ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------------------

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH

TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------------------

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH

TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Triết học

Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Thanh Xuân

HÀ NỘI - 2015

2

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu7 ................................................................. 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6

6. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 6

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 6

8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6

NỘI DUNG ....................................................................................................... 7

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ................................ 7

1.1. Khái quát về ca dao, tục ngữ Việt Nam ................................................. 7

1.1.1. Ca dao Việt Nam ..................................................................................... 7

1.1.2. Tục ngữ Việt Nam ................................................................................. 11

1.1.3. Đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam .............................................. 15

1.2. Những điều kiện hình thành ca dao, tục ngữ Việt Nam ..................... 19

1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 20

1.2.2. Điều kiện văn hóa - tư tưởng ................................................................ 24

1.3. Khái niệm triết lý và triết lý nhân sinh ................................................ 30

1.3.1. Khái niệm triết lý .................................................................................. 30

1.3.2. Triết lý nhân sinh .................................................................................. 33

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 34

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO,

TỤC NGỮ VIỆT NAM ................................................................................. 35

1

2.1. Quan niệm về đời ngƣời, ý nghĩa của cuộc đời con ngƣời ................. 35

2.2. Quan niệm về cách ứng xử của con ngƣời với tự nhiên ..................... 40

2.2.1. Con người sống không thể tách rời với tự nhiên ............................... 40

2.2.2. Quan niệm về lao động sản xuất cải tạo tự nhiên ................................. 45

2.3. Quan niệm về cách ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời trong xã hội ... 50

2.3.1. Tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, bình dị, thiết tha, mãnh liệt

được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày .............................. 50

2.3.2. Mối quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn, sẻ chia ........... 54

2.3.3. Mối quan hệ trong gia đình trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu ............. 57

2.3.4. Mối quan hệ anh em thuận hòa ............................................................. 62

2.3.5 Mối quan hệ tôn sư trọng đạo, bạn bè tình nghĩa ........................................ 63

2.3.6. Mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân tương ái trong cộng đồng,

quốc gia dân tộc............................................................................................... 66

2.4. Những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong ca dao, tục

ngữ Việt Nam ............................................................................................. 72

2.4.1. Về giá trị ................................................................................................ 72

2.4.2. Về hạn chế ............................................................................................. 81

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 84

KẾT LUẬN .................................................................................................... 86

2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ bao đời nay trong tâm thức người Việt, văn học dân gian được coi

như một di sản, một kho tàng quý giá tích lũy những gì mà loài người đã biết

được nhờ vào sự trải nghiệm hàng thế kỉ. Trong đó, ca dao, tục ngữ được coi

như những viên ngọc mà sự lung linh, kì ảo của nó đã lặn sâu vào trong kí ức

con người như một ảnh tượng của quê hương ngàn đời.

Ca dao, tục ngữ Việt Nam đượm màu sắc dân gian, thể hiện tâm tư, tình

cảm của nhân dân lao động Việt Nam. Nó là sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn

lao động sản xuất của cha ông ta, là tài sản vô cùng quý giá của dân tộc. Những

đề tài của ca dao, tục ngữ bắt nguồn từ thực tế cuộc sống lao động sản xuất và

những sinh hoạt đời thường nên nội dung của ca dao, tục ngữ rất đa dạng và

phong phú. Ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng chính là những lời ăn

tiếng nói của nhân dân lao động nên cũng rất dễ hiểu và dễ cảm. Chính vì lẽ đó,

trong lịch sử đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khai thác về chủ đề ca dao,

tục ngữ. Các nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác ca dao, tục ngữ trên nhiều

bình diện khác nhau và đã mang lại những hiệu quả nhất định.

Ca dao, tục ngữ Việt Nam chứa đựng nhiều triết lý sâu sắc như: triết lý

biện chứng, triết lý đạo đức, triết lý giáo dục đặc biệt hơn cả là triết lý nhân

sinh. Triết lý nhân sinh như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sự đúc kết kinh

nghiệm của cha ông ta về tự nhiên, xã hội, con người. Nó mang lại cho chúng

ta sự hiểu biết sâu sắc về quan niệm của ông cha ta về lẽ sống, về đạo làm

người, về cách ứng xử của con người với tự nhiên và giữa con người với nhau

trong xã hội.

Nghiên cứu về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam không

những khẳng định lại những giá trị văn hóa của dân tộc mà còn góp phần

1

củng cố niềm tin, lý tưởng sống cho người dân Việt Nam nói chung và một bộ

phận thanh niên Việt Nam hiện nay dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa.

Vì những lý do trên tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Triết lý nhân sinh

trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Ca dao, tục ngữ là một thành tố quan trọng, góp phần tạo nên hệ giá trị

tinh thần, bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, ca dao, tục

ngữ đã được thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và

ngoài nước ở những góc độ, những khía cạnh khác nhau. Trước những nghiên

cứu đa dạng và đa ngành về ca dao, tục ngữ việc tiếp cận tư liệu của đề tài

chủ yếu được triển khai trên hai nhóm chủ đề lớn như sau:

Trước hết, là những công trình nghiên cứu tổng quan về ca dao, tục ngữ

Việt Nam:

Công trình sưu tập, nghiên cứu của tác giả Vũ Ngọc Phan “Tục ngữ, ca

dao Việt Nam” (1995), tác giả Đinh Gia Khánh “Văn học dân gian Việt

Nam” (2000). Hai cuốn sách nói trên, các tác giả đã làm rõ khái niệm, nguồn

gốc, sự hình thành, phát triển, nội dung và các hình thức nghệ thuật của ca

dao, tục ngữ Việt Nam nói chung. Ngoài ra, tác giả còn làm rõ mối quan hệ

giữa ca dao, tục ngữ với các thể loại văn học dân gian khác.

Công trình sưu tập ca dao, tục ngữ công phu nhất, có nội dung phong

phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản lần đầu

vào năm 1928. Tập 1 của bộ sách này giới thiệu khoảng 6.500 câu tục ngữ

của các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn được coi là một trong

những công trình sưu tập tục ngữ Việt Nam có quy mô lớn.

Cuốn sách “Tục ngữ ca dao Việt Nam” (2014) của tác giả Ngọc Hà đã

sưu tập và tuyển chọn những câu ca dao tục ngữ rất hay, rất ý nghĩa, rất điển

hình trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tác giả đã sắp xếp các câu ca

2

dao, tục ngữ theo từng chủ đề giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và nghiên cứu.

Đây là một tài liệu tham khảo rất hữu ích cho những người muốn đọc và tìm

hiểu về ca dao, tục ngữ.

Thứ hai, những công trình tập trung khai thác về những yếu tố triết học,

triết lý trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tiêu biểu có những công trình sau:

Trong bài viết “Tìm hiểu yếu tố triết học trong tục ngữ Việt Nam” của

Vũ Hùng in trên Tạp chí Triết học, số 1/1994, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau

cơ bản giữa tục ngữ Việt Nam và triết học đồng thời cũng phân tích để làm rõ

một số yếu tố triết học trong tục ngữ Việt Nam. Ở đây, tác giả mới chỉ phân

tích một cách chung chung về các yếu tố triết học trong tục ngữ, chưa đi sâu

nghiên cứu cụ thể vào một khía cạnh nào.

Đề tài“Những tư tưởng triết học trong truyện kể dân gian Việt

Nam”(2006) của tác giả Phạm Thị Thúy Hằng cũng đã trình bày một số tư

tưởng triết học về thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đề

cập đến những ảnh hưởng của truyện kể dân gian đối với việc xây dựng nền

văn hóa của dân tộc.

Đề tài “Một số tư tưởng biện chứng trong tục ngữ, ca dao Việt Nam”

(2011), Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện chính trị - hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, của tác giả Hoàng Thị Ánh Thu đã đề cập đến tư tưởng biện

chứng trong ca dao, tục ngữ với hai nội dung cơ bản được thể hiện qua hai

chương. Cụ thể là trong chương 2, tác giả trình bày tư tưởng về mối quan hệ

biện chứng giữa con người với tự nhiên trong ca dao, tục ngữ Việt Nam và

trong chương 3, tác giả trình bày về tư tưởng về mối quan hệ biện chứng giữa

con người với con người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Ở đề tài này, tư

tưởng biện chứng chủ yếu chỉ được đề cập ở mối quan hệ giữa con người với

gia đình và xã hội. Những vấn đề như quan niệm về sự vận động phát triển,

3

quan niệm về mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, giữa các yếu tố cấu

thành sự vật, hiện tượng chưa được tác giả đề cập đến.

Trong cuốn “Những yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ

Việt Nam” (1996), tác giả Võ Hoàng Khải đã làm sáng tỏ đồng thời hệ thống

hóa các yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ để thấy được bản

chất tư duy của người lao động bình dân. Một số nội dung duy vật và biện

chứng đã được tác giả trình bày khá rõ ràng.

Về chủ đề Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ, tác giả Nguyễn Nghĩa

Dân có biên soạn cuốn “Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam”

(2011). Tác giả đã sưu tập hàng nghìn câu tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo

làm người. Cuốn sách gồm có hai phần chính: Phần thứ nhất tác giả trình bày

những đặc điểm của tục ngữ, ca dao về đạo làm người, đồng thời tác giả tiến

hành phân loại và trình bày nội dung tục ngữ, ca dao về đạo làm người. Phần

thứ hai, tác giả sưu tầm, lựa chọn, giải thích tục ngữ, ca dao về đạo làm

người. Đây là một công trình rất hay và có ý nghĩa, trình bày rất đầy đủ và cụ

thể nội dung về đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

Về Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ cũng đã thu hút được sự quan

tâm, nghiên cứu của các tác giả. Tiêu biểu có đề tài “Triết lý nhân sinh trong ca

dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế”(2011) của tác giả Cao Thị Hoa đã đi sâu phân

tích và làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế,

trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống (nhân sinh quan, thế giới

quan) của con người Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, vận dụng nó ở góc độ

kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài mới chỉ

dừng lại ở việc tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên -

Huế, mà chưa đi sâu tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

4

Điểm qua tình hình nghiên cứu trên cho thấy việc nghiên cứu về triết lý

nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam vẫn cần được tiếp tục. Các công

trình trước đây mới chỉ dừng lại ở việc đề cập một cách chung chung về triết

lý nhân sinh hoặc có phân tích sâu nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi của một

vùng miền, chứ chưa phân tích, làm rõ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ

Việt Nam một cách có hệ thống. Vì vậy, việc kế thừa, bổ sung, góp phần hoàn

thiện làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là việc làm

có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Nghiên cứu một cách có hệ thống về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ

Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống của con người

Việt Nam, góp phần gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn làm rõ:

- Tìm hiểu khái quát về sự hình thành của ca dao, tục ngữ Việt Nam.

- Phân tích một cách có hệ thống triết lý nhân sinh trong kho tàng ca

dao, tục ngữ Việt Nam.

- Bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh

trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là triết lý nhân sinh trong ca dao,

tục ngữ Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những câu ca dao, tục ngữ đã được

tuyển chọn có nội dung chính xác nằm trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam.

5

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm và phương pháp luận

của triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng

Cộng sản Việt Nam.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn chủ yếu kết hợp các phương pháp logic và lịch sử, phân tích

và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh và đối chiếu.

6. Đóng góp mới của luận văn

- Một là, luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về triết lý nhân

sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

- Hai là, bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế của triết lý nhân

sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm

sống của con người Việt Nam thông qua kho tàng ca dao, tục ngữ.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

7.1. Ý nghĩa lý luận

- Khẳng định những giá trị to lớn của ca dao, tục ngữ Việt Nam: ca

dao, tục ngữ Việt Nam chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.

- Khẳng định tư duy của dân tộc Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam là

một bộ phận hòa cùng sự phát triển của tư duy nhân loại.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học

tập Văn học dân gian, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, triết học Mác - Lê nin.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm có 2 chương và 7 tiết.

6

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Khái quát về ca dao, tục ngữ Việt Nam

Ca dao, tục ngữ là niềm tự hào to lớn của dân tộc Việt Nam, một thể

loại văn học dân gian độc đáo thể hiện nghệ thuật sống đẹp, bảo vệ chân -

thiện - mỹ, đề cao cái hay, phê phán chỉ trích cái xấu trong xã hội. Đặc điểm

của ca dao, tục ngữ là phong phú về nội dung nhưng lại được diễn đạt bằng

ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, hình ảnh hết sức giản dị, chân thật, gần

gũi với đời sống của người dân. Do đó, chỉ cần đọc qua ta có thể nhớ được dễ

dàng, nhưng phải đọc đi đọc lại và suy ngẫm ta mới thấy hết được cái hay, cái

đẹp trong cách thể hiện nội dung. Tục ngữ ca dao được hình thành từ cuộc

sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân

dân trực tiếp sáng tác, được tách ra từ các tác phẩm văn học dân gian hoặc

ngược lại. Cho đến nay, về mặt văn học thì ca dao, tục ngữ được xem xét trên

nhiều lập trường khác nhau, song chỉ có triết học duy vật biện chứng mới xác

lập được phương pháp luận khoa học để tiếp cận đúng bản chất của ca dao,

tục ngữ. Bởi triết học duy vật biện chứng gắn liền ca dao tục ngữ với thời đại

lịch sử sản sinh ra nó, xem nó là khát vọng của con người muốn giải thích về

các hiện tượng tự nhiên, xã hội và bản thân mình.

1.1.1. Ca dao Việt Nam

Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, thì “Ca dao thường là những

câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát, phản ánh đời sống, phong tục,

đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc biệt là tình yêu nam nữ” [tr. 303]

7

Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã định

nghĩa khái niệm ca dao: “Ca dao là những bài hát ngắn không có chương

khúc” [16, tr. 20].

Cũng bàn về khái niệm ca dao, trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam,

tập 2 của tập thể tác giả, Bùi Văn Nguyên (chủ biên) đã nêu: “Ca dao là

những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần

của dân tộc (thường là thể lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình

cảm” [34, tr. 38].

Khi phân biệt giữa ca dao và dân ca tác giả Vũ Ngọc Phan cũng đã giải

thích: “Ca dao là một loại thơ dân gian, có thể ngâm được như các loại thơ

khác” [36, tr. 42].

Như vậy, ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những

tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao

động, trong sinh hoạt gia đình và xã hội, hoặc nói lên những kinh nghiệm

sống và hành động bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan chứ không phải miêu

tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên, trong ca

dao, cái tôi trữ tình nổi lên một cách rõ nét. Cũng như các thể loại văn học

dân gian khác, ca dao phản ánh mọi mặt cuộc sống của người dân Việt Nam

qua quá trình lịch sử. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy màu sắc

Việt Nam, thể hiện một cách sâu sắc, rực rỡ thế giới quan, nhân sinh quan của

con người Việt Nam. Đó là những quan niệm về trời, đất, về nguồn gốc con

người; đó là tinh thần lạc quan trong khó khăn, tinh thần tương thân tương ái

giữa những con người lương thiện; đó còn là những nhận thức sâu sắc về bạn,

về thù, về chính nghĩa. Tóm lại, qua ca dao, ta có thể thấy rõ hiện thực cuộc

sống của nhân dân, cái hiện thực vốn có được hiện lên một cách chân thực nhất.

Nội dung của ca dao rất phong phú đa dạng. Ca dao phản ánh những

quan niệm về trời, đất, về thời thế; phản ánh lịch sử công cuộc đấu tranh

8

chống thiên nhiên, chống áp bức bóc lột và xâm lược. Ca dao miêu tả khá chi

tiết phong tục tập quán, những kinh nghiệm trong sinh hoạt vật chất và tinh

thần của nhân dân lao động, những kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi,

gieo trồng mùa vụ, trong đời sống riêng tư, đời sống gia đình và đời sống xã

hội, qua đó thấy được đức tính cần cù, chịu đựng gian khổ, khó khăn và

những phẩm chất tốt đẹp của người dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên,

với xã hội để sinh tồn và vươn lên giành lấy hạnh phúc.

Nét nổi bật trong bộ phận ca dao lịch sử là nội dung của nó đã thể hiện

một cách mạnh mẽ, sâu sắc tình cảm của nhân dân đối với quê hương, đất nước:

“Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi

nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao” [38, tr. 299 - 300].

Hay những câu ca dao phản ánh những sự kiện lịch sử của dân tộc, nói

lên thái độ, quan điểm, lòng yêu nước của nhân dân ta khi bà Triệu khởi nghĩa

chống quân Ngô xâm lược:“Ru con, con ngủ cho lành/ Để mẹ gánh nước rửa

bành cho voi/ Muốn coi lên núi mà coi/ Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh

cồng/ Túi gấm cho lẫn túi hồng/ Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân”

[38, tr. 34].

Ca dao còn là tiếng nói của trái tim, bày tỏ sự uất ức, phẫn nộ của nhân

dân, là tiếng hát đấu tranh chống áp bức của chế độ phong kiến, cường quyền,

chống quân xâm lược, vạch trần những cái xấu, những tội ác mà chế độ phong

kiến đế quốc gây ra cho nhân dân ta: “Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở

chùa thì quét lá đa/ Bao giờ dân nổi can qua/ Con vua thất thế lại ra quét

chùa” [38, tr. 469].

Hay: “Cái cò mày đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/

Ông ơi ông vớt tôi nao/ Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng/ Có xáo thì xáo

nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con” [38, tr. 459].

9

Hình ảnh nổi bật trong những câu ca dao nói về đất nước, quê hương,

dân tộc… là hình ảnh về con người Việt Nam cần cù trong lao động, dũng

cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hy sinh trong quan hệ giữa

người với người và luôn lạc quan, yêu đời. Ca dao thể hiện những phẩm chất

tốt đẹp đó của con người Việt Nam và hướng họ vươn tới cái chân, thiện, mỹ

trong cuộc sống. Tiêu biểu như những câu ca dao: “Nhiễu điều phủ lấy giá

gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng/ Bầu ơi thương lấy bí

cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” [38, tr. 128].

Ca dao còn là tiếng hát nghĩa tình, tiếng hát yêu thương của con người.

Phong phú và đặc sắc nhất, giàu cung bậc nhất trong tình cảm của con người

là mảng ca dao giành cho tình yêu đôi lứa: “Đố ai quét sạch lá rừng/ Để anh

khuyên gió, gió đừng rung cây/ Rung cây, rung cỗi, rung cành/ Rung sao cho

chuyển lòng anh với nàng” [38, tr. 258].

Ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ đã kết hợp chặt chẽ chủ đề tình yêu

với chủ đề lao động, những nét sinh hoạt, những cảnh vật quen thuộc trong

đời sống hàng ngày của nhân dân. Sự kết hợp giữa các chủ đề đó làm cho ca

dao không chỉ phản ánh quan hệ nam nữ trong khuôn khổ tình cảm cá nhân,

mà còn có nội dung xã hội phong phú và tính tư tưởng cao. Ngoài ra, các chủ

đề trong ca dao rất phong phú và đa dạng. Trong ca dao, bên cạnh tiếng hát

ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng kêu đau khổ, xót xa về

những trắc trở, ngang trái trong tình yêu. Bên cạnh đó, một trong những bộ

phận quan trọng của ca dao là những nhận định về con người và về việc đời

như là sự tổng kết các kinh nghiệm, triết lý, quan niệm đạo đức, nhân cách, là

cách ứng xử, giao tiếp giữa người với người.

Ta thấy, trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học hình thành từ sự thể

hiện tình cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật của ngôn từ, bằng

hình tượng để tạo nên các triết lý sâu sắc. Bài ca dao “Tát nước đầu đình”:

10

“Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được

thì cho anh xin/ Hay là em để làm tin trong nhà/ Áo anh sứt chỉ đường tà/Vợ

anh chưa có, mẹ già chưa khâu/ Áo anh sứt chỉ đã lâu/ Nay mượn cô ấy về

khâu cho cùng/ Khâu rồi anh sẽ trả công/ Đến khi lấy chồng anh lại giúp cho/

Giúp em một thúng xôi vò/ Một con lợn béo một vò rượu tăm/ Giúp em đôi

chiếu em nằm/ Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo/ Giúp em quan tám tiền

cheo/ Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau” [38, tr. 359], là lời tự sự của

chàng trai đối với cô gái nhưng thông qua đó toát lên triết lý lạc quan yêu đời,

khát vọng hướng đến một tình yêu đôi lứa chân chính. Tất cả những điều trên

cho thấy, trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học là một bộ phận rất cơ bản

góp phần tạo nên các giá trị tư tưởng của nó.

Như vậy, ca dao Việt Nam đã thể hiện tư duy sâu sắc của cha ông ta

trên nhiều phương diện của đời sống. Có thể khẳng định rằng, tư duy triết học

trong ca dao không thể hiện bằng con đường lý trí mà trước hết thể hiện bằng

tình cảm, để cuối cùng ca dao đem lại cho con người sự xúc cảm thẩm mỹ,

những triết lý về nhân sinh, thế sự. Nếu triết lý ở tục ngữ là kết quả của tư duy

trừu tượng, tư duy logic, thì triết lý của ca dao là kết quả của tư duy hình

tượng, là nghệ thuật của ngôn từ, là các phép ẩn dụ, so sánh.

1.1.2. Tục ngữ Việt Nam

Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4: “Tục ngữ là một bộ phận

của văn học dân gian, gồm những câu ngắn gọn, có vần điệu, đúc kết tri thức,

kinh nghiệm sống, đạo đức thực tiễn của người dân” [tr. 676].

Trong công trình “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (1965) tác giả Vũ

Ngọc Phan đã định nghĩa như sau: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn

vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một lý luận, một công lý, có khi là

một sự phê phán” [36, tr. 39].

11

Theo các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn

trong “Văn học dân gian Việt Nam” (1998), do Nxb Giáo dục phát hành thì:

“Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân lao

động sáng tạo nên và lưu truyền qua nhiều thế kỷ” [26, tr. 244].

Theo M. Gorki, nghệ thuật ngôn ngữ sinh ra do quá trình lao động của

con người từ thời xưa, là xu hướng con người muốn đúc kết kinh nghiệm lao

động vào một hình thức ngôn ngữ dễ nhớ và bám chặt vào kí ức - những hình

thức thơ hai chữ, tục ngữ, truyền ngôn là những khẩu hiệu lao động thời cổ.

Cho nên, có thể khẳng định rằng tục ngữ có từ thời cổ. Đó là những lời ăn

tiếng nói của nhân dân nhằm đúc kết những kinh nghiệm, những điều quan sát

được, những chân lý thông thường trong quá trình lao động của nhân dân về

các hiện tượng tự nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ gia đình, về con

người và đời sống xã hội được lưu truyền qua nhiều thế kỉ. Nhân dân lao động

dùng tục ngữ để thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của mình. Tục ngữ

được sáng tạo ra trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu tổng kết và phổ biến kinh

nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử - xã hội của mỗi cộng đồng. Những

kinh nghiệm ấy được rút ra trong quá trình đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh

xã hội, được trải nghiệm nhiều lần trong thực tiễn, đã trở thành những chân lý

có tính chất phổ biến, được toàn thể nhân dân lao động công nhận và sử dụng.

Tục ngữ vừa tổng kết những kinh nghiệm sống, vừa thể hiện lý tưởng sống

của nhân dân, biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã

hội và con người. Tóm lại, có thể nói các câu tục ngữ là một quyển sách khôn,

một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và về nhân sinh, giúp cho

dân gian ta có được một tri thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời. Trí

khôn đó rất phong phú và đa dạng, được nhân dân vận dụng trong đời sống

sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội như lời ăn tiếng nói và khuyên răn,

bộc lộ một cách sâu sắc kinh nghiệm sống, lối sống, tư tưởng đạo đức, qua đó

12

thể hiện thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những vấn đề của

cuộc sống.

Nội dung tục ngữ là những nhận định, quan niệm, những nhận xét phán

đoán, những kinh nghiệm, kết luận của nhân dân về lao động, về tự nhiên, lịch

sử, xã hội và con người. Những kinh nghiệm ấy thông qua tập thể, được đúc

kết bằng những câu nói xuôi tai hoặc vần vè và được phổ biến trong dân gian.

Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất. Tục ngữ

về lao động sản xuất phản ánh một số nét chính điều kiện và phương thức lao

động của nhân dân, phản ánh đặc điểm đời sống dân tộc. Những kinh nghiệm

được nảy sinh trong quá trình đấu tranh, cải tạo và chinh phục thiên nhiên

được đúc kết trong tục ngữ được phổ biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học

kỹ thuật dân gian.

Tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng tạo của nhân dân

trong lao động, song chủ yếu là kinh nghiệm thực tiễn, nhiều kinh nghiệm chỉ

phản ánh những biểu hiện cụ thể của những quy luật ở địa phương, ở từng

thời điểm nhất định: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười

chưa cười đã tối” [15, tr. 10].

Hay: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì

râm” [38, tr. 237].

