ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------------
LÊ THỊ HỒNG NHUNG
TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------------
LÊ THỊ HỒNG NHUNG
TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Triết học
Mã số
: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Thanh Xuân
HÀ NỘI - 2015
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu7 ................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
6. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 6
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ................................ 7
1.1. Khái quát về ca dao, tục ngữ Việt Nam ................................................. 7
1.1.1. Ca dao Việt Nam ..................................................................................... 7
1.1.2. Tục ngữ Việt Nam ................................................................................. 11
1.1.3. Đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam .............................................. 15
1.2. Những điều kiện hình thành ca dao, tục ngữ Việt Nam ..................... 19
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 20
1.2.2. Điều kiện văn hóa - tư tưởng ................................................................ 24
1.3. Khái niệm triết lý và triết lý nhân sinh ................................................ 30
1.3.1. Khái niệm triết lý .................................................................................. 30
1.3.2. Triết lý nhân sinh .................................................................................. 33
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 34
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO,
TỤC NGỮ VIỆT NAM ................................................................................. 35
1
2.1. Quan niệm về đời ngƣời, ý nghĩa của cuộc đời con ngƣời ................. 35
2.2. Quan niệm về cách ứng xử của con ngƣời với tự nhiên ..................... 40
2.2.1. Con người sống không thể tách rời với tự nhiên ............................... 40
2.2.2. Quan niệm về lao động sản xuất cải tạo tự nhiên ................................. 45
2.3. Quan niệm về cách ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời trong xã hội ... 50
2.3.1. Tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, bình dị, thiết tha, mãnh liệt
được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày .............................. 50
2.3.2. Mối quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn, sẻ chia ........... 54
2.3.3. Mối quan hệ trong gia đình trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu ............. 57
2.3.4. Mối quan hệ anh em thuận hòa ............................................................. 62
2.3.5 Mối quan hệ tôn sư trọng đạo, bạn bè tình nghĩa ........................................ 63
2.3.6. Mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân tương ái trong cộng đồng,
quốc gia dân tộc............................................................................................... 66
2.4. Những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam ............................................................................................. 72
2.4.1. Về giá trị ................................................................................................ 72
2.4.2. Về hạn chế ............................................................................................. 81
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ bao đời nay trong tâm thức người Việt, văn học dân gian được coi
như một di sản, một kho tàng quý giá tích lũy những gì mà loài người đã biết
được nhờ vào sự trải nghiệm hàng thế kỉ. Trong đó, ca dao, tục ngữ được coi
như những viên ngọc mà sự lung linh, kì ảo của nó đã lặn sâu vào trong kí ức
con người như một ảnh tượng của quê hương ngàn đời.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam đượm màu sắc dân gian, thể hiện tâm tư, tình
cảm của nhân dân lao động Việt Nam. Nó là sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn
lao động sản xuất của cha ông ta, là tài sản vô cùng quý giá của dân tộc. Những
đề tài của ca dao, tục ngữ bắt nguồn từ thực tế cuộc sống lao động sản xuất và
những sinh hoạt đời thường nên nội dung của ca dao, tục ngữ rất đa dạng và
phong phú. Ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng chính là những lời ăn
tiếng nói của nhân dân lao động nên cũng rất dễ hiểu và dễ cảm. Chính vì lẽ đó,
trong lịch sử đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khai thác về chủ đề ca dao,
tục ngữ. Các nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác ca dao, tục ngữ trên nhiều
bình diện khác nhau và đã mang lại những hiệu quả nhất định.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam chứa đựng nhiều triết lý sâu sắc như: triết lý
biện chứng, triết lý đạo đức, triết lý giáo dục đặc biệt hơn cả là triết lý nhân
sinh. Triết lý nhân sinh như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sự đúc kết kinh
nghiệm của cha ông ta về tự nhiên, xã hội, con người. Nó mang lại cho chúng
ta sự hiểu biết sâu sắc về quan niệm của ông cha ta về lẽ sống, về đạo làm
người, về cách ứng xử của con người với tự nhiên và giữa con người với nhau
trong xã hội.
Nghiên cứu về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam không
những khẳng định lại những giá trị văn hóa của dân tộc mà còn góp phần
1
củng cố niềm tin, lý tưởng sống cho người dân Việt Nam nói chung và một bộ
phận thanh niên Việt Nam hiện nay dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa.
Vì những lý do trên tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ca dao, tục ngữ là một thành tố quan trọng, góp phần tạo nên hệ giá trị
tinh thần, bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, ca dao, tục
ngữ đã được thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và
ngoài nước ở những góc độ, những khía cạnh khác nhau. Trước những nghiên
cứu đa dạng và đa ngành về ca dao, tục ngữ việc tiếp cận tư liệu của đề tài
chủ yếu được triển khai trên hai nhóm chủ đề lớn như sau:
Trước hết, là những công trình nghiên cứu tổng quan về ca dao, tục ngữ
Việt Nam:
Công trình sưu tập, nghiên cứu của tác giả Vũ Ngọc Phan “Tục ngữ, ca
dao Việt Nam” (1995), tác giả Đinh Gia Khánh “Văn học dân gian Việt
Nam” (2000). Hai cuốn sách nói trên, các tác giả đã làm rõ khái niệm, nguồn
gốc, sự hình thành, phát triển, nội dung và các hình thức nghệ thuật của ca
dao, tục ngữ Việt Nam nói chung. Ngoài ra, tác giả còn làm rõ mối quan hệ
giữa ca dao, tục ngữ với các thể loại văn học dân gian khác.
Công trình sưu tập ca dao, tục ngữ công phu nhất, có nội dung phong
phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản lần đầu
vào năm 1928. Tập 1 của bộ sách này giới thiệu khoảng 6.500 câu tục ngữ
của các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn được coi là một trong
những công trình sưu tập tục ngữ Việt Nam có quy mô lớn.
Cuốn sách “Tục ngữ ca dao Việt Nam” (2014) của tác giả Ngọc Hà đã
sưu tập và tuyển chọn những câu ca dao tục ngữ rất hay, rất ý nghĩa, rất điển
hình trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tác giả đã sắp xếp các câu ca
2
dao, tục ngữ theo từng chủ đề giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và nghiên cứu.
Đây là một tài liệu tham khảo rất hữu ích cho những người muốn đọc và tìm
hiểu về ca dao, tục ngữ.
Thứ hai, những công trình tập trung khai thác về những yếu tố triết học,
triết lý trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tiêu biểu có những công trình sau:
Trong bài viết “Tìm hiểu yếu tố triết học trong tục ngữ Việt Nam” của
Vũ Hùng in trên Tạp chí Triết học, số 1/1994, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau
cơ bản giữa tục ngữ Việt Nam và triết học đồng thời cũng phân tích để làm rõ
một số yếu tố triết học trong tục ngữ Việt Nam. Ở đây, tác giả mới chỉ phân
tích một cách chung chung về các yếu tố triết học trong tục ngữ, chưa đi sâu
nghiên cứu cụ thể vào một khía cạnh nào.
Đề tài“Những tư tưởng triết học trong truyện kể dân gian Việt
Nam”(2006) của tác giả Phạm Thị Thúy Hằng cũng đã trình bày một số tư
tưởng triết học về thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đề
cập đến những ảnh hưởng của truyện kể dân gian đối với việc xây dựng nền
văn hóa của dân tộc.
Đề tài “Một số tư tưởng biện chứng trong tục ngữ, ca dao Việt Nam”
(2011), Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện chính trị - hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, của tác giả Hoàng Thị Ánh Thu đã đề cập đến tư tưởng biện
chứng trong ca dao, tục ngữ với hai nội dung cơ bản được thể hiện qua hai
chương. Cụ thể là trong chương 2, tác giả trình bày tư tưởng về mối quan hệ
biện chứng giữa con người với tự nhiên trong ca dao, tục ngữ Việt Nam và
trong chương 3, tác giả trình bày về tư tưởng về mối quan hệ biện chứng giữa
con người với con người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Ở đề tài này, tư
tưởng biện chứng chủ yếu chỉ được đề cập ở mối quan hệ giữa con người với
gia đình và xã hội. Những vấn đề như quan niệm về sự vận động phát triển,
3
quan niệm về mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, giữa các yếu tố cấu
thành sự vật, hiện tượng chưa được tác giả đề cập đến.
Trong cuốn “Những yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam” (1996), tác giả Võ Hoàng Khải đã làm sáng tỏ đồng thời hệ thống
hóa các yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ để thấy được bản
chất tư duy của người lao động bình dân. Một số nội dung duy vật và biện
chứng đã được tác giả trình bày khá rõ ràng.
Về chủ đề Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ, tác giả Nguyễn Nghĩa
Dân có biên soạn cuốn “Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam”
(2011). Tác giả đã sưu tập hàng nghìn câu tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo
làm người. Cuốn sách gồm có hai phần chính: Phần thứ nhất tác giả trình bày
những đặc điểm của tục ngữ, ca dao về đạo làm người, đồng thời tác giả tiến
hành phân loại và trình bày nội dung tục ngữ, ca dao về đạo làm người. Phần
thứ hai, tác giả sưu tầm, lựa chọn, giải thích tục ngữ, ca dao về đạo làm
người. Đây là một công trình rất hay và có ý nghĩa, trình bày rất đầy đủ và cụ
thể nội dung về đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Về Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ cũng đã thu hút được sự quan
tâm, nghiên cứu của các tác giả. Tiêu biểu có đề tài “Triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế”(2011) của tác giả Cao Thị Hoa đã đi sâu phân
tích và làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế,
trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống (nhân sinh quan, thế giới
quan) của con người Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, vận dụng nó ở góc độ
kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài mới chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên -
Huế, mà chưa đi sâu tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
4
Điểm qua tình hình nghiên cứu trên cho thấy việc nghiên cứu về triết lý
nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam vẫn cần được tiếp tục. Các công
trình trước đây mới chỉ dừng lại ở việc đề cập một cách chung chung về triết
lý nhân sinh hoặc có phân tích sâu nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi của một
vùng miền, chứ chưa phân tích, làm rõ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam một cách có hệ thống. Vì vậy, việc kế thừa, bổ sung, góp phần hoàn
thiện làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là việc làm
có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu một cách có hệ thống về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống của con người
Việt Nam, góp phần gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn làm rõ:
- Tìm hiểu khái quát về sự hình thành của ca dao, tục ngữ Việt Nam.
- Phân tích một cách có hệ thống triết lý nhân sinh trong kho tàng ca
dao, tục ngữ Việt Nam.
- Bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là triết lý nhân sinh trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những câu ca dao, tục ngữ đã được
tuyển chọn có nội dung chính xác nằm trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam.
5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm và phương pháp luận
của triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu kết hợp các phương pháp logic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh và đối chiếu.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Một là, luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
- Hai là, bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế của triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm
sống của con người Việt Nam thông qua kho tàng ca dao, tục ngữ.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Khẳng định những giá trị to lớn của ca dao, tục ngữ Việt Nam: ca
dao, tục ngữ Việt Nam chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.
- Khẳng định tư duy của dân tộc Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam là
một bộ phận hòa cùng sự phát triển của tư duy nhân loại.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học
tập Văn học dân gian, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, triết học Mác - Lê nin.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 2 chương và 7 tiết.
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái quát về ca dao, tục ngữ Việt Nam
Ca dao, tục ngữ là niềm tự hào to lớn của dân tộc Việt Nam, một thể
loại văn học dân gian độc đáo thể hiện nghệ thuật sống đẹp, bảo vệ chân -
thiện - mỹ, đề cao cái hay, phê phán chỉ trích cái xấu trong xã hội. Đặc điểm
của ca dao, tục ngữ là phong phú về nội dung nhưng lại được diễn đạt bằng
ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, hình ảnh hết sức giản dị, chân thật, gần
gũi với đời sống của người dân. Do đó, chỉ cần đọc qua ta có thể nhớ được dễ
dàng, nhưng phải đọc đi đọc lại và suy ngẫm ta mới thấy hết được cái hay, cái
đẹp trong cách thể hiện nội dung. Tục ngữ ca dao được hình thành từ cuộc
sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân
dân trực tiếp sáng tác, được tách ra từ các tác phẩm văn học dân gian hoặc
ngược lại. Cho đến nay, về mặt văn học thì ca dao, tục ngữ được xem xét trên
nhiều lập trường khác nhau, song chỉ có triết học duy vật biện chứng mới xác
lập được phương pháp luận khoa học để tiếp cận đúng bản chất của ca dao,
tục ngữ. Bởi triết học duy vật biện chứng gắn liền ca dao tục ngữ với thời đại
lịch sử sản sinh ra nó, xem nó là khát vọng của con người muốn giải thích về
các hiện tượng tự nhiên, xã hội và bản thân mình.
1.1.1. Ca dao Việt Nam
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, thì “Ca dao thường là những
câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát, phản ánh đời sống, phong tục,
đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc biệt là tình yêu nam nữ” [tr. 303]
7
Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã định
nghĩa khái niệm ca dao: “Ca dao là những bài hát ngắn không có chương
khúc” [16, tr. 20].
Cũng bàn về khái niệm ca dao, trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam,
tập 2 của tập thể tác giả, Bùi Văn Nguyên (chủ biên) đã nêu: “Ca dao là
những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần
của dân tộc (thường là thể lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình
cảm” [34, tr. 38].
Khi phân biệt giữa ca dao và dân ca tác giả Vũ Ngọc Phan cũng đã giải
thích: “Ca dao là một loại thơ dân gian, có thể ngâm được như các loại thơ
khác” [36, tr. 42].
Như vậy, ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những
tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao
động, trong sinh hoạt gia đình và xã hội, hoặc nói lên những kinh nghiệm
sống và hành động bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan chứ không phải miêu
tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên, trong ca
dao, cái tôi trữ tình nổi lên một cách rõ nét. Cũng như các thể loại văn học
dân gian khác, ca dao phản ánh mọi mặt cuộc sống của người dân Việt Nam
qua quá trình lịch sử. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy màu sắc
Việt Nam, thể hiện một cách sâu sắc, rực rỡ thế giới quan, nhân sinh quan của
con người Việt Nam. Đó là những quan niệm về trời, đất, về nguồn gốc con
người; đó là tinh thần lạc quan trong khó khăn, tinh thần tương thân tương ái
giữa những con người lương thiện; đó còn là những nhận thức sâu sắc về bạn,
về thù, về chính nghĩa. Tóm lại, qua ca dao, ta có thể thấy rõ hiện thực cuộc
sống của nhân dân, cái hiện thực vốn có được hiện lên một cách chân thực nhất.
Nội dung của ca dao rất phong phú đa dạng. Ca dao phản ánh những
quan niệm về trời, đất, về thời thế; phản ánh lịch sử công cuộc đấu tranh
8
chống thiên nhiên, chống áp bức bóc lột và xâm lược. Ca dao miêu tả khá chi
tiết phong tục tập quán, những kinh nghiệm trong sinh hoạt vật chất và tinh
thần của nhân dân lao động, những kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi,
gieo trồng mùa vụ, trong đời sống riêng tư, đời sống gia đình và đời sống xã
hội, qua đó thấy được đức tính cần cù, chịu đựng gian khổ, khó khăn và
những phẩm chất tốt đẹp của người dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên,
với xã hội để sinh tồn và vươn lên giành lấy hạnh phúc.
Nét nổi bật trong bộ phận ca dao lịch sử là nội dung của nó đã thể hiện
một cách mạnh mẽ, sâu sắc tình cảm của nhân dân đối với quê hương, đất nước:
“Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi
nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao” [38, tr. 299 - 300].
Hay những câu ca dao phản ánh những sự kiện lịch sử của dân tộc, nói
lên thái độ, quan điểm, lòng yêu nước của nhân dân ta khi bà Triệu khởi nghĩa
chống quân Ngô xâm lược:“Ru con, con ngủ cho lành/ Để mẹ gánh nước rửa
bành cho voi/ Muốn coi lên núi mà coi/ Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh
cồng/ Túi gấm cho lẫn túi hồng/ Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân”
[38, tr. 34].
Ca dao còn là tiếng nói của trái tim, bày tỏ sự uất ức, phẫn nộ của nhân
dân, là tiếng hát đấu tranh chống áp bức của chế độ phong kiến, cường quyền,
chống quân xâm lược, vạch trần những cái xấu, những tội ác mà chế độ phong
kiến đế quốc gây ra cho nhân dân ta: “Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở
chùa thì quét lá đa/ Bao giờ dân nổi can qua/ Con vua thất thế lại ra quét
chùa” [38, tr. 469].
Hay: “Cái cò mày đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/
Ông ơi ông vớt tôi nao/ Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng/ Có xáo thì xáo
nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con” [38, tr. 459].
9
Hình ảnh nổi bật trong những câu ca dao nói về đất nước, quê hương,
dân tộc… là hình ảnh về con người Việt Nam cần cù trong lao động, dũng
cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hy sinh trong quan hệ giữa
người với người và luôn lạc quan, yêu đời. Ca dao thể hiện những phẩm chất
tốt đẹp đó của con người Việt Nam và hướng họ vươn tới cái chân, thiện, mỹ
trong cuộc sống. Tiêu biểu như những câu ca dao: “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng/ Bầu ơi thương lấy bí
cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” [38, tr. 128].
Ca dao còn là tiếng hát nghĩa tình, tiếng hát yêu thương của con người.
Phong phú và đặc sắc nhất, giàu cung bậc nhất trong tình cảm của con người
là mảng ca dao giành cho tình yêu đôi lứa: “Đố ai quét sạch lá rừng/ Để anh
khuyên gió, gió đừng rung cây/ Rung cây, rung cỗi, rung cành/ Rung sao cho
chuyển lòng anh với nàng” [38, tr. 258].
Ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ đã kết hợp chặt chẽ chủ đề tình yêu
với chủ đề lao động, những nét sinh hoạt, những cảnh vật quen thuộc trong
đời sống hàng ngày của nhân dân. Sự kết hợp giữa các chủ đề đó làm cho ca
dao không chỉ phản ánh quan hệ nam nữ trong khuôn khổ tình cảm cá nhân,
mà còn có nội dung xã hội phong phú và tính tư tưởng cao. Ngoài ra, các chủ
đề trong ca dao rất phong phú và đa dạng. Trong ca dao, bên cạnh tiếng hát
ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng kêu đau khổ, xót xa về
những trắc trở, ngang trái trong tình yêu. Bên cạnh đó, một trong những bộ
phận quan trọng của ca dao là những nhận định về con người và về việc đời
như là sự tổng kết các kinh nghiệm, triết lý, quan niệm đạo đức, nhân cách, là
cách ứng xử, giao tiếp giữa người với người.
Ta thấy, trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học hình thành từ sự thể
hiện tình cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật của ngôn từ, bằng
hình tượng để tạo nên các triết lý sâu sắc. Bài ca dao “Tát nước đầu đình”:
10
“Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được
thì cho anh xin/ Hay là em để làm tin trong nhà/ Áo anh sứt chỉ đường tà/Vợ
anh chưa có, mẹ già chưa khâu/ Áo anh sứt chỉ đã lâu/ Nay mượn cô ấy về
khâu cho cùng/ Khâu rồi anh sẽ trả công/ Đến khi lấy chồng anh lại giúp cho/
Giúp em một thúng xôi vò/ Một con lợn béo một vò rượu tăm/ Giúp em đôi
chiếu em nằm/ Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo/ Giúp em quan tám tiền
cheo/ Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau” [38, tr. 359], là lời tự sự của
chàng trai đối với cô gái nhưng thông qua đó toát lên triết lý lạc quan yêu đời,
khát vọng hướng đến một tình yêu đôi lứa chân chính. Tất cả những điều trên
cho thấy, trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học là một bộ phận rất cơ bản
góp phần tạo nên các giá trị tư tưởng của nó.
Như vậy, ca dao Việt Nam đã thể hiện tư duy sâu sắc của cha ông ta
trên nhiều phương diện của đời sống. Có thể khẳng định rằng, tư duy triết học
trong ca dao không thể hiện bằng con đường lý trí mà trước hết thể hiện bằng
tình cảm, để cuối cùng ca dao đem lại cho con người sự xúc cảm thẩm mỹ,
những triết lý về nhân sinh, thế sự. Nếu triết lý ở tục ngữ là kết quả của tư duy
trừu tượng, tư duy logic, thì triết lý của ca dao là kết quả của tư duy hình
tượng, là nghệ thuật của ngôn từ, là các phép ẩn dụ, so sánh.
1.1.2. Tục ngữ Việt Nam
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4: “Tục ngữ là một bộ phận
của văn học dân gian, gồm những câu ngắn gọn, có vần điệu, đúc kết tri thức,
kinh nghiệm sống, đạo đức thực tiễn của người dân” [tr. 676].
Trong công trình “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (1965) tác giả Vũ
Ngọc Phan đã định nghĩa như sau: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn
vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một lý luận, một công lý, có khi là
một sự phê phán” [36, tr. 39].
11
Theo các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn
trong “Văn học dân gian Việt Nam” (1998), do Nxb Giáo dục phát hành thì:
“Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân lao
động sáng tạo nên và lưu truyền qua nhiều thế kỷ” [26, tr. 244].
Theo M. Gorki, nghệ thuật ngôn ngữ sinh ra do quá trình lao động của
con người từ thời xưa, là xu hướng con người muốn đúc kết kinh nghiệm lao
động vào một hình thức ngôn ngữ dễ nhớ và bám chặt vào kí ức - những hình
thức thơ hai chữ, tục ngữ, truyền ngôn là những khẩu hiệu lao động thời cổ.
Cho nên, có thể khẳng định rằng tục ngữ có từ thời cổ. Đó là những lời ăn
tiếng nói của nhân dân nhằm đúc kết những kinh nghiệm, những điều quan sát
được, những chân lý thông thường trong quá trình lao động của nhân dân về
các hiện tượng tự nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ gia đình, về con
người và đời sống xã hội được lưu truyền qua nhiều thế kỉ. Nhân dân lao động
dùng tục ngữ để thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của mình. Tục ngữ
được sáng tạo ra trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu tổng kết và phổ biến kinh
nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử - xã hội của mỗi cộng đồng. Những
kinh nghiệm ấy được rút ra trong quá trình đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh
xã hội, được trải nghiệm nhiều lần trong thực tiễn, đã trở thành những chân lý
có tính chất phổ biến, được toàn thể nhân dân lao động công nhận và sử dụng.
Tục ngữ vừa tổng kết những kinh nghiệm sống, vừa thể hiện lý tưởng sống
của nhân dân, biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã
hội và con người. Tóm lại, có thể nói các câu tục ngữ là một quyển sách khôn,
một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và về nhân sinh, giúp cho
dân gian ta có được một tri thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời. Trí
khôn đó rất phong phú và đa dạng, được nhân dân vận dụng trong đời sống
sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội như lời ăn tiếng nói và khuyên răn,
bộc lộ một cách sâu sắc kinh nghiệm sống, lối sống, tư tưởng đạo đức, qua đó
12
thể hiện thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những vấn đề của
cuộc sống.
Nội dung tục ngữ là những nhận định, quan niệm, những nhận xét phán
đoán, những kinh nghiệm, kết luận của nhân dân về lao động, về tự nhiên, lịch
sử, xã hội và con người. Những kinh nghiệm ấy thông qua tập thể, được đúc
kết bằng những câu nói xuôi tai hoặc vần vè và được phổ biến trong dân gian.
Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất. Tục ngữ
về lao động sản xuất phản ánh một số nét chính điều kiện và phương thức lao
động của nhân dân, phản ánh đặc điểm đời sống dân tộc. Những kinh nghiệm
được nảy sinh trong quá trình đấu tranh, cải tạo và chinh phục thiên nhiên
được đúc kết trong tục ngữ được phổ biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học
kỹ thuật dân gian.
Tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng tạo của nhân dân
trong lao động, song chủ yếu là kinh nghiệm thực tiễn, nhiều kinh nghiệm chỉ
phản ánh những biểu hiện cụ thể của những quy luật ở địa phương, ở từng
thời điểm nhất định: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười
chưa cười đã tối” [15, tr. 10].
Hay: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì
râm” [38, tr. 237].
Tục ngữ Việt Nam chủ yếu phản ánh những tập tục sinh hoạt của gia
đình và xã hội, sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân trong thời phong
kiến về mọi mặt như ăn, mặc, ở, cưới xin, ma chay, hội hè, sinh hoạt tôn
giáo… Không những thế, nó còn thể hiện triết lý dân gian của dân tộc, phản
ánh những kinh nghiệm sống và lối sống của nhân dân, phản ánh truyền thống
tư tưởng và đạo đức của nhân dân lao động, trong đó bao hàm những tư tưởng
chính trị, xã hội và triết học.
