BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRỊNH VĂN ĐỒNG
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TÂY DU KÝ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 2000
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3
LỜI CẢM TẠ .................................................................................................................... 6
PHẦN DẪN NHẬP ........................................................................................................... 7
1.LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................. 7
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 9
3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................................... 11
3.1.PHƯƠNG PHÁP CẤU TRÚC - HỆ THỐNG ............................................................. 11
3.2.PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI, SO SÁNH ................................................................. 11
3.3.PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH, TƯỜNG THUẬT ..................................................... 11
3.4.VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VỀ THI PHÁP ................................................................. 12
4.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ........................................................................................... 12
5.KẾT CẤU LUẬN VĂN ....................................................................................................... 12
CHƯƠNG MỘT: KHÁI QUÁT TRIẾT LÝ NHÂN SINH VÀ NỘI DUNG TÁC
PHẨM TÂY DU KÝ ....................................................................................................... 14
1.1.KHÁI QUÁT TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHƯƠNG ĐÔNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
TỚI TIỂU THUYẾT TÂY DU KÝ ......................................................................................... 14
1.1.1.TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO ........................................................................................... 14
1.1.2.TRIẾT LÝ NHO GIÁO ............................................................................................. 15
1.1.3.TRIẾT LÝ ĐẠO GIA ................................................................................................ 17
1.1.4.ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO, NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO TỚI TÁC PHẨM
TÂY DU KÝ ....................................................................................................................... 19
1.2.NỘI DUNG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ ............................................................................ 23
1.2.1.NGÔ THỪA ÂN (1500-1581 ? ) VÀ TÁC PHẨM TÂY DU KÝ ............................ 23
3
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
1.2.2.TÓM TẮT TÁC PHẨM ............................................................................................ 27
CHƯƠNG HAI :TÍNH TRIẾT LÝ TRONG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ ................. 31
2.1.NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT LÝ CHỦ ĐẠO CỦA TÁC PHẨM ................................. 31
2.1.1.TƯ TƯỞNG ĐỊNH MỆNH - NHÂN QUẢ BÁO ỨNG ........................................... 31
2.1.2.TƯ TƯỞNG PHẢN KHÁNG ................................................................................... 33
2.1.3.ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ............................................................................................ 38
2.1.4.TINH THẦN HƯỚNG THIỆN ................................................................................. 41
2.2.TÍNH TRIẾT LÝ QUA TÍNH CÁCH NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM .................... 42
2.2.1.Ý CHÍ VÀ LÒNG KIÊN ĐỊNH ................................................................................ 42
2.2.2.SỨC MẠNH VÀ TÀI TRÍ ........................................................................................ 44
2.2.3.DỤC VỌNG .............................................................................................................. 45
2.2.4.SỰ CAM CHỊU ......................................................................................................... 47
2.3.TÍNH TRIẾT LÝ QUA CÁC SỰ KIỆN TRONG TÁC PHẨM ...................................... 49
2.3.1.SỰ RA ĐỜI CỦA TÔN NGỘ KHÔNG .................................................................... 49
2.3.2.QUÁ TRÌNH TẦM SƯ HỌC ĐẠO CỦA TÔN NGỘ KHÔNG .............................. 50
2.3.3.NGỘ KHÔNG DIỆT SÁU TÊN CƯỚP ................................................................... 52
2.3.4.TAM TẠNG MẤT ÁO CÀ SA ................................................................................. 55
2.3.5.NGỘ KHÔNG CẦU BỒ TÁT CỨU CÂY NHÂN SÂM ......................................... 56
2.3.6.CỨU VỚT CHÚNG SINH ........................................................................................ 58
2.3.7.NGỘ KHÔNG DIỆT BẢY YÊU TINH .................................................................... 61
2.3.8.ĐƯỜNG VÀO XỨ PHẬT ........................................................................................ 63
2.3.9.LĨNH KINH KHÔNG CHỮ ..................................................................................... 67
CHƯƠNG BA:TÍNH NHÂN SINH TRONG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ ................ 72
4
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
3.1.GIÁ TRỊ NHÂN SINH THỂ HIỆN TRONG CÁC NHÂN VẬT .................................. 72
3.1.1.TÔN NGỘ KHÔNG .................................................................................................. 72
3.1.2.TRẦN HUYỀN TRANG ........................................................................................... 76
3.1.3.TRƯ BÁT GIỚI ......................................................................................................... 79
3.1.4.SA TĂNG VÀ LONG MÃ ........................................................................................ 82
3.1.5.YÊU TINH VÀ THÁNH THẦN ............................................................................... 83
3.2.GIÁ TRỊ NHÂN SINH QUA HÀNH ĐỘNG .................................................................. 86
3.2.1.NGỘ KHÔNG CHĂN NGỰA .................................................................................. 86
3.2.2.CUỘC NỔI LOẠN CỦA NGỘ KHÔNG ................................................................. 87
3.2.3.NGỘ KHÔNG MỘT MÌNH HỘ TỐNG TAM TẠNG VÀ THU NHẬN ĐỒ ĐỆ ... 90
3.2.4 LÒNG TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO CỦA NGỘ KHÔNG ............................................ 93
3.2.5.NGỘ KHÔNG MỘT TAY CHE TRỜI ...................................................................... 94
3.2.6.TAM TẠNG BAO LẦN MÙ QUÁNG ..................................................................... 96
3.2.7.TRÊN ĐẤT PHẬT .................................................................................................... 98
3.3.GIÁ TRỊ THƯỞNG THỨC TÁC PHẨM ....................................................................... 99
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 112
5
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt thành giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường Đại
Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, Phòng Đào tạo Khoa Học Công Nghệ sau Đại
học, tập thể thầy cô Khoa Ngữ văn, cùng tất cả bạn đọc, đồng sự đã nhiệt tình giúp đỡ
tôi hoàn tất luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với giáo sư Nguyễn Tấn Đắc- một người
thầy kính trọng đã tận tụy, không ngại nhọc nhằn nhằm hướng dẫn tôi trong quá trình
nghiên cứu-học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng đón nhận và biết ơn sự khích lệ, động viên của gia đình, mẹ
và các em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Một lần nữa xin chân thành cảm tạ.
Tháng 6/2000
Trịnh Văn Đồng
6
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
PHẦN DẪN NHẬP
1.LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tây Du Ký là một trong số những tiểu thuyết thời Minh (1360 -1640), Thanh (1641-1911)
đạt giá trị to lớn, có vị trí xứng đáng trong nền văn bọc cổ điển-Trung Quốc. Phạm vi ảnh
hưởng, tiếng vang của tác phẩm Tây Du Ký lan rộng không chỉ ở Trung Quốc mà vượt biên 4
giới với phép "cân, đẩu vân - đi mây về gió" rẽ sóng, bay cao đến các nước trong khu vực như
Nhật Bản, Triều Tiên... Ở Việt Nam, từ lâu hình tượng các nhân vật biến hoá thần thông như
Tôn Ngộ Không; háu ăn, hám sắc như Trư Bát Giới; một lòng sắt son bái Phật cầu kinh như
Đường Tăng; bền bỉ đường dài, gánh vác hành lý cho cả đoàn, không một lời oán thán như Sa
Tăng đã thấm sâu tâm tưởng nhiều tầng lớp nhân dân từ người lao động bình dân đến các bạn
tuổi còn rất trẻ.
Có thể nói, Tây Du Ký từ lâu đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa các dân tộc
Đông Nam Á. Nhắc đến Tây Du Ký, là người ta nghĩ ngay đến Tề Thiên Đại Thánh, Trứ Bát
Giới, Đường Tăng, Sa Tăng... Cũng như nhiều tác phẩm nổi tiếng khác của Trung Quốc như
Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng... Tây Du Ký với tính hấp dẫn của mình đã
cuốn hút biết bao nhiêu thế hệ người đọc, được xem như là đại diện cho nền văn học cổ đại
Trung Hoa. Cũng nhờ những giá trị độc đáo đó mà từ lâu văn hóa Trung Quốc được nhìn nhận
như cái nôi văn hóa phương Đông. Hơn nữa, ngày nay, theo đà tiến bộ của xã hội, văn hóa
nghệ thuật đã có một sự chuyển biến, có ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống văn hoá của nhân
loại. Khoa học nghiên cứu văn học đã có sự chuyển biến mạnh mẽ nhằm tịếp cận những giá trị
đích thực trong việc thưởng thức và tiếp nhận. Bằng thực tế nghiên cứu cùng những hướng tiếp
cận mới, mở ra nhiều khả năng trong việc đi sâu, phát hiện và lý giải những vấn đề mới trong
cùng một tác phẩm. Trên tinh thần đó, nghiên cứu những ảnh hưởng tới tác phẩm. Tây Du Ký,
ta không thể nào phủ nhận sự ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật tới tác phẩm, nhất là những
phạm trù triết lý. Thật vậy, Phật giáo du nhập vào Trung Quốc bằng con đường hoà bình tự
thân “hữu xạ tự nhiên hương” với tư tưởng: khổ, không, vô thường, vô ngã, niết bàn, luân hồi,
báo ứng... chiếm một vị trí trong đời sống văn hoa mang đậm màu sắc nhân sinh. Tư tưởng
Thích Ca xuất phát từ Ấn Độ khi du nhập vào Trung Quốc góp phần đóng góp trào lưu tư
7
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
tưởng mới hữu ích. Chính sự giáo lưu tôn giáo đã dẫn tới giao lưu văn học giữa Ấn Độ và
Trung Quốc, đó là sự giao lưu văn hóa dân tộc rất rộng rãi và sâu sắc. Thế nên, khi nghiên cứu
một tác phẩm văn học cổ điển Trung quốc, nhất là tác phẩm Tây Du Ký, không thể bỏ qua sự
ảnh hưởng của Phật giáo đối với tác phẩm. Chính việc nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm Tây Du
Ký trên bình diện triết lý nhân sinh là một việc làm cần thiết nhằm khám phá thêm giá trị của
tác phẩm.
Tây Du Ký từ khi ra đời đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khảo sát tìm ra
giá trị cho việc tiếp nhận và thưởng thức. Tìm hiểu triết lý nhân sinh để đi đến khẳng định giá
trị nhân văn trong tác phẩm là một đề tài mang tính chuyên biệt, lâu nay chưa có tác giả nào
tìm hiểu giải quyết. Chọn nghiên cứu đề tài triết lý nhân sinh trong tổng thể giá trị tác phẩm
Tây Du Ký, luận văn nhằm hướng đến khẳng định vai trò, ý nghĩa của triết lý nhân sinh trong
việc thể hiện hệ thống các giá trị hình tượng nhân vật và đi đến khẳng định giá trị tư tưởng
nghệ thuật ở sự đóng góp của Ngô Thừa Ân.
Thực hiện luận văn này, chính là một dịp để người nghiên cứu cồ điều kiện tìm hiểu, nắm
vững đi đến tìm hiểu sâu hơn những giá trị to lớn mà nền văn hóa Trung Hoa, cái nôi của nền
văn minh thế giới mang lại cho nhân loại. Kết quả nghiên cứu không chỉ đóng góp thêm một
suy nghĩ, cách đánh giá ở bình diện mới, về tác giả Ngô Thừa Ân với tác phẩm Tây Du Ký,
một sản phẩm tinh thần đầy tâm huyết của ông mà còn cảm nhận thêm được sự rực rỡ của nền
văn hoa và văn minh Trung Hoa nói riêng và châu Á nói chung.
Với mong muốn soi sáng vấn đề cốt tủy của tác phẩm, chúng tôi cố gắng phân tích từng
tính cách, hành động của nhân vật dưới các góc độ triết lý để nhận ra giá trị nhân sinh của tác
phẩm. Nhân vật trong tác phẩm là sản phẩm những quan niệm của tác giả. Đối với các tiểu
thuyết gia cổ điển Trung Quốc, họ đều là những người thấm nhuần các tư tưởng triết học Nho -
Đạo - Phật. Ngô Thừa Ẩn cũng vậy, đánh giá về tính nhân sinh trong tác phẩm, ta không thể
đặt ra ngoài sự ảnh hưởng của tam giáo đó. Vì lẽ đó, ta thấy quan điểm của tác giả Ngộ Thừa
Ân về con người luôn được thể hiện một cách gián tiếp hay trực tiếp thông qua việc lý giải của
số phận, đó là tư tưởng biến đổi của kinh dịch, của luật nhân quả... Qua các tư tưởng đó, chúng
ta sẽ thấy nổi bật lên hình tượng các nhân vật, đó là sự kết hợp của hiện thực và mộng ước
8
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
được thăng hoa trong trí tưởng tượng của tác giả. Vì vậy, chúng tôi luôn cố gắng lần theo quá
trình sáng tạo của nhà văn từ quan niệm cho tới cách thể hiện tư tưởng để làm rõ giá trị triết lý
nhân sinh của tác phẩm.
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, từ khi ra đời đến nay đã được đông đảo người đọc đồng
tình và mến mộ. Hình tượng các nhân vật trong tác phẩm với những phép biến hóa màu nhiệm
“đi mây về gió, cân đẩu vân, thoắt biến thoắt hiện - rẽ nước xuống Long cung - đại náo thiên
cung” luôn thu hút sự thích thú, gợi cảm giác thư giãn cho mọi tầng lớp, mọi đối tượng độc giả.
Triết lý nhân sinh được tác giả gởi gắm một cách ý nhị, kín đáo và thật sầu lắng trong tác phẩm
luôn là vấn đề thời sự. Việc nghiên cứu tác phẩm Tây Du Kí từ lâu đã được nhiều vị hộc giả tên
tuổi từ Đông sang Tây bỏ nhiều công sức tìm hiểu với nhiều thành tựu có giá trị. Tìm hiểu
trong giới nghiên cứu tác phẩm này ở Việt Nam cố các tác giả như Giáo sư Lương Duy Thứ,
Giáo sư Trần Xuân Đề, Giáo sư Phan Ngọc, Tiến sĩ Hồ Sĩ Hiệp ... các nhà nghiên cứu có tên
tuổi như Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Quân, Ngô Nguyên Phi, Lê Anh Dũng
... và nhiều người khác, đã có nhiều công trình có thể xem là di sản quý, cần được ghi nhận và
kế thừa. Qua đó, chúng tôi cũng đã có sự chắc lọc, tìm tòi để làm rõ hơn triết lý nhân sinh trong
tác phẩm này. Đó cũng chính là mục đích nghiên cứu của đề tài này, là tìm đến những triết lý
nhân sinh trong tác phẩm một hướng tiếp cận mang tính chuyên sâu cần được định hướng rõ
nét hơn.
Trong quá trình thu thập, tìm hiểu, đọc nhiều tài liệu tham khảo có liên quan tới đề tài,
chúng tôi nhận thấy các bài viết của tập thể tác giả thuộc Sở-nghiên cứu văn học thuộc Viện
khoa học xã hội Trung quốc, phần nghiên cứu của các giáo sư Việt Nam Lương Duy Thứ, Trần
Xuân Đề ...đã gợi mở cho việc tìm hiểu đề tài triết lý nhân sinh trong tác phẩm Tây Du Ký. Cụ
thể như:
• Trong “Sơ lược lịch sử phát triển của tiểu thuyết Trung Quốc”, Lỗ Tấn đã nêu lên lên
những điểm đặc sác mới mẻ trong miêu tả nhân vật của Tây Du Ký. Ông nhấn mạnh “Trên mặt
đất vốn không có đường, do người đi mà thành đường” từ đó mồ ra một hướng đi mới cho việc
tìm về những giá trị sáng tạo văn học.
9
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
• “Lịch sử văn học Trung Quốc” của viện khoa học Trung quốc, phần viết về Tây Du Ký
đã nêu lên những thành tựu to lớn của tác phẩm trong việc thể hiên ước mơ của tầng lớp nhân
dân lao động qua hình tượng kì vĩ của nhân vật Ngộ Không, làm lộ ra giá trị triết lý nhân sinh
của tác phẩm.
• Trong cuốn “Để hiểu tám bộ tiểu thuyết Trung Quốc” tác giả Lương Duy Thứ đã đưa ra
nhận xét, đánh giá khá đầy đủ về các nhân vật trong Tây Du Ký, các nhân vật này khá điển
hình và rất sâu sắc.
• Tác giả Trần Xuân Đề trong “Những bộ tiểu thuyết cổ điển hay nhất Trung quốc” đã tập
trung phân tích ba nhân vật Ngộ Không, Tam Tạng, Bát Giới qua đó cũng gợi mở lên những
triết lý nhân sinh của tác phẩm.
• “Lời tựa Tây Du Ký” của Nhà xuất bản văn học cũng đã nhấn mạnh tới khả năng tinh tế
của tác giả qua việc miêu tả các hành động; tính cách nhân vật làm bật lên những giá trị tư
tưởng của Tây Du Ký.
• Nguyễn Huy Khánh trong “Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa”, tác giả đã giành một
phần giới thiệu Tây Du Ký, ông đã khẳng định nghệ thuật miêu tả của Ngô Thừa Ân thật là độc
đáo.
• Vương Hồng Sển trong “Thú xem truyện Tàu” đã hết lời ca ngợi sự hấp dẫn, triết lý
nhân sinh được ký gửi thật kín đáo của tác phẩm Tây Du Ký.
Ở phương diện lịch sử vấn đề, đề tài này đã được các nhà nghiên cứu trong các bài viết
của mình chỉ ra những gợi ý quan trọng trong việc tìm hiểu triết lý nhân sinh, có thể xem đó là
những gì tâm đắc nhất của các vị học giả đi trước mà chúng tôi tiếp thu được. Qua những dẫn
chứng đã được liệt kê cũng như chưa được đề cập tới, có thể nói triết lý nhân sinh trong tác
phẩm Tây Du Ký cũng đã ít nhiều được gợi mở trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây,
nhưng chưa hình thành một đề tài và chưa được một hệ thống rõ ràng. Vì vậy, luận Văn đang là
những thể nghiệm hướng đến tìm hiểu cho được triết lý nhân sinh trong tác phẩm.
Tuy nhiên, do vấn đề này là vấn đề mới, chưa được nhiều tác giả đưa thành một công
trình nghiên cứu riêng. Vì vậy, với tất cả sự cố gắng của mình, cùng những ý tưởng đã được
10
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
các vị học giả đi trước khám phá, chúng tôi cố gắng tìm tòi, nhằm đưa ra những minh chứng
mới, phục vụ cho chủ đề chính của đề tài: Triết lý nhân sinh trong tác phẩm Tây Du Ký.
3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt mục đích và đối tượng nghiên cứu tìm hiểu triết lý nhân sinh trong tiểu thuyết thần
thoại tích cực Tây Du Ký trên đây, luận văn chúng tôi sẽ thực hiện các phương pháp nghiên
cứu sau đây:
3.1.PHƯƠNG PHÁP CẤU TRÚC - HỆ THỐNG
Tác phẩm Tây Du Ký là một hệ thống, một chỉnh thể nghệ thuật được đan cài, kết nối
xuyên thấm vào nhau thông qua các tình tiết hấp dẫn và các sự kiện li kỳ đầy sức thuyết phục.
Luận văn đi sâu xem xét đặc điểm cấu trúc - các sự việc hiện tượng trong chỉnh thể tác phẩm.
Tìm hiểu các mối quan hệ ở góc độ triết lý nhân sinh gắn bó với hình thức cấu trúc và nội dung
tác phẩm Tây Du Ký. Và như thế, phương pháp cấu trúc có đủ khả năng tiếp cận giá trị nội
dung Tây Du Ký giúp cho việc đánh giá tiếp nhận tác phẩm được dễ dàng.
3.2.PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI, SO SÁNH
Xuất phát từ mục đích tìm hiểu triết lý nhân sinh, luận văn đi vào khảo sát các biểu hiện
triết lý nhân sinh ở từng cấp độ khác nhau. Mỗi cấp độ như vậy sẽ gắn với từng diễn biến, từng
hành trình của mỗi nhân vật, mỗi sự kiện trong tác phẩm.
Việc chia, tách các cấp độ này là rất cần thiết giúp cho việc phân loại so sánh, tổng hợp,
cân nhắc kịp thời đưa ra những kiến giải xác đáng hợp lý. Trong khi tiếp cận các sự việc, ở
từng nhân vật ổ một số khía cạnh tiêu biểu, bình diện lại rút ra đặc điểm triết lý nhân sinh.
3.3.PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH, TƯỜNG THUẬT
Với phương pháp phân tích, tường thuật, bằng tường thuật và miêu thuật lại tiếp tục chia
tách ở các cấp độ, nhân vật chính diện, phản diện. Mỗi cấp độ lại đặt ra tìm hiểu biểu hiện của
giá trị nhân sinh. Trong từng cấp độ kịp thời đưa ra ý nghĩa nhân sinh riêng biệt.
11
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
3.4.VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VỀ THI PHÁP
Vận dụng lý thuyết về thi pháp nhân vật để hiểu hình tượng nhân vật, quan niệm về con
người nhân sinh được biểu hiện thông qua ngòi bút thiên tài Ngô Thừa Ân. Từ những tính cách,
hành động cụ thể của nhân vật, qua thi pháp của tác giả, sẽ cảm nhận được tinh túy, thâm sâu
của tác phẩm cũĩlg như tính triết lý nhân sinh của nó.
4.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên tìm hiểu vấn đề này, người viết
đã chú ý khảo sát một cách cặn kẽ, nghiêm túc về triết lý nhân sinh trong tác phẩm Tây Du Ký.
Luận văn là công trình nghiên cứu bước đầu tìm hiểu triết lý nhân sinh trong tác phẩm
Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Từ việc tìm hiểu lịch sử vấn đề, phận loại, phân tích và so sánh
triết lý nhân sinh, luận văn muốn đặt ra giải quyết vai trò và ý nghĩa của tác phẩm Tây Du Ký
thông qua hình tượng và hệ thống nhân vật.
Dưới góc độ thưởng thức và tiếp nhận, kết quả của hướng nghiên cứu với ý nghĩa nhân
sinh sẽ đóng góp ý kiến bổ sung vào việc tìm hiểu giá trị tác phẩm. Điều này mang ý nghĩa sâu
sắc ương việc thưởng thức, tiếp nhận, góp phần vào khẳng định những giá trị trong tác phẩm
Tây Du Ký.
Từ sự tìm hiểu triết lý nhân sinh, thêm một cách lý giải về tác phẩm Tây Du Ký, luận văn
đi đến khẳng định sự vận dụng sáng tạo và tư duy nghệ thuật độc đáo; nhà văn đã chiêm
nghiệm và thể hiện nhuần nhuyễn ý tưởng về con người nhân sinh. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra
phạm vi tìm hiểu triết lý nhân sinh trong tác phẩm Tây Du ký nhưng khả năng người nghiên
cứu dù đã có những cố gắng cũng không tránh khỏi những sơ xuất rất mong được sự chỉ dẫn
giúp đỡ.
5.KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu (7 trang) và phần kết luận (4 trang), nội dung của luận văn được sắp
xốt thành ba chương như sau:
Chương một: Khái quát một số triết lý nhân sinh và nội dung tác phẩm Tây Du
Ký.(30 trang)
12
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Chương hai: Tính triết lý trong tác phẩm Tây Du Ký (41 trang)
Chương ba: Tính nhân sinh trong tác phẩm Tây Du Ký và việc thưởng thức tiếp
nhận (38 trang)
Tài liệu tham khảo (5 trang)
Phần chú giải trong luận văn được trình bày theo quy ước như sau [stt:str], với stt là số
thứ tự của tài liệu trong phần tài liệu tham khảo, còn STT là số trang của phần trích dẫn trong
tài liệu đó.
