm vông,

25

ngƣời Campuchia thì lại phấn khởi, vui mừng với điệu múa lâm thôn của họ.

Ngƣời Việt Nam chúng ta tự hào về vẻ đẹp của áo dài truyền thống, ngƣời

Hàn Quốc tự hào với trang phục Hanbok, ngƣời Nhật Bản thì lại tự hào về

trang phục Kimono, còn ngƣời Hoa lại yêu thích vẻ đẹp của chiếc áo sƣờn

xám... Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, tình cảm thẩm mỹ của mỗi một dân tộc là

khác nhau.

Tình cảm thẩm mỹ mặc dù là những phản ánh trực tiếp của con ngƣời

trƣớc những đối tƣợng nhƣng không phải vì thế mà cho rằng tình cảm thẩm

mỹ chỉ là cái thuần túy cảm tính. Cũng nhƣ các bộ phận khác của ý thức thẩm

mỹ, tình cảm thẩm mỹ chịu sự tác động qua lại với các yếu tố tinh thần khác.

Trong con ngƣời xã hội, yếu tố tình cảm không bao giờ tồn tại biệt lập mà

luôn luôn chịu sự tác động của lí trí, của tƣ tƣởng, của thế giới quan, nhân

sinh quan, của bề dày văn hóa. Đồng thời tình cảm thẩm mỹ còn chịu sự tác

động của tình cảm đạo đức, tình cảm pháp luật, tình cảm chính trị - xã hội,…

Chính sự tác động qua lại hết sức phức tạp đó làm cho tình cảm thẩm mỹ

không đơn thuần là cái cảm tính.

Tình cảm thẩm mỹ có mối quan hệ chặt chẽ với tình cảm đạo đức,

chúng tạo điều kiện hình thành những đặc tính nhất định của cá nhân, tham

gia hết sức tích cực vào việc giáo dục đạo đức - xã hội. Mỹ học Mác - Lênin

không đối lập tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ và

tình cảm đạo đức có mối quan hê ̣ khăng khít v ới nhau. Những tình cảm đạo

đức trong sáng, những động cơ không vụ lợi…là những kích thích tố mang lại

một quan hệ tốt đẹp hơn giữa con ngƣời với con ngƣời. Từ đó tạo ra những

hứng thú đối với lao động và những hoạt động khác vì mục tiêu hạnh phúc

của con ngƣời. Ngƣời có năng lực tình cảm đạo đức phát triển, không chỉ là

ngƣời có lòng tốt, có tình thƣơng, sự độ lƣợng mà còn là ngƣời có năng lực

tham gia vào cac hoạt động thực tiễn, đấu tranh, bảo vệ cho những giá trị đạo

đức cao đẹp và ngăn ngừa những giá trị phi đạo đức. Dƣới tác động của tình

cảm đạo đức nói riêng, nhân tố đạo đức nói chung, sẽ làm cho nhân cách con

26

ngƣời trở nên lành mạnh, phát triển. Cũng nhƣ tình cảm đạo đức, tình cảm

thẩm mỹ là một trong những nhân tố góp phần quan trọng trong việc hình

thành, phát triển nhân cách của con ngƣời. Nhờ những năng lực thẩm mỹ,

trong đó có tình cảm thẩm mỹ, con ngƣời phát hiện ra cái đẹp của thế giới

xung quanh mình. Tình cảm thẩm mỹ làm gia tăng trƣờng lực, tối ƣu hóa các

quá trình tâm sinh lý, kích thích tính sáng tạo trong mọi hoạt động sống của

con ngƣời. Cùng với tình cảm thẩm mỹ, sự tham gia của thị hiếu thẩm mỹ

tinh tế, sẽ giúp con ngƣời có phản ứng nhanh, nhạy, chính xác trong nhận

thức, thƣởng ngoạn, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ. Sự kết hợp giữa tình cảm

thẩm mỹ với lý tƣởng thẩm mỹ cao đẹp, là những nhân tố phản ánh khát vọng

tự do, kích thích tính tích cực của hoạt động sống, khả năng lao động có hiệu

quả cao trong cuộc sống của mỗi ngƣời. Toàn bộ bộ mặt tinh thần, những khả

năng bộc lộ nhân cách của con ngƣời, nhờ tham gia của năng lực thẩm mỹ

trong đó có tình cảm thẩm mỹ, mà trở nên phong phú và phát triển.

Tình cảm thẩm mỹ còn đƣợc đặc trƣng ở tính vô tư. Tính vô tƣ của tình

cảm thẩm mỹ thể hiện ở chỗ khi thƣởng thức cũng nhƣ khi sáng tạo nghệ

thuật chủ thể không còn vƣớng bận bởi những tình toán thực dụng thấp hèn

mà mặc sức để cho cảm xúc hồn nhiên bay bổng hƣớng tới cái đẹp, cái cao cả.

Chính tính vô tƣ của tình cảm thẩm mỹ trong quá trình thƣởng thức và sáng

tạo thẩm mỹ làm xua tan những mệt mỏi, lo lắng, ƣu phiền trong cuộc sống

đồng thời tiếp thêm sức mạnh để con ngƣời vƣơn tới cái đẹp, chiến thắng cái

xấu, cái ác. Tình cảm thẩm mỹ nảy sinh trong hoạt động thƣởng thức và sáng

tạo nghệ thuật có vai trò hết sức quan trọng trong việc thanh lọc các cảm xúc

tiêu cực, bồi dƣỡng đạo đức, nuôi dƣỡng tâm hồn, bảo đảm sự phát triển hài

hòa, toàn diện của con ngƣời.

Tình cảm thẩm mỹ còn có đặc trƣng nữa là yếu tố khoái cảm, thiếu yếu

tố khoái cảm thì tình cảm chƣa thể trở thành tình cảm thẩm mỹ. Khoái cảm

thẩm mỹ là một loại tình cảm đặc biệt của con ngƣời, tình cảm yêu thích,

khoan khoái, ngƣỡng mộ. Khoái cảm thẩm mỹ - sự yêu thích, khoan khoái,

27

ngƣỡng mộ này có những đặc trƣng riêng không giống với bất kỳ một loại

khoái cảm nào khác. Nhƣng không phải bất cứ sự thỏa mãn nào cũng là tình

cảm thẩm mỹ. Những thích thú đƣợc khơi dậy từ sự thỏa mãn nhu cầu vật

chất nhƣ đƣợc ăn ngon, tắm mát, đƣợc ngủ ngon giấc…không phải là những

khoái cảm thẩm mỹ. Sự yêu thích, khoan khoái do thỏa mãn các nhu cầu vật

chất, nhu cầu sinh học, xuất phát từ vị giác, xúc giác, khứu giác nhƣ ăn, uống,

hút thuốc... không liên quan đến cái đẹp. Sự yêu thích, khoan khoái gắn liền

với cái đẹp là sự yêu thích nảy sinh do thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, là một loại

khoái cảm tinh thần, cao quý, vô tƣ, xuất phát từ sự tác động của đối tƣợng

đến hai cửa sổ tâm hồn - tai và mắt.