Tục ngữ Việt Nam chủ yếu phản ánh những tập tục sinh hoạt của gia

đình và xã hội, sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân trong thời phong

kiến về mọi mặt như ăn, mặc, ở, cưới xin, ma chay, hội hè, sinh hoạt tôn

giáo… Không những thế, nó còn thể hiện triết lý dân gian của dân tộc, phản

ánh những kinh nghiệm sống và lối sống của nhân dân, phản ánh truyền thống

tư tưởng và đạo đức của nhân dân lao động, trong đó bao hàm những tư tưởng

chính trị, xã hội và triết học.

13

Tục ngữ thể hiện chủ nghĩa nhân đạo chân chính của nhân dân lao

động, trước hết là tư tưởng đề cao con người và giá trị cao quý của con người,

xem con người là tinh hoa của trời đất: “Người ta là hoa đất” [38, tr. 99].

Biểu hiện thái độ đánh giá về lao động, cách xét đoán con người qua

lao động: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” [38, tr. 59] phản ánh khá

phong phú những đức tính tốt đẹp của nhân dân lao động, thể hiện truyền

thống tư tưởng, đạo đức của nhân dân thông qua những nhận xét, suy ngẫm

hết sức sâu sắc về hiện thực. Tục ngữ là tấm gương phản ánh qua lời ăn tiếng

nói hàng ngày, mọi biểu hiện của đời sống dân tộc, quan niệm của nhân dân

về lao động, về các hiện tượng lịch sử, xã hội, về đạo đức, tôn giáo… đều

được phản ánh một cách chân thực.

Có thể khẳng định rằng, tục ngữ Việt Nam thể hiện tư duy triết học

phong phú của cha ông ta thông qua việc phân tích, nhận định và khái quát

các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội. Về cơ bản, tục ngữ Việt Nam có

những tính chất sau:

Thứ nhất, tục ngữ bao giờ cũng là kết quả của một quá trình nhận thức,

trải nghiệm của dân gian, đúc kết từ hiện thực để chỉ ra một tri thức đúng, nên

nó luôn hàm chứa giá trị thông tin mà con người truyền đạt cho nhau trong

hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực.

Thứ hai, tục ngữ tồn tại dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc

tích, có vần điệu bằng lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian nhằm diễn đạt

một tình cảm, quan niệm, thái độ trước hiện thực.

Thứ ba, nội dung của tục ngữ luôn mang tính khách quan, nói cách

khác nội dung mỗi câu tục ngữ do đối tượng nó phản ánh quy định.

Thứ tư, tư tưởng của tục ngữ thường phản ánh hiện thực một cách khái

quát, nên nó hàm chứa nhiều tầng ngữ nghĩa, cho phép con người áp dụng vào

cuộc sống một cách linh hoạt, sinh động, đầy tính thuyết phục.

14

Từ các tính chất trên, ta có thể nói rằng tục ngữ là sự thống nhất giữa tri

thức đúng đắn và nghệ thuật ngôn từ nhằm phản ánh hiện thực. Có thể nói

rằng trong tục ngữ Việt Nam, tất cả các vấn đề phổ quát của triết học được thể

hiện một cách sâu sắc bằng một năng lực tư duy triết học rất phong phú và

sinh động. Ở tục ngữ, ta bắt gặp sự chắt lọc trí tuệ dân gian trước vũ trụ nhân

sinh và về bản thân con người đã đạt được sự thâm diệu về nhận thức. Đặc

trưng của tục ngữ Việt Nam là một hàm lượng tư tưởng khoa học lớn được

dồn nén trong trong một lượng ngôn ngữ rất bé làm nổ tung một chuỗi thông

tin liên tục để phản ánh về một vấn đề của hiện thực.

1.1.3. Đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam

Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng đời sống tinh thần của

xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không

thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là

không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất.

Với lịch sử lâu đời và bản lĩnh của mình, dân tộc ta đã hình thành và phát

triển trong một quá trình đấu tranh gian khổ và vinh quang. Từ bốn nghìn năm

trước, các bộ lạc người Việt và các bộ lạc khác ở trên đất nước ta vốn cùng

chung nguồn gốc Nam Á, đã cùng nhau phấn đấu xây dựng và bảo vệ quê

hương. Gắn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước ấy, văn học dân gian mà

đặc biệt là ca dao, tục ngữ đã được hình thành và phản ánh mọi mặt đời sống

vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Mác và Ăngghen đã nhiều lần nhận xét,

các sáng tác dân gian gắn liền chặt chẽ với lịch sử và sinh hoạt của nhân dân.

Nhờ đó mà chúng ta có thể tìm thấy trong ca dao, tục ngữ những tiếng vang

của quá khứ, những dấu vết do bao thế hệ để lại.

Theo quan điểm của triết học Mác, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã

hội, vì ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã hội. Ca dao, tục ngữ Việt Nam là

tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế xã hội và các quan hệ xã hội của người

15

dân lao động Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, khi khẳng định

vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch

sử không xem ý thức xã hội như yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác

dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính

độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Cũng tương tự như

thế, ca dao tục ngữ Việt Nam có vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước

và giữ nước của nhân dân ta từ xưa đến nay. Bằng sự truyền đạt những giá trị

tinh thần của mình, ca dao, tục ngữ đã giúp cho bao thế hệ người Việt Nam củng

cố lòng tự hào dân tộc, tiếp nối hoài bão, nối gót các thế hệ cha ông để khai thác

và làm giàu thêm di sản truyền thống của dân tộc.

Ca dao tục ngữ Việt Nam gắn bó chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của

người dân lao động Việt Nam, là bức tranh toàn diện về cuộc sống lao động

và đời sống tinh thần của người bình dân. Tìm trong ca dao, tục ngữ chúng ta

thấy được môi trường sinh hoạt của ca dao, tục ngữ suy đến cùng là do những

điều kiện lịch sử - xã hội của đời sống nhân dân, do những hình thức sinh hoạt

vật chất và tinh thần của đời sống nhân dân quy định. Khi tìm hiểu bức tranh

sinh hoạt vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, ta thấy trong bất kì hình

thái xã hội nào, sản xuất để dựng nước và chiến đấu để giữ nước là hai bánh

xe của lịch sử, đó là hai nhân tố không tách rời nhau của sự tồn tại và phát

triển của xã hội. Và ở bất kì nơi nào, trong thời đại lịch sử nào quần chúng

nhân dân cũng là người làm ra lịch sử. Chính cuộc sống sản xuất, chiến đấu

gắn chặt với quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta đã vẽ nên bức

tranh sinh hoạt vật chất, tinh thần sinh động của con người Việt Nam qua bao

thế hệ. Văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ nói riêng đều xuất phát

trực tiếp từ lao động rồi lại trực tiếp phục vụ cho sản xuất và lao động của

nhân dân. Nói cách khác, ca dao tục ngữ nảy sinh và tồn tại như một bộ phận

hợp thành của sinh hoạt nhân dân.

16

Bởi vậy, có thể khái quát một số đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt

Nam như sau:

Thứ nhất, phải khẳng định rằng, ca dao tục ngữ chính là những sáng

tác của nhân dân, một loại hình nghệ thuật mang tính tập thể. Đặc trưng này

cho thấy ca dao, tục ngữ là sáng tác của nhân dân lao động, những người trực

tiếp sáng tạo nên của cải vật chất lẫn tinh thần cho xã hội. Nhân dân lao động

đồng thời với việc sáng tạo nên giá trị vật chất là sáng tạo nên các giá trị tinh

thần, các giá trị tinh thần đó được biểu hiện trước hết ở văn học dân gian mà

cụ thể hơn là trong ca dao, tục ngữ.

Ở đặc trưng này còn nói lên tính sáng tác tập thể của ca dao, tục ngữ.

Ta đều biết ca dao, tục ngữ từ xưa đến nay đều được lưu truyền qua các thế

hệ, các thời đại, nó là tác phẩm chung của các cộng đồng dân cư. Ở đó thể

hiện sự chắt lọc, gìn giữ bằng sự cảm thụ tinh tường của “con mắt thế gian”.

Thứ hai, ca dao tục ngữ chính là một loại hình nghệ thuật mang tính

tổng hợp.

Đặc trưng này cho ta hiểu rằng ca dao, tục ngữ có nghệ thuật riêng,

nhưng chúng thể hiện được tính thống nhất chung đó là ca dao, tục ngữ phản

ánh được thế giới quan, nhân sinh quan, tình cảm, tâm trạng, quan niệm của

con người trước hiện thực.

Nghệ thuật mang tính tổng hợp của ca dao, tục ngữ thể hiện ở chỗ nó

kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố của ngôn từ và các yếu tố khác của nghệ

thuật để tạo nên hiệu quả cảm thụ cao trong đời sống tinh thần của con người.

Vì lẽ đó, ta thấy sức lan tỏa của ca dao, tục ngữ có thể đi đến mọi ngóc ngách

của tâm hồn cá nhân và đến mọi tầng lớp trong xã hội.

Thứ ba, ta nhận thấy rằng, ca dao, tục ngữ là một loại hình nghệ thuật

mang tính truyền miệng.

17

Đặc trưng này của ca dao, tục ngữ cho thấy phương thức tồn tại của nó

là nói, hát, kể. Trong buổi đầu của lịch sử khi con người chưa có chữ viết,

chưa có sự phân công lao động để có người sáng tác và truyền bá thì rõ ràng

các tác phẩm nghệ thuật của văn học dân gian như ca dao, tục ngữ bao giờ

cũng lấy các cá nhân trong cộng đồng làm tác giả, và do đó, cộng đồng cũng

làm chức năng truyền bá bằng con đường truyền miệng. Nhưng không phải

bất kỳ sáng tác nào cũng được truyền miệng, mà chỉ có những tác phẩm thực

sự có giá trị mới được lưu truyền. Ở đây cho thấy sự truyền miệng của cha

ông ta cũng là sự sàng lọc và gọt dũa theo các cảm quan độc đáo của cả một

cộng đồng. Chính vì thế, bằng con đường này ca dao, tục ngữ đã đến với con

người một cách tự nhiên, dễ dàng, nó giải tỏa mọi tâm tư, tình cảm của con

người trong cuộc sống đời thường.

Từ các đặc trưng trên của ca dao, tục ngữ, trên phương diện triết học ta

thấy ca dao, tục ngữ là một hình thức đặc thù của sự phản ánh hiện thực. Điều

này có nghĩa là trên bình diện triết học, xét từ các đặc trưng đến tính chỉnh thể

của ca dao, tục ngữ đều thấy rằng nó là một bộ phận cơ bản, một nét chủ yếu

trong diện mạo tinh thần của đất nước ta. Và do vậy, xét đến cùng, ca dao tục

ngữ bao giờ cũng phản ánh hiện thực bằng “con mắt chung” của những người

lao động qua các thời đại, đó chính là nét đặc thù của hình thái tinh thần này.

Nhờ vậy mà ca dao, tục ngữ Việt Nam đã đóng góp một phần to lớn vào kho

tàng văn học dân gian Việt Nam, để văn học dân gian Việt Nam được coi như

“một kho bách khoa từ điển Việt Nam, kho tài liệu vô tận cho mọi ngành

khoa học xã hội Việt Nam”.

Có thể nói, ca dao, tục ngữ ra đời trên cơ sở của một lực lượng sản xuất

phát triển nhất định và một quan hệ sản xuất tương ứng với lực lượng sản xuất

ấy. Mặt khác, ca dao, tục ngữ nảy sinh và phát triển trên cơ sở những cảm xúc

thẩm mỹ của con người ở các thời đại lịch sử khác nhau. Bởi vì trong bản

18

chất, ca dao, tục ngữ là một hình thức nghệ thuật của ngôn từ. Nghĩa là khi

mà những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người cho phép họ vượt ra

khỏi khuôn khổ của sự kiếm sống thuần túy, tức là khi cảm xúc thẩm mỹ

không bị lệ thuộc vào những nhu cầu thực tiễn thô thiển, thì ca dao, tục ngữ

được nảy sinh trước hết là từ những hoạt động thực tiễn, mà đặc biệt là thực

tiễn sản xuất vật chất. Chính trong quá trình ấy mà cảm quan thẩm mỹ của

con người được hình thành và phát triển để tạo nên các câu ca dao, tục ngữ đa

dạng và phong phú.

Như vậy, ca dao tục ngữ dù được gọi bằng ngôn ngữ nào đi chăng nữa

thì nó vẫn là một hình thái ý thức xã hội, một hình thức của nghệ thuật ngôn

từ tồn tại bằng phương thức truyền miệng, xét đến cùng nó từ tồn tại xã hội

mà ra, phản ánh tồn tại xã hội. Nên có thể nói rằng, sự hình thành và vị trí của

ca dao, tục ngữ xét trên mọi phương diện đã rõ ràng, vấn đề là tùy góc độ

nghiên cứu và tiếp cận nó, đồng thời, vị trí của ca dao, tục ngữ còn được thể

hiện ở tính nhiều chức năng của nó đã làm cho giá trị thực tiễn của nó sáng tỏ.

Ở ca dao tục ngữ ta thấy rõ chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ, chức

năng nhận thức và chức năng sinh hoạt thống nhất với nhau, nhờ vậy, nó là

một bộ phận cơ bản của văn hóa dân gian.

1.2. Những điều kiện hình thành ca dao, tục ngữ Việt Nam

Như đã nói ở trên, ca dao tục ngữ là một hình thức sáng tác của người

xưa, nó là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi xã hội đã đạt đến giai đoạn canh

tác nông nghiệp, khi yêu cầu của thực tiễn đấu tranh sản xuất đòi hỏi con

người phải giải thích tự nhiên để tác động vào tự nhiên; đồng thời cũng là lúc

giai cấp xuất hiện và cuộc đấu tranh giai cấp đã bắt đầu đòi hỏi con người

thấy bức thiết phải giải thích xã hội, tìm hiểu xã hội và tỏ thái độ trong cuộc

đấu tranh xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Đứng về mặt lịch sử của tư duy

mà nói thì ca dao, tục ngữ ra đời cũng còn là kết quả của trình độ khái quát

19

hóa và trừu tượng hóa tư duy của con người đã phát triển đến một trình độ

nhất định.

1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về tình hình kinh tế xã hội ở Việt

Nam trong lịch sử, song cho đến nay, những nghiên cứu ấy vẫn chưa đi đến

thống nhất ở cách phân kì xã hội trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, khi cùng

bàn đến một kiểu phương thức sản xuất tiêu biểu nhất từng tồn tại nhiều nhất

trong nhiều giai đoạn lịch sử ở Việt Nam thì đó là phương thức sản xuất

phong kiến hay gọi là phương thức sản xuất châu Á - phương thức sản xuất

chủ đạo nhất trong nhiều giai đoạn lịch sử ở Việt Nam.

Trong lịch sử Việt Nam, phương thức sản xuất phong kiến cũng chưa

bao giờ phát triển đến trình độ điển hình. Bởi vì trên thực tế, ở các triều đại

trong lịch sử, bản thân phương thức sản xuất phong kiến luôn đứng trước hai

khuynh hướng. Một là, khuynh hướng cũng dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất

tối cao của nhà nước để củng cố chế độ phong kiến tập quyền; hai là, khuynh

hướng dựa trên tư hữu ruộng đất dẫn đến chế độ phong kiến phân quyền cát

cứ. Tuy nhiên, nếu coi phương thức sản xuất chủ đạo trong lịch sử Việt Nam

dù là phương thức sản xuất phong kiến (tập quyền là chủ yếu và cả phân

quyền) hay là phương thức sản xuất châu Á nói chung, thì tất cả đều là một

kiểu phương thức sản xuất đan xen, trong đó cả phương thức sản xuất nô lệ,

thậm chí cả kiểu phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa. Chính sự đan

xen ấy đã tạo nên một kiểu phương thức sản xuất phong kiến kiểu châu Á đặc

trưng trong lịch sử Việt Nam.

Như vậy, suy đến cùng chế độ sở hữu ruộng đất chính là yếu tố quyết

định phương thức sản xuất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà ngự trị ở

đây là chế độ sở hữu ruộng đất công. Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố sở hữu

ruộng đất mang tính quyết định ấy, việc có nhiều hình thức sử dụng nguồn lao

20

động cũng là yếu tố quyết định những hình thức khác nhau của phương thức

sản xuất kiểu châu Á đặc trưng ở Việt Nam. Hơn nữa, cũng với nền tảng kinh

tế ấy là việc tổ chức hệ thống bộ máy chính quyền cơ sở đó được kiến tạo

ngày càng thể hiện sự phù hợp với điều kiện kinh tế đó. Đặc biệt, kể từ cuộc

cải cách đầu tiên trong lịch sử, từ chỗ việc quản lý trực tiếp xã hội thông qua

vai trò tầng lớp gia trưởng và tộc trưởng ở công xã nông thôn, đến chỗ thiết

lập chính quyền cơ sở đã bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng chế độ

phong kiến trung ương tập quyền mà các triều đại sau này không ngừng củng cố.

Trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến ở nước ta (từ thời Lê Sơ trở

về trước), chế độ phong kiến Việt Nam sơ kỳ vừa mang hình thức phân quyền

cát cứ, vừa mang tính chất nô lệ. Gọi như vậy là vì, phần lớn ruộng đất bị tập

trung trong những điền trang dưới quyền chiếm hữu của giai cấp phong kiến

bóc lột nông nô và gia nô. Nhìn chung, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà

vua chiếm phần rất lớn, đại bộ phận địa chủ mà ruộng đất phải nộp vẫn thuộc

về nhà vua và chiếm gần hết tổng số thu của nhà vua. Tuy vậy, do ruộng đất

nhà vua ban cấp cũng chiếm phần khá lớn nên một bộ phận địa tô không nhỏ

đó chui vào tầng lớp quý tộc, vương hầu. Ngoài ra, do ruộng đất tư chỉ chiếm

vai trò rất khiêm tốn nên địa tô rơi vào tay địa chủ tư hữu chiếm phần nhỏ.

Đây là cơ sở kinh tế củng cố chế độ xã hội phong kiến trung ương tập quyền

Việt Nam.

Từ thời kỳ Lê sơ trở về sau (từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX), ruộng

đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua ngày càng bị thu hẹp, ruộng đất do nhà

vua ban cấp cũng bị giảm sút theo. Ngược lại, ruộng tư ngày càng phát triển

và đến giữa thế kỷ XIX, diện tích ruộng tư đã vượt diện tích ruộng công, sự

phân phối địa tô phong kiến cũng có sự thay đổi tương ứng. Lúc này, đại bộ

phận địa tô chuyển vào tay giai cấp địa chủ tư hữu, nhà vua nhận được phần ít

hơn trước. Phần địa tô của bọn quan lại, vương hầu cũng bị giảm so với tổng thể.

21

Về thực chất, đây là sự thay đổi về phân phối địa tô trong nội bộ giai

cấp phong kiến, địa chủ. Nó không hề làm giảm mức độ bóc lột của giai cấp

phong kiến đối với nông dân. Trái lại, để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu ngày càng

lớn, nhà nước phong kiến đã tìm đủ mọi cách để bóc lột nông dân ngày càng

thậm tệ, dã man hơn. Địa tô hiện vật chiếm vai trò chủ yếu trong suốt thời kỳ

phong kiến ở nước ta. Sự thống trị của hình thức địa tô hiện vật ở nước ta có

phần xuất phát từ nền kinh tế tự nhiên, lạc hậu chiếm vị trí chủ yếu trong các

xã hội phong kiến ở nước ta. Tính chất tự cấp, tự túc cũng rất nặng nề, sản

phẩm nông nghiệp đi vào lưu thông rất ít, tô tiền chỉ có thể giữ vai trò thứ yếu.

Dưới xã hội phong kiến Việt Nam cũng phát sinh nhiều hình thức thu

thuế khác: tô lao dịch và nhiều loại thuế bằng tiền được gọi là phụ thu, “lệ

làng” đi kèm với tô thuế chính. Nhưng nếu cộng các khoản tô thuế phụ đó lại,

có nhiều nơi nhiều khoản thậm chí là cao hơn nhiều so với tô thuế chính. Chỉ

những khoản tô, thuế đó được nhà nước quy định thành chế độ, văn bản cũng

đã khẳng định được mức độ bóc lột của giai cấp phong kiến đối với nhân dân

ta là rất nặng nề. Không những thế, có rất nhiều cấp quan lại, chức tước từ

tỉnh, huyện đến hương tùy tiện nâng mức quy định của nhà nước thêm nhiều

khoản lệ làng để bóp nặn, bóc lột nhân dân.

Ở các nước Tây Âu, chế độ phong kiến phổ biến chỉ tồn tại khoảng 13

đến 15 thế kỷ, sau đó chuyển sang chế độ xã hội khác (chế độ tư bản chủ

nghĩa). Ở nước ta, chế độ phong kiến kéo dài đến 20 thế kỷ. Sự bóc lột của

vua chúa, phong kiến Việt Nam đã lấy hết sản phẩm thặng dư của người nông

dân, không những thế, người nông dân cũng bị quan lại tham nhũng, địa chủ,

cường hào và bọn cho vay nặng lãi thi nhau cấu xé, bòn rút,... Do đó, việc duy

trì được lối sản xuất giản đơn cũng khó khăn nói gì đến lối sản xuất mở rộng.

Khi mà sản xuất trì trệ, nguồn thu để đáp ứng mọi chi tiêu của nhà nước càng

22

ngày càng tăng thì thuế khóa sẽ đè nặng lên đời sống nhân dân Việt Nam mà

tuyệt đại bộ phận là nông dân.

Về phần chi tiêu của Nhà nước phong kiến tuy có những hoạt động

phát chẩn, hỗ trợ nông dân bị mất mùa, đói kém, nhưng bản chất đó chỉ là

những việc nhất thời nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của nông dân, không xuất phát

từ quan điểm lo lắng đến đời sống ấm no, lâu dài của nhân dân. Nhà nước

không quan tâm đến đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, ổn định đời sống mà

tuyệt đại bộ phận cùng quỹ được sử dụng vào phần nuôi dưỡng vua chúa,

hoàng thân, quốc thích với đời sống xa hoa, xây dựng cung đình lộng lẫy,

nguy nga, bộ máy quan lại cồng kềnh, tốn kém, chỉ biết tìm cách vơ vét cho

đầy túi tham không đáy của họ. Sự đóng góp của nhân dân đến kiệt quệ, cùng

cực cũng như “gió vào nhà trống”, bao nhiêu cũng không đủ, ngân quỹ vẫn

khánh kiệt, trống rỗng.

Kể từ năm 1858 khi Pháp đặt chân vào xâm lược Việt Nam cấu kết với

địa chủ phong kiến Việt Nam thi hành những chính sách cai trị vô cùng tàn

độc làm cho đời sống của nhân dân Việt Nam vô cùng thống khổ. Nhân dân ta

phải chịu cảnh áp bức bóc lột nặng nề, một cổ hai tròng. Một mặt, nhân dân ta

phải đối mặt với những chính sách tàn bạo, dã man của thực dân Pháp, mặt

khác phải chịu sự bóc lột của cường hào, địa chủ phong kiến làm cho đời sống

của người dân trở nên điêu đứng, lầm than không lối thoát.

Vào thời Pháp - Nhật, cuối những năm 1944 và đầu những năm 1945,

dưới chính sách cai trị và bóc lột của Pháp, Nhật, nhân dân ta đã phải trải qua

một nạn đói kinh hoàng làm hơn hai triệu đồng bào bị chết đói. Sau cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ, dân tộc ta phải trải qua

một cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ lâu dài. Những gì mà nhân dân ta

phải gánh chịu qua hai cuộc chiến không gì có thể so sánh được.