13
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: KHÁI QUÁT TRIẾT LÝ NHÂN SINH VÀ NỘI
DUNG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ
1.1.KHÁI QUÁT TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHƯƠNG ĐÔNG VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ TỚI TIỂU THUYẾT TÂY DU KÝ
1.1.1.TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO
Trước khi trở thành một tôn giáo lớn trên thế giới với hơn ba trăm triệu tín đồ, đạo Phật
đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, bắt nguồn từ Ấn Độ, sau đó đã chia thành hai tông
phái chính: Tiểu thừa (Hinayana) và Đại thừa (Mahayana)
Đạo Phật trước hết là một tôn giáo của đời sống, của con người trong cõi nhân sinh. Tuy
cuộc đời các Đức Phật sau này đã được huyền thoại hoa với nhiều truyền thuyết, nhưng Phật
Thích Ca đã là một con người thật, một nhân vật lịch sử, một vị Hoàng Tứ đã từng sống trên
nhung lụa ở kinh thành kapilagastu (biên giới Ấn Độ -Nêpal ngày nay) rồi giác ngộ xuất gia, tu
luyện mà thành Phật, sau đó suốt đời lại đem chân lý giác ngộ cho người đời.
Vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, qua hớn sáu thế kỉ cải tạo tư tưởng, Phật giáo đã
ngày càng hướng về nhân gian và xã hội, không cần phải trốn tránh, thoát ly khỏi cuộc sống thế
tục, do đó Phật giáo ngày càng có sức sống mạnh hơn và thâm nhập vào lòng người sâu hơn.
Vào những năm đầu thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, Phật giáo được truyền vào Trung Quốc từ
hai con đường thủy bộ qua các nước Tây vực. Từ khi vào Trung Quốc, mặc dù có nhiều bất
hòa, nhưng Phật giáo đã cùng với hai tôn giáo bản địa là Nho giáo và Đạo giáo tạo nên một sự
dung hòa Tạm giáo và có ảnh hưởng rất lớn tới nền văn hóa Trung Hoa.
Tư tưởng căn bản của đạo Phật nằm trong quan niệm vô ngã (Anatman), vô thường
(Anitya). Theo đó, có sinh thời có diệt, mọi việc tất đều sẽ qua đi trong quá trình sinh - trụ - dị -
diệt. Trong cuộc sống phù du, đức Phật đã đem lại cho chúng ta bốn chân lý quý(Arya-satya -
14
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tứ diệu đế). Cuộc đời là bể khổ (Dukkha) nguyên nhân vì chúng ta quá đắm chìm trong các
ham muốn (Samudaya-tập). Tất cả sự vật hiện tượng trên thế gian này đều là vô ngã vô thường,
nhưng con người bởi sự mê lầm, cho mọi cái là thường định nên mới nảy sinh ra những luyến
ái, đục vọng, thúc đẩy ta hành động theo đuổi những ham muốn vật chất, tiền tài danh vọng
vốn là những cái hư ảo, đã tạo nên những nghiệp báo, làm con người chìm ngập trong những
nỗi thất vọng, đau khổ hết kiếp này sang kiếp khác. Vì vậy một khi chúng ta cố gắng diệt được
lòng dục (Nirodha) thì chúng ta sẽ tìm thấy được con đường giải thoát (Đạo - Marga). Cuộc
sống của chúng sinh chính là một chuỗi nhân quả và nghiệp báo (Karman) mà con người ta
phải gánh chịu và trả giá. Nhưng nếu một khi đã tĩnh tâm giác ngộ thì chúng ta sẽ có thể tiến
tới tiêu-đích cuối cùng của sự giải thoát, đó là cõi Niết Bàn (Nirvana).
Do đó, giáo lý căn bản của đạo Phật tập trung chủ yếu vào tư tưởng giải thoát cho mọi
chúng sinh ra khỏi bể khổ cuộc đời. Theo Phật, khi người ta được giải thoát, cũng chính là khi
con người đạt tới sự siêu thoát, nghĩa là họ đã vượt lên trên sự trói buộc của thế giới trần tục,
thoát khỏi sự chi phối của thế giới trần tục, vượt lên trên sự, trói buộc của dục vọng, sanh tử,
phiền não, sống hoan toàn thanh thoát, tự tại, là đạt tới thể không tịch.
Sở dĩ các giáo lý của Phật giáo có một sức hút kỳ lạ là do những khái niệm về Tứ Diệu Đế
(khổ, tập, diệt, đạo). Theo đó đời là bể khổ mà nguyên nhân do chúng sinh bị ràng buộc quá
nhiều vào dục. Để thoát khổ, phải diệt dục, mà muốn diệt trừ tận gốc các ham muốn thái quá thì
phải thực hành đạo. Ngoài ra còn ba khái niệm “chư hành vô thường”, “chư pháp vô ngã”,
“Niết bàn tịch diệt” trong tam pháp là bạ nguyên lý cơ bản nhất của nghĩa học Phật giáo. Tuy
nhiên, Phật giáo đi vào lòng người sâu sắc nhất lại chính là do thuyết thiện ác nhân quả. Do e
sợ việc ác giả ác báo, nhân quả nhãn tiền mà con người trở nên hướng thiện hơn. Thuyết này có
ảnh hưởng rất sâu sắc tới truyền thuyết, tiểu thuyết không chỉ ở Trung Quốc mà ở tất cả các
nước chịu ảnh hưởng của đạo Phật.
1.1.2.TRIẾT LÝ NHO GIÁO
Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) là người đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, với
tư cách cá nhân, đã dạy cho một số đông học trò khi họ theo ông chu du từ xứ này sang xứ
khác. Khổng Tử tên là Khâu, tự Trọng Ni, là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo dục nổi
15
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
tiếng ở Trung Quốc cổ đại. Ông là người sáng lập Nho gia mà người phương Tây gọi là phái
Khổng học. Tinh thần sáng tạo qua sự truyền thuật tư tưởng đạo đức ấy được kế tục mãi bởi
những người nối chí Khổng Tử. Nho giáo lấy việc tu thân - tề gia- trị quốc- bình thiên hạ là
gốc.
Do tin có “Thiên mệnh”, nên Khổng tử coi việc hiểu biết mệnh trời là một điều kiện tất
yếu để trở thành con người hoàn thiện, điều này trở thành tư tưởng chủ đạo của Nho giáo.
Khổng Tử từng viết “không biết mệnh trời thì lấy gì làm quân tử”. Đã tin có mệnh, biết mệnh
thì phải tuân theo mệnh. Đó là cái đức của người quân tử. Khổng Tử khuyên: “Người quân tử
có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời thánh nhân”.
Cùng với quan niệm về vũ trụ và con người, học thuyết về luân lý, đạo đức, chính trị xã
hội là một trong những vấn đề cốt lõi trong triết học của Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức
căn bản nhất trong học thuyết Nho giáo là: nhân, lễ, trí, dũng... trong đó chữ nhân được đề cập
với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính còn
người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến xã hội, nó liên quan tới các
phạm trù đạo đức, chính trị khác như một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán, tạo thành bản
sắc riêng trong triết lý nhân sinh của ông. Chữ nhân theo Khổng Tử cộ thể lý giải bởi hai
nguyên căn. về mặt lý luận, nhân là do sự chi phối của thiên lý, của đạo và các sự vật. Đạo sống
của con người là phải trung dung, trung thứ. về mặt xã hội, chủ trương của Khổng Tử là dùng
nhân đức để giáo hóa con người, cải tạo xã hội. Do đó chữ “nhân” trong triết học Khổng Tử có
ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, rất trừu tượng mà cũng vô cùng
cụ thể. Như vậy, nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người.
Theo quan niệm của Nho giáo, trong xã hội cũng như gia đình muốn có kỷ cương trật tự,
thì trước hết phải chính danh. Hai tiếng này có nghĩa là mọi vật trong thực tại cần phải cho hợp
với cái danh nó mang. Khổng Tử từng dạy về phép trị nước “phải chính danh trước, vua hãy cư
xử cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho rạ cha, con cho ra con”. Nói cách khác, mỗi cái danh bao
hàm một số điều kiện tạo nên bản chất một loại sự vật mà danh liên quan đến. Bất cứ hành
động nào cũng phải phù hợp và theo cái danh của nó. Vì vậy trong những tương quan xã hội,
mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn phận, và những cá nhân mang danh ấy
16
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
phải có những trách nhiệm và bổn phận phụ hợp với danh ấy đó, là thuyết chính danh của
Khổng Tử. Với học thuyết này, Khổng Tử đã chia xã hội thành những mối quan hệ chính như
vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè, trong đó, đạo quân thần, nghĩa cha con “quân xử
thầntử thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”, Tây Du Ký cũng chịu ảiih
hưởng lớn bồi tư tưởng này. Còn về đạo đức mỗi cá nhân, thì Khổng Tử nhấn mạnh đến nhân
nghĩa, nhất là nhân. Trong xã hội, mọi người đều có những điều phải làm, làm nhiệm vụ vì
nhiệm vụ, bởi vì những điều ấy đáng phải làm về phương diện luân lý. Nếu làm nhiệm vụ vì lý
do khác, không vì luân lý thì hành vi ta không hợp nghĩa, dẫu cho ta có làm tròn bổn phận Nói
theo Khổng Tử và các hậu Nho, thì lúc đó ta chỉ hành động vì “lợi”. Với nhà Nho, “nghĩa” và
“lợi” là hai từ hoàn toàn đối lập nhau. Khổng Tử đã nói: “Quân tử biết rõ về nghĩa. Tiểu nhân
biết rõ về lợi”, ấy là điều mà Nho gia gọi là “phân biệt nghĩa và lợi”, sự phân biệt mà họ cho là
tối quan trọng trong việc giáo dục đạo đức. Một tư tưởng quan trọng nữa của Nho giáo là sự
trung thứ. Nho giáo cho rằng muốn lập cho mình thì lập cho người; muốn cho mình nên thì
cũng lo cho. người nên. Nói khác đi: “hãy làm cho người điều gì mình muốn người làm cho
mình”. Đó là phương diện tích cực trong sự thi hành mà Khổng Tử gọi là “Trung'” hay tính
ngay thẳng đối với kẻ khác. Và phương diện tiêu cực, gọi là “thứ” hay lòng vị tha, được diễn tả
trong câu nói sau: “Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân”. Như vậy gọi là thi hành trung thứ. Ngoài ra,
để hành động cho đúng, người quân tử còn phải biết mệnh, tức là biết mình biết ta.
Do tư tưởng trung nghĩa của đạo Nho, các chính quyền phong kiến đã ra sức cổ động Nho
giáo, vì vậy, Nho giáo có một địa vị to lớn và ảnh hưởng rộng lớn đến xã hội phương Đông,
đặc biệt là ở Trung Quốc. Vì lẽ đó, tất cả các tác phẩm Trung Hoa cổ điển đều ít nhiều chịu ảnh
hưởng của tư tưởng Nho gia.
1.1.3.TRIẾT LÝ ĐẠO GIA
Đạo gia là một trong ba trào lưu triết học lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Sự hình
thành và phát triển của Đạo Giáo gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà tư tưởng, tiêu biểụ nhất là
Lão Tử (khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên).
Lão tử được xem là ông tổ của đạo gia. Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự là Đàm hay Bá Dương,
sống cùng thời với Khổng Tử. Toàn bộ tư tưởng của ông có thể nói là được trình bày cô đọng
17
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
hết trong tác phẩm Đạo Đức kinh, gồm có ba học thuyết cơ bản là học thuyết về đạo, tư tưởng
về phép biện chứng và học thuyết vô vi, trong đó tư tưởng về “đạo” đóng vai trò cực kì quan
trọng trong triết học Lão Tử. Từ sự quan sát vận chuyển của vạn vật trong thế giới, Lão Tử đề
ra học thuyết “đạo” để giải thích nguồn gốc hình thành vạn vật. Ông xem đạo là cơ sở hình
thành thế giới, là cái bản nguyên sâu kín, huyền diệu. Để giải thích đặc điểm của đạo, Lão tử
dùng thuyết vô danh và chất phác. Ngoài ra ông còn dùng học thuyết “đạo pháp tự nhiên” để
giải thích bản chất thế giới. Một trong những quy luật khách quan được vận dụng chính là
thuyết âm dương ngũ hành.
Từ mấy nghìn năm trước đây, nền văn minh ở nhiều nước Đông phương đã có một vũ trụ
quan rất tiến bộ. Họ đã quan niệm về vũ trụ có hai cái không cùng là : không gian và thời gian.
Không gian là vô cùng, thời gian là vô tận. Họ cho rằng tồn tại trong không gian và thời gian
ấy có hai “khí” Âm- Dương tương hỗ giao hoa, đồng biến giao thác xoay vần cùng với thời
gian và muôn vật từ đó mà ra, nó biến hoa không ngừng trong vũ trụ.
Người Đông phương cũng luôn cho rằng: Thoạt đầu vũ trụ là “vô cực” sau đó là hỗn
mang rồi đen thuở sợ khai là “thái cực”. Thái cực nhờ sự vận động rồi sinh “Lưỡng nghi” là hai
khí. Âm, Dương. Từ “Lưỡng nghi” lại sinh “Tứ tượng” tức bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Tứ
tượng sinh “Bát quái” - tám hiện tượng lớn trong vũ trụ: Càn (Trời), Khôn (Đất), Cấn (sấm sét),
Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (Lửa), Cân (núi), Đoài (đầm). Bát quái sinh ra 64 quẻ, thể hiện sự
thiên hình vạn trạng của vật chất trong vũ trụ.
Như vậy Âm-Dương hai khí luôn luôn vận động mà sinh ra vạn vật. Trong vạn vật lại có
Âm-Dương cũng không ngừng vận động. Vạn vật tuy có khác nhau (chất sống và chất vô tri,
vô giác), song tất thảy đều phát triển theo qui trình sinh, trưởng, suy, vong và biến hóa không
ngừng. Không có cái gì tự nhiên mất đi mà không để lại “dấu vết”, cũng không có gì tự nhiên
sinh ra từ “hư vô” mà chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Như vậy Âm Dương đóng
vai trò xoay vận, chuyển dội không bạo giờ đứt đoạn. Nếu “đứt” là “vong”, là “tận” để rồi biến
hoa nảy sinh các khác trong cái không cùng của vũ trụ.
Âm-Dương hai .từ của một khái niệm biến hoa hai yếu tố cùng tồn tại, độc lập, tương
phản, nhưng lại hoa đồng, lồng vào nhau mà không triệt nhau để sinh biến. Âm-Dương không
18
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
những dùng để biểu hiện trong thế giới hữu hình (từ vi mô -đến vĩ mô - thế giới hạt cấu trúc
của vật chất mà nó còn thể hiện trong cả thế giới vô hình (thế giới của tư duy, của tâm. linh,
cảm giác, tâm hồn ). Chính vì thế Âm-Dương có trong tất cả từ các hiện tượng đến bản thể vật
chất dù nó có trong tri giác hay không có trong tri giác.
Triết học Đông phương cũng quan niệm Trời là Dương, Đất là Âm. Đàn ông là Dương,
đàn bà là Âm. Trong cơ thể con người thì bề mặt trước là dương, mặt sau lưng là Âm, đối với
đàn bà; ngược lại đàn ông mặt trước là Âm, sau lưng là Dương. Đối với trái tim máu đưa đi từ
tim là Dương,, máu từ các mao mạch chuyển về tim là Âm. Như vậy trong dường (chủ Đương)
cũng có Âm và trong Âm (chủ Âm) cũng có dương.
Trong lĩnh vực vô hình và hình sắc, sức khỏe con người cũng biểu hiện tương sinh, tương
phản của Âm và Dương. Con người khoe mạnh, hoạt bát, sinh khí, sinh lực dồi dào, da sắc tươi
nhuần là sự biểu hiện qua Âm-Dương cân bằng hài hoa. Ngược lại người có nét mặt ủ ê. Da dẻ
tái mét xanh xao hay vàng khè là biểu hiện sự mất cân bằng Âm -Dương. Đó chính là trạng thái
Dương thác, Âm suy hay Dương thịnh, Âm suy. Đường Tăng ưa trầm tĩnh, thư thái- thiên về
Âm tính. Tôn Ngộ Không tính tình tả xung hữu đột không tự kiềm chế luôn mang trong mình
vòng kim cô thiên về Dương tính. Dương thái quá lấn át Âm cũng là bệnh, hoạn. lấy lại sự cân
bằng Âm-Dương nguyên lý, nguyên tắc xuyên thấu “Thiên-Địa-Nhân”. Âm-Dương là hai từ
Triết học cổ có nội hàm tính động và hàm xúc. Âm- Dương có mối quan hệ: Sự thành của
Dương là sự hủy của Âm, ngược lại, sự thành của Âm là sự hủy của Dương.
1.1.4.ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO, NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO TỚI TÁC PHẨM TÂY
DU KÝ
Có một điều không ai phủ nhận, tác phẩm Tây Du Ký bắt nguồn từ câu chuyên đi Tây
Trúc thỉnh kinh của Đường Tam Tang. Như Giáo sư Trần Xuân Đề đã nhận xét: “Cốt truyện
Tây Du Ký có thay đối, từ chuyên đi lấy kinh của một tôn giáo, trở thành một pho truyền kì của
một anh hùng thẩn thoại nhưng tác phẩm vẫn không thoát khỏi những quan niệm của Phật
giáo. Rải rác trong một trăm hồi, lúc chỗ này khi chỗ khác đều có những khía cạnh tư tưởng
định mệnh, nhân quả báo ứng, Phật pháp vô biên...”[57;115]. Rõ ràng Đạo Phật đã có một ảnh
hưởng sâu nặng đen Tác phẩm Tây Du Ký.
19
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Thật vậy, có thể nói rằng Phật giáo đã ảnh hưởng trên nhiều bình diện của tiểu thuyết cổ
điển Trung quốc chứ không riêng gì tác phẩm Tây Du Ký. Riêng trường hợp Tây Du Ký thì có
thể nói rằng, tác phẩm sẽ không có được nếu không có sự truyền nhập của Phật giáo, vì vậy, tác
phẩm đã rất đề cao các giáo lý nhân sinh của Phật giáo. Lấy ví dụ như cuộc tỉ thí giữa Tề Thiên
và Phật Tổ. Phật Tổ thách thức “ta đánh cuộc với nhà ngươi, nếu nhà ngươi có tài nhảy một
cân đấu vân rìa khỏi lòng bàn tay phải cửa ta, thì nhà ngươi thắng”.[35:136]. Nhưng Tề Thiên
dẫu là lý trí, dù có thông minh sáng suốt đến đâu chăng nữa thì cũng vẫn còn trong chướng
ngại của phàm phu trí. Bởi bàn tay đức Phật trùm vạn dặm, nên Tề Thiên dù có phép cân đẩu
vân, nhảy một cái là vượt mười vạn tám ngàn dặm nhưng cố gắng tới đâu cũng không lọt qua
khỏi lòng bàn tay Phật tổ. Rõ ràng, nếu bỏ qua yếu tố hoang đường thì đó chính là một triết lý
của nhà Phật, bởi Ngộ Không chỉ mới là một pháp trong vạn pháp vô biên, làm sao vượt qua
Phật Tổ được.
Hầu như các chi tiết chính trong truyện đều mang đậm dấu ấn đạo Phật. Như chi tiết Ngộ
Không bị núi Ngũ Hành đè “Ngộ Không vội vàng tung người nhảy vút đi, nhưng bị ngay Phật
Tổ lật bàn tay túm chặt lấy, mang ngay ra ngoài cửa Tây Thiên, biến năm ngón tay thành năm
quả núi: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, gọi là núi Ngụ Hành, nhẹ nhàng đè chặt Đại Thánh xuống
dưới”[35:l38]. Bàn tay vốn có năm ngón dài ngắn không đều. Tác giả rất tài tình khi dùng bàn
tay Phật tượng trưng cho ngũ hành. Theo Phật giáo, thân con người vốn do năm yếu tố cấu tạo
thành, gọi là ngũ đại, ngoài ra mỗi người còn có ngũ căn. Chính do ngũ căn mà con người có
năm ham muốn là ngũ dục. Những thứ đó đè chặt tâm linh, rất là khó gỡ, tựa như Ngũ Hành
Sơn đè Hành Giả vậy. Cũng vì lẽ đó, mà xác phàm rất nặng, Tề Thiên dù 72 phép biến hóa, dời
non lấp bể nhưng vẫn không thể nào cõng Đường Tăng bay tới ngay Thiên Trúc được mà phải
ròng rã mười mấy năm trời rong ruồi gió bụi hồng trần. Chỉ tới khi tôi được Linh Sơn, chân
bước xuống thuyền Bát Nhã, Đường tăng mới trút được xác phàm thành bậc chân nhân siêu
thoát. Vì sao vậy, vì muốn được thần thông, tự do khai phóng thì phải từ bỏ xác phàm để tránh
mọi nhục dục. Cũng như truyện thâu phục Hồng Hài Nhi ở ba hồi 40, 41, 42. Hồng Hài Nhi có
một thứ vu khí đặc biệt là lửa mà nước không thể nào dập tật được. Trụyện kể: “Mưa sầm sập
trút xuống, nhưng không dập tắt nổi ngọn lửa của yêu quái, ma trái lại, khác nào lửa đổ thêm
dầu, càng mưa lửa càng bốc to”[36:139]. Lửa của Hồng Hài Nhi là thứ gì mà mà nước mưa
20
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
bốn biển cũng không thể dập tắt được, chỉ có Quan Âm Bồ Tát dùng bình tịnh thủy mới trị
được? Phật bảo trên đời có ba thứ độc (tham, sân, si). Trong đó sân có nghĩa là giận, mà giận
thì đi kèm với nóng nảy, nên Đức Phật ví giận như lửa. Đó chính là lý do vì sao Tây Du Ký
mới dựng chuyện Hồng Hài Nhi sở trường chơi lửa. Lửa gặp nước thì tắt nhưng lửa giận một
khỉ đã bốc lên thì khó mà kềm chế được. Chỉ có bình tịnh thủy tức nước thanh tịnh thì mới dập
tắt được. Quả vậy, chỉ có lòng thanh tịnh mới chế ngự được lửa giận.
Chúng ta cũng biết Phật giáo vốn có nhiều tông phái, nhưng Phật giáo trong Tây Du Ký là
Phật giáo Đại thừa được bộc lộ chính thức, rõ ràng, có tính mấu chốt trong tác phẩm. Đọc Tây
Du Ký, ở hồi thứ 12, Vua Đường Thái Tôn có lòng thành mở đại hội. Bấy giờ Huyền Trang là
pháp Sư lên đàn giảng kinh. Phật Quan Âm hiện thành một Bồ Tát già nói rằng giảng kinh Tiểu
thừa thì không siêu thoát. Vua Đường biết chuyện, bèn hỏi Quan Âm và Quan Âm bảo rằng
giảng kinh Đại thừa mới siêu thoát. Quan Âm cũng đã chỉ xứ sở có kinh Đại thừa là nước Tây
thiên. Sau đó, Huyền Trang vâng mệnh Vua đi thỉnh kinh ỏ Tây thiên. Chính vì lẽ đó, xuyên
suốt toàn tác phẩm là những tư tưởng giải thoát chúng sinh. Hồng Hài Nhi được giác ngộ thành
đồng tử, các yêu ma nếu không về với chủ cũ thì cũng được đi theo hầu Bồ Tát. Vì sao Bồ Tát
luôn hàng phục được các loài yêu má ác nghiệt? Chính là do tâm lập, tức là tâm đã vững vàng
thì thắng mọi lục đục thất tình,. Có thể nói, tác giả Tây Du Ký nếu không phải là người đắm
mình trong các tư tưởng siêu thoát của Đạo. Phật, không lĩnh hội được cái đạo thượng thừa vi
diệu, không chịu ảnh hưởng sâu sắc của các triết lý nhân sinh thì không thể viết lên những câu
chuyện như vậy.