1.2. Hoạt động âm nhạc

1.2.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của âm nhạc

1.2.1.1. Khái niệm âm nhạc

Theo Từ điển Tiếng Việt thì “âm nhạc là nghệ thuật dùng âm thanh làm

phƣơng tiện để biểu đạt tƣ tƣởng và tình cảm” [64, tr.35].

Âm nhạc là bộ môn nghệ thuật lấy âm thanh (biểu hiện ở chiều ngang

là giai điệu, chiều dọc là hòa thanh) làm phƣơng tiện, chất liệu để biểu hiện sự

rung động, cảm xúc, tâm trạng của con ngƣời. Cao độ (độ trầm bổng) và

trƣờng độ (độ nhanh chậm) đƣợc coi là những thuộc tính cơ bản của âm nhạc.

Sự kì diệu của bộ môn nghệ thuật này là tác động trực tiếp, mạnh mẽ vào tình

cảm của ngƣời nghe và thông qua tình cảm mà thể hiện tƣ tƣởng. Ƣu thế nói

trên hiếm có bộ môn nghệ thuật nào có thể thay thế đƣợc.

Việc phân chia các thể loại âm nhạc là điều rất phức tạp và chƣa có một

quy ƣớc thống nhất. Ngƣời ta có thể dựa vào những cơ sở khác nhau để phân

chia hệ thống các thể loại âm nhạc nhƣ:

- Dựa trên cơ sở chức năng sinh hoạt xã hội của tác phẩm âm nhạc.

- Dựa trên cơ sở ngôn ngữ biểu hiện hoặc nội dung biểu hiện của tác

phẩm âm nhạc.

- Dựa trên cơ sở điều kiện biểu diễn và cảm thụ của tác phẩm âm nhạc.

28

Tổng hợp các yếu tố trên, ngƣời ta có thể phân chia nghệ thuật âm nhạc

thành bốn nhóm thể loại lớn nhƣ sau:

1/ Âm nhạc dân gian truyền miệng;

2/ Nhạc giải trí;

3/ Âm nhạc kinh điển;

4/ Loại tác phẩm âm nhạc sân khấu.

Trong Nhạc giải trí, lại chia thành:

+ Nhạc khiêu vũ (dance)

+ Nhạc POP (popular)

+ Nhạc JAZZ

+ Nhạc ROCK và nhạc điện tử

+ Nhạc bán cổ điển (Semi - Classic)

Âm nhạc kinh viện bao gồm:

+ Loại âm nhạc thính phòng

+ Loại âm nhạc giao hƣởng hoặc Concerto viết cho nhạc cụ độc tấu

và dàn nhạc

+ Loại hợp xƣớng

Loại tác phẩm âm nhạc sân khấu cũng có thể phân chia âm nhạc thành

hai nhóm thể loại lớn đó là thanh nhạc và khí nhạc.

Thanh nhạc là âm thanh của giọng hát con ngƣời. Ở thanh nhạc, hai yếu

tố nhạc và lời kết hợp với nhau một cách chặt chẽ, nƣơng tựa vào nhau, góp

phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cho nhau.

Khí nhạc lại là âm thanh đƣợc phát ra từ các loại nhạc cụ nhƣ đàn, sáo,

kèn, trống… trên thực tế, thanh nhạc và khí nhạc liên quan hài hòa với nhau.

Lời hòa vào nhạc, nhạc lôi cuốn, chắp cánh cho lời ca bay xa, bay cao. Không

phải ngẫu nhiên, trong ngôn ngữ thƣờng ngày hai từ ca và nhạc thƣờng đƣợc

sử dụng sóng đôi biểu thị mối quan hệ gắn kết nói trên. Cũng không phải

ngẫu nhiên, ở nhiều nghệ sĩ tài năng, cùng một lúc hát rất hay lại sử dụng rất

giỏi các loại nhạc cụ.

29

1.2.1.2. Đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc

Âm thanh và thời gian là hai yếu tố đặc trƣng của nghệ thuật âm nhạc.

Nó luôn luôn là trừu tƣợng và ƣớc lệ trong nhận thức của con ngƣời đặc biệt

là trong các thể loại âm nhạc không lời (khí nhạc).

Hình tƣợng của âm nhạc mang tính trừu tƣợng và trực tiếp hơn các loại

hình nghệ thuật khác do yếu tố biểu hiện là chất liệu âm thanh của âm nhạc.

Nghệ thuật nào cũng hƣớng đến tâm hồn con ngƣời nhƣng âm nhạc là thứ

ngôn ngữ trực tiếp của tâm hồn, nó len lỏi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống,

tình cảm và chạm vào mọi ý thức của tâm linh. Nền tảng nội dung của các

hình tƣợng âm nhạc trƣớc hết là những tình cảm, cảm xúc của con ngƣời, sự

vận động của cuộc sống con ngƣời, tính chất những tình cảm, tâm trạng, cảm

xúc này, nhịp điệu của hoạt động con ngƣời.

Hình tƣợng âm nhạc mở ra đầu tiên ở chủ đề âm nhạc, sau đó là quá

trình phát triển các chủ đề âm nhạc. Trong quá trình phát triển đó, có khi là sự

mở rộng biến hóa, bổ sung, có khi là sự xuất hiện chủ đề mới tạo nên sự

tƣơng phản, xung đột giữa các chủ đề tạo nên hình tƣợng sinh động, sâu sắc.

Chủ đề trong âm nhạc là ý nhạc cơ bản đƣợc trình bày một cách rõ ràng

trong quan hệ giai điệu và cấu trúc, thể hiện ở chất liệu âm nhạc đƣợc cá tính

hóa và có ý nghĩa dẫn đầu truyền cảm hình tƣợng trong tác phẩm âm nhạc.

Chủ đề âm nhạc gắn liền với ngôn ngữ âm nhạc đƣợc thể hiện một cách cụ thể

bằng một giai điệu, một ý nhạc, hoặc có thể là một tiết tấu, vài nốt nhạc, vài

hợp âm mang tính đặc sắc, cô đọng nhất, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ liên tƣởng, dễ

cảm nhận.