13
Tục ngữ thể hiện chủ nghĩa nhân đạo chân chính của nhân dân lao
động, trước hết là tư tưởng đề cao con người và giá trị cao quý của con người,
xem con người là tinh hoa của trời đất: “Người ta là hoa đất” [38, tr. 99].
Biểu hiện thái độ đánh giá về lao động, cách xét đoán con người qua
lao động: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” [38, tr. 59] phản ánh khá
phong phú những đức tính tốt đẹp của nhân dân lao động, thể hiện truyền
thống tư tưởng, đạo đức của nhân dân thông qua những nhận xét, suy ngẫm
hết sức sâu sắc về hiện thực. Tục ngữ là tấm gương phản ánh qua lời ăn tiếng
nói hàng ngày, mọi biểu hiện của đời sống dân tộc, quan niệm của nhân dân
về lao động, về các hiện tượng lịch sử, xã hội, về đạo đức, tôn giáo… đều
được phản ánh một cách chân thực.
Có thể khẳng định rằng, tục ngữ Việt Nam thể hiện tư duy triết học
phong phú của cha ông ta thông qua việc phân tích, nhận định và khái quát
các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội. Về cơ bản, tục ngữ Việt Nam có
những tính chất sau:
Thứ nhất, tục ngữ bao giờ cũng là kết quả của một quá trình nhận thức,
trải nghiệm của dân gian, đúc kết từ hiện thực để chỉ ra một tri thức đúng, nên
nó luôn hàm chứa giá trị thông tin mà con người truyền đạt cho nhau trong
hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực.
Thứ hai, tục ngữ tồn tại dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc
tích, có vần điệu bằng lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian nhằm diễn đạt
một tình cảm, quan niệm, thái độ trước hiện thực.
Thứ ba, nội dung của tục ngữ luôn mang tính khách quan, nói cách
khác nội dung mỗi câu tục ngữ do đối tượng nó phản ánh quy định.
Thứ tư, tư tưởng của tục ngữ thường phản ánh hiện thực một cách khái
quát, nên nó hàm chứa nhiều tầng ngữ nghĩa, cho phép con người áp dụng vào
cuộc sống một cách linh hoạt, sinh động, đầy tính thuyết phục.
14
Từ các tính chất trên, ta có thể nói rằng tục ngữ là sự thống nhất giữa tri
thức đúng đắn và nghệ thuật ngôn từ nhằm phản ánh hiện thực. Có thể nói
rằng trong tục ngữ Việt Nam, tất cả các vấn đề phổ quát của triết học được thể
hiện một cách sâu sắc bằng một năng lực tư duy triết học rất phong phú và
sinh động. Ở tục ngữ, ta bắt gặp sự chắt lọc trí tuệ dân gian trước vũ trụ nhân
sinh và về bản thân con người đã đạt được sự thâm diệu về nhận thức. Đặc
trưng của tục ngữ Việt Nam là một hàm lượng tư tưởng khoa học lớn được
dồn nén trong trong một lượng ngôn ngữ rất bé làm nổ tung một chuỗi thông
tin liên tục để phản ánh về một vấn đề của hiện thực.
1.1.3. Đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng đời sống tinh thần của
xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không
thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là
không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất.
Với lịch sử lâu đời và bản lĩnh của mình, dân tộc ta đã hình thành và phát
triển trong một quá trình đấu tranh gian khổ và vinh quang. Từ bốn nghìn năm
trước, các bộ lạc người Việt và các bộ lạc khác ở trên đất nước ta vốn cùng
chung nguồn gốc Nam Á, đã cùng nhau phấn đấu xây dựng và bảo vệ quê
hương. Gắn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước ấy, văn học dân gian mà
đặc biệt là ca dao, tục ngữ đã được hình thành và phản ánh mọi mặt đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Mác và Ăngghen đã nhiều lần nhận xét,
các sáng tác dân gian gắn liền chặt chẽ với lịch sử và sinh hoạt của nhân dân.
Nhờ đó mà chúng ta có thể tìm thấy trong ca dao, tục ngữ những tiếng vang
của quá khứ, những dấu vết do bao thế hệ để lại.
Theo quan điểm của triết học Mác, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã
hội, vì ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã hội. Ca dao, tục ngữ Việt Nam là
tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế xã hội và các quan hệ xã hội của người
15
dân lao động Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, khi khẳng định
vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch
sử không xem ý thức xã hội như yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác
dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Cũng tương tự như
thế, ca dao tục ngữ Việt Nam có vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của nhân dân ta từ xưa đến nay. Bằng sự truyền đạt những giá trị
tinh thần của mình, ca dao, tục ngữ đã giúp cho bao thế hệ người Việt Nam củng
cố lòng tự hào dân tộc, tiếp nối hoài bão, nối gót các thế hệ cha ông để khai thác
và làm giàu thêm di sản truyền thống của dân tộc.
Ca dao tục ngữ Việt Nam gắn bó chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của
người dân lao động Việt Nam, là bức tranh toàn diện về cuộc sống lao động
và đời sống tinh thần của người bình dân. Tìm trong ca dao, tục ngữ chúng ta
thấy được môi trường sinh hoạt của ca dao, tục ngữ suy đến cùng là do những
điều kiện lịch sử - xã hội của đời sống nhân dân, do những hình thức sinh hoạt
vật chất và tinh thần của đời sống nhân dân quy định. Khi tìm hiểu bức tranh
sinh hoạt vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, ta thấy trong bất kì hình
thái xã hội nào, sản xuất để dựng nước và chiến đấu để giữ nước là hai bánh
xe của lịch sử, đó là hai nhân tố không tách rời nhau của sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Và ở bất kì nơi nào, trong thời đại lịch sử nào quần chúng
nhân dân cũng là người làm ra lịch sử. Chính cuộc sống sản xuất, chiến đấu
gắn chặt với quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta đã vẽ nên bức
tranh sinh hoạt vật chất, tinh thần sinh động của con người Việt Nam qua bao
thế hệ. Văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ nói riêng đều xuất phát
trực tiếp từ lao động rồi lại trực tiếp phục vụ cho sản xuất và lao động của
nhân dân. Nói cách khác, ca dao tục ngữ nảy sinh và tồn tại như một bộ phận
hợp thành của sinh hoạt nhân dân.
16
Bởi vậy, có thể khái quát một số đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, phải khẳng định rằng, ca dao tục ngữ chính là những sáng
tác của nhân dân, một loại hình nghệ thuật mang tính tập thể. Đặc trưng này
cho thấy ca dao, tục ngữ là sáng tác của nhân dân lao động, những người trực
tiếp sáng tạo nên của cải vật chất lẫn tinh thần cho xã hội. Nhân dân lao động
đồng thời với việc sáng tạo nên giá trị vật chất là sáng tạo nên các giá trị tinh
thần, các giá trị tinh thần đó được biểu hiện trước hết ở văn học dân gian mà
cụ thể hơn là trong ca dao, tục ngữ.
Ở đặc trưng này còn nói lên tính sáng tác tập thể của ca dao, tục ngữ.
Ta đều biết ca dao, tục ngữ từ xưa đến nay đều được lưu truyền qua các thế
hệ, các thời đại, nó là tác phẩm chung của các cộng đồng dân cư. Ở đó thể
hiện sự chắt lọc, gìn giữ bằng sự cảm thụ tinh tường của “con mắt thế gian”.
Thứ hai, ca dao tục ngữ chính là một loại hình nghệ thuật mang tính
tổng hợp.
Đặc trưng này cho ta hiểu rằng ca dao, tục ngữ có nghệ thuật riêng,
nhưng chúng thể hiện được tính thống nhất chung đó là ca dao, tục ngữ phản
ánh được thế giới quan, nhân sinh quan, tình cảm, tâm trạng, quan niệm của
con người trước hiện thực.
Nghệ thuật mang tính tổng hợp của ca dao, tục ngữ thể hiện ở chỗ nó
kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố của ngôn từ và các yếu tố khác của nghệ
thuật để tạo nên hiệu quả cảm thụ cao trong đời sống tinh thần của con người.
Vì lẽ đó, ta thấy sức lan tỏa của ca dao, tục ngữ có thể đi đến mọi ngóc ngách
của tâm hồn cá nhân và đến mọi tầng lớp trong xã hội.
Thứ ba, ta nhận thấy rằng, ca dao, tục ngữ là một loại hình nghệ thuật
mang tính truyền miệng.
17
Đặc trưng này của ca dao, tục ngữ cho thấy phương thức tồn tại của nó
là nói, hát, kể. Trong buổi đầu của lịch sử khi con người chưa có chữ viết,
chưa có sự phân công lao động để có người sáng tác và truyền bá thì rõ ràng
các tác phẩm nghệ thuật của văn học dân gian như ca dao, tục ngữ bao giờ
cũng lấy các cá nhân trong cộng đồng làm tác giả, và do đó, cộng đồng cũng
làm chức năng truyền bá bằng con đường truyền miệng. Nhưng không phải
bất kỳ sáng tác nào cũng được truyền miệng, mà chỉ có những tác phẩm thực
sự có giá trị mới được lưu truyền. Ở đây cho thấy sự truyền miệng của cha
ông ta cũng là sự sàng lọc và gọt dũa theo các cảm quan độc đáo của cả một
cộng đồng. Chính vì thế, bằng con đường này ca dao, tục ngữ đã đến với con
người một cách tự nhiên, dễ dàng, nó giải tỏa mọi tâm tư, tình cảm của con
người trong cuộc sống đời thường.
Từ các đặc trưng trên của ca dao, tục ngữ, trên phương diện triết học ta
thấy ca dao, tục ngữ là một hình thức đặc thù của sự phản ánh hiện thực. Điều
này có nghĩa là trên bình diện triết học, xét từ các đặc trưng đến tính chỉnh thể
của ca dao, tục ngữ đều thấy rằng nó là một bộ phận cơ bản, một nét chủ yếu
trong diện mạo tinh thần của đất nước ta. Và do vậy, xét đến cùng, ca dao tục
ngữ bao giờ cũng phản ánh hiện thực bằng “con mắt chung” của những người
lao động qua các thời đại, đó chính là nét đặc thù của hình thái tinh thần này.
Nhờ vậy mà ca dao, tục ngữ Việt Nam đã đóng góp một phần to lớn vào kho
tàng văn học dân gian Việt Nam, để văn học dân gian Việt Nam được coi như
“một kho bách khoa từ điển Việt Nam, kho tài liệu vô tận cho mọi ngành
khoa học xã hội Việt Nam”.
Có thể nói, ca dao, tục ngữ ra đời trên cơ sở của một lực lượng sản xuất
phát triển nhất định và một quan hệ sản xuất tương ứng với lực lượng sản xuất
ấy. Mặt khác, ca dao, tục ngữ nảy sinh và phát triển trên cơ sở những cảm xúc
thẩm mỹ của con người ở các thời đại lịch sử khác nhau. Bởi vì trong bản
18
chất, ca dao, tục ngữ là một hình thức nghệ thuật của ngôn từ. Nghĩa là khi
mà những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người cho phép họ vượt ra
khỏi khuôn khổ của sự kiếm sống thuần túy, tức là khi cảm xúc thẩm mỹ
không bị lệ thuộc vào những nhu cầu thực tiễn thô thiển, thì ca dao, tục ngữ
được nảy sinh trước hết là từ những hoạt động thực tiễn, mà đặc biệt là thực
tiễn sản xuất vật chất. Chính trong quá trình ấy mà cảm quan thẩm mỹ của
con người được hình thành và phát triển để tạo nên các câu ca dao, tục ngữ đa
dạng và phong phú.
Như vậy, ca dao tục ngữ dù được gọi bằng ngôn ngữ nào đi chăng nữa
thì nó vẫn là một hình thái ý thức xã hội, một hình thức của nghệ thuật ngôn
từ tồn tại bằng phương thức truyền miệng, xét đến cùng nó từ tồn tại xã hội
mà ra, phản ánh tồn tại xã hội. Nên có thể nói rằng, sự hình thành và vị trí của
ca dao, tục ngữ xét trên mọi phương diện đã rõ ràng, vấn đề là tùy góc độ
nghiên cứu và tiếp cận nó, đồng thời, vị trí của ca dao, tục ngữ còn được thể
hiện ở tính nhiều chức năng của nó đã làm cho giá trị thực tiễn của nó sáng tỏ.
Ở ca dao tục ngữ ta thấy rõ chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ, chức
năng nhận thức và chức năng sinh hoạt thống nhất với nhau, nhờ vậy, nó là
một bộ phận cơ bản của văn hóa dân gian.
1.2. Những điều kiện hình thành ca dao, tục ngữ Việt Nam
Như đã nói ở trên, ca dao tục ngữ là một hình thức sáng tác của người
xưa, nó là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi xã hội đã đạt đến giai đoạn canh
tác nông nghiệp, khi yêu cầu của thực tiễn đấu tranh sản xuất đòi hỏi con
người phải giải thích tự nhiên để tác động vào tự nhiên; đồng thời cũng là lúc
giai cấp xuất hiện và cuộc đấu tranh giai cấp đã bắt đầu đòi hỏi con người
thấy bức thiết phải giải thích xã hội, tìm hiểu xã hội và tỏ thái độ trong cuộc
đấu tranh xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Đứng về mặt lịch sử của tư duy
mà nói thì ca dao, tục ngữ ra đời cũng còn là kết quả của trình độ khái quát
19
hóa và trừu tượng hóa tư duy của con người đã phát triển đến một trình độ
nhất định.
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về tình hình kinh tế xã hội ở Việt
Nam trong lịch sử, song cho đến nay, những nghiên cứu ấy vẫn chưa đi đến
thống nhất ở cách phân kì xã hội trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, khi cùng
bàn đến một kiểu phương thức sản xuất tiêu biểu nhất từng tồn tại nhiều nhất
trong nhiều giai đoạn lịch sử ở Việt Nam thì đó là phương thức sản xuất
phong kiến hay gọi là phương thức sản xuất châu Á - phương thức sản xuất
chủ đạo nhất trong nhiều giai đoạn lịch sử ở Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, phương thức sản xuất phong kiến cũng chưa
bao giờ phát triển đến trình độ điển hình. Bởi vì trên thực tế, ở các triều đại
trong lịch sử, bản thân phương thức sản xuất phong kiến luôn đứng trước hai
khuynh hướng. Một là, khuynh hướng cũng dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất
tối cao của nhà nước để củng cố chế độ phong kiến tập quyền; hai là, khuynh
hướng dựa trên tư hữu ruộng đất dẫn đến chế độ phong kiến phân quyền cát
cứ. Tuy nhiên, nếu coi phương thức sản xuất chủ đạo trong lịch sử Việt Nam
dù là phương thức sản xuất phong kiến (tập quyền là chủ yếu và cả phân
quyền) hay là phương thức sản xuất châu Á nói chung, thì tất cả đều là một
kiểu phương thức sản xuất đan xen, trong đó cả phương thức sản xuất nô lệ,
thậm chí cả kiểu phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa. Chính sự đan
xen ấy đã tạo nên một kiểu phương thức sản xuất phong kiến kiểu châu Á đặc
trưng trong lịch sử Việt Nam.
Như vậy, suy đến cùng chế độ sở hữu ruộng đất chính là yếu tố quyết
định phương thức sản xuất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà ngự trị ở
đây là chế độ sở hữu ruộng đất công. Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố sở hữu
ruộng đất mang tính quyết định ấy, việc có nhiều hình thức sử dụng nguồn lao
20
động cũng là yếu tố quyết định những hình thức khác nhau của phương thức
sản xuất kiểu châu Á đặc trưng ở Việt Nam. Hơn nữa, cũng với nền tảng kinh
tế ấy là việc tổ chức hệ thống bộ máy chính quyền cơ sở đó được kiến tạo
ngày càng thể hiện sự phù hợp với điều kiện kinh tế đó. Đặc biệt, kể từ cuộc
cải cách đầu tiên trong lịch sử, từ chỗ việc quản lý trực tiếp xã hội thông qua
vai trò tầng lớp gia trưởng và tộc trưởng ở công xã nông thôn, đến chỗ thiết
lập chính quyền cơ sở đã bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng chế độ
phong kiến trung ương tập quyền mà các triều đại sau này không ngừng củng cố.
Trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến ở nước ta (từ thời Lê Sơ trở
về trước), chế độ phong kiến Việt Nam sơ kỳ vừa mang hình thức phân quyền
cát cứ, vừa mang tính chất nô lệ. Gọi như vậy là vì, phần lớn ruộng đất bị tập
trung trong những điền trang dưới quyền chiếm hữu của giai cấp phong kiến
bóc lột nông nô và gia nô. Nhìn chung, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà
vua chiếm phần rất lớn, đại bộ phận địa chủ mà ruộng đất phải nộp vẫn thuộc
về nhà vua và chiếm gần hết tổng số thu của nhà vua. Tuy vậy, do ruộng đất
nhà vua ban cấp cũng chiếm phần khá lớn nên một bộ phận địa tô không nhỏ
đó chui vào tầng lớp quý tộc, vương hầu. Ngoài ra, do ruộng đất tư chỉ chiếm
vai trò rất khiêm tốn nên địa tô rơi vào tay địa chủ tư hữu chiếm phần nhỏ.
Đây là cơ sở kinh tế củng cố chế độ xã hội phong kiến trung ương tập quyền
Việt Nam.
Từ thời kỳ Lê sơ trở về sau (từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX), ruộng
đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua ngày càng bị thu hẹp, ruộng đất do nhà
vua ban cấp cũng bị giảm sút theo. Ngược lại, ruộng tư ngày càng phát triển
và đến giữa thế kỷ XIX, diện tích ruộng tư đã vượt diện tích ruộng công, sự
phân phối địa tô phong kiến cũng có sự thay đổi tương ứng. Lúc này, đại bộ
phận địa tô chuyển vào tay giai cấp địa chủ tư hữu, nhà vua nhận được phần ít
hơn trước. Phần địa tô của bọn quan lại, vương hầu cũng bị giảm so với tổng thể.
21
Về thực chất, đây là sự thay đổi về phân phối địa tô trong nội bộ giai
cấp phong kiến, địa chủ. Nó không hề làm giảm mức độ bóc lột của giai cấp
phong kiến đối với nông dân. Trái lại, để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu ngày càng
lớn, nhà nước phong kiến đã tìm đủ mọi cách để bóc lột nông dân ngày càng
thậm tệ, dã man hơn. Địa tô hiện vật chiếm vai trò chủ yếu trong suốt thời kỳ
phong kiến ở nước ta. Sự thống trị của hình thức địa tô hiện vật ở nước ta có
phần xuất phát từ nền kinh tế tự nhiên, lạc hậu chiếm vị trí chủ yếu trong các
xã hội phong kiến ở nước ta. Tính chất tự cấp, tự túc cũng rất nặng nề, sản
phẩm nông nghiệp đi vào lưu thông rất ít, tô tiền chỉ có thể giữ vai trò thứ yếu.
Dưới xã hội phong kiến Việt Nam cũng phát sinh nhiều hình thức thu
thuế khác: tô lao dịch và nhiều loại thuế bằng tiền được gọi là phụ thu, “lệ
làng” đi kèm với tô thuế chính. Nhưng nếu cộng các khoản tô thuế phụ đó lại,
có nhiều nơi nhiều khoản thậm chí là cao hơn nhiều so với tô thuế chính. Chỉ
những khoản tô, thuế đó được nhà nước quy định thành chế độ, văn bản cũng
đã khẳng định được mức độ bóc lột của giai cấp phong kiến đối với nhân dân
ta là rất nặng nề. Không những thế, có rất nhiều cấp quan lại, chức tước từ
tỉnh, huyện đến hương tùy tiện nâng mức quy định của nhà nước thêm nhiều
khoản lệ làng để bóp nặn, bóc lột nhân dân.
Ở các nước Tây Âu, chế độ phong kiến phổ biến chỉ tồn tại khoảng 13
đến 15 thế kỷ, sau đó chuyển sang chế độ xã hội khác (chế độ tư bản chủ
nghĩa). Ở nước ta, chế độ phong kiến kéo dài đến 20 thế kỷ. Sự bóc lột của
vua chúa, phong kiến Việt Nam đã lấy hết sản phẩm thặng dư của người nông
dân, không những thế, người nông dân cũng bị quan lại tham nhũng, địa chủ,
cường hào và bọn cho vay nặng lãi thi nhau cấu xé, bòn rút,... Do đó, việc duy
trì được lối sản xuất giản đơn cũng khó khăn nói gì đến lối sản xuất mở rộng.
Khi mà sản xuất trì trệ, nguồn thu để đáp ứng mọi chi tiêu của nhà nước càng
22
ngày càng tăng thì thuế khóa sẽ đè nặng lên đời sống nhân dân Việt Nam mà
tuyệt đại bộ phận là nông dân.
Về phần chi tiêu của Nhà nước phong kiến tuy có những hoạt động
phát chẩn, hỗ trợ nông dân bị mất mùa, đói kém, nhưng bản chất đó chỉ là
những việc nhất thời nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của nông dân, không xuất phát
từ quan điểm lo lắng đến đời sống ấm no, lâu dài của nhân dân. Nhà nước
không quan tâm đến đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, ổn định đời sống mà
tuyệt đại bộ phận cùng quỹ được sử dụng vào phần nuôi dưỡng vua chúa,
hoàng thân, quốc thích với đời sống xa hoa, xây dựng cung đình lộng lẫy,
nguy nga, bộ máy quan lại cồng kềnh, tốn kém, chỉ biết tìm cách vơ vét cho
đầy túi tham không đáy của họ. Sự đóng góp của nhân dân đến kiệt quệ, cùng
cực cũng như “gió vào nhà trống”, bao nhiêu cũng không đủ, ngân quỹ vẫn
khánh kiệt, trống rỗng.
Kể từ năm 1858 khi Pháp đặt chân vào xâm lược Việt Nam cấu kết với
địa chủ phong kiến Việt Nam thi hành những chính sách cai trị vô cùng tàn
độc làm cho đời sống của nhân dân Việt Nam vô cùng thống khổ. Nhân dân ta
phải chịu cảnh áp bức bóc lột nặng nề, một cổ hai tròng. Một mặt, nhân dân ta
phải đối mặt với những chính sách tàn bạo, dã man của thực dân Pháp, mặt
khác phải chịu sự bóc lột của cường hào, địa chủ phong kiến làm cho đời sống
của người dân trở nên điêu đứng, lầm than không lối thoát.
Vào thời Pháp - Nhật, cuối những năm 1944 và đầu những năm 1945,
dưới chính sách cai trị và bóc lột của Pháp, Nhật, nhân dân ta đã phải trải qua
một nạn đói kinh hoàng làm hơn hai triệu đồng bào bị chết đói. Sau cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ, dân tộc ta phải trải qua
một cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ lâu dài. Những gì mà nhân dân ta
phải gánh chịu qua hai cuộc chiến không gì có thể so sánh được.