Cùng với Phật giáo, còn phải nói đến ảnh hưởng của Nho giáo và Đạo giáo trong tác
phẩm Tây Du Ký. Một đất nước như Trung Hoa, vốn đã coi những quy tắc, quy phạm về tôn ti
trật tự, kỷ cương của Nho giáo như những tiêu chuẩn đạo đức, thì sự ảnh hưởng của những
quan niệm nay vào văn học là điều dễ hiểu. Trong Tây Đu Ký cũng vậy, chịu ảnh hưởng học
thuyết “vô vi” của Lão tử, Ngô Thừa Ân luôn để các vị đạo sĩ tài ba sống nơi sơn cốc như vị Tổ
sư Bồ Đề. Đó là lối sống hòa hợp với thiên nhiên để giữ thân tâm thanh tĩnh.
Thực ra, sự ảnh hưởng nay, khá phức tạp. Phức tạp vì mỗi học thuyết, mỗi đạo như vậy
đều có quá trình phát triển và biến sinh khác nhau. Điều đáng lưu ý hơn là giữa chúng đã có sự
21
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
đan xen, hòa trộn vào nhau làm một. Những triết lý của Ngô Thừa Ân trong Tây Du Ký vừa
mang dấu ấn của thuyết âm dương ngũ hành, lại phảng phất tư tưởng trung quân của Khổng
Tử, có khi lại tuân theo kinh dịch. Lấy ví dụ như truyện Tề Thiên sau khi thua trận, thiên binh
áp giải về trời trị tội nhưng không cách nào giết chết Ngộ Không được. Thái thượng lão quân
phải hiến kế: “mang nó về bỏ vào lò Bát quái, đốt nó bằng thứ lửa văn vã” [35:135]. Truyện kể
Tề Thiên bị ném vào lò Bát quái
“Nguyên lò này gồm tám cung cửa các quẻ: Càn, Khảm, cặn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Đại Thánh chui ngay vào nằm dưới cung Tốn. Tấn là gió, Có gió thì có lửa... Quang ậm vùn
vụt, thấm thoát Lão Quân đun lò Bát Quái đã được bảy bảy bốn chín ngày, đủ độ lửa.”
[35:136]. Tại sao phải đợi đến bốn mươi chín ngày mới gọi là “đủ lửa”? Bốn mươi chín tức là
thất thất (7 X 7), nó ám chỉ một quá; trình tu tập thiền định theo đạo lão. Tất cả những con số
trong truyện đều có một ý nghía triết lý sâu sắc, tuân theo thuyết âm dương ngũ hành. Đi từ
kinh đô Tràng An nước Đại Đường đến chùa Lôi Âm nước Thiên Trúc, Đường Tăng phải trải
qua tám mươi mốt nạn và vượt qua mười vạn tám ngàn dặm. Một trăm lẽ tám ngàn dặm là bội
số của 9. Cây tích trượng của Đường Tăng cũng có chín vòng. Xâu chuỗi của nhà sư thông
thường cũng gồm một trăm lẽ tám hạt.. ít nhiều cũng sẽ liên quan,tới con số chín huyền bí. Vì
vậy, câu chuyện nấu Tề Thiên trong lò Bát quái là đầy ẩn ý. Tề Thiên là cái lý trí phàm phu
phân. Lão Quân đòi “giết” Tề Thiên trong lò Bát quái tức là dùng công phu thuyền pháp để diệt
cái tâm điên đảo. Tề Thiên nhờ núp ở cung Tốn bốn mươi chín ngày nên không chết, vì ở cung
Tốn “có gió mà không có lửa”. Bốn mươi chín ngày chưa phải là trọn vẹn quy trình hành pháp
của thiền gia nhưng cũng đã góp phần nào vào quá trình tu luyện. Bởi ảnh hưởng của đạo Lão,
nên tác giả muốn mọi người tin rằng lò bát quái nấu kim đơn của Lão Quân chính là lò lửa
luyện nên vàng mười; thân phàm phu huyết nhục qua trui luyện thành công sẽ trở thành kim
thân bất hoại. Mỗi con người đều có sẩn trong cơ thể một lò Bát quái, mang lò ấy để đi ngược
dòng thế tục, tìm về cõi Phật, thành Phật thành tiên.
Có thể nói, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân mang rõ màu sắc tôn giáo và tín ngưỡng. Đối
với Phật giáo, đó là Phật giáo Đại thừa, có thỉnh kinh, tụng niệm, tu hành để giải thoát cho bản
thân và có thể phổ độ cho nhiều người khác, vì ai cũng có “ Phật tính”. Do vậy, nó có tinh thần
tích cực trong việc thâm nhập nhân gian, xã hội. Đối với Đạo giáo, Như Giáo sư Phan Ngọc đã
22
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
nói “đặc điểm khu biệt của nó là thuyết tu tiên vốn mượn từ” Đạo đức kinh ". Từ tu tiên, dần về
sau, các cá nhân được đề cao một cách say sưa huyền bí để đưa ra hai biện pháp: một là, tu
tiên để thành bất tử; hai là, lên đồng để tiếp xúc với thần linh”. Tuy nhiên, từ trong ý thức, tư
tưởng của Ngô Thừa Ân là tư tưởng Nho giáo, đó hình ảnh của triều đình Trung Hoa thật đồ sộ
mà bốn phương tám hướng đều quy thuận, ở đây là nước Đại Đường với quy mô cực kỳ đồ sộ,
quy tắc tôn ty chặt chẽ.
Cái tài của nhà văn là bằng cảm quan nghệ thuật riêng, tác giả đã phản ánh một tinh thần
dung hợp mang màu sắc phương Đồng được gọi là “Tam giáo đồng nguyên”. Trong tinh thần
dung hợp này, theo tôi, đối với tác giả Phật giáo đã chiếm một vị trí ưu trội hơn. Tuy nhiên,
Phật giáo cũng như Đạo giáo, Nho giáo không phải là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận
văn dày. Vả lại, không có một tôn giáo nào, kể cả Phật giáo, được thể hiện một cách đầy đủ
trong Tây Du Ký. Sự có mặt của tam giáo ở đây có tính cách như một cái nền, một điểm tựa để
nhà văn thực hiện một ý định nghệ thuật khác với một màu sắc khác, điều này như Giáo sư
Lương Duy Thứ đã nói: “Tiểu thuyết thần ma lấy đề tài trong thần thoại hoặc tồn giáo, nhưng
lại xa lạ với mục đích tuyên truyền tôn giáo. Loại này nặng về tưởng tượng hư cấu, đậm màu
sắc lãng mạn thần thoại. Tây Du Ký là tác phẩm thành công nhất cửa loại này” [21:210].
1.2.NỘI DUNG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ
1.2.1.NGÔ THỪA ÂN (1500-1581 ? ) VÀ TÁC PHẨM TÂY DU KÝ
Tây Du Ký là một một bộ tiểu thuyết trường thiên thần thoại rất lãng mạn, được ra đời
vào giữa những năm Gia Tĩnh (1522-1567) và Vạn Lịch (1567- 1619) đời Minh. Ngô Thừa Ân
vào những năm cuối đời, dựa vào câu chuyện thần thoại, truyền thuyết lưu hành trong nhân
dân, dày công bỏ sức viết thành. Người viết xin được trích lời nhận xét của Giáo sư Trần Xuân
Đề “So với La Quán Trung sáng tác Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thi Nại Am sáng tác Thủy Hử thì
Ngô Thừa Ân tốn nhiều công sức hơn trong việc hoàn thành Tây Du Ký. Dù sao thì chuyện
phấn tranh của ba tập đoàn Ngụy, Thục, Ngô và chuyện bạo động khởi nghĩa cửa một trăm
linh tám anh hùng Lương Sơn Bạc trước khi đi vào tác phẩm đã có một kết cấu tương đối hoàn
chỉnh, qui mô. Còn Tây Du Ký thì mới là bản thảo ban đầu”. [57:92]
23
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Ngô Thừa Ân (1500-1581 ?) tự Nhữ Trung, hiệu là Xạ Dựơng Sơn Nhân, người phủ Hoài
An, huyện Sơn Dương. Cha là Ngô Thừa Nhuệ ham đọc sách, hiểu biết cả lục kinh và luận
thuyết của Bách gia chư tử. Từ ngày cồn Nhỏ, Thừa Ân là người có tài văn chương, nổi tiếng
một thời. Có người nói: “Ông là người thông minh lanh lợi, đọc nhiều sách, đặt bút xuống là
thành thơ văn”. Nhưng như Giáo sư Trần Xuân Đề viết “sống giữa thời lấy bát cổ văn làm tiêu
chuẩn lựa chọn nhân tài thì những, người có cốt cách cương trực, có tài năng trác việt như
Thừa Ân tất nhiên không được dùng”[57:93]. Mãi đến năm bốn muơi lăm tuổi, ông mới đỗ
“Tuế cống sinh”, về sau mẹ già, nhà neo, ông đành phải đi làm huyện thừa ở Trường Hưng. Chỉ
vài năm vì không chịu được sự nhục nhã việc vào luồn ra cúi, ông từ quan đến Kim Lăng (Nam
Kinh) nơi phồn hoa đô thị mưu sống. Sau ông trở về làng cũ, uống rượu ngâm thơ, vui thú cảnh
ruộng vườn và bắt đầu hứng thú văn học.
Ngô Thừa Ân ngoài Tây Du Ký còn có Xạ dương tiên sinh tồn cảo do người đời sau biên
tập.
Ngô Thừa Ân xuất thân từ một gia đình sĩ hoạn sa sút, lưu lạc thành tiểu thương. Tiểu
thương thời đó không có địa vị xã hội. Ông đã thuật lại trong bài minh của mộ chí tiên phủ
quân về tình cảnh nhà ông bị quan lại dọa nạt. Có thể nói như lời nhận xét của Giáo sư Trần
Xuân Đề “ông có càng cảnh ngộ như hàng vạn hàng triệu người dân bần khổ trong xã hội
phong kiến”.[57:117] Ông gặp lắm nỗi gian truân trên đường khoa cử, tính tình cuồng phóng,
bướng bỉnh không chịu gập lưng cúi đầu trước đồng tiền, thế lực, nên bản thân tuy mang nặng
ý thức phong kiến, nhưng vết rạn nứt của ông với giai cấp thống trị khá sâu sắc. Do đó ông gửi
gắm hy vọng nhiệt tình vào hành động phản kháng của những nhân vật chính diện trong tác
phẩm Tây Du Ký. Từ ngày còn niên thiếu Thừa Ân rất thích đọc chuyện yêu ma quĩ quái.
Trong bài nói đầu của Vũ Đình Chí, ông viết: “ từ ngày còn nhỏ tôi rất thích những chuyện kì
quái, khi còn học ở trường, thường kiếm những truyện dã sử ở chợ búa, nhưng sợ cha thầy
mắng, tìm chỗ kín mà đọc. Đến lúc lớn càng thích đọc, thích nghe. Sách của tôi tuy mang tên
chí quái, nhưng không phải ghi lại chuyện ma quỷ đời Minh, ngày nay con người đã đổi thay
nhiều nên có tác dụng khuyên răn giáo dục.”
24
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Xem thế đủ biết, việc lận đận trên đường thi cử, thái độ bất mãn với giai cấp thống trị,
lòng yêu mê thích chuyện thần thoại, truyền thuyết dân gian và mục đích lấy tác phẩm văn học
để giáo dục tư tưởng, đổi mới tập tục ... là động lực thúc đẩy Thừa Ân, người văn sĩ già, bảy
mươi mốt tuổi, đã dốc hết nhiệt tình hoàn thành tác phạm Tây Du Ký vĩ đại, tám mươi vạn chữ.
cốt truyện được miêu tả trong Tây du Ký vốn là chuyện có thật trong lịch sử. Năm 628 đời
Đường Thái Tông, nhà sư trẻ tên gọi Huyền Trang, ngay từ nhỏ đã xuất gia đầu Phật, từng đi
đây đó gặp các vị hoa thượng nổi tiếng để hộc hỏi, bàn bạc giáo nguyện, vì vậy chàng quyết chí
sang Ấn Độ lưu học để cổ điều kiện đi sâu nghiên cứu Phật giáo. Lúc bây giờ có lệnh cấm
người ra nước ngoài học tập, Huyền trang phải trà trộn vào đám con buôn, trốn khỏi biên giới.
Huyền Trang vượt qua hai mươi bốn nước, đường xa vạn dặm, cuối cùng đặt chân trên đất Ấn.
Tại Ấn, Huyền Trang đi khắp đó đây, lễ chùa, bái Phật thu thập giáo lý học được mấy mười thứ
tiếng nước ngoài. Khi về nước, Huyền Trang dùng hai mươi bốn con ngựa để chở sáu trăm năm
mươi bảy bộ kinh Phật. Trong thời gian khứ hồi, mười bảy năm trời ấy, Huyền Trang khắc
phục bao gian khổ, màn trời chiếu đất, ăn gió nằm sương, để đạt được chí hướng. Đường Thái
Tông nghe tin cảm phục vô cùng bèn mời về thủ đô cho làm chủ hai ngôi chùa và tôn làm Tam
Tạng pháp sư, tiếp tục nghiên cứu và dịch kinh Phật. Huyền Trang mất năm 664 hưởng thọ sáu
mươi chín tuổi, Huyền Trang xứng đáng là nhà nghiên cứu Phật học, nhà du lịch, nhà thám
hiểm và là công thần văn hóa của Trung Quốc. Hành động táo bạo, dũng cảm và đầy nghị lực
của Huyền Trang không những khiến bọn vua chúa thán phục, má còn làm chấn động đất
Thường An, được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân,sau một thời gian, câu chuyện Huyền
Trang thỉnh kinh được chuyển vào thời kỳ sáng tác tập thể và xa dần sự thực.
Đến đời Tống Nguyên (960- 1360), “thuyết thoại nhân” (nghệ nhân kể chuyện) lấy đề tài
trên viết thành thoại bản. Trong số đó có bản Đại Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại. Đại
Đường tạm tạng thủ kinh thi thoại là tài liệu ra đời sớm nhất. Sở dĩ gọi thi thoại vì trong có thi
là(thơ) và thoại (nói). Tác phẩm phân thành mười bảy tiết, tiết thứ nhất bị mất. Từ tiết thứ hai,
xuất hiện nhân vật Hầu Hành Giả (Tôn Ngộ Không)- và Thân Sa Thần (Sa Tăng). Năm tám
trăm tuổi, Hầu Hành Giả ăn trộm muời quả bàn đào, bị Vương Mẫu bắt được, lấy cây thiết
bổng đánh tám trăm cái vào hông trái, đánh ba nghìn cái vào hông phải, rồi đưa đến đày đọa ở
Hoa Quả Sơn Tử Vận Động. Trong hai vạn bảy nghìn tám trăm năm, có chín lần Hành Giả thấy
25
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
sông Hoàng Hà khô. Hầu Hành Giả có phép thần thông biến hóa, có tài diệt quái giáng yêu, lại
có kiến thức uyên bác, không điều gì là không biết. Đó chính là hình ảnh nhân vật Tôn Ngộ
Không sau này. Trong truyện Huyền Trang bị đưa xuống địa vị thứ yếu, Hầu Hành Giả trở
thành nhân vật chủ yếu. Đại Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại cũng kể chuyện yêu ma quỷ
quái cản trở đường đi Tây Thiên thỉnh kinh của thầy trò Tam Tạng, nhưng có phần sơ sài.
Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại tuy không có giá trị độc lập của tác phẩm văn học, nhưng
nó chính là bộ tiền thân của Tây du Ký sau này.
Đến đời Nguyên, câu chuyện thỉnh kinh của thầy trò Đường Tam Tạng được soạn thành
kịch và đưa lên sân khấu. Nhân vật Tôn Hành Giả đóng vai trò chủ yếu, nhưng bản thân y lại
mang nhiều màu sắc yêu tinh.
Qua các thời đại, câu chuyện thỉnh kinh của thầy trò Đường Tam Tạng không ngừng được
thêm thắt, bổ sung. Ngô Thừa Ân khéo kết hợp những câu chuyện lưu truyền trong nhân dân
với những chi tiết mới được xây dựng, tạo thành một thể thống nhất hoàn chỉnh. Tính khuynh
hướng và tư tưởng chu đề của tác phẩm được biểu hiện rõ rệt, nội dung ý nghĩa của nó sâu sắc
hơn so với truyền thuyết, thoại bản, kịch. Về phương diện sáng tạo hình tương nghệ thuật thì
dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân, những nhân vật như Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Trư Bát Giới,
có cá tính rõ rệt, có tình cảm, tính tình như con người. Đó là những yếu tố quan trọng để Tây
du kí trở thành bộ tiểu thuyết thần thoại, giàu ý nghĩa hiện thực.
Hơn bốn trăm năm qua kể từ sau khi ra đời, Tây Du trở thành một tác phẩm văn học kiệt
xuất, được quần chúng nhân dân yêu mến. Thử hỏi Trung Quốc cũng như Việt Nam có ai
không biết Tôn Ngộ Không, người anh hùng có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, từng
làm những việc đại náo phi thường ở thiên cung? Có ai không biết Trư Bát Giới, anh chàng
tham ăn, háo sắc, thèm ngủ, lười nhác, nhựng một lòng một dạ theo Tam Tạng tới tận Tây
Thiên? Ngày nay trên những bức tường của những ngôi chùa Phật cổ kính ở Trung Quốc còn in
đậm những nét, những bức tranh vẽ chuyện Đường Tăng thỉnh kinh. Những chuyện đại náo
Thiên cung của Tôn Ngộ Không, ba lần đánh Bạch Cốt Tinh của Tôn Hành Giả, vẫn chiếm vị
trí nhất định trên sân khấu Và màn ảnh. Với màu sắc nghệ thuật muôn màu muôn vẻ, một lần
26
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
nữa tác giả làm nổi bật tinh thần chống cường quyền, trừ bạo lực, thể hiện ý chí sắt đá của nhân
dân là chính nghĩa sẽ thắng gian tà...
1.2.2.TÓM TẮT TÁC PHẨM
Từ câu chuyện có thật về nhà Sư trẻ Trần Huyền Trang đời vua Đường Thái Tông-đã một
mình đi sang Ấn Độ để tìm thầy học đạo, dân gian đã truyền thuyết hóa thành một câu chuyện
ly kỳ của bốn thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh tận Tây Trúc. Kế thừa cốt chuyện đó, nhà văn
Ngô Thừa Ân đã dày công nghiên cứu, thu nhập truyền thuyết, dã, sử đồng thời phát huy thiên
tài sáng tạo của mình hoàn thành một bộ tiểu thuyết vĩ đại: Tây Du Ký.
Tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân bao gồm 100 hồi, có thể chia làm bốn phần
chính:
• Phần 1: Giới thiệu lai lịch Tôn Ngộ Không
Từ hồi 1 đến hồi 7, tác giả giới thiệu quá trình ra đời, học đạo, tu tiên và đại náo thiên
cung của Tôn Ngộ Không. Tương truyền lúc bàn cổ sơ khai, thế giới chia ra làm bốn đại bộ
châu:
Đông thắng thần châu
Tây ngưu hạ châu
Nam thiền bộ châu
Bắc câu lư châu [35:32]
Ngoài biển Đông Thắng thần châu, có một nước tên là Ngao lai quốc, giữa hiển có một
hòn núi gọi là Hoa Quả sơn. Trên ngọn núi, có một viên tiên thạch, nhờ lâu ngày thọ nhật
nguyệt tinh hoa, thông được linh tánh nở ra một con khỉ. Từ nhỏ y đã thông minh, lanh lợi,
dũng cảm. Y tụ tập bày khỉ chiếm cứ thủy liêm động, núi Hoa Quả Sơn, được đàn khỉ tôn làm
vua, tự xưng là Mỹ hầu vương.
Mỹ Hầu Vương làm vua khỉ hơn bốn trăm năm, nhận thấy kiếp sống có chừng, không ai
thoát khỏi kiếp sanh lão bệnh tử, y bèn quyết chí rời Họa Quả Sơa tầm tiên học đạo trường sinh
bất tử. Hầu vương một mình vượt bể lớn, trèo non lội suối, trải qua muôn ngàn khó khăn, cuối
27
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
cùng cũng được một vị sư tổ nhận làm đệ tử, đặt cho họ Tôn, pháp danh Ngộ Không. Tôn Ngộ
Không theo thầy học đạo hơn mười năm, tinh thông pháp thuật, võ nghệ cao cường, giỏi 72
phép biến hoa, biết cả “cân đẩu vân”, nhảy một cái xa mười tám ngàn dặm. Nhưng chỉ vì một
lần hợm mình khoe tài, Ngộ Không đã bị sư phụ đuổi đi, cấm không được gọi thầy nữa.
Trở về Hoa Quả Sơn, uy phong của Hầu Vương trở nên lừng lẫy. Để có binh khí, Hầu
Vương thẳng xuống Đông Hải, mượn Long Vương cả cây cột đồng giữa biển đông, đó chính là
cây gậy như ý, nặng một vạn ba ngàn năm trăm cân, có thể lớn nhỏ tùy ý. Một lần, Hầu Vương
bị Ngưu đầu Mã diện bắt xuống diêm cung khi đang say rượu. Tức giận, Ngộ Không tung gậy
như ý đánh nát cả Diêm La điện, xóa sổ sanh tử của toàn họ khỉ. Từ đây, uy danh Ngộ Không
đã vượt qua khỏi Thủy liêm động, núi Hoa Quả Sơn.
Ngọc Hoàng khi được Long Vương và Diêm Vương cấp báo, nổi giận sai thiên binh,
thiên tướng đánh bắt nhưng không được, bèn theo kế chiêu an phong cho Tôn Ngộ Không chức
Bật Mã Ôn, cho ở lại nhậm chức tại thiên đình để giữ chân y. Hầu Vương vốn tinh quái, nên
không bao lâu hiểu được Bật Mạ Ôn là chức quan kém hèn, bén nổi giận, bỏ cõi trời trở về Hoa
Quả Sơn dựng cờ làm phản, tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh”. Ngọc Hoàng Thượng Đế bất đắc
dĩ phải nghe theo.
Tại thiên đình, hàng năm đều có Đại Hội Bàn Đào mời chư tiên, chư thánh các nơi về phó
hội. Nhưng năm ấy Tề Thiên lại không được mời. Tề Thiên tức giận lén vào vườn đào, trộm
đào ăn gần sạch, phá cả tiệc rượu rồi trốn về Hoa Quả Sơn. Ngọc Hoàng tức giận, sai thiên
binh, thiên tướng xuống bắt, nhưng đều thất bại. Thượng đế phải sai cháu mình là Nhị Lang
đuổi bắt mới được, đem xử trảm, nhưng dao chém không đứt, phải bỏ vào lò bát quái nung 49
ngày đêm cũng không chảy. Thừa cơ hội Thái Thượng Lão Quân vô ý, mở cửa lò, Tề Thiên
nhảy phốc ra làm sập cả một góc lò, tung thiết bản đại náo thiên cung, trong cơn tức giận, Đại
Thánh đánh tới đâu, chư thiên binh thiên tướng nơi thượng giới đều hoảng sợ, không thể chống
cự nổi.
Ngọc Hoàng phái nhờ Phật Tổ Như Lai đến dùng mưu kế mới bắt được Tề Thiên đè dưới
núi Ngũ Hành.