Chủ đề âm nhạc và hình tƣợng âm nhạc có mối liên hệ gắn bó với nhau

nhƣng không đồng nhất với nhau. Nó gắn bó với nhau bởi lẽ, mỗi một chủ đề

âm nhạc sẽ mang lại một hình tƣợng âm nhạc, nếu nhƣ không ngay tức khắc

thì cũng sẽ ít nhiều bộc lộ trong toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, nó không đồng

nhất ở chỗ: khái niệm chủ đề âm nhạc quan hệ đến chất liệu âm nhạc, nó là ý

nhạc cụ thể. Chủ đề âm nhạc thuộc lĩnh vực lý thuyết, lý luận âm nhạc còn

30

hình tƣợng âm nhạc mang tính chất mở rộng hơn. Đó là trạng thái tâm hồn,

nhận thức lý trí của con ngƣời thông qua những phƣơng tiện biểu hiện của

ngôn ngữ âm nhạc mà hình thành. Do đó hình tƣợng âm nhạc mang tính ƣớc

lệ, tính trừu tƣợng và khái quát cao về tƣ duy, cảm xúc của nhà soạn nhạc.

Nhƣ vậy, có thể nói hình tƣợng âm nhạc là linh hồn của tác phẩm âm nhạc.

Tuy nhiên, một tác phẩm âm nhạc không phải luôn luôn và không phải

trong tất cả sự phát triển đều chứa đầy đủ chủ đề. Tác phẩm có thể đƣợc xây

dựng trên chất liệu hình ảnh bƣớc chạy không có tính chất chủ đề và trên nền

chuyển động bình thản đƣợc âm hình hóa khi tạo nên hình tƣợng rõ rệt về

trạng thái tâm lý hoặc hình ảnh thiên nhiên...

Hình tƣợng âm nhạc có hai đặc điểm:

Thứ nhất, nó phản ánh cuộc sống trực tiếp bằng các hình tƣợng âm

thanh và nhịp điệu. Trƣớc hết phải nói đến sự phản ánh trực tiếp tiếng động

và âm thanh của hiện thực khách quan trong đó, thế giới tự nhiên đƣợc khắc

họa đầy đủ màu sắc nhƣ tiếng suối róc rách, tiếng rì rào của gió, mƣa, bão,

tiếng chim hót, tiếng ngựa hí... (nhƣ trong Giao hưởng số 6 của Beethoven,

các bài ca “Thần núi”, “Mục đồng”... của Sube...). Các quá trình tâm lý của

con ngƣời nhƣ khóc, cƣời, ca thán, kêu thét... cũng đƣợc tái hiện nhiều trong

các tác phẩm âm nhạc nhƣ ở những bản nhạc độc tấu hay các đoạn nhạc độc

tấu nhạc cụ, đặc biệt đƣợc thể hiện hiệu quả nhất trong các tác phẩm thanh

nhạc.

Thứ hai, nó phản ánh từng phần tạo sự liên tƣởng qua cảm xúc âm

nhạc. Những thuộc tính không gian của sự vật, những trạng thái tâm lý nhƣ

nỗi đau khổ, uất ức, nghẹn ngào, nỗi lo âu, khắc khoải, nỗi lo sợ, hoang mang,

niềm hạnh phúc, nhớ thƣơng... hay những tƣ duy triết lý của con ngƣời nhƣ

định mệnh, số phận, sóng gió cuộc đời, cái thiện - cái ác, cái đẹp - cái xấu...

không thể biểu hiện đƣợc trực tiếp bằng âm nhạc nhƣng nó có thể đƣợc thể

hiện bằng mối liên hệ của những cảm xúc về mặt nội tâm trƣớc hình tƣợng

của sự vật, hiện tƣợng với cảm xúc về mặt nội tâm của hình tƣợng đó trong

31

âm nhạc thông qua sự biểu hiện bằng chuỗi liên kết các âm thanh đƣợc tổ

chức một cách chặt chẽ, giàu hình ảnh, cảm xúc của âm nhạc.

Hình tƣợng âm nhạc nảy sinh ở mỗi con ngƣời và mỗi tác phẩm là khác

nhau. Nó không cố định mà rất linh hoạt, uyển chuyển. Cụ thể là, cũng cách

thức biểu hiện đó nhƣng ở tác phẩm này, ngƣời này hình tƣợng âm nhạc lại

đƣợc phản ánh, nhận thức và đƣợc mô tả hoàn toàn khác tác phẩm và ngƣời

khác. Do đó, để nhận thức đƣợc hình tƣợng âm nhạc một cách chân thực và

sâu sắc, chúng ta cần phải kết hợp tính ƣớc lệ của hình tƣợng âm nhạc với yếu

tố liên tƣởng cùng vốn sống, vốn văn hóa âm nhạc của mỗi ngƣời.

Để hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm âm nhạc đƣợc nổi bật, có sức

truyền cảm và thuyết phục mạnh mẽ, thì nghệ thuật phối khí cũng đóng vai trò

hết sức quan trọng. Cùng với nghệ thuật phối khí, hình tƣợng âm nhạc lúc này

đƣợc thể hiện đầy đủ, rõ nét và đạt hiệu quả cảm xúc cao nhất.

Cùng với đó, khối âm thanh tổng hợp và âm sắc của các loại nhạc cụ

trong dàn nhạc có khả năng tạo nên đƣợc những hiệu quả đa dạng, phong phú.

Nếu đặc thù mỗi giai điệu vẽ nên một hình tƣợng nghệ thuật nhất định thì

khối âm thanh tổng hợp của dàn nhạc thông qua nghệ thuật phối khí sẽ diễn

đạt đƣợc một nhóm hình tƣợng âm nhạc hoặc nhiều hình tƣợng âm nhạc khác

nhau. Nhƣ vậy, tác phẩm âm nhạc phối cho dàn nhạc có khả năng tạo nên một

bức tranh toàn cảnh của hiện thực sinh động đồng thời nêu bật đƣợc nội dung

tƣ tƣởng mang ý nghĩa của thời đại.

Thể loại âm nhạc có lời (thanh nhạc) cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn

để ngƣời nghe cảm nhận đƣợc ý đồ, hình tƣợng, nội dung mà nhạc sĩ muốn

phản ánh. Ở đây có sự kết hợp tinh tế giữa nhạc và lời, nhạc chắp cánh cho lời

bay cao và lời thuyết minh cho ý nhạc thêm sáng tỏ. Có thể thấy rằng, trong

tất cả các thể loại âm nhạc, ca khúc có một lợi thế mà nhạc sĩ dùng đề phản

ánh trực tiếp và nhanh nhạy hiện thực sinh động của cuộc sống hơn cả. Cũng

chính vì thế mà ca khúc chiếm một vị trí quan trọng và trở nên phổ biến rộng

rãi với cộng đồng trong đó ca khúc phổ thông (Pop) có giai điệu dễ nghe, dễ

32

hiểu, dễ thuộc, dễ hát lại có lợi thế lớn, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu thƣởng

thức âm nhạc của con ngƣời hiện đại.