23
Như vậy, tương ứng với điều kiện phát triển kinh tế, mà kinh tế nông
nghiệp luôn đóng vai trò chủ đạo, và gắn với nó là chế độ sở hữu ruộng đất
công bao trùm lên nhiều hình thức sở hữu khác, quan hệ phân phối địa tô
phong kiến cùng với chế độ lao dịch, quan hệ quản lý với bộ máy trung ương
tập quyền phong kiến đã trở thành cơ sở quyết định hình thành một kiểu kết
cấu kinh tế - xã hội đa dạng, chồng chất, phủ lấp và đan xen lẫn nhau trong
lịch sử Việt Nam. Thực tiễn xã hội đó đã đặt con người trước câu hỏi vì sao
những người phải lao động nặng nhọc, phải hy sinh trong chiến tranh lại phải
sống một cuộc đời hết sức thiếu thốn khổ sở, trong khi những kẻ không phải
lao động, cũng không phải hy sinh trong chiến tranh lại được sống sung
sướng, ấm no? Tóm lại, con người có rất nhiều khó khăn cần phải khắc phục,
đứng trước rất nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết. Mà bao trùm tất cả là
mâu thuẫn trong thực tiễn sản xuất và mâu thuẫn trong thực tiễn đấu tranh
xã hội. Điều đó đã được phản ánh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
1.2.2. Điều kiện văn hóa - tư tưởng
Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp lúa nước với
một số đặc trưng, liên quan chặt chẽ với nhau. Trong cách ứng xử đối với
thiên nhiên, do nông nghiệp lúa nước phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cha
ông ta đã hình thành ý thức rất tôn trọng, sống hài hòa với thiên nhiên, không
dám ganh đua với thiên nhiên. Về nhận thức, nghề nông nghiệp lúa nước cũng
phụ thuộc vào không ít các yếu tố như mưa, nắng, trời, đất,… và các yếu tố
đó quan hệ khăng khít với nhau, do vậy cách tư duy tổng hợp, biện chứng ra
đời. Tổ chức cộng đồng thể hiện trên hai khía cạnh là nguyên tắc tổ chức và
cách thức tổ chức cộng đồng. Do làm nông nghiệp, sống cố định, lâu dài với
nhau, nên đã hình thành nguyên tắc sống trọng tình, trọng đức, trọng văn
trong đời sống của cha ông. Từ lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn phải
đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp, cùng với lối sống tình cảm nên
24
đã dẫn đến cách tổ chức cộng đồng theo lối linh hoạt, luôn biến đổi cho phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc sống trọng tình cảm và nhu cầu cuộc
sống hòa thuận làm cho lối sinh hoạt của cha ông ta càng thấm đượm cách đối
xử hòa hiếu với nhau trong cộng đồng mình và với cộng đồng khác. Chính
điều này đã quy định triết lý hòa hiếu, quân bình, cương nhu nhưng hơi thiên
về nhu, về tình. Xã hội Việt Nam truyền thống nhìn chung là xã hội nông
nghiệp trồng lúa nước theo thời vụ, vì thế con người trồng lúa nước có nhiều
đặc tính giống như nước, thường nghĩ về sự vận động theo chu kỳ, tuần hoàn,
vòng tròn, điều này hoàn toàn khác với cách nghĩ của người sống trên thảo
nguyên, sa mạc.
Mặt khác, lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến thắng oanh liệt giặc ngoại
xâm. Hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải chống ngoại xâm nhiều lần như
Việt Nam. Từ thế kỉ thứ III TCN cho đến nay, Việt Nam đã buộc phải thực
hiện gần 20 cuộc chiến tranh lớn giữ nước và khoảng hơn 100 cuộc khởi
nghĩa giành độc lập. Tổng số thời gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh
chống đô hộ ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng
dân tộc đã trên 12 thế kỷ. Cuộc kháng chiến diễn ra trong so sánh lực lượng
rất chênh lệch, trong hoàn cảnh chỉ có một cơ sở vật chất tương đối nhỏ bé,
đất không rộng, người không đông, cuộc chiến đấu hết sức ác liệt. Do đó, con
đường sống còn và chiến thắng của dân tộc ta là phải biết phát huy sức mạnh
toàn dân, sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của dân tộc. Truyền thống
yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất
được phát huy cao độ. Trong lịch sử Việt Nam, mô hình nhân cách đạo đức
của người anh hùng cứu nước chống giặc ngoại xâm là mô hình mang tính
phổ biến và được đề cao hơn cả. Hình tượng các vị anh hùng dân tộc như Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung,… đã in đậm trong nền văn hóa đạo đức Việt Nam.
25
Bên cạnh đó, trong thời cổ đại, Việt Nam không trải qua thời kỳ phát
triển của chế độ chiếm hữu nô lệ. Xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp
nhau, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội.
Sự tiến triển của hình thái kinh tế - xã hội của mỗi nước mang những nét đặc
thù có ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa, ý thức, quan niệm sống của Việt
Nam cổ đại. Quan hệ nô tỳ tức chế độ nô lệ gia trưởng có phát triển trong
mức độ nào đó nhưng không bao giờ trở thành quan hệ chi phối, thống trị xã
hội, do đó để lại dấu ấn nhất định trong mối quan hệ cũng như tình cảm của
con người. Chế độ phong kiến Việt Nam hình thành gắn liền với sự xuất hiện
và thống trị của phong kiến phương Bắc và trưởng thành cùng với các trào
lưu chống phong kiến phương Bắc, giành độc lập cho dân tộc. Trong thời kỳ
thống trị của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản có nảy sinh và phát triển
trong một mức độ nào đó, nhưng Việt Nam không trải qua một thời kỳ thống
trị của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chủ nghĩa dân tộc tư sản có ảnh hưởng nhất
định, nhưng không giữ vai trò chi phối tư tưởng truyền thống của dân tộc.
Điểm cần chú ý là, Việt Nam nhìn chung nằm trong khung cảnh của
phương thức sản xuất châu Á, thực ra gọi là phương thức sản xuất châu Á
nằm ở giai đoạn quá độ từ cộng sản nguyên thủy lên chiếm hữu nô lệ. Ở châu
Âu có trải qua một giai đoạn tương đối ngắn so với lịch sử, còn ở châu Á, nó
ảnh hưởng dai dẳng, lâu dài cho đến tận thế kỷ XX.
Mặt khác, hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc
của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Đặc biệt từ thế kỷ XV về sau, chế độ
phong kiến chuyển sang mô hình chế độ quân chủ Nho giáo với vai trò chi
phối của hệ tư tưởng Nho giáo và nó có nhiều ảnh hưởng đối với đời sống văn
hóa, tinh thần của Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình lý tưởng về con người Nho
giáo nhào nặn đã để lại dấu ấn rất đậm trong thế giới quan, nhân sinh quan,
nền nếp tư duy, cung cách ứng xử của nhiều thế hệ. Có thể nói, chế độ phong
26
kiến Việt Nam dựa trên nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tồn tại hàng ngàn
năm đã xây dựng cho nó một trật tự, đó là trật tự khắt khe của những quan hệ
gia trưởng, là trật tự nghiệt ngã. Nó mang đặc điểm hoài cổ, cực kì bảo thủ và
trì trệ, nó đã tạo nên khuôn thước trật hẹp, gò bó mọi tư tưởng, tình cảm
của con người.
Giai đoạn văn hóa Việt Nam hiện đại được hình thành dưới ngọn cờ
của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin. Với sự hội nhập sâu rộng
vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng thời gìn giữ, phát huy bản sắc dân
tộc, văn hóa Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới. Có thể nói, xuyên
suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn
hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa
giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ nguồn
gốc văn hóa bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai
đồng hóa, trái lại còn biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giàu cho
nền văn hóa dân tộc. Tất cả đã làm nên một nền văn hóa Việt Nam luôn có sự
thống nhất trong tính đa dạng. Dân tộc Việt Nam vốn có nền văn hóa lâu đời,
mang bản sắc riêng, đầy sức sống và đã từng có những mặt phát triển cao, ví
dụ như nghệ thuật đúc trống đồng, các tri thức về nông nghiệp, y học, kỹ thuật
quân sự,… Trong phong tục tập quán, có những phong tục tập quán mang bản
sắc dân tộc, duy trì tinh thần cộng đồng trong dân tộc. Những thuần phong mỹ
tục cùng với toàn bộ nền văn hóa ấy nói lên những nét hồn nhiên, chất phác,
yêu đất nước, yêu con người, lạc quan yêu đời, đậm đà tình nghĩa.
Bên cạnh đó, xét về mặt tín ngưỡng dân gian thì ở Việt Nam, tín
ngưỡng của người Việt cổ xưa đã bao hàm: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi,
mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống nên đã nảy sinh tín
ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng này tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện:
27
thờ sinh thực khí nam và nữ. Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và
chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ ở Tây Nguyên, trong một số phong tục
và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ. Nông
nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng
nữ thần, lại còn thờ cả động vật và thực vật, thực vật được tôn sùng nhất là
cây lúa.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là một hình thức nghệ thuật độc đáo, gắn bó
với nhân dân ta từ buổi sơ khai cho đến nay. Từ lúc hình thành cho đến nay,
ca dao tục ngữ bao giờ cũng gắn liền mật thiết với mọi sinh hoạt của đời sống
nhân dân Việt Nam. Thiên nhiên, công việc lao động, sinh hoạt hội hè, đình
đám, các cuộc gặp gỡ giữa thanh niên nam nữ, những buổi tụ họp vui chơi
của trẻ em,… là môi trường để nảy sinh các sáng tác văn học dân gian mà
điển hình là sự xuất hiện của ca dao, tục ngữ. Ca dao, tục ngữ là một thể loại
văn học dân gian truyền miệng, sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể, là
tiếng nói chung của cả một cộng đồng chứ không phải của riêng một cá nhân
cụ thể, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp các sinh hoạt khác nhau trong đời
sống cộng đồng. Có thể nói, ca dao tục ngữ là tiếng nói của con tim, khối óc,
nên trong giao tiếp ai ai cũng thích truyền đạt cho nhau, do đó nó trở thành
phổ biến. Tục ngữ và ca dao đã được truyền miệng và gọt dũa từ đời nọ qua
đời kia nên câu văn rất tự nhiên, trong sáng và đã biểu lộ tính tình, phong tục
tập quán của nhân dân ta một cách trong sáng và chân thực. Tuy nhiên, tính
truyền miệng làm nảy sinh một hệ quả đó là tính dị bản trong tác phẩm văn
học dân gian. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi lẽ, Việt Nam dưới thời phong
kiến, tới hơn 90% dân số nước ta bị mù chữ, cho nên truyền miệng chính là
con đường, phương thức hữu hiệu nhất đáp ứng được những đòi hỏi sáng tạo
và hưởng thụ nghệ thuật của họ.
28
Như vậy, từ những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng trên
chúng ta thấy từ khi xuất hiện xã hội loài người, để tồn tại và phát triển, con
người phải lao động kiếm sống và đấu tranh chống chọi với thiên nhiên khắc
nghiệt và những thế lực thù địch. Trong lao động và cuộc sống hàng ngày con
người không ngừng tìm tòi và khám phá thế giới, trước hết là để thích nghi
với môi trường sống, sau đó là để khai thác và cải tạo môi trường phục vụ cho
cuộc sống của mình, đồng thời tích lũy những kinh nghiệm lịch sử, xã hội.
Nhờ đó, loài người dần nắm vững ngày càng nhiều quy luật của các sự vật,
hiện tượng khách quan, tích lũy, hệ thống hóa ngày càng nhiều kinh nghiệm
phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt động. Mặt khác, người dân Việt
Nam còn phải chịu nhiều tầng áp bức trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
người nông dân luôn là những người thấp cổ bé họng, chịu nhiều thiệt thòi. Ai
cũng biết được rằng trình độ giải thích thế giới của con người phụ thuộc vào
trình độ tri thức của họ. Mà trình độ tri thức lại do trình độ sức sản xuất của
xã hội quyết định. Cho nên chúng ta có thể kết luận rằng, ca dao, tục ngữ là
một sản phẩm tất yếu của giai đoạn xã hội đương thời. Và đặc biệt hơn cả là
dưới đời sống xã hội ngột ngạt, đầy rẫy những bất công và nhiều tầng áp bức
mà con người chưa thể tự giải thoát nổi mình thì ca dao tục ngữ là cách giải
quyết lý tưởng nhất cho con người về mặt tư tưởng. Bên cạnh đó,trong bản
thân mỗi con người Việt Nam luôn chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả.
Trong cuộc sống, họ luôn mong muốn những điều tốt đẹp, luôn mong muốn
sống một cuộc sống hài hòa với tự nhiên, có được sự thương yêu lẫn nhau
giữa những con người sống trong cùng một xã hội. Tất cả những mong muốn
đó đã được cha ông ta gửi gắm khéo léo trong những câu ca dao, tục ngữ
phong phú và đa dạng.
29
1.3. Khái niệm triết lý và triết lý nhân sinh
1.3.1. Khái niệm triết lý
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Khoa học - Xã hội - Nhân văn - Viện
ngôn ngữ (Nxb Từ điển Bách khoa, 2007), triết lý được hiểu theo hai nghĩa:
Khi “triết lý” là một danh từ thì nó được hiểu là ý niệm của nhân loại. Triết lý
cũng như bao nhiêu giá trị khác, phải biến đổi theo hoàn cảnh xã hội, theo
phương tiện sinh hoạt của con người. Khi “triết lý” là một động từ thì được
hiểu là: tỏ ý niệm của riêng mình về việc gì đó.
Văn hóa là cội nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống
triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của các hệ thống triết
học. Các triết lý, các hệ thống triết học là những bộ phận cốt lõi nhất trong
nền văn hóa của một dân tộc. Xét trên nhiều khía canh, triết lý luôn ở tầm
thấp hơn so với các hệ thống triết học, song nó cũng là chất liệu của các hệ
thống triết học.
Các triết lý xuất hiện, phát triển và hoạt động trong đời sống xã hội và
cá nhân, mỗi yếu tố đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên hệ với nhau. Trong các
triết lý đã có thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản và các
mặt của hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan hệ xã hội,
đời sống tinh thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những quan niệm
ấy ẩn chứa bên trong các nội dung, chương trình, phương thức hoạt động
chung của xã hội và được cụ thể hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định
hướng cho những hoạt động của các cá nhân và cộng đồng.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam và triết học là hai lĩnh vực hoàn toàn khác
nhau nhưng về phương diện nào đó lại rất gần gũi với nhau. Ca dao, tục ngữ
là sự đúc kết những kinh nghiệm của con người trong quá trình lao động, sản
xuất, mang tính triết lý cao. Do đó, nhiều người còn gọi ca dao, tục ngữ Việt
Nam là triết lý dân gian hay triết học của nhân dân lao động Việt Nam.
30
Làm rõ mối quan hệ giữa triết lí và triết học, trong bài viết “Mấy suy
nghĩ về Triết học và triết lý” của tác giả Hồ Sĩ Quý trên Tạp chí Triết học số
3/1998, tác giả cho rằng: “… dù quan niệm khác nhau đến mấy, trước hết
chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, nếu đã tồn tại với tính cách triết học thì
đương nhiên triết học nào cũng trực tiếp hoặc kín đáo bộc lộ tính hệ thống của
nó; tức là nó phải tồn tại ở trình độ một hệ thống, hoặc tiểu hệ thống những
quan điểm, những quan niệm hoặc tư tưởng… có ý nghĩa phương pháp luận
và thế giới quan (hoặc nhân sinh quan) và những vấn đề chung nhất của mọi
tồn tại và của sự nhận thức cũng như đánh giá về mọi tồn tại đó. Như vậy,
đụng đến triết học là đụng đến tính hệ thống của nó. Nói một cách khác, khi
thuật ngữ triết học được sử dụng, tức là khi người ta buộc phải xem xét những
tư tưởng, quan điểm… trong hệ thống nội tại của chúng. Không hoặc chưa thể
được gọi là triết học nếu những tư tưởng, quan điểm, quan niệm… nào đó
không (hoặc chưa) đạt tới trình độ tồn tại trong cấu trúc của một hệ thống xác
định. Thông thường các tư tưởng, trường phái hoặc nền triết học điển hình
bao giờ cũng đạt tới trình độ của những hệ thống chặt chẽ ở mức độ nhất định
trong logic vốn có của chúng…Người ta khó có thể gọi một quan niệm dân
gian, một thành ngữ hoặc tục ngữ cụ thể nào đó... là triết học được, dù rằng
thành ngữ hoặc tục ngữ đó cũng chứa đựng những tư tưởng không kém phần
sâu sắc về mặt nhân sinh quan hoặc về mặt phương pháp luận và thế giới
quan” [42, tr. 56-57].
Như vậy theo Hồ Sỹ Quý những tư tưởng chứa đựng trong các thành
ngữ, tục ngữ hoặc những khái quát đơn lẻ tương tự như vậy chỉ là những triết
lý chứ không phải là triết học. Vậy, triết lý là gì?
Ông viết: “Mặc dù ở nước ta có một số người dịch philosophy là triết lý
nhưng trong tiếng Việt, chúng ta đều biết triết lý và triết học là các khái niệm
khác nhau, dùng để biểu đạt, phản ánh những đối tượng khác nhau. Nếu như
31
trong đời sống xã hội thuật ngữ triết học chỉ được sử dụng như một danh từ và
đôi khi được sử dụng như một tính từ, thì triết lý thường xuyên được sử dụng
với cả ba tư cách danh từ, tính từ và động từ. Về đại thể, triết lý có thể và nên
được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm… mang tính khái
quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các
phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngôn ngữ; và được sử dụng trong đời
sống xã hội với tính cách là những định hướng cho hoạt động của con người
về mặt thế giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan” [42, tr. 57].
Theo ông, bàn luận về giá trị của triết lý nói chung, triết lý dân gian nói
riêng, người ta dễ dàng nhận ra điểm hạn chế của triết lý trong so sánh với
triết học: “Nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn ở trình độ thấp
hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết
vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy. Nói một cách khác, nếu không
phải là tất cả thì cũng là trong đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt
chẽ hơn, phiến diện hơn và có khả năng chứa đựng mâu thuẫn so với triết
học” [42, tr. 57].
Trong bài viết “Giá trị bền vững của triết lý dân gian trong toàn cầu
hóa” của tác giả Tô Duy Hợp tham gia hội thảo quốc tế “Toàn cầu hóa:
Những vấn đề triết học ở châu Á - Thái Bình Dương” do Viện Triết học tổ
chức tại Hà Nội, tháng 11 năm 2005, tác giả đã nêu cách hiểu của mình về
triết lý nói chung, triết lý dân gian nói riêng: “Triết lý và triết học đều cùng
một phạm trù, đó là thế giới quan và nhân sinh quan. Nhưng triết lý là thế giới
quan kinh nghiệm nó khác với triết học = thế giới quan lý luận”, còn “Triết lý
dân gian là một loại hình triết lý mang tính dân gian... Triết lý dân gian là tinh
hoa của văn hoá dân gian”
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể khẳng định rằng triết lý dân
gian không phải là triết học nhưng lại có mối quan hệ gần gũi với triết học;
32
trong triết lý dân gian, trong ca dao, tục ngữ chứa đựng những yếu tố triết
học. Giá trị của triết lý nói chung, triết lý dân gian nói riêng đã được kiểm
nghiệm bằng chính sức sống lâu bền của nó. Và ngày nay, giá trị của nó đã
được khoa học thừa nhận.
1.3.2. Triết lý nhân sinh
Triết lý nhân sinh là quan niệm về cuộc sống của con người: lẽ sống của
con người là gì? Mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và
sống như thế nào cho xứng đáng? Trả lời cho những câu hỏi đó là vấn đề nhân
sinh quan. Khác với loài cầm thú, bất kì người nào cũng có quan niệm của
mình về cuộc sống. Trong đời thường, đó là nhân sinh quan tự phát, “ngây thơ”
của đại chúng, các nhà tư tưởng khái quát những quan điểm ấy nâng lên thành
lý luận, tạo ra nhân sinh quan tự giác mang tính nguyên lý triết học. Nhân sinh
quan phản ánh tồn tại xã hội của con người, nội dung của nó biểu hiện những
nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hoài bão của con người trong mỗi chế độ xã hội
cụ thể…Chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử, chỉ
rõ hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, và qua
đó mà tự cải tạo, tự nâng mình lên, đó là nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội.
Vì vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc đẩy những quá trình phát triển xã hội đã
chín muồi, những hoạt động lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã
hội tốt đẹp, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời qua đó mà hoàn
thiện năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình.
Tóm lại, nói đến triết lý nhân sinh là nói đến quan niệm về sinh mệnh
con người, cuộc sống của con người trong xã hội, mục đích và lẽ sống của
con người. Vì vậy, triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ Việt Nam chính là
triết lý, là những kinh nghiệm ông cha ta đã đúc kết được về sinh mệnh con
người, về cuộc sống của con người, mục đích và lẽ sống của con người trong
33
xã hội và về những ứng xử của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và
xã hội.
Tiểu kết chƣơng 1
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế xã
hội qua quá trình lịch sử. Trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học được hình
thành từ sự thể hiện tình cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật ngôn
từ, bằng hình tượng để tạo nên các triết lý sâu sắc. Ở tục ngữ, ta bắt gặp sự
chắt lọc trí tuệ dân gian trước vũ trụ nhân sinh và về bản thân con người đã
đạt được sự thâm diệu về nhận thức.
Thông qua việc phân tích các đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam,
ta nhận thấy ca dao, tục ngữ là một hình thức đặc thù của sự phản ánh hiện
thực. Điều này có nghĩa là xét từ các đặc trưng đến tính chỉnh thể của ca dao,
tục ngữ đều thấy nó là một bộ phận cơ bản, một nét chủ yếu trong diện mạo
tinh thần của đất nước ta.
Mặt khác, ca dao, tục ngữ chính là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi đã
đạt đến một giai đoạn phát triển nhất định, và đứng về mặt lịch sử của tư duy,
ca dao tục ngữ ra đời là kết quả của trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa tư
duy của con người.
Chính vì thế, ca dao, tục ngữ là một di sản tinh thần quý báu, là kho tri
thức về kinh nghiệm sống và đạo lý làm người, chứa đựng những triết lý nhân
sinh sâu sắc mà ông cha ta để lại cho dân tộc.
34
CHƢƠNG 2
NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ
VIỆT NAM
2.1. Quan niệm về đời ngƣời, ý nghĩa của cuộc đời con ngƣời
Từ xưa đến nay vấn đề về đời người đặc biệt là về nguồn gốc của con
người, của vạn vật, của sự sống và cái chết là những vấn đề lớn luôn được đặt
ra, nhất là khi con người bắt đầu có ý thức về bản thân mình, biết phân biệt
với muôn loài, có ý thức về quá khứ, hiện tại và tương lai.
Có thể nói, khi quan tâm đến các hiện tượng của tự nhiên, của quá trình
hình thành vũ trụ đồng thời là quá trình con người tìm mọi cách để giải thích
xem nhờ đâu, hay nguyên nhân nào đã làm xuất hiện các giống loài trên trái
đất, và đồng thời cũng chính là quá trình giải thích về nguồn gốc của con
người và sự sống chết của con người. Sự hình dung về nguồn gốc con người
và đời sống của con người trong tư duy của người Việt xưa rất đa dạng và
phong phú khi con người đã tìm cách lý giải nguồn gốc của chính mình, nhận
thức về những thói quen, luật tục cùng với những sinh hoạt xã hội cụ thể.
Khi lý giải về nguồn gốc con người, trong quan niệm của người Việt
xưa vừa mang tính chất duy tâm hữu thần vừa chứa đựng những tư tưởng duy
vật chất phác. Họ cho rằng, bản thân con người cũng như vũ trụ và muôn loài
là do đấng thần linh toàn năng, có quyền phép vô biên sáng tạo ra: “Trời đất
sinh ra ta” [38, tr. 99]. Quan điểm này thoạt nhìn về mặt hình thức thì có vẻ
duy tâm, nhưng xét về mặt nội dung lại mang dáng dấp duy vật chất phác, đã
nói đến nguồn gốc của sự vật, hiện tượng. Trong quan điểm của người Việt
xưa, con người chính là sản phẩm của giới tự nhiên, do trời đất sinh ra, nhưng
là sản phẩm cao quý nhất, tinh túy nhất và hoàn mỹ nhất của tự nhiên: “Người
ta là hoa đất” [38, tr. 99]. Câu tục ngữ có năm chữ nhưng mang nhiều ý
nghĩa hàm ẩn. Hình ảnh hoa là hình ảnh của sự đẹp đẽ, thuần túy, là kết tinh
35
tạo hóa ban tặng. Tương tự thế, hoa đất chính là mạch sống của đất trời, cũng
có thể nói hoa đất chính là con người. Con người chính là một sinh vật hoàn
hảo của vũ trụ, con người có hình thể, bản năng và trí tuệ, đó chính là thứ vũ
khí mạnh nhất. Trí tuệ đã đem lại cho con người sự tìm tòi khám phá, những
kiến thức khoa học tạo nên những bước ngoặt thành đạt đáng khâm phục.
Trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, bạt núi, ngăn sông, khai khẩn đất
hoang, con người đã tin ở trí thông minh và sức lực của mình, con người đã
đứng lên xây dựng một xã hội, một tinh cầu văn minh, câu tục ngữ trên đã
khẳng định được điều đó.
Tuy rằng, những câu tục ngữ trên không trực tiếp nói đến nguồn gốc
của con người, nhưng dường như người Việt xưa đã nói đến quá trình tiến hóa
của thế giới vật chất, trong đó con người là sản phẩm hoàn thiện nhất của thế
giới tự nhiên. Con người không chỉ là tâm điểm của trái đất mà còn là tâm
điểm của vũ trụ. Người Việt xưa đã hiểu rằng con người dù ở đâu, ở thời đại
nào cũng là chủ nhân của những giá trị vật chất và tinh thần, là chủ thể của
lịch sử, cho nên, họ rất quý trọng giá trị của bản thân mình và ý thức được
rằng sự tồn tại của chính bản thân con người là vô giá, không gì có thể so
sánh được, như những gì mà ông cha ta nhắc đến trong tục ngữ: “Người sống
hơn đống vàng”; “Một mặt người hơn mười mặt của” [39, tr. 199].