28
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
• Phần 2: Giới thiệu lai lịch Huyền Trang cùng các đồ đệ và giải thích nguyên do việc
đi thỉnh kinh
Từ hồi 8 đến hồi 12, tác giả giới thiệu lai lịch Trần Huyền Trang và bước đầu quá trình
thỉnh kinh. Nguyên tại xứ Hải Châu, có một người học trò tên là Trần Quang Nhị, thi đậu
Trạng Nguyên, phụng chỉ xuống Giang Châu trấn nhậm. Chẳng ngờ đến nơi vắng vẻ, Quang
Nhị bị tên lái đò là Lưu Hồng, vì thấy Ân Kiều là vợ chàrg có nhan sác, đem lòng đen tối lập
mưu hãm hại, giết chết quang thầy xuống sông mà đoạt lấy An Kiều. Bấy giờ, Trần phu nhân
đã có thai, nên đành ép lòng thuận theo bọn cường đạo để chờ ngày báo oán cho chồng. Rồi
đến ngày nở nhụy khai hoa, lo sợ tên cường đạo giết đứa trẻ, Trần phu nhân phải cắt tay lấy
máu viết một phong thư thuật cặn kẽ tự sự, rồi lấy áo lót mình quấn kỹ đứa hài nhi để lên trên
một tấm ván thả trôi theo dòng nước. Đứa bé trên tấm ván chính là Trần Huyền Trang, xuôi
theo dòng nước tới dưới chân chùa Kim Sơn thì dừng lại. Từ đó cậu bé được nhà chùa nuôi dạy
tới năm 18 tuổi thì quy y, lấy pháp danh là Huyền Trang.
Cùng thời ấy, tại triều đình, vua Đường Thái Tông vì chuyện chém long vương ở sông
Kính Hà mà thác ba ngày mới được sống lại, nên quyết tìm vị đại đức cao tăng, cử người qua
Tây Phương thỉnh chân kinh về cầu siêu cho các oan hồn uổng tử Trần Huyền Trang chính là vị
chân tu được vua lựa tuyển, phong làm ngự đệ, cải pháp danh là Tam tạng, đổi thành họ nhà
Đường, phụng chỉ đi Thiên Trúc thỉnh kinh.
Tam Tạng đến Ngũ Hành Sơn, gặp Hầu vương đang bị giam cầm, ngài động lòng từ bi,
trèo lên đĩnh núi gỡ đạo bùa thả cho Ngộ Không được tự do. Ngộ Không xin làm đồ đệ Đường
Tăng, nguyện đi theo làm người bảo hộ cho ngài và đã được pháp sư đặt cho pháp danh là
Hành Giả. Để chế ngự tính nong nảy và ngang ngược của Hành giả, Quan thế âm Bồ Tát đã
trao cho Đường Tăng một chiếc vòng kim cô, dạy cách dụ Hành Giả đội lên đầu, tự nhiên liền
vào da thịt, mỗi khi Hành Giả cãi lời, Đường Tăng chỉ cần niệm chú khẩn cô kinh là Hành Giả
nhức đầu chịu không nổi mà tuân lệnh.
Thầy trò Đường Tăng trên đường thỉnh kinh đã thu nhận thêm nhiều đệ tử. Đó là con tiểu
long, vốn là thái tử, con của Long Vương Ngao Nhuận phạm tôi bị đày, chờ ngày xử trảm.
Được Quan Âm xin cho rồi hóa phép thành con ngựa vàng đổ gót người đi thỉnh kinh. Tiếp tục
29
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
hành trình, thầy trò đến Cao Lão Trang thu phục được Bát Giới, nguyên là Thiên Bồng nguyên
soái, vì chọc ghẹo nàng Hằng Nga mà bị đày xuống trần gian làm quái đầu lớn, được Quan Âm
quy ỵ, và đặt pháp danh là Ngộ Năng. Trư Ngộ Năng trở thành đệ tử thứ hai của Đường Tăng.,
Đến sông Lưu Sa, Tam Tạng lại thu phục đệ tử thứ ba là Sa Tăng, đặt pháp danh là Ngộ Tĩnh,
Ngộ Tĩnh chính là vị đại tướng lo việc cuốn rèm cho Thượng đế, vì tay làm vỡ đèn lưu li trong
hội bàn đào mà bị đày làm quỷ trên sông Lưu Sa.
• Phần 3: Thuật lại quá trình đi thỉnh kinh
Từ hồi 13 đến hết hồi 98, là phần chính của truyện Tây Du Ký, kể lại quá trình gian khó
của thầy trò đường Tăng trên con đường ngàn dặm tới Thiên Trúc thỉnh kinh.
Con đường thỉnh kinh mà tam tạng đi qua là con đường đầy tai ương nạn ải. Vừa bước
chân ra khỏi biên giới nước Đại Đường, hai người đưa đường Tam tạng đã bị hổ dữ ăn thịt.
Huyền Trang may gặp được các đệ tử phò tá, hết lòng tận tâm dốc sức đưa người tới Tây
phương. Đặc biệt là Tôn Ngộ Không với 72 phép biến hóa thần thông, con mắt nhìn xa vạn
dặm cùng cây gậy như ý, tả xung hữu đột tiêu diệt hết mọi yêu ma quỷ quái cản đường.
Nhưng con đường đi thỉnh kinh không chỉ bị yêu ma ngăn cản mà còn có khi xảy ra bất
đồng giữa thầy trò khiến Ngộ Không mấy lần bị sư phụ đuổi đi. Chỉ vì Bát Giới hay xúc xiểm,
Đường Tăng thì không phân biệt được trắng đen rõ ràng làm cho nội bộ đoàn trở nên lục đục.
Một lần Tôn Ngộ Không đánh chết con Bạch cốt Tinh ba lần đội lốt để đánh lừa Tam Tạng,
giữa lúc Tam Tạng đang bất bình thì y lại nhỏ to khích bác làm nhà sư nổi giận đuổi Tôn Ngộ
Không. Lại có lần chỉ vì đánh chết bọn cướp mà bị Tam tạng viết tờ từ học trò. Tuy nhiên, Ngộ
Không là người đại nghĩa, mấy lần bỏ đi đều quay lại cứu Tam Tạng khi người bị nạn.
Trên đường đi thỉnh kinh, thầy trò Đường Tăng không chỉ tiêu diệt bọn yêu ma cản đường
mà còn cứu giúp bá tánh dọc đường. Như cứu công chúa Bách Hoa Tu nước Bảo Trượng Quốc
(hồi 28-31); cứu vua nước Ô Kê (hồi 37-39); đánh thắng “ Thiết Phiến công chúa” lấy được cái
quạt thần để quạt tắt núi lửa ngăn trở đường đi...
Cuối cùng, năm thầy trò vượt qua tất cả chín lần chín là tám mươi mối: nạn, đến được
Thiên Trúc bái kiến Phật tổ.
30
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
• Phần 4: Thầy trò Đường Tăng thỉnh được chân kinh trở về
Gồm hai hồi cuối, hồi 99 và 100. Trải qua 14 năm ròng rã, tức là 5048 ngày đêm lặn
lội,với bao vất vả gian truân, cuối cùng thầy trò Tam Tạng cũng được đặt chân tới đất Phật, bái
kiến Phật tổ Như Lai Thích Ca Mâu Ni và nhận đủ 55 bộ kinh gồm 5048 quyển đem về truyền
bá ở Trung Quốc. Các thầy trò đều được ban chức tước, Đường Tăng được ban tước Chiên Đàn
Công Đức Phật, Tôn Ngộ Không được cởi mũ kim cô, được ban tước Đấu chiến thắng Phật,
Bát Giới làm Tịnh Đàn sứ giả, Sa Tăng làm La Hán mình vàng, ngựa bạch làm Bát Bộ Thiên
Long. Năm thầy trò xin được rất nhiều kinh Phật, lại được các vị Kim Cương dùng phép “cưỡi
mây” đưa về Trung quốc và trở lại lĩnh tước chỉ trong tám ngày. Đường Thái Tông cùng tăng
ni Phạt tử và dân chúng đã đón tiếp rất trọng thể thầy trò Tam Tạng. Họ bàn giao kinh Phật rồi
theo lệnh Phật tổ “cưỡi mây” trở lại xứ Phật và ở lại hưởng phúc muôn đời.
CHƯƠNG HAI :TÍNH TRIẾT LÝ TRONG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ
2.1.NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT LÝ CHỦ ĐẠO CỦA TÁC PHẨM
2.1.1.TƯ TƯỞNG ĐỊNH MỆNH - NHÂN QUẢ BÁO ỨNG
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật, ta thấy các nhân vật trong truyện Tây Du, trừ Tề
Thiên đều có một tiền kiếp. Kiếp này họ bị đày ải, phải làm yêu quái cũng vì kiếp trước phạm
31
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
lỗi. Từ người phàm tới thần linh, ai cũng có một số mệnh khó vượt qua được. Tam Tạng vốn là
Kim Thuyền Tử đầu thai, là đồ đệ thứ hai của Phật Tổ, vì phạm lỗi mà phải xuống trần gian tu
luyện cho thành chánh quả. Bát Giới là Thiên Bồng Nguyên Soái, Sa Tăng là Quyển Liêm Đại
Tướng, ngay cả các yêu quái cản đường cũng có nguồn gốc rõ ràng, chúng xuống trần gian
quấy rối Đường Tăng chỉ vì đó bắt buộc phải thế, bởi Đường Tăng phải trải qua đúng 81 nạn
tai. Chuyện nhân quả báo ứng gần như tồn tại trong hầu hết các sự kiện của tác phẩm. Chuyện
trần gian như tên Lưu Hồng, Lý Bưu âm mưu giết người, tiếm quan tước của Trần Quang Nhị,
cuối cùng cũng bị xử tử. Hay như chuyện vua Đường, vì một lời hứa không thực hiện được mà
số phận phải lao đao, chết đi sống lại. Câu chuyện này rất ly kỳ thần thoại, trải qua nhiều sự
kiện mà mỗi hành động của các nhân vật, đều có sự nhân quả báo ứng tức thời. Truyện kể về
mười tám tầng địa ngục: “Ngục Điếu Tân...vắng vẻ buồn phiền, toàn là những người khi sống
làm nhiều điều ác nghiệt, thác về âm phủ chịu mang tội Ngục Phong Đô... khóc than thê thảm,
chỉ vì bất trung bất hiếu trái lẽ trời, miệng Phật lòng xà, sa xuống cửa ngục. Ngục Ma
Nhai...rách da nát thịt rạch miệng bẻ răng, đó là hay thay lòng đổi dạ, chẳng công bằng, múa
lưỡi khua môi ngầm ám hại. Ngục. Hàn Băng... mặt bẩn đầu bù, mày nhăn mắt hũm, đều là
lường thủng giáo dấu lừa người hớ, thành thử tai truân lụy đến mình. Ngục Du Oa... run sợ bi
thiết, đều là cường bạo lừa lương thiện, so vai rụt cổ chịu khổ lênh đênh. Ngục Huyết Trì... lột
da róc xương, bẻ cẳng rút.gân cũng vì giết người cướp của, giết hại súc sinh, đày .đọa muôn
đời không giải thoát, trầm luân trọn kiếp khó quay mình. Người nào người nấy, cổ gông tay
trói, vế xích chân xiềng, có lữ quỷ... cầm búa sắt dùi đồng, đánh cho thịt nát xương tan, kêu đất
la trời không cứu ứng. Chính là:
Người đời chớ có dối lòng mình
Đã có quỷ thần đứng chứng minh
Lành dữ sau đây đều báo ứng
Sớm chày rồi cũng rõ rành rành”
Còn người tốt thì sao “người lên mây thì mình mặc áo tiên, kẻ thụ lục thì lưng đeo ấn cá...
Người nào làm thiện thì được hóa lên đường tiên, người tận trung siêu sinh vào đường quý,
người có hiếu tái sinh vào đường phúc, người công bằng lại sinh vào đường người, người tích
32
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
đức chuyển sinh vào đường giàu” [35:190]. Phải nói rằng tác giả kể chuyện nhân quả rất thực
và ấn tượng. Lưu Toàn có công đi dâng bí được lây công chúa, Tướng Lương chi cho vua vay
tiền giấy mà được trả bằng vàng thật, do đâu vậy, do tâm thiện thì được hưởng phúc. Còn lão
viện chủ viện Quan Âm núi Hắc Phong vì tham áo cà sa mà đến nỗi phải vong thân.
Thật là:
“ Làm thiện không mắc tai
Thiện tâm mà giữ được
Đường thiện hẳn còn dài
Đừng có làm điều ác
Hân ít chuyện chông gai
Đừng bảo không báo ứng
Quỷ thần đã an bài” [55:192]
Vậy đó, bao nhiêu nạn tai của Đường Tăng cũng như của những nhân vật khác trong
truyện đều là do số mệnh cả. Kim Thánh hoàng hậu nước Chu Tử bị yêu tinh bắt ba năm là do
số kiếp, hết ba năm sẽ được giải thoát, công chúa nước Xá Vệ bị yêu quái Nhốt ở chùa Lát
vàng cũng vậy. Bởi do nghiệp chướng kiếp trước mà kiếp này họ bị đọa đày. Cũng có trường
hợp là quả báo nhãn tiền như vua tôi nước Diệt Pháp bị Ngộ Không cạo trọc đầu vì sự cấm
Phật, diệt sư của họ.
2.1.2.TƯ TƯỞNG PHẢN KHÁNG
Người viết rất tâm đắc với nhận xét của Giáo sư Trần Xuân Đề: “bằng nhữụg chi tiết li kì
lắt léo, quanh co giàu kịch tính, Ngô Thừa Ân nêu bật tinh thần phản kháng của nhân dân,
vạch trần bộ mặt đen tối của xã hội, ca ngợi việc chinh phục thiên nhiên và tinh thần vượt gian
khổ của nhân dân lao động..”[57:118]. Thật vậy, trong Tây Du Ký tuy không xuất hiện những
người nông dân áo vải, nhưng qua việc đại náo thiên cung, yêu ma quỷ quái của Tôn Hành Giả,
đã ẩn hiện rõ nét hình bóng người anh hùng ngày đêm quyết chí ra tay quét sạch mọi thế lực
đen tối, phản kháng những đè nén đương thời.
33
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tôn Ngộ Không bằng tài nghệ của mình, náo động long cung, chiếm lấy cây “gậy như ý
bịt vàng”, đánh xuống âm phủ “làm cho quỷ đầu trâu kia sợ phải trốn đông trốn tây, quỷ mặt
ngựa kia sợ phải chạy nam chạy bắc”. Ngay cả vua Diêm vương cũng phải sợ hãi lên tiếng
“xin thượng tiên cho biết tên!”, phải đem sổ sinh tử ra để Tôn xóa tên tuổi loài khỉ trong ấy. Rõ
là Tôn Ngộ Khổng phản kháng bất cứ sự cưỡng bách nào, Tôn khiêu chiến một cách táo bạo
với số mệnh. Rõ ràng đó chính là ước mơ lí tưởng của nhân dân, muốn thoát khỏi sự ràng buộc,
áp bức của thế lực phong kiến. Chính tinh thần tiến thủ không ngừng cùng với tư tưởng phản
kháng, chống lại kiếp luân hồi, đã tạo nên một nhân vật Ngộ Không thọ ngang trời đất, không
sinh không diệt, chọc trời khuấy nước, không bao giờ chịu bó tay để số mệnh sai khiến. Vì lẽ
đó, Tôn Ngộ Không lên đến thiên đình, với thái độ một người thắng thế. Vào yết kiến Ngọc
Hoàng, Tôn Ngộ Không cứ thẳng người đứng cạnh Thái Bạch Kim Tinh mặc cho ai cúi lạy.
Đến lúc Ngọc Hoàng hỏi: “Ai là tên yêu quái?” Tôn Ngộ Không chỉ cúi mình trả lời một tiếng:
“chính lão Tôn đây!” .Thái độ ngang tàng của Tôn ở trước mặt Ngọc Hoàng cũng như sau này,
trên đường thỉnh kinh, Ngộ Không cũng không hề quỳ lạy trước một vị vua nào đã phản ánh rõ
nét sự khinh miệt của nhân dân lao động đối với người những kẻ quyền quý trong xã hội phong
kiến, phản ánh yêu cầu và nguyện vọng bình đẳng của họ.
Khi Tôn biết mình được phong làm chức “Bật Mã Ôn” chỉ là một việc lừa dối, Tôn bèn
bừng bừng lửa giận: “Sao lão trời khinh nhờn lão Tôn đến thế lão Tôn đường đường là một vị
đại hùng ở Thủy Liêm nay chỉ làm một đứa chăn ngựa mạt hạng như thế này thì làm gì?”. Nói
xong, Ngộ Không đạp đổ tung bàn tiệc, rút bảo bối trong tay múa tít, vừa đi vừa đánh ra khỏi
Ngự mã lâu, đến thẳng Nam thiên môn trở về Hoa Quả Sơn. Điều đó cho thấy khí phách ngang
tàng của Ngộ Không. Hãy nghe lời Ngộ Không nói:
“ Ta vốn là:
Trời đất sinh thành hỗn hợp tiên
Vượn già trong núi Quả Hoa Sơn
Thủy Liêm động đó là cơ nghiệp
Học bạn tìm thầy thấu lẽ huyền
34
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Luyện được trường sinh nhiều phép thuật,
Học bài biến hóa rộng vô biên
Chỉ miền hạ giới cò beo hẹp
Lập chí lên trời chiếm Cửu thiên
Bảo điện lẽ đâu trời ở mãi
Nhân gian vua chúa vẫn chia truyền
Người tài làm chủ nhường ta chứ?
Thế mới anh hùngdám đứng lên.
Thượng Đế tuy tu từ thuở nhỏ nhưng, nhưng không nên chiếm lâu chốn Thiên đình. Người
ta thường nói: làm vua phải luân chuyển sang năm đến nhà ta, bây giờ chỉ bảo cho y cuốn gói
đi, đem Thiên cung nhường lại cho lão. Bằng không nhường thì lão sẽ quấy rối mãi, không bao
giờ thanh bình được” [35:140]
Có thể xem đó là đỉnh cao sự phản kháng của Tôn và cũng là đỉnh cao của tư tưởng phản
kháng. Điều đó rất thích hợp thực tế của các cuộc khỏi nghĩa nông dân không bao giờ muốn
dẫm chân tại chỗ. Thật là khí phách hùng vĩ ! Qua chuyện đại náo thiến cung, Ngô Thừa Ân đã
tô vẽ lên hình tượng chói lọi của kẻ phản kháng triệt để, ấy là hình tượng Tôn Ngộ Không. Tác
giả muốn đi tìm một lý tưởng mới, can đảm phá hoại quy củ cũ, không thừa nhận bất cứ uy
quyền nào của kẻ thống trị. Thiên đình, nơi được xem là thần thánh bất khả xâm phạm mà còn
phải hoảng loạn bởi cuộc nổi dậy của Tề Thiên thì những triều đình trần thế kia sẽ ra sao? Bởi
vậy, có thể xem Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung là sự khái quát cao độ bằng trí tưởng tượng
ở cuộc đấu tranh khởi nghĩa của nông dân phản kháng vương triều phong kiến.
Tây Du Ký không chỉ đả phá triều đình phong kiến mà mà còn bài xích, phê phán những
quan niệm mê tín, phục tùng số mệnh. Ngô Thừa Ân muốn phản kháng lại cái tư tưởng gởi thác
số mệnh của mình ở trời Phật, mà không chịu “Tận nhân lực để trị thiên mệnh”Thật vậy, trên
đường sang Tây Thiên, tuy Đường Tăng có Quan Thế âm Bồ Tát giúp sức, nhưng thử hỏi nếu
không có Tôn Ngộ Không trổ tài thì liệu Đường Tăng làm được trò trống gì? Chính vì lẽ đó, ta
thấy Ngộ Không luôn luôn tranh đấu cho sự tồn tại của mình, chống lại tất cả các thế lực thần
35
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
quyền, yêu ma lẫn tự nhiên, Tôn điều khiển cả thiên binh thiên tướng, sơn thần, thổ địa tứ hải
long vương công tào trực nhật. Thậm trí Ngọc Hoàng, Như Lai cũng thành người để Ngộ
Không sai khiến. Trong hồi ba mươi ba kể chuyện Ngộ Không đánh với hai con yêu ma trong
động Liên Hoa, núi Bình Đính là Kim giác đại vương và Ngân Giác đại vương. Hai yêu ma đều
có pháp thuật cao cường lại có năm thứ bảo bối lợi hại nhất là cái “Hồ lô hồng vàng tía có thể
gói người vào trong đó và chỉ trong một giờ ba khắc người bị chói sẽ bị nhũn ra như thịt ninh.
Để đánh lừa yêu tinh, Ngộ không đem “Hồ lô hồng vàng tía” gói trời ra dụ đổi. Để yêu quái tin,
Ngộ Không bèn bắt quyết đọc thần chú gọi nhận Du Thần, Ngũ Phương Yết Đế đến bảo: “Các
người lên tâu ngay với Ngọc Hoàng, lão Tôn quy y chính quả; bảo vệ Đường Tăng sang tây
thiên lấy kinh nâng cao chắc trở, sư phụ gặp tai ách yêu ma có bảo bối, nay ta định lừa nó để
đánh đổi, muộn vàn kêu người, cho ta mượn trời đem gói lại độ nửa giờ, giúp ta thành công.
Hễ không cho, ta sẽ lên thẳng điện Linh Tiêu khuấy động bỉnh đao cho mà xem.” [36:30]. Điều
này cho thấy khát vọng của tác giả muốn chế ngự cả thiên nhiên. Thật vậy, như ở hồi bốn mười
lăm, kể chuyện Tôn điều khiển thiên binh thiên tướng, thiên thần thổ địa, mây mưa, sấm sét.
Tôn bảo mưa là có mưa, bảo nắng là có nắng:
“Đặng Thiên Quân nói:
- Đại Thánh đã truyền bảo gì thì ai dám không nghe nhưng phải có hiệu lệnh mới dám
theo hiệu lệnh mà làm.
Hành Giả nói:
- Ta đem cái gậy làm hiệu.
Lôi Công sợ lắm nói:
Chứ mẹ ơi! Chúng tôi chịu sao được cái gậy ấy?
Hành Giả nối:
- Có đánh các ngươi đâu, hãy nhìn vào gậy của ta ra hiệu ta trở lên một cái tức là cần
nổi gió!
Phong Bà Bày Tốn Nhị Lang cuống quýt đáp ngay:
- Xin thổi gió
36
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
- Gậy trỏ lần thứ hai tức là cần kéo mây!
Thôi Vân Đồng Tử, Bá Vụ Lang Quân nói:
- Xin kéo mây, xin kéo mây!
- Gậy trỏ lần thứ ba tức là cần sấm vang chớp lòe !
Lôi Cổng, Điện Mẫu nói:
- Xin vâng, xỉn vâng!
- Gậy trỏ lần thứ tư là cần mưa xuống !
Long Vương nói:
- Xỉn tuân lệnh ! xin tuân lệnh !
- Gậy trỏ lần thứ năm là cần trời nắng, mưa tạnh nhất thiết không được sai
trái!...”[36:34]
Việc đi thỉnh kinh phần nào tượng trưng ý chí của nhân dân, mong thoát khỏi hiện thực
đen tối, Những yêu ma quỷ quái trên đường đi là những chướng ngại vật của thầy trò Đường
Tăng đồng thời cũng là tai nạn cho nhân dân. Tôn Ngộ Không ra công tiêu diệt những lọai yêu
ma quỷ quái này cũng là hành động cụ thể nhằm cứu nhân dân khỏi tai nạn. Những yêu ma quỷ
quái đó không chỉ là lực lượng thống trị hiện thực trần gian, là hóa thân của lũ quần thần gian
nịnh trong cuộc sống hiện thực mà cũng là thế lực thiên nhiên được nhân cách hóa. Việc Tôn
Ngộ Không tiêu diệt chúng chính là thể hiện ước muốn chinh phục thiên nhiên. Ngọc Hoàng
Thượng Đế, Long vương, Diêm vương là chúa tể của lực lượng này. Chiến thắng thế lực đó có
nghĩa là chiến thắng những tai họa do thiên nhiên gây ra.
Như vậy, bên cạnh những mặt còn hạn chế do ảnh hưởng của thời đại, rõ ràng tác phẩm
Tây Du Ký đã có một tinh thần phản kháng cao độ với ước muốn đạp đổ mọi thế lực đè nén,
xem con người là chủ đạo, vươn lên chế ngự cả thiên nhiên, thần thánh. Điều này tự bản thân
nó đã mang một tính triết lý sâu sắc, rất đáng để chúng ta suy ngẫm.