Hình tƣợng đối với một tác phẩm nghệ thuật cũng nhƣ những tế bào đối

với cơ thể sống, là máu thịt tƣ tƣởng thẩm mỹ của ngƣời nghệ sĩ. Trong một

tác phẩm có nhiều hình tƣợng liên kết với nhau tạo thành một hệ thống mang

tính chỉnh thể bao gồm hai mặt nội dung và hình thức. Nội dung và hình thức

trong tác phẩm âm nhạc có sự thống nhất biện chứng, không tách rời nhau.

Nội dung bao giờ cũng là nội dung của hình thức nhất định, còn hình thức bao

giờ cũng nhằm thể hiện một nội dung nào đó. Nội dung của âm nhạc là những

hiện tƣợng thẩm mỹ của hiện thực khách quan cùng với những tƣ tƣởng, tình

cảm, khát vọng của con ngƣời đƣợc phản ánh vào trong tác phẩm bằng những

đặc trƣng của ngôn ngữ âm nhạc. Nó là sự tích lũy tri thức, cảm xúc, kinh

nghiệm, tƣ tƣởng, quan điểm và năng lực sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Hình

thức âm nhạc thuộc bản chất thẩm mỹ, là toàn bộ cấu trúc của tác phẩm âm

nhạc. Do vậy, nội dung âm nhạc rộng lớn, phong phú và chiếm ƣu thế hơn

hình thức âm nhạc trong tƣ duy sáng tạo nghệ thuật bởi vì hình thức nào cũng

không thể sống tự thân nó đƣợc mà phải phụ thuộc vào nội dung. Tính năng

động, tính độc lập tƣơng đói của các yếu tố hình thức thể hiện ở chỗ, nhờ có

hình thức âm nhạc thì ta mới có thể cảm thụ đƣợc nội dung của âm nhạc. Sự

thống nhất giữa nội dung và hình thức âm nhạc là tiền đề để sáng tạo âm

nhạc.

Yếu tố thời gian trong nghệ thuật âm nhạc đƣợc thể hiện ở chỗ, âm

nhạc đòi hỏi sự phát triển liên tục và kết nối của các motive, chủ đề và hình

tƣợng âm nhạc trong một khoảng thời gian nhất định để tạo ra một tác phẩm

hoàn chỉnh. Âm nhạc luôn luôn chuyển động theo thời gian. Hegel có nói:

“tính chất của âm thanh là tính chất tức thời (instantanesité); đó là sự biến mất

và kế tiếp nhau nhanh chóng của âm thanh mà không để lại dấu vết gì”[19,

tr.143]. Yếu tố thời gian trong tác phẩm âm nhạc là đặc điểm đặc trƣng không

thể thiếu trong bất kỳ tác phẩm âm nhạc nào dù là lớn hay nhỏ và đó cũng

33

chính là yếu tố nhắc lại trong âm nhạc. Nếu không có sự nhắc lại thì giai điệu

của tác phẩm âm nhạc cứ thế trôi qua và không còn đọng lại trong chúng ta

chút gì về tác phẩm vừa nghe. Nhắc lại chính là cách để khắc sâu, ghi nhớ giai

điệu quen thuộc của bản nhạc. Bên cạnh đó thì âm nhạc cũng cần phải có sự

phát triển và biến đổi nhằm lôi cuốn, hấp dẫn ngƣời nghe, tránh cảm giác bị

nhàm chán.

1.2.1.3. Vai trò của âm nhạc

Vai trò của âm nhạc đối với con ngƣời thể hiện rất rõ trong các chức

năng: thẩm mỹ, nhâ ̣n thƣ́ c, giáo dục và giải trí.

Thứ nhất, chức năng thẩm mỹ: là điều tiên quyết của một tác phẩm

nghệ thuật bởi vì nếu không phản ánh đƣợc cái đẹp trong nhận thức và cảm

xúc thì đó không bao giờ đƣợc gọi là một tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm

nghệ thuật chân chính bao giờ cũng đƣợc đánh giá và sàng lọc với thời gian.

Ở tác phẩm âm nhạc, chức năng thẩm mỹ là sự rung động của tâm hồn trong

cảm giác hài hòa của thính giác và là sự rung cảm sâu sắc của sự hòa nhập

giữa hình thức và nội dung. Hay có thể nói, âm nhạc giáo dục cái đẹp thông

qua nghệ thuật âm nhạc, giáo dục sự hài hòa, cân đối trong con ngƣời.

Thứ hai, đó là chức năng nhận thức: là sự nhận thức thế giới quanh ta ở

nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh thông qua ngôn ngữ âm nhạc. Những lĩnh vực

này chúng ta không thể nhận thức đầy đủ bằng lời nói và màu sắc. Sự nhận

thức trong âm nhạc còn là sự nhận thức về tình cảm của con ngƣời đối với

hiện thực. Sự nhận thức ấy là sự kết hợp giữa lý trí và tình cảm. Nó không

phải là cảm xúc mù quáng mà phải thông qua tri thức, suy nghĩ của con

ngƣời.

Thứ ba, đó là chức năng giáo dục: là yếu tố nếu nhƣ không tác động

một cách tức thời thì nó cũng diễn ra dần dần cùng với thời gian. Ảnh hƣởng

của âm nhạc trong suốt một đời ngƣời là những dấu ấn không thể phai nhạt.

Nó in sâu trong tâm khảm của chúng ta từ tình yêu quê hƣơng đất nƣớc đến

những khía cạnh liên quan đến đạo đức và tri thức. Hầu nhƣ một sự kiện, một

34

hoàn cảnh, một bƣớc ngoặt trong cuộc đời của chúng ta đều gắn liền với ít

nhất một số giai điệu và bài hát cụ thể nào đó. Khả năng cảm hóa và khơi dậy

tính nhân bản và thánh thiện trong tâm hồn của con ngƣời rất to lớn, khó có

một loại hình nghệ thuật nào có thể sánh kịp.

Thứ tư, đó là chức năng giải trí: Giải trí bằng nghệ thuật có thể nói là

một nhu cầu của con ngƣời, là nhu cầu cấp cao nhất của con ngƣời, tuy nhiên

giải trí ở mức độ nào còn tùy thuộc vào mục đích, tri thức, sở thích và thị hiếu

thẩm mỹ của mỗi ngƣời. Giải trí bằng âm nhạc là sự nghỉ ngơi tích cực trong

sự thay đổi hoạt động cơ thể tạo nên sự cân bằng giữa hoạt động chân tay và

trí óc. Đó còn là động lực tăng cƣờng sức khỏe, khả năng lao động và sáng

tạo.

1.2.2. Các hoạt động âm nhạc

Cũng giống nhƣ hoạt động nghệ thuật nói chung, hoạt động âm nhạc

gồm có: hoạt động sáng tạo, hoạt động thưởng thức và hoạt động đánh giá.