23

Như vậy, tương ứng với điều kiện phát triển kinh tế, mà kinh tế nông

nghiệp luôn đóng vai trò chủ đạo, và gắn với nó là chế độ sở hữu ruộng đất

công bao trùm lên nhiều hình thức sở hữu khác, quan hệ phân phối địa tô

phong kiến cùng với chế độ lao dịch, quan hệ quản lý với bộ máy trung ương

tập quyền phong kiến đã trở thành cơ sở quyết định hình thành một kiểu kết

cấu kinh tế - xã hội đa dạng, chồng chất, phủ lấp và đan xen lẫn nhau trong

lịch sử Việt Nam. Thực tiễn xã hội đó đã đặt con người trước câu hỏi vì sao

những người phải lao động nặng nhọc, phải hy sinh trong chiến tranh lại phải

sống một cuộc đời hết sức thiếu thốn khổ sở, trong khi những kẻ không phải

lao động, cũng không phải hy sinh trong chiến tranh lại được sống sung

sướng, ấm no? Tóm lại, con người có rất nhiều khó khăn cần phải khắc phục,

đứng trước rất nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết. Mà bao trùm tất cả là

mâu thuẫn trong thực tiễn sản xuất và mâu thuẫn trong thực tiễn đấu tranh

xã hội. Điều đó đã được phản ánh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

1.2.2. Điều kiện văn hóa - tư tưởng

Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp lúa nước với

một số đặc trưng, liên quan chặt chẽ với nhau. Trong cách ứng xử đối với

thiên nhiên, do nông nghiệp lúa nước phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cha

ông ta đã hình thành ý thức rất tôn trọng, sống hài hòa với thiên nhiên, không

dám ganh đua với thiên nhiên. Về nhận thức, nghề nông nghiệp lúa nước cũng

phụ thuộc vào không ít các yếu tố như mưa, nắng, trời, đất,… và các yếu tố

đó quan hệ khăng khít với nhau, do vậy cách tư duy tổng hợp, biện chứng ra

đời. Tổ chức cộng đồng thể hiện trên hai khía cạnh là nguyên tắc tổ chức và

cách thức tổ chức cộng đồng. Do làm nông nghiệp, sống cố định, lâu dài với

nhau, nên đã hình thành nguyên tắc sống trọng tình, trọng đức, trọng văn

trong đời sống của cha ông. Từ lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn phải

đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp, cùng với lối sống tình cảm nên

24

đã dẫn đến cách tổ chức cộng đồng theo lối linh hoạt, luôn biến đổi cho phù

hợp với hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc sống trọng tình cảm và nhu cầu cuộc

sống hòa thuận làm cho lối sinh hoạt của cha ông ta càng thấm đượm cách đối

xử hòa hiếu với nhau trong cộng đồng mình và với cộng đồng khác. Chính

điều này đã quy định triết lý hòa hiếu, quân bình, cương nhu nhưng hơi thiên

về nhu, về tình. Xã hội Việt Nam truyền thống nhìn chung là xã hội nông

nghiệp trồng lúa nước theo thời vụ, vì thế con người trồng lúa nước có nhiều

đặc tính giống như nước, thường nghĩ về sự vận động theo chu kỳ, tuần hoàn,

vòng tròn, điều này hoàn toàn khác với cách nghĩ của người sống trên thảo

nguyên, sa mạc.

Mặt khác, lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến thắng oanh liệt giặc ngoại

xâm. Hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải chống ngoại xâm nhiều lần như

Việt Nam. Từ thế kỉ thứ III TCN cho đến nay, Việt Nam đã buộc phải thực

hiện gần 20 cuộc chiến tranh lớn giữ nước và khoảng hơn 100 cuộc khởi

nghĩa giành độc lập. Tổng số thời gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh

chống đô hộ ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng

dân tộc đã trên 12 thế kỷ. Cuộc kháng chiến diễn ra trong so sánh lực lượng

rất chênh lệch, trong hoàn cảnh chỉ có một cơ sở vật chất tương đối nhỏ bé,

đất không rộng, người không đông, cuộc chiến đấu hết sức ác liệt. Do đó, con

đường sống còn và chiến thắng của dân tộc ta là phải biết phát huy sức mạnh

toàn dân, sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của dân tộc. Truyền thống

yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất

được phát huy cao độ. Trong lịch sử Việt Nam, mô hình nhân cách đạo đức

của người anh hùng cứu nước chống giặc ngoại xâm là mô hình mang tính

phổ biến và được đề cao hơn cả. Hình tượng các vị anh hùng dân tộc như Hai

Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,

Quang Trung,… đã in đậm trong nền văn hóa đạo đức Việt Nam.

25

Bên cạnh đó, trong thời cổ đại, Việt Nam không trải qua thời kỳ phát

triển của chế độ chiếm hữu nô lệ. Xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp

nhau, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội.

Sự tiến triển của hình thái kinh tế - xã hội của mỗi nước mang những nét đặc

thù có ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa, ý thức, quan niệm sống của Việt

Nam cổ đại. Quan hệ nô tỳ tức chế độ nô lệ gia trưởng có phát triển trong

mức độ nào đó nhưng không bao giờ trở thành quan hệ chi phối, thống trị xã

hội, do đó để lại dấu ấn nhất định trong mối quan hệ cũng như tình cảm của

con người. Chế độ phong kiến Việt Nam hình thành gắn liền với sự xuất hiện

và thống trị của phong kiến phương Bắc và trưởng thành cùng với các trào

lưu chống phong kiến phương Bắc, giành độc lập cho dân tộc. Trong thời kỳ

thống trị của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản có nảy sinh và phát triển

trong một mức độ nào đó, nhưng Việt Nam không trải qua một thời kỳ thống

trị của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chủ nghĩa dân tộc tư sản có ảnh hưởng nhất

định, nhưng không giữ vai trò chi phối tư tưởng truyền thống của dân tộc.

Điểm cần chú ý là, Việt Nam nhìn chung nằm trong khung cảnh của

phương thức sản xuất châu Á, thực ra gọi là phương thức sản xuất châu Á

nằm ở giai đoạn quá độ từ cộng sản nguyên thủy lên chiếm hữu nô lệ. Ở châu

Âu có trải qua một giai đoạn tương đối ngắn so với lịch sử, còn ở châu Á, nó

ảnh hưởng dai dẳng, lâu dài cho đến tận thế kỷ XX.

Mặt khác, hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc

của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Đặc biệt từ thế kỷ XV về sau, chế độ

phong kiến chuyển sang mô hình chế độ quân chủ Nho giáo với vai trò chi

phối của hệ tư tưởng Nho giáo và nó có nhiều ảnh hưởng đối với đời sống văn

hóa, tinh thần của Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình lý tưởng về con người Nho

giáo nhào nặn đã để lại dấu ấn rất đậm trong thế giới quan, nhân sinh quan,

nền nếp tư duy, cung cách ứng xử của nhiều thế hệ. Có thể nói, chế độ phong

26

kiến Việt Nam dựa trên nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tồn tại hàng ngàn

năm đã xây dựng cho nó một trật tự, đó là trật tự khắt khe của những quan hệ

gia trưởng, là trật tự nghiệt ngã. Nó mang đặc điểm hoài cổ, cực kì bảo thủ và

trì trệ, nó đã tạo nên khuôn thước trật hẹp, gò bó mọi tư tưởng, tình cảm

của con người.

Giai đoạn văn hóa Việt Nam hiện đại được hình thành dưới ngọn cờ

của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin. Với sự hội nhập sâu rộng

vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng thời gìn giữ, phát huy bản sắc dân

tộc, văn hóa Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới. Có thể nói, xuyên

suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn

hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa

giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ nguồn

gốc văn hóa bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai

đồng hóa, trái lại còn biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giàu cho

nền văn hóa dân tộc. Tất cả đã làm nên một nền văn hóa Việt Nam luôn có sự

thống nhất trong tính đa dạng. Dân tộc Việt Nam vốn có nền văn hóa lâu đời,

mang bản sắc riêng, đầy sức sống và đã từng có những mặt phát triển cao, ví

dụ như nghệ thuật đúc trống đồng, các tri thức về nông nghiệp, y học, kỹ thuật

quân sự,… Trong phong tục tập quán, có những phong tục tập quán mang bản

sắc dân tộc, duy trì tinh thần cộng đồng trong dân tộc. Những thuần phong mỹ

tục cùng với toàn bộ nền văn hóa ấy nói lên những nét hồn nhiên, chất phác,

yêu đất nước, yêu con người, lạc quan yêu đời, đậm đà tình nghĩa.

Bên cạnh đó, xét về mặt tín ngưỡng dân gian thì ở Việt Nam, tín

ngưỡng của người Việt cổ xưa đã bao hàm: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng

sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi,

mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống nên đã nảy sinh tín

ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng này tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện:

27

thờ sinh thực khí nam và nữ. Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và

chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ ở Tây Nguyên, trong một số phong tục

và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ. Nông

nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín

ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng

nữ thần, lại còn thờ cả động vật và thực vật, thực vật được tôn sùng nhất là

cây lúa.

Ca dao, tục ngữ Việt Nam là một hình thức nghệ thuật độc đáo, gắn bó

với nhân dân ta từ buổi sơ khai cho đến nay. Từ lúc hình thành cho đến nay,

ca dao tục ngữ bao giờ cũng gắn liền mật thiết với mọi sinh hoạt của đời sống

nhân dân Việt Nam. Thiên nhiên, công việc lao động, sinh hoạt hội hè, đình

đám, các cuộc gặp gỡ giữa thanh niên nam nữ, những buổi tụ họp vui chơi

của trẻ em,… là môi trường để nảy sinh các sáng tác văn học dân gian mà

điển hình là sự xuất hiện của ca dao, tục ngữ. Ca dao, tục ngữ là một thể loại

văn học dân gian truyền miệng, sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể, là

tiếng nói chung của cả một cộng đồng chứ không phải của riêng một cá nhân

cụ thể, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp các sinh hoạt khác nhau trong đời

sống cộng đồng. Có thể nói, ca dao tục ngữ là tiếng nói của con tim, khối óc,

nên trong giao tiếp ai ai cũng thích truyền đạt cho nhau, do đó nó trở thành

phổ biến. Tục ngữ và ca dao đã được truyền miệng và gọt dũa từ đời nọ qua

đời kia nên câu văn rất tự nhiên, trong sáng và đã biểu lộ tính tình, phong tục

tập quán của nhân dân ta một cách trong sáng và chân thực. Tuy nhiên, tính

truyền miệng làm nảy sinh một hệ quả đó là tính dị bản trong tác phẩm văn

học dân gian. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi lẽ, Việt Nam dưới thời phong

kiến, tới hơn 90% dân số nước ta bị mù chữ, cho nên truyền miệng chính là

con đường, phương thức hữu hiệu nhất đáp ứng được những đòi hỏi sáng tạo

và hưởng thụ nghệ thuật của họ.

28

Như vậy, từ những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng trên

chúng ta thấy từ khi xuất hiện xã hội loài người, để tồn tại và phát triển, con

người phải lao động kiếm sống và đấu tranh chống chọi với thiên nhiên khắc

nghiệt và những thế lực thù địch. Trong lao động và cuộc sống hàng ngày con

người không ngừng tìm tòi và khám phá thế giới, trước hết là để thích nghi

với môi trường sống, sau đó là để khai thác và cải tạo môi trường phục vụ cho

cuộc sống của mình, đồng thời tích lũy những kinh nghiệm lịch sử, xã hội.

Nhờ đó, loài người dần nắm vững ngày càng nhiều quy luật của các sự vật,

hiện tượng khách quan, tích lũy, hệ thống hóa ngày càng nhiều kinh nghiệm

phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt động. Mặt khác, người dân Việt

Nam còn phải chịu nhiều tầng áp bức trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,

người nông dân luôn là những người thấp cổ bé họng, chịu nhiều thiệt thòi. Ai

cũng biết được rằng trình độ giải thích thế giới của con người phụ thuộc vào

trình độ tri thức của họ. Mà trình độ tri thức lại do trình độ sức sản xuất của

xã hội quyết định. Cho nên chúng ta có thể kết luận rằng, ca dao, tục ngữ là

một sản phẩm tất yếu của giai đoạn xã hội đương thời. Và đặc biệt hơn cả là

dưới đời sống xã hội ngột ngạt, đầy rẫy những bất công và nhiều tầng áp bức

mà con người chưa thể tự giải thoát nổi mình thì ca dao tục ngữ là cách giải

quyết lý tưởng nhất cho con người về mặt tư tưởng. Bên cạnh đó,trong bản

thân mỗi con người Việt Nam luôn chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả.

Trong cuộc sống, họ luôn mong muốn những điều tốt đẹp, luôn mong muốn

sống một cuộc sống hài hòa với tự nhiên, có được sự thương yêu lẫn nhau

giữa những con người sống trong cùng một xã hội. Tất cả những mong muốn

đó đã được cha ông ta gửi gắm khéo léo trong những câu ca dao, tục ngữ

phong phú và đa dạng.

29

1.3. Khái niệm triết lý và triết lý nhân sinh

1.3.1. Khái niệm triết lý

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Khoa học - Xã hội - Nhân văn - Viện

ngôn ngữ (Nxb Từ điển Bách khoa, 2007), triết lý được hiểu theo hai nghĩa:

Khi “triết lý” là một danh từ thì nó được hiểu là ý niệm của nhân loại. Triết lý

cũng như bao nhiêu giá trị khác, phải biến đổi theo hoàn cảnh xã hội, theo

phương tiện sinh hoạt của con người. Khi “triết lý” là một động từ thì được

hiểu là: tỏ ý niệm của riêng mình về việc gì đó.

Văn hóa là cội nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống

triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của các hệ thống triết

học. Các triết lý, các hệ thống triết học là những bộ phận cốt lõi nhất trong

nền văn hóa của một dân tộc. Xét trên nhiều khía canh, triết lý luôn ở tầm

thấp hơn so với các hệ thống triết học, song nó cũng là chất liệu của các hệ

thống triết học.

Các triết lý xuất hiện, phát triển và hoạt động trong đời sống xã hội và

cá nhân, mỗi yếu tố đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên hệ với nhau. Trong các

triết lý đã có thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản và các

mặt của hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan hệ xã hội,

đời sống tinh thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những quan niệm

ấy ẩn chứa bên trong các nội dung, chương trình, phương thức hoạt động

chung của xã hội và được cụ thể hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định

hướng cho những hoạt động của các cá nhân và cộng đồng.

Ca dao, tục ngữ Việt Nam và triết học là hai lĩnh vực hoàn toàn khác

nhau nhưng về phương diện nào đó lại rất gần gũi với nhau. Ca dao, tục ngữ

là sự đúc kết những kinh nghiệm của con người trong quá trình lao động, sản

xuất, mang tính triết lý cao. Do đó, nhiều người còn gọi ca dao, tục ngữ Việt

Nam là triết lý dân gian hay triết học của nhân dân lao động Việt Nam.

30

Làm rõ mối quan hệ giữa triết lí và triết học, trong bài viết “Mấy suy

nghĩ về Triết học và triết lý” của tác giả Hồ Sĩ Quý trên Tạp chí Triết học số

3/1998, tác giả cho rằng: “… dù quan niệm khác nhau đến mấy, trước hết

chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, nếu đã tồn tại với tính cách triết học thì

đương nhiên triết học nào cũng trực tiếp hoặc kín đáo bộc lộ tính hệ thống của

nó; tức là nó phải tồn tại ở trình độ một hệ thống, hoặc tiểu hệ thống những

quan điểm, những quan niệm hoặc tư tưởng… có ý nghĩa phương pháp luận

và thế giới quan (hoặc nhân sinh quan) và những vấn đề chung nhất của mọi

tồn tại và của sự nhận thức cũng như đánh giá về mọi tồn tại đó. Như vậy,

đụng đến triết học là đụng đến tính hệ thống của nó. Nói một cách khác, khi

thuật ngữ triết học được sử dụng, tức là khi người ta buộc phải xem xét những

tư tưởng, quan điểm… trong hệ thống nội tại của chúng. Không hoặc chưa thể

được gọi là triết học nếu những tư tưởng, quan điểm, quan niệm… nào đó

không (hoặc chưa) đạt tới trình độ tồn tại trong cấu trúc của một hệ thống xác

định. Thông thường các tư tưởng, trường phái hoặc nền triết học điển hình

bao giờ cũng đạt tới trình độ của những hệ thống chặt chẽ ở mức độ nhất định

trong logic vốn có của chúng…Người ta khó có thể gọi một quan niệm dân

gian, một thành ngữ hoặc tục ngữ cụ thể nào đó... là triết học được, dù rằng

thành ngữ hoặc tục ngữ đó cũng chứa đựng những tư tưởng không kém phần

sâu sắc về mặt nhân sinh quan hoặc về mặt phương pháp luận và thế giới

quan” [42, tr. 56-57].

Như vậy theo Hồ Sỹ Quý những tư tưởng chứa đựng trong các thành

ngữ, tục ngữ hoặc những khái quát đơn lẻ tương tự như vậy chỉ là những triết

lý chứ không phải là triết học. Vậy, triết lý là gì?

Ông viết: “Mặc dù ở nước ta có một số người dịch philosophy là triết lý

nhưng trong tiếng Việt, chúng ta đều biết triết lý và triết học là các khái niệm

khác nhau, dùng để biểu đạt, phản ánh những đối tượng khác nhau. Nếu như

31

trong đời sống xã hội thuật ngữ triết học chỉ được sử dụng như một danh từ và

đôi khi được sử dụng như một tính từ, thì triết lý thường xuyên được sử dụng

với cả ba tư cách danh từ, tính từ và động từ. Về đại thể, triết lý có thể và nên

được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm… mang tính khái

quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các

phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngôn ngữ; và được sử dụng trong đời

sống xã hội với tính cách là những định hướng cho hoạt động của con người

về mặt thế giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan” [42, tr. 57].

Theo ông, bàn luận về giá trị của triết lý nói chung, triết lý dân gian nói

riêng, người ta dễ dàng nhận ra điểm hạn chế của triết lý trong so sánh với

triết học: “Nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn ở trình độ thấp

hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết

vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy. Nói một cách khác, nếu không

phải là tất cả thì cũng là trong đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt

chẽ hơn, phiến diện hơn và có khả năng chứa đựng mâu thuẫn so với triết

học” [42, tr. 57].

Trong bài viết “Giá trị bền vững của triết lý dân gian trong toàn cầu

hóa” của tác giả Tô Duy Hợp tham gia hội thảo quốc tế “Toàn cầu hóa:

Những vấn đề triết học ở châu Á - Thái Bình Dương” do Viện Triết học tổ

chức tại Hà Nội, tháng 11 năm 2005, tác giả đã nêu cách hiểu của mình về

triết lý nói chung, triết lý dân gian nói riêng: “Triết lý và triết học đều cùng

một phạm trù, đó là thế giới quan và nhân sinh quan. Nhưng triết lý là thế giới

quan kinh nghiệm nó khác với triết học = thế giới quan lý luận”, còn “Triết lý

dân gian là một loại hình triết lý mang tính dân gian... Triết lý dân gian là tinh

hoa của văn hoá dân gian”

Từ những quan điểm trên chúng ta có thể khẳng định rằng triết lý dân

gian không phải là triết học nhưng lại có mối quan hệ gần gũi với triết học;

32

trong triết lý dân gian, trong ca dao, tục ngữ chứa đựng những yếu tố triết

học. Giá trị của triết lý nói chung, triết lý dân gian nói riêng đã được kiểm

nghiệm bằng chính sức sống lâu bền của nó. Và ngày nay, giá trị của nó đã

được khoa học thừa nhận.

1.3.2. Triết lý nhân sinh

Triết lý nhân sinh là quan niệm về cuộc sống của con người: lẽ sống của

con người là gì? Mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và

sống như thế nào cho xứng đáng? Trả lời cho những câu hỏi đó là vấn đề nhân

sinh quan. Khác với loài cầm thú, bất kì người nào cũng có quan niệm của

mình về cuộc sống. Trong đời thường, đó là nhân sinh quan tự phát, “ngây thơ”

của đại chúng, các nhà tư tưởng khái quát những quan điểm ấy nâng lên thành

lý luận, tạo ra nhân sinh quan tự giác mang tính nguyên lý triết học. Nhân sinh

quan phản ánh tồn tại xã hội của con người, nội dung của nó biểu hiện những

nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hoài bão của con người trong mỗi chế độ xã hội

cụ thể…Chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử, chỉ

rõ hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, và qua

đó mà tự cải tạo, tự nâng mình lên, đó là nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội.

Vì vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc đẩy những quá trình phát triển xã hội đã

chín muồi, những hoạt động lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã

hội tốt đẹp, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời qua đó mà hoàn

thiện năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình.

Tóm lại, nói đến triết lý nhân sinh là nói đến quan niệm về sinh mệnh

con người, cuộc sống của con người trong xã hội, mục đích và lẽ sống của

con người. Vì vậy, triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ Việt Nam chính là

triết lý, là những kinh nghiệm ông cha ta đã đúc kết được về sinh mệnh con

người, về cuộc sống của con người, mục đích và lẽ sống của con người trong

33

xã hội và về những ứng xử của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và

xã hội.

Tiểu kết chƣơng 1

Ca dao, tục ngữ Việt Nam là tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế xã

hội qua quá trình lịch sử. Trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học được hình

thành từ sự thể hiện tình cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật ngôn

từ, bằng hình tượng để tạo nên các triết lý sâu sắc. Ở tục ngữ, ta bắt gặp sự

chắt lọc trí tuệ dân gian trước vũ trụ nhân sinh và về bản thân con người đã

đạt được sự thâm diệu về nhận thức.

Thông qua việc phân tích các đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam,

ta nhận thấy ca dao, tục ngữ là một hình thức đặc thù của sự phản ánh hiện

thực. Điều này có nghĩa là xét từ các đặc trưng đến tính chỉnh thể của ca dao,

tục ngữ đều thấy nó là một bộ phận cơ bản, một nét chủ yếu trong diện mạo

tinh thần của đất nước ta.

Mặt khác, ca dao, tục ngữ chính là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi đã

đạt đến một giai đoạn phát triển nhất định, và đứng về mặt lịch sử của tư duy,

ca dao tục ngữ ra đời là kết quả của trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa tư

duy của con người.

Chính vì thế, ca dao, tục ngữ là một di sản tinh thần quý báu, là kho tri

thức về kinh nghiệm sống và đạo lý làm người, chứa đựng những triết lý nhân

sinh sâu sắc mà ông cha ta để lại cho dân tộc.

34

CHƢƠNG 2

NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ

VIỆT NAM

2.1. Quan niệm về đời ngƣời, ý nghĩa của cuộc đời con ngƣời

Từ xưa đến nay vấn đề về đời người đặc biệt là về nguồn gốc của con

người, của vạn vật, của sự sống và cái chết là những vấn đề lớn luôn được đặt

ra, nhất là khi con người bắt đầu có ý thức về bản thân mình, biết phân biệt

với muôn loài, có ý thức về quá khứ, hiện tại và tương lai.

Có thể nói, khi quan tâm đến các hiện tượng của tự nhiên, của quá trình

hình thành vũ trụ đồng thời là quá trình con người tìm mọi cách để giải thích

xem nhờ đâu, hay nguyên nhân nào đã làm xuất hiện các giống loài trên trái

đất, và đồng thời cũng chính là quá trình giải thích về nguồn gốc của con

người và sự sống chết của con người. Sự hình dung về nguồn gốc con người

và đời sống của con người trong tư duy của người Việt xưa rất đa dạng và

phong phú khi con người đã tìm cách lý giải nguồn gốc của chính mình, nhận

thức về những thói quen, luật tục cùng với những sinh hoạt xã hội cụ thể.

Khi lý giải về nguồn gốc con người, trong quan niệm của người Việt

xưa vừa mang tính chất duy tâm hữu thần vừa chứa đựng những tư tưởng duy

vật chất phác. Họ cho rằng, bản thân con người cũng như vũ trụ và muôn loài

là do đấng thần linh toàn năng, có quyền phép vô biên sáng tạo ra: “Trời đất

sinh ra ta” [38, tr. 99]. Quan điểm này thoạt nhìn về mặt hình thức thì có vẻ

duy tâm, nhưng xét về mặt nội dung lại mang dáng dấp duy vật chất phác, đã

nói đến nguồn gốc của sự vật, hiện tượng. Trong quan điểm của người Việt

xưa, con người chính là sản phẩm của giới tự nhiên, do trời đất sinh ra, nhưng

là sản phẩm cao quý nhất, tinh túy nhất và hoàn mỹ nhất của tự nhiên: “Người

ta là hoa đất” [38, tr. 99]. Câu tục ngữ có năm chữ nhưng mang nhiều ý

nghĩa hàm ẩn. Hình ảnh hoa là hình ảnh của sự đẹp đẽ, thuần túy, là kết tinh

35

tạo hóa ban tặng. Tương tự thế, hoa đất chính là mạch sống của đất trời, cũng

có thể nói hoa đất chính là con người. Con người chính là một sinh vật hoàn

hảo của vũ trụ, con người có hình thể, bản năng và trí tuệ, đó chính là thứ vũ

khí mạnh nhất. Trí tuệ đã đem lại cho con người sự tìm tòi khám phá, những

kiến thức khoa học tạo nên những bước ngoặt thành đạt đáng khâm phục.

Trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, bạt núi, ngăn sông, khai khẩn đất

hoang, con người đã tin ở trí thông minh và sức lực của mình, con người đã

đứng lên xây dựng một xã hội, một tinh cầu văn minh, câu tục ngữ trên đã

khẳng định được điều đó.