37
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
2.1.3.ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
Ngô Thừa Ân là một nhà Nho, vì vậy, các nhân vật của ông luôn tuân theo những tiêu
chuẩn đạo đức Nho giáo. Ngộ Không dẫu chọc trời khuấy nước, nhưng luôn luôn kính trọng
hai vị sư phụ của mình là Tổ sư Bồ Đề và Đường Tam Tạng. Hãy xem cảnh Tam Tạng ba lần
đuổi Ngộ Không. Ngộ Không ba lần đánh chết Bạch cốt tinh giả dạng, ba lần bị Tam Tạng
đuổi. Lần thứ nhất,
“Hành Giả thưa:
- Thưa sư phụ, con đi thì cũng đành thôi, chỉ hiềm vì chưa báo đền được công ơn
sư phụ
Đường tăng nói:
- Ta có công ơn gì với mi
Hành Giả nghe lời, vội vàng quỳ xuống khấu đẩu nói:
- Lão Tôn này nhân vì đại náo thiên cung, gây nên tội tự hại mình, bị Phật Tổ Như
Lai giam cầm ở Lưỡng Giới Sơn, nhờ được Quan Âm Bồ Tát cho đệ tử thụ giới hạnh,
lại nhờ sư phụ cứu thoát ra, nếu không cùng sang Tây Thiên với người thì tránh sao
khỏi câu “quên ơn chẳng phải là người, quân tử, muôn kiếp nghìn đời để tiếng chê”
Lần thứ hai, Hành Giả quỳ xuống thưa
“-... cứ để thế đi về, còn mặt mũi nào trông thấy người cố hương. Xin người... trút
cái vành đó ra
Tam tạng không làm được, Hành Giả lại xin đi theo
- Nếu không có, thì người lại mang con đi vậy
Nói đoạn, đỡ sư phụ lên ngựa, mở đường đi lên...”
Cho tới lần thứ ba
“Đại thánh nén không được nỗi đau khổ, thê thảm, bèn, nói:
38
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
- Sư phụ mắng oan con.,.sự bất quá tam, con mà không đi, thực là không biết hổ
thẹn. Con đi! Con đi. Đã đành là đi, chỉ e sự phụ thiếu người thủ hạ.
Lại nói tiếp:
- Con theo sư phụ bấy lâu, ngày nay nữa đường bỏ dở, chưa thành được công quả,
mời thầy ngồi lên nhận cho con lễ tạ, con đi mới được an tâm.
Đường tăng quay lưng đì không thèm nhìn...Đại Thánh bèn dùng phép biến hóa, biến
ra ba vị Hành Giả cùng bản thân là bốn quay xung quanh sư phụ lễ xuống... trông rõ
là
Nuốt lệ cúi đầu từ trưởng lão,
Ngậm thương lưu ý dặn Sa Tăng
Đầu cao rẽ có trên sườn dốc
Chân cứng leo song dưới đất bằng
Xuống đất lên trời như chuyển bánh
Qua non vượt bể nhất tài năng...
Hành Giả ngậm ngùi từ biệt sư phụ, lộn nhào tên mây, về thẳng Hoa Quả Sơn...trên
lưng chừng trời nhìn xuống... lại nhớ tới Đường Tăng, không cầm được hai dòng lệ nhỏ,
phải dừng bước trên mây, hồi lâu mới dời gót được.” [35:470]
Thật cảm động làm sao! Cái đạo thầy trò mà Ngộ Không cố gìn giữ cũng chính là cái đạo
lễ Nho gia luôn cổ súy. Đạo vua tôi, nghĩa thầy trò luôn tuân thủ theo câu “ Quân xử thần tử
thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”.
Trong chuyện Tây Du không hề thiếu những cảnh đó. Như Đường Tăng chẳng hạn, đầu
óc chứa đầy quan niệm đẳng cấp. Ông luôn giữ gìn lễ phép phong kiến rất cẩn thận. Bất cứ gặp
vị thần Phật lớn nhỏ nào cũng đều phục xuống lạy, bất cứ gặp một quân vương nước nào cũng
đều cung kính hô câu vạn tuế. Lúc vào triều Ngọc Hoa vương ở phủ Ngọc Hoa Vương quốc
nước Thiên trúc, Bát Giới cất tiếng chào hơi to một chút làm vương tử kinh sợ, Đường Tăng
liền trách mắng Bát Giới rằng “Người ta thường nói, cửa năm bảy loài, người năm bảy đấng,
39
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
sao mi lại không biết phân biệt kẻ quý người hiền?”. Điều này cũng cắt nghĩa vì sao hai vị
tướng quân của vua Đường sẵn sàng thức thâu đêm canh cho vua ngủ.
Tư tưởng chính danh của Nho gia ảnh hưởng khá sâu. sắc trong truyện. Người quân tử
không nhận của vô nghĩa. Truyện kể:
“Uất Tri Cung phụng lệnh vua Đường mang vàng bạc trả cho Tướng Lương,
nhưng ông không nhận, trả lời
- Chúng tôi không có tiền bạc gì cho vay, đâu dám nhận thứ của không rõ rằng
này.”
Có thể nói rằng, cái khuôn phép xử thế đó chính là tư tưởng chủ đạo cho từng hành động
của các nhân vật. Cũng chính vì tư tưởng trung quân mà tác giả không bao giờ quy hết tội lỗi
cho bậc quân vương.
Ngô Thừa Ân có thể nghiêm khắc chỉ trích những thủ đoạn lừa gạt đảo điên của bọn đạo
sĩ, như đánh giá của Giáo sư Trần Xuân Đề, bọn chúng thường nhờ một số phép thuật, chiếm
lấy lòng tin của quốc Mương; mưu toan cướp ngôi vua, gây nên cảnh triều chính ruỗng nát,
trăm họ lâm than. Ngô Thừa Ân công kích bọn đạo sĩ chính là nhằm phê phán hiện thực xã hội
đời Minh. Không phải ngẫu nhiên với dụng y “sùng tăng diệt đạo” mà Ngô Thừa Ân công kích
bọn đạo sĩ. Khi phê phán chúng, Ngô Thừa Ân thường chĩa mũi Nhọn vào quốc vương, kẻ
thống trị tối cao của chế độ phong kiến. Ví như, đức quân vương nước Xa Trì nghẹ lời bọn đạo
sĩ hành hạ hoa thượng. Hơn sáu, bảy trăm hoa thượng chết vì không chịu nổi khổ sở, không
chịu nổi cảnh nung nấu, không chịu được rét mướt, “có đến bảy, tám trăm người tự vẫn” chỉ
còn lại có năm trăm người, tuy họ không chết, nhưng cảnh sống vẫn là: “mỗi ngày ăn ba bữa,
toàn là gạo rang nấu cháo loãng, đến đêm thì đội ười nằm ngủ trên bãi cát”. Quốc vương nước
Tỳ Kheo hoang dâm vô độ, dùng tim gan của một nghìn một trăm trẻ em để chế thuốc. Nhưng
cũng vì tư tưởng chính thống nên tác giả ít nhiều tỏ ra dè dặt, thận trọng khi phê phán bọn này.
Ông cho rằng sở dĩ đầu óc Quốc vương bị tối tăm, làm nhiều đều sai trái là vì bọn đạo sĩ bưng
bít, mê hoặc. Chỉ cần tiêu diệt bọn đạo sĩ thì quốc vương sẽ sáng suốt, nước nhà sẽ thịnh trị. Đó
chính là tư tưởng đạo đức của Khổng tử.
40
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
2.1.4.TINH THẦN HƯỚNG THIỆN
Trong suốt bộ Tây Du Ký luôn luôn có sự xung đột triền miên giữa thiện và ác. Tiên Phật
là tiêu biểu cho điều Thiện, cho chính thống. Yêu quái là “ác” là tà phái. “ Thiện” phải thắng
“Ác” chánh phải hơn “Tà” tiên Phật phải tiêu diệt yêu quái, đó là luận điểm của Tây Du Ký.
Chính vì vậy, dọc đường thỉnh kinh, Thầy trò Tam Tạng sẵn sàng liều thân cứu giúp những kẻ
gặp nguy khốn, thầy trò Tam Tạng đánh yêu ma chính là để binh vực cho điều thiện. Hay như
Đường Tam Tạng, dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn giữ lòng thanh tịnh, vàng bạc không
màng, sắc dục không thạm. “là người xuất gia, ăn hối lộ một sợi tóc thì muôn kiếp không tu
được”. Chuyện các vị: Bồ Tát í thử lòng thầy trò Tam Tạng là một minh chứng. Chuyện kể:
“Người đàn bà nói:
- May có trưởng lão quá bộ giáng lâm, thầy trò bốn vị, nhà tôi mẹ con bốn người, ý muốn
cưới chồng, vừa chẵn cả bốn, ý ngài thế nào?
Tam Tạng nghe nói, vờ câm điếc, nhắm chặt mắt lại, im lặng không đáp. Người đàn bà lại
nói
- ...thầy trò nhà ngài mà biết thay lòng đổi dạ, làm rề hàn môn sẽ được tự do tự tại,
hưởng dụng vinh hoa, chăng còn hơn đi sang tây vất vả khổ sở ư?
Tam Tạng chỉ như ngây như dại. Người đàn bà lại nói
- .:. Nếu các ngài chịu bỏ hoài bão cũ, để tóc dài, sẽ làm gia trưởng nhà này, ăn sung
mặc sướng, chẳng hơn bát đàn áo thâm, giầy rơm nón lá ư?
Tam Tạng ngồi ở trên, chẳng khác gì trẻ con kinh sấm sét...sợ rúm cả người lại, lơ mơ
cặp mắt ngoảnh lại nhìn đằng sau...
- Chúng ta là người xuất gia, há lại để cho mồi phú quý động lồng, vẻ yêu kiều mê t rí,
còn làm được gì nữa?” [36:50]
Xem thế đủ biết, truyện Tây Du luôn coi trọng việc hướng thiện, từ bỏ nhục dục. Nói như
ngôn ngữ nhà Phật, dục vọng của con người khó có thể thõa mãn một cách trọn vẹn, vì vậy
phải biết cách từ bỏ nó. Hạnh phúc thật sự nằm trong tâm ta, không thể quan niệm bằng tài sản,
quyền thế danh vọng hay sự chinh phục, chiếm đoạt bằng bạo lực. Dục lạc, luyến ái, mê lầm tất
41
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
sẽ không tránh khỏi sa vào sự lôi kéo của nhục dục. Diệt dục vọng, vượt lên mọi luyến ái, ảo
vọng với cái tâm thanh tịnh mới là hạnh phúc cao thượng. Đó cũng là một triết lý chủ đạo của
tác phẩm Tây Du Ký. Không những thế, Tây Du còn khuyên chúng sanh nên làm việc thiện,
tránh điều ác, một việc thiện nhỏ cũng không từ, một điều ác ít cũng không làm, như lời Ngộ
Không nói: “Thật là vị cứu khổ từ tôn, một sinh linh nào cũng không nỡ hại”
2.2.TÍNH TRIẾT LÝ QUA TÍNH CÁCH NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM
Tây Du Ký là một truyện thần thoại có tính hài hước trào lộng nhưng lại bao hàm nhiều
triết lý cao sâu. Từ trước đến nay đã có nhiều học giả bàn về nội dung Tây Du Ký, nhưng tựu
trung đều cho rằng bốn nhân vật: Đường Tăng, Hành Giả, Bát Giới, Sa Tăng là tượng trưng cho
bốn đặc tính của con người, đó là ý trí, sức mạnh, dục vọng và sự chịu đựng. Người viết cũng
đồng tình với quan điểm này.
2.2.1.Ý CHÍ VÀ LÒNG KIÊN ĐỊNH
Có thể nói, Tam Tạng là đại diện cho ý chí và lòng kiên định của con người. Thật vậy,
đường đời luôn luôn khúc khuỷu quanh co, cũng như đường đi Tây phương gian nan, hiểm trở.
Muốn thành công rực rỡ trên đường đời vạn nẻo, con người phải có lòng thành tín mạnh mẽ vô
biên như thầy Tam Tạng, đã luôn tiến tới, nắm vững mục đích của mình, dù một bước cũng
nhất định không lùi, không đổi hướng. Lòng thành tín sắt son đó biểu hiện rõ rệt bằng mấy câu
sau đây của thầy Tam Tạng trước Hỏa diêm Sơn.
" Sa Tăng nói:
- Lửa cháy đón đường không đi đặng, biết tính làm sao?
Bát Giới nói:
- Coi phía nào không có lửa thì đi.
Tam Tạng hỏi:
- Ngõ nào không lửa?
Bát Giới nói:
- Thiếu gì ! Phía Nam, phía Bắc, phía, Đông, đời nào có núi lửa!
42
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tam Tạng hỏi:
- Kỉnh ở phía nào?
Bát Giới nói;
- Kinh ở phía Tây.
Tam Tạng nói:
- Tam Tạng chỉ đi về phía có kinh mà thôi.” [37:467]
Lòng thành tín mãnh liệt là điều kiện chính yếu đã đưa Tam Tạng đến thành công. Đó
chính là một chân lý. Những gay go của cuộc đời cũng như con đường đi Tây phương không
thể nào lường trước được, và cũng không ai biết hết mức độ nguy hiểm của nó. Vì thế Tam
Tạng phải kinh qua những giai đoạn cực kỳ nguy hiểm, mà trong đó mạng sống của thầy như
chỉ mành treo chuông. Âm mưu, qủi kế bạo tàn, quyến rũ... luôn luôn chực sẵn để đẩy bốn thầy
trò vào hố diệt ỵong, sa đọa như những Lựu sa hà, Hỏa diêm sơn, Bàn ty động, Tiểu lôi âm ...
Nhờ lòng thành tín sắt son mà Tam Tạng vượt qua tất cả nạn tai nguy hiểm nhất, bốn thầy trò
đi đến Tây Phương một cách vẻ vang. Phải chăng tác giả muốn Ký gởi nơi đây một quan niệm
về hai chữ “tín thành” ?
Đường Tăng là con người có lòng từ bi, nhân hậu,bao dung, có quyết tâm tu hành vựơt
qua muôn vàn cám dỗ. Cũng như lòng thành của con người, lắm khi trở thành u mê, cuồng tín.
Đọc truyện Tây du, ta thấy cả trăm lần Tề Thiên cản: “Yêu ma đấy, Thầy chớ có cứu”. Và đủ
một trăm lần Đương Tăng cãi, cứ cứu để rồi mắc nạn vương tai. Đó là sự sai lầm bởi lòng
thành tín mà không tuân theo lý trí. Đường Tăng cứ lặp đi lặp lại những sái lầm của mình, con
người, cũng thế, cứ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác bởi sự cuồng tín chỉ biết chìu theo vọng
tâm, tình cảm nhất thời mà thôi. Cũng vì vậy, trong các đệ tử, Đường Tăng tỏ ra cưng Bát Giói
hơn cả. Vì Bát Giới tượng trừng cho dục vọng tiềm tàng trong tâm mỗi người, cũng như con
người, thường chìu theo thói quen, tật xấu của mình. Do đó, trong truyện Tây du luôn luôn xảy
ra những mâu thuẫn có khi gay gắt giữa Tề Thiên và Đường Tăng, khiến cho thầy trò phải mấy
phen chia lìa, đó cũng là một nghịch lý giữa lý trí với tình cảm.
43
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
2.2.2.SỨC MẠNH VÀ TÀI TRÍ
Lòng thành tín mãnh liệt là điều kiện chính yếu đưa Tam Tạng đến thành công. Tuy nhiên
nếu chỉ có một Tam Tạng thành tín không chưa đủ mà phải có sức mạnh và tài trí của Tồn
Hành Giả nữa. Con người ta cũng vậy, có lòng quyết tâm sắt đá mà không có tài để thực hiện
thì cũng luôn chuốc lấy thất bại, chẳng làm được gì. Tam Tạng không thể nào thiếu Hành Giả
mà đi tới Tây Trúc được. Nhờ có sự tài trí, lanh lẹ, xốc vác của Ngộ Không mà đoàn thỉnh kinh
mới đi tới đích bởi Tam Tạng không thể niệm Phật mà tới Tây Phương được cũng như con
người không thể chỉ có niềm tin là được việc đưa ra một Tôn Hành Giả tả xung hữu đột, phò
Tam Tạng suốt dọc đường thiên lý, phá chông gai, trừ yêu quái chính là để khẳng định triết lý
của tác giả, con người phải có cái dũng và cái tài, phải biết làm việc thực tế cho mục đích của
mình.
Tề Thiên cũng chính là hiện thân cho lý trí. Xuyên suốt câu chuyện ta thấy Ngộ Không
luôn là kẻ dẫn đầu đoàn thỉnh kinh. Vì sao vậy, vì lý trí dẫn dắt, phải soi đường cho hành động.
Tuy nhiên, cái tôi trong mỗi con người lại rất to lớn, bởi vậy rất dễ nổi loạn, ngang tàng phách
lối, chẳng chịu thua kém ai. Cho nên Tề Thiên mới .tự xem mình ngang hàng với trời, lên trời
xuống biển, náo loạn thiên cung, quậy phá âm ty, tất thảy đều làm, không chút đắn đo, chẳng
hề ngần ngại. Chính vì lý trí cũng thích đả phá, ưa đả kích nên khí giới của Tề Thiên là cây gậy
như ý, để mà đập phá. Lý trí, tư tưởng đã suy xét, đã vận động thì thiên biến vạn hoa. Cho nên
thiết bổng của Tề Thiên khi nặng thì rất nặng, mà lúc nhẹ thì tựa lông hồng, muốn to nhỏ ngắn
dài tùy ý, nhét gọn lỗ tai cũng xong, thế nào cũng được. Đó cũng là tự duy, ngôn ngữ, lý lẽ của
con người. Hay cũng nó, dở cũng nó, bóp méo, vo tròn đều được cả.
Nhưng cũng vì lẽ đó, lý trí cũng cần thiết phải được uốn nắn cho hợp với kỷ cương,
khuôn phép. Tề Thiên dẫu 72 phép thần thông biến hóa, đi mây về gió nhưng vẫn phải phục
tùng Đường Tăng, phải làm đồ đệ cho người thì mới tới được Tây Phương thỉnh kinh mà tu
thành chánh quả. Phải chăng tác giả muốn khẳng định rằng tài năng phải phục tùng lòng thành
kính, lý trí phải tuân theo đức tin thì mới có chỗ dùng? Hành Giả phải phục tùng thầy Đường
Tăng thì mới có thể thoát khỏi Ngũ Hành Sơn ngàn tạ. Hành Giả nếu không đi Tây Phương
thỉnh kinh thì muôn đời cũng chỉ là chúa động khỉ. Vì lẽ đó, Tề Thiên đội kim cô trên
44
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
đầu.Vòng kim cô tượng trưng cho sự câu thúc nghiêm kịhắc của kỷ luật, hay nói theo tiếng nhà
Phật là chánh đạo. Không có sự câu thúc đó, lão Tôn sẽ đi chệch ra khỏi con đường hướng
thiện, sẽ nguy hiểm cho thế gian. Tuy nhiên, khi về tới chùa Lôi Âm, thành Phật rồi thì không
cần cởi, vòng kim cô cũng tự biến mất. Thật vậy, cái trí con người khi thuần dưỡng thì không
cần kỷ luật nó vẫn vận động đúng. Hơn nữa, lý trí không chỉ chịu sự ràng buộc của đức tin, mà
còn phải biết phân biệt đâu thiện đâu ác, phải nhìn xa trông rộng, biệt việc nên làm, việc nên
tránh. Vì vậy Tề Thiên mới có con mắt lửa tròng vàng, chỉ nhìn một lần là như kính chiếu yêu,
thấy rõ đâu cốt Phật, đâu tà khí che đậy dáng quỷ hồn ma.
2.2.3.DỤC VỌNG
Bên cạnh lương tâm, ý chí và lý trí, con người luôn mang trong lòng một ham muốn nhục
dục. Truyện Tây Du Ký đã xây dựng lên nhân vật Bát Giới chính là để chỉ cái dục vọng phàm
trần đó. Thật Vậy, ngoài việc sáng tạo ra hình tượng rực rỡ Tôn Ngộ Không, Ngô Thừa Ân lại
còn sáng tạo thành công hình tượng Trư Bát Giới rõ và nổi lạ thường, gieo cho người đọc nhiều
ấn tượng. Sở dĩ chúng ta thấy Trư Bát Giới chân thực, gần gũi là vì trong mỗi con người đều có
một lão Trư ngự trị.
Bởi Bát Giới là tánh tham. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc tham nịnh nọt cho
được lợi về mình. Khí giới của họ Trư vì thế phải bắt buộc là đinh ba, là cào cỏ, để vơ vào cho
nhiều, cho vừa lòng tham dục. Hãy nghe “nhạc gia” của Bát Giới than: “Chỉ vì già này không
có con trai, chỉ sinh đước ba mụn con gái, đứa lớn tên là Hương Lan, đứa nhỏ là Ngọc Lan,
đứa bé út là Thúy Lan. Hai đứa lớn gả chồng cho người cùng trang,chỉ còn con bé út, định gả
chồng gửi rể, mong rằng cùng ở chung làm ăn với nhau, nuôi một chàng dưỡng lão, trông nhà
giữ cửa, làm lụng, đi phu. Ba năm trước đây, có một anh chàng, hình dáng cũng khá đẹp đẽ,
hắn nói quê ở trên núi Phúc Lăng, trên không có cha mẹ, dưới không có anh em, xin đến ở rể.
Khi mới đến hắn cần mẫn lắm, cày ruộng, xới đất không cần cày, bừa, không cần trâu, gặt lúa
dỡ khoai chẳng cần liềm hái, sáng đi tối về thật ra cũng tốt, chỉ có một điều, mặt mũi hắn lại
hay biến đổi. Khi mới đến, hắn là người đen béo, đến sau thì biến ra một thằng ngốc, mõm dài
tai lớn, sau gáy có lọng bờm, thân thể thô lỗ đáng sợ; đầu mặt chẳng khác gì hình dáng con
lợn, dạ dày lại rất lớn, mỗi bữa ăn hết bốn năm đấu gạo! Hắn điểm tâm buổi sáng cũng hơn
45
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
trăm cái bánh mới lửng dạ. Được cái chỉ ăn chay thôi, chứ lại ăn mặn uống rượu nữa thí cơ
nghiệp điền sản nhà tôi không thế này chỉ không đến nửa năm là hết sạch sành sạnh mất!”.
[35:300] Bát Giới là sự tổng hợp các bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người, có lẽ
vì thế mà pháp danh của Bát Giới là Ngộ Năng. Cũng thật là lý thú khi tên của lão Trư là Bát
giới, nghĩa là tám điều không nên ham, vậy mà Bát Giới lại tham tất cả, tiền bạc, sắc dục, ăn
uống... thật vậy, trong nội tâm con người không phải chỉ có đức và tài năng, trí tuệ mà thôi.
Trong con người con có dục vọng, hay con “lợn lòng” của mọi chúng sanh. Con quy dục vọng
ấy mới là kẻ địch đáng sợ nhất của mỗi người chúng ta. Bởi đây là thù bên trong, là “giòi ở
trong xương”. Nó đánh ta không phải bằng võ lực hung bạo hay bằng khí giới tàn phá, mà bằng
sự quyến rũ uy mị, bằng sự mơn trớn dịu dàng. Không thiêu đốt như Hỏa diêm sơn, không ào
ào chuyển động như Lưu sa hà, không hung hãn khát máu như bọn yêu tinh, mà êm ả, lả lơi
như Bàn tỳ động, nhừ nước Nữ Chân. Chính những êm ả, lã lơi đó sẽ dẫn ta vào những tai
ương khủng khiếp.