Trên thế gian này, con người là thứ quý giá nhất. Con người có thể làm
ra mọi thứ, con người nắm giữ, sử dụng thời gian làm ra vàng bạc, lúa gạo,
biết suy nghĩ. Sức lao động của con người là vô hạn và cũng là cái để con
người thực hiện những ước mơ, là phương tiện tồn tại cùng với thời gian. Dân
gian ví con người còn quý hơn cả vàng bạc, của cải làm tôn giá trị của con
người tới mức đỉnh cao, bên cạnh đó người xưa còn muốn nhắn nhủ rằng có
con người thì sẽ có của cải vật chất, bởi người xưa đã từng nói: “Bàn tay ta
làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” [39, tr. 199]. Từ ngàn
36
xưa, nhân dân ta không có những phương tiện máy móc như hiện nay, mọi
người chỉ biết dựa vào sức người, bàn tay và khối óc. Đó chính là những công
cụ sống được truyền từ đời này sang đời khác và bất kì thời nào thì giá trị của
con người vẫn được xem là bậc nhất, luôn luôn được quan tâm hàng đầu. Từ
khi trái đất còn sơ khai, con người đã biết săn bắt, trồng trọt, chăn nuôi để tồn
tại. Trải qua thời gian thì những phát minh được ra đời, những kinh nghiệm
được đúc kết lại làm hành trang vững bước cho thế hệ sau. Những câu tục ngữ
trên thực sự đã khẳng định được tầm quan trọng và đề cao năng lực, giá trị
của con người. Nó không chỉ là một sự khẳng định mà nó còn là một lời
khuyên, là bài học dành cho thế hệ con cháu mai sau.
Trong cuộc sống, điều mà con người quan tâm đó là số phận của mình
sẽ như thế nào. Qua thực tiễn cuộc sống, bằng kinh nghiệm của mình, họ hiểu
được rằng con người cũng nằm trong vòng sinh tử, có quá trình sinh ra, tồn tại
và mất đi, đó là một quy luật của tự nhiên: “Tre già, măng mọc” [39, tr. 198].
Tuy nhiên khi nói đến số phận con người, người xưa lại có những quan điểm
đối lập nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng con người có số phận. Số phận đó
do trời ban, mọi sự giàu nghèo, sang hèn, phú quý kể cả sống chết của con
người cũng do trời quyết định, sắp đặt từ trước, con người không thể làm thay
đổi số phận của mình. Trời tuy ở trên cao nhưng lại thông tỏ hết tất cả mọi
việc diễn ra trong cuộc sống của con người. Như vậy, do trình độ nhận thức
còn hạn chế, cuộc sống lại phụ thuộc quá nhiều vào hiện tượng tự nhiên nên
từ trong suy nghĩ, họ đã thần thánh hóa sức mạnh của trời: “Trăm đường
tránh chẳng khỏi số” [39, tr. 250] . Chính quan điểm đó đã mang lại cho con
người những tư tưởng bi quan, làm thui chột ý chí đấu tranh vươn lên của con
người. Đây chính là mảnh đất để tư tưởng duy tâm phát triển, đồng thời giai
cấp thống trị trong xã hội lợi dụng làm vũ khí để củng cố và bảo vệ địa vị
thống trị của mình. Bên cạnh đó, lại có quan điểm cho rằng, sự sống và cái
37
chết là việc của con người, do con người quyết định, không liên quan gì đến
trời. Họ cho rằng con người sống bằng sự cố gắng của mình, có thể đấu tranh
chống lại số trời để bảo vệ cuộc sống của mình, cho nên cần có thái độ lạc
quan, tin tưởng vào bản thân và tương lai tươi sáng của mình. Sự nỗ lực hôm
nay của bản thân là nguyên nhân thắng lợi của ngày mai: “Có công mài sắt/
Có ngày nên kim” [39, tr. 217].
Quan niệm về số mệnh của con người Việt xưa một mặt chịu sự quy
định của điều kiện kinh tế - xã hội lạc hậu lúc bấy giờ, do trình độ nhận thức
của người dân hết sức hạn chế và thấp kém. Nhưng mặt khác nó cũng chứng
tỏ rằng trong lao động và bằng lao động của mình, người Việt xưa cũng biết
tự mình vươn lên khắc phục số phận, khẳng định vai trò và vị trí của mình
trong thế giới tự nhiên, để làm chủ bản thân mình, không khuất phục trước
sức mạnh của tự nhiên, của trời. Cũng chính nhờ đó, họ hiểu được rằng, con
người tốt hay xấu, giàu hay nghèo, sang hay hèn không phải do trời quyết
định mà là do hoàn cảnh sống, do chính quá trình lao động của con người
quyết định: “Ở bầu thì tròn/ Ở ống thì dài” [38, tr. 103]; “Gần mực thì đen/
Gần đèn thì rạng” [39, tr. 217].
Ca dao, tục ngữ của người Việt xưa cũng đã đề cập đến cái chết của
con người. Có thể nói, quan niệm về cái chết là một trong những tư tưởng tiến
bộ, mang tính nhân văn sâu sắc trong quan niệm về đời người. Họ cho rằng
mọi sự vật và hiện tượng kể cả con người đều có quá trình sinh ra, tồn tại và
mất đi, vì thế đời người ai rồi cũng phải chết, thế nhưng chết lúc nào và chết
như thế nào mới có ý nghĩa và mới đáng tự hào. Họ hiểu rằng: “Người đời
khác nữa là hoa/ Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn”[38, tr. 95]. Vì vậy, người ta
cứ sống như không bao giờ chết, nhưng chỉ khi nào thần chết đến gõ cửa thì
người ta mới cuống cuồng lên lo sợ, buồn phiền, hối tiếc: “Nhưng mà tôi sẽ
38
chết than ôi/ Tôi run như lá, tái như đông/ Trán chảy mồi hôi, mắt lệ phồng/
Năm tháng dồn tôi đã đến/ Trước bờ lạnh lẽo cõi hư không” (Xuân Diệu).
Chính bởi giữa sự sống và cái chết quá đỗi mong manh nên cha ông
khuyên con cháu nên sống sao cho có ích, để khi chết đi không phải hổ thẹn
với chính mình: “Chết trong còn hơn sống đục” [38, tr. 101]. Đây là một bài
học quý mang tính triết lý sâu sắc về lẽ sống, về quan niệm sống đã được
người xưa đúc kết lại và đã được nhân dân lao động đề cao, trở thành cội
nguồn cho tinh thần yêu nước, cho những phong trào đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc.
Bên cạnh cái chết, cha ông ta còn quan tâm đến vấn đề con người sau
khi chết đi sẽ như thế nào. Ca dao, tục ngữ đã phản ánh rõ nét hai quan điểm
trái ngược nhau về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng chết là hết. Đây là
quan điểm tiến bộ, mang tính chất duy vật vì nó khẳng định rằng chỉ có một
thế giới duy nhất đó là thế giới trần tục mà con người đang sống, đang tồn tại
hiện thực, cho nên con người phải sống có ý nghĩa. Họ không thừa nhận sự
tồn tại của thế giới bên kia. Ngược lại, có quan điểm cho rằng, con người
sống chỉ là tạm bợ: “Sống gửi, thác về”. Họ tin tưởng vào sự tồn tại của thế
giới bên kia, cho nên con người khi chết, thể xác mất đi nhưng linh hồn thì
tồn tại vĩnh viễn. Trong tiềm thức của người còn sống vẫn in đậm bóng hình
của người đã khuất, vì thế, giữa người sống với người khuất như có một sợi
dây vô hình gắn chặt họ với nhau. Cha ông ta quan niệm chết không phải là
hết, họ tin rằng có thế giới bên kia, và sau khi chết, con người sẽ được đầu
thai và tiếp tục một cuộc sống mới, đó mới là thế giới vĩnh hằng của con
người. Điều này lý giải vì sao mà người dân Việt sống nặng về tâm linh, thờ
cúng tổ tiên, ông bà và những người thân đã mất. Quan niệm này, xét về mặt
đạo đức nó mang một ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục con cháu, thể hiện
vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi chúng ta đối với gia đình, dòng họ.
39
Chính điều đó đã làm nên nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt
Nam, đó chính là đạo lý “uống nước nhớ nguồn” mang đậm tính nhân văn sâu
sắc của dân tộc ta.
Tóm lại, quan niệm về đời người và ý nghĩa của cuộc đời con người
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là hiện hữu, nó có giá trị nhân văn cao thể
hiện ở niềm tin và tình tình thương yêu mãnh liệt của con người. Tư tưởng
triết lý ấy đã chi phối sự ứng xử của con người Việt Nam trong mọi mối quan
hệ, mọi lĩnh vực của đời sống, giúp con người hiểu được rằng, trong mọi thời
đại, con người là vốn quý nhất mà tạo hóa đã ban tặng và là nguồn gốc tạo ra
mọi của cải cho xã hội, cho nên phải yêu quý và trân trọng chính bản thân con
người. Điều đó đã làm nên sức mạnh giúp dân tộc ra vượt lên mọi khó khăn,
thử thách trong trường kỳ lịch sử để tồn tại và phát triển.
2.2. Quan niệm về cách ứng xử của con ngƣời với tự nhiên
2.2.1. Con người sống không thể tách rời với tự nhiên
Cha ông ta từ rất lâu đã nhận thức một cách tự giác rằng tự nhiên đã
cung cấp cho con người những thứ cần thiết cho cuộc sống, con người cần
phải sống gắn bó với tự nhiên, dựa vào tự nhiên. Điều này được minh chứng
trong kho tàng ca dao, tục ngữ khi mà cha ông ta dành một khối lượng lớn các
câu ca dao, tục ngữ, đặc biệt là tục ngữ để đề cập đến giới tự nhiên. Điều đó
cho thấy người Việt Nam luôn xem tự nhiên và mối quan hệ với tự nhiên là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của mình.
Trong xã hội xưa, con người chủ yếu sinh sống bằng sản xuất nông
nghiệp, kết hợp với nghề chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và săn bắn, hái
lượm, do vậy mà nền nông nghiệp trở nên phổ biến và phát triển. Đây chính là
lý do giải thích tại sao trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam lại đề cập
nhiều đến lao động sản xuất, trong đó phần lớn là những câu ca dao, tục ngữ
nói về các hiện tượng tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
40
Trong quá trình lao động, bằng việc tác động vào giới tự nhiên, con
người đã hiểu rõ vai trò quan trọng mang tính chất quyết định của giới tự
nhiên đối với sự sống còn của họ. Mặc dù con người chưa hiểu được họ là
một bộ phận, một sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, gắn liền với tự nhiên nhưng
họ ý thức được rằng giới tự nhiên cung cấp cho họ những gì cần thiết cho
cuộc sống như nước, không khí, đất, mà nếu thiếu chúng thì con người không
thể tồn tại được.
Người lao động luôn mong muốn mưa thuận, gió hòa để có một vụ mùa
bội thu. Để đạt được mong muốn đó, họ cần phải có sự ủng hộ của tự nhiên.
Chính vì vậy con người dần ý thức được rằng để nâng cao hiệu quả lao động
thì cần phải hiểu tự nhiên. Trải qua những năm tháng lao động vất vả, các
hiện tượng tự nhiên cứ lặp đi lặp lại và nhờ vậy, con người dần dần tích lũy
được những kiến thức về các hiện tượng của tự nhiên, đúc kết được thành
kinh nghiệm phục vụ cho sản xuất.
Là một khu vực nhiệt đới lắm mưa nhiều nắng, Việt Nam có được
những đặc ân từ thiên nhiên nhưng đồng thời phải hứng chịu nhiều thiên tai,
bão lũ. Hơn thế nữa, xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước nên thời tiết, đặc
biệt là những cơn mưa giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người
dân Việt. Mưa không chỉ mang tính chất quyết định con đường làm ăn mà còn
thật sự là khởi nguồn cho mọi của cải và ấm no của người nông dân: “Lạy
trời mưa xuống/ Lấy nước tôi uống/ Lấy ruộng tôi cày/ Lấy bát cơm đầy/ Lấy
khúc cá to” [38, tr. 90].
Do vậy, trong tục ngữ hay ca dao, mưa trở thành đối tượng được quan
sát một cách kỹ càng từ dấu hiệu dự báo thời điểm cơn mưa sắp xuất hiện cho
đến “dung mạo” của từng cơn mưa: “Tháng ba mưa đám, tháng tám mưa
cơn” [38, tr. 223].
41
Bắt đầu từ việc phân loại các cơn mưa bằng những liên tưởng mộc mạc
đầy hình tượng, người nghệ sĩ dân gian đã nỗ lực nắm lấy cái hữu hình của
thực thể này trong bàn tay, bởi lẽ cha ông ta đã quan sát thiên nhiên để nắm
lấy quy luật: “Sao mau thì mưa, sao thưa thì nắng” [38, tr. 222].
Đây là một câu tục ngữ hết sức đặc sắc bao gồm có 2 vế, mỗi vế gồm 4
chữ đối nhau: chữ nắng vần với chữ vắng, cách gieo vần của cha ông ta khiến
cho câu nói trở nên dễ nhớ và dễ cảm. “Mau” có nghĩa là nhiều, là dày, “sao
mau” là nhiều sao, dày sao và sao xuất hiện sớm, mọc sớm. Về mùa hè, trời
vừa chập tối nhiều sao sáng xuất hiện trên bầu trời xanh trong là tín hiệu cho
nhân dân ta biết được ngày mai và những ngày sắp tới trời sẽ nắng, từ đó nhân
dân chủ động sắp xếp công việc làm ăn, cày bừa, cấy hái… “sao thưa” là vắng
sao, ít sao trên bầu trời, đó là hiện tượng cho biết trời sắp mưa. Như vậy, câu
tục ngữ này là một kinh nghiệm rất hay và bổ ích về dự báo thời tiết mùa hè,
giúp cho người nông dân có thể sắp xếp được công việc của mình sao cho phù
hợp tránh những rủi ro, thiệt hại có thể xảy đến.
Tương tự như thế, đã có rất nhiều câu tục ngữ thể hiện những kinh
nghiệm quý báu mà cha ông ta đã rút ra thông qua một thời gian dài quan sát
các hiện tượng thiên nhiên: “Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa”;
“Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”; “Mống bên đông, vồng bên tây/
Chẳng mưa dây thì bão giật”; “Ráng vàng thì nắng, rang trắng thì mưa” [38,
tr. 222-223].
Nhờ có những hiểu biết trên mà con người có thể tránh được nhiều tác
hại do tự nhiên gây ra đối với đời sống cũng như đối với sản xuất, cũng có thể
lợi dụng chúng để phục vụ cho lợi ích của mình.
Như vậy, ngay từ buổi bình minh, con người đã khẳng định được khả
năng trí tuệ của mình. Những kinh nghiệm ấy xét trên lĩnh vực khoa học thì
nó chỉ là việc dự báo thời tiết một cách đơn thuần nhưng xét trên một góc độ
42
khác thì đó là cả cách nhìn, đánh giá, nhận xét tinh tường của thế hệ trước mà
cho đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Nó thể hiện cách nhìn, cách
cảm, cách nhận biết của người nông dân về những hiện tượng diễn ra
quanh mình.
Người Việt xưa cũng rất tinh tế trong việc chú ý đến những loài động
vật gần gũi với cuộc sống như kiến, cóc, ếch, én, chuồn chuồn... Ông cha ta
hiểu rằng, tạo hóa đã ban cho loài vật một phản xạ dự báo thời tiết, dù chúng
không biết nói nhưng những giác quan của chúng cực kỳ nhạy bén.
Trong các loài côn trùng thì kiến là loài rất dễ thay đổi nếp sống khi độ
ẩm không khí thay đổi, vì thế, khi quan sát sự thay đổi của các đàn kiến, nhân
dân ta đã đúc rút ra những kinh nghiệm dự báo thời tiết: “Kiến đen tha trứng
lên cao/ Thế nào cũng có mưa rào rất to” [38, tr. 226].
Kiến là loài côn trùng sợ nước sống ở dưới đất, trên các cành cây, khe
nứt của tường, nếu độ ẩm không khí thay đổi, ắt trời sắp mưa nên kiến phải di
cư để lánh nạn, đặc biệt là kiến đen, kiến lửa, kiến mối. Vì thế, mỗi khi trời sắp
mưa ta thường thấy kiến đen tha mồi, tha trứng từ thấp lên cao, kiến lửa bò
từng đàn ra khỏi hang, hay khi trời sắp mưa, kiến cánh vỡ tổ bay ra khắp nơi,
đó là hiện tượng mà ai cũng có thể thấy được. Thông qua hiện tượng tự nhiên
này, ông cha ta đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm đầy quý báu.
Bên cạnh đó, việc quan sát những loài động vật có cánh để dự báo về thời
tiết cũng là điều mà cha ông ta thường xuyên làm, nhất là với loài chuồn chuồn.
Thông qua việc quan sát rất nhiều lần, người dân khẳng định rằng: “Chuồn
chuồn bay thấp thì mưa/ Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” [38, tr. 237].
Kinh nghiệm mà cha ông ta rút ra hoàn toàn có cơ sở, bởi lẽ, chuồn
chuồn là loài có cánh rất mỏng, nếu không khí có độ ẩm cao thì không thể bay
được, nếu độ ẩm không khí thấp thì chúng bay lên cao rất dễ dàng. Và đặc
biệt hơn, những khi gió to, khí áp giảm, các loài có cánh khó tồn tại nên
43
chuồn chuồn phải đi di cư để tránh gió, đặc biệt là gió bão: “Tháng tám heo
may, chuồn chuồn bay thì bão” [38, tr. 237].
Trải qua thời gian, cha ông ta đã biết ứng dụng những kinh nghiệm đã
nhận thức được về giới tự nhiên để phục vụ cho công việc sản xuất cũng như
trong chăn nuôi. Thời xưa, từ gieo hạt cho đến lúc gặt hái, người dân lúc nào
cũng lo lắng, vì khi thì bão lụt, khi thì hạn hán, ít khi được “trời êm, bể lặng”.
Bởi vậy họ luôn phải chú ý đến thời tiết nông vụ: “Mồng chín tháng chín có
mưa/ Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn/ Mồng chín tháng chín không mưa/ Thì
con bán cả cày bừa đi buôn”; “Muốn ăn lúa tháng năm/ Trông trăng rằm
tháng tám/ Muốn ăn lúa tháng mười/ Trông trăng mồng mười tháng tư”;
“Trăng mờ tốt lúa nỏ/ Trăng tỏ tốt lúa sâu”; “Đom đóm bay ra, trồng cà, tra
đỗ/ Tua rua bằng mặt, cất bát cơm chăm” [38, tr. 235-237].
Trong thời kỳ mà khoa học chưa phát triển, chưa có những dự báo
chính xác về thời tiết thì người nông dân lúc nào cũng canh cánh nỗi lo về
mùa vụ. Chỉ khi nào trời thật sự yên, biển thật sự lặng, thì người nông dân
mới “yên tấm lòng”: “Người ta đi cấy lấy công/ Tôi nay đi cấy còn trông
nhiều bề/ Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông nắng, trông
ngày, trông đêm/ Trông cho chân cứng đá mềm/ Trời êm, bể lặng mới yên
tấm lòng” [38, tr. 226].
Bài ca dao vừa là một phép so sánh giữa những người đi làm thuê, với
những người cày cấy chính thửa ruộng của mình, đồng thời cũng chính là lời
khẳng định những lo lắng, trăn trở của người nông dân một nắng, hai sương.
Yếu tố thời tiết quá quan trọng và gần như chi phối toàn bộ hoạt động sản
xuất của người dân. Khi chưa cầy cấy xong thì người nông dân còn phải
“trông trời, trông đất, trông mây”, rồi lại “trông mưa, trông nắng, trông ngày,
trông đêm”. Nỗi lo ấy chỉ có thể tạm được gác lại khi mà mùa vụ này trời
44
được lặng, biển được êm. Và có lẽ, khi còn gắn bó với đồng ruộng thì nỗi lo
lắng của người nông dân không bao giờ là hết cả.
Thông qua việc phân tích những kinh nghiệm của cha ông ta đúc rút ra
qua việc quan sát khí tượng, hay những kinh nghiệm ứng dụng trong việc sản
xuất nông nghiệp ta nhận thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết, máu thịt giữa
con người với thiên nhiên. Xét cho cùng thì xã hội loài người là bộ phận phát
triển cao tách ra từ thế giới tự nhiên và là một bộ phận khăng khít với thế giới
tự nhiên. Xã hội loài người phát triển theo những quy luật riêng của mình,
nhưng không hoàn toàn tách ra khỏi thế giới tự nhiên. Bản chất của con người
vừa mang tính xã hội, vừa mang tính tự nhiên. Nói cách khác, bản chất con
người là một thực thể tự nhiên phát triển hình thành trên cơ sở tự nhiên trong
mối quan hệ đặc thù- mối quan hệ xã hội.
2.2.2. Quan niệm về lao động sản xuất cải tạo tự nhiên
Con người sống gắn bó với giới tự nhiên, dựa vào tự nhiên và đối mặt
với tự nhiên nhưng không phải lúc nào giới tự nhiên cũng chiều theo ý muốn
của con người. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thật sự là mối
quan hệ máu thịt, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó, con người luôn
đứng ở vị trí trung tâm, nhận thức về giới tự nhiên, tác động và cải tạo giới tự
nhiên nhưng không đối lập với giới tự nhiên. Tuy nhiên, do nhận thức còn hạn
chế, công cụ lao động còn thô sơ, bản thân con người lại quá nhỏ bé nên trước
vũ trụ bao là và bí hiểm khôn lường, con người không có khả năng chi phối tự
nhiên, luôn lo sợ trước các hiện tượng tự nhiên. Do bất lực trước tự nhiên nên
con người phải cầu viện đến sức mạnh của trời đất, từ đó họ luôn cho rằng có
một thực thể tinh thần sinh ra và chi phối các sự vật, hiện tượng và cả bản thân
họ. Chẳng hạn, trước hiện tượng lũ lụt, họ không thể giải thích tại sao lại có
mưa nhiều đến thế, cuối cùng họ nghĩ rằng do con người đã làm điều gì đó sai
trái với trời đất nên trời đất nổi giận trừng phạt. Rõ ràng, trong cách suy nghĩ
45
của người dân dù đã bộc lộ yếu tố thần linh chủ nghĩa, duy tâm và siêu hình
nhưng những yếu tố tích cực vẫn là chủ đạo. Đó là tinh thần lạc quan, yêu đời,
là ý thức về sự tác động của con người đến tự nhiên. Sự tác động đó mang tính
chủ động, tích cực và sáng tạo. Vì thế, con người luôn thể hiện được vai trò
trung tâm của mình, chủ động đối phó với những tình huống bất lợi và làm chủ
bản thân mình, tác động một cách có ý thức nhằm tìm hiểu tự nhiên để thích
nghi và cải tạo tự nhiên. Người lao động đã biết lợi dụng những điều kiện sẵn
có trong tự nhiên để nâng cao thành quả lao động. Điều này cho thấy tư duy
của con người vượt trước điều kiện kinh tế, xã hội lúc bấy giờ.
Nhờ lao động, con người đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm
quý báu, như Mác đã từng nói: Lao động sáng tạo ra chính bản thân con người.
Qua lao động, con người làm cho giới tự nhiên bộc lộ ra những thuộc tính,
những quy luật vốn có, đó là mối liên hệ phổ biến của sự vận động và phát triển
không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên.
Cuộc đấu tranh với tự nhiên của loài người diễn ra liên tục và nhờ có óc
sáng tạo, nhờ sức lao động, nhờ có công cụ, loài người đã cung cấp cho mình
ngày một đầy đủ tư liệu sinh hoạt vật chất. Ca dao có câu:“Ai ơi chớ bỏ ruộng
hoang/ Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu” [38, tr. 228].
Nơi hoang vu đã được bàn tay lao động biến đổi thành ruộng đất phì
nhiêu, nhưng nếu chỉ bỏ hoang một thời gian, cỏ dại lại có thể mọc, ăn hết
màu đất và đất cũng có thể khô cứng như thời chưa khai phá. Cho nên cần
phải lao động liên tục mới cải tạo được thiên nhiên, sản xuất được những thứ
của cải vật chất cần thiết như thức ăn, quần áo, giầy dép, nhà cửa...