Tuy rằng, những câu tục ngữ trên không trực tiếp nói đến nguồn gốc

của con người, nhưng dường như người Việt xưa đã nói đến quá trình tiến hóa

của thế giới vật chất, trong đó con người là sản phẩm hoàn thiện nhất của thế

giới tự nhiên. Con người không chỉ là tâm điểm của trái đất mà còn là tâm

điểm của vũ trụ. Người Việt xưa đã hiểu rằng con người dù ở đâu, ở thời đại

nào cũng là chủ nhân của những giá trị vật chất và tinh thần, là chủ thể của

lịch sử, cho nên, họ rất quý trọng giá trị của bản thân mình và ý thức được

rằng sự tồn tại của chính bản thân con người là vô giá, không gì có thể so

sánh được, như những gì mà ông cha ta nhắc đến trong tục ngữ: “Người sống

hơn đống vàng”; “Một mặt người hơn mười mặt của” [39, tr. 199].

Trên thế gian này, con người là thứ quý giá nhất. Con người có thể làm

ra mọi thứ, con người nắm giữ, sử dụng thời gian làm ra vàng bạc, lúa gạo,

biết suy nghĩ. Sức lao động của con người là vô hạn và cũng là cái để con

người thực hiện những ước mơ, là phương tiện tồn tại cùng với thời gian. Dân

gian ví con người còn quý hơn cả vàng bạc, của cải làm tôn giá trị của con

người tới mức đỉnh cao, bên cạnh đó người xưa còn muốn nhắn nhủ rằng có

con người thì sẽ có của cải vật chất, bởi người xưa đã từng nói: “Bàn tay ta

làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” [39, tr. 199]. Từ ngàn

36

xưa, nhân dân ta không có những phương tiện máy móc như hiện nay, mọi

người chỉ biết dựa vào sức người, bàn tay và khối óc. Đó chính là những công

cụ sống được truyền từ đời này sang đời khác và bất kì thời nào thì giá trị của

con người vẫn được xem là bậc nhất, luôn luôn được quan tâm hàng đầu. Từ

khi trái đất còn sơ khai, con người đã biết săn bắt, trồng trọt, chăn nuôi để tồn

tại. Trải qua thời gian thì những phát minh được ra đời, những kinh nghiệm

được đúc kết lại làm hành trang vững bước cho thế hệ sau. Những câu tục ngữ

trên thực sự đã khẳng định được tầm quan trọng và đề cao năng lực, giá trị

của con người. Nó không chỉ là một sự khẳng định mà nó còn là một lời

khuyên, là bài học dành cho thế hệ con cháu mai sau.

Trong cuộc sống, điều mà con người quan tâm đó là số phận của mình

sẽ như thế nào. Qua thực tiễn cuộc sống, bằng kinh nghiệm của mình, họ hiểu

được rằng con người cũng nằm trong vòng sinh tử, có quá trình sinh ra, tồn tại

và mất đi, đó là một quy luật của tự nhiên: “Tre già, măng mọc” [39, tr. 198].

Tuy nhiên khi nói đến số phận con người, người xưa lại có những quan điểm

đối lập nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng con người có số phận. Số phận đó

do trời ban, mọi sự giàu nghèo, sang hèn, phú quý kể cả sống chết của con

người cũng do trời quyết định, sắp đặt từ trước, con người không thể làm thay

đổi số phận của mình. Trời tuy ở trên cao nhưng lại thông tỏ hết tất cả mọi

việc diễn ra trong cuộc sống của con người. Như vậy, do trình độ nhận thức

còn hạn chế, cuộc sống lại phụ thuộc quá nhiều vào hiện tượng tự nhiên nên

từ trong suy nghĩ, họ đã thần thánh hóa sức mạnh của trời: “Trăm đường

tránh chẳng khỏi số” [39, tr. 250] . Chính quan điểm đó đã mang lại cho con

người những tư tưởng bi quan, làm thui chột ý chí đấu tranh vươn lên của con

người. Đây chính là mảnh đất để tư tưởng duy tâm phát triển, đồng thời giai

cấp thống trị trong xã hội lợi dụng làm vũ khí để củng cố và bảo vệ địa vị

thống trị của mình. Bên cạnh đó, lại có quan điểm cho rằng, sự sống và cái

37

chết là việc của con người, do con người quyết định, không liên quan gì đến

trời. Họ cho rằng con người sống bằng sự cố gắng của mình, có thể đấu tranh

chống lại số trời để bảo vệ cuộc sống của mình, cho nên cần có thái độ lạc

quan, tin tưởng vào bản thân và tương lai tươi sáng của mình. Sự nỗ lực hôm

nay của bản thân là nguyên nhân thắng lợi của ngày mai: “Có công mài sắt/

Có ngày nên kim” [39, tr. 217].

Quan niệm về số mệnh của con người Việt xưa một mặt chịu sự quy

định của điều kiện kinh tế - xã hội lạc hậu lúc bấy giờ, do trình độ nhận thức

của người dân hết sức hạn chế và thấp kém. Nhưng mặt khác nó cũng chứng

tỏ rằng trong lao động và bằng lao động của mình, người Việt xưa cũng biết

tự mình vươn lên khắc phục số phận, khẳng định vai trò và vị trí của mình

trong thế giới tự nhiên, để làm chủ bản thân mình, không khuất phục trước

sức mạnh của tự nhiên, của trời. Cũng chính nhờ đó, họ hiểu được rằng, con

người tốt hay xấu, giàu hay nghèo, sang hay hèn không phải do trời quyết

định mà là do hoàn cảnh sống, do chính quá trình lao động của con người

quyết định: “Ở bầu thì tròn/ Ở ống thì dài” [38, tr. 103]; “Gần mực thì đen/

Gần đèn thì rạng” [39, tr. 217].

Ca dao, tục ngữ của người Việt xưa cũng đã đề cập đến cái chết của

con người. Có thể nói, quan niệm về cái chết là một trong những tư tưởng tiến

bộ, mang tính nhân văn sâu sắc trong quan niệm về đời người. Họ cho rằng

mọi sự vật và hiện tượng kể cả con người đều có quá trình sinh ra, tồn tại và

mất đi, vì thế đời người ai rồi cũng phải chết, thế nhưng chết lúc nào và chết

như thế nào mới có ý nghĩa và mới đáng tự hào. Họ hiểu rằng: “Người đời

khác nữa là hoa/ Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn”[38, tr. 95]. Vì vậy, người ta

cứ sống như không bao giờ chết, nhưng chỉ khi nào thần chết đến gõ cửa thì

người ta mới cuống cuồng lên lo sợ, buồn phiền, hối tiếc: “Nhưng mà tôi sẽ

38

chết than ôi/ Tôi run như lá, tái như đông/ Trán chảy mồi hôi, mắt lệ phồng/

Năm tháng dồn tôi đã đến/ Trước bờ lạnh lẽo cõi hư không” (Xuân Diệu).

Chính bởi giữa sự sống và cái chết quá đỗi mong manh nên cha ông

khuyên con cháu nên sống sao cho có ích, để khi chết đi không phải hổ thẹn

với chính mình: “Chết trong còn hơn sống đục” [38, tr. 101]. Đây là một bài

học quý mang tính triết lý sâu sắc về lẽ sống, về quan niệm sống đã được

người xưa đúc kết lại và đã được nhân dân lao động đề cao, trở thành cội

nguồn cho tinh thần yêu nước, cho những phong trào đấu tranh chống giặc

ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc.

Bên cạnh cái chết, cha ông ta còn quan tâm đến vấn đề con người sau

khi chết đi sẽ như thế nào. Ca dao, tục ngữ đã phản ánh rõ nét hai quan điểm

trái ngược nhau về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng chết là hết. Đây là

quan điểm tiến bộ, mang tính chất duy vật vì nó khẳng định rằng chỉ có một

thế giới duy nhất đó là thế giới trần tục mà con người đang sống, đang tồn tại

hiện thực, cho nên con người phải sống có ý nghĩa. Họ không thừa nhận sự

tồn tại của thế giới bên kia. Ngược lại, có quan điểm cho rằng, con người

sống chỉ là tạm bợ: “Sống gửi, thác về”. Họ tin tưởng vào sự tồn tại của thế

giới bên kia, cho nên con người khi chết, thể xác mất đi nhưng linh hồn thì

tồn tại vĩnh viễn. Trong tiềm thức của người còn sống vẫn in đậm bóng hình

của người đã khuất, vì thế, giữa người sống với người khuất như có một sợi

dây vô hình gắn chặt họ với nhau. Cha ông ta quan niệm chết không phải là

hết, họ tin rằng có thế giới bên kia, và sau khi chết, con người sẽ được đầu

thai và tiếp tục một cuộc sống mới, đó mới là thế giới vĩnh hằng của con

người. Điều này lý giải vì sao mà người dân Việt sống nặng về tâm linh, thờ

cúng tổ tiên, ông bà và những người thân đã mất. Quan niệm này, xét về mặt

đạo đức nó mang một ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục con cháu, thể hiện

vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi chúng ta đối với gia đình, dòng họ.

39

Chính điều đó đã làm nên nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt

Nam, đó chính là đạo lý “uống nước nhớ nguồn” mang đậm tính nhân văn sâu

sắc của dân tộc ta.

Tóm lại, quan niệm về đời người và ý nghĩa của cuộc đời con người

trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là hiện hữu, nó có giá trị nhân văn cao thể

hiện ở niềm tin và tình tình thương yêu mãnh liệt của con người. Tư tưởng

triết lý ấy đã chi phối sự ứng xử của con người Việt Nam trong mọi mối quan

hệ, mọi lĩnh vực của đời sống, giúp con người hiểu được rằng, trong mọi thời

đại, con người là vốn quý nhất mà tạo hóa đã ban tặng và là nguồn gốc tạo ra

mọi của cải cho xã hội, cho nên phải yêu quý và trân trọng chính bản thân con

người. Điều đó đã làm nên sức mạnh giúp dân tộc ra vượt lên mọi khó khăn,

thử thách trong trường kỳ lịch sử để tồn tại và phát triển.

2.2. Quan niệm về cách ứng xử của con ngƣời với tự nhiên

2.2.1. Con người sống không thể tách rời với tự nhiên

Cha ông ta từ rất lâu đã nhận thức một cách tự giác rằng tự nhiên đã

cung cấp cho con người những thứ cần thiết cho cuộc sống, con người cần

phải sống gắn bó với tự nhiên, dựa vào tự nhiên. Điều này được minh chứng

trong kho tàng ca dao, tục ngữ khi mà cha ông ta dành một khối lượng lớn các

câu ca dao, tục ngữ, đặc biệt là tục ngữ để đề cập đến giới tự nhiên. Điều đó

cho thấy người Việt Nam luôn xem tự nhiên và mối quan hệ với tự nhiên là

một trong những mối quan tâm hàng đầu của mình.

Trong xã hội xưa, con người chủ yếu sinh sống bằng sản xuất nông

nghiệp, kết hợp với nghề chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và săn bắn, hái

lượm, do vậy mà nền nông nghiệp trở nên phổ biến và phát triển. Đây chính là

lý do giải thích tại sao trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam lại đề cập

nhiều đến lao động sản xuất, trong đó phần lớn là những câu ca dao, tục ngữ

nói về các hiện tượng tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

40

Trong quá trình lao động, bằng việc tác động vào giới tự nhiên, con

người đã hiểu rõ vai trò quan trọng mang tính chất quyết định của giới tự

nhiên đối với sự sống còn của họ. Mặc dù con người chưa hiểu được họ là

một bộ phận, một sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, gắn liền với tự nhiên nhưng

họ ý thức được rằng giới tự nhiên cung cấp cho họ những gì cần thiết cho

cuộc sống như nước, không khí, đất, mà nếu thiếu chúng thì con người không

thể tồn tại được.

Người lao động luôn mong muốn mưa thuận, gió hòa để có một vụ mùa

bội thu. Để đạt được mong muốn đó, họ cần phải có sự ủng hộ của tự nhiên.

Chính vì vậy con người dần ý thức được rằng để nâng cao hiệu quả lao động

thì cần phải hiểu tự nhiên. Trải qua những năm tháng lao động vất vả, các

hiện tượng tự nhiên cứ lặp đi lặp lại và nhờ vậy, con người dần dần tích lũy

được những kiến thức về các hiện tượng của tự nhiên, đúc kết được thành

kinh nghiệm phục vụ cho sản xuất.

Là một khu vực nhiệt đới lắm mưa nhiều nắng, Việt Nam có được

những đặc ân từ thiên nhiên nhưng đồng thời phải hứng chịu nhiều thiên tai,

bão lũ. Hơn thế nữa, xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước nên thời tiết, đặc

biệt là những cơn mưa giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người

dân Việt. Mưa không chỉ mang tính chất quyết định con đường làm ăn mà còn

thật sự là khởi nguồn cho mọi của cải và ấm no của người nông dân: “Lạy

trời mưa xuống/ Lấy nước tôi uống/ Lấy ruộng tôi cày/ Lấy bát cơm đầy/ Lấy

khúc cá to” [38, tr. 90].

Do vậy, trong tục ngữ hay ca dao, mưa trở thành đối tượng được quan

sát một cách kỹ càng từ dấu hiệu dự báo thời điểm cơn mưa sắp xuất hiện cho

đến “dung mạo” của từng cơn mưa: “Tháng ba mưa đám, tháng tám mưa

cơn” [38, tr. 223].

41

Bắt đầu từ việc phân loại các cơn mưa bằng những liên tưởng mộc mạc

đầy hình tượng, người nghệ sĩ dân gian đã nỗ lực nắm lấy cái hữu hình của

thực thể này trong bàn tay, bởi lẽ cha ông ta đã quan sát thiên nhiên để nắm

lấy quy luật: “Sao mau thì mưa, sao thưa thì nắng” [38, tr. 222].

Đây là một câu tục ngữ hết sức đặc sắc bao gồm có 2 vế, mỗi vế gồm 4

chữ đối nhau: chữ nắng vần với chữ vắng, cách gieo vần của cha ông ta khiến

cho câu nói trở nên dễ nhớ và dễ cảm. “Mau” có nghĩa là nhiều, là dày, “sao

mau” là nhiều sao, dày sao và sao xuất hiện sớm, mọc sớm. Về mùa hè, trời

vừa chập tối nhiều sao sáng xuất hiện trên bầu trời xanh trong là tín hiệu cho

nhân dân ta biết được ngày mai và những ngày sắp tới trời sẽ nắng, từ đó nhân

dân chủ động sắp xếp công việc làm ăn, cày bừa, cấy hái… “sao thưa” là vắng

sao, ít sao trên bầu trời, đó là hiện tượng cho biết trời sắp mưa. Như vậy, câu

tục ngữ này là một kinh nghiệm rất hay và bổ ích về dự báo thời tiết mùa hè,

giúp cho người nông dân có thể sắp xếp được công việc của mình sao cho phù

hợp tránh những rủi ro, thiệt hại có thể xảy đến.

Tương tự như thế, đã có rất nhiều câu tục ngữ thể hiện những kinh

nghiệm quý báu mà cha ông ta đã rút ra thông qua một thời gian dài quan sát

các hiện tượng thiên nhiên: “Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa”;

“Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”; “Mống bên đông, vồng bên tây/

Chẳng mưa dây thì bão giật”; “Ráng vàng thì nắng, rang trắng thì mưa” [38,

tr. 222-223].

Nhờ có những hiểu biết trên mà con người có thể tránh được nhiều tác

hại do tự nhiên gây ra đối với đời sống cũng như đối với sản xuất, cũng có thể

lợi dụng chúng để phục vụ cho lợi ích của mình.

Như vậy, ngay từ buổi bình minh, con người đã khẳng định được khả

năng trí tuệ của mình. Những kinh nghiệm ấy xét trên lĩnh vực khoa học thì

nó chỉ là việc dự báo thời tiết một cách đơn thuần nhưng xét trên một góc độ

42

khác thì đó là cả cách nhìn, đánh giá, nhận xét tinh tường của thế hệ trước mà

cho đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Nó thể hiện cách nhìn, cách

cảm, cách nhận biết của người nông dân về những hiện tượng diễn ra

quanh mình.

Người Việt xưa cũng rất tinh tế trong việc chú ý đến những loài động

vật gần gũi với cuộc sống như kiến, cóc, ếch, én, chuồn chuồn... Ông cha ta

hiểu rằng, tạo hóa đã ban cho loài vật một phản xạ dự báo thời tiết, dù chúng

không biết nói nhưng những giác quan của chúng cực kỳ nhạy bén.

Trong các loài côn trùng thì kiến là loài rất dễ thay đổi nếp sống khi độ

ẩm không khí thay đổi, vì thế, khi quan sát sự thay đổi của các đàn kiến, nhân

dân ta đã đúc rút ra những kinh nghiệm dự báo thời tiết: “Kiến đen tha trứng

lên cao/ Thế nào cũng có mưa rào rất to” [38, tr. 226].

Kiến là loài côn trùng sợ nước sống ở dưới đất, trên các cành cây, khe

nứt của tường, nếu độ ẩm không khí thay đổi, ắt trời sắp mưa nên kiến phải di

cư để lánh nạn, đặc biệt là kiến đen, kiến lửa, kiến mối. Vì thế, mỗi khi trời sắp

mưa ta thường thấy kiến đen tha mồi, tha trứng từ thấp lên cao, kiến lửa bò

từng đàn ra khỏi hang, hay khi trời sắp mưa, kiến cánh vỡ tổ bay ra khắp nơi,

đó là hiện tượng mà ai cũng có thể thấy được. Thông qua hiện tượng tự nhiên

này, ông cha ta đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm đầy quý báu.

Bên cạnh đó, việc quan sát những loài động vật có cánh để dự báo về thời

tiết cũng là điều mà cha ông ta thường xuyên làm, nhất là với loài chuồn chuồn.

Thông qua việc quan sát rất nhiều lần, người dân khẳng định rằng: “Chuồn

chuồn bay thấp thì mưa/ Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” [38, tr. 237].

Kinh nghiệm mà cha ông ta rút ra hoàn toàn có cơ sở, bởi lẽ, chuồn

chuồn là loài có cánh rất mỏng, nếu không khí có độ ẩm cao thì không thể bay

được, nếu độ ẩm không khí thấp thì chúng bay lên cao rất dễ dàng. Và đặc

biệt hơn, những khi gió to, khí áp giảm, các loài có cánh khó tồn tại nên

43

chuồn chuồn phải đi di cư để tránh gió, đặc biệt là gió bão: “Tháng tám heo

may, chuồn chuồn bay thì bão” [38, tr. 237].

Trải qua thời gian, cha ông ta đã biết ứng dụng những kinh nghiệm đã

nhận thức được về giới tự nhiên để phục vụ cho công việc sản xuất cũng như

trong chăn nuôi. Thời xưa, từ gieo hạt cho đến lúc gặt hái, người dân lúc nào

cũng lo lắng, vì khi thì bão lụt, khi thì hạn hán, ít khi được “trời êm, bể lặng”.

Bởi vậy họ luôn phải chú ý đến thời tiết nông vụ: “Mồng chín tháng chín có

mưa/ Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn/ Mồng chín tháng chín không mưa/ Thì

con bán cả cày bừa đi buôn”; “Muốn ăn lúa tháng năm/ Trông trăng rằm

tháng tám/ Muốn ăn lúa tháng mười/ Trông trăng mồng mười tháng tư”;

“Trăng mờ tốt lúa nỏ/ Trăng tỏ tốt lúa sâu”; “Đom đóm bay ra, trồng cà, tra

đỗ/ Tua rua bằng mặt, cất bát cơm chăm” [38, tr. 235-237].

Trong thời kỳ mà khoa học chưa phát triển, chưa có những dự báo

chính xác về thời tiết thì người nông dân lúc nào cũng canh cánh nỗi lo về

mùa vụ. Chỉ khi nào trời thật sự yên, biển thật sự lặng, thì người nông dân

mới “yên tấm lòng”: “Người ta đi cấy lấy công/ Tôi nay đi cấy còn trông

nhiều bề/ Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông nắng, trông

ngày, trông đêm/ Trông cho chân cứng đá mềm/ Trời êm, bể lặng mới yên

tấm lòng” [38, tr. 226].

Bài ca dao vừa là một phép so sánh giữa những người đi làm thuê, với

những người cày cấy chính thửa ruộng của mình, đồng thời cũng chính là lời

khẳng định những lo lắng, trăn trở của người nông dân một nắng, hai sương.

Yếu tố thời tiết quá quan trọng và gần như chi phối toàn bộ hoạt động sản

xuất của người dân. Khi chưa cầy cấy xong thì người nông dân còn phải

“trông trời, trông đất, trông mây”, rồi lại “trông mưa, trông nắng, trông ngày,

trông đêm”. Nỗi lo ấy chỉ có thể tạm được gác lại khi mà mùa vụ này trời

44

được lặng, biển được êm. Và có lẽ, khi còn gắn bó với đồng ruộng thì nỗi lo

lắng của người nông dân không bao giờ là hết cả.

Thông qua việc phân tích những kinh nghiệm của cha ông ta đúc rút ra

qua việc quan sát khí tượng, hay những kinh nghiệm ứng dụng trong việc sản

xuất nông nghiệp ta nhận thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết, máu thịt giữa

con người với thiên nhiên. Xét cho cùng thì xã hội loài người là bộ phận phát

triển cao tách ra từ thế giới tự nhiên và là một bộ phận khăng khít với thế giới

tự nhiên. Xã hội loài người phát triển theo những quy luật riêng của mình,

nhưng không hoàn toàn tách ra khỏi thế giới tự nhiên. Bản chất của con người

vừa mang tính xã hội, vừa mang tính tự nhiên. Nói cách khác, bản chất con

người là một thực thể tự nhiên phát triển hình thành trên cơ sở tự nhiên trong

mối quan hệ đặc thù- mối quan hệ xã hội.

2.2.2. Quan niệm về lao động sản xuất cải tạo tự nhiên

Con người sống gắn bó với giới tự nhiên, dựa vào tự nhiên và đối mặt

với tự nhiên nhưng không phải lúc nào giới tự nhiên cũng chiều theo ý muốn

của con người. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thật sự là mối

quan hệ máu thịt, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó, con người luôn

đứng ở vị trí trung tâm, nhận thức về giới tự nhiên, tác động và cải tạo giới tự

nhiên nhưng không đối lập với giới tự nhiên. Tuy nhiên, do nhận thức còn hạn

chế, công cụ lao động còn thô sơ, bản thân con người lại quá nhỏ bé nên trước

vũ trụ bao là và bí hiểm khôn lường, con người không có khả năng chi phối tự

nhiên, luôn lo sợ trước các hiện tượng tự nhiên. Do bất lực trước tự nhiên nên

con người phải cầu viện đến sức mạnh của trời đất, từ đó họ luôn cho rằng có

một thực thể tinh thần sinh ra và chi phối các sự vật, hiện tượng và cả bản thân

họ. Chẳng hạn, trước hiện tượng lũ lụt, họ không thể giải thích tại sao lại có

mưa nhiều đến thế, cuối cùng họ nghĩ rằng do con người đã làm điều gì đó sai

trái với trời đất nên trời đất nổi giận trừng phạt. Rõ ràng, trong cách suy nghĩ

45

của người dân dù đã bộc lộ yếu tố thần linh chủ nghĩa, duy tâm và siêu hình

nhưng những yếu tố tích cực vẫn là chủ đạo. Đó là tinh thần lạc quan, yêu đời,

là ý thức về sự tác động của con người đến tự nhiên. Sự tác động đó mang tính

chủ động, tích cực và sáng tạo. Vì thế, con người luôn thể hiện được vai trò

trung tâm của mình, chủ động đối phó với những tình huống bất lợi và làm chủ

bản thân mình, tác động một cách có ý thức nhằm tìm hiểu tự nhiên để thích

nghi và cải tạo tự nhiên. Người lao động đã biết lợi dụng những điều kiện sẵn

có trong tự nhiên để nâng cao thành quả lao động. Điều này cho thấy tư duy

của con người vượt trước điều kiện kinh tế, xã hội lúc bấy giờ.

Nhờ lao động, con người đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm

quý báu, như Mác đã từng nói: Lao động sáng tạo ra chính bản thân con người.

Qua lao động, con người làm cho giới tự nhiên bộc lộ ra những thuộc tính,

những quy luật vốn có, đó là mối liên hệ phổ biến của sự vận động và phát triển

không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên.

Cuộc đấu tranh với tự nhiên của loài người diễn ra liên tục và nhờ có óc

sáng tạo, nhờ sức lao động, nhờ có công cụ, loài người đã cung cấp cho mình

ngày một đầy đủ tư liệu sinh hoạt vật chất. Ca dao có câu:“Ai ơi chớ bỏ ruộng

hoang/ Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu” [38, tr. 228].

Nơi hoang vu đã được bàn tay lao động biến đổi thành ruộng đất phì

nhiêu, nhưng nếu chỉ bỏ hoang một thời gian, cỏ dại lại có thể mọc, ăn hết

màu đất và đất cũng có thể khô cứng như thời chưa khai phá. Cho nên cần

phải lao động liên tục mới cải tạo được thiên nhiên, sản xuất được những thứ

của cải vật chất cần thiết như thức ăn, quần áo, giầy dép, nhà cửa...