Có thể nói, hình tượng nhân vật Bát Giới đại diện cho sự chia rẽ bên trong, sự thối chí ngả
lòng của mỗi người. Mấy lần Tôn Ngộ Không bị đuổi đều do lời hay dèm xiểm của Bát Giới.
Hay như lúc Bát Giới được Quan Thế Âm thu nhận:
“Lúc đầu Trư Bát Giới nhận lời khuyến thiện cửa Quan Thế Âm Bồ Tát, vâng chịu giới
hạnh, ăn chay ở sạch, tình nguyện cùng Tam Tạng sang Tây Thiên bái Phật cẩu kinh, lập công
chuộc tội. “Nếu không thành tâm, phạm tội trời thì sẽ bị chặn ra muôn đoạn”, nhưng khi bái từ
nhạc phụ, y vội nghĩ ngay: Thật dại dột, chỉ sợ xảy ra điều gì thì sẽ lỡ cả hòa thượng, lỡ cả vợ
con, hóa ra xôi hỏng bỏng không. Bát Giới vội phân bua:
- Gởi lời chào mẹ vợ, dì lớn, dì bé, anh em rể, cậu, cô, chú, bác, tôi hôm nay đi làm hòa
thượng không kịp chào, xỉn chớ trách. Thưa trượng nhân, bố hãy trông nom nhà con cho
cẩn thận, nếu không lấy được kinh trở về hoàn tục, con lại trở về nhà bố ở rể làm ăn như
trước”. [35:340]
Rõ ràng vừa bước chân ra đi, Trư đã muốn quay đầu trở lại. Tinh thần dao động của Trư
hoàn toàn đối lập với sự kiên quyết bền bỉ của Tôn. Cũng vì hoang mang, dao động mà Trư khó
46
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
khăn lắm mới qua được thử thách lớn lao trên đường đi thỉnh kinh, và lúc nào cũng sẵn sàng
quay về. Truyện kể:
“Tại núi Bình Đính, khi thấy Hành Giả dò la địch tính trở về, nước mắt nước mũi như
mưa, Trư vội vang kêu lên:
- Sa Hoa thượng, bỏ ngay gánh xuống, lấy hành lý ra, hai chúng ta chia nhau đi thôi!
Sa tăng hỏi:
- chia thế nào?
Bát Giới nói:
- Chia ngay ra, chú thì trở về Lưu Sa Hòa làm yêu tinh, tôi lại đến nhà Cao Lão trang làm
rể”. [36:40]
Cho nên, trên đường đời, con người không phải chỉ để chiến đấu với khó khăn gian khổ
bên ngoài, mà còn phải khắc phục được mọi sự cám dỗ “thiên hình vạn trạng” của dục vọng
nằm ngay trong lòng mình. Đó là một cuộc chiến đấu bền bỉ, cho nên trong suốt tác phẩm, mọi
biểu hiện về tính cách của Trư đều đối lập với Tôn.
2.2.4.SỰ CAM CHỊU
Nếu như Tam Tạng đại diện cho ý chí của con người, Ngộ Không là sức mạnh, Bát Giới
là dục vọng cần phải tránh, thì hình ảnh Sa Tăng nhẫn nại gánh hành lý trên dọc đường thỉnh
kinh, không một lần nóng giận, không một chút yếu lòng có thể ví như sự bền bĩ, chịu đựng ở
mỗi người. Nếu nói rằng chỉ cần lòng kiên định và ý chí cùng sự thông minh sáng tạo là có thể
thành công thì có lẽ hơi quá chủ quan. Thật vậy, lòng kiên định dễ trở thành mù quáng, trí
thông minh dễ làm cho người ta chủ quan, khinh thường, dễ dẫn đến thất bại, cần có một sự
bền bỉ, nhẫn nại để đi tới đích.
Thật vậy, Sa tăng là tánh cần cù, nhẫn nại. Ngô Thừa Ân bắt Sa Tăng phải nhọc nhằn
gánh hành lý là lẽ ấy. Tề Thiên mấy bận giận thầy, mấy phen đào nhiệm, từng quay về Thủy
Liêm động quê xưa. Bát Giới cũng trăm ngàn lượt léo nhéo đòi chia của, rồi mạnh ai đường
nấy, chàng về cố thổ lấy vợ cho xong. Chỉ có Sa Tăng suốt cuộc hành trình thiên ma bách chiết,
vào yêu ra quỷ, một lòng một dạ quẩy hành trang tiến tới. Không một lời thối lui, không một
47
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
lòng biến đổi. Sa Tăng là hình ảnh của tinh tấn, trì thủ tâm bất thối chuyển. Dù khó khăn đến
đâu, đã quyết rồi, thì cứ đi tới. Khí giới của Sa Tăng vì thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén
nhọn, để mà dễ dàng găm chặt vào. Chí đã định rồi thì không biến đổi, lòng đã quyết rồi thì
chẳng chuyển lay. Pháp danh của Sa Tăng vì thế là Ngộ Tĩnh: tĩnh để mà kiên nhẫn, chịu đựng.
Hình ảnh của Sa Tăng là hình ảnh của sự làm việc âm thầm, cần cù, tận tụy, trung kiên.
Cũng có thể nói Sa Tăng là tượng trưng cho lương tâm sám hối, vì vậy ở Sa Tăng có một sự
chịu đựng rất cao. Ở hồi thứ 22, truyện tả Sa Tăng:
“Đẩy đẩu tóc đỏ rối bay tung
Hai mắt tròn xoe tựa đèn lồng.
Chẳng rám chẳng xanh da xám ngắt,
Như vang, như dội, tiếng chuông đồng.
Áo lông ngang mặc màu vàng thẫm.
Đai sợi đôi vòng sắc trắng bong
Chín cái sọ khô đeo trước cửa
Tay cầm báo trượng rất oai phong” [35:383]
Tác giả đã cho Sa tăng dùng chín cái sọ người làm chuỗi đeo, rồi sau đó, khi đã bái Tam
tạng làm thầy, đã dùng chuỗi đeo đó làm chiếc thuyền đưa thầy trò Tam Tạng qua sông “Ngộ
Tĩnh không dám chậm trễ, tháo sọ trên cổ ra, lấy đây kết làm cửa cung, để hồ lô Bồ Tát vào
giữa, mời sư phụ xuống đìa sông. Sư phụ bước lên pháp thuyền, ngồi vào khoang giữa nhìn
chẳng khấc một con đò. Bát Giới ngồi hai bên đỡ Đường Tăng, Hành Giả đứng sau đò dắt
ngựa. Mộc Xoa đi lên lưng chừng ủng hộ đằng trước, sư phụ yên ổn qua sông Lưu Sa Hà gió
lặng sóng yên, qua nơi Nhược Thủy, thật là thuyền chạy như bay. Không mây chốc đã qua tới
bên kia, vượt qua sóng gió. Không phải giẫm bùn lội nước, chân ráo tay khô, vô vi thanh tịnh.
Thầy trò bước chân lên đất, Mộc Xoa thu hồ lô lên tầng may bạc, còn chín sọ khô biến thành
chín vệt gió âm biến đi mất hết” [35:395] Phải chăng đó là biểu hiện sự sám hối của lương tâm?
Đứng về cá tính mà xét, Sa Tăng không bồng bột, sôi nổi như Ngộ Không, cũng không tham
vọng, xảo trá, làm biếng như Bát Giới. Ở Sa Tăng có một cái gì đó tuy chậm chạp nhưng vững
48
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
vàng, chắc chắn, thật thà như cái tên Ngộ Tĩnh. Phải chăng đó là sự trầm tĩnh, ngay thẳng của
lương tâm như đánh giá của A.Walley, người dịch Tây Du Ký sang tiếng Pháp “Sa Tăng là
tượng trưng cho lương tâm con người, mà lương tâm bao giờ cũng rụt rè, chậm lụt, chịu
đựng...”
2.3.TÍNH TRIẾT LÝ QUA CÁC SỰ KIỆN TRONG TÁC PHẨM
2.3.1.SỰ RA ĐỜI CỦA TÔN NGỘ KHÔNG
Sự ra đời của Tôn Ngộ Không mang đầy vẻ huyền bí. Trên đỉnh núi Hoa Quả có một pho
tượng cao ba trượng sáu thước. Đây không phải là một con số tự nhiên tác giả nghĩ ra mà là
một con số mang đầy đủ triết lý âm dương ngũ hành của người phương đông. Ta nhận thấy sáu
cộng với ba bằng chín, là con số chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm Tây Du Ký. Thật vậy, ngay từ
đầu tác phẩm, tác giã đã giải thích “Phiến đá hợp với vòng trời 365 độ, vây tròn hai trượng bốn
thước, hợp với lịch chính 24 khí Trên có 9 khiếu 8 lỗ, hợp với 9 cung 8 quẻ. Có lẽ từ khi sinh
ra, tấm đá đã cảm thụ tinh hoa cửa mặt đất, của mặt trời, mặt trăng nên mới linh thông được”.
[35:33]
Theo thuyết luân hồi quả báo của nhà Phật, vạn vật trên đời đều có tiền kiếp, số phận cuộc
đời trong kiếp này sẽ do nghiệp chướng kiếp trước quyết định. Thế nhưng Ngộ Không lại là
một con khỉ được sinh ra từ một tiên thai trong đá, vì vậy Ngộ Không không hề có tiền kiếp,
cũng không có cha mẹ, vì vậy những hành vi của Ngộ Không sẽ không bị một thế lực nào ràng
buộc, do đó vận mệnh của Ngộ Không sẽ do Ngộ Không nắm lấy. Điều này cũng thể hiện tư
tưởng phản kháng của nhân dân bấy giờ.
Để giải thích sự ra đời của Ngộ Không, Ngô Thừa Ân đã dùng quan niệm âm dương ngũ
hành xưa: Trời, Đất là cha mẹ của vạn vật. Từ Hỗn Độn sinh ra Thái Cực, ở đây chính là khối
đá. Thái Cực sinh ra Lưỡng nghi, trong tác phẩm là khối đá hấp thụ khí âm dương. Lưỡng Nghi
sinh Tứ tượng, Tứ Tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh vạn vật, và thế là khối đá sinh ra chú khỉ.
Sự ra đời của Ngộ Không đã mang một tính triết lý sâu sắc, nó thể hiện sự mơ ước tới một
không gian thật hùng vĩ, thật tự do. Bởi vậy, không chỉ riêng chú khỉ đá được tung hoành giữa
trời cao đất rộng, mà dưới sự dẫn dắt của nó, cả bầy khỉ của nó cũng đều được sống giữa chốn
non cao kỳ vĩ, thanh nhàn sung sướng
49
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
“Xuân hái trăm hoa về ăn uống
Hè tìm mọi quả để sinh nhai
Thu đào rau củ qua ngày tháng
Đông bới hoàng tinh đợi tết xài”
Nhắc đến sự ra đời của Ngộ Không, ta không thể không nhắc đến đến Hoa Quả Sơn. Quả
không sai khi cho rằng Ngộ Thừa Ân cặm cụi sáng tác lên 100 hồi truyện Tây Du Ký chẳng
phải chỉ để mua vui. Khi miêu tả Hoa Quả Sơn, tác giả đã xem đó như là một khung trời mơ
ước, là nơi mà muôn loài được tự do sinh sống bình yên và sung sướng. Đó là một cuộc sống
“nơi núi phúc, đất tiên, động cổ châu thần; không chịu sự cai trị của kỳ lân, không chịu sự cai
quản cửa phượng hoàng và cũng không bị sự câu thúc của ma chúa nhân gian, tự do tự tại,
thật là hạnh phúc khôn lường” [35:46]. Đó chính là sự mơ ước một cuộc sống không chịu mọi
sự cai trị, đè nén, câu thúc, nó thể hiện ý nghĩa triết lý nhân sinh sâu sắc.
2.3.2.QUÁ TRÌNH TẦM SƯ HỌC ĐẠO CỦA TÔN NGỘ KHÔNG
Quá trình tầm sư học đạo của Ngộ Không là một quá trình mang đậm tư tưởng Phật giáo
và Nho giáo, Lão giáo. Hầu vương bỗng một hôm giác ngộ rằng trên cõi đời này, sự sinh tử là
vô thường, lập tức từ bỏ ngôi vua khỉ, lặn lội đi tầm sư học đạo. Câu chuyện phảng phất giống
tích Thái tử Cồ Đàm từ bỏ hoàng cung của dòng họ Thích Ca tìm đường giải thoát chúng sinh.
Nhưng Ngộ Không học đạo ở đâu? Đó chính là một tòa động phủ:
“Yến hà ve nhạt
Nhật nguyệt sáng choang
Gỗ trắc nghìn cây
Mưa đượm lưng trời xanh mướt
Trúc vàng muôn đốt
Khói quay khắp hố mịt mùng
Ngoài cử hoa thơm thêu gấm
50
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Bên cầu cỏ mọc phun hương. " [35:50]
Chính là động Tà Nguyệt Tam Tinh trên núi Linh Đài Phương Thốn, là chốn tu của vị Bồ
Đề Tổ Sư. Thật là một chốn thần tiền, là nơi mơ ước của nhiều vị thâm Nho muốn lánh cõi đời
trần tục. Ngô Thừa Ân cũng mang một quan niệm triết lý như vậy. Phương Thốn theo đạo Lão
là hạ đơn điền. Theo phép luyện khí công, đấy là một trong những điểm. quan trọng trên cơ thể
của phép tu nội dược. Còn Linh Đài theo đạo lão là tâm. Con người thế nào thì tâm thế ấy.
Thánh tâm là tâm của kẻ thánh thiện, không phải tự nhiên mà có. Nó chính là tâm Phật, từ tâm
phàm đã gạn đục khơi trong mà thành, tựa như đóa sen tinh khiết ngát hương nảy mầm vươn
lên tận đáy bùn ô trọc. Bởi vậy, con đường cầu đạo của Ngộ Không là con đường hướng vào
nội tâm, mà nói như đức Phật là Phật ở tại tâm. Nhưng tâm ý xuất phát từ đâu? Chính là từ tư
tưởng, mà tư tưởng thì có tốc độ cực nhanh, vì lẽ đó mới có chuyện Hầu Vương học được phép
cân đẩu vân, nhảy một cái xa tới một tràm lẻ tám ngàn dặm.
Nền văn hóa Trung quốc vốn bắt nguồn tự ngàn xưa, có thể xem như cái nôi của văn minh
thế giới. Đặc biệt văn hóa Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc Qua triết lý Phật Giáo. Truyện
Tây Du Ký cũng vậy, việc tầm sư học đạo của Ngộ Không đã thể hiện rõ điều đó. Đạo theo
Hán tự là con đường, vậy chúng ta hãy xem con đường Ngộ Không đi ra sao. Trải qua muôn
dặm đường trường gió bụi, trèo non vượt bể, kinh qua nhiều khó khăn trắc trở cuối cùng Hầu
Vương cũng gặp được người tiều phu chỉ đường. Truyện kể:
“Hầu vương cầm tay giữ tiều phu lại nói:
- Thưa lão huynh, lão huynh làm ơn đưa tôi đến. Nếu gặp được tốt, không bao giờ dám
quên ơn chỉ dẫn.
Tiều phu nói:
- Bác là người hảo hán mà không biết thông biến. Tôi vừa nói chuyện với bác, bác còn
khổng hiểu ư? ... bác cứ đì đi” [35:48]
Quả vậy, con đường ta đi phải tự tìm lấy, chẳng ai dẫn đường chỉ lối. Người tiều phu
không chỉ đường đi cho Ngô Không nhưng thật sự đã dẫn lối cho y rồi. Như Lê Anh Dũng đã
nhận xét:
51
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
" Lặng lẽ một phương trời lữ thứ
Mình riêng mình soi bóng cô liêu "
Hầu vương phải đích thân tìm đến Tà Nguyệt Tam Tinh động, Còn đường về nội tâm của
hành Giả là con đường cô đơn, lữ khách không thể trông cậy, lệ thuộc bất kỳ ai, cũng không
còn bận bịu mưu sinh, áo cơm ràng buộc, là con đường giải thoát. Có lẽ vậy mà “từ khi cưỡi bè
ra biển, luôn luôn có gió Đông-Nam, đưa. bè tới bờ biển Tây Bắc”. Chưa nói đến việc học đạo
thì con đường đi của Ngộ Không đã mất mười mấy năm. Thời gian này với không gian ấy, lại
chỉ một thân một mình Ngộ Không lần dò tìm kiếm, tác phẩm cho thấy nhân vật, từ rất sớm đã
có ý nghĩa khai phá và đầy quyết tâm.
Cái thâm thúy của tác phẩm còn ở chỗ tên gọi của từng nhân vật. Hãy xem Ngô Thừa Ân
cắt nghĩa chữ Tôn qua lời vị tổ sư: “ Ta muốn đặt họ ngươi là Tôn. Chữ Tôn bỏ chữ khuyển ở
bên đi thì còn chữ tử, chữ hệ. Tử là con trai. Hệ nghĩa là trẻ Nhỏ. Người chính hợp với bản tính
trẻ Nhỏ nên đặt họ cho ngươi là Tôn vậy”. [35:49] Chỉ một chữ “Tôn” cũng đủ để nói lên bao
điều. Với triết lý Nho gia “nhân chi sơ tính bản thiện”, tác giả muốn đặt cho Ngộ Không một
cái tên bao hàm cái tâm hướng ve bản ngã của con người, mà chỉ có trẻ thơ mới là thánh thiện
nhất. Trở về cái gốc của Ngộ Không, về cội nguồn của nhân vật, ta nhận thấy núi Hoa quả, nơi
sinh ra Ngộ Không tự thân nó đã mang một khát vọng tự do, ao ước trường sinh bất tử. Một
khát vọng phi thường, lớn lao, chỉ có thể có một cội nguồn xuất phát đầy bí ẩn và kỳ diệu như
vậy mới trở nên tương hợp, đem lại sự lý thú cho người đọc. Mỹ Hầu Vương sinh ra từ đá tiên
tức là đã tương giao, tương thông với tạo hóa, vũ trụ. Nhờ vậy, việc tiếp nhận của Tổ sư đối với
Hầu vương là đầy ân cần, thiện cảm. Chính vị Tổ sư đã thay mặt cha mẹ đặt tên cho Hầu
vương. Cũng có thể nói với danh xưng Tôn Ngộ Không, tác giả đã gán cho khỉ đá chút Phật
tính.
2.3.3.NGỘ KHÔNG DIỆT SÁU TÊN CƯỚP
Trên đường sang Tây Thiên thỉnh kinh, thầy trò Đường Tăng không chỉ đụng độ yêu tinh,
ma quái ma có khi chạm trán cùng giặc cỏ cướp đường. Mỗi tên cướp, một yêu quái không chỉ
là một tình tiết thêm vào câu chuyện cho ly kỳ, hấp dẫn mà có một ý nghĩa triết lý sâu xa.
Vào đầu Hồi thứ mười bốn, mào đầu tác giả viết:
52
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Viên tâm qui chính,
Lục tặc vô tung.
Nghĩa là:
Lòng vượn theo đường chính,
Sáu giặc mất tăm hơi.
Lục tặc là sáu tên cướp, bè lũ sáu giặc cướp cấu kết với nhau để phá hoại tấm lòng thanh
tịnh của con người, làm con người mê muội, đi vào đường quấy, xa lìa chân lý. Tại sao vậy?
Chuyện kể rằng sau khi nghỉ đêm tại nhà một cụ gia họ Trần, Tam Tạng và Tề Thiên lên đường
đi thỉnh kinh. “Thầy trò đi được lúc lâu, bỗng ven dường nghe soạt một tiếng Thấy sáu người
xông ra, đứa nào cũng giáo dài, kiếm ngắn,dao sắc, cung cứng, quát vang...” Bọn cướp đó là
ai, hãy nghe chúng tự xưng: “Nhà người không biết bọn ta nói cho mà nghe: Chúng ta, một
người gọi là mắt thấy mừng, một người gọi là tai nghe giận, một người gọi là mũi ngửi thính,
một người gọi là lưỡi nếm nghĩ, một người gọi là ý thấy muốn, một người gọi là thân vốn lo”.
Biết chúng là ăn cướp, Tề Thiên đòi chia của, thế thì: “Sáu tên cướp nghe nói, thằng mừng thì
mừng, thằng giận thì giận, thằng thích thì thích, thằng nghĩ thì nghĩ, thằng muốn thì muốn,
thằng lo thì lo, cả lũ xông lên hét loạn xỉ...” [35:250]
Cướp gì kì lạ vậy? Bởi bọn chúng chính là lục căn của mỗi người, gồm: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Sáu căn hàng ngày hàng giờ tiếp cận với ngoại cảnh
thì sinh lòng biến đổi theo cảnh. Biến theo cảnh hoài thì tâm điên đảo giống như nước trong bị
vẫn bụi trần. Có sáu thứ bụi trần từ bên ngoài đột nhập vào tâm con người (lục tặc ngoại nhập)
thông qua lục căn, và hại con người, đó là: sắc, thịnh, hương, vị, xúc, pháp. Đó chính là: sắc hại
Nhãn: mắt thấy màu sắc, hình dạng vừa lòng thì tham, trái ý thì chê; Thinh hại Nhĩ: tai nghe âm
ngọt ngào thì ham, âm thanh chói tai thì ghét; Hương hại Tỷ: mũi ngửi mùi thơm tho thì thích
thú, hít phải hơi hôi hám thì chẳng ưa; Vị hại Thiệt: lưỡi nếm vị ngon béo thì khoái, nhấp phải
đắng cay thì ớn; Xúc hại Thân: chạm vào da thịt, lụa là êm ái thì mê, chạm phải sần sùi nham
nhúa thì chán; Pháp hại Ý: Ý gặp tư tưởng (pháp) thì sinh ra phân biệt, chê khen, ưa ghét, tính
toán...
53
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Giải thích điều này, có ý kiến cho rằng hễ có lục dục thì có lục trần,mà có lục trần thì sinh
lục tặc. Thật vậy, Đạo Phật giải thích lục căn gặp lục trần sinh ra lục thức, làm cho con người
đối đãi thị phi theo kiểu nhị nguyên (tương đối). Muốn đạt đạo đức tức là thủ đắc được nguyên
lý nhất nguyên (tuyệt đối) thì phải biết đối trị với lục dục và sáu điều ham muốn của con người
mà lục thức đa gieo rắc lên mảnh tâm điền của mỗi người. Sở dĩ sáu tên ăn cướp xông vô nhà
được là vì nhà vắng chủ. Hành giả biết làm chủ bản tâm, củng cố địa vị chủ nhà thì làm sao có
nạn lục trần đột nhập để sinh ra lục tặc. Chính vì thế khi giáp mặt lũ cướp, lập tức Tôn Hành
Giả khẳng định liền vai trò chủ nhân ông của mình: “Ồ, các người là sáu thằng giặc cỏ, không
nhận người xuất gia này là chủ của các ngượi sao mà lại dám chận đường?”
Vậy đó, lục căn chính là Con dao hai lưỡi. Không chế ngự được thì lục căn sinh lục tặc,
chế ngự đặng thì lục tặc trở nên lục thông. Diễn tả sự đối trị của Hành Gia trước nạn lục tặc,
Ngô Thừa Ân mượn tay Tôn Ngộ Không tiêu diệt trọn lũ cướp sáu tên: “sáu tên cướp bỏ chạy
tán loạn, Hành Giả nhanh nhẹn đuổi,theo tóm gọn, đập chết hết, tiêu diệt trừ thảm họa” Sau
đó mời Đường Tăng tiếp tục cuộc hành trình “Xin mời sư phụ lên đường, lũ cướp đã bị lão Tôn
giết hệt rồi”. Tính triêt lý chính là ở đây, Ngô Thừa Ân hàm ý muốn lên đường tìm chân lý
tuyệt đối (thỉnh kinh) thì trước hết phải đại hùng, đại lực, nhất tâm diệt xong lục dục cũng
chính là lòng ham muốn ngay chính trong mỗi con người. Do đó, sự truy quét của Tề Thiên đã
dứt khoát, quyết liệt không khoan nhượng.