Câu ca dao: “Ai ơi đã quyết thì hành/ Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây”
[38, tr. 125] có nghĩa là muốn quyết định một việc gì thì phải thực hiện ngay,
mà khi đã thực hiện thì thì làm đến đầu đến đũa. Nhưng nghĩa đen của nó
nghĩa là việc đầu tiên của nó là khi con người ta đã dùng công cụ sản xuất để
46
lao động tức là đã hoạt động có ý thức, có mục đích như đánh ngã một cây ở
rừng bằng một công cụ thì phải đem tất cả cành lẫn cây về làm vật dụng và
làm củi, đó là việc chinh phục thiên nhiên của con người. Cũng như người
nông dân, nhờ có kinh nghiệm về các loại gỗ, nên đã biến đổi từng loại gỗ ra
công cụ thích ứng với công việc sản xuất: “Gỗ kiền anh để đóng cày/ Gỗ lim,
gỗ sến anh nay đóng bừa/ Răng bừa tám cái còn thưa/ Lưỡi cày tám tấc đã
vừa luống to/ Muốn cho lúa nảy bông to/ Cày sâu bừa kỹ, phân tro cho
nhiều” [38, tr. 216].
Tóm lại, loài người đã chế tạo được ra công cụ, những công cụ ngày
một tinh xảo, lao động của loài người là một việc làm có mục đích, có ý nghĩa
nên loài người đã chinh phục được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho
mục đích của mình. Sự tác động của loài người mang tính chủ động, sáng tạo
nhưng phù hợp với các quy luật của tự nhiên. Việc nắm vững quy luật của tự
nhiên không những giúp con người có được năng suất cao hơn trong lao động,
sản xuất mà còn tạo cho con người có được sự tự do trước tự nhiên. Con
người đã nắm được bản chất quy luật hiện tượng đó mang tính tự nhiên, theo
quy luật tự nhiên chứ không phải do thần thánh tạo ra. Việc nắm được các
quy luật của tự nhiên để tác động vào tự nhiên một cách có mục đích nhằm
tạo ra ngày càng nhiều của cải phục vụ cho đời sống của con người, cho sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình lao động và sản
xuất ấy, hết thế hệ này đến thế hệ khác, trải qua hàng nghìn năm, tổ tiên
chúng ta đúc rút được nhiều kinh nghiệm rất quý, lại có thêm thói quen trong
việc làm nên dần dần cải tiến được công cụ lao động và cải thiện cuộc sống.
Óc sáng tạo của người lao động ngày một mở mang trong quá trình sản xuất
nên có thể nói quá trình lao động là sáng tạo. Chỉ nhờ sức lao động của mình,
nhờ sự bền bỉ trong đấu tranh của mình mà xã hội ngày một tiến lên.
47
2.2.3. Mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tự nhiên
Trải qua hàng nghìn năm lao động và sản xuất, hết thế hệ này đến thế
hệ khác, con người đã đúc kết được những kinh nghiệm quý báu, nhờ vậy óc
sáng tạo của con người cũng được mở mang hơn. Ca dao, tục ngữ đã phản
ánh được giá trị của lao động và phản ánh được mối quan hệ tác động qua lại
giữa con người với tự nhiên.
Mặc dù cuộc sống còn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên nhưng nổi trội vẫn là
tinh thần con người hướng tới việc từng bước làm chủ tự nhiên. Xuất phát từ
mục đích thiết thực là làm thế nào để cây lúa cho năng suất cao, người nông
dân ý thức được rằng họ không thể trông chờ vào sự may rủi hay nhờ vào
đấng tối cao, thần linh nào cả mà phải do nỗ lực của bản thân. Vì vậy họ đã
dồn hết tâm sức, trí tuệ và sự cần cù để tìm ra những biện pháp tối ưu trong
lao động sản xuất. Chính trong lao động vất vả, người nông dân đã đúc kết
được những kinh nghiệm quý báu về thời tiết, khí hậu, đất đai, nhờ thế họ
hiểu được tự nhiên, tuân theo tự nhiên để có được mùa màng bội thu. Đây là
một vấn đề lớn mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc.
Tính triết lý trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên còn được
thể hiện ở chỗ trong điều kiện kinh tế xã hội của nền nông nghiệp lúa nước,
trải qua nhiều thiên tai và tri thức khoa học chưa được phổ biến nhưng người
nông dân vẫn lạc quan, yêu cuộc sống, tin tưởng và làm chủ bản thân mình:
“Rủ nhau đi cấy đi cày/ Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu/ Trên đồng cạn,
dưới đồng sâu/ Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” [38, tr. 231]
Hay: “Trâu ơi, ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta/
Cấy cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công/ Bao giờ cây
lúa còn bong/ Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn” [38, tr. 231]. Sự lạc
quan, yêu lao động giúp cho con người dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn
hướng đến những điều tốt đẹp.
48
Đồng thời, con người cũng ý thức được khi đã là một phần của giới tự
nhiên thì mọi hoạt động của con người không tách ra khỏi thế giới tự nhiên
mà gắn kết chặt chẽ với giới tự nhiên. Con người sống gắn bó với tự nhiên,
dựa vào tự nhiên và đối mặt với tự nhiên, vì không phải lúc nào tự nhiên cũng
chiều theo ý muốn của con người. Trong mối quan hệ với tự nhiên, con người
luôn đứng ở vị trí trung tâm, nhận thức về giới tự nhiên, tác động và cải tạo
giới tự nhiên nhưng con người không thể đối lập với giới tự nhiên, bởi có lẽ
ông cha ta đã ý thức được rằng “chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới
tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác, như một người
sống bên ngoài giới tự nhiên” [31, tr. 655], nếu đối lập với tự nhiên thì đến
một lúc nào đó, sự tổn thương của tự nhiên tích tụ bởi những tác động theo
chiều hướng xấu hoặc quá giới hạn tự nhiên cho phép sẽ dẫn đến những hậu
quả khôn lường. Như một quy luật vay trả, khi đó con người sẽ phải gánh
chịu sự trả thù của tự nhiên: “không nên quá tự hào về những thắng lợi của
chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là
mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta” [31, tr. 654]. Vì thế, trong quá trình
lao động, người Việt xưa từng bước ý thức về việc cần thiết phải nhận thức
được những quy luật của giới tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình,
đồng thời đề cao quy luật của giới tự nhiên.
Như vậy, thông qua ca dao, tục ngữ, cha ông ta đã gửi gắm những triết
lý trong quan niệm về cách ứng xử của con người đối với tự nhiên. Trước hết
đó là biểu hiện của một trình độ nhận thức nhất định về giới tự nhiên trong
điều kiện khoa học chưa phát triển. Đồng thời, thể hiện được tinh thần yêu lao
động, khả năng khám phá và chinh phục giới tự nhiên của loài người. Thông
qua đó, cha ông ta cũng gửi gắm những lời nhắn nhủ của mình tới thế hệ con
cháu mai sau trong cách ứng xử với tự nhiên đó là phải biết tôn trọng tự
nhiên, từ đó xây dựng được lối ứng xử phù hợp nhất với tự nhiên.
49
2.3. Quan niệm về cách ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời
trong xã hội
Con người sống trong xã hội luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau,
mối quan hệ đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của xã hội như một
tất yếu khách quan. Các mối quan hệ chằng chịt trong xã hội đã quy định bản
chất của con người qua mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, qua đó, bản chất của con
người được bộc lộ sâu sắc hơn. Bởi lẽ bản chất của con người được hình thành
từ quá trình con người tác động qua lại với nhau trong mối quan hệ xã hội. Để
có cái nhìn đầy đủ hơn trong quan niệm về cách ứng xử giữa con người với con
người trong xã hội trong qua ca dao, tục ngữ, tác giả tìm hiểu trong các mối
quan hệ cơ bản: trong tình yêu đôi lứa, mối quan hệ vợ chồng, mối quan hệ
giữa ông bà - cha mẹ - con cái, mối quan hệ anh - em, bạn bè, thầy trò, và rộng
hơn cả là trong mối quan hệ đồng bào - hàng xóm - quốc gia - dân tộc.
2.3.1. Tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, bình dị, thiết tha,
mãnh liệt được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày
Tình yêu là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con người thể hiện triết
lý nhân sinh sâu sắc, cho nên dù ở thời đại nào thì tình yêu cũng luôn là đề tài bất
tận cho những áng văn chương và với ca dao, tục ngữ cũng thế. Ca dao, tục ngữ
xưa nói rất tinh tế, ý nhị, sâu sắc về tình yêu nam nữ của người bình dân.
Tình yêu đôi lứa trong ca dao, tục ngữ xưa thể hiện sự chân thành, trong
sáng của các chàng trai cô gái. Ca dao, tục ngữ là nơi chắt lọc biết bao vẻ đẹp
tâm hồn thanh cao, trong sáng của những tình yêu mộc mạc mà đằm thắm: “Đôi
ta như lửa mới nhen/ Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu” [38, tr. 252]. “Lửa
mới nhen” nhất định sẽ bùng lên ngọn lửa, “trăng mới mọc” sẽ còn lên cao và
sáng tỏ, “đèn mới khêu” thì nguồn sáng mới chỉ là lúc bắt đầu. Hàng loạt những
hình ảnh so sánh gần gũi, mộc mạc mà giản dị được các tác giả dân gian sử dụng
để khẳng định mối quan hệ tình cảm giữa chàng trai và cô gái. Tình cảm ấy mới
50
chỉ là buổi ban đầu nhưng chắc chắn sẽ thiết tha và sâu nặng. Và tình cảm thiết
tha, sâu nặng ấy sẽ được phát triển lên tới mức không thể chia cắt: “Đôi ta như
thể con tằm/ Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong/ Đôi ta như thể con ong/Con
quấn con quýt, con trong con ngoài” [38, tr. 263].
Tình yêu đã khiến cho con người trở nên nhân ái, lương thiện hơn, và đặc
biệt hơn cả khi tình yêu trong sáng, thánh thiện ấy lại được sinh ra trong ngọn
nguồn của không khí lao động sản xuất. Trong khung cảnh lao động, tình yêu
của các chàng trai, cô gái trở nên mộc mạc, gần gũi và đẹp đẽ hơn bao giờ hết:
“Bao giờ cho đến tháng hai/ Con gái làm cỏ con trai be bờ” [39, tr. 103].
Những tình cảm ấy xuất phát từ tình yêu và từ những điều mộc mạc và
bình dị nhất, sự bình dị ấy được thể hiện ngay ở trong cách thổ lộ tình cảm
của chàng trai đối với cô gái như trong bài ca dao: “Hôm qua tát nước đầu
đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được thì cho anh xin/ Hay là
em để làm tin trong nhà/ Áo anh sứt chỉ đường tà/Vợ anh chưa có, mẹ già
chưa khâu/ Áo anh sứt chỉ đã lâu/ Nay mượn cô ấy về khâu cho cùng/ Khâu
rồi anh sẽ trả công/ Đến khi lấy chồng anh lại giúp cho/ Giúp em một thúng
xôi vò/ Một con lợn béo một vò rượu tăm/ Giúp em đôi chiếu em nằm/ Đôi
chăn em đắp đôi chằm em đeo/ Giúp em quan tám tiền cheo/ Quan năm tiền
cưới lại đèo buồng cau” [38, tr. 359].
Nếu bài ca dao là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh thì xúc cảm
thẩm mỹ được bắt đầu từ chính lao động và tình yêu đôi lứa. Nói một cách
khác là tình cảm từ cái nền của tình yêu lao động mà tình yêu lứa đôi ra đời:
“Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen”
Đây là một lời tự sự nghe rất chân tình nhưng cũng chính là cái cớ, một
cái cớ của nghệ thuật để hình thành một tình yêu đôi lứa trong lao động. Đây
chính là đối tượng thẩm mỹ chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo nghệ thuật của
tác giả dân gian.
51
Bắt đầu từ cái cớ ấy, cảm xúc thẩm mỹ, tình yêu từ trái tim cứ tuôn trào
một cách tự nhiên và chân thật: “Em được thì cho anh xin/ Hay là em để làm
tin trong nhà/ Áo anh sứt chỉ đường tà/ Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu”…
Cho đến: “Giúp em quan tám tiền cheo/ Quan năm tiền cưới lại đèo
buồng cau”
Đây chính là lời thổ lộ tình yêu, là ước mơ, là khát vọng về hạnh phúc
về tình yêu đôi lứa của chàng trai chân quê. Dù tình cảm, thái độ của cô gái
trong bài ca dao như thế nào đi nữa thì khát vọng ấy vẫn cứ dâng trào, tràn
ngập khiến cho ta có cảm giác như được chia sẻ niềm hạnh phúc ấy. Và chính
cái khát vọng hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa là ngọn nguồn cảm xúc thẩm
mỹ để tác giả dân gian sáng tác nên tác phẩm này.
Qua bài ca dao, ta khẳng định rằng, tác giả dân gian từ hiện thực đã
phát hiện ra được đối tượng thẩm mỹ: tình yêu đôi lứa trong lao động sản xuất
và khát vọng hạnh phúc trong tình yêu ấy. Đó chính là cái đẹp, là ngọn nguồn
của cảm xúc thẩm mỹ, mà cái đẹp trong lao động, trong tình yêu là cái đẹp chỉ
có ở con người như Mác đã viết: “Bản chất con người là luôn luôn sáng tạo
theo quy luật cái đẹp” [30, tr. 20]. Nên bài ca dao thực sự là tác phẩm nghệ
thuật của những người nông dân Việt Nam.
Có những điều mà chàng trai hứa với cô gái trong bài ca dao này:
“Giúp em một thúng xôi vò/ Một con lợn béo, một vò rượu tăm…” thì rõ ràng
là chàng trai cũng không giàu có gì, có lẽ chàng trai cũng chỉ là người thuộc
tầng lớp sống được, đủ ăn. Bởi lẽ, con người bao giờ cũng sống với ước mơ,
với khát vọng, mỗi một tầng lớp đều có những ước mơ, khát vọng riêng của
mình. Chàng trai này cũng thế, cũng có một ước mơ đơn giản, một khát vọng
bình thường mà cháy bỏng, đó là khát vọng hạnh phúc trong tình yêu lứa đôi.
Có thể nói rằng được sống chưa hẳn đã là hạnh phúc của con người, mà được
sống trong lao động, trong tình yêu mới thật sự là hạnh phúc của kiếp người.
52
Đó có lẽ là một điều tự nhiên, hợp với quy luật sinh tồn và phát triển của con
người. Vì thế, có thể nói rằng triết lý của bài ca dao là ở chỗ nó nói lên khát
vọng chân chính của người nông dân Việt Nam, của con người Việt Nam nói
chung là được sống trong lao động và trong tình yêu đôi lứa, ngọn nguồn của
sự trường tồn và bất tử của con người.
Tính nhân văn trong tình yêu đôi lứa còn được thể hiện ở tình cảm thiết
tha, mãnh liệt của các chàng trai, cô gái. Tình cảm ấy được gửi gắm trong ca
dao: “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi” [38,
tr. 253] là lời của cô gái bày tỏ một ước mơ trong tình yêu lứa đôi. Chỉ có hai
câu lục bát mà đủ diễn tả cả một tình yêu thiết tha mãnh liệt. Câu ca dao mở
đầu bằng hình ảnh con sông, con sông cách trở lứa đôi nên em và chàng khó
gặp gỡ. Nhưng có hề gì khi mà “yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng
lội, mấy đèo cũng qua”. Tuy nhiên, “lội” cũng là một sự khó khăn, nếu “bắc
cầu” thì đôi lứa sẽ dễ dàng hơn. Cho nên cô gái “ước gì sông rộng một gang”.
Cách nói cường điệu tạo nên một sự vô lý thú vị. Sự vô lý trong trong điều
mơ ước diễn tả điều có lý của tình yêu. Cây cầu- dải yếm là hình tượng đặc
sắc của bài ca. Cây cầu là một trong những mô típ nghệ thuật quen thuộc và
đặc sắc của ca dao, gắn chặt với đời sống tình cảm phong phú mãnh liệt
nhưng cũng hết sức tế nhị, duyên dáng của người bình dân Việt Nam. Mô tip
này xuất phát từ cuộc sống dân dã của người bình dân. Làng quê Việt Nam
nơi nào mà chẳng có sông, rạch, vì thế nên có cầu. Cầu là phương tiện giao
thông, cầu cũng là không gian trữ tình, là nơi gặp gỡ, hẹn hò của trai gái, cầu
đi vào ca dao, trở thành biểu tượng của tình yêu, ước mơ của tình yêu.
Sự mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa còn được thể hiện ngay trong những
lời tỏ tình của các chàng trai: “Đố ai quét sạch lá rừng/ Để anh khuyên gió,
gió đừng rung cây/ Rung cây, rung cỗi, rung cành/ Rung sao cho chuyển lòng
anh với nàng [38, tr. 258].
53
Những sắc thái tình yêu trong ca dao, tục ngữ muôn phần phong phú và
ấn tượng, thông qua những cung bậc cảm xúc ấy, cha ông ta đã gửi gắm một
triết lý nhân sinh sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với con người, một
mối quan hệ vô cùng đặc biệt làm nên những điều kỳ diệu của cuộc sống.
2.3.2. Mối quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn, sẻ chia
Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ được đề cập đến nhiều trong ca dao
tục ngữ. Bắt đầu từ mối quan hệ này mà nảy sinh và hình thành nhiều mối
quan hệ khác trong gia đình và ngoài xã hội.
Xét trong mối quan hệ gia đình, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ gắn
bó, gần gũi cả về thể xác lẫn tâm hồn: “Vợ chồng đầu gối tay ấp” [38, tr. 341].
Đó là kết quả của tình yêu son sắt thủy chung, lúc nào cũng gắn bó keo
sơn, không thể chia tách. Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ được thắt chặt bởi
hôn nhân, duyên phận. Trong xã hội phong kiến mối quan hệ này thường do
cha mẹ quyết định theo kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và vì thế “may
gặp duyên, chẳng may gặp nợ”. Cái “duyên” và cái “nợ” do tùy từng người
cảm nhận khi chung sống.
Tình cảm vợ chồng, lòng thủy chung son sắt là một đề tài lớn trong ca
dao, tục ngữ. Lòng thủy chung son sắt ấy không chỉ được thể hiện trong lúc
an nhàn, hạnh phúc mà còn trong những lúc cơ cực, bần hàn: “Rủ nhau lên
núi đốt than/ Chồng mang đòn gánh vợ mang quanh giành/ Củi than nhem
nhuốc với tình/ Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên” [38, tr. 257].
Hạnh phúc lớn của một gia đình là vợ chồng hiểu nhau, thương nhau và
sống cho nhau. Ở đây, hạnh phúc đơn sơ trong công việc lem luốc mà đáng
quý biết bao: “Củi than nhem nhuốc với tình”. Sự đồng tâm, nhất trí của cả
hai vợ chồng dồn vào công việc, càng vất vả gian lao bao nhiêu thì sự gắn bó
càng lớn lao bấy nhiêu. Bởi lẽ, trong tâm thức của người vợ, chồng mình luôn
54
là tất cả: “Chồng em áo rách em thương/ Chồng người áo gấm sông hương
mặc người” [39, tr. 87].
Càng vất vả bao nhiêu thì tình thương của vợ chồng lại càng lớn lên
bấy nhiêu, cũng như than kia có nhem nhuốc thì tình vợ chồng vẫn son sắt trước
sau: “Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên”.
Cuộc sống có khó khăn gian khổ biết bao nhiêu, dù có phải lên rừng,
hay xuống biển thì tình nghĩa vợ chồng cũng không thay đổi: “Rủ nhau xuống
biển mò cua/ Đem về nấu quả mơ chua trên rừng/ Em ơi chua ngọt đã từng/
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau” [38, tr. 257].
Lòng chung thủy là biểu hiện cao đẹp nhất trong đạo lý làm người. Tác
giả dân gian đã dùng hình ảnh ẩn dụ để nói về cuộc sống của vợ chồng gắn bó
với nhau trong gian khổ, sung sướng. Rừng với bể là nơi thường xảy ra bão
táp, sóng gió, luôn thường trực mối nguy hiểm rình rập, đó cũng là hình ảnh
ẩn dụ nói lên những khó khăn, vất vả trong cuộc sống mà vợ chồng phải trải
qua. Thế nhưng, trong hoàn cảnh phong ba, bão táp như vậy, họ vẫn cùng
nhau chia sẻ đã giúp ta hình dung đây là một cuộc sống đầy hạnh phúc. Và
một khi đã trải qua muôn vàn những đắng cay thử thách rồi thì chắc chắn
“non xanh nước bạc” vợ chồng cũng không bao giờ phụ nhau.
Câu ca dao giúp ta hiểu rằng dù cuộc sống có nhiều thay đổi nhưng
cuối cùng con người vẫn hướng về sự thủy chung, son sắt, gắn bó. Ta cảm
nhận ở đây được sự mộc mạc, chân chất trong tâm hồn dân tộc. Cuộc sống với
bao đắng cay, nhọc nhằn nhưng tâm hồn người dân quê vẫn lấp lánh một tình
yêu cuộc sống. Và có lẽ lớn lao hơn hết là thông qua những lời ca dao ấy là
lời nhắn nhủ của cha ông về đạo lý, nghĩa tình cho thế hệ con cháu mai sau.
Bên cạnh đó, trong mối quan hệ vợ chồng người Việt luôn luôn có sự
sẻ chia với nhau giữa vợ và chồng. Nếu người chồng được coi là trụ cột của
55
gia đình, thì người vợ là người nắm giữ kinh tế, quản lý chi tiêu và chăm chút,
cất giữ cho gia đình: “Chồng như đó, vợ như hom” [38, tr. 391].
Người vợ một lúc thực hiện nhiều vai trò trong gia đình, vừa là con
dâu, vừa là vợ,vừa là mẹ. Họ luôn giữ vai trò trung tâm, là người giữ lửa hạnh
phúc gia đình. Với chồng, vợ là người chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ
xây dựng gia đình hạnh phúc, vượt mọi khó khăn trong cuộc sống. Sự thuận
hòa giữa vợ và chồng là điều kiện để xây dựng một gia đình yên ấm: “Thuận
vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” [39, tr. 213].
Vợ chồng không chỉ cùng nhau xây dựng kinh tế gia đình mà phải giúp
đỡ nhau trong việc nuôi dạy con cái nên người. Vai trò của người mẹ trong
gia đình là vô cùng quan trọng, bởi mẹ là người có ảnh hưởng trực tiếp và sâu
sắc nhất tới nhân cách của con cái, chẳng thế mà tục ngữ có câu: “Con hư tại
mẹ, cháu hư tại bà” [38, tr. 420].
Câu tục ngữ ngụ ý rằng cha mẹ có thương con thì nên “Dạy con từ thuở
còn thơ” [15, tr. 216] để tạo nề nếp, định hướng cho con ngay từ khi còn nhỏ,
không nên nuông chiều con quá mức sẽ dễ làm con hư thậm chí lớn lên sẽ sai
đường lạc lối.
Trong cuộc sống, vợ chồng phải biết yêu thương, nhường nhịn, sẻ chia
với nhau, bởi: “Vợ chồng là nghĩa già đời/ Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt
hơn” [39, tr. 214].
Hay: “Vợ chồng là nghĩa phu thê/ Tay ấp, má kề sinh tử có nhau”
[38, tr. 341]. Chính vì sinh tử có nhau nên trong cuộc sống, đôi lúc giữa vợ
chồng không tránh khỏi những mâu thuẫn xung đột, hoặc bất đồng ý kiến với
nhau về một vấn đề nào đó thì phải nghe theo lời khuyên của ông bà: “Chồng
tới vợ lui, chồng hòa vợ thuận” [39, tr. 391].
56
Vợ chồng có nhau là để trông cậy, nương tựa vào nhau, là mối quan hệ
hai chiều và đặt trong cùng mối quan hệ với người thân trong gia đình: “Trẻ
cậy cha, già cậy con” [38, tr. 419].
Sự cậy nhờ ở đây không đồng nhất với viêc phụ thuộc, dựa dẫm hoàn
toàn mà là sự trông nom, chăm sóc, đỡ đần lúc ốm đau. Đó là mối quan hệ
gắn bó yêu thương không tách rời. Hai người cùng phải có trách nhiệm với
nhau và với những thành viên khác trong gia đình, không chấp nhận thái độ
thờ ơ, vô trách nhiệm hoặc không thủy chung. Không người chồng hoặc
người vợ nào chấp nhận vợ hoặc chồng mình có những mối quan hệ bên
ngoài với người phụ nữ hoặc đàn ông khác.