Câu ca dao: “Ai ơi đã quyết thì hành/ Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây”

[38, tr. 125] có nghĩa là muốn quyết định một việc gì thì phải thực hiện ngay,

mà khi đã thực hiện thì thì làm đến đầu đến đũa. Nhưng nghĩa đen của nó

nghĩa là việc đầu tiên của nó là khi con người ta đã dùng công cụ sản xuất để

46

lao động tức là đã hoạt động có ý thức, có mục đích như đánh ngã một cây ở

rừng bằng một công cụ thì phải đem tất cả cành lẫn cây về làm vật dụng và

làm củi, đó là việc chinh phục thiên nhiên của con người. Cũng như người

nông dân, nhờ có kinh nghiệm về các loại gỗ, nên đã biến đổi từng loại gỗ ra

công cụ thích ứng với công việc sản xuất: “Gỗ kiền anh để đóng cày/ Gỗ lim,

gỗ sến anh nay đóng bừa/ Răng bừa tám cái còn thưa/ Lưỡi cày tám tấc đã

vừa luống to/ Muốn cho lúa nảy bông to/ Cày sâu bừa kỹ, phân tro cho

nhiều” [38, tr. 216].

Tóm lại, loài người đã chế tạo được ra công cụ, những công cụ ngày

một tinh xảo, lao động của loài người là một việc làm có mục đích, có ý nghĩa

nên loài người đã chinh phục được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho

mục đích của mình. Sự tác động của loài người mang tính chủ động, sáng tạo

nhưng phù hợp với các quy luật của tự nhiên. Việc nắm vững quy luật của tự

nhiên không những giúp con người có được năng suất cao hơn trong lao động,

sản xuất mà còn tạo cho con người có được sự tự do trước tự nhiên. Con

người đã nắm được bản chất quy luật hiện tượng đó mang tính tự nhiên, theo

quy luật tự nhiên chứ không phải do thần thánh tạo ra. Việc nắm được các

quy luật của tự nhiên để tác động vào tự nhiên một cách có mục đích nhằm

tạo ra ngày càng nhiều của cải phục vụ cho đời sống của con người, cho sự

tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình lao động và sản

xuất ấy, hết thế hệ này đến thế hệ khác, trải qua hàng nghìn năm, tổ tiên

chúng ta đúc rút được nhiều kinh nghiệm rất quý, lại có thêm thói quen trong

việc làm nên dần dần cải tiến được công cụ lao động và cải thiện cuộc sống.

Óc sáng tạo của người lao động ngày một mở mang trong quá trình sản xuất

nên có thể nói quá trình lao động là sáng tạo. Chỉ nhờ sức lao động của mình,

nhờ sự bền bỉ trong đấu tranh của mình mà xã hội ngày một tiến lên.

47

2.2.3. Mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tự nhiên

Trải qua hàng nghìn năm lao động và sản xuất, hết thế hệ này đến thế

hệ khác, con người đã đúc kết được những kinh nghiệm quý báu, nhờ vậy óc

sáng tạo của con người cũng được mở mang hơn. Ca dao, tục ngữ đã phản

ánh được giá trị của lao động và phản ánh được mối quan hệ tác động qua lại

giữa con người với tự nhiên.

Mặc dù cuộc sống còn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên nhưng nổi trội vẫn là

tinh thần con người hướng tới việc từng bước làm chủ tự nhiên. Xuất phát từ

mục đích thiết thực là làm thế nào để cây lúa cho năng suất cao, người nông

dân ý thức được rằng họ không thể trông chờ vào sự may rủi hay nhờ vào

đấng tối cao, thần linh nào cả mà phải do nỗ lực của bản thân. Vì vậy họ đã

dồn hết tâm sức, trí tuệ và sự cần cù để tìm ra những biện pháp tối ưu trong

lao động sản xuất. Chính trong lao động vất vả, người nông dân đã đúc kết

được những kinh nghiệm quý báu về thời tiết, khí hậu, đất đai, nhờ thế họ

hiểu được tự nhiên, tuân theo tự nhiên để có được mùa màng bội thu. Đây là

một vấn đề lớn mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc.

Tính triết lý trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên còn được

thể hiện ở chỗ trong điều kiện kinh tế xã hội của nền nông nghiệp lúa nước,

trải qua nhiều thiên tai và tri thức khoa học chưa được phổ biến nhưng người

nông dân vẫn lạc quan, yêu cuộc sống, tin tưởng và làm chủ bản thân mình:

“Rủ nhau đi cấy đi cày/ Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu/ Trên đồng cạn,

dưới đồng sâu/ Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” [38, tr. 231]

Hay: “Trâu ơi, ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta/

Cấy cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công/ Bao giờ cây

lúa còn bong/ Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn” [38, tr. 231]. Sự lạc

quan, yêu lao động giúp cho con người dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn

hướng đến những điều tốt đẹp.

48

Đồng thời, con người cũng ý thức được khi đã là một phần của giới tự

nhiên thì mọi hoạt động của con người không tách ra khỏi thế giới tự nhiên

mà gắn kết chặt chẽ với giới tự nhiên. Con người sống gắn bó với tự nhiên,

dựa vào tự nhiên và đối mặt với tự nhiên, vì không phải lúc nào tự nhiên cũng

chiều theo ý muốn của con người. Trong mối quan hệ với tự nhiên, con người

luôn đứng ở vị trí trung tâm, nhận thức về giới tự nhiên, tác động và cải tạo

giới tự nhiên nhưng con người không thể đối lập với giới tự nhiên, bởi có lẽ

ông cha ta đã ý thức được rằng “chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới

tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác, như một người

sống bên ngoài giới tự nhiên” [31, tr. 655], nếu đối lập với tự nhiên thì đến

một lúc nào đó, sự tổn thương của tự nhiên tích tụ bởi những tác động theo

chiều hướng xấu hoặc quá giới hạn tự nhiên cho phép sẽ dẫn đến những hậu

quả khôn lường. Như một quy luật vay trả, khi đó con người sẽ phải gánh

chịu sự trả thù của tự nhiên: “không nên quá tự hào về những thắng lợi của

chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là

mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta” [31, tr. 654]. Vì thế, trong quá trình

lao động, người Việt xưa từng bước ý thức về việc cần thiết phải nhận thức

được những quy luật của giới tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình,

đồng thời đề cao quy luật của giới tự nhiên.

Như vậy, thông qua ca dao, tục ngữ, cha ông ta đã gửi gắm những triết

lý trong quan niệm về cách ứng xử của con người đối với tự nhiên. Trước hết

đó là biểu hiện của một trình độ nhận thức nhất định về giới tự nhiên trong

điều kiện khoa học chưa phát triển. Đồng thời, thể hiện được tinh thần yêu lao

động, khả năng khám phá và chinh phục giới tự nhiên của loài người. Thông

qua đó, cha ông ta cũng gửi gắm những lời nhắn nhủ của mình tới thế hệ con

cháu mai sau trong cách ứng xử với tự nhiên đó là phải biết tôn trọng tự

nhiên, từ đó xây dựng được lối ứng xử phù hợp nhất với tự nhiên.

49

2.3. Quan niệm về cách ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời

trong xã hội

Con người sống trong xã hội luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau,

mối quan hệ đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của xã hội như một

tất yếu khách quan. Các mối quan hệ chằng chịt trong xã hội đã quy định bản

chất của con người qua mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, qua đó, bản chất của con

người được bộc lộ sâu sắc hơn. Bởi lẽ bản chất của con người được hình thành

từ quá trình con người tác động qua lại với nhau trong mối quan hệ xã hội. Để

có cái nhìn đầy đủ hơn trong quan niệm về cách ứng xử giữa con người với con

người trong xã hội trong qua ca dao, tục ngữ, tác giả tìm hiểu trong các mối

quan hệ cơ bản: trong tình yêu đôi lứa, mối quan hệ vợ chồng, mối quan hệ

giữa ông bà - cha mẹ - con cái, mối quan hệ anh - em, bạn bè, thầy trò, và rộng

hơn cả là trong mối quan hệ đồng bào - hàng xóm - quốc gia - dân tộc.

2.3.1. Tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, bình dị, thiết tha,

mãnh liệt được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày

Tình yêu là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con người thể hiện triết

lý nhân sinh sâu sắc, cho nên dù ở thời đại nào thì tình yêu cũng luôn là đề tài bất

tận cho những áng văn chương và với ca dao, tục ngữ cũng thế. Ca dao, tục ngữ

xưa nói rất tinh tế, ý nhị, sâu sắc về tình yêu nam nữ của người bình dân.

Tình yêu đôi lứa trong ca dao, tục ngữ xưa thể hiện sự chân thành, trong

sáng của các chàng trai cô gái. Ca dao, tục ngữ là nơi chắt lọc biết bao vẻ đẹp

tâm hồn thanh cao, trong sáng của những tình yêu mộc mạc mà đằm thắm: “Đôi

ta như lửa mới nhen/ Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu” [38, tr. 252]. “Lửa

mới nhen” nhất định sẽ bùng lên ngọn lửa, “trăng mới mọc” sẽ còn lên cao và

sáng tỏ, “đèn mới khêu” thì nguồn sáng mới chỉ là lúc bắt đầu. Hàng loạt những

hình ảnh so sánh gần gũi, mộc mạc mà giản dị được các tác giả dân gian sử dụng

để khẳng định mối quan hệ tình cảm giữa chàng trai và cô gái. Tình cảm ấy mới

50

chỉ là buổi ban đầu nhưng chắc chắn sẽ thiết tha và sâu nặng. Và tình cảm thiết

tha, sâu nặng ấy sẽ được phát triển lên tới mức không thể chia cắt: “Đôi ta như

thể con tằm/ Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong/ Đôi ta như thể con ong/Con

quấn con quýt, con trong con ngoài” [38, tr. 263].

Tình yêu đã khiến cho con người trở nên nhân ái, lương thiện hơn, và đặc

biệt hơn cả khi tình yêu trong sáng, thánh thiện ấy lại được sinh ra trong ngọn

nguồn của không khí lao động sản xuất. Trong khung cảnh lao động, tình yêu

của các chàng trai, cô gái trở nên mộc mạc, gần gũi và đẹp đẽ hơn bao giờ hết:

“Bao giờ cho đến tháng hai/ Con gái làm cỏ con trai be bờ” [39, tr. 103].

Những tình cảm ấy xuất phát từ tình yêu và từ những điều mộc mạc và

bình dị nhất, sự bình dị ấy được thể hiện ngay ở trong cách thổ lộ tình cảm

của chàng trai đối với cô gái như trong bài ca dao: “Hôm qua tát nước đầu

đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được thì cho anh xin/ Hay là

em để làm tin trong nhà/ Áo anh sứt chỉ đường tà/Vợ anh chưa có, mẹ già

chưa khâu/ Áo anh sứt chỉ đã lâu/ Nay mượn cô ấy về khâu cho cùng/ Khâu

rồi anh sẽ trả công/ Đến khi lấy chồng anh lại giúp cho/ Giúp em một thúng

xôi vò/ Một con lợn béo một vò rượu tăm/ Giúp em đôi chiếu em nằm/ Đôi

chăn em đắp đôi chằm em đeo/ Giúp em quan tám tiền cheo/ Quan năm tiền

cưới lại đèo buồng cau” [38, tr. 359].

Nếu bài ca dao là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh thì xúc cảm

thẩm mỹ được bắt đầu từ chính lao động và tình yêu đôi lứa. Nói một cách

khác là tình cảm từ cái nền của tình yêu lao động mà tình yêu lứa đôi ra đời:

“Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen”

Đây là một lời tự sự nghe rất chân tình nhưng cũng chính là cái cớ, một

cái cớ của nghệ thuật để hình thành một tình yêu đôi lứa trong lao động. Đây

chính là đối tượng thẩm mỹ chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo nghệ thuật của

tác giả dân gian.

51

Bắt đầu từ cái cớ ấy, cảm xúc thẩm mỹ, tình yêu từ trái tim cứ tuôn trào

một cách tự nhiên và chân thật: “Em được thì cho anh xin/ Hay là em để làm

tin trong nhà/ Áo anh sứt chỉ đường tà/ Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu”…

Cho đến: “Giúp em quan tám tiền cheo/ Quan năm tiền cưới lại đèo

buồng cau”

Đây chính là lời thổ lộ tình yêu, là ước mơ, là khát vọng về hạnh phúc

về tình yêu đôi lứa của chàng trai chân quê. Dù tình cảm, thái độ của cô gái

trong bài ca dao như thế nào đi nữa thì khát vọng ấy vẫn cứ dâng trào, tràn

ngập khiến cho ta có cảm giác như được chia sẻ niềm hạnh phúc ấy. Và chính

cái khát vọng hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa là ngọn nguồn cảm xúc thẩm

mỹ để tác giả dân gian sáng tác nên tác phẩm này.

Qua bài ca dao, ta khẳng định rằng, tác giả dân gian từ hiện thực đã

phát hiện ra được đối tượng thẩm mỹ: tình yêu đôi lứa trong lao động sản xuất

và khát vọng hạnh phúc trong tình yêu ấy. Đó chính là cái đẹp, là ngọn nguồn

của cảm xúc thẩm mỹ, mà cái đẹp trong lao động, trong tình yêu là cái đẹp chỉ

có ở con người như Mác đã viết: “Bản chất con người là luôn luôn sáng tạo

theo quy luật cái đẹp” [30, tr. 20]. Nên bài ca dao thực sự là tác phẩm nghệ

thuật của những người nông dân Việt Nam.

Có những điều mà chàng trai hứa với cô gái trong bài ca dao này:

“Giúp em một thúng xôi vò/ Một con lợn béo, một vò rượu tăm…” thì rõ ràng

là chàng trai cũng không giàu có gì, có lẽ chàng trai cũng chỉ là người thuộc

tầng lớp sống được, đủ ăn. Bởi lẽ, con người bao giờ cũng sống với ước mơ,

với khát vọng, mỗi một tầng lớp đều có những ước mơ, khát vọng riêng của

mình. Chàng trai này cũng thế, cũng có một ước mơ đơn giản, một khát vọng

bình thường mà cháy bỏng, đó là khát vọng hạnh phúc trong tình yêu lứa đôi.

Có thể nói rằng được sống chưa hẳn đã là hạnh phúc của con người, mà được

sống trong lao động, trong tình yêu mới thật sự là hạnh phúc của kiếp người.

52

Đó có lẽ là một điều tự nhiên, hợp với quy luật sinh tồn và phát triển của con

người. Vì thế, có thể nói rằng triết lý của bài ca dao là ở chỗ nó nói lên khát

vọng chân chính của người nông dân Việt Nam, của con người Việt Nam nói

chung là được sống trong lao động và trong tình yêu đôi lứa, ngọn nguồn của

sự trường tồn và bất tử của con người.

Tính nhân văn trong tình yêu đôi lứa còn được thể hiện ở tình cảm thiết

tha, mãnh liệt của các chàng trai, cô gái. Tình cảm ấy được gửi gắm trong ca

dao: “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi” [38,

tr. 253] là lời của cô gái bày tỏ một ước mơ trong tình yêu lứa đôi. Chỉ có hai

câu lục bát mà đủ diễn tả cả một tình yêu thiết tha mãnh liệt. Câu ca dao mở

đầu bằng hình ảnh con sông, con sông cách trở lứa đôi nên em và chàng khó

gặp gỡ. Nhưng có hề gì khi mà “yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng

lội, mấy đèo cũng qua”. Tuy nhiên, “lội” cũng là một sự khó khăn, nếu “bắc

cầu” thì đôi lứa sẽ dễ dàng hơn. Cho nên cô gái “ước gì sông rộng một gang”.

Cách nói cường điệu tạo nên một sự vô lý thú vị. Sự vô lý trong trong điều

mơ ước diễn tả điều có lý của tình yêu. Cây cầu- dải yếm là hình tượng đặc

sắc của bài ca. Cây cầu là một trong những mô típ nghệ thuật quen thuộc và

đặc sắc của ca dao, gắn chặt với đời sống tình cảm phong phú mãnh liệt

nhưng cũng hết sức tế nhị, duyên dáng của người bình dân Việt Nam. Mô tip

này xuất phát từ cuộc sống dân dã của người bình dân. Làng quê Việt Nam

nơi nào mà chẳng có sông, rạch, vì thế nên có cầu. Cầu là phương tiện giao

thông, cầu cũng là không gian trữ tình, là nơi gặp gỡ, hẹn hò của trai gái, cầu

đi vào ca dao, trở thành biểu tượng của tình yêu, ước mơ của tình yêu.

Sự mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa còn được thể hiện ngay trong những

lời tỏ tình của các chàng trai: “Đố ai quét sạch lá rừng/ Để anh khuyên gió,

gió đừng rung cây/ Rung cây, rung cỗi, rung cành/ Rung sao cho chuyển lòng

anh với nàng [38, tr. 258].

53

Những sắc thái tình yêu trong ca dao, tục ngữ muôn phần phong phú và

ấn tượng, thông qua những cung bậc cảm xúc ấy, cha ông ta đã gửi gắm một

triết lý nhân sinh sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với con người, một

mối quan hệ vô cùng đặc biệt làm nên những điều kỳ diệu của cuộc sống.

2.3.2. Mối quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn, sẻ chia

Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ được đề cập đến nhiều trong ca dao

tục ngữ. Bắt đầu từ mối quan hệ này mà nảy sinh và hình thành nhiều mối

quan hệ khác trong gia đình và ngoài xã hội.

Xét trong mối quan hệ gia đình, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ gắn

bó, gần gũi cả về thể xác lẫn tâm hồn: “Vợ chồng đầu gối tay ấp” [38, tr. 341].

Đó là kết quả của tình yêu son sắt thủy chung, lúc nào cũng gắn bó keo

sơn, không thể chia tách. Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ được thắt chặt bởi

hôn nhân, duyên phận. Trong xã hội phong kiến mối quan hệ này thường do

cha mẹ quyết định theo kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và vì thế “may

gặp duyên, chẳng may gặp nợ”. Cái “duyên” và cái “nợ” do tùy từng người

cảm nhận khi chung sống.

Tình cảm vợ chồng, lòng thủy chung son sắt là một đề tài lớn trong ca

dao, tục ngữ. Lòng thủy chung son sắt ấy không chỉ được thể hiện trong lúc

an nhàn, hạnh phúc mà còn trong những lúc cơ cực, bần hàn: “Rủ nhau lên

núi đốt than/ Chồng mang đòn gánh vợ mang quanh giành/ Củi than nhem

nhuốc với tình/ Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên” [38, tr. 257].

Hạnh phúc lớn của một gia đình là vợ chồng hiểu nhau, thương nhau và

sống cho nhau. Ở đây, hạnh phúc đơn sơ trong công việc lem luốc mà đáng

quý biết bao: “Củi than nhem nhuốc với tình”. Sự đồng tâm, nhất trí của cả

hai vợ chồng dồn vào công việc, càng vất vả gian lao bao nhiêu thì sự gắn bó

càng lớn lao bấy nhiêu. Bởi lẽ, trong tâm thức của người vợ, chồng mình luôn

54

là tất cả: “Chồng em áo rách em thương/ Chồng người áo gấm sông hương

mặc người” [39, tr. 87].

Càng vất vả bao nhiêu thì tình thương của vợ chồng lại càng lớn lên

bấy nhiêu, cũng như than kia có nhem nhuốc thì tình vợ chồng vẫn son sắt trước

sau: “Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên”.

Cuộc sống có khó khăn gian khổ biết bao nhiêu, dù có phải lên rừng,

hay xuống biển thì tình nghĩa vợ chồng cũng không thay đổi: “Rủ nhau xuống

biển mò cua/ Đem về nấu quả mơ chua trên rừng/ Em ơi chua ngọt đã từng/

Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau” [38, tr. 257].

Lòng chung thủy là biểu hiện cao đẹp nhất trong đạo lý làm người. Tác

giả dân gian đã dùng hình ảnh ẩn dụ để nói về cuộc sống của vợ chồng gắn bó

với nhau trong gian khổ, sung sướng. Rừng với bể là nơi thường xảy ra bão

táp, sóng gió, luôn thường trực mối nguy hiểm rình rập, đó cũng là hình ảnh

ẩn dụ nói lên những khó khăn, vất vả trong cuộc sống mà vợ chồng phải trải

qua. Thế nhưng, trong hoàn cảnh phong ba, bão táp như vậy, họ vẫn cùng

nhau chia sẻ đã giúp ta hình dung đây là một cuộc sống đầy hạnh phúc. Và

một khi đã trải qua muôn vàn những đắng cay thử thách rồi thì chắc chắn

“non xanh nước bạc” vợ chồng cũng không bao giờ phụ nhau.

Câu ca dao giúp ta hiểu rằng dù cuộc sống có nhiều thay đổi nhưng

cuối cùng con người vẫn hướng về sự thủy chung, son sắt, gắn bó. Ta cảm

nhận ở đây được sự mộc mạc, chân chất trong tâm hồn dân tộc. Cuộc sống với

bao đắng cay, nhọc nhằn nhưng tâm hồn người dân quê vẫn lấp lánh một tình

yêu cuộc sống. Và có lẽ lớn lao hơn hết là thông qua những lời ca dao ấy là

lời nhắn nhủ của cha ông về đạo lý, nghĩa tình cho thế hệ con cháu mai sau.

Bên cạnh đó, trong mối quan hệ vợ chồng người Việt luôn luôn có sự

sẻ chia với nhau giữa vợ và chồng. Nếu người chồng được coi là trụ cột của

55

gia đình, thì người vợ là người nắm giữ kinh tế, quản lý chi tiêu và chăm chút,

cất giữ cho gia đình: “Chồng như đó, vợ như hom” [38, tr. 391].

Người vợ một lúc thực hiện nhiều vai trò trong gia đình, vừa là con

dâu, vừa là vợ,vừa là mẹ. Họ luôn giữ vai trò trung tâm, là người giữ lửa hạnh

phúc gia đình. Với chồng, vợ là người chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ

xây dựng gia đình hạnh phúc, vượt mọi khó khăn trong cuộc sống. Sự thuận

hòa giữa vợ và chồng là điều kiện để xây dựng một gia đình yên ấm: “Thuận

vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” [39, tr. 213].

Vợ chồng không chỉ cùng nhau xây dựng kinh tế gia đình mà phải giúp

đỡ nhau trong việc nuôi dạy con cái nên người. Vai trò của người mẹ trong

gia đình là vô cùng quan trọng, bởi mẹ là người có ảnh hưởng trực tiếp và sâu

sắc nhất tới nhân cách của con cái, chẳng thế mà tục ngữ có câu: “Con hư tại

mẹ, cháu hư tại bà” [38, tr. 420].

Câu tục ngữ ngụ ý rằng cha mẹ có thương con thì nên “Dạy con từ thuở

còn thơ” [15, tr. 216] để tạo nề nếp, định hướng cho con ngay từ khi còn nhỏ,

không nên nuông chiều con quá mức sẽ dễ làm con hư thậm chí lớn lên sẽ sai

đường lạc lối.

Trong cuộc sống, vợ chồng phải biết yêu thương, nhường nhịn, sẻ chia

với nhau, bởi: “Vợ chồng là nghĩa già đời/ Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt

hơn” [39, tr. 214].

Hay: “Vợ chồng là nghĩa phu thê/ Tay ấp, má kề sinh tử có nhau”

[38, tr. 341]. Chính vì sinh tử có nhau nên trong cuộc sống, đôi lúc giữa vợ

chồng không tránh khỏi những mâu thuẫn xung đột, hoặc bất đồng ý kiến với

nhau về một vấn đề nào đó thì phải nghe theo lời khuyên của ông bà: “Chồng

tới vợ lui, chồng hòa vợ thuận” [39, tr. 391].

56

Vợ chồng có nhau là để trông cậy, nương tựa vào nhau, là mối quan hệ

hai chiều và đặt trong cùng mối quan hệ với người thân trong gia đình: “Trẻ

cậy cha, già cậy con” [38, tr. 419].

Sự cậy nhờ ở đây không đồng nhất với viêc phụ thuộc, dựa dẫm hoàn

toàn mà là sự trông nom, chăm sóc, đỡ đần lúc ốm đau. Đó là mối quan hệ

gắn bó yêu thương không tách rời. Hai người cùng phải có trách nhiệm với

nhau và với những thành viên khác trong gia đình, không chấp nhận thái độ

thờ ơ, vô trách nhiệm hoặc không thủy chung. Không người chồng hoặc

người vợ nào chấp nhận vợ hoặc chồng mình có những mối quan hệ bên

ngoài với người phụ nữ hoặc đàn ông khác.