Tuy nhiên con người vốn dễ dàng có khuynh hướng thỏa hiệp với cái xấu của bản thân, lý
trí thì bảo quyết liệt: Hành Giả nói: “ Thưa sư phụ, mình không đánh chết họ, họ cưng đánh
chết mình”.Nhưng tình cảm bản năng yếu đuối lại không nỡ dứt bỏ những ràng buộc của đàm
mê ham muốn, sở dục tư riêng, cho nền Tam Tạng mới mắng Hành Giả “ ... bọn chúng tuy là
giặc cướp chặn đường... chỉ cần đuổi chúng đi là xong, việc gì phải giết?” Sự tranh cãi giữa hai
thầy trò đã phản ánh hiện thực cuộc đời: có rất nhiều Tam Tạng đi thỉnh kinh, nhưng chỉ rất ít
người tới đước chùa Lôi Âm đất Thiên Trúc gặp Phật. Bởi thành công hay thất bại là ở chỗ
dám giết hay là buông tha. Vì sự ngậm ngùi thiên cổ đó mà khi được hỏi rằng người tu hành
nên hiếu sinh hay hiếu sát, một thiền sư trả lời rất nghiêm túc: Hiếu sát ! Phải hiểu là sát lục tặc
để cho lòng trống tâm không, cảnh thế sự đời thôi chẳng còn vướng víu ràng buộc.
54
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
2.3.4.TAM TẠNG MẤT ÁO CÀ SA
Trang Tử dạy: “khôn chết, dại chết, biết sống”. Thật vậy, người quân tử bề ngoài như
người ngu thì mới tránh khỏi bị ám hại. Chuyện Tam Tạng bị trộm áo cà sa quả là như vậy.
Truyện kể, lối tới núi Hắc Phong, qua Viện Quan Âm, Tam Tạng và Ngộ Không xin vào
tá túc. Viện chủ ở đây là Kim Trì trưởng lão, vốn là người ham sự đẹp sang phú quý, chuộng sự
hào nhoáng lại thích khoe khoang. Trong khi trà dư tửu hậu, lão viện chủ hỏi Đường Tăng:
“Lão gia từ bên thượng quốc sang đây, có bảo bối gì cho đệ tử xem với”. Trong khi Đường
Tăng chối rằng không có thì Hành Giả đã vội khoe: “hôm trước con thấy tấm áo cà sa trong
khăn gói chẳng phải bảo bối là gì? lấy ra cho người ta xem sao”. Chính sự khoe khoang này đã
khiến cho Kim Trì trưởng lão động lòng tham tới nỗi phải vong thân, uổng mấy trăm năm tu
hành.
Quả thật, lòng tham của con người là vô hạn, khoe của trước mặt người thật chẳng khác
nào treo thịt dê trước miệng hổ. Đúng như Tam Tạng nhận định với Tề Thiên: “Đồ đệ khoe
giàu với người ta làm gì... con chưa hiểu việc đời, người xưa có câu: những vật trân kì ngoạn
hảo, chớ để cho những kẻ tham lam gian dối trông thấy. Nếu để họ trông thấy, tất động lòng
tham, đã động lòng tất sẽ bày ra mưu này kế nọ. Nếu con là người sợ tai vạ, họ đòi phải đưa ra
cho họ thì thôi, nếu không sẽ tan xương nát thịt cũng chỉ vì thế, chứ không phải việc nhỏ đâu.”
[35:285]
Thật vậy, vì ham áo báu, lão viện chủ đã không từ thủ đoạn là cho đệ tử đốt chùa hầu
mong cho thầy trò Tam Tạng chết cháy, mưu đồ chiếm đoạt áo cà sa. Chính vì tham thì thâm,
áo không lấy được mà lọt vào tay yêu quái, còn lão thì bị chết cháy do chính ngọn lửa mình
đốt. Vì việc này mà, Tôn Ngộ Không phải đại náo núi Hắc Phong, cầu viện Quan Âm và đã ở
Nam Hải.
Không nói chuyện đánh nhau cực khổ, có thể nói nạn tai này hoàn toàn là do Ngộ Không.
“Tiên trách kỉ hậu trách nhân” tính triết lý của câu chuyện là ở đó, nếu không vì tính khoe
khoang của Ngộ Không thì đâu xảy ra can qua, nhưng cũng phải công nhận lần này Tam Tạng
có con mắt tinh đời, thấy trước nạn tai do hành động của đệ tử, mặc dù lời lẽ của Đường Tăng
vẫn thể hiện sự nhu nhược, ngại tranh đấu..
55
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
2.3.5.NGỘ KHÔNG CẦU BỒ TÁT CỨU CÂY NHÂN SÂM
Trên đường đi Tây Trúc, thầy trò Đường Tăng không chỉ gặp yêu quái cản đường mà còn
tiếp xúc với nhiều vị đạo sĩ, điều này thể hiện rõ tư tưởng triết lý “tam giáo đồng nguyên”. Mối
quan hệ giữa đạo sĩ Quán Ngũ Trang với Tam Tạng đã nói lên điều đó. Truyện kể:
“Hôm ấy, Trấn Nguyên Đại Tiền nhận được thiếp cửa Nguyên Thủy Thiên Tôn mời tới
cung Di La Thượng Thanh Tiên nghe giảng về “Hỗn nguyên đạo quả” ... bèn dặn học
trò:
- Ta không dám trái thiếp mời của đức Đại Thiên Tôn... hai người ở nhà nên cẩn thận.
Bất nhất có một cố nhân đi qua tới đây, không được đón tiếp trễ nải, phải đem hai quả nhân
sâm biếu người xơi, tạm tỏ tình cố cựu.
Hai tiên đồng nói:
- Vị cố nhân của sư phụ là ai? Xin dạy cho biết để tiện tiếp đãi.
Đại tiên nói:
- Vị đó là Đại Đường Gia hạ Thánh Tăng bên Đông Thổ...
Tiên đồng cười nói:
- Không tử có câu: “không cùng một đạo, không chơi bời với nhau”. Chúng ta là Thái Ất
huyền môn, sao sư phụ lại quen biết vị hòa thượng đó?
Đại Tiên nói:
- Chúng con không rõ, vị hòa thượng đó là Kim Thuyền Tử đầu thai, người là đồ đệ thứ
hai của Phật Như Lai bên Tây Trúc, năm trăm năm trước có quen biết nhau ở hội Lan Bồn.
Chính người đã bưng trà mời ta. Phật tử kính ta nên gọi là cổ nhân.
Hai tiên đồng vâng lời sư phụ ...” [35:413]
Khi mượn lời nói của Đại Tiên nhìn nhận Đường Tăng là cố nhân, Ngô Thừa Ân đã tế nhị
bày tỏ quan niệm triết lý Tiên Phật đề huề, Thích Lão không hài, chính là tư tưởng tam giáo
đồng nguyên.
56
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Từ hồi 24 đến hồi 26, chỉ vì quả nhân sâm ở núi Vạn Thọ mà cả thầy trò Đường Tăng
phải một phen khốn khó. Đường Tăng được mời xơi hai quả nhân sâm hình người, vốn tu hành,
trường trai giới sát, nhìn hai quả nhân sâm Đường Tăng đã hoảng sợ “run rẩy sợ hãi, lùi xa ba
thước nói: Lạ quá! Lạ quá! Năm nay được mùa mà sao nơi đây thất bát đến nỗi phải ăn cả thịt
người? Đứa trẻ này chưa đầy ba ngày mà mang cho tôi giải khát ư?” [35:420]. Đường Tăng
không dám ăn nhưng anh em Ngộ Không lại động lòng thèm muốn hái trộm nhân sâm ăn, khi
bị phát hiện và mắng nhiếc, Tề Thiên còn cả giận phá nát cây nhân sâm rồi lại lẳng lặng bỏ đi
khiến chủ nhân Đại Tiên đuổi theo đoàn và xảy ra những trận đánh nhau kịch liệt. Thầy trò
Đường Tăng đã bị Đại Tiên dùng phép lực thu gọn vào tay áo hai lần, chỉ trừ Tôn Ngộ Khộng
giàu tài biến hóa nên thoát được chân thân. Cũng nhờ thoát được mà Tôn Ngộ Không cứu được
cả đoàn. Làm được những kỳ tích này, Tôn Ngộ Không vẫn tiếp tục thể hiện những tài năng kỳ
diệu của mình, trong đó, việc biến hình (hóa gốc liễu, hóa sư tử đá), nhất là phép Cân đẩu vân
đã làm Tôn Ngộ Không có dịp tung hoành trên khoảng trời đất mênh mông quen thuộc. Đó là
việc Tôn Ngộ Không đi Bồng lai tiên cảnh gặp Thọ Tinh, Phúc Tinh, Lộc Tinh, đi núi tiên
Phương trượng gặp Đế Quân và đi Đông Dương Đại Hải cầu Quan Âm để tìm cách chữa sống
lại cây nhân sâm cho Đại Tiên.
Việc mô tả cây nhân sâm cũng mang đầy tính triết lý. Ngô Thừa Ân mô tả: “Một thân cây
cỗ thụ cực to, cành xanh thơm ngát, lá biếc um sùm... Giống cây này ba nghìn năm mới nở hoa,
ba nghìn năm mới kết quả, lại ba nghìn năm nữa mới chín. Tính ra phải một vạn năm mới được
ăn. Và trong một vạn năm ấy chỉ kết được ba mươi quả. Hình dáng quả này tựa như trẻ mới
sinh chưa đầy ba ngày, tứ chi hoàn toàn, ngũ quan đủ cả.” [35:416]. Trên đời này làm có
giống cây gì quý thế? Tác giả có hoang đường quá không? Thật ra, để hiểu rõ điều này phải
nhìn vấn đề qua lăng kính đạo Lão.
Nói quả nhân sâm ba nghìn năm nở hoa, ba nghìn năm kết quả, ba nghìn năm chín là ý
nói cửu chuyển công thành trong phương pháp tu luyện của đạo Lão. Nói nhân sâm có hình đứa
trẻ là muốn nói đến cái anh tinh của loài người, là sự kết tinh của âm dương tạo thành hình
nhân. Nói nhân sâm kị thủy, hỏa, thổ, mộc, kim tức ngũ hành, nghĩa là điều kiện để tu luyện
thành công phải biết diệt dục, trường thai. Vì lẽ đó mà tên quán đạo sĩ tu hành là quán Ngũ
57
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Trang. Trang là trang nghiêm, ý muốn ngũ quan, ngũ tạng đều phải trong sạch, đó là lý do vì
sao muốn hái quả nhân sâm phải dùng cây cù nèo vàng.
Thật vậy, con đường thành tâm tu luyện đế đắc đạo đương nhiên rất khó, phải đi ngược
dòng thế tục. Cho nên Tây du bảo rằng đúng mười ngàn năm mới được ăn quả nhân sâm. Ăn
được quả rồi thì trường sinh bất tử nhưng nào có hết tai ương
“có duyên ăn thảo hoàn đơn
sống lâu ma quỷ tai ương lo gì”.
Người ăn được quả nhân sâm thì đắc đạo, nhưng nào phải vậy. Căn tiên cốt Phật vốn tự
có tự hữu, tự trong tâm ta chứ nào phải từ bên ngoài đem vào mà được.
Thật vậy, bằng hình tượng ngôn ngữ vạn thọ, ngũ trang, trấn nguyên, thảo hoàn đan... tác
giả đã đem chuyện tham thiền, tịnh luyện ẩn náu sau câu chuyện tưởng chỉ để mua vui. Sau cái
sự hư cấu chính là chân lý giải thoát của Phật và Lão. Ôi một vạn năm mới được ăn quả chín,
con đường thật là dài, đó là cọn đường để đi đến cõi vĩnh hằng.
2.3.6.CỨU VỚT CHÚNG SINH
Có thể nói, một trong những triết lý chủ đạo của tác phẩm chính là tư tưởng “gian nguy
bất cứu mạc anh hùng”.
Thật vậy, có khá nhiều tai nạn xảy ra cho Đoàn thỉnh kinh, mà chủ yếu là xảy ra đối với
Đường Tăng, bất cứ tai nạn nào, các đệ tử cũng hết lòng giải,cứu cho sư phụ. Nhưng cũng có
khi Đường Tăng không hề gặp nạn nhưng Tề Thiên cũng không quản khó nhọc ra tay hành
động. Hễ thấy bất cứ ai vướng nạn tai, Đường Tăng đều khiến đệ tử cứu giúp.
Tới nước Chu Tử, Ngộ Không bỗng biến thành thầy lang chữa bệnh cho quốc vương.
Nghịch lý là trong khi sư phụ Đường Tăng chửi mắng và thiếu tin tưởng người đồ đệ đầy bí ẩn
về tài năng này thì các thái y tại vương triều lại hết lời khen ngợi. Không những thế, Tôn Ngộ
Không còn có trí lực đa kế để cứu được Kim Thánh hoàng hậu trả về cho quốc vương Chu Tử
và lừa lấy được bảo bối nhạc vàng của con yêu sấu lông vàng. Tuy có Quan Âm Bồ Tát đến
giải cứu cho con yêu này nhưng việc nghĩ ra kỷ vật đôi xuyến vàng của Kim Thánh dùng làm
của tin, việc hóa con nhặng xanh, rồi con sâu ngủ, con hầu Xuân Kiều chứng, tỏ thần thông của
58
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tôn Ngộ Không luôn luôn được ứng biến, sử dụng trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, và
hơn nữa, thể hiện rõ tấm lòng luôn vị nghĩa quên thân của thầy trò Đường Tăng.
Chuyện cứu công chúa nước Xá Vệ tại chùa Lát vàng, vườn cấp cô độc cũng vậy. Tại
đầy, qua Dịch thừa, thầy trò Đường Tăng biết vua Di Tông Hoàng Đế. Nay, nghe Đường Tăng
qua đậy, yêu tinh liền tìm cách bắt Đường Tăng làm chồng. Trước khi nó tính bày trò loan
phượng với Đường Tăng, bằng tài phép của mình, Tôn Ngộ Không đã vạch bộ mặt thật của nó
và kịch chiến ngay tại triều đình. Yêu tinh là ai, chính là con Ngọc Thỏ tán thuốc tiên ở cung
Quảng Hàn của Thái Âm, vì vậy Thái Ân Kim Tinh đã xin Tôn Ngộ Không tha cho nó. Vậy là
công chúa thực, con gái của vua Di Tông được giải cứu và thầy trò được triều thần tạ ơn, vẽ
truyền thần để thờ ở điện Hoa Di.
Vậy đó, những cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không không chỉ để khử trừ những tai ách
trên đường mà còn chủ yếu để cứu giúp con người. Vì vậy, có thể xem cuộc chiến đấu của Tôn
Ngộ Không đối với quốc trượng đạo sĩ, nguyên là một con hươu trắng, hay việc cứu sống trẻ
em nước Tỳ theo là một công việc giàu ý nghĩa nhân đạo. Cố nhiên, Ngộ Không tiêu diệt tên
yêu quái chính là để cứu sống một ngàn một trăm đứa trẻ con đang bị nhốt trong lồng đợi ngày
giết thịt, lấy tim gan làm thuốc trường sinh cho vua. Điều này càng có ý nghĩa tô đậm hơn
phẩm chất của Tôn Ngộ Không, cũng là ý nghĩa nhân đạo cao cả trong hình tượng nhân vật.
Chuyện đang đêm, Tôn Ngộ Khổng khoan lỗ hòm chui ra, làm phép vào cung thành nhà
vua, biến hóa ra hàng ngàn dao cạo, giao cho các Tôn Ngộ Không giả đi cạo trọc đầu tất thảy
bọn vua quan, hoàng hậu, cung phi, cũng nói lên điều đó. Chẳng phải vô cớ mà Ngộ Không hết
thành thầy lang rồi trở thành thợ cạo, mà hành động của Tề Thiên chỉ là để cứu giúp các vị sư
đang bị ruồng rẫy. Chúng ta đều biết, ở nhiều hồi trước đây, Tôn Ngộ Không từng coi thường
tất cả lực lượng quyền uy siêu nhiên, từ Long Cung, Âm Ty đến Thiên Đình. Nhưng lần này,
tại nước Diệt Pháp, Tôn Ngộ Không đã tổ chức cạo trọc đầu tất cả bọn vua quan, đằng sau cái
sự ngỗ nghịch đó là một gia trị triết lý rõ ràng, cái ngỗ nghịch cạo trọc đầu bọn vua quan thật
đáng để suy nghĩ. Suy cho cùng, đúng như giáo sư Lương Duy Thứ xác định, Tôn Ngộ Không
là một kiểu hiệp sĩ chống trời, không thừa nhận bất kỳ một thứ quyền uy nào. Và điều này có
quan hệ với quan đềm chính trị của nhà văn Ngô Thừa Ân.
59
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Đi tới đâu, Ngộ Không đều ra tay giúp đỡ mọi người. Đến nước ngoại quận nước Thiên
Trúc, thấy dân khổ vì thiếu nước đã ba năm, Tôn Ngộ Khống mấy lần từ mặt đất đi thiên đình
để giúp quan dân xứ này đạt được nguyện vọng. Tại nước Phủ Ngọc Hoa phồn vinh, Tôn Ngộ
Không nhận dạy võ nghệ cho ba vương tử nước này. Do binh khí của anh em Tôn Ngộ Không
khá đặc biệt, luôn chiến sáng lập lánh, lại để trong xưởng rèn tập của nhà ba anh em vương tử,
nên đang đêm, có một cọn yêu đến lấy cắp và thế là, những trận chiến đấu tìm diệt xảy ra. Ba
anh em Tôn Ngộ Không lên đường truy tìm binh khí và đã gặp đúng ngay đầu mối của công
việc. Đó là bọn yêu cổ quái Điêu toàn và Điều toàn cổ quái đang đi mời Cửu Linh nguyên
thánh, ông nội của đại vương của chúng ta đến dự tiệc lấy cắp binh khí gọi là hội đinh ba.
Tuyệt không bỏ lỡ cơ hội, Tôn Ngộ Không nhổ nước bọt, hóa phép bắt chúng đứng bất động,
rồi lấy thẻ bài, thu tiền bạc, rồi về báo cho sư phụ biết. Anh em Tôn Ngộ Không tiếp giả hình
dạng bọn chúng đến động Hổ khẩu gặp yêu ma sư tử lông vàng. Sự đánh nhau nổ ra cũng lại do
Trư Bát Giới, nhân vật mà tính cách khá dị thường, mang nhiều đặc điểm của con người trần
tục: Bát Giới vừa đi qua, thấy đinh ba của mình thì liền nhảy lên lấy lại và Tôn, Sa Tăng cũng
phải hiện cả nguyên hình đánh nhau với con yêu có binh khi lưỡi sén lợi hại. Nhưng nó thua và
chạy về hướng Đông nam, nơi có ông nội Cửu linh nguyên thánh. Bọn yêu ma dàn binh bố trận
trở lại để đánh nhau với anh em Tôn Ngộ Không. Bọn yêu ma này toàn là sư tử: sư tử chín đầu,
sư tử lông vàng và nhiều loại sư tử khác. Chúng cũng không phải kém gì về năng lực, nên
không những ba anh em Tôn Ngộ Không phải vất vả, mà cả Đường Tăng và cha con vương tử
đều bị chúng quắp cả về động khiến Ngộ Không phải thêm mấy phen vất vả. Vậy đó, dẫu giúp
người thì thiệt thân nhưng thầy trò Đường Tăng vẫn vui vẻ làm.
Cứu vua nước Ô kê là trường hợp như vậy. Chỉ xét về năng lực, thì Đường tăng hãy còn
là người phàm mắt thịt, đang tu luyện, chưa có tài thần thông, ấy vậy mà vẫn nhận lời giúp
những việc vượt quá sức mình! vấn đề đáng quý là đồ đệ của Đường Tăng đều thuận nghe Sư
phụ và cùng nhau giải cứu cho tai nạn của Đại Vương nước Ôkê. Giải quyết được tai nạn này,
Bát Giới cũng có công lớn, nhất là lặn xuống nước, gặp Long Vương, rồi mang về được xác
chết đã ướp còn nguyên của Đại vương nước Ôkê. Còn Tôn Ngộ Không cứu sống linh hồn của
xác chết này bằng con đường không trung “trên ba mươi từng trời”, đó là đến viện Đâu Xuất ly
hậu thiên cung để nhờ một viên đơn hoàn hồn của Thái Thượng. Cứu được một mạng người,
60
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
phục hồi được cả một triều đình, thắng được con yêu sư tử lông xanh đã thiến..., Tôn Ngộ
Không, Trư Bát Giới phải chiến đấu nhiều nơi chốn gian nan, từ cung đường chật hẹp có trà
trộn Đường Tăng giả, Đường Tăng thực đến xứ sở Thủy cung của Long Vương rồi đến trên ba
mươi tầng trời thăm thẳm.... Không có tài phép và tấm lòng vì Đường Tăng làm sao các đồ đệ
có thể thực hiện điều này.
Ngộ Klìông quả là một con khỉ giàu nhân tính. Trên đường đến Xa Trì quốc, gặp cảnh
ngang trái oan khiên của năm trăm vị hòa thượng bị bọn đạo sĩ hành xác, Tôn lập tức cứu nguy
cho họ ngay. Không chỉ cứu giúp lần đó mà Tôn còn truy tận gốc nỗi tai ương của họ là do ba
tên đạo sĩ giả dạng, tôn liền tìm cách tiêu diệt chúng. Cuộc đấu trí của Tôn với ba tên yêu quái
đó thật hấp dẫn. Đại Tiên cầu mưa không lên, Tôn lập tức cầu ngay giúp mùa màng nhân dân
với những phép biến hóa diệu kỳ. Những việc làm của Tôn Ngộ Không bao giờ cũng mang lại
lợi ích cho chúng sinh. Tôn Ngộ Không đã biến từ con rết, con bọ mát đến việc mọc được đầu
khi bị chém, chuyển nước mát thành nước sôi bỏng để chiến thắng từ Hổ Tiên, Hổ Lực đến
Lộc Lực và Dương Lực, nguyên là những con hổ, con hươu, con dê chuyên làm hại các nhà sư
và dân lành.
Cuộc chiến đấu chống yêu quái tại “Thông thiên hà”, cũng là một cuộc chiến vì nhân
nghĩa. Bất bình trước nạn tế người hàng năm, thầy trò Đường Tăng đã đồng tâm giúp gia đình
họ Trần, đánh Linh cảm đại vương để khử trừ tai họa này. Cũng không ngờ quái vật nay khi
thua trận lại hóa gió trút xuống con sông sâu và bắt luôn Đường tăng đem về thủy cung chờ
ngày thịt. Lần này cả ba anh em đồng tâm hợp lực, cùng sự trợ giúp của Quan Âm đã thu được
yêu quái. Nhờ đó mà Rùa già lấy lại được Thủy Nguyên từng bị yêu chiếm cứ và tự giác chở
thầy trò Đường Tăng qua Sông như là sự đền ơn.. Thật là một chiến công giúp được cả hai:
giúp gia đình họ Trần Gia Trang, khỏi phải tế sống con cái, giúp Rùa già lấy lại được Thủy
Nguyên của mình và đúng như Rùa già nói, đó là công ơn “nhất cử nhỉ lưỡng đắc”.