1.2.2.1. Hoạt động sáng tạo âm nhạc

Sáng tạo âm nhạc là một hoạt động thuộc hoạt động sáng tạo nghệ thuật

nói chung. Sáng tạo nghệ thuật là quá trình tạo ra các tác phẩm nghệ thuật còn

sáng tạo âm nhạc là quá trình tạo ra các tác phẩm âm nhạc. Sáng tạo nghệ

thuật đƣợc coi là hoạt động của tƣ duy hình tƣợng, nó gắn liền với cảm xúc,

trực giác và tƣởng tƣợng. Tƣ duy trong sáng tạo nghệ thuật là kiểu tƣ duy

không chia cắt, nguyên khối, toàn vẹn, dƣới dạng những hình tƣợng cảm tính.

Bất kì loại hình nghệ thuật nào hay tác phẩm nghệ thuật nào cũng thể hiện

bằng hình tƣợng và loại hình âm nhạc cũng đƣợc thể hiện dƣới dạng hình

tƣợng. Nền tảng nội dung của các hình tƣợng âm nhạc trƣớc hết là những tình

cảm, cảm xúc của con ngƣời, sự vận động cuộc sống con ngƣời, tính chất

những tình cảm, tâm trạng, cảm xúc này, nhịp điệu của hoạt động con ngƣời.

Ngƣời ta vẫn thƣờng nghĩ, nhạc công là ngƣời chơi nhạc, nhạc sĩ là

ngƣời viết nhạc, ca sĩ là ngƣời hát, mỗi ngƣời đóng một vai trò khác nhau

trong việc thể hiện bản nhạc, nhƣng thật ra tất cả đều tham gia vào quá trình

35

sáng tạo tác phẩm. Ngƣời nhạc công giỏi không phải chỉ biết đàn đúng theo

bản nhạc mà phải tham gia sáng tác thêm những nuace, những câu felling, đôi

khi còn tham gia sáng tác thêm đoạn gian tấu (dựa vào qui ƣớc của bản hòa

âm). Ca sĩ cũng phải xử lý sáng tạo, trau chuốt từng câu hát để vừa toát đƣợc

tinh thần bài hát vừa phải phù hợp với đặc điểm của chất giọng và phong cách

riêng của mình. Ngƣời thu âm cũng tham gia sáng tạo nên sức sống của âm

thanh thông qua việc xử lý âm thanh lớn, nhỏ, xa, gần, bay bổng, trầm lắng,

vang dội...

1.2.2.2 Hoạt động thưởng thức âm nhạc

Theo Từ điển tiếng Việt thì thƣởng thức là “nhận biết và cảm thụ một

cách thích thú” [64, tr.1250]. Thƣởng thức là một hiện tƣợng gắn với hoạt

động tâm lý nhận thức, nhờ có các giác quan mà ta có những nhận biết về

hiện thực khách quan.

Nhƣ vậy, thƣởng thức âm nhạc có thể hiểu là quá trình tiếp xúc và cảm

thụ các tác phẩm âm nhạc. Thông qua thính giác mà ta có thể cảm thụ đƣợc

nội dung của tác phẩm âm nhạc.

Việc thƣởng thức âm nhạc là hoạt động mang tính chủ quan và cảm

tính đậm nét. Cùng một tác phẩm nhƣng mỗi ngƣời lại có những suy nghĩ và

cách cảm thụ riêng. Nội dung, thể loại và chất lƣợng sáng tác của tác phẩm

âm nhạc chính là những yếu tố tác động tới việc thƣởng thức và cảm thụ của

ngƣời nghe nhạc.

Âm nhạc luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với con ngƣời.

Từ xa xƣa, loại hình nghệ thuật này đã đƣợc quan tâm và chăm sóc. Thời kỳ

đầu con ngƣời muốn thƣởng thức âm nhạc phải tới rạp hát hoặc chờ các gánh

hát, các đoàn kịch nghệ đi lƣu diễn qua địa phƣơng của mình nhƣng về sau

nhu cầu đó đƣợc thỏa mãn tại nhà với những phát minh, sáng chế từ thấp đến

cao cùng với tiến trình phát triển của trình độ khoa học kỹ thuật.

Thƣởng thức âm nhạc là một quá trình công chúng nhận biết và cảm

thụ tác phẩm âm nhạc, tác phẩm khí nhạc hoặc thanh nhạc. Việc cảm thụ tác

36

phẩm âm nhạc cũng là vấn đề rất khó vì mỗi ngƣời lại có một cách cảm thụ

khác nhau về tác phẩm âm nhạc.

37

1.2.2.3 Hoạt động đánh giá âm nhạc

Theo Từ điển Tiếng Việt thì đánh giá là “nhận định giá trị” [64, tr.377].

Có thể hiểu, đánh giá âm nhạc là sự nhận định của chủ thể với tác phẩm âm

nhạc. Tuy nhiên, đánh giá âm nhạc là một vấn đề rất khó và không có sự đồng

nhất. Tác giả Nguyễn Thị Minh Châu có đƣa ra quan điểm về đánh giá âm

nhạc nhƣ sau: “Một tác phẩm tốt chƣa chắc đã hay, một tác phẩm hay chƣa

chắc đƣợc đánh giá tốt. Một tác phẩm tốt và hay với ngƣời này chƣa hẳn hay

và tốt với ngƣời khác. Một tác phẩm có giá trị ở thời điểm này chƣa hẳn còn

giá trị trong giai đoạn khác. Chính vì có sự khác biệt trong cảm thụ và đánh

giá, nên không bao giờ có sự đồng nhất về cái hay - cái dở trong thị hiếu âm

nhạc, giống nhƣ không thể có sự đồng nhất về cái ngon trong ẩm thực hoặc

cái đẹp trong thời trang”[86]

Khi nói về giá trị của nghệ thuật (thuộc phạm trù của cái hay) và giá trị

tƣ tƣởng (thuộc phạm trù tốt) trong một tác phẩm cũng rất khó và không đi

đến đƣợc sự thống nhất tuyệt đối, nếu cố cho nó vào một khái niệm chung

nhất thì sẽ dẫn đến sự áp đặt. Cặp phạm trù tốt và hay không phải là cặp phạm

trù đối lập nhau, chúng cũng không phải là cặp song sinh dính liền nên chúng

có thể không cần ở cạnh nhau. Ngƣời thƣởng thức chọn cái hay theo ý thích

và khả năng cảm thụ của mình còn ngƣời có chuyên môn lại hƣớng theo

những tiêu chí nghệ thuật. Nhà quản lý lại nhằm vào cái tốt và luôn lấy cái tốt

thay thế cho cái hay. Do đó, việc đánh giá một tác phẩm nghệ thuật mà đặc

biệt là âm nhạc là rất khó và không phải cá nhân nào cũng có thể thƣởng thức

âm nhạc và sau đó vạch ra đƣợc tác phẩm âm nhạc đó hay ở đâu, dở ở điểm

nào, khắc phục ra sao. Công việc thẩm định này chỉ có những nhà nghiên cứu,

phê bình âm nhạc mới có trình độ và năng lực nhiều mặt, đặc biệt là trình độ

thẩm mỹ cao hơn so với trình độ công chúng. Đặc biệt chủ thể đánh giá, phê

bình âm nhạc còn phải có tình yêu đối với âm nhạc, lƣơng tâm và tinh thần

trách nhiệm đối với nghệ thuật âm nhạc thì mới có thể tham gia vào hoạt động

đánh giá.