Ca dao, tục ngữ phản ánh mối quan hệ vợ chồng trong gia đình Việt, đề

cao tình yêu thương, lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ, tấm lòng yêu

thương bao la của chồng dành cho vợ, đồng thời thể hiện sự sẻ chia, chung

lưng đấu cật của vợ chồng trong quá trình vun đắp hạnh phúc gia đình.

Những câu ca dao, tục ngữ ấy cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

2.3.3. Mối quan hệ trong gia đình trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu

Mối quan hệ trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu trong ca dao, tục ngữ

được biểu hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa ông bà - cha mẹ - con cái.

Sự nghiệp gia đình do ông bà, cha mẹ xây dựng và tạo lập, thế hệ sau là

con cháu tiếp nối lưu truyền và phát triển. Trong gia đình, đó là mối quan hệ

ruột thịt thiêng liêng cao cả. Tục ngữ đã nói mối quan hệ ấy như là một đối

tượng phản ánh không thể tách rời: “Con người có tổ có tông/ Như cây có cội

như sông có nguồn” [38, tr. 422].

Ông bà, cha mẹ luôn là những tấm gương sáng cho con cái học tập, noi

theo. Sự sinh thành, phát triển nhân cách cũng như sự trưởng thành của con

cái đều bị chi phối bởi nền giáo dục từ gia đình mà trước hết là từ phía cha

mẹ. Đó là tấm gương phản chiếu giúp con cái học tập: “Cha nào, con nấy”;

57

“Mẹ nào, con nấy”; “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”;

“Giỏ nhà ai, quai nhà nấy” [38, tr. 417].

Ông bà chính là những cây cao, bóng cả, luôn răn dạy con cháu những

điều hay, lẽ phải. Bởi vậy, ca dao, tục ngữ khuyên con cháu luôn luôn phải

kính trọng và nhớ về ông bà, tổ tiên: “Ngó lên nuộc lạt mái nhà/ Bao nhiêu

nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” [39, tr. 89].

Nuộc lạt - một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng

quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách tự nhiên, giản dị và gần

gũi. Hình ảnh so sánh bao nhiêu, bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương,

sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con đối với ông bà cùng với âm điệu lời

ca dao da diết thể hiện sự kính trọng, biết ơn. Nỗi nhớ ấy được hình ảnh hóa,

lớp lớp tầng tầng in sâu trong lòng con cháu. Và ta chợt nhận ra rằng: “Cây

khô đâu dễ mọc chồi/ Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta/ Non cao bao tuổi mà già/

Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu” [38, tr. 429].

Tim ta chợt nhói đau khi nhìn mái tóc hoa râm của ông bà, cha mẹ. Ta

ước ao, níu kéo mong thời gian quay trở lại nhưng tiếc thay đó đã là quy luật

của đất trời. Có lúc nào đó ta ngồi nghĩ về cha mẹ, ông bà và về chính bản

thân mình như lời ca dao xưa đã nhắc nhở: “Ngày nào em bé cỏn con/ Bây

giờ em đã lớn khôn thế này/ Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy/ Nghĩ sao cho bõ

những ngày ước ao” [38, tr. 428].

Ý nghĩa nhân văn thứ hai mà cha ông ta muốn gửi gắm chính là mối

quan hệ cha con chí hiếu để nói lên vai trò của cha mẹ đối với con cái, đồng

thời khuyên con cái phải làm trọn đạo hiếu để báo đáp công ơn sinh thành

dưỡng dục của cha mẹ.

Ca dao, tục ngữ đã đặt ra vai trò của người làm cha làm mẹ, và vai trò

ấy đã được ghi nhận một cách rõ ràng. Đó là vai trò trụ cột gia đình của người

cha, vai trò không thể thiếu được ở trong bất cứ một gia đình nào. Người cha

58

cho con lòng can đảm, dũng cảm vượt qua mọi chông gai, thử thách của cuộc

sống, cho con khí chất mạnh mẽ, dám làm dám chịu và để con đủ lông đủ

cánh khẳng định bản thân mình trong cuộc sống. Bao giờ cha cũng là người

nghiêm khắc dạy dỗ, uốn nắn con cái. Vì thế: “Con không cha như nhà không

nóc”; “ Con không cha con trễ, cây không rễ cây hư” [38, tr. 423].

Người cha luôn là biểu tượng cho uy quyền, mạnh mẽ. Tình cha con

trong gia đình luôn được đề cập ở những khía cạnh to lớn “Mẹ đánh một trăm

không bằng cha ngăm một tiếng” [38, tr. 421].

Bên cạnh vai trò to lớn của người cha trong gia đình thì không thể không

nhắc đến vai trò của người mẹ trong việc nuôi dạy con cái. Nếu như nói về tình

cha con tục ngữ khẳng định “phụ tử tình thâm” thì nói đến tình mẫu tử, tục ngữ

cũng một lần nữa đề cao vai trò của người mẹ mà trước hết đó là sự hy sinh lớn

lao, âm thầm mà lặng lẽ: “Mẹ nuôi con biển hồ lai láng” [38, tr. 424].

Sự khó khăn vất vả để nuôi con đã khiến cho người mẹ trở nên hao

mòn già nua: “Con biết nói mẹ hói đầu”; “Con biết ngồi mẹ rời tay” [38, tr. 419].

Tất cả những hy sinh ấy cha mẹ dành cho con, âm thầm lặng lẽ mà

chẳng hề kể công. Công ơn trời bể ấy của cha mẹ chẳng thể nào kể siết. Công

ơn ấy chỉ có thể sánh với trời với bể: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ

như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu

mới là đạo con” [38, tr. 428].

Bài ca dao được cha ông ta đúc kết từ hàng nghìn năm nay nhưng đến

tận bây giờ nó vẫn là bài ca hay nhất về công lao của cha mẹ dành cho con

cái. Cha sinh, mẹ dưỡng nuôi nấng con nên người. Cha mẹ đã phải trải qua

biết bao nhiêu khó khăn, vất vả để mang đến cho con tiếng cười, niềm hạnh

phúc. Dân gian xưa đã lấy hình ảnh ngọn núi Thái Sơn để ví công lao của

người cha. Đây là hình ảnh so sánh vừa chân thực, vừa cụ thể. Núi Thái Sơn

là một trong những ngọn núi cao và hùng vĩ nhất Trung Quốc. Công lao nuôi

59

dưỡng của cha cũng vậy, không thể nào cân đo đong đếm được. Và hơn thế:

“Con có cha như nhà có nóc” [38, tr. 423].

Nóc đối với ngôi nhà là vô cùng quan trọng, che mưa, gió, bão giúp cho

ngôi nhà được chắc chắn. Ngôi nhà không có nóc cũng giống như những đứa

trẻ bất hạnh mồ côi cha, không có một chỗ dựa tinh thần vững chắc. Có thể

nói, vai trò của người cha trong xã hội trọng nam khinh nữ xưa hay trong

cuộc sống hiện đại ngày nay là vô cùng quan trọng.

Công lao sinh dưỡng của mẹ cũng vô cùng to lớn: “Nghĩa mẹ như nước

trong nguồn chảy ra”.

Cách so sánh này quả thực rất hay. Bởi lẽ nước trong nguồn không bao

giờ chảy hết cũng như tình cảm mẹ dành cho con không bao giờ vơi cạn. Mẹ

mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày rồi cho con bú mớm, nuôi dưỡng

con nên người. Nước trong nguồn chảy ra cũng ngọt ngào, dịu mát như dòng

sữa mẹ vậy. Dòng sữa trắng trong chứa đựng biết bao tình cảm, sự hy sinh mẹ

dành cho con. Công cha, nghĩa mẹ đối với con cái thật to lớn. Chúng ta sinh

ra được sống trong vòng tay âu yếm, đầy tình thương, đầy những lo toan, vất

vả mà cha mẹ đã phải chịu đựng: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ/ Đêm năm

canh chầy thức đủ năm canh” [39, tr. 74].

Vậy chúng ta với trách nhiệm là những người con phải làm tròn chữ

hiếu để đền đáp công lao của cha mẹ: “Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn

chữ hiếu mới là đạo con”.

Trong xã hội xưa có biết bao câu chuyện cảm động về lòng hiếu thảo:

chuyện về một người con lấy thịt mình làm thuốc cho mẹ, chuyện về Lão Lai

Tử người nước Sở lúc bảy mươi tuổi còn mặc áo ngũ sắc nhảy múa để mua

vui cho cha mẹ. Chữ hiếu được thể hiện ngay trong hành động, ngay trong

tình cảm mà chúng ta dành cho cha mẹ. Bổn phận của người làm con trước

hết là tu dưỡng học hành, đỗ đạt thành tài để làm cha mẹ vui lòng. Sau đó tận

60

tình chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi đau ốm, lúc tuổi già. Đạo làm con

không phải một sớm một chiểu mà phải làm trọn vẹn chữ hiếu, dành trọn cả

tấm lòng để đền đáp công lao sinh thành của cha mẹ. Câu ca dao ấy cho đến

nay vẫn còn nguyên giá trị. Nó không chỉ ngợi ca tình cảm cha mẹ bao la,

rộng lớn mà còn muốn nhắn nhủ người làm con phải giữ trọn bổn phận, giữ

trọn chữ hiếu.

Công cha, nghĩa mẹ là đề tài bất tận mà ca dao, tục ngữ không chỉ nhắc

đến một lần, mà còn rất nhiều câu ca dao có ý nghĩa tương tự khi nói về công

lao trời biển của cha mẹ. Như bài ca dao: “Công cha như núi ngất trời/ Nghĩa

mẹ như nước ngời ngời biển Đông/ Núi cao biển rộng mênh mông/ Cù lao

chín chữ ghi lòng con ơi” [15, tr. 223].

Công cha nghĩa mẹ trời biển là vậy, bởi thế chúng ta hãy sống sao cho

xứng đáng với công lao cha mẹ, sống cho trọn hiếu, trọn đạo. Hiếu ở đây là

hiếu nghĩa, hiếu thuận, hiếu với cha mẹ, tổ tiên, cội nguồn, thuận hòa trong

gia đình, dòng họ, kính trên, nhường dưới. Thuận ở đây không những là đạo

làm con mà còn phải là đạo làm người, là đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn”;

“Ăn quả nhớ người trồng cây” [38, tr. 110].

Lối sống và cách ứng xử của người Việt biểu hiện nét văn hóa dân tộc

sâu sắc đậm đà của dân tộc. Người Việt Nam nặng chữ hiếu và bao giờ cũng

nghiêng về chữ mẹ. Vai trò trách nhiệm của cha mẹ là chăm lo, vun đắp cho

con cái và hướng tới sự bình yên của gia đình, và vì thế ông bà, cha mẹ luôn

luôn phải tu nhân tích đức để phúc cho con cháu mai sau.

Nguyện vọng của những bậc làm cha làm mẹ là mong cho con cái của

mình được trưởng thành khôn lớn. Cha mẹ vui vẻ, sung sướng hay lo âu,

nghèo khổ đều là ở cuộc sống của con cái sau này: “Con cái khôn ngoan vẻ

vang cha mẹ”; “Con hơn cha là nhà có phúc” [38, tr. 418].

61

Cái phúc của một gia đình đó là khi con cháu được thành đạt hơn ông

cha của mình. Ngược lại “con dại cái mang” [38, tr. 417].

Dân tộc ta luôn coi trọng con người, coi trọng đạo hiếu, vì vậy, những

bài học về tình cảm giữa ông bà, cha mẹ và con cái được phản ánh sâu sắc và

truyền từ đời này sang đời khác. Nó được phản ánh theo nhiều mặt, nhiều

khía cạnh nói lêm sự sâu sắc trong lối sống, lối nghĩ của người dân Việt Nam.

2.3.4. Mối quan hệ anh em thuận hòa

Mối quan hệ anh em thuận hòa được biểu hiện cụ thể ở mối quan hệ

giữa anh chị em ruột với nhau trong một gia đình, đó là mối quan hệ không

thể tách rời: “Anh em như thể tay chân” [39, tr. 221].

Bởi lẽ họ cùng chung với nhau một núm ruột, cùng từ bụng mẹ mà ra,

cùng từ cha, từ mẹ mà có được hình hài, thể xác. Vì thế, anh chị em trong gia

đình phải đoàn kết yêu thương nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình trong ấm

ngoài êm.

Tình cảm yêu thương gắn bó của anh chị em ruột được thể hiện dù ở

bất kỳ nơi nào và hoàn cảnh nào. Đó là những biểu hiện, ứng xử đẹp của

những người cùng chung dòng máu: “Chị ngã em nâng”; “Anh em hạt máu

sẻ đôi” [39, tr. 221].

Anh em thuận hòa tạo nên một gia đình ấm êm, hạnh phúc: “Anh em

thuận hòa là nhà có phúc”; “Chị em trên kính dưới nhường/ Là nhà có phúc

mọi đường yên vui” [39, tr. 221].

Tuy nhiên, sự va chạm, xô xát giữa anh chị em trong gia đình là những

điều không thể tránh khỏi nên tục ngữ cũng răn dạy: “Anh em trong nhà đóng

cửa bảo nhau” [39, tr. 221].

Cũng vì một lẽ: “Cắt dây bầu bí, ai nỡ cắt dây chị em” [38, tr. 432].

62

Anh chị em trong gia đình dù có thế nào cũng là tình cảm ruột thịt,

đáng quý cần phải trân trọng và giữ gìn: “Em khôn cũng là em chị, chị dại

cũng là chị em” [39, tr. 221].

Và phải biết giúp đỡ, hy sinh cho nhau chứ không được đá đáp lẫn

nhau: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá

nhau” [38, tr. 432].

Người Việt luôn hướng đến sự thuận hòa, bình an và hạnh phúc, họ

luôn mong ước đến sự tốt lành, và điều ấy được phản ánh đầy đủ trong ca

dao, tục ngữ.

2.3.5. Mối quan hệ tôn sư trọng đạo, bạn bè tình nghĩa

Mối quan hệ thầy trò được ca dao, tục ngữ khắc họa đậm nét. Người

thầy trong xã hội xưa có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với nhân dân. Dù

chỉ là một ông giáo làng bình thường, không giàu sang, không quyền cao chức

trọng nhưng người ta vẫn rất mực tôn trọng, kính nể: “Muốn sang thì bắc cầu

Kiều/ Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy” [39, tr. 220].

Không giàu về vật chất, không sang về địa vị nhưng người thầy có cả

một “gia tài” không phải ai cũng có được. Đó là tri thức, là hiểu biết, là kỉ

cương mẫu mực, làm chủ được những thứ ấy mới được làm thầy.

Bởi thế, người ta tôn trọng, nể phục thầy cũng là điều dễ hiểu. Và đặc

biệt, người thầy được tôn trọng, kính nể không chỉ vì thầy có tri thức, kỉ

cương mẫu mực mà quan trọng hơn là người thầy đã dùng tri thức và kỉ

cương của mình để dạy dỗ, dìu dắt, uốn nắn bao thế hệ học trò nên người. Tục

ngữ đã khẳng định: “Không thầy đố mày làm nên” [39, tr. 220].

Đối với mỗi người học trò, cho dù có thông minh, tài giỏi đến đâu cũng

không thể tự mình tiếp cận với vốn tri thức của nhân loại mà không cần đến

sự dìu dắt, định hướng của người thầy.

63

Chúng ta đều biết rằng, mỗi con người không phải tự nhiên được sinh ra,

tự nhiên lớn lên và trưởng thành mà luôn được sự chăm sóc, chở che, dạy dỗ

của nhiều người. Lúc còn nhỏ, ta chịu công ơn sinh thành, dưỡng dục cao như

núi Thái Sơn của cha, mênh mông như nước trong nguồn của mẹ. Còn khi lớn

lên, khi chúng ta đi học thì người gần gũi, uốn nắn cho ta không ai khác chính

là người thầy: “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học” [39, tr. 221].

Như vậy là người xưa đã đặt người thầy ngang hàng với đấng sinh

thành ra mình. Bởi cơm, áo và chữ đều rất quan trọng. Cha mẹ cho con cơm

no để ăn, áo ấm để mặc thì người thầy cho con tri thức để hiểu biết, để làm chủ

cuộc đời.

Người thầy không chỉ dạy trò biết chữ mà còn dạy trò biết bao điều hay

lẽ phải, đạo lý đúng ở đời. Người học trò không chỉ được học chữ, học điều

hay lẽ phải mà còn nhận được ở thầy sự quan tâm, ân cần. Vì vậy, trong lòng

mỗi người học trò luôn ghi nhớ công ơn dạy dỗ của thầy:“Nhất tự vi sư, bán

tự vi sư” [39, tr. 225].

Thế mới biết nhân dân ta đã coi trọng người thầy và nghề dạy học đến

mức nào. Người thầy có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đời mỗi người

và vì thế, quan hệ thầy trò trở nên vừa gần gũi, vừa thiêng liêng như tình cha

con. Mỗi người ngoài việc phải sống có hiếu với cha thì còn phải sống có

nghĩa với thầy. Mỗi năm khi Tết đến, xuân về, vào dịp hội lễ, học trò đến

thăm hỏi thầy giáo đã trở thành nét đẹp trong văn hóa ứng xử truyền thống

của người Việt: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy”

[39, tr. 217].

Để được trò kính như cha, bản thân người thầy không chỉ có chữ mà

còn phải là người có tình thương, trách nhiệm: “Mẹ muốn con hay, thầy muốn

trò giỏi” [39, tr. 225].

64

Người thầy còn mang cả những trăn trở, lo lắng của xã hội vào trong

cuộc sống của mình: “Còn trời còn nước còn non/ Còn người thất học ta còn

phải lo” [39, tr. 225].

Hình ảnh người thầy cũng như tình cảm yêu kính của nhân dân đối với

người thầy được thể hiện qua ca dao, tục ngữ chiếm một bộ phận không nhỏ

trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam. Điều đó cho thấy người thầy có một

ảnh hưởng khá lớn trong đời sống của mỗi người nói riêng và với xã hội nói

chung. Tình cảm thầy trò đã trở thành thứ tình cảm gắn bó, gần gũi một cách

tự nhiên mà vô cùng thiêng liêng, cao cả, làm nên truyền thống tốt đẹp của

dân tộc, truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Truyền thống ấy như mạch nước

ngầm, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời gian từ xưa, đến nay và mãi mãi về sau.

Bên cạnh mối quan hệ thầy trò được ca dao, tục ngữ thể hiện rất sâu

sắc, thì mối quan hệ bạn bè cũng là một nội dung không thể không nhắc đến,

bởi lẽ, không ai sống mà không có bạn bè, không có người hướng đường chỉ

lối. Tình bạn là mối quan hệ giữa những con người hiểu nhau, tin tưởng nhau,

biết lắng nghe và biết chia sẻ cùng nhau. Bởi vậy, sau tình cảm vợ chồng, tình

yêu đôi lứa thì tình cảm bạn bè được coi là thứ tình cảm gần gũi, giản dị mà

nhất mực quan trọng trong đời sống tâm hồn con người. Vì vậy ở bất cứ nơi

đâu, bất cứ thời đại nào, tình bạn đẹp vẫn luôn được ngợi ca: “Bạn vàng lại

gặp bạn vàng/ Long, lân, quy, phượng, một đoàn tứ linh” [38, tr. 106].

Chính vì bạn có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của mỗi

người nên vì thế ông cha ta đã răn dạy: “Anh em bạn hữu phải nên chọn

người” [39, tr. 223]; “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” [39, tr. 217].

Chọn bạn để chơi cũng giống như chọn nơi để ở là điều rất quan trọng.

Nó không chỉ đúng trong xã hội xưa mà cho đến nay nó vẫn còn nguyên giá

trị. Chọn được một người bạn tốt để chơi cũng sẽ học hỏi được những điểm

65

tốt từ phía họ và ngược lại, nếu chọn nhầm bạn không tốt thì không khác gì

“gần mực”, sẽ có một lúc nào đó bị ảnh hưởng những tính nết xấu đó.

Không những thế, ông cha ta cũng khuyên dạy, trong lúc chơi cùng bạn

bè phải phấn đấu sao cho không được để thua bạn: “Thua trời một vạn/

Không bằng thua bạn một ly” [38, tr. 106], hay ít ra cũng phải có tinh thần

cầu thị, nhanh tiến bộ: “Học thầy không tày học bạn” [39, tr. 217].

Mối quan hệ bạn bè chính là mối quan hệ tình nghĩa, đây được coi như

thứ tình cảm vô cùng trong sáng, thánh thiện không thể thiếu được trong cuộc

đời mỗi con người.

2.3.6. Mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân tương ái trong cộng

đồng, quốc gia dân tộc

Sự gắn bó ruột thịt giữa con người với con người, tinh thần tương thân,

tương ái với cộng đồng, với quốc gia dân tộc xét cho cùng nó là một trong

những biểu hiện của đạo làm người của người dân Việt Nam.

Xét về lịch sử, đạo làm người trong ca dao tục ngữ Việt Nam đã được

hình thành và phát triển từ hàng nghìn năm cùng với quá trình phát triển của

lịch sử xã hội Việt Nam và đương nhiên chịu tác động của nhiều tư tưởng

khác nhau, đặc biệt là tư tưởng Nho, Phật, Lão và tam giáo đồng nguyên. Tuy

nhiên, dù bị ảnh hưởng những tư tưởng trên nhưng những tư tưởng của Nho,

Phật, Lão khi vào Việt Nam đã bị “nhào nặn” bởi văn hóa bản địa tạo nên nét

đặc sắc riêng của văn hóa Việt Nam. Bởi vì con người Việt Nam trước hết là

sản phẩm của lịch sử Việt Nam, do đó sẽ mang những nét đặc trưng riêng

biệt. Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam đã phản ánh khá đầy đủ

những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam như tình yêu gia đình, quê

hương, đất nước, yêu đồng loại; tinh thần lạc quan yêu đời; lòng nhân ái, bao

dung trọng nghĩa tình đạo lý… tất cả đều mang đậm tính nhân văn, thể hiện

tâm hồn và cốt cách của người Việt Nam.

66

Tình yêu quê hương đất nước đặt con người trong quan hệ gắn bó sống

còn với đất nước là điểm xuyên suốt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đối với

người Việt Nam, yêu nước là một tình cảm và cũng là một tư tưởng thiêng

liêng cao quý nhất, được bắt nguồn từ một tình cảm đơn sơ, giản dị, đó là tình

yêu đối với người thân ruột thịt, đó là tình yêu đối với xóm làng, quê hương

như lời bài ca dao: “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà

dầm tương/ Nhớ ai dãi nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm

nao” [38, tr. 299-300]

Và tình yêu ấy không chỉ dừng lại ở mức độ nhớ thương mà nó còn

dâng lên thành lòng căm thù khi đất nước lâm nguy. Tinh thần yêu nước trong

đạo làm người Việt Nam được thể hiện ở lòng tự tôn, tự hào dân tộc, không

chịu cúi đầu khuất phục trước bất cứ kẻ thù xâm lược nào, sẵn sàng hy sinh vì

Tổ quốc, quê hương. “Thằng Tây chớ cậy xác dài/ Chúng tao người nhỏ

nhưng dai hơn mày/ Thằng Tây chớ cậy béo quay/ Mày thức hai buổi là mày

bở hơi/ Chúng tao thức bốn đêm rồi/ Ăn cháo ba bữa, chạy mười chín cây/

Bây giờ mới gặp mày đây/ Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao” [38, tr. 526].

Hay: “Chồng em vì nước hy sinh/ Cánh tay mất nửa mối tình còn

nguyên”. [38, tr. 526].

Đất nước, quê hương của người Việt Nam là nơi được tạo ra từ đôi bàn

tay của chính người Việt Nam qua các cuộc khai khẩn đất hoang, phát triển

nông nghiệp, không ngừng đấu tranh chống thiên tai và địch họa. Vì thế con

người Việt Nam luôn có sự gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước và tự hào

về điều đó.

Từ xưa cho đến nay, người Việt Nam luôn có một lòng nồng nàn yêu

nước, đồng thời cũng căm ghét đến tột độ sự phản bội đối với Tổ quốc, dân

tộc. Từ xa xưa, truyền thống trung thành với Tổ quốc, với quê hương, sẵn

sàng hy sinh vì quê hương, đất nước đã trở thành lẽ sống, đạo lý của mỗi người

67

dân. Câu tục ngữ: “Cõng rắn cắn gà nhà” [38, tr. 98] đã phản ánh sự căm

ghét đó. Vì dân tộc mà phải kiên quyết đấu tranh chống thái độ thờ ơ, nghiêm

trị những kẻ phản bội, tiếp tay làm tay sai cho giặc. Ý thức sâu sắc về độc lập

dân tộc đã tạo nên sức mạnh vô biên, lúc thắng lợi không chủ quan tự mãn, lúc

hòa bình xây dựng quê hương đất nước thêm giàu mạnh, tươi đẹp.