Ca dao, tục ngữ phản ánh mối quan hệ vợ chồng trong gia đình Việt, đề
cao tình yêu thương, lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ, tấm lòng yêu
thương bao la của chồng dành cho vợ, đồng thời thể hiện sự sẻ chia, chung
lưng đấu cật của vợ chồng trong quá trình vun đắp hạnh phúc gia đình.
Những câu ca dao, tục ngữ ấy cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
2.3.3. Mối quan hệ trong gia đình trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu
Mối quan hệ trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu trong ca dao, tục ngữ
được biểu hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa ông bà - cha mẹ - con cái.
Sự nghiệp gia đình do ông bà, cha mẹ xây dựng và tạo lập, thế hệ sau là
con cháu tiếp nối lưu truyền và phát triển. Trong gia đình, đó là mối quan hệ
ruột thịt thiêng liêng cao cả. Tục ngữ đã nói mối quan hệ ấy như là một đối
tượng phản ánh không thể tách rời: “Con người có tổ có tông/ Như cây có cội
như sông có nguồn” [38, tr. 422].
Ông bà, cha mẹ luôn là những tấm gương sáng cho con cái học tập, noi
theo. Sự sinh thành, phát triển nhân cách cũng như sự trưởng thành của con
cái đều bị chi phối bởi nền giáo dục từ gia đình mà trước hết là từ phía cha
mẹ. Đó là tấm gương phản chiếu giúp con cái học tập: “Cha nào, con nấy”;
57
“Mẹ nào, con nấy”; “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”;
“Giỏ nhà ai, quai nhà nấy” [38, tr. 417].
Ông bà chính là những cây cao, bóng cả, luôn răn dạy con cháu những
điều hay, lẽ phải. Bởi vậy, ca dao, tục ngữ khuyên con cháu luôn luôn phải
kính trọng và nhớ về ông bà, tổ tiên: “Ngó lên nuộc lạt mái nhà/ Bao nhiêu
nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” [39, tr. 89].
Nuộc lạt - một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng
quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách tự nhiên, giản dị và gần
gũi. Hình ảnh so sánh bao nhiêu, bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương,
sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con đối với ông bà cùng với âm điệu lời
ca dao da diết thể hiện sự kính trọng, biết ơn. Nỗi nhớ ấy được hình ảnh hóa,
lớp lớp tầng tầng in sâu trong lòng con cháu. Và ta chợt nhận ra rằng: “Cây
khô đâu dễ mọc chồi/ Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta/ Non cao bao tuổi mà già/
Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu” [38, tr. 429].
Tim ta chợt nhói đau khi nhìn mái tóc hoa râm của ông bà, cha mẹ. Ta
ước ao, níu kéo mong thời gian quay trở lại nhưng tiếc thay đó đã là quy luật
của đất trời. Có lúc nào đó ta ngồi nghĩ về cha mẹ, ông bà và về chính bản
thân mình như lời ca dao xưa đã nhắc nhở: “Ngày nào em bé cỏn con/ Bây
giờ em đã lớn khôn thế này/ Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy/ Nghĩ sao cho bõ
những ngày ước ao” [38, tr. 428].
Ý nghĩa nhân văn thứ hai mà cha ông ta muốn gửi gắm chính là mối
quan hệ cha con chí hiếu để nói lên vai trò của cha mẹ đối với con cái, đồng
thời khuyên con cái phải làm trọn đạo hiếu để báo đáp công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ.
Ca dao, tục ngữ đã đặt ra vai trò của người làm cha làm mẹ, và vai trò
ấy đã được ghi nhận một cách rõ ràng. Đó là vai trò trụ cột gia đình của người
cha, vai trò không thể thiếu được ở trong bất cứ một gia đình nào. Người cha
58
cho con lòng can đảm, dũng cảm vượt qua mọi chông gai, thử thách của cuộc
sống, cho con khí chất mạnh mẽ, dám làm dám chịu và để con đủ lông đủ
cánh khẳng định bản thân mình trong cuộc sống. Bao giờ cha cũng là người
nghiêm khắc dạy dỗ, uốn nắn con cái. Vì thế: “Con không cha như nhà không
nóc”; “ Con không cha con trễ, cây không rễ cây hư” [38, tr. 423].
Người cha luôn là biểu tượng cho uy quyền, mạnh mẽ. Tình cha con
trong gia đình luôn được đề cập ở những khía cạnh to lớn “Mẹ đánh một trăm
không bằng cha ngăm một tiếng” [38, tr. 421].
Bên cạnh vai trò to lớn của người cha trong gia đình thì không thể không
nhắc đến vai trò của người mẹ trong việc nuôi dạy con cái. Nếu như nói về tình
cha con tục ngữ khẳng định “phụ tử tình thâm” thì nói đến tình mẫu tử, tục ngữ
cũng một lần nữa đề cao vai trò của người mẹ mà trước hết đó là sự hy sinh lớn
lao, âm thầm mà lặng lẽ: “Mẹ nuôi con biển hồ lai láng” [38, tr. 424].
Sự khó khăn vất vả để nuôi con đã khiến cho người mẹ trở nên hao
mòn già nua: “Con biết nói mẹ hói đầu”; “Con biết ngồi mẹ rời tay” [38, tr. 419].
Tất cả những hy sinh ấy cha mẹ dành cho con, âm thầm lặng lẽ mà
chẳng hề kể công. Công ơn trời bể ấy của cha mẹ chẳng thể nào kể siết. Công
ơn ấy chỉ có thể sánh với trời với bể: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu
mới là đạo con” [38, tr. 428].
Bài ca dao được cha ông ta đúc kết từ hàng nghìn năm nay nhưng đến
tận bây giờ nó vẫn là bài ca hay nhất về công lao của cha mẹ dành cho con
cái. Cha sinh, mẹ dưỡng nuôi nấng con nên người. Cha mẹ đã phải trải qua
biết bao nhiêu khó khăn, vất vả để mang đến cho con tiếng cười, niềm hạnh
phúc. Dân gian xưa đã lấy hình ảnh ngọn núi Thái Sơn để ví công lao của
người cha. Đây là hình ảnh so sánh vừa chân thực, vừa cụ thể. Núi Thái Sơn
là một trong những ngọn núi cao và hùng vĩ nhất Trung Quốc. Công lao nuôi
59
dưỡng của cha cũng vậy, không thể nào cân đo đong đếm được. Và hơn thế:
“Con có cha như nhà có nóc” [38, tr. 423].
Nóc đối với ngôi nhà là vô cùng quan trọng, che mưa, gió, bão giúp cho
ngôi nhà được chắc chắn. Ngôi nhà không có nóc cũng giống như những đứa
trẻ bất hạnh mồ côi cha, không có một chỗ dựa tinh thần vững chắc. Có thể
nói, vai trò của người cha trong xã hội trọng nam khinh nữ xưa hay trong
cuộc sống hiện đại ngày nay là vô cùng quan trọng.
Công lao sinh dưỡng của mẹ cũng vô cùng to lớn: “Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra”.
Cách so sánh này quả thực rất hay. Bởi lẽ nước trong nguồn không bao
giờ chảy hết cũng như tình cảm mẹ dành cho con không bao giờ vơi cạn. Mẹ
mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày rồi cho con bú mớm, nuôi dưỡng
con nên người. Nước trong nguồn chảy ra cũng ngọt ngào, dịu mát như dòng
sữa mẹ vậy. Dòng sữa trắng trong chứa đựng biết bao tình cảm, sự hy sinh mẹ
dành cho con. Công cha, nghĩa mẹ đối với con cái thật to lớn. Chúng ta sinh
ra được sống trong vòng tay âu yếm, đầy tình thương, đầy những lo toan, vất
vả mà cha mẹ đã phải chịu đựng: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ/ Đêm năm
canh chầy thức đủ năm canh” [39, tr. 74].
Vậy chúng ta với trách nhiệm là những người con phải làm tròn chữ
hiếu để đền đáp công lao của cha mẹ: “Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn
chữ hiếu mới là đạo con”.
Trong xã hội xưa có biết bao câu chuyện cảm động về lòng hiếu thảo:
chuyện về một người con lấy thịt mình làm thuốc cho mẹ, chuyện về Lão Lai
Tử người nước Sở lúc bảy mươi tuổi còn mặc áo ngũ sắc nhảy múa để mua
vui cho cha mẹ. Chữ hiếu được thể hiện ngay trong hành động, ngay trong
tình cảm mà chúng ta dành cho cha mẹ. Bổn phận của người làm con trước
hết là tu dưỡng học hành, đỗ đạt thành tài để làm cha mẹ vui lòng. Sau đó tận
60
tình chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi đau ốm, lúc tuổi già. Đạo làm con
không phải một sớm một chiểu mà phải làm trọn vẹn chữ hiếu, dành trọn cả
tấm lòng để đền đáp công lao sinh thành của cha mẹ. Câu ca dao ấy cho đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Nó không chỉ ngợi ca tình cảm cha mẹ bao la,
rộng lớn mà còn muốn nhắn nhủ người làm con phải giữ trọn bổn phận, giữ
trọn chữ hiếu.
Công cha, nghĩa mẹ là đề tài bất tận mà ca dao, tục ngữ không chỉ nhắc
đến một lần, mà còn rất nhiều câu ca dao có ý nghĩa tương tự khi nói về công
lao trời biển của cha mẹ. Như bài ca dao: “Công cha như núi ngất trời/ Nghĩa
mẹ như nước ngời ngời biển Đông/ Núi cao biển rộng mênh mông/ Cù lao
chín chữ ghi lòng con ơi” [15, tr. 223].
Công cha nghĩa mẹ trời biển là vậy, bởi thế chúng ta hãy sống sao cho
xứng đáng với công lao cha mẹ, sống cho trọn hiếu, trọn đạo. Hiếu ở đây là
hiếu nghĩa, hiếu thuận, hiếu với cha mẹ, tổ tiên, cội nguồn, thuận hòa trong
gia đình, dòng họ, kính trên, nhường dưới. Thuận ở đây không những là đạo
làm con mà còn phải là đạo làm người, là đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn”;
“Ăn quả nhớ người trồng cây” [38, tr. 110].
Lối sống và cách ứng xử của người Việt biểu hiện nét văn hóa dân tộc
sâu sắc đậm đà của dân tộc. Người Việt Nam nặng chữ hiếu và bao giờ cũng
nghiêng về chữ mẹ. Vai trò trách nhiệm của cha mẹ là chăm lo, vun đắp cho
con cái và hướng tới sự bình yên của gia đình, và vì thế ông bà, cha mẹ luôn
luôn phải tu nhân tích đức để phúc cho con cháu mai sau.
Nguyện vọng của những bậc làm cha làm mẹ là mong cho con cái của
mình được trưởng thành khôn lớn. Cha mẹ vui vẻ, sung sướng hay lo âu,
nghèo khổ đều là ở cuộc sống của con cái sau này: “Con cái khôn ngoan vẻ
vang cha mẹ”; “Con hơn cha là nhà có phúc” [38, tr. 418].
61
Cái phúc của một gia đình đó là khi con cháu được thành đạt hơn ông
cha của mình. Ngược lại “con dại cái mang” [38, tr. 417].
Dân tộc ta luôn coi trọng con người, coi trọng đạo hiếu, vì vậy, những
bài học về tình cảm giữa ông bà, cha mẹ và con cái được phản ánh sâu sắc và
truyền từ đời này sang đời khác. Nó được phản ánh theo nhiều mặt, nhiều
khía cạnh nói lêm sự sâu sắc trong lối sống, lối nghĩ của người dân Việt Nam.
2.3.4. Mối quan hệ anh em thuận hòa
Mối quan hệ anh em thuận hòa được biểu hiện cụ thể ở mối quan hệ
giữa anh chị em ruột với nhau trong một gia đình, đó là mối quan hệ không
thể tách rời: “Anh em như thể tay chân” [39, tr. 221].
Bởi lẽ họ cùng chung với nhau một núm ruột, cùng từ bụng mẹ mà ra,
cùng từ cha, từ mẹ mà có được hình hài, thể xác. Vì thế, anh chị em trong gia
đình phải đoàn kết yêu thương nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình trong ấm
ngoài êm.
Tình cảm yêu thương gắn bó của anh chị em ruột được thể hiện dù ở
bất kỳ nơi nào và hoàn cảnh nào. Đó là những biểu hiện, ứng xử đẹp của
những người cùng chung dòng máu: “Chị ngã em nâng”; “Anh em hạt máu
sẻ đôi” [39, tr. 221].
Anh em thuận hòa tạo nên một gia đình ấm êm, hạnh phúc: “Anh em
thuận hòa là nhà có phúc”; “Chị em trên kính dưới nhường/ Là nhà có phúc
mọi đường yên vui” [39, tr. 221].
Tuy nhiên, sự va chạm, xô xát giữa anh chị em trong gia đình là những
điều không thể tránh khỏi nên tục ngữ cũng răn dạy: “Anh em trong nhà đóng
cửa bảo nhau” [39, tr. 221].
Cũng vì một lẽ: “Cắt dây bầu bí, ai nỡ cắt dây chị em” [38, tr. 432].
62
Anh chị em trong gia đình dù có thế nào cũng là tình cảm ruột thịt,
đáng quý cần phải trân trọng và giữ gìn: “Em khôn cũng là em chị, chị dại
cũng là chị em” [39, tr. 221].
Và phải biết giúp đỡ, hy sinh cho nhau chứ không được đá đáp lẫn
nhau: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá
nhau” [38, tr. 432].
Người Việt luôn hướng đến sự thuận hòa, bình an và hạnh phúc, họ
luôn mong ước đến sự tốt lành, và điều ấy được phản ánh đầy đủ trong ca
dao, tục ngữ.
2.3.5. Mối quan hệ tôn sư trọng đạo, bạn bè tình nghĩa
Mối quan hệ thầy trò được ca dao, tục ngữ khắc họa đậm nét. Người
thầy trong xã hội xưa có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với nhân dân. Dù
chỉ là một ông giáo làng bình thường, không giàu sang, không quyền cao chức
trọng nhưng người ta vẫn rất mực tôn trọng, kính nể: “Muốn sang thì bắc cầu
Kiều/ Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy” [39, tr. 220].
Không giàu về vật chất, không sang về địa vị nhưng người thầy có cả
một “gia tài” không phải ai cũng có được. Đó là tri thức, là hiểu biết, là kỉ
cương mẫu mực, làm chủ được những thứ ấy mới được làm thầy.
Bởi thế, người ta tôn trọng, nể phục thầy cũng là điều dễ hiểu. Và đặc
biệt, người thầy được tôn trọng, kính nể không chỉ vì thầy có tri thức, kỉ
cương mẫu mực mà quan trọng hơn là người thầy đã dùng tri thức và kỉ
cương của mình để dạy dỗ, dìu dắt, uốn nắn bao thế hệ học trò nên người. Tục
ngữ đã khẳng định: “Không thầy đố mày làm nên” [39, tr. 220].
Đối với mỗi người học trò, cho dù có thông minh, tài giỏi đến đâu cũng
không thể tự mình tiếp cận với vốn tri thức của nhân loại mà không cần đến
sự dìu dắt, định hướng của người thầy.
63
Chúng ta đều biết rằng, mỗi con người không phải tự nhiên được sinh ra,
tự nhiên lớn lên và trưởng thành mà luôn được sự chăm sóc, chở che, dạy dỗ
của nhiều người. Lúc còn nhỏ, ta chịu công ơn sinh thành, dưỡng dục cao như
núi Thái Sơn của cha, mênh mông như nước trong nguồn của mẹ. Còn khi lớn
lên, khi chúng ta đi học thì người gần gũi, uốn nắn cho ta không ai khác chính
là người thầy: “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học” [39, tr. 221].
Như vậy là người xưa đã đặt người thầy ngang hàng với đấng sinh
thành ra mình. Bởi cơm, áo và chữ đều rất quan trọng. Cha mẹ cho con cơm
no để ăn, áo ấm để mặc thì người thầy cho con tri thức để hiểu biết, để làm chủ
cuộc đời.
Người thầy không chỉ dạy trò biết chữ mà còn dạy trò biết bao điều hay
lẽ phải, đạo lý đúng ở đời. Người học trò không chỉ được học chữ, học điều
hay lẽ phải mà còn nhận được ở thầy sự quan tâm, ân cần. Vì vậy, trong lòng
mỗi người học trò luôn ghi nhớ công ơn dạy dỗ của thầy:“Nhất tự vi sư, bán
tự vi sư” [39, tr. 225].
Thế mới biết nhân dân ta đã coi trọng người thầy và nghề dạy học đến
mức nào. Người thầy có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đời mỗi người
và vì thế, quan hệ thầy trò trở nên vừa gần gũi, vừa thiêng liêng như tình cha
con. Mỗi người ngoài việc phải sống có hiếu với cha thì còn phải sống có
nghĩa với thầy. Mỗi năm khi Tết đến, xuân về, vào dịp hội lễ, học trò đến
thăm hỏi thầy giáo đã trở thành nét đẹp trong văn hóa ứng xử truyền thống
của người Việt: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy”
[39, tr. 217].
Để được trò kính như cha, bản thân người thầy không chỉ có chữ mà
còn phải là người có tình thương, trách nhiệm: “Mẹ muốn con hay, thầy muốn
trò giỏi” [39, tr. 225].
64
Người thầy còn mang cả những trăn trở, lo lắng của xã hội vào trong
cuộc sống của mình: “Còn trời còn nước còn non/ Còn người thất học ta còn
phải lo” [39, tr. 225].
Hình ảnh người thầy cũng như tình cảm yêu kính của nhân dân đối với
người thầy được thể hiện qua ca dao, tục ngữ chiếm một bộ phận không nhỏ
trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam. Điều đó cho thấy người thầy có một
ảnh hưởng khá lớn trong đời sống của mỗi người nói riêng và với xã hội nói
chung. Tình cảm thầy trò đã trở thành thứ tình cảm gắn bó, gần gũi một cách
tự nhiên mà vô cùng thiêng liêng, cao cả, làm nên truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Truyền thống ấy như mạch nước
ngầm, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời gian từ xưa, đến nay và mãi mãi về sau.
Bên cạnh mối quan hệ thầy trò được ca dao, tục ngữ thể hiện rất sâu
sắc, thì mối quan hệ bạn bè cũng là một nội dung không thể không nhắc đến,
bởi lẽ, không ai sống mà không có bạn bè, không có người hướng đường chỉ
lối. Tình bạn là mối quan hệ giữa những con người hiểu nhau, tin tưởng nhau,
biết lắng nghe và biết chia sẻ cùng nhau. Bởi vậy, sau tình cảm vợ chồng, tình
yêu đôi lứa thì tình cảm bạn bè được coi là thứ tình cảm gần gũi, giản dị mà
nhất mực quan trọng trong đời sống tâm hồn con người. Vì vậy ở bất cứ nơi
đâu, bất cứ thời đại nào, tình bạn đẹp vẫn luôn được ngợi ca: “Bạn vàng lại
gặp bạn vàng/ Long, lân, quy, phượng, một đoàn tứ linh” [38, tr. 106].
Chính vì bạn có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của mỗi
người nên vì thế ông cha ta đã răn dạy: “Anh em bạn hữu phải nên chọn
người” [39, tr. 223]; “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” [39, tr. 217].
Chọn bạn để chơi cũng giống như chọn nơi để ở là điều rất quan trọng.
Nó không chỉ đúng trong xã hội xưa mà cho đến nay nó vẫn còn nguyên giá
trị. Chọn được một người bạn tốt để chơi cũng sẽ học hỏi được những điểm
65
tốt từ phía họ và ngược lại, nếu chọn nhầm bạn không tốt thì không khác gì
“gần mực”, sẽ có một lúc nào đó bị ảnh hưởng những tính nết xấu đó.
Không những thế, ông cha ta cũng khuyên dạy, trong lúc chơi cùng bạn
bè phải phấn đấu sao cho không được để thua bạn: “Thua trời một vạn/
Không bằng thua bạn một ly” [38, tr. 106], hay ít ra cũng phải có tinh thần
cầu thị, nhanh tiến bộ: “Học thầy không tày học bạn” [39, tr. 217].
Mối quan hệ bạn bè chính là mối quan hệ tình nghĩa, đây được coi như
thứ tình cảm vô cùng trong sáng, thánh thiện không thể thiếu được trong cuộc
đời mỗi con người.
2.3.6. Mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân tương ái trong cộng
đồng, quốc gia dân tộc
Sự gắn bó ruột thịt giữa con người với con người, tinh thần tương thân,
tương ái với cộng đồng, với quốc gia dân tộc xét cho cùng nó là một trong
những biểu hiện của đạo làm người của người dân Việt Nam.
Xét về lịch sử, đạo làm người trong ca dao tục ngữ Việt Nam đã được
hình thành và phát triển từ hàng nghìn năm cùng với quá trình phát triển của
lịch sử xã hội Việt Nam và đương nhiên chịu tác động của nhiều tư tưởng
khác nhau, đặc biệt là tư tưởng Nho, Phật, Lão và tam giáo đồng nguyên. Tuy
nhiên, dù bị ảnh hưởng những tư tưởng trên nhưng những tư tưởng của Nho,
Phật, Lão khi vào Việt Nam đã bị “nhào nặn” bởi văn hóa bản địa tạo nên nét
đặc sắc riêng của văn hóa Việt Nam. Bởi vì con người Việt Nam trước hết là
sản phẩm của lịch sử Việt Nam, do đó sẽ mang những nét đặc trưng riêng
biệt. Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam đã phản ánh khá đầy đủ
những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam như tình yêu gia đình, quê
hương, đất nước, yêu đồng loại; tinh thần lạc quan yêu đời; lòng nhân ái, bao
dung trọng nghĩa tình đạo lý… tất cả đều mang đậm tính nhân văn, thể hiện
tâm hồn và cốt cách của người Việt Nam.
66
Tình yêu quê hương đất nước đặt con người trong quan hệ gắn bó sống
còn với đất nước là điểm xuyên suốt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đối với
người Việt Nam, yêu nước là một tình cảm và cũng là một tư tưởng thiêng
liêng cao quý nhất, được bắt nguồn từ một tình cảm đơn sơ, giản dị, đó là tình
yêu đối với người thân ruột thịt, đó là tình yêu đối với xóm làng, quê hương
như lời bài ca dao: “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà
dầm tương/ Nhớ ai dãi nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm
nao” [38, tr. 299-300]
Và tình yêu ấy không chỉ dừng lại ở mức độ nhớ thương mà nó còn
dâng lên thành lòng căm thù khi đất nước lâm nguy. Tinh thần yêu nước trong
đạo làm người Việt Nam được thể hiện ở lòng tự tôn, tự hào dân tộc, không
chịu cúi đầu khuất phục trước bất cứ kẻ thù xâm lược nào, sẵn sàng hy sinh vì
Tổ quốc, quê hương. “Thằng Tây chớ cậy xác dài/ Chúng tao người nhỏ
nhưng dai hơn mày/ Thằng Tây chớ cậy béo quay/ Mày thức hai buổi là mày
bở hơi/ Chúng tao thức bốn đêm rồi/ Ăn cháo ba bữa, chạy mười chín cây/
Bây giờ mới gặp mày đây/ Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao” [38, tr. 526].
Hay: “Chồng em vì nước hy sinh/ Cánh tay mất nửa mối tình còn
nguyên”. [38, tr. 526].
Đất nước, quê hương của người Việt Nam là nơi được tạo ra từ đôi bàn
tay của chính người Việt Nam qua các cuộc khai khẩn đất hoang, phát triển
nông nghiệp, không ngừng đấu tranh chống thiên tai và địch họa. Vì thế con
người Việt Nam luôn có sự gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước và tự hào
về điều đó.
Từ xưa cho đến nay, người Việt Nam luôn có một lòng nồng nàn yêu
nước, đồng thời cũng căm ghét đến tột độ sự phản bội đối với Tổ quốc, dân
tộc. Từ xa xưa, truyền thống trung thành với Tổ quốc, với quê hương, sẵn
sàng hy sinh vì quê hương, đất nước đã trở thành lẽ sống, đạo lý của mỗi người
67
dân. Câu tục ngữ: “Cõng rắn cắn gà nhà” [38, tr. 98] đã phản ánh sự căm
ghét đó. Vì dân tộc mà phải kiên quyết đấu tranh chống thái độ thờ ơ, nghiêm
trị những kẻ phản bội, tiếp tay làm tay sai cho giặc. Ý thức sâu sắc về độc lập
dân tộc đã tạo nên sức mạnh vô biên, lúc thắng lợi không chủ quan tự mãn, lúc
hòa bình xây dựng quê hương đất nước thêm giàu mạnh, tươi đẹp.