38

Nhƣ đã nói ở trên, đặc điểm của âm nhạc là yếu tố thời gian và luôn

luôn thay đổi nên việc đánh giá tác phẩm âm nhạc mỗi ngƣời sẽ khác nhau và

mỗi thời sẽ khác nhau. Có thể tác phẩm đó đƣợc đánh giá cao bây giờ nhƣng

thời gian sau thì tác phẩm ấy sẽ không còn nguyên giá trị đó nữa, chỉ những

tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao thì sẽ sống mãi với thời gian. Có thể ví dụ

bài hát “Chiếc khăn piêu” của nhạc sĩ Doãn Nho, tác phẩm đƣợc viết năm

1956, đã ra đời rất lâu và quen thuộc với nhiều thế hệ. Trong dòng chảy của

rất nhiều nhạc thị trƣờng, nhạc nƣớc ngoài, nhạc trẻ thì tác phẩm vẫn đƣợc

đánh giá cao khi đạt giải Bài hát của năm năm 2012. Điều này cho thấy rằng

tác phẩm âm nhạc có giá trị cao và chứa đựng tƣ tƣởng nhân văn thì sẽ sống

mãi với thời gian và đƣợc đánh giá một cách khách quan.

Việc đánh giá âm nhạc sẽ dựa theo sở thích, khả năng cảm thụ riêng

của từng chủ thể tuy nhiên những nhà lý luận, phê bình đánh giá âm nhạc phải

là những ngƣời có con mắt khách quan nhất và đƣa ra đƣợc những nhận định

âm nhạc có giá trị định hƣớng giá trị tác phẩm tới công chúng thƣởng thức âm

nhạc.

1.3. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc

Tình cảm thẩm mỹ là bộ phận quan trọng trong hệ thống tình cảm của

con ngƣời, biểu hiện qua các xúc cảm, nhu cầu, thị hiếu và lý tƣởng thẩm mỹ.

Chỉ có thông qua tình cảm thẩm mỹ con ngƣời mới biết thƣởng thức cái đẹp,

căm ghét cái xấu, đồng cảm với cái bi thƣơng, cảm phục, ngƣỡng mộ cái cao

cả, cái anh hùng.

Nghiên cứu vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc là

nghiên cứu mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa tình cảm thẩm mỹ và các

hoạt động của âm nhac. Nghĩa là nói đến sự tác động, ảnh hƣởng của tình cảm

thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ đối với các hoạt động âm nhạc, đó là hoạt động

sáng tạo, thƣởng thức và đánh giá âm nhạc. Tình cảm thẩm mỹ là động lực

thôi thúc hoạt động sáng tạo âm nhạc phát triển. Đồng thời, tình cảm thẩm mỹ

cũng kích thích sự phát triển của hoạt động thƣởng thức và đánh giá âm nhạc.

39

Hegel nhận xét: “âm nhạc đi tới chỗ biểu hiện tất cả nhƣ̃ng tình cảm riêng biệt, tất cả nhƣ̃ng sắc thái niềm vui , niềm thanh thản, sự vui vẻ tinh thần và

ngẫu hứng, sự hoan hỉ và nhƣ̃ng gì chuyển tải nó , cũng nhƣ đi qua mọi mức

độ buồn bã và lo âu . Nhƣ̃ng mối lo lắng , đau đớn, nhƣ̃ng khát vọng, sự sùng

kính, lời cầu nguyện, tình yêu trở thành lĩnh vực riêng cũng đƣợc âm nhạc thể

hiện” [19, tr.137]

1.3.1. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo âm

nhạc

Mỗi hoạt động sáng tạo, dù là sáng tạo nghệ thuật hay sáng tạo khoa

học đều có liên quan một cách bản chất đến hoạt động của ý thức thẩm mỹ. Ý

thức thẩm mỹ là ý thức toàn vẹn. Nó là sự phản ánh không phân chia giữa lý

thuyết và thực hành, giữa tình cảm và lý trí.

Ý thức thẩm mỹ là hệ thống toàn vẹn có thể phân tích thành hai mảng

lớn chủ yếu: tình cảm thẩm mỹ (tri giác, xúc cảm, rung cảm, và phần tình cảm

(trong thị hiếu thẩm mỹ) và lý trí thẩm mỹ (phần lý trí trong thị hiếu), lý

tƣởng, nhu cầu, quan điểm. Tình cảm thẩm mỹ phát triển làm cơ sở cho khả

năng bao quát và nhận thức trong hoạt động sáng tạo. Khả năng nắm bắt (cảm

thụ) tất cả các thuộc tính sinh động cần thiết đối với chủ thể trƣớc sự vật và

hiện tƣợng mà về bản chất, chúng đƣợc thể hiện đầy đủ nhất, có trật tự, có tổ

chức, có tỷ lệ, gợi mở một thế giới hoàn thiện cho các ý đồ sáng tạo. Nhƣ vậy,

tình cảm thẩm mỹ có khả năng cùng một lúc vừa nhận thức, vừa đánh giá đối

tƣợng.

Nếu không có tình cảm thẩm mỹ - tình yêu, sự rung cảm đối với cái

đẹp, mà cái đẹp là tất cả những những sự vật, hiện tƣợng xung quanh chúng ta

thì sẽ không thể nào sáng tạo ra những tác phẩm âm nhạc có giá trị lâu dài.

Nếu không có tình yêu đối với quê hƣơng, đất nƣớc thì các nhạc sĩ không thể

nào sáng tác đƣợc những tác phẩm bất hủ nhƣ Quốc ca, Việt Nam quê hương

tôi, Tổ quốc gọi tên mình, Đường chúng ta đi, Tình đất đỏ miền Đông, Hà Nội

niềm tin và hy vọng, Hà Tây quê lụa, Nắng ấm trên quê hương Thái Bình....

40

Nếu không có tình yêu, sự kính trọng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sẽ không có nhiều tác phẩm âm nhạc viết về Ngƣời hay đến vậy: Lời bác dặn

trước lúc đi xa, Người sống mãi trong lòng miền Nam, Miền Nam nhớ mãi ơn

người, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người, Ngườ i là niềm tin tất thắng,..

Nhƣ vậy, nếu không có tình cảm thẩm mỹ thì sẽ không có hoạt động

sáng tạo âm nhạc và sẽ không có những tác phẩm âm nhạc có giá trị nhân văn.