Bên cạnh đó, ở người Việt Nam luôn có tấm lòng quý trọng, yêu

thương con người, đồng loại, vì thế cũng đặt con người Việt Nam trong quan

hệ gắn bó ruột thịt với cộng đồng. Đây là một đặc trưng nổi bật trong triết lý

đạo làm người của người Việt Nam được thể hiện thông qua ca dao, tục ngữ.

Trước hết, đó là ý thức vì cộng đồng, cố kết gia đình - dòng họ - làng

xóm - Tổ quốc. Dân tộc Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử người Việt cổ

cư trú ở vùng lưu vực sông Hồng và các chỉ lưu. Đó là thời kỳ xã hội đang

chuyển từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp với sự xuất

hiện của những công cụ lao động bằng đồng, bằng sắt. Thời kỳ này, theo cách

gọi của Mác thuộc phạm trù công xã nông thôn, còn được bảo tồn rất lâu

trong phương thức sản xuất châu Á, mà đặc trưng cơ bản là quyền sử dụng

ruộng đất thuộc về công xã, cá nhân chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng mà thôi.

Công xã nông thôn Việt Nam là bên cạnh quan hệ láng giềng: “Hàng

xóm tối lửa tắt đèn có nhau” [39, tr. 218], địa lý, quan hệ huyết thống vẫn

được bảo tồn bên trong công xã. Cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại

của thiên nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm, chống hạn hán, ngập lụt đặt

ra một cách bức thiết. Từ đây, sức mạnh chống thiên nhiên của con người

cũng như chống kẻ thù xâm lược bảo vệ Tổ quốc phải được tạo bởi sức mạnh

của các thành viên trong cộng đồng, của sự tập hợp nhiều gia đình nhỏ lại

trong công xã nông thôn và sự liên kết nhiều công xã lại thành một cộng đồng

lớn hơn với vai trò tổ chức của quyền lực nhà nước. Điều đó giải thích vì sao

người dân Việt Nam coi lệ làng, coi trọng những cái được mọi người trong

68

làng thừa nhận, giá trị lệ làng nhiều khi còn cao hơn cả phép nước: Phép vua

thua lệ làng. Ông cha ta cũng đặc biệt coi trọng dòng họ, tổ tông. Những

người có cùng dòng họ thì yêu thương, đùm bọc, bảo vệ nhau, cùng có trách

nhiệm bảo vệ, giữ gìn những đặc sắc riêng của dòng họ mình, góp phần tạo

nên tính đặc sắc của bản tính dân tộc Việt Nam: “Con người có bố có ông/

Như cây có cội, như sông có nguồn” [38, tr. 422].

Kẻ thù của dân tộc một khi động chạm đến dòng họ, tổ tông, tức là

cũng động chạm đến giang sơn, xã tắc buộc người dân phải đồng lòng đứng

lên bảo vệ. Như vậy, tinh thần đoàn kết và ý thức sống vì cộng đồng là một

trong những giá trị đạo đức truyền thống và cũng là triết lý sống của con

người Việt Nam. Nó là một trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh Việt

Nam giúp người dân Việt Nam chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và

chiến thắng giặc ngoại xâm hung giữ, hùng mạnh, xảo quyệt. Đây là một di

sản quý báu của dân tộc Việt Nam. Và ý thức vì cộng đồng, gắn với cộng

đồng, hòa với cộng đồng như một bản thể đã hình thành sâu đậm trong tâm

thức con người Việt Nam. Triết lý mà con người Việt Nam thể hiện qua ca

dao, tục ngữ là sự đề cao tinh thần tập thể, chỉ khi có sự hợp tác, có sự đồng

nhất mới có thể làm nên việc lớn. Bất cứ xã hội nào cũng được cấu thành

không phải bởi những con người trừu tượng mà bởi những con người cụ thể,

những cá nhân sống. Con người Việt Nam muốn khẳng định qua ca dao, tục

ngữ quan niệm của mình là mỗi cá nhân trong xã hội nhất định dù khác nhau

đến đâu thì họ đều mang cái chung, họ đều là thành viên của xã hội. Cá nhân

không thể sống tách mình ra khỏi tập thể mà phải biết hòa nhập vào tập thể,

huy động sức mạnh của tập thể để tạo ra những giá trị phục vụ cho lợi ích

chung của tập thể. Vì thế: “Chết một đống hơn sống một người” [39, tr. 221].

Thứ hai, ý thức cộng đồng biểu hiện tinh thần “lá lành đùm lá rách” [39,

tr. 221], tôn trọng và hướng về cội nguồn tổ tiên. Là một đất nước ở vùng nhiệt

69

đới gió mùa, chúng ta thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, bão lũ. Trong

hoạn nạn, người dân Việt Nam luôn phát huy truyền thống yêu thương, đùm bọc

nhau với tinh thần: “Máu chảy đến đâu, ruồi bâu đến đấy” [39, tr. 222].

Hay: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”

[39, tr. 221].

Giúp đỡ người khác chính là điều kiện để mỗi cá nhân có thể cùng tồn

tại. Tư tưởng tương thân, tương ái không chỉ dừng lại ở mối quan hệ trong gia

đình, nội tộc mà đã phát triển lên thành tình yêu thương trong toàn dân tộc.

Đó là một dân tộc biết yêu thương, giúp đỡ nhau cùng đi lên. Cha ông ta đã sử

dụng những hình ảnh rất đắt để nói về mối quan hệ tình cảm này, “lá lành”

hay “lá rách” đều là những dạng vật chất cụ thể, đó là những thực thể tồn tại

khách quan. Trong mối quan hệ giữa “lá lành” và “lá rách” thì “lá lành” là

phạm vi lớn bao hàm “lá rách”, đó là quan niệm mang tính hiện thực. Tuy

nhiên, quan niệm mà con người Việt Nam muốn nói đến không chỉ đơn thuần

là những “lá rách”, “lá lành” mà còn muốn nâng cao lên, muốn đưa đến một

khái quát có tính triết lý, vì thế chúng ta có thể hiểu câu “lá lành đùm lá

rách” như là một tinh thần mang tính tập thể. Con người trong tập thể không

thể sống vì lợi ích của mình mà phải biết hòa chung cùng tập thể, hưởng cùng

niềm vui của tập thể nhưng cũng phải biết đau những nỗi đau của tập thể:

“Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” [39, tr. 221].

Người dân Việt Nam thường nhắc nhở nhau rằng dân tộc mình được

sinh ra bởi cái bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ. Vì thế, mối quan hệ đồng bào,

hàng xóm láng giềng cũng là mối quan hệ ruột thịt, gắn bó với nhau không thể

tách rời. Chính tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau ấy mà dân tộc Việt Nam

đã chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng trước thiên tai, địch họa. Đó

là tinh thần đấu tranh và đùm bọc nhau, bởi lẽ: “Nhiễu điều phủ lấy giá

gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng” [39, tr. 221].

70

Người xưa đã mượn hình ảnh “nhiễu điều phủ lấy giá gương” để gửi

gắm lời nhắn nhủ. Có lẽ ai cũng biết “nhiễu điều” hay tấm lụa đỏ chỉ thật sự

có giá trị khi được phủ lên “giá gương”. Và cũng như thế, “giá gương” chỉ

mang vẻ trang trọng, quý giá khi được phủ lên bởi “nhiễu điều”, hai vật gắn

bó với nhau. Nhiễu điều phủ giá gương làm cho giá gương không bị bụi bẩn,

hoen ố, mờ nhạt theo thời gian. Và không có giá gương để phủ lên, nhiễu điều

cũng mất đi một phần giá trị, bớt đi sự trang nghiêm, rực rỡ. Từ mối quan hệ

gần gũi, gắn bó giữa hai sự vật, cha ông ta đã khéo léo khuyên nhủ con cháu

phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Mỗi người sinh ra không phải ai cũng giống nhau. Chúng ta tuy khác

nhau về phong tục tập quán nhưng chúng ta đều có một điểm chung là cùng

máu đỏ, da vàng, cùng sinh ra trong bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ, hay nói

cách khác là cùng nguồn gốc con Rồng, cháu Tiên. Vì vậy, dù ở miền xuôi hay

miền ngược, dù ở miền rừng núi hay biển đảo xa xôi thì chúng ta đều phải yêu

thương giúp đỡ lẫn nhau. Hơn nữa, chúng ta cùng sống, cùng phát triển trong

những mối quan hệ xã hội nên chúng ta lại càng cần sự yêu thương, giúp đỡ hỗ

trợ nhau cùng phát triển. Mặt khác, yêu thương con người còn là truyền thống

tốt đẹp của dân tộc ta từ xưa đến nay, nhờ biết yêu thương mà dân tộc ta đã

vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, chiến đấu và chiến thắng thiên tai và

địch họa. Và bởi thế, người Việt lúc nào cũng có nhau, che chở cho nhau trong

những lúc khó khăn hoạn nạn với tinh thần: “Lá lành đùm lá rách”

Bên cạnh đó, ca dao tục ngữ còn khẳng định hàng xóm láng giềng là

những người anh em gần gũi sớm hôm, tối lửa tắt đèn có nhau. Sống trong

môi trường làng xã, anh em láng giềng là điều kiện cần và không thể thiếu

được: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” [38, tr. 433].

Đó là sự giúp đỡ tương trợ lẫn nhau, có khó khăn gì thì những người có

khả năng giúp đỡ chúng ta đầu tiên phải là những người hàng xóm láng giềng.

71

Nghĩa đồng bào, tình làng xóm biểu hiện khi giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn

nạn: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no” [38, tr. 104]

Đó là những nghĩa cử cao đẹp mà dân tộc ta đã lưu giữ được và truyền

lại cho thế hệ con cháu muôn đời, và ông cha ta cũng không quên nhắc nhở:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

[38, tr. 128].

Câu ca dao đã mượn chuyện bầu bí để nói chuyện con người, chuyện

cuộc đời. Ông cha ta đã cho con cháu một lời khuyên chân thành, kín đáo mà

tế nhị. Sống ở trên đời không ai giống ai, mỗi người một nguồn gốc, hoàn

cảnh, điều kiện sống riêng nhưng tất cả đều cùng chung một quê hương, đất

nước Việt Nam. Tất cả đã làm nên mối quan hệ ràng buộc, gắn bó, là cơ sở để

gần gũi, cảm thông. Và vì chính cái chung ấy mà mỗi người phải biết yêu

thương, đùm bọc, nhường nhịn sẻ chia để công việc chung được tốt đẹp. Dân

tộc ta chủ yếu sống bằng nghề nông, trong sản xuất, thời tiết và điều kiện tự

nhiên ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thu hoạch. Nếu mọi người không

chung sức để đắp đê chống lụt, trồng rừng ngăn lũ thì khó có thể bảo vệ được

mùa màng. Trong điều kiện sống khắc nghiệt, nếu không biết nương tựa vào

nhau thì làm sao tồn tại được. Mối quan hệ chặt chẽ đã làm cho tình thương

nảy nở và người Việt Nam coi đó là truyền thống quý báu tự bao đời.

2.4. Những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong ca dao,

tục ngữ Việt Nam

2.4.1. Về giá trị

2.4.1.1. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam có tính giáo

dục rất sâu sắc

Ca dao tục ngữ là một bộ phận hợp thành quan trọng trong kho tàng

văn học dân gian Việt Nam. Được hình thành và phát triển trong một giai

đoạn lịch sử lâu dài và lưu truyền rộng rãi trong đời sống, sinh hoạt của nhân

72

dân lao động Việt Nam. Là tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế, xã hội

Việt Nam qua quá trình lịch sử. Trong ca dao tục ngữ, đời sống hiện thực

muôn màu muôn vẻ của nhân dân ta được tái hiện, được đúc kết lại một cách

sâu sắc và chân thực nhất. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy

màu sắc Việt Nam, thể hiện được một cách sâu sắc, rực rỡ thế giới quan, nhân

sinh quan của người thượng cổ đến sau này. Ca dao tục ngữ chính là di sản

tinh thần quý báu, là kho tri thức về kinh nghiệm cuộc sống và đạo lý làm

người, chứa đựng triết lý giáo dục sâu sắc mà ông cha ta để lại. Triết lý giáo

dục trong ca dao tục ngữ Việt Nam được thể hiện trên nhiều khía cạnh nhưng

nổi bật nhất là ở nội dung giáo dục con người trong mối quan hệ với tự nhiên

và mối quan hệ giữa con người với xã hội. Sau khi phân tích nội dung các câu

ca dao, tục ngữ của ông cha ta nói về mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên, ta nhận thấy những điều mà cha ông muốn khẳng định và răn dạy con

cháu mai sau:

Thứ nhất, con người sống không thể tách rời với tự nhiên. Trong khi

các nhà triết học tốn rất nhiều thời gian để tranh luận về nguồn gốc của con

người thì nhân dân lao động từ rất lâu trước đó đã nhận thức một cách tự giác

rằng con người là sản phẩm của tự nhiên và gắn bó khăng khít với tự nhiên.

Điều này được minh chứng trong kho tàng ca dao, tục ngữ khi mà cha ông ta

dành một khối lượng lớn các câu ca dao, tục ngữ mà đặc biệt là tục ngữ để đề

cập đến giới tự nhiên. Điều ấy cho thấy, người Việt Nam luôn xem tự nhiên

và mối quan hệ với tự nhiên là một trong những mối quan tâm hàng đầu của

mình. Mặt khác, khi khẳng định nguồn gốc tự nhiên của con người, người

Việt Nam có quan niệm duy vật khi khẳng định: “người ta là hoa đất”, con

người không phải là thực thể tách hoàn toàn giới tự nhiên mà bản thân con

người là một phần của giới tự nhiên.

73

Thứ hai, trong quá trình lao động, cải tạo tự nhiên, con người đã tìm

được tư liệu sinh hoạt vật chất cho mình. Một điều khá đặc biệt trong quan

niệm, cách ứng xử của con người Việt Nam với tự nhiên là ở chỗ tuy nhận

thức mình là một bộ phận của tự nhiên, sống phụ thuộc vào tự nhiên, nhưng

người Việt Nam cũng cho rằng mình có khả năng nhận thức, chinh phục và

cải tạo tự nhiên. Không thể ỷ lại tự nhiên, không thể chỉ thừa hưởng những

cái gì có sẵn trong tự nhiên để thỏa mãn những nhu cầu của mình mà cần phải

nhận thức, lợi dụng và cải tạo tự nhiên để cải tạo ra của cải phục vụ cho cuộc

sống của mình. Bên cạnh tư tưởng chinh phục tự nhiên, thông qua ca dao, tục

ngữ, ông cha ta còn nhận thức được khả năng của mình trong việc cải tạo tự

nhiên. Mối quan hệ giữa con người, xã hội loài người với tự nhiên là mối

quan hệ qua lại tác động lẫn nhau, trong đó con người tác động vào tự nhiên

nhằm tạo ra những biến đổi có lợi phục vụ cho lợi ích của mình. Sự tác động

đó không phải là vô thức mà là một hoạt động có ý thức của con người.

Thứ ba, lao động khiến con người thêm tin tưởng, lạc quan, làm chủ bản

thân, đồng thời có thái độ tôn trọng, bảo vệ tự nhiên. Thông qua ca dao tục

ngữ, ta nhận thấy rằng cha ông ta rất tôn trọng các lực lượng tự nhiên, xem lực

lượng tự nhiên như là thứ của cải quý giá trời ban tặng cho con người. Trong

nông nghiệp, đất và nước được xem như yếu tố hàng đầu, quyết định đến sản

xuất: “tấc đất tấc vàng”. Sự tôn trọng đối với tự nhiên của cha ông ta còn thể

hiện ở chỗ con người cần thiết phải tác động vào tự nhiên, đó là sự tác động có

mục đích tính toán, có kế hoạch từ trước trên cơ sở tôn trọng tự nhiên, tôn

trọng các quy luật khách quan. Sự tác động đó mang tính chủ động sáng tạo

nhưng phù hợp với các quy luật tự nhiên mới mong mang lại kết quả cao: “biết

chiều trời, nước đời chẳng khó”. Chiều trời không gì khác chính là biết hành

động, tác động vào tự nhiên đúng với các quy luật khách quan trên cơ sở tôn

74

trọng tự nhiên. Hoạt động sản xuất của con người chỉ có kết quả cao khi sự

tương tác con người - tự nhiên phù hợp với quy luật tự nhiên.

Như vậy, thông qua ca dao, tục ngữ, cha ông ta gửi gắm những triết lý

nhân sinh về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trước hết đó là biểu

hiện của một trình độ nhận thức nhất định về giới tự nhiên trong điều kiện

khoa học chưa phát triển cao. Đồng thời, qua đó, cha ông ta cũng gửi gắm

những lời nhắn nhủ của mình tới thế hệ con cháu mai sau trong cách ứng xử

với tự nhiên đó là phải biết tôn trọng tự nhiên và từ đó xây dựng được một lối

ứng xử phù hợp nhất với tự nhiên.

Bên cạnh những triết lý mà cha ông muốn răn dạy con cháu trong cách

ứng xử với tự nhiên thì triết lý về cách ứng xử của con người trong xã hội

cũng là điều mà cha ông rất quan tâm và luôn nhắc nhở con cháu thông qua ca

dao, tục ngữ. Qua ca dao, tục ngữ chúng ta nhận thấy rằng, cái đẹp trong văn

hóa ứng xử của con người Việt Nam là cái đẹp mang tính dân tộc, là bản sắc,

là cốt lõi, là cái hồn đất, hồn nước và là tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Qua

ca dao, tục ngữ, cha ông ta muốn nhắn gửi rằng gốc rễ của cái đẹp trong văn

hóa ứng xử của người Việt Nam chúng ta là sống đẹp, sống tốt với nhau, sống

vì nhau. Từ đó, cha ông ta nhắn gửi tới thế hệ con cháu những đạo lý trong

văn hóa ứng xử của người Việt:

Thứ nhất, tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, bình dị nhưng cũng

hết sức thiết tha, mãnh liệt được thể hiện trong chính cuộc sống lao động

hàng ngày: Tình yêu trong ca dao, tục ngữ thật đẹp, nó thể hiện mối quan hệ

trong sáng, son sắt của đôi lứa yêu nhau, đặc biệt đẹp hơn cả khi tình yêu ấy

được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày.

Thứ hai, quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn, chia sẻ:

Ông cha ta có câu “Xuất giá tòng phu”, “Vợ chồng là nghĩa phu thế/ Tay ấp

75

mà kề sinh tử có nhau. Quả đúng như vậy, cha mẹ, con cái rồi cũng sẽ rời bỏ

chúng ta, chỉ có vợ/chồng mới là người luôn đi bên cạnh ta đến hết cuộc đời.

Thứ ba, quan hệ trong gia đình trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu:

Con cháu phải lễ phép, tôn kính ông bà, cha mẹ. Ngược lại bố mẹ, ông bà

cũng phải tôn trọng và yêu thương con cháu.Trong gia đình Việt Nam,

người cha không chỉ là người sinh thành ra chúng ta, mà còn là người thầy

đầu tiên của chúng ta, là người bạn trung thành của chúng ta. Bởi vậy, ta phải

có hiếu và trung thành với cha của mình.

Thứ tư, quan hệ anh em thuận hòa: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài/ gà

cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” là lời dạy xưa của ông cha ta với anh chị em

trong gia đình. Anh em có thuận hòa thì gia đình mới bền vững và hạnh phúc.

Thứ năm, quan hệ tôn sư trọng đạo, quan hệ bạn bè tình nghĩa: “Bạn

bè là nghĩa lương tri/ Sao cho sau trước một bề mới nên. Ngoài cha mẹ, vợ

chồng thì bạn bè chính là chỗ dựa cho chúng ta, là tri kỷ của chúng ta. Lúc

hoạn nạn mới biết đâu là bạn, đâu là bè. Bên cạnh đó, tình cảm thầy trò là thứ

tình cảm gắn bó, gần gũi một cách tự nhiên mà vô cùng thiêng liêng, cao cả,

làm nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc “tôn sư trọng đạo”. Truyền thống ấy

như mạch nước ngầm, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời gian từ xưa, đến nay và

mãi về sau.

Thứ sáu, mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân tương ái trong cộng

đồng, quốc gia, dân tộc: Cha ông ta nhắn gửi tới con cháu sống phải biết yêu

thương, chia sẻ giúp đỡ nhau trên tinh thần “người trong một nước phải

thương nhau cùng”.

Từ ca dao, tục ngữ, chúng ta rút ra được những triết lý giáo dục sâu sắc

về nhân sinh quan của người Việt về thế giới, con người, về những vấn đề của

cuộc sống, của lao động sản xuất. Đó là những đạo lý làm người thể hiện

trong lao động, học tập và rèn luyện bản thân, trong đối nhân xử thế với thiên

76

nhiên và với gia đình xã hội. Tất cả những điều đó mang yếu tố nhân văn sâu

sắc và đậm nét tâm hồn người Việt.

2.4.1.2. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thể hiện tư

tưởng duy vật, biện chứng tự phát của nhân dân lao động

Thực tiễn đặt trước con người những mâu thuẫn và khó khăn cần khắc

phục. Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, khắc phục những khó khăn đó là

quá trình mà con người hàng ngày tác động trực tiếp vào tự nhiên trong sản

xuất, giúp con người thấy được sự tồn tại thực tế của tự nhiên, thấy được mối

liên hệ và sự vận động hợp với quy luật của các sự vật, hiện tượng. Do đó mà

cha ông ta phần nào có cách giải thích duy vật và biện chứng về tự nhiên.

Thứ nhất, trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, cha ông ta đã sớm có

những cách giải thích chứa nhiều yếu tố duy vật về các hiện tượng ảnh hưởng

trực tiếp đến sản xuất, tuy rằng cách giải thích này còn mộc mạc và còn ở

trình độ của những tri giác cảm tính.

Yêu cầu của thực tiễn sản xuất và trình độ nhận thức, trình độ trừu

tượng hóa và khái quát hóa của con người đã đạt đến mức tương đối phát triển

qua quá trình lâu dài quan sát sự vật, hiện tượng, giúp cha ông ta trả lời được

một số vấn đề đặt ra và đặt ra ngày càng mạnh mẽ, cấp thiết lúc bấy giờ là

phải nhận xét và giải thích hiện tượng tự nhiên nhất là yếu tố mưa gió, sấm

chớp để phục vụ cho đời sống, cho hoạt động sản xuất của mình. Nhờ những

hiểu biết của mình mà cha ông ta đã tránh được những tác hại do tự nhiên gây

ra đối với đời sống cũng như đối với sản xuất có thể lợi dụng chúng để phục

vụ cho lợi ích của mình. Ví dụ, những yếu tố duy vật được thể hiện ở chỗ

người ta đã căn cứ vào sự quan sát những phản ứng của sinh vật đối với sự

thay đổi thời tiết để xem thời tiết chứ không tìm nguyên nhân của thời tiết ở ý

chí của thần… Những hiểu biết trên tuy còn thô sơ và mới ở trình độ của

những tri giác cảm tính nhưng trong đó đã chứa đựng nhiều yếu tố hiện thực.

77

Những hiểu biết này đã có tác động tích cực đến việc đẩy mạnh quá trình cải

biến tự nhiên của con người. Vì chỉ có nắm được thực chất của sự vật dưới

những biểu hiện cụ thể của chúng con người mới có thể tác động vào chúng,

mới có thể đặt ra và hoàn thành những công việc ngày càng phức tạp hơn,

khó khăn hơn.

Thứ hai, cha ông ta phần nào đã thấy được bản chất và sự tồn tại khách

quan của thế giới

Nguồn gốc của những yếu tố duy vật được thể hiện trong ca dao, tục

ngữ không những là do nhu cầu phải quan sát đúng hiện tượng tự nhiên để

phục vụ sản xuất mà còn ở chỗ qua hàng trăm hàng nghìn lần quan sát lặp đi

lặp lại các hiện tượng tự nhiên và các sự vật, cha ông ta đã phần nào thấy

được bản chất và sự tồn tại khách quan của thế giới. Vì chỉ khi thấy được rằng

thế giới là tồn tại khách quan thì lúc đó con người mới lấy thế giới bên ngoài

làm đối tượng tác động của lao động của mình, mới có phương hướng cho

hoạt động thực tiễn, mặc dù ý thức tự giác về việc đó mới chỉ ở trình độ nhất

định, và phần lớn còn phải dựa vào các kinh nghiệm trực tiếp.

Thứ ba, qua quá trình tác động lâu dài vào tự nhiên và xã hội, tư tưởng

của cha ông ta ít nhiều có những yếu tố biện chứng, đã phần nào phản ánh và

nhận thức được một cách tự phát mối quan hệ qua lại giữa các sự vật, hiện

tượng cùng tính chất vận động và phát triển hợp với quy luật trong những sự

vật, hiện tượng riêng lẻ.