Bên cạnh đó, ở người Việt Nam luôn có tấm lòng quý trọng, yêu
thương con người, đồng loại, vì thế cũng đặt con người Việt Nam trong quan
hệ gắn bó ruột thịt với cộng đồng. Đây là một đặc trưng nổi bật trong triết lý
đạo làm người của người Việt Nam được thể hiện thông qua ca dao, tục ngữ.
Trước hết, đó là ý thức vì cộng đồng, cố kết gia đình - dòng họ - làng
xóm - Tổ quốc. Dân tộc Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử người Việt cổ
cư trú ở vùng lưu vực sông Hồng và các chỉ lưu. Đó là thời kỳ xã hội đang
chuyển từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp với sự xuất
hiện của những công cụ lao động bằng đồng, bằng sắt. Thời kỳ này, theo cách
gọi của Mác thuộc phạm trù công xã nông thôn, còn được bảo tồn rất lâu
trong phương thức sản xuất châu Á, mà đặc trưng cơ bản là quyền sử dụng
ruộng đất thuộc về công xã, cá nhân chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng mà thôi.
Công xã nông thôn Việt Nam là bên cạnh quan hệ láng giềng: “Hàng
xóm tối lửa tắt đèn có nhau” [39, tr. 218], địa lý, quan hệ huyết thống vẫn
được bảo tồn bên trong công xã. Cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại
của thiên nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm, chống hạn hán, ngập lụt đặt
ra một cách bức thiết. Từ đây, sức mạnh chống thiên nhiên của con người
cũng như chống kẻ thù xâm lược bảo vệ Tổ quốc phải được tạo bởi sức mạnh
của các thành viên trong cộng đồng, của sự tập hợp nhiều gia đình nhỏ lại
trong công xã nông thôn và sự liên kết nhiều công xã lại thành một cộng đồng
lớn hơn với vai trò tổ chức của quyền lực nhà nước. Điều đó giải thích vì sao
người dân Việt Nam coi lệ làng, coi trọng những cái được mọi người trong
68
làng thừa nhận, giá trị lệ làng nhiều khi còn cao hơn cả phép nước: Phép vua
thua lệ làng. Ông cha ta cũng đặc biệt coi trọng dòng họ, tổ tông. Những
người có cùng dòng họ thì yêu thương, đùm bọc, bảo vệ nhau, cùng có trách
nhiệm bảo vệ, giữ gìn những đặc sắc riêng của dòng họ mình, góp phần tạo
nên tính đặc sắc của bản tính dân tộc Việt Nam: “Con người có bố có ông/
Như cây có cội, như sông có nguồn” [38, tr. 422].
Kẻ thù của dân tộc một khi động chạm đến dòng họ, tổ tông, tức là
cũng động chạm đến giang sơn, xã tắc buộc người dân phải đồng lòng đứng
lên bảo vệ. Như vậy, tinh thần đoàn kết và ý thức sống vì cộng đồng là một
trong những giá trị đạo đức truyền thống và cũng là triết lý sống của con
người Việt Nam. Nó là một trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh Việt
Nam giúp người dân Việt Nam chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và
chiến thắng giặc ngoại xâm hung giữ, hùng mạnh, xảo quyệt. Đây là một di
sản quý báu của dân tộc Việt Nam. Và ý thức vì cộng đồng, gắn với cộng
đồng, hòa với cộng đồng như một bản thể đã hình thành sâu đậm trong tâm
thức con người Việt Nam. Triết lý mà con người Việt Nam thể hiện qua ca
dao, tục ngữ là sự đề cao tinh thần tập thể, chỉ khi có sự hợp tác, có sự đồng
nhất mới có thể làm nên việc lớn. Bất cứ xã hội nào cũng được cấu thành
không phải bởi những con người trừu tượng mà bởi những con người cụ thể,
những cá nhân sống. Con người Việt Nam muốn khẳng định qua ca dao, tục
ngữ quan niệm của mình là mỗi cá nhân trong xã hội nhất định dù khác nhau
đến đâu thì họ đều mang cái chung, họ đều là thành viên của xã hội. Cá nhân
không thể sống tách mình ra khỏi tập thể mà phải biết hòa nhập vào tập thể,
huy động sức mạnh của tập thể để tạo ra những giá trị phục vụ cho lợi ích
chung của tập thể. Vì thế: “Chết một đống hơn sống một người” [39, tr. 221].
Thứ hai, ý thức cộng đồng biểu hiện tinh thần “lá lành đùm lá rách” [39,
tr. 221], tôn trọng và hướng về cội nguồn tổ tiên. Là một đất nước ở vùng nhiệt
69
đới gió mùa, chúng ta thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, bão lũ. Trong
hoạn nạn, người dân Việt Nam luôn phát huy truyền thống yêu thương, đùm bọc
nhau với tinh thần: “Máu chảy đến đâu, ruồi bâu đến đấy” [39, tr. 222].
Hay: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”
[39, tr. 221].
Giúp đỡ người khác chính là điều kiện để mỗi cá nhân có thể cùng tồn
tại. Tư tưởng tương thân, tương ái không chỉ dừng lại ở mối quan hệ trong gia
đình, nội tộc mà đã phát triển lên thành tình yêu thương trong toàn dân tộc.
Đó là một dân tộc biết yêu thương, giúp đỡ nhau cùng đi lên. Cha ông ta đã sử
dụng những hình ảnh rất đắt để nói về mối quan hệ tình cảm này, “lá lành”
hay “lá rách” đều là những dạng vật chất cụ thể, đó là những thực thể tồn tại
khách quan. Trong mối quan hệ giữa “lá lành” và “lá rách” thì “lá lành” là
phạm vi lớn bao hàm “lá rách”, đó là quan niệm mang tính hiện thực. Tuy
nhiên, quan niệm mà con người Việt Nam muốn nói đến không chỉ đơn thuần
là những “lá rách”, “lá lành” mà còn muốn nâng cao lên, muốn đưa đến một
khái quát có tính triết lý, vì thế chúng ta có thể hiểu câu “lá lành đùm lá
rách” như là một tinh thần mang tính tập thể. Con người trong tập thể không
thể sống vì lợi ích của mình mà phải biết hòa chung cùng tập thể, hưởng cùng
niềm vui của tập thể nhưng cũng phải biết đau những nỗi đau của tập thể:
“Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” [39, tr. 221].
Người dân Việt Nam thường nhắc nhở nhau rằng dân tộc mình được
sinh ra bởi cái bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ. Vì thế, mối quan hệ đồng bào,
hàng xóm láng giềng cũng là mối quan hệ ruột thịt, gắn bó với nhau không thể
tách rời. Chính tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau ấy mà dân tộc Việt Nam
đã chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng trước thiên tai, địch họa. Đó
là tinh thần đấu tranh và đùm bọc nhau, bởi lẽ: “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng” [39, tr. 221].
70
Người xưa đã mượn hình ảnh “nhiễu điều phủ lấy giá gương” để gửi
gắm lời nhắn nhủ. Có lẽ ai cũng biết “nhiễu điều” hay tấm lụa đỏ chỉ thật sự
có giá trị khi được phủ lên “giá gương”. Và cũng như thế, “giá gương” chỉ
mang vẻ trang trọng, quý giá khi được phủ lên bởi “nhiễu điều”, hai vật gắn
bó với nhau. Nhiễu điều phủ giá gương làm cho giá gương không bị bụi bẩn,
hoen ố, mờ nhạt theo thời gian. Và không có giá gương để phủ lên, nhiễu điều
cũng mất đi một phần giá trị, bớt đi sự trang nghiêm, rực rỡ. Từ mối quan hệ
gần gũi, gắn bó giữa hai sự vật, cha ông ta đã khéo léo khuyên nhủ con cháu
phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
Mỗi người sinh ra không phải ai cũng giống nhau. Chúng ta tuy khác
nhau về phong tục tập quán nhưng chúng ta đều có một điểm chung là cùng
máu đỏ, da vàng, cùng sinh ra trong bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ, hay nói
cách khác là cùng nguồn gốc con Rồng, cháu Tiên. Vì vậy, dù ở miền xuôi hay
miền ngược, dù ở miền rừng núi hay biển đảo xa xôi thì chúng ta đều phải yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau. Hơn nữa, chúng ta cùng sống, cùng phát triển trong
những mối quan hệ xã hội nên chúng ta lại càng cần sự yêu thương, giúp đỡ hỗ
trợ nhau cùng phát triển. Mặt khác, yêu thương con người còn là truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta từ xưa đến nay, nhờ biết yêu thương mà dân tộc ta đã
vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, chiến đấu và chiến thắng thiên tai và
địch họa. Và bởi thế, người Việt lúc nào cũng có nhau, che chở cho nhau trong
những lúc khó khăn hoạn nạn với tinh thần: “Lá lành đùm lá rách”
Bên cạnh đó, ca dao tục ngữ còn khẳng định hàng xóm láng giềng là
những người anh em gần gũi sớm hôm, tối lửa tắt đèn có nhau. Sống trong
môi trường làng xã, anh em láng giềng là điều kiện cần và không thể thiếu
được: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” [38, tr. 433].
Đó là sự giúp đỡ tương trợ lẫn nhau, có khó khăn gì thì những người có
khả năng giúp đỡ chúng ta đầu tiên phải là những người hàng xóm láng giềng.
71
Nghĩa đồng bào, tình làng xóm biểu hiện khi giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn
nạn: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no” [38, tr. 104]
Đó là những nghĩa cử cao đẹp mà dân tộc ta đã lưu giữ được và truyền
lại cho thế hệ con cháu muôn đời, và ông cha ta cũng không quên nhắc nhở:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
[38, tr. 128].
Câu ca dao đã mượn chuyện bầu bí để nói chuyện con người, chuyện
cuộc đời. Ông cha ta đã cho con cháu một lời khuyên chân thành, kín đáo mà
tế nhị. Sống ở trên đời không ai giống ai, mỗi người một nguồn gốc, hoàn
cảnh, điều kiện sống riêng nhưng tất cả đều cùng chung một quê hương, đất
nước Việt Nam. Tất cả đã làm nên mối quan hệ ràng buộc, gắn bó, là cơ sở để
gần gũi, cảm thông. Và vì chính cái chung ấy mà mỗi người phải biết yêu
thương, đùm bọc, nhường nhịn sẻ chia để công việc chung được tốt đẹp. Dân
tộc ta chủ yếu sống bằng nghề nông, trong sản xuất, thời tiết và điều kiện tự
nhiên ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thu hoạch. Nếu mọi người không
chung sức để đắp đê chống lụt, trồng rừng ngăn lũ thì khó có thể bảo vệ được
mùa màng. Trong điều kiện sống khắc nghiệt, nếu không biết nương tựa vào
nhau thì làm sao tồn tại được. Mối quan hệ chặt chẽ đã làm cho tình thương
nảy nở và người Việt Nam coi đó là truyền thống quý báu tự bao đời.
2.4. Những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam
2.4.1. Về giá trị
2.4.1.1. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam có tính giáo
dục rất sâu sắc
Ca dao tục ngữ là một bộ phận hợp thành quan trọng trong kho tàng
văn học dân gian Việt Nam. Được hình thành và phát triển trong một giai
đoạn lịch sử lâu dài và lưu truyền rộng rãi trong đời sống, sinh hoạt của nhân
72
dân lao động Việt Nam. Là tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế, xã hội
Việt Nam qua quá trình lịch sử. Trong ca dao tục ngữ, đời sống hiện thực
muôn màu muôn vẻ của nhân dân ta được tái hiện, được đúc kết lại một cách
sâu sắc và chân thực nhất. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy
màu sắc Việt Nam, thể hiện được một cách sâu sắc, rực rỡ thế giới quan, nhân
sinh quan của người thượng cổ đến sau này. Ca dao tục ngữ chính là di sản
tinh thần quý báu, là kho tri thức về kinh nghiệm cuộc sống và đạo lý làm
người, chứa đựng triết lý giáo dục sâu sắc mà ông cha ta để lại. Triết lý giáo
dục trong ca dao tục ngữ Việt Nam được thể hiện trên nhiều khía cạnh nhưng
nổi bật nhất là ở nội dung giáo dục con người trong mối quan hệ với tự nhiên
và mối quan hệ giữa con người với xã hội. Sau khi phân tích nội dung các câu
ca dao, tục ngữ của ông cha ta nói về mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, ta nhận thấy những điều mà cha ông muốn khẳng định và răn dạy con
cháu mai sau:
Thứ nhất, con người sống không thể tách rời với tự nhiên. Trong khi
các nhà triết học tốn rất nhiều thời gian để tranh luận về nguồn gốc của con
người thì nhân dân lao động từ rất lâu trước đó đã nhận thức một cách tự giác
rằng con người là sản phẩm của tự nhiên và gắn bó khăng khít với tự nhiên.
Điều này được minh chứng trong kho tàng ca dao, tục ngữ khi mà cha ông ta
dành một khối lượng lớn các câu ca dao, tục ngữ mà đặc biệt là tục ngữ để đề
cập đến giới tự nhiên. Điều ấy cho thấy, người Việt Nam luôn xem tự nhiên
và mối quan hệ với tự nhiên là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
mình. Mặt khác, khi khẳng định nguồn gốc tự nhiên của con người, người
Việt Nam có quan niệm duy vật khi khẳng định: “người ta là hoa đất”, con
người không phải là thực thể tách hoàn toàn giới tự nhiên mà bản thân con
người là một phần của giới tự nhiên.
73
Thứ hai, trong quá trình lao động, cải tạo tự nhiên, con người đã tìm
được tư liệu sinh hoạt vật chất cho mình. Một điều khá đặc biệt trong quan
niệm, cách ứng xử của con người Việt Nam với tự nhiên là ở chỗ tuy nhận
thức mình là một bộ phận của tự nhiên, sống phụ thuộc vào tự nhiên, nhưng
người Việt Nam cũng cho rằng mình có khả năng nhận thức, chinh phục và
cải tạo tự nhiên. Không thể ỷ lại tự nhiên, không thể chỉ thừa hưởng những
cái gì có sẵn trong tự nhiên để thỏa mãn những nhu cầu của mình mà cần phải
nhận thức, lợi dụng và cải tạo tự nhiên để cải tạo ra của cải phục vụ cho cuộc
sống của mình. Bên cạnh tư tưởng chinh phục tự nhiên, thông qua ca dao, tục
ngữ, ông cha ta còn nhận thức được khả năng của mình trong việc cải tạo tự
nhiên. Mối quan hệ giữa con người, xã hội loài người với tự nhiên là mối
quan hệ qua lại tác động lẫn nhau, trong đó con người tác động vào tự nhiên
nhằm tạo ra những biến đổi có lợi phục vụ cho lợi ích của mình. Sự tác động
đó không phải là vô thức mà là một hoạt động có ý thức của con người.
Thứ ba, lao động khiến con người thêm tin tưởng, lạc quan, làm chủ bản
thân, đồng thời có thái độ tôn trọng, bảo vệ tự nhiên. Thông qua ca dao tục
ngữ, ta nhận thấy rằng cha ông ta rất tôn trọng các lực lượng tự nhiên, xem lực
lượng tự nhiên như là thứ của cải quý giá trời ban tặng cho con người. Trong
nông nghiệp, đất và nước được xem như yếu tố hàng đầu, quyết định đến sản
xuất: “tấc đất tấc vàng”. Sự tôn trọng đối với tự nhiên của cha ông ta còn thể
hiện ở chỗ con người cần thiết phải tác động vào tự nhiên, đó là sự tác động có
mục đích tính toán, có kế hoạch từ trước trên cơ sở tôn trọng tự nhiên, tôn
trọng các quy luật khách quan. Sự tác động đó mang tính chủ động sáng tạo
nhưng phù hợp với các quy luật tự nhiên mới mong mang lại kết quả cao: “biết
chiều trời, nước đời chẳng khó”. Chiều trời không gì khác chính là biết hành
động, tác động vào tự nhiên đúng với các quy luật khách quan trên cơ sở tôn
74
trọng tự nhiên. Hoạt động sản xuất của con người chỉ có kết quả cao khi sự
tương tác con người - tự nhiên phù hợp với quy luật tự nhiên.
Như vậy, thông qua ca dao, tục ngữ, cha ông ta gửi gắm những triết lý
nhân sinh về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trước hết đó là biểu
hiện của một trình độ nhận thức nhất định về giới tự nhiên trong điều kiện
khoa học chưa phát triển cao. Đồng thời, qua đó, cha ông ta cũng gửi gắm
những lời nhắn nhủ của mình tới thế hệ con cháu mai sau trong cách ứng xử
với tự nhiên đó là phải biết tôn trọng tự nhiên và từ đó xây dựng được một lối
ứng xử phù hợp nhất với tự nhiên.
Bên cạnh những triết lý mà cha ông muốn răn dạy con cháu trong cách
ứng xử với tự nhiên thì triết lý về cách ứng xử của con người trong xã hội
cũng là điều mà cha ông rất quan tâm và luôn nhắc nhở con cháu thông qua ca
dao, tục ngữ. Qua ca dao, tục ngữ chúng ta nhận thấy rằng, cái đẹp trong văn
hóa ứng xử của con người Việt Nam là cái đẹp mang tính dân tộc, là bản sắc,
là cốt lõi, là cái hồn đất, hồn nước và là tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Qua
ca dao, tục ngữ, cha ông ta muốn nhắn gửi rằng gốc rễ của cái đẹp trong văn
hóa ứng xử của người Việt Nam chúng ta là sống đẹp, sống tốt với nhau, sống
vì nhau. Từ đó, cha ông ta nhắn gửi tới thế hệ con cháu những đạo lý trong
văn hóa ứng xử của người Việt:
Thứ nhất, tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, bình dị nhưng cũng
hết sức thiết tha, mãnh liệt được thể hiện trong chính cuộc sống lao động
hàng ngày: Tình yêu trong ca dao, tục ngữ thật đẹp, nó thể hiện mối quan hệ
trong sáng, son sắt của đôi lứa yêu nhau, đặc biệt đẹp hơn cả khi tình yêu ấy
được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày.
Thứ hai, quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn, chia sẻ:
Ông cha ta có câu “Xuất giá tòng phu”, “Vợ chồng là nghĩa phu thế/ Tay ấp
75
mà kề sinh tử có nhau. Quả đúng như vậy, cha mẹ, con cái rồi cũng sẽ rời bỏ
chúng ta, chỉ có vợ/chồng mới là người luôn đi bên cạnh ta đến hết cuộc đời.
Thứ ba, quan hệ trong gia đình trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu:
Con cháu phải lễ phép, tôn kính ông bà, cha mẹ. Ngược lại bố mẹ, ông bà
cũng phải tôn trọng và yêu thương con cháu.Trong gia đình Việt Nam,
người cha không chỉ là người sinh thành ra chúng ta, mà còn là người thầy
đầu tiên của chúng ta, là người bạn trung thành của chúng ta. Bởi vậy, ta phải
có hiếu và trung thành với cha của mình.
Thứ tư, quan hệ anh em thuận hòa: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài/ gà
cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” là lời dạy xưa của ông cha ta với anh chị em
trong gia đình. Anh em có thuận hòa thì gia đình mới bền vững và hạnh phúc.
Thứ năm, quan hệ tôn sư trọng đạo, quan hệ bạn bè tình nghĩa: “Bạn
bè là nghĩa lương tri/ Sao cho sau trước một bề mới nên. Ngoài cha mẹ, vợ
chồng thì bạn bè chính là chỗ dựa cho chúng ta, là tri kỷ của chúng ta. Lúc
hoạn nạn mới biết đâu là bạn, đâu là bè. Bên cạnh đó, tình cảm thầy trò là thứ
tình cảm gắn bó, gần gũi một cách tự nhiên mà vô cùng thiêng liêng, cao cả,
làm nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc “tôn sư trọng đạo”. Truyền thống ấy
như mạch nước ngầm, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời gian từ xưa, đến nay và
mãi về sau.
Thứ sáu, mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân tương ái trong cộng
đồng, quốc gia, dân tộc: Cha ông ta nhắn gửi tới con cháu sống phải biết yêu
thương, chia sẻ giúp đỡ nhau trên tinh thần “người trong một nước phải
thương nhau cùng”.
Từ ca dao, tục ngữ, chúng ta rút ra được những triết lý giáo dục sâu sắc
về nhân sinh quan của người Việt về thế giới, con người, về những vấn đề của
cuộc sống, của lao động sản xuất. Đó là những đạo lý làm người thể hiện
trong lao động, học tập và rèn luyện bản thân, trong đối nhân xử thế với thiên
76
nhiên và với gia đình xã hội. Tất cả những điều đó mang yếu tố nhân văn sâu
sắc và đậm nét tâm hồn người Việt.
2.4.1.2. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thể hiện tư
tưởng duy vật, biện chứng tự phát của nhân dân lao động
Thực tiễn đặt trước con người những mâu thuẫn và khó khăn cần khắc
phục. Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, khắc phục những khó khăn đó là
quá trình mà con người hàng ngày tác động trực tiếp vào tự nhiên trong sản
xuất, giúp con người thấy được sự tồn tại thực tế của tự nhiên, thấy được mối
liên hệ và sự vận động hợp với quy luật của các sự vật, hiện tượng. Do đó mà
cha ông ta phần nào có cách giải thích duy vật và biện chứng về tự nhiên.
Thứ nhất, trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, cha ông ta đã sớm có
những cách giải thích chứa nhiều yếu tố duy vật về các hiện tượng ảnh hưởng
trực tiếp đến sản xuất, tuy rằng cách giải thích này còn mộc mạc và còn ở
trình độ của những tri giác cảm tính.
Yêu cầu của thực tiễn sản xuất và trình độ nhận thức, trình độ trừu
tượng hóa và khái quát hóa của con người đã đạt đến mức tương đối phát triển
qua quá trình lâu dài quan sát sự vật, hiện tượng, giúp cha ông ta trả lời được
một số vấn đề đặt ra và đặt ra ngày càng mạnh mẽ, cấp thiết lúc bấy giờ là
phải nhận xét và giải thích hiện tượng tự nhiên nhất là yếu tố mưa gió, sấm
chớp để phục vụ cho đời sống, cho hoạt động sản xuất của mình. Nhờ những
hiểu biết của mình mà cha ông ta đã tránh được những tác hại do tự nhiên gây
ra đối với đời sống cũng như đối với sản xuất có thể lợi dụng chúng để phục
vụ cho lợi ích của mình. Ví dụ, những yếu tố duy vật được thể hiện ở chỗ
người ta đã căn cứ vào sự quan sát những phản ứng của sinh vật đối với sự
thay đổi thời tiết để xem thời tiết chứ không tìm nguyên nhân của thời tiết ở ý
chí của thần… Những hiểu biết trên tuy còn thô sơ và mới ở trình độ của
những tri giác cảm tính nhưng trong đó đã chứa đựng nhiều yếu tố hiện thực.
77
Những hiểu biết này đã có tác động tích cực đến việc đẩy mạnh quá trình cải
biến tự nhiên của con người. Vì chỉ có nắm được thực chất của sự vật dưới
những biểu hiện cụ thể của chúng con người mới có thể tác động vào chúng,
mới có thể đặt ra và hoàn thành những công việc ngày càng phức tạp hơn,
khó khăn hơn.
Thứ hai, cha ông ta phần nào đã thấy được bản chất và sự tồn tại khách
quan của thế giới
Nguồn gốc của những yếu tố duy vật được thể hiện trong ca dao, tục
ngữ không những là do nhu cầu phải quan sát đúng hiện tượng tự nhiên để
phục vụ sản xuất mà còn ở chỗ qua hàng trăm hàng nghìn lần quan sát lặp đi
lặp lại các hiện tượng tự nhiên và các sự vật, cha ông ta đã phần nào thấy
được bản chất và sự tồn tại khách quan của thế giới. Vì chỉ khi thấy được rằng
thế giới là tồn tại khách quan thì lúc đó con người mới lấy thế giới bên ngoài
làm đối tượng tác động của lao động của mình, mới có phương hướng cho
hoạt động thực tiễn, mặc dù ý thức tự giác về việc đó mới chỉ ở trình độ nhất
định, và phần lớn còn phải dựa vào các kinh nghiệm trực tiếp.