Tình cảm thẩm mỹ là động lực mạnh mẽ thôi thúc các tác giả sáng tác ra các

tác phẩm âm nhạc hay, có giá trị và đi mãi cùng năm tháng.

1.3.2. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động thưởng thức âm

nhạc

Trong cuộc sống không thể thiếu đƣợc những nhu cầu nhƣ ăn, mặc, giải

trí..., nhu cầu giải trí thông qua thƣởng thức các tác phẩm âm nhạc cũng là

một trong những nhu cầu cần thiết. Có thể nhận thấy rằng âm nhạc gắn bó

mật thiết với cuộc sống và trở thành nhu cầu lớn không thể thiếu trong đời

sống xã hội và có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với mọi lứa tuổi. Từ xƣa tới nay

âm nhạc vốn là một món ăn tinh thần không thể thiếu đƣợc với mỗi chúng ta,

trong thời kỳ chiến tranh, bên cạnh việc chiến đấu chống giặc ngoại xâm bao

giờ cũng có những hoạt động âm nhạc, những lời ca, tiếng hát để khích lệ tinh

thần chiến đấu của các chiến sĩ. Chính qua việc thƣởng thức những tác phẩm

âm nhạc giàu tính nhân văn đó mà hình thành nên những tình cảm cách mạng,

không có tình yêu và niềm tự hào dân tộc thì ngƣời chiến sĩ không dễ dàng

ôm bom lao vào xe tăng quân thù.

Với cuộc sống hiện đại, với xã hội phát triển nhƣ ngày ngay thì một

vấn đề đƣợc đặt ra đó là thƣởng thức âm nhạc hiện nay theo nhu cầu giải trí

hay nhu cầu thẩm mỹ. Hoạt động thƣởng thức âm nhạc có thể xuất phát từ

nhu cầu giải trí hay nhu cầu thẩm mỹ. Không phải bất kỳ chủ thể nào khi tiếp

xúc với âm nhạc cũng bắt đầu từ nhu cầu thẩm mỹ. Thỏa mãn nhu cầu giải trí

có thể đồng thời thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ. Tác phẩm âm nhạc có thể đƣợc

truyền tải đến công chúng hay không, có đánh thức đƣợc ở họ tình cảm thẩm

41

mỹ cao đẹp, những suy nghĩ hƣớng thiện hay không còn phụ thuộc vào tính

giải trí của tác phẩm. Thông qua việc thƣởng thức âm nhạc thì các thông điệp

thẩm mỹ đƣợc truyền đến suy nghĩ, hành động, lối sống của con ngƣời một

cách tự nhiên.

Thƣởng thức âm nhạc là một hoạt động gắn với thế giới nội tâm của

con ngƣời do đó không có một lĩnh vực tinh thần nào bộc lộ rõ cái tôi cá nhân

hơn hoạt động thƣởng thức. Khuynh hƣớng cá nhân của chủ thể bộc lộ rõ

trong việc lựa chọn thể loại và cách thức thƣởng thức âm nhạc. Nhƣ đã nói ở

trên thì chính từ những nhu cầu thẩm mỹ thì tình cảm thẩm mỹ mới đƣợc nảy

sinh mà nhu cầu thẩm mỹ có nhiều lớp, phụ thuộc vào giới, lứa tuổi, nghề

nghiệp, vào vị trí xã hội của cá nhân... cho nên nó tạo ra tính đa dạng của chủ

thể thƣởng thức.

Nói đến vai trò tích cực của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động thƣởng

thức âm nhạc là nói đến mối quan hệ giữa công chúng với tác phẩm âm nhạc.

Công chúng dƣới sự dẫn dắt của nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh sẽ tìm đến

những tác phẩm âm nhạc có giá trị để thƣởng thức, từ đó mà nảy sinh ra tình

cảm thẩm mỹ tốt đẹp.

Tuy nhiên nếu chỉ có tình cảm thẩm mỹ thôi là chƣa đủ mà cần phải có

cả sự kết hợp giữa tình cảm thẩm mỹ và lý trí thẩm mỹ thì hoạt động thƣởng

thức mới đem lại hiệu quả. Cảm thụ, thƣởng thức nghệ thuật là năng lực rung

cảm và khoái cảm trƣớc nghệ thuật - một thứ phản ứng bằng cả tâm hồn và

con ngƣời văn hóa. Do vậy mà không thể coi nhẹ khâu tình cảm hay lý trí.

Chỉ có xây dựng đƣợc tri giác tinh nhạy mới đem lại những cảm xúc, rung

cảm lớn, từ đó mới tạo ra nhu cầu cao. Xây dựng thị hiếu thẩm mỹ và lý

tƣởng thẩm mỹ đúng vừa xác định nhu cầu thƣởng thức, nhu cầu sáng tạo,

vừa làm nền cho cảm thụ, thƣởng thức. Tình cảm thẩm mỹ phát triển bao

nhiêu thì “ăng ten” cảm hứng tinh vi của bộ máy cảm thụ càng có khả năng

nắm bắt tốt bấy nhiêu tổng phổ các thuộc tính thẩm mỹ sinh động cần thiết

đối với chủ thể trƣớc tác phẩm nghệ thuật. Lý trí thẩm mỹ, trên toàn tổng phổ

42

thẩm mỹ của tình cảm mà xử lý, luận chứng, đánh giá và lựa chọn những hình

tƣợng toàn vẹn và lý tƣởng trong quá trình cảm thụ đối tƣợng.

Có thể nói tình cảm thẩm mỹ, tình yêu đối với nghệ thuật, với âm nhạc

mà con ngƣời tìm đến hoạt động thƣởng thức và cũng chính thông qua hoạt

động thƣởng thức âm nhạc đó mà tình cảm thẩm mỹ đƣợc gia cố hơn, sâu sắc

hơn. “trong âm nhạc, với sự biểu hiện sinh động tính thầm kín sâu nhất của

tâm hồn, có sự tuân thủ chặt chẽ nhất các định luật về sự thông hiểu (lois

d’entendement): nó gắn kết hai cực dễ dàng tách khỏi nhau. Chính ở sự tách

rời ấy mà âm nhạc đặc biệt có tính kiến trúc, thay vì biểu hiện tình cảm , nó , đầy trí bắt tay xây dƣ̣ng cả một lâu đài âm thanh cân đối về mặt âm nhạc

tƣởng tƣợng”[19, tr.141].

Do đó, thông qua hoạt động thƣởng thức âm nhạc, tình cảm thẩm mỹ

đƣợc nảy sinh góp phần phát triển năng lực thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể

chất, qua đó giúp nhân cách phát triển hoàn thiện.