Để có được những tư tưởng trên chính là nhờ ở quá trình tác động lâu

dài vào tự nhiên. Quá trình này đã giúp con người quan sát được rõ những

hiện tượng lặp đi lặp lại trước mắt, do đó giúp họ thấy rõ rằng các hiện tượng,

sự vật là luôn luôn biến đổi chứ không cố định ở một chỗ nào, không phải

là bất biến.

78

Đối với các hiện tượng trong xã hội cũng vậy, cha ông ta phần nào đã

có ý thức rằng mối quan hệ giữa người với người đã có sự thay đổi căn bản:

quan hệ dân chủ và bình đẳng nguyên thủy đã nhường chỗ cho những quan hệ

bất bình đẳng và thống trị giữa tầng lớp vua quan với nhân dân, giữa người

giàu với người nghèo.

Thứ tư, qua ca dao tục ngữ, nhận thấy cha ông ta đã có ý thức về vai trò

và năng lực sáng tạo của mình.

Bước đầu nhận thức được tính chất quan trọng của lao động và có ý

thức về vai trò của mình, con người sẽ phát huy được tính năng động chủ

quan trong việc chế ngự sức mạnh của tự nhiên. Nước lũ có dâng cao thì với

đôi bàn tay lao động, con người vẫn có thể khắc phục được tác hại của nó

bằng cách đắp bờ ngăn nước chống lụt; ngược lại, nếu hạn hán kéo dài, con

người sẽ chống hạn bằng cách đào ao, đào giếng lấy nước tưới ruộng,…bên

cạnh đó, năng lực cải tạo thế giới xung quanh của cha ông ta không chỉ dừng

lại ở cuộc đấu tranh với giới tự nhiên mà nó còn thể hiện cả trong cuộc đấu

tranh với xã hội, đó chính là cuộc đấu tranh giai cấp thể hiện tinh thần phản

kháng của nhân dân ta đối với giai cấp thống trị chuyên áp bức, bóc lột.

2.4.1.3. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam góp phần

giáo dục đạo đức, lối sống cho nhân dân Việt Nam nói chung và thế hệ thanh

niên Việt Nam nói riêng

Ca dao, tục ngữ Việt Nam là kết quả lao động sáng tạo, chứa đựng

những triết lý sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn cuộc sống lao động của cha

ông ta, cho đến nay đã trở thành một kho tàng lý luận phong phú, phản ánh rõ

nét thế giới quan và nhân sinh quan của nhân dân ta trong buổi đầu dựng nước

và giữ nước. Không những thế, trong ca dao tục ngữ, những tư tưởng, truyền

thống tốt đẹp của dân tộc được thể hiện một cách sâu sắc, có vai trò to lớn

79

trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con người Việt Nam hiện đại,

đặc biệt là thế hệ thanh niên Việt Nam.

Thứ nhất, thông qua nội dung ca dao, tục ngữ, cha ông ta đã giáo dục

cho thế hệ con cháu đặc biệt là thế hệ thanh niên tinh thần yêu nước mãnh

liệt. Thông qua ý nghĩa sâu sắc của những câu ca dao, tục ngữ, cha ông ta

muốn nhấn mạnh rằng, tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc là

sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, là lẽ sống và tình cảm

thiêng liêng nhất của mỗi người. Truyền thống đó không đơn thuần chỉ có ý

nghĩa về mặt tinh thần mà khi cần thiết nó chuyển hóa thành sức mạnh vật

chất to lớn, nhờ thế mà một đất nước nhỏ bé luôn giành thắng lợi khi đối đầu

với những kẻ thù mạnh gấp bội. Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ

độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc cho thế hệ trẻ, giúp họ nhận thức đây

là đạo lý lớn nhất, cao quý nhất bà ;à niềm tự hào của người Việt Nam cần

phải trân trọng và giữ gìn.

Thứ hai, thông qua ca dao, tục ngữ, cha ông ta muốn giáo dục thế hệ con

cháu nhất là tầng lớp thanh niên ý thức tự lực, tự cường và tự tôn dân tộc, bởi

lẽ, yếu tố quyết định thành công hay thất bại chính là ở bản thân mỗi người.

Thứ ba, qua ý nghĩa của những câu ca dao, tục ngữ, cha ông ta muốn

giáo dục cho con cháu về tinh thần đoàn kết, yêu thương giúp đỡ mọi

người. Tình cảm thương yêu, sẵn sàng giúp đỡ người khác là nghĩa cử cao

đẹp của người Việt Nam, tinh thần ấy đã giúp đỡ cha ông ta từ thế hệ trước

chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Ngày nay, khi đất nước không còn chiến

tranh mà đang trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước thì càng

phải cần thiết hơn bao giờ hết tinh thần đoàn kết này để xây dựng một đất

nước Việt Nam giàu và đẹp.

80

2.4.2. Về hạn chế

2.4.2.1. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam còn chứa

đựng những tư tưởng duy tâm, siêu hình

Tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ Việt Nam ta nhận thấy

bên cạnh mặt tích cực thể hiện tư tưởng duy vật, biện chứng vẫn còn tồn tại

những tư tưởng duy tâm, siêu hình. Nguyên nhân là do trình độ nhận thức còn

kém và do bị áp bức nặng nề trong xã hội có giai cấp đối kháng. Yếu tố duy

vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình đan xen lẫn nhau, ở phương diện này

nó là duy vật, biện chứng nhưng ở phương diện khác nó là duy tâm siêu hình.

Người Việt xưa thể hiện sự nghi ngờ, không tin vào bói toán khi khẳng

định “bói ra ma quét nhà ra rác”, nhưng họ lại tin vào thần thánh, vào vận

hạn, và đặc biệt họ rất tin vào số mệnh: “Trăm đường tránh chẳng khỏi số”.

Đối với người nông dân lúc bấy giờ, vũ trụ lớn lao và rất bí hiểm mà

con người thì hết sức nhỏ bé cho nên họ không thể tạo ra sức mạnh và khả

năng thông hiểu, chi phối nó. Chính vì thế mà người ta mơ hồ có sự tồn tại

của một lực lượng siêu nhiên đã sinh ra và chi phối các sự vật, hiện tượng kể

cả con người. Cho nên, khi càng đi sâu tìm hiểu và giải thích thế giới, con

người càng bất lực và phải cầu viện đến thần, đến trời. Trong quan hệ với trời,

người là đối tượng bị phụ thuộc, không ai có thể đoán được ý trời: “Người

tính không bằng trời tính”, hay “trời kêu ai nấy dạ”. Không chỉ tạo sinh vạn

vật, trời còn tạo điều kiện sống cho tất cả mọi người, không phân biệt dối xử:

“Trời chẳng đóng cửa ai”. Trời đại diện cho công lý, cho công bằng xã hội:

“Trời nào có dung kẻ gian, có oán người ngay”.

Bên cạnh đó, trong đời sống xã hội, do sự thống trị hà khắc của giai cấp

phong kiến đã làm cho cuộc sống của họ thêm bí bách đến cùng cực, khi họ

không còn lối thoát nào khác thì họ tìm đến thần linh là điều tất yếu. Từ đó,

dần dần trong cuộc sống con người tin rằng bên cạnh thế giới trần gian còn có

81

thế giới thần linh. Và niềm tin ấy càng được củng cố khi giai cấp thống trị lợi

dụng để làm chính sách mị dân. Họ cho rằng vua chính là người thay thế trời

để trị vì bình thiên hạ, do đó ý thức hệ của giai cấp thống trị đã chi phối ý

thức hệ của quần chúng nhân dân lao động. Đây chính là mảnh đất tốt để tư

tưởng duy tâm phát triển.

Bên cạnh đó, do trình độ nhận thức còn hạn chế , chưa nắm bắt được

quy luật chi phối sự phát sinh phát triển của các sự vật, hiện tượng nên người

lao động đã giải thích chúng một cách siêu hình. Những tư tưởng đó đã thủ

tiêu ý chí đấu tranh của người lao động, họ cho rằng không thể làm gì khác để

thay đổi được số phận của mình: “Cha mẹ giàu thì con có, cha mẹ khó thì con

không”. Điều này nói lên sự bế tắc, không lối thoát và nói lên tư tưởng an

phận của người lao động. Chính tư tưởng an phận thủ thường, tự ti chính là

chỗ dựa cho giai cấp phong kiến củng cố địa vị thống trị của mình.

2.4.2.2. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam còn chứa

đựng những mâu thuẫn trong cách ứng xử với tự nhiên và xã hội của con người

Mặc dù triết lý nhân sinh của cha ông ta về mối quan hệ giữa con người

với môi trường tự nhiên và giữa con người với nhau trong xã hội chứa đựng

nhiều tư tưởng biện chứng, thể hiện cách nhìn, cách đánh giá tương đối khoa

học của cha ông ta về tự nhiên, xã hội, con người. Nhưng trong cách đánh giá

ấy ta vẫn nhận thấy những mâu thuẫn đối lập.

Trước hết là trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, tác giả nhận

thấy ở con người Việt Nam có sự hình thành hai thái độ đối lập nhau. Xuất

phát từ chỗ Việt Nam là một nước nông nghiệp gắn với nền văn minh lúa

nước lâu đời, trong thời buổi khoa học chưa phát triển, con người sống phụ

thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế con người rất tôn trọng và không dám

ganh đua với tự nhiên. Sống hòa hợp với tự nhiên là điều mà cha ông ta

hướng tới. Chúng ta nhận thấy rằng, người Việt Nam rất hay nhắc đến Trời,

82

dù đau khổ hay hạnh phúc thì câu cửa miệng cũng là “Trời ơi” hay “lạy trời”,

“ơn trời”. Một mặt con người tôn thờ tự nhiên, coi trọng tự nhiên là vậy

nhưng mặt khác, con người lại luôn muốn làm chủ tự nhiên, vì thế luôn có xu

hướng khám phá và chinh phục tự nhiên, muốn tự nhiên phải phục vụ mục

đích của mình. Ta nhận thấy rằng thái độ của cha ông ta đều có mặt hay và

mặt dở. Tôn trọng thiên nhiên có cái hay là giữ gìn được môi trường sống tự

nhiên trong lành, nguyên sơ, nhưng có cái dở là khiến con người trở nên rụt

rè, e ngại. Tư tưởng muốn khám phá, chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên phục

vụ mục đích của mình có cái hay là khuyến khích con người dũng cảm đối

mặt với tự nhiên, khuyến khích khoa học phát triển, nhưng có hạn chế là hủy

hoại môi trường tự nhiên.

Trong mối quan hệ giữa con người với xã hội, ca dao tục ngữ cũng thể

hiện những tư tưởng đầy mâu thuẫn, đối lập của cha ông ta. Có thể lấy ví dụ

trong cách nhìn nhận, quan niệm về người phụ nữ. Phụ nữ là một đề tài rất

điển hình trong ca dao tục ngữ, nhưng khi viết về thân phận người phụ nữ thì

nhận thức của cha ông lại có những biến đổi linh hoạt. Có những lúc ta nhận

thấy người phụ nữ là đối tượng bị coi thường trong xã hội, thân phận người

phụ nữ trong xã hội xưa vô cùng vất vả, khổ cực, chỉ có đàn ông mới là người

được coi trọng trong xã hội. Nhưng có những lúc hình ảnh của người phụ nữ

lại hết sức được ngợi ca, còn được coi trọng hơn cả đàn ông trong xã hội. Hay

như trong mối quan hệ giữa nhân dân với tầng lớp vua quan, một mặt thì

người dân rất tôn trọng và rất sợ vua chúa, quan lại, nhưng mặt khác luôn có

tư tưởng chống đối và nổi dậy “bao giờ dân nổi can qua”.

Xét cho cùng thì nguyên nhân sâu sa của những mâu thuẫn, của những

tư tưởng đối lập này chính là ở tư duy lưỡng hợp của người Việt Nam. Lối tư

duy tổng hợp và biện chứng luôn phải đắn đo, cân nhắc của người làm nông

nghiệp cộng với lối sống trọng tình nghĩa đã dẫn đến cách tổ chức cộng đồng

83

theo lối linh hoạt, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn

đến triết lý sống của người Việt Nam là “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “đi

với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”.

2.4.2.3. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam phản ánh

hiện thực khách quan, các quan hệ xã hội chủ yếu dưới hình thức kinh nghiệm

Qua việc phân tích ca dao tục ngữ Việt Nam tác giả nhận thấy rằng

nhận thức của cha ông ta thời xưa chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Con người

bắt đầu từ sự quan sát các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, bằng

sự tri giác về các sự vật, hiện tượng, vì thế nên họ mới chỉ nhìn thấy được

những biểu hiện bên ngoài, riêng lẻ của sự vật, hiện tượng mà chưa thể phản

ánh được bản chất bên trong của chúng. Điều đó cũng có nghĩa, những nhận

thức kinh nghiệm thường ngày của người lao động không thể ngay lập tức

mang lại cái nhìn đúng đắn về bản chất của sự vật, hiện tượng cũng như

không thể chứng minh được một cách đúng đắn và tất yếu về sự vật, hiện

tượng. Nhận thức kinh nghiệm nhiều khi gặp phải những mâu thuẫn, những

mặt hạn chế trong quá trình nhận thức vì chỉ dựa vào những cái trực tiếp, bề

ngoài nên nhận thức đó chủ yếu chỉ nhìn thấy các sự vật, hiện tượng trong

trạng thái cô lập, tách biệt nhau và có xu hướng tuyệt đối hóa. Cho nên, khi áp

dụng nhận thức kinh nghiệm vào những trường hợp cụ thể của cuộc sống, tầm

nhìn bị hạn chế sẽ không thể tránh khỏi tính chất chủ quan, thậm chí là cố

chấp, bảo thủ, lạc hậu, cản trở sự phát triển của nhận thức.

Tiểu kết chƣơng 2

Nghiên cứu kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam, chúng ta rút ra được

những triết lý nhân sinh sâu sắc của người Việt thông qua những câu ca dao,

tục ngữ ngắn gọn, dễ cảm và hàm xúc. Đó chính là những kinh nghiệm đúc

kết của cha ông ta từ ngàn đời về đời người, ý nghĩa của cuộc đời con người;

84

về cách ứng xử của con người với tự nhiên; và cách ứng xử giữa con người

với nhau trong xã hội.

Quan niệm về đời người và ý nghĩa của cuộc đời con người trong ca

dao, tục ngữ Việt Nam đã chi phối sự ứng xử của con người Việt Nam trong

mọi mối quan hệ, trong mọi lĩnh vực của đời sống giúp con người hiểu được

rằng, trong mọi thời đại, con người là vốn quý nhất mà tạo hóa đã ban tặng và

là nguồn gốc tạo ra mọi của cải cho xã hội, cho nên phải yêu quý và trân trọng

chính bản thân con người. Điều đó đã làm nên sức mạnh giúp dân tộc ra vượt

lên mọi khó khăn, thử thách trong trường kỳ lịch sử để tồn tại và phát triển

Những câu ca dao, tục ngữ nói về cách ứng xử của con người với tự

nhiên cho chúng ta thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết, máu thịt giữa con

người với tự nhiên. Xét cho cùng thì xã hội loài người là bộ phận phát triển

cao tách ra từ thế giới tự nhiên và là một bộ phận khăng khít của thế giới

tự nhiên.

Các mối quan hệ xã hội trong ca dao, tục ngữ Việt Nam được phản ánh

đầy đủ trên các phương diện: đó là mối quan hệ riêng tư được thể hiện trong

tình yêu đôi lứa, là các mối quan hệ trong gia đình Việt và các mối quan hệ

ngoài xã hội. Đó là những mối quan hệ phong phú, phức tạp và sâu rộng phản

ánh muôn mặt đời sống tạo nên một xã hội thống nhất và toàn vẹn nằm trong

những khuôn mẫu, thể chế nhất định.

Những triết lý ấy vừa chứa đựng yếu tố duy vật, biện chứng, vừa có

yếu tố duy tâm, siêu hình nhưng tất cả đều có chất liệu từ hiện thực cuộc sống

của người Việt trong giai đoạn trước. Đó là những kiến giải hết sức ngây thơ

về các hiện tượng tự nhiên,về con người,…nhưng đó cũng chính là cơ sở hình

thành nên nhân sinh quan độc đáo của người Việt, đó là đạo làm người, là

cách đối nhân xử thế trong gia đình và ngoài xã hội,… Tất cả đều chứa đựng

yếu tố nhân văn sâu sắc và mang đậm nét tâm hồn người Việt.

85

KẾT LUẬN

Ca dao, tục ngữ là một trong những thể loại văn học dân gian ra đời

sớm nhất ở nước ta, nó thể hiện sự phát triển trong đời sống tinh thần của con

người. Ca dao, tục ngữ phản ánh một cách chân thực về cuộc sống với những

ngôn từ dung dị, mộc mạc, quen thuộc với người nông dân. Chất trí tuệ, giàu

tư tưởng tình cảm trong ca dao, tục ngữ là nguồn nhựa sống bổ sung cho văn

hóa dân gian thêm phong phú và đậm đà bản sắc.

Trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học hình thành từ sự thể hiện tình

cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật của ngôn từ, bằng hình ảnh để

tạo nên các triết lý sâu sắc. Tục ngữ là sự thống nhất giữa tri thức đúng đắn và

nghệ thuật ngôn từ nhằm phản ánh hiện thực. Ca dao, tục ngữ Việt Nam có

quá trình phát triển lâu dài, ra đời dựa trên những điều kiện tương ứng về kinh

tế xã hội, văn hóa tư tưởng đã trở thành một hình thái ý thức xã hội tồn tại

bằng phương thức truyền miệng thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc của dân tộc

Việt Nam.

Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là những kinh

nghiệm ông cha ta đã đúc kết được về sinh mệnh con người, về cuộc sống của

con người, mục đích và lẽ sống của con người trong xã hội, và về những ứng

xử của con người với tự nhiên và xã hội. Mặc dù triết lý ấy còn chứa đựng

những tư tưởng duy tâm siêu hình; những mâu thuẫn trong cách ứng xử với tự

nhiên và xã hội của loài người; sự phản ánh hiện thực thực khách quan, những

quan hệ xã hội chủ yếu dưới hình thức kinh nghiệm, nhưng triết lý nhân sinh

trong ca dao, tục ngữ Việt Nam đã để lại nhiều giá trị sâu sắc cả về lý luận và

thực tiễn: Nó có tính giáo dục con người sâu sắc trong mối quan hệ với tự

nhiên và mối quan hệ giữa con người với xã hội; thể hiện được tư tưởng duy

vật, biện chứng tự phát của nhân dân lao động; đồng thời góp phần giáo dục

86

đạo đức, lý tưởng sống cho nhân dân Việt Nam nói chung và thế hệ thanh

niên Việt Nam nói riêng.

Như vậy, ca dao, tục ngữ Việt Nam chính là di sản quý báu mà cha ông

ta đã đúc kết tự ngàn đời và để lại cho thế hệ con cháu. Cho đến hôm nay, khi

chứng kiến những hiện tượng, sự việc diễn ra trong cuộc sống dường như

chúng ta đang trải nghiệm lại những gì mà cha ông đã đúc kết và khẳng định.

Bản thân mỗi chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị

nhân văn, nhân bản đó của dân tộc.

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Nhu An (1993), “Một số đặc điểm nhân cách con người Việt

Nam qua ca dao, tục ngữ”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (12), tr. 15-18.

2. Trần Thúy Anh (2004), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu

thổ Bắc Bộ qua một số câu ca dao - tục ngữ, Nxb ĐHQGHN.

3. Đỗ Thị Bảy (2011), Sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ

ca dao, Nxb Lao động.

4. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và đào tạo (2008), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb

Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

6. Bộ Giáo dục và đào tạo (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.

7. Việt Chương, Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, Nxb Đồng Nai.

8. Nguyễn Nghĩa Dân (2010), Lịch sử Việt Nam trong tục ngữ - ca dao,

Nxb ĐHQGHN.

9. Nguyễn Nghĩa Dân (2011), Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt

Nam, Nxb Thanh niên.

10. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội.

11. Chu Xuân Diên (2001), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

12. Bùi Huy Đáp (1999), Ca dao tục ngữ với khoa học nông nghiệp,

Nxb Đà Nẵng.

13. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội.

88

14. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Ngọc Hà (2014), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Văn học.

16. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội Nhà văn.

17. Hoàng Văn Hành, chủ biên (1994), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, tái

bản lần 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Nguyễn Hạnh (2006), “Chú khuyển” trong ca dao tục ngữ Việt Nam”,

Tạp chí Văn hóa dân gian (1) tr. 82-83.

19. Vũ Tố Hảo, Hà Châu (2012), Tư tưởng tiến bộ - triết lý nhân sinh thực

tiễn của nhân dân và vai trò của vè, truyện kể trong văn học dân gian,

Nxb Thời đại.

20. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb

Đại học Sư phạm Hà Nội.

21. Hoàng Ngọc Hiến (2004), “Mấy tương quan đáng chú ý trong triết lý nhân

sinh người Việt”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (3), tr. 113-120.

22. Cao Thị Hoa (2011), “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa

Thiên Huế”,Luận văn cao học Triết học, Trường Đại học Khoa học -

Đại học Huế.

23. Tô Duy Hợp (2005), “Giá trị bền vững của Triết lý dân gian trong toàn

cầu hóa”, Hội thảo Quốc tế: Toàn cầu hóa: Những vấn đề triết học ở

châu Á - Thái Bình Dương, Viện Triết học, Hà Nội.

24. Vũ Hùng (1994), “Tìm hiểu những yếu tố triết học (hay triết lý dân gian)

trong tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Triết học (1), tr. 36-38.

25. Võ Hoàng Khải (1996), “Những yếu tố duy vật và biện chứng trong tục

ngữ, ca dao Việt Nam”, Luận văn cao học Triết học, Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

89

26. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Vũ Quang Nhơn (2003), Văn học dân

gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.

27. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận chủ biên (1995), Các vùng văn hóa Việt

Nam, Nxb văn học, Hà nội.

28. Nguyễn Văn Long (1983), Ca dao, tục ngữ trong giảng dạy sinh lý người

và động vật, Luận văn thạc sĩ Sinh học, Đại học Sư phạm Hà Nội.

29. Phạm Việt Long (2002), Tục ngữ, ca dao và việc phản ánh phong tục tập

quán người Việt trong quan hệ gia đình, Luận án tiến sĩ Văn học, Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

30. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội.

31. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia.

32. Đào Ngọc Minh (2011), “Vận dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam nhằm khơi

dậy niềm say mê học tập của học sinh trong dạy học môn giáo dục công

dân - phần công dân với đạo đức”, Tạp chí Khoa học (4), tr. 88 - 95.

33. Nguyễn Văn Ngọc (1928), Tục ngữ phong dao, Nxb Văn học.

34. Bùi Văn Nguyên (1961), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.

35. Bùi Mạnh Nhị (2003), Văn học dân gian những công trình nghiên cứu,

Nxb Giáo dục.

36. Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ và dân ca Việt Nam, Ban nghiên cứu

Văn Sử Địa xuất bản.

37. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ, ca dao, dân ca, Nxb Văn học, Hà Nội.

38. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội.

39. Nguyễn Hoàng Phương (2001), Ca dao - Tục ngữ Việt Nam, Nxb

Thanh niên.

90

40. Nguyễn Thị Quỳnh Phương (1999), Vận dụng tục ngữ, ca dao Việt Nam

trong việc dạy học môn Giáo dục học ở trường CĐSP Hải Phòng, Luận

văn thạc sĩ Giáo dục học, Đại học sư phạm Hà Nội.

41. Lê Chí Quế (2004), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

42. Hồ Sỹ Quý (1998), “Mấy suy nghĩ triết học và triết lý”, Tạp chí Triết học

(3), tr. 56-59.

43. Nguyễn Đình Thông (2005), Dân tộc Việt Nam qua các câu nói, tục ngữ,

phong ngôn, phong dao, ca vè, Nxb Hội nhà văn.

44. Hoàng Thị Ánh Thu (2011), Một số tư tưởng biện chứng trong tục ngữ,

ca dao Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

45. Phan Ngọc Thu (1985), Thơ ca dân gian, Nxb Văn hóa thông tin.

46. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

47. Lê Huy Thực (2004), “Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ thơ

ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí Triết học (2), tr. 36-42.

48. Lê Huy Thực (2005), “Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục

ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí Triết học (9), tr. 70-72.

49. Đoàn Quang Thọ, Phạm Văn Sinh (1997), Đại cương lịch sử triết học,

Nxb Thống kê, Hà Nội.

50. Thái Duy Tuyên (2007), Triết học giáo dục Việt Nam, Nxb ĐHSP.

51. Cù Đình Tú (1973), “Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ”,

Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 40-42.

52. Phạm Thu Yến (chủ biên), Lê Trường Phát, Nguyễn Bích Hà (2008),

Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Đại học Sư phạm.

91