Thứ ba, qua quá trình tác động lâu dài vào tự nhiên và xã hội, tư tưởng
của cha ông ta ít nhiều có những yếu tố biện chứng, đã phần nào phản ánh và
nhận thức được một cách tự phát mối quan hệ qua lại giữa các sự vật, hiện
tượng cùng tính chất vận động và phát triển hợp với quy luật trong những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ.
Để có được những tư tưởng trên chính là nhờ ở quá trình tác động lâu
dài vào tự nhiên. Quá trình này đã giúp con người quan sát được rõ những
hiện tượng lặp đi lặp lại trước mắt, do đó giúp họ thấy rõ rằng các hiện tượng,
sự vật là luôn luôn biến đổi chứ không cố định ở một chỗ nào, không phải
là bất biến.
78
Đối với các hiện tượng trong xã hội cũng vậy, cha ông ta phần nào đã
có ý thức rằng mối quan hệ giữa người với người đã có sự thay đổi căn bản:
quan hệ dân chủ và bình đẳng nguyên thủy đã nhường chỗ cho những quan hệ
bất bình đẳng và thống trị giữa tầng lớp vua quan với nhân dân, giữa người
giàu với người nghèo.
Thứ tư, qua ca dao tục ngữ, nhận thấy cha ông ta đã có ý thức về vai trò
và năng lực sáng tạo của mình.
Bước đầu nhận thức được tính chất quan trọng của lao động và có ý
thức về vai trò của mình, con người sẽ phát huy được tính năng động chủ
quan trong việc chế ngự sức mạnh của tự nhiên. Nước lũ có dâng cao thì với
đôi bàn tay lao động, con người vẫn có thể khắc phục được tác hại của nó
bằng cách đắp bờ ngăn nước chống lụt; ngược lại, nếu hạn hán kéo dài, con
người sẽ chống hạn bằng cách đào ao, đào giếng lấy nước tưới ruộng,…bên
cạnh đó, năng lực cải tạo thế giới xung quanh của cha ông ta không chỉ dừng
lại ở cuộc đấu tranh với giới tự nhiên mà nó còn thể hiện cả trong cuộc đấu
tranh với xã hội, đó chính là cuộc đấu tranh giai cấp thể hiện tinh thần phản
kháng của nhân dân ta đối với giai cấp thống trị chuyên áp bức, bóc lột.
2.4.1.3. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam góp phần
giáo dục đạo đức, lối sống cho nhân dân Việt Nam nói chung và thế hệ thanh
niên Việt Nam nói riêng
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là kết quả lao động sáng tạo, chứa đựng
những triết lý sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn cuộc sống lao động của cha
ông ta, cho đến nay đã trở thành một kho tàng lý luận phong phú, phản ánh rõ
nét thế giới quan và nhân sinh quan của nhân dân ta trong buổi đầu dựng nước
và giữ nước. Không những thế, trong ca dao tục ngữ, những tư tưởng, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc được thể hiện một cách sâu sắc, có vai trò to lớn
79
trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con người Việt Nam hiện đại,
đặc biệt là thế hệ thanh niên Việt Nam.
Thứ nhất, thông qua nội dung ca dao, tục ngữ, cha ông ta đã giáo dục
cho thế hệ con cháu đặc biệt là thế hệ thanh niên tinh thần yêu nước mãnh
liệt. Thông qua ý nghĩa sâu sắc của những câu ca dao, tục ngữ, cha ông ta
muốn nhấn mạnh rằng, tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, là lẽ sống và tình cảm
thiêng liêng nhất của mỗi người. Truyền thống đó không đơn thuần chỉ có ý
nghĩa về mặt tinh thần mà khi cần thiết nó chuyển hóa thành sức mạnh vật
chất to lớn, nhờ thế mà một đất nước nhỏ bé luôn giành thắng lợi khi đối đầu
với những kẻ thù mạnh gấp bội. Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ
độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc cho thế hệ trẻ, giúp họ nhận thức đây
là đạo lý lớn nhất, cao quý nhất bà ;à niềm tự hào của người Việt Nam cần
phải trân trọng và giữ gìn.
Thứ hai, thông qua ca dao, tục ngữ, cha ông ta muốn giáo dục thế hệ con
cháu nhất là tầng lớp thanh niên ý thức tự lực, tự cường và tự tôn dân tộc, bởi
lẽ, yếu tố quyết định thành công hay thất bại chính là ở bản thân mỗi người.
Thứ ba, qua ý nghĩa của những câu ca dao, tục ngữ, cha ông ta muốn
giáo dục cho con cháu về tinh thần đoàn kết, yêu thương giúp đỡ mọi
người. Tình cảm thương yêu, sẵn sàng giúp đỡ người khác là nghĩa cử cao
đẹp của người Việt Nam, tinh thần ấy đã giúp đỡ cha ông ta từ thế hệ trước
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Ngày nay, khi đất nước không còn chiến
tranh mà đang trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước thì càng
phải cần thiết hơn bao giờ hết tinh thần đoàn kết này để xây dựng một đất
nước Việt Nam giàu và đẹp.
80
2.4.2. Về hạn chế
2.4.2.1. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam còn chứa
đựng những tư tưởng duy tâm, siêu hình
Tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ Việt Nam ta nhận thấy
bên cạnh mặt tích cực thể hiện tư tưởng duy vật, biện chứng vẫn còn tồn tại
những tư tưởng duy tâm, siêu hình. Nguyên nhân là do trình độ nhận thức còn
kém và do bị áp bức nặng nề trong xã hội có giai cấp đối kháng. Yếu tố duy
vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình đan xen lẫn nhau, ở phương diện này
nó là duy vật, biện chứng nhưng ở phương diện khác nó là duy tâm siêu hình.
Người Việt xưa thể hiện sự nghi ngờ, không tin vào bói toán khi khẳng
định “bói ra ma quét nhà ra rác”, nhưng họ lại tin vào thần thánh, vào vận
hạn, và đặc biệt họ rất tin vào số mệnh: “Trăm đường tránh chẳng khỏi số”.
Đối với người nông dân lúc bấy giờ, vũ trụ lớn lao và rất bí hiểm mà
con người thì hết sức nhỏ bé cho nên họ không thể tạo ra sức mạnh và khả
năng thông hiểu, chi phối nó. Chính vì thế mà người ta mơ hồ có sự tồn tại
của một lực lượng siêu nhiên đã sinh ra và chi phối các sự vật, hiện tượng kể
cả con người. Cho nên, khi càng đi sâu tìm hiểu và giải thích thế giới, con
người càng bất lực và phải cầu viện đến thần, đến trời. Trong quan hệ với trời,
người là đối tượng bị phụ thuộc, không ai có thể đoán được ý trời: “Người
tính không bằng trời tính”, hay “trời kêu ai nấy dạ”. Không chỉ tạo sinh vạn
vật, trời còn tạo điều kiện sống cho tất cả mọi người, không phân biệt dối xử:
“Trời chẳng đóng cửa ai”. Trời đại diện cho công lý, cho công bằng xã hội:
“Trời nào có dung kẻ gian, có oán người ngay”.
Bên cạnh đó, trong đời sống xã hội, do sự thống trị hà khắc của giai cấp
phong kiến đã làm cho cuộc sống của họ thêm bí bách đến cùng cực, khi họ
không còn lối thoát nào khác thì họ tìm đến thần linh là điều tất yếu. Từ đó,
dần dần trong cuộc sống con người tin rằng bên cạnh thế giới trần gian còn có
81
thế giới thần linh. Và niềm tin ấy càng được củng cố khi giai cấp thống trị lợi
dụng để làm chính sách mị dân. Họ cho rằng vua chính là người thay thế trời
để trị vì bình thiên hạ, do đó ý thức hệ của giai cấp thống trị đã chi phối ý
thức hệ của quần chúng nhân dân lao động. Đây chính là mảnh đất tốt để tư
tưởng duy tâm phát triển.
Bên cạnh đó, do trình độ nhận thức còn hạn chế , chưa nắm bắt được
quy luật chi phối sự phát sinh phát triển của các sự vật, hiện tượng nên người
lao động đã giải thích chúng một cách siêu hình. Những tư tưởng đó đã thủ
tiêu ý chí đấu tranh của người lao động, họ cho rằng không thể làm gì khác để
thay đổi được số phận của mình: “Cha mẹ giàu thì con có, cha mẹ khó thì con
không”. Điều này nói lên sự bế tắc, không lối thoát và nói lên tư tưởng an
phận của người lao động. Chính tư tưởng an phận thủ thường, tự ti chính là
chỗ dựa cho giai cấp phong kiến củng cố địa vị thống trị của mình.
2.4.2.2. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam còn chứa
đựng những mâu thuẫn trong cách ứng xử với tự nhiên và xã hội của con người
Mặc dù triết lý nhân sinh của cha ông ta về mối quan hệ giữa con người
với môi trường tự nhiên và giữa con người với nhau trong xã hội chứa đựng
nhiều tư tưởng biện chứng, thể hiện cách nhìn, cách đánh giá tương đối khoa
học của cha ông ta về tự nhiên, xã hội, con người. Nhưng trong cách đánh giá
ấy ta vẫn nhận thấy những mâu thuẫn đối lập.
Trước hết là trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, tác giả nhận
thấy ở con người Việt Nam có sự hình thành hai thái độ đối lập nhau. Xuất
phát từ chỗ Việt Nam là một nước nông nghiệp gắn với nền văn minh lúa
nước lâu đời, trong thời buổi khoa học chưa phát triển, con người sống phụ
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế con người rất tôn trọng và không dám
ganh đua với tự nhiên. Sống hòa hợp với tự nhiên là điều mà cha ông ta
hướng tới. Chúng ta nhận thấy rằng, người Việt Nam rất hay nhắc đến Trời,
82
dù đau khổ hay hạnh phúc thì câu cửa miệng cũng là “Trời ơi” hay “lạy trời”,
“ơn trời”. Một mặt con người tôn thờ tự nhiên, coi trọng tự nhiên là vậy
nhưng mặt khác, con người lại luôn muốn làm chủ tự nhiên, vì thế luôn có xu
hướng khám phá và chinh phục tự nhiên, muốn tự nhiên phải phục vụ mục
đích của mình. Ta nhận thấy rằng thái độ của cha ông ta đều có mặt hay và
mặt dở. Tôn trọng thiên nhiên có cái hay là giữ gìn được môi trường sống tự
nhiên trong lành, nguyên sơ, nhưng có cái dở là khiến con người trở nên rụt
rè, e ngại. Tư tưởng muốn khám phá, chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên phục
vụ mục đích của mình có cái hay là khuyến khích con người dũng cảm đối
mặt với tự nhiên, khuyến khích khoa học phát triển, nhưng có hạn chế là hủy
hoại môi trường tự nhiên.
Trong mối quan hệ giữa con người với xã hội, ca dao tục ngữ cũng thể
hiện những tư tưởng đầy mâu thuẫn, đối lập của cha ông ta. Có thể lấy ví dụ
trong cách nhìn nhận, quan niệm về người phụ nữ. Phụ nữ là một đề tài rất
điển hình trong ca dao tục ngữ, nhưng khi viết về thân phận người phụ nữ thì
nhận thức của cha ông lại có những biến đổi linh hoạt. Có những lúc ta nhận
thấy người phụ nữ là đối tượng bị coi thường trong xã hội, thân phận người
phụ nữ trong xã hội xưa vô cùng vất vả, khổ cực, chỉ có đàn ông mới là người
được coi trọng trong xã hội. Nhưng có những lúc hình ảnh của người phụ nữ
lại hết sức được ngợi ca, còn được coi trọng hơn cả đàn ông trong xã hội. Hay
như trong mối quan hệ giữa nhân dân với tầng lớp vua quan, một mặt thì
người dân rất tôn trọng và rất sợ vua chúa, quan lại, nhưng mặt khác luôn có
tư tưởng chống đối và nổi dậy “bao giờ dân nổi can qua”.
Xét cho cùng thì nguyên nhân sâu sa của những mâu thuẫn, của những
tư tưởng đối lập này chính là ở tư duy lưỡng hợp của người Việt Nam. Lối tư
duy tổng hợp và biện chứng luôn phải đắn đo, cân nhắc của người làm nông
nghiệp cộng với lối sống trọng tình nghĩa đã dẫn đến cách tổ chức cộng đồng
83
theo lối linh hoạt, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn
đến triết lý sống của người Việt Nam là “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “đi
với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”.
2.4.2.3. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam phản ánh
hiện thực khách quan, các quan hệ xã hội chủ yếu dưới hình thức kinh nghiệm
Qua việc phân tích ca dao tục ngữ Việt Nam tác giả nhận thấy rằng
nhận thức của cha ông ta thời xưa chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Con người
bắt đầu từ sự quan sát các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, bằng
sự tri giác về các sự vật, hiện tượng, vì thế nên họ mới chỉ nhìn thấy được
những biểu hiện bên ngoài, riêng lẻ của sự vật, hiện tượng mà chưa thể phản
ánh được bản chất bên trong của chúng. Điều đó cũng có nghĩa, những nhận
thức kinh nghiệm thường ngày của người lao động không thể ngay lập tức
mang lại cái nhìn đúng đắn về bản chất của sự vật, hiện tượng cũng như
không thể chứng minh được một cách đúng đắn và tất yếu về sự vật, hiện
tượng. Nhận thức kinh nghiệm nhiều khi gặp phải những mâu thuẫn, những
mặt hạn chế trong quá trình nhận thức vì chỉ dựa vào những cái trực tiếp, bề
ngoài nên nhận thức đó chủ yếu chỉ nhìn thấy các sự vật, hiện tượng trong
trạng thái cô lập, tách biệt nhau và có xu hướng tuyệt đối hóa. Cho nên, khi áp
dụng nhận thức kinh nghiệm vào những trường hợp cụ thể của cuộc sống, tầm
nhìn bị hạn chế sẽ không thể tránh khỏi tính chất chủ quan, thậm chí là cố
chấp, bảo thủ, lạc hậu, cản trở sự phát triển của nhận thức.
Tiểu kết chƣơng 2
Nghiên cứu kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam, chúng ta rút ra được
những triết lý nhân sinh sâu sắc của người Việt thông qua những câu ca dao,
tục ngữ ngắn gọn, dễ cảm và hàm xúc. Đó chính là những kinh nghiệm đúc
kết của cha ông ta từ ngàn đời về đời người, ý nghĩa của cuộc đời con người;
84
về cách ứng xử của con người với tự nhiên; và cách ứng xử giữa con người
với nhau trong xã hội.
Quan niệm về đời người và ý nghĩa của cuộc đời con người trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam đã chi phối sự ứng xử của con người Việt Nam trong
mọi mối quan hệ, trong mọi lĩnh vực của đời sống giúp con người hiểu được
rằng, trong mọi thời đại, con người là vốn quý nhất mà tạo hóa đã ban tặng và
là nguồn gốc tạo ra mọi của cải cho xã hội, cho nên phải yêu quý và trân trọng
chính bản thân con người. Điều đó đã làm nên sức mạnh giúp dân tộc ra vượt
lên mọi khó khăn, thử thách trong trường kỳ lịch sử để tồn tại và phát triển
Những câu ca dao, tục ngữ nói về cách ứng xử của con người với tự
nhiên cho chúng ta thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết, máu thịt giữa con
người với tự nhiên. Xét cho cùng thì xã hội loài người là bộ phận phát triển
cao tách ra từ thế giới tự nhiên và là một bộ phận khăng khít của thế giới
tự nhiên.
Các mối quan hệ xã hội trong ca dao, tục ngữ Việt Nam được phản ánh
đầy đủ trên các phương diện: đó là mối quan hệ riêng tư được thể hiện trong
tình yêu đôi lứa, là các mối quan hệ trong gia đình Việt và các mối quan hệ
ngoài xã hội. Đó là những mối quan hệ phong phú, phức tạp và sâu rộng phản
ánh muôn mặt đời sống tạo nên một xã hội thống nhất và toàn vẹn nằm trong
những khuôn mẫu, thể chế nhất định.
Những triết lý ấy vừa chứa đựng yếu tố duy vật, biện chứng, vừa có
yếu tố duy tâm, siêu hình nhưng tất cả đều có chất liệu từ hiện thực cuộc sống
của người Việt trong giai đoạn trước. Đó là những kiến giải hết sức ngây thơ
về các hiện tượng tự nhiên,về con người,…nhưng đó cũng chính là cơ sở hình
thành nên nhân sinh quan độc đáo của người Việt, đó là đạo làm người, là
cách đối nhân xử thế trong gia đình và ngoài xã hội,… Tất cả đều chứa đựng
yếu tố nhân văn sâu sắc và mang đậm nét tâm hồn người Việt.
85
KẾT LUẬN
Ca dao, tục ngữ là một trong những thể loại văn học dân gian ra đời
sớm nhất ở nước ta, nó thể hiện sự phát triển trong đời sống tinh thần của con
người. Ca dao, tục ngữ phản ánh một cách chân thực về cuộc sống với những
ngôn từ dung dị, mộc mạc, quen thuộc với người nông dân. Chất trí tuệ, giàu
tư tưởng tình cảm trong ca dao, tục ngữ là nguồn nhựa sống bổ sung cho văn
hóa dân gian thêm phong phú và đậm đà bản sắc.
Trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học hình thành từ sự thể hiện tình
cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật của ngôn từ, bằng hình ảnh để
tạo nên các triết lý sâu sắc. Tục ngữ là sự thống nhất giữa tri thức đúng đắn và
nghệ thuật ngôn từ nhằm phản ánh hiện thực. Ca dao, tục ngữ Việt Nam có
quá trình phát triển lâu dài, ra đời dựa trên những điều kiện tương ứng về kinh
tế xã hội, văn hóa tư tưởng đã trở thành một hình thái ý thức xã hội tồn tại
bằng phương thức truyền miệng thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc của dân tộc
Việt Nam.
Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là những kinh
nghiệm ông cha ta đã đúc kết được về sinh mệnh con người, về cuộc sống của
con người, mục đích và lẽ sống của con người trong xã hội, và về những ứng
xử của con người với tự nhiên và xã hội. Mặc dù triết lý ấy còn chứa đựng
những tư tưởng duy tâm siêu hình; những mâu thuẫn trong cách ứng xử với tự
nhiên và xã hội của loài người; sự phản ánh hiện thực thực khách quan, những
quan hệ xã hội chủ yếu dưới hình thức kinh nghiệm, nhưng triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam đã để lại nhiều giá trị sâu sắc cả về lý luận và
thực tiễn: Nó có tính giáo dục con người sâu sắc trong mối quan hệ với tự
nhiên và mối quan hệ giữa con người với xã hội; thể hiện được tư tưởng duy
vật, biện chứng tự phát của nhân dân lao động; đồng thời góp phần giáo dục
86
đạo đức, lý tưởng sống cho nhân dân Việt Nam nói chung và thế hệ thanh
niên Việt Nam nói riêng.
Như vậy, ca dao, tục ngữ Việt Nam chính là di sản quý báu mà cha ông
ta đã đúc kết tự ngàn đời và để lại cho thế hệ con cháu. Cho đến hôm nay, khi
chứng kiến những hiện tượng, sự việc diễn ra trong cuộc sống dường như
chúng ta đang trải nghiệm lại những gì mà cha ông đã đúc kết và khẳng định.
Bản thân mỗi chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị
nhân văn, nhân bản đó của dân tộc.
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Nhu An (1993), “Một số đặc điểm nhân cách con người Việt
Nam qua ca dao, tục ngữ”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (12), tr. 15-18.
2. Trần Thúy Anh (2004), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu
thổ Bắc Bộ qua một số câu ca dao - tục ngữ, Nxb ĐHQGHN.
3. Đỗ Thị Bảy (2011), Sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ
ca dao, Nxb Lao động.
4. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và đào tạo (2008), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và đào tạo (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
7. Việt Chương, Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, Nxb Đồng Nai.
8. Nguyễn Nghĩa Dân (2010), Lịch sử Việt Nam trong tục ngữ - ca dao,
Nxb ĐHQGHN.
9. Nguyễn Nghĩa Dân (2011), Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt
Nam, Nxb Thanh niên.
10. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội.
11. Chu Xuân Diên (2001), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
12. Bùi Huy Đáp (1999), Ca dao tục ngữ với khoa học nông nghiệp,
Nxb Đà Nẵng.
13. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội.
88
14. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Ngọc Hà (2014), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Văn học.
16. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội Nhà văn.
17. Hoàng Văn Hành, chủ biên (1994), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, tái
bản lần 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Hạnh (2006), “Chú khuyển” trong ca dao tục ngữ Việt Nam”,
Tạp chí Văn hóa dân gian (1) tr. 82-83.
19. Vũ Tố Hảo, Hà Châu (2012), Tư tưởng tiến bộ - triết lý nhân sinh thực
tiễn của nhân dân và vai trò của vè, truyện kể trong văn học dân gian,
Nxb Thời đại.
20. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội.
21. Hoàng Ngọc Hiến (2004), “Mấy tương quan đáng chú ý trong triết lý nhân
sinh người Việt”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (3), tr. 113-120.
22. Cao Thị Hoa (2011), “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa
Thiên Huế”,Luận văn cao học Triết học, Trường Đại học Khoa học -
Đại học Huế.
23. Tô Duy Hợp (2005), “Giá trị bền vững của Triết lý dân gian trong toàn
cầu hóa”, Hội thảo Quốc tế: Toàn cầu hóa: Những vấn đề triết học ở
châu Á - Thái Bình Dương, Viện Triết học, Hà Nội.
24. Vũ Hùng (1994), “Tìm hiểu những yếu tố triết học (hay triết lý dân gian)
trong tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Triết học (1), tr. 36-38.
25. Võ Hoàng Khải (1996), “Những yếu tố duy vật và biện chứng trong tục
ngữ, ca dao Việt Nam”, Luận văn cao học Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
89
26. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Vũ Quang Nhơn (2003), Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
27. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận chủ biên (1995), Các vùng văn hóa Việt
Nam, Nxb văn học, Hà nội.
28. Nguyễn Văn Long (1983), Ca dao, tục ngữ trong giảng dạy sinh lý người
và động vật, Luận văn thạc sĩ Sinh học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
29. Phạm Việt Long (2002), Tục ngữ, ca dao và việc phản ánh phong tục tập
quán người Việt trong quan hệ gia đình, Luận án tiến sĩ Văn học, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
30. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội.
31. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia.
32. Đào Ngọc Minh (2011), “Vận dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam nhằm khơi
dậy niềm say mê học tập của học sinh trong dạy học môn giáo dục công
dân - phần công dân với đạo đức”, Tạp chí Khoa học (4), tr. 88 - 95.
33. Nguyễn Văn Ngọc (1928), Tục ngữ phong dao, Nxb Văn học.
34. Bùi Văn Nguyên (1961), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
35. Bùi Mạnh Nhị (2003), Văn học dân gian những công trình nghiên cứu,
Nxb Giáo dục.
36. Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ và dân ca Việt Nam, Ban nghiên cứu
Văn Sử Địa xuất bản.
37. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ, ca dao, dân ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội.
39. Nguyễn Hoàng Phương (2001), Ca dao - Tục ngữ Việt Nam, Nxb
Thanh niên.
90
40. Nguyễn Thị Quỳnh Phương (1999), Vận dụng tục ngữ, ca dao Việt Nam
trong việc dạy học môn Giáo dục học ở trường CĐSP Hải Phòng, Luận
văn thạc sĩ Giáo dục học, Đại học sư phạm Hà Nội.
41. Lê Chí Quế (2004), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
42. Hồ Sỹ Quý (1998), “Mấy suy nghĩ triết học và triết lý”, Tạp chí Triết học
(3), tr. 56-59.
43. Nguyễn Đình Thông (2005), Dân tộc Việt Nam qua các câu nói, tục ngữ,
phong ngôn, phong dao, ca vè, Nxb Hội nhà văn.
44. Hoàng Thị Ánh Thu (2011), Một số tư tưởng biện chứng trong tục ngữ,
ca dao Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
45. Phan Ngọc Thu (1985), Thơ ca dân gian, Nxb Văn hóa thông tin.
46. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
47. Lê Huy Thực (2004), “Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ thơ
ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí Triết học (2), tr. 36-42.
48. Lê Huy Thực (2005), “Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục
ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí Triết học (9), tr. 70-72.
49. Đoàn Quang Thọ, Phạm Văn Sinh (1997), Đại cương lịch sử triết học,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
50. Thái Duy Tuyên (2007), Triết học giáo dục Việt Nam, Nxb ĐHSP.
51. Cù Đình Tú (1973), “Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ”,
Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 40-42.
52. Phạm Thu Yến (chủ biên), Lê Trường Phát, Nguyễn Bích Hà (2008),
Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Đại học Sư phạm.
91