1.3.3. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động đánh giá âm

nhạc

Đánh giá thẩm mỹ nói chung và hoạt động đánh giá âm nhạc nói riêng

không phải là hoạt động đánh giá mang tính lý tính thuần túy mà bao giờ cũng

phải thông qua tình cảm đối với cái toàn vẹn, hài hòa, hoàn thiện thẩm mỹ của

khách thể hiện thực. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà mỹ học trong quá

khứ đã từng định nghĩa nghệ thuật là phƣơng tiện nhận thức thế giới bằng tình

cảm. Tình cảm thẩm mỹ là kết quả của sự nhận thức và tự nhận thức thẩm mỹ

dƣới hình ảnh cảm xúc chủ quan. Về điều này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã

khẳng định: "Con ngƣời khẳng định mình không chỉ trong tƣ duy, mà còn

trong thế giới vật thể bằng tất cả các cảm xúc". Tình cảm thẩm mỹ trở thành

một hình thức lý luận - cảm tính, tƣ tƣởng - cảm xúc tham gia trực tiếp vào

quá trình đánh giá thẩm mỹ, làm cho đánh giá thẩm mỹ trở nên có nội dung,

có định hƣớng, có mục đích xác định. Trong hoạt động nghệ thuật, nói rộng

hơn là trong đời sống thẩm mỹ, nếu thiếu vắng đi những cảm xúc, tình cảm

43

của con ngƣời thì đã, đang và sẽ không bao giờ có thể có sự tìm tòi chân lý về

con ngƣời. Khả năng biểu cảm của khách thể mang đến tình cảm thẩm mỹ

cho con ngƣời là đặc trƣng không thể thiếu trong đánh giá thẩm mỹ. Tình cảm

thẩm mỹ trở thành cái có mục đích tự thân tham gia vào các giá trị thẩm mỹ.

Tình cảm thẩm mỹ có vai trò định hƣớng cho hoạt động đánh giá âm

nhạc. Chỉ có tình cảm thẩm mỹ, tình yêu đối với âm nhạc thì các nhà phê

bình, đánh giá âm nhạc mới đƣa ra đƣợc công trình phê bình âm nhạc đích

thực, góp phần xứng đáng vào sự phát triển chung của văn hóa dân tộc. Một

số ngƣời không có tình yêu, rung cảm khi tiếp xúc với âm nhạc sẽ đƣa ra

những quan điểm cứng nhắc, lệch lạc làm ảnh hƣởng đến công tác phê bình

âm nhạc. Trách nhiệm lớn của các nhà phê bình, đánh giá âm nhạc là truyền

bá, giáo dục, định hƣớng và dẫn dắt thị hiếu cho công chúng nhƣng cần thận

trọng, tránh áp đặt một cách máy móc và cứng nhắc. Các nhà phê bình âm

nhạc phải dẫn dắt, giúp cho thính giả cảm nhận, đánh giá đúng đắn và phân

biệt đâu là giá trị nghệ thuật đích thực, đâu là những hiện tƣợng âm nhạc “rẻ

tiền” chạy theo mốt, theo thời thƣợng chỉ là phục vụ những thị hiếu tầm

thƣờng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế mở cửa, các nhà

phê bình phải linh hoạt và luôn trau dồi kiến thức để nắm bắt, cập nhật nhanh

theo kịp đời sống âm nhạc để đƣa ra những nhận định đúng đắn về âm nhạc.

Ví dụ nhƣ hiện nay giới trẻ rất yêu thích nhạc trẻ và đây là loại hình âm nhạc

chủ yếu mà họ lựa chọn để thƣởng thức nhƣng thực tế thì họ có thể thƣởng

thức loại hình âm nhạc này khi am hiểu về nó hoặc vẫn tham gia thƣởng thức

khi không hiểu về nó điều đó dẫn đến nhiều thực trạng đáng buồn về công

chúng thƣởng thức. Một số bộ phận không nhỏ công chúng yêu thích dòng

nhạc này, sùng bái một cách thái quá thần tƣợng những ca sĩ mà họ yêu thích

và tiếp nhận không phân biệt hay dở những sản phẩm của dòng nhạc này. Nhƣ

vậy, nhà phê bình, đánh giá âm nhạc phải có những đánh giá khách quan đồng

thời hƣớng dẫn, giúp giới trẻ biết cách thƣởng thức âm nhạc một cách hiệu

quả.

44

45

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Tình cảm thẩm mỹ là một bộ phận của ý thức thẩm mỹ, không có tình

cảm thẩm mỹ thì sẽ không có nhu cầu thẩm mỹ, lý tƣởng thẩm mỹ, thị hiếu

thẩm mỹ.

Âm nhạc là một trong bảy loại hình của hoạt động nghệ thuật và là một

bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống của con ngƣời. Âm nhạc gồm nhiều

thể loại khác nhau. Âm nhạc có thể chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống,

làm vơi đi những nỗi buồn, làm tăng thêm niềm vui, sự hào hứng, đƣa con

ngƣời về với những kỷ niệm đẹp ở dĩ vãng, tìm lại tuổi thơ yêu dấu, để lắng

nghe con tim bồi hồi, xao xuyến với tình yêu thuở ban đầu, với tình yêu quê

hƣơng đất mẹ, với nắng ấm quê cha, sống dậy lòng tự hào dân tộc... Có thể

nói, cuộc sống mà không có âm nhạc thì sẽ trở nên tẻ nhạt và trầm lắng. Âm

thanh và thời gian là hai yếu tố cơ bản của âm nhạc.

Tình cảm thẩm mỹ có vai trò quan trọng đối với hoạt động âm nhạc.

Với hoạt động sáng tạo âm nhạc thì tình cảm là động lực thôi thúc chủ thể

sáng tác ra các tác phẩm âm nhạc. Chỉ có tình yêu đối với cái đẹp, với cuộc

sống thì chủ thể mới tạo ra những tác phẩm âm nhạc có giá trị nhân văn sâu

sắc. Còn với hoạt động thƣởng thức và đánh giá âm nhạc, tình cảm thẩm mỹ

sẽ định hƣớng cho chủ thể thẩm mỹ lựa chọn nhƣ̃ng tác phẩm hay, có giá tri ̣.

Tình cảm thẩm mỹ thể hiện trong hoạt động âm nhạc có ảnh hƣởng

tích cực, thậm chí tối ƣu hóa mọi quá trình tâm sinh lý của con ngƣời, phát

huy mọi năng lực nhận thức của con ngƣời. Âm nhạc tác động vào tình cảm

và trí tuệ, đem lại cho con ngƣời loại “tri thức” mà không khoa học nào có thể

đem lại. Âm nhạc chính là phƣơng tiện chuyển tải cảm xúc tuyệt vời nhất,

trọn vẹn nhất và sâu sắc nhất giúp chúng ta cảm nhận đƣợc từng ngõ ngách

sâu thẳm nhất của tâm hồn, cảm nhận đƣợc mọi cái đẹp trong cuộc sống.

46