2.3.7.NGỘ KHÔNG DIỆT BẢY YÊU TINH
Vừa xong tai ách ở nước Chu Tử, Tôn Ngộ Không lại phải chiến đấu với 7 con nhện
thành tinh ở động Bàn Ty, suối Trạc cấu. bảy con yêu nữ nõn nà ở hồi 72 không giống các yêu
nữ khác là cứ đòi thành thân với Tam Tạng. Cách xử sự của Tề Thiên với bảy con yêu tình này
61
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
cũng khác. Thông thường gặp yêu quái là Tề Thiên lập tức vung thiết bản chực giết chết ngay,
vậy mà lần này Hành Giả lại nghĩ: “ta mà đánh chúng cả lữ toi mạng hết, như thế đáng thương
lắm, không nên đánh chúng, chỉ cần dụng một kế tuyệt hậu bắt chúng không đám rời đi đâu
còn hay hờn nhiều”. [37:125] Đáng khen hơn ở đây là Bát Giới, y rất cương quyết đi tiêu diệt
chúng. Bát Giới nói: “Sư huynh làm việc gì cũng không đến cùng. Đã thấy yêu tinh sao không
giết chết chúng để còn đi cứu sư phụ. Đó là kế nhổ cỏ nhổ cả rễ”. [37: 128] Vì vậy, Trư Bát
Giới mạnh dạng hóa cá trê để cùng tắm với lũ yêu mà chiến đấu, còn Tôn Ngộ Không chỉ nhai
lông tơ phun thành chim ưng để cắn mổ trừ khử các loại sâu bọ, bồ vẽ, chuồn chuồn được
chúng hóa thân.
Chính vì ngay từ đầu Tề Thiên đã có ý nương tay cho nên không diệt được bảy yêu nữ,
tuy tạm cứu được sư phụ Đường Tăng nhưng về sau lại bị chính lũ yêu hãm hại tại quán Hoàng
Hoa. Bảy con yêu lại đi nhờ đại huynh Đạo sĩ, vốn là tay có thuốc độc luyện từ cứt chim trên
núi. Cũng do không cẩn thận mà Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng ăn phải táo nó mời đầy thuốc
độc, rồi ngã bịnh tại chỗ, một mình Tôn Ngộ Không chiến đấu với Đạo sĩ và cả một đám tơ
nhện do 7 con tinh hóa ra. Bị bưng bít, bị dập đầu, nhưng Tôn Ngộ Không vẫn không rời nhiệm
vụ giải cứu, dù phải nhận rằng con yêu Bách nhỡn ma quân này không phải dễ chiến thắng.
Nhờ Bồ Tát hiện thân thành người đàn bà góa bụa giúp phương hướng, Tôn đã cầu viện đến
Thánh Tỳ Lam ở động Thiên Hoa, núi Tử Vân, Tiên bà Tỳ Lam đã thực lòng giúp, nên bản
tướng của con yêu là một con rết thành tinh dài bảy thước phải hiện nguyên hình. Tỳ Lam còn
cho thuốc để ba thầy trò Đường Tăng uống thổ hết độc dược mới được bình an. Sự liên kết của
bảy con tinh nhện và đạo sĩ để hãm hại thầy trò Đường Tăng như trên đã chuyển dịch từ không
gian sông nước đến cung tiên tuy chỉ với hai ngón độc (lưới nhện và táo có thuốc hiểm) nhưng
khá hiểm hóc.
Nhưng tại sao Ngộ Không lại chần chừ, thiếu dứt khoát với bảy con yêu nữ lúc bán đầu?
Bởi vũ khí tấn công của chúng khá đặc biệt: “Bỗng thấy bảy cô gái cởi khuy áo, để lộ eo bụng
trắng phau như tuyết, làm phép từ trong rốn ùn ùn nhả những sợi tơ ra như một tấm lưới mù
mịt một khoảng trời, trùm kín lấy Hành Giả”. Vì vậy Hành Giả mới cho rằng: “Vật cứng còn cố
thể đánh đứt, thứ này mềm đánh chỉ lún xuống. Khéo nó biết nó quấn chặt lấy mình lại hóa
dở”.[3:126]
62
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Nếu đứng về góc độ triết lý mà xét thì ta thấy, nơi ở của bầy yêu này là động Bàn Ty. Bàn
viết với bộ chu (thuyền) nghĩa là quanh quất, lòng vòng. Ty là tơ, sợi tơ như nhuyễn, mềm mại
mà khó đứt. Y đây đã rõ, tơ là tơ tình, không thể dễ dàng rứt bỏ. Tề Thiên từng chọc trời khuấy
nước, nhưng tình cảm vẫn còn ở phàm trần nên còn luyến tiếc như con người thường hay khoan
nhượng với tình cảm cựa mình vậy.
Có thể xem bảy con yêu này là thất tình, đó là hỷ nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Cùng với sáu tên
cướp ở những hồi đầu có thể tạo thành mười ba chướng ngại cho người Hành Giả. Thất tình lục
dục chính là mối loạn hàng ngày, trong tâm trí, cần tìm cách trừ khử. Chính vì lẽ đó, ban đầu
Tề Thiên còn luyến tiếc không tiêu diệt bọn chúng, nhưng sau đó tại suối Trạc Cấu, Hành Giả
đã ra tay không thương tiếc. Tại sao phải đến suối Trạc Cấu mới ra tay, Ngô Thừa Ân đã ẩn sau
cái tên Trạc cấu một thâm ý sâu sa. Trạc viết với bộ thủy nghĩa là rửa ráy. cấu là nhơ bẩn, Trạc
cấu chính là rửa bụi hồng trần. Thật vậy, muốn diệt trừ mười ba cái họa này phải hết sức kiên
trì với lòng thanh tịnh. Quả như bài thơ bình sự việc tiễu trừ yêu tinh :
“Thất tình lục dục sớm trừ xong
Luyện tập ngấy đêm sửa tấm lòng
Khử diệt thất tình an tính thiện
Tu hành phải để chí không không”
2.3.8.ĐƯỜNG VÀO XỨ PHẬT
Đường vào đất Phật của thầy trò Tam Tạng phải vượt qua muôn ngàn khổ ải, thậm chí
còn bị yêu quái lừa vào Lôi Âm giả.
Theo dõi bước chân của Đoàn thỉnh kinh, chúng ta đều thấy Đường Tăng và cả Đoàn gặp
phải quá nhiều tai nạn. Điều này không có gì ngạc nhiên. Chính hiện tượng quá nhiều tai nạn
này đã góp phần làm rõ sự phong phú trong khả năng phản ánh của Tây Du Ký. Gần tới đất
Phật rồi mà Đường Tăng vẫn nguyên vẹn cái ngây thơ của mình khi đến Tiểu Lôi Âm Tự. Đó
là việc cứ đòi lễ Phật mà không hề suy xét trước sau. Không có Phật nào cả. Ở đấy chỉ toàn là
yêu quái giả dạng. Nhờ con mắt thấu suốt của Tôn Ngộ không mà bọn yêu ỏ đấy phải hiện thân
ra đánh với Tôn Ngộ Không. Con yêu Hoàng Mi đại vương này cũng cực kỳ nguy hiểm, bởi
63
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
bửu bối cái nạo bạc bằng vàng của nó. Vì bửu bối này mà Tôn Ngộ Không phải vất vả. Từ sự
giúp sức của 28 vị tinh tú đến việc thoát thân của Tôn qua lỗ nhỏ trên chóp sừng Can Kim
Long; từ sự giúp sức của Đăng Ma Thiên Tôn cho đến mưu cao của Di Lặc, Tôn Ngộ Không
mới vượt qua được tai nạn này.
Đến hồi 98 thì cả thầy trò đã thật sự đặt chân lên đất Phật. Tại con sông cuối cùng rộng
tám chín dặm, Tôn Ngộ Không đã nhận ra Phật vô bảo tràng quan đến đón bằng chiếc thuyền
không đáy. Còn Đường Tăng vẫn chưa nhận biết được điều hư thực, thậm chí chính mình đã
“xương cốt phàm thai đã thoát thân” mà Đường Tăng chỉ hiểu khi được Tôn Ngộ Không giải
thích. Rồi thầy trò lên Linh Sơn, đến chùa Lôi Âm. Phật tổ Như Lai đã cho vô số các vị La
Hán, Yết Đế, Già Lam xếp hai hàng đón tiếp thầy trò Đường Tăng. Tại điện Đại hùng.
Truyện kể: ngủ một đêm tại quán Ngọc Chân, hôm sau mấy thầy trò chuẩn bị lên đường.
Tề Thiên nói với Kim Đính Đại Tiên: “Sư phụ tôi đang sốt ruột muốn bái Phật, phải đi ngay
đừng chậm trễ nữa” , thất vậy, con đường đi tìm chân lý không thể chần chờ, “đêm dài lắm
mộng”. Vì vậy khi chân bước vào chùa, Ngộ Không liền “cười khà khà” ,tay dắt Đường Tăng
dẫn vào cửa pháp môn. Nguyên con đường này thông ra lối cổng chùa, mà từ gian giữa trong
quán, đi xuyên qua lối cửa sau. Đại Tiên chỉ Linh Sơn nói: “Nơi ấy là núi Linh Thứu, thánh địa
của Phật Tổ đấy”.
Vậy đó, muốn đi vô đất Phật, chỉ có con đường một chiều như trên. Không thể nào đi trở
ra. Con đường này đưa vào lối cửa sau. chi tiết này gợi nhớ đến Mỹ Hầu vương cầu đạo ở Tà
Nguyệt Tam Tinh Động, phải “đi vào bên trong đóng cửa giữa lại, rồi đi vào lối cửa sau, ở chỗ
kín ấy sư phụ mới truyền đạo cho”.
Vì sao vậy, bởi học tu theo Lão hay Phật, đi con đường thiền tức là Hành Giả chọn con
đường hướng nội đi vào trong. Đi ra thì chỉ gặp âm thanh sắc tướng, nói theo Phật, đó là huyễn
ảo. Đạo đức kinh, Chương XII có câu: “Vị phúc bất vị mục” (vì bụng chứ không phải về mắt)
đó chính là ám chỉ của hành giả phải quay vào, quay vô trong, đừng nhìn ra ngoài như thế mới
gặp được chân, bỏ được giả. Theo truyền thống phương Đông, giáo pháp chỉ bày con đường tu
thiền phải mật truyền, giống như Bồ Đề Tổ Sư dạy Hầu Vương ở cửa sau, nơi chỗ kín nhiệm.
Kinh kệ, cúng bái, cầu siêu, sám hối, lập đàn,... là hình nhi hạ học là ngoại giáo công truyền,
64
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
dành cho đại chúng. Trái lại con đường đi tìm trăng sao cửa động (tìm tâm) của hành giả cô
đơn, âm thầm lặng lẽ là hình nhi thượng học, là nội giáo tâm truyền, hay nói theo Bồ Đề Đạt
ma ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ sáu là giáo ngoại biệt truyền.
Chính vì vậy mới có chuyện trên bến Lăng Vân, sau khi tô biệt Kim Đính Đại Tiên, mấy
thầy trò Đường Tăng tiếp tục đi và nhìn thấy một “dòng nước cuồn cuộn, nước vỗ tung trời,
rộng tới tám chín dặm bốn phía tịnh không một bóng người, chỉ có một cây cầu độc mộc
Muôn trượng cao một cọng cầu vồng.
Trơn như mỡ khó đặt chân...” [37:550]
Đường Tăng không dám qua cầu, nhưng Tề Thiên cứ nhất định bảo phải bước qua cây
cầu này mới thành Phật được chứ. Cây cầu trớ trêu đó là gì, chính thật là nằm trong thâm tâm
con người. May thay, giữa lúc Đường Tăng còn phân vân chưa dám qua cầu, bỗng có Tiếp Dần
Phật Tổ, mang thuyền đến rước qua sông. Truyện Tây Du tả đoạn này rất khéo: “Tam Tạng
quay đầu, chợt nhìn thấy phía hạ lưu cố một người đang chèo thuyền bơi tới, cất tiếng gọi to:
Lên đò! Lên đò!”
Ở đoạn này, chúng ta cần lưu ý trình tự sự việc. Không phải vì Đường Tăng nghe tiếng
gọi đò trước mà sau đó mới quay đầu lại. Chính nhờ Đường Tăng quay đầu lại trước nên mới
gặp người lái đò đang tới. Đò để đưa người qua sông, sang tới bờ bên kia. Đường Tăng quay
đầu lại nhìn thấy đò tức là gặp được phương tiện để sang bờ bên kia, cũng là bờ giác ngộ hay
cõi Phật còn bờ bên này là luân hồi sanh tử.
Nói rằng Đường Tăng quay đầu lại thấy đò, tức là sẽ thấy bờ bên kia, ở đây có một ý
nghĩa triết lý sâu sắc, chính là muốn ám chỉ bốn chữ của nhà Phật: hồi đầu thị ngạn (quay đầu
lại là bờ). Con người phàm phu hướng ngoại cứ đi hoài trong cõi hồng trần, lênh đênh trên biển
khổ sóng gió chập chùng (khổ hải nạn trùng ba). Nhưng trong tự thân con người đã có sẵn
chủng tử của Phật (Phật tính), do đó một con người sực tỉnh dừng bước giang hồ quay đầu trở
lại thì không tiếp tục đi sâu vào biển trần nữa, mà bến giác sẽ hiện ra. Do triết lý đó mà có câu
chuyện mười tám ông ăn cướp, vừa mới kịp buông dao đã từ đời oan khiên nghiệp chướng, lập
tức đã trở nên thập bát la hán trang nghiêm cho đời sùng mộ, kính ngưỡng.
65
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Nhưng chiếc thuyền đưa Tam Tạng qua sông lại không có đáy! Đường Tăng hỏi người lái
đò: “thuyền của ngài là thuyền hỏng, không đáy qua sông làm sao?”. Thật vậy, thuyền có đáy
là thuyền hữu hình cõi tục. Nó chỉ có chở khách trần đi từ bến mơ này đến bến mơ kia, thuyền
có đáy dù to đến mấy, sức chở cũng có hạn. Thuyền không đáy là thuyền vô hình cõi tiên cõi
Phật. Nó đưa khách trần tứ bến mơ sang bờ giác. Nó không đáy mà chở vô hạn. Không có sóng
dữ nào nhấn chìm được. chính vì thuyền diệu như thế nên thuyền ấy được được Phhật Tổ tán
thán rằng:
Thuyền ta đây:
Thuở hồng hoang từng nổi tiếng,
Có ta đây chèo chống giỏi giang.
Sóng to gió cả vững vàng,
Không đầu không cuối bước sang cõi lành.
Quay về góc, bụi trần chẳng bợn,
Muôn kiếp đày, thanh thản qua sông.
Thuyền không đáy vượt trùng dương,
Xưa nay cứu vớt muôn vàn sinh linh [37:552]
Chiếc thuyền trên bến Lăng Vân chính danh của nó là thuyền Bát nhã. Phật gọi cõi đời
này là sông mê, biển khổ. Qua sông vượt biển cần phải dùng thuyền. Đò chính là con đường
giải thoát đưa chúng sanh đến bờ hạnh phúc.
Ở cuối hồi 98 và sang đầu hồi 99, dù đã đến đất Phật rồi nhưng thầy trò Đường Tăng lại
tiếp tục gánh chịu nạn tai. Bởi Đường Tăng mới đi được năm nghìn bốn mươi ngày vẫn thiếu 8
ngày để hợp với số tạng kinh được nhận. Hơn nữa trong 14 năm ấy Tam Tạng chỉ mới chịu 80
tai nạn, vẫn còn thiếu một tai nạn nữa mới đủ con số triết lý trong đạo Phật là “chín lần chín
tám mốt”.
Điều thú vị là ở tai nạn cuối cùng, lẽ ra là do Quan Âm tạo ra, nhưng thực chất là do lỗi
của thầy trò họ. Bởi Tam Tạng đã quên mất lời hứa hỏi Như Lai về tuổi thọ và việc hóa kiếp
66
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
của con rùa tri ân năm xưa, đó là con rùa chở qua sông chỗ Trần gia trang nên bị rùa tức giận
nhận chìm xuống sông. Chính nhờ đó mà thầy trò Đường Tăng gặp lại gia đình họ Trần. Trong
tiệc tạ ơn, thết đãi, chỉ mỗi Trư Bát Giới vẫn nguyên vẹn tính nết đời thường của mình, than
rằng: “Khi chúng tôi còn lận đận, lúc bấy giờ ăn được, nào có mời ăn uống đâu. Ngày nay ăn
không được, thì chưa xong nhà này, lại tiếp nhà kia!”. [37:670].
Tâm lý tiệc ăn uống này góp phần cho thấy thêm tính nết Qua Trư Bát Giới là gần gũi với
đời thường và luôn luôn nói thực lòng mình, kể cả những tư lợi cá nhân.
Nếu ở hồi 99, Trư Bát Giới đã tự nhiên bộc lộ tâm lý tiếc ăn uống của mình thì ở hồi cuối
cùng, Tôn Ngộ Không cũng có dịp nói rõ quan niệm và tình cảm của mình đối với sư phụ
Đường Tăng về cái vòng kim cô ác nghiệt. Tác phẩm có đoạn viết: “Tôn Hành Giả nói với
Đường Tăng: Sư phụ ạ, bây giờ con đã thành Phật, cũng được như thầy, mà cứ phải đội mãi
cái kim cô à? Thầy có còn phải đọc chú khẩn cô nhi để thắt buột con nữa đâu? Xin thầy đọc
bài chú mở đai bỏ nó xuống, đập vỡ tan tành, không để cho Bồ Tát lại mang đi bắt hại kẻ
khác!” [ 37:580]. Trong những lời lẽ trên đây, phần đầu có vẽ ôn tồn, đạo vị, nhưng phần sau
thì sự phê phán và cái giận dữ vẫn còn như xưa. Biểu hiện trên đây không những không thay
đổi, mà còn củng cố thêm thái độ tình cảm của Tôn Ngộ Không đối với sự triệt buộc của
Đường Tăng cũng là của quyền lực của Bồ Tát, Như Lai đối với con người quái kiệt “ngoại càn
khôn” này.!
2.3.9.LĨNH KINH KHÔNG CHỮ
Có thể nói ở hồi 98, khi thầy trò Tam Tạng bị A nan, Ca diếp giao kinh trắng là một hồi
gây nhiều tranh cải nhất. Truyện kể “Nghe tin báo thầy trò Đường Tăng đã đến, Phật Tổ mừng
lắm, lập tức xuống chiếu vàng, cho gọi tám vị Bồ Tát, bốn vị kim cương, năm trăm vị a la hán,
ba nghìn vị yết đế,mười một vị đại diệu, mười tám vị gia lam đứng xếp thành hai hàng, sau đó
mới xuống chiếu cho gọi Đường Tăng vào”.[37:560] Mở đầu việc truyền kinh mà tả tỉ mỉ việc
đón tiếp long trọng hiếm có như thế, tác giả không phải không có ngụ ý, chính là cho rằng đạo
pháp không phải dễ được truyền thụ (đạo pháp bất kinh truyền). Thật vậy, chân kinh đâu dễ
truyền.
67
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Truyện kể: Trong chùa Lôi Âm, được diện kiến Phật Tổ Như Lai tại điện Đại Hùng,
Đường Tăng quỳ lạy và thưa rằng: “Muôn xin Phật Tổ ra ơn, ban cho chân kinh sớm mang về
nước”. Như Lài bèn mở miệng từ bi, động lòng thương xót, nói với Tam Tạng: “ cõi đông thổ
của nhà ngươi... người đông vật thịnh, tham lam độc ác, trí trá gian dâm... bất trung, bất hiếu,
bất nghĩa bất nhân, lừa mình dối người... Nay ta có ba tạng kinh dể siêu thoa khổ não, giải trừ
tai ương... Các người từ xa xôi tới đây, ta cũng muốn trao tất cả mang về, chỉ e người phương
đó ngu si lỗ mãng chân ngôn, không biết ý chỉ sâu xa trong đạo của ta. " [37:600]
Trước khi tìm hiểu dụng ý của Ngô Thừa Ân vì sao phải dông dài như thế, cũng nên biết
rằng đoạn văn trên của Tây du hoàn toàn phù hợp với lịch.sử truyền giáo của nhà Phật.
Lịch sử đạo Phật ở Ấn Độ, khi chép về thời kỳ tu chứng của tu sĩ khổ hạnh Cô Đàm, cho
biết rằng lúc đắc qua Phật chánh đẳng chánh giác, ngồi ở gốc cây Ạjapala bên bờ sông Ni Liên
Thiền, Đức Phật đã trầm tư về vấn đề có nên đem cái đạo pháp giải thoát mà Phật đã tự chứng
đắc truyền ba cho người đời hay không, thì mấy lượt ngài đã do dự bởi nghĩ rằng người thế
gian còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt lẽ đạo.
Bởi vậy, muốn lấy được bảo bối của Phật, tức- là thỉnh được kinh màu nhiệm thì Đường
Tăng phải đánh đổi vật tương xứng. Truyện kể rằng: “A Nan, Ca Diếp dẫn Đường Tăng xem
khắp tên các bộ kinh một lượt, đoạn nói với Đường Tăng: thánh tăng từ phương đông tới đây,
chắc có chút lễ vật gì biếu chúng.tôi chăng? Mau đưa ra đây chúng tôi mới trao kình.cho.
Tam Tạng nghe xong nói: Đệ tử là Huyền Trang, vượt đường sá xa xôi, chẳng chuẩn bị
được quà cáp gì cả.
Hai vị tôn giả cười nói: Hà! Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói
mất” [37:602]
Vậy đó, Phật Tổ sai A nan, Ca Diếp lo việc truyền kinh kệ cho Đường Tăng, vậy mà hai
vị lại bắt đưa lễ vật rồi mới trao kinh. Mới đọc ai cũng thấy bất bình, chốn tôn nghiêm vậy mà
cũng cổ kẻ đòi hối lộ! Lẽ đâu có chuyện ngược ngạo vậy? Không phải vô cớ mà tác giả kể
chuyện- này, nếu để tâm nghĩ kỹ, nó mang một ý nghĩa triết lý rất sâu sắc, bởi A Nan và Ca
Diếp là hai trong mười vị đại đồ đệ của đức Phật Thích Ca thì làm sao lại có chuyện vòi vĩnh ở
cửa Phật được.
68
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Chuyện kể Tôn Ngộ Không đòi báo với Như Lai điều chướng mắt vô lý này. Nhưng thầy
trò đã được trao kinh, rồi bái tạ, xuống núi trở về. Tuy nhiên, trong lúc trao kinh, vị Nhiên
Đăng cổ Phật thấy Anan, Ca Diếp giao cho toàn kinh không có chữ, nên bảo Bạch Hùng đuổi
theo lấy lại và cùng trở lại lấy chân kinh có chữ. Bạch Hùng hóa phép cỡi gió lốc đuổi theo, cắp
hết kinh của Thầy trò Đường Tăng mang đi. Tôn Ngộ Không phải đuổi theo Bạch Hùng, Bạch
Hùng ngại gậy sắt , của Tôn Ngộ Không nên thả kinh xuống. Thầy trò Đường Tăng cùng đến
xem kinh thì thấy không có chữ Tôn Ngộ Không trực giác ngay đến Anan Ca Diếp. Do vậy, tất
cả đều quay lại để cáo với Phật Tổ Như Lai. Thật bất ngờ cho thầy trò, nhất là Tôn Ngộ Không,
vì Phật Tổ bảo rằng đều biết rõ việc ấy. Càng bất ngờ hơn khi Phật Tổ kể lại việc trước đây các
tỳ kheo đi đọc kinh cho họ Triệu nước Xá Vệ cũng có lấy của. Như Lai kể: “Chỉ lấy được của
nhà ấy ba đấu ba thăng vàng cốm đem về. Ta vẫn còn bảo bọn họ bán rẻ quá, con cháu đời sau
lây tiền đâu mà dùng!” Vậy là không còn gì để nói thêm, dù trước khi Phật Tổ Như Lai nói,
Tôn Ngộ Không trong lời thưa với Như Lai đã xác định việc Anan, Ca Diếp đòi lễ vật là “thông
đồng nhau làm bậy” . Phải chăng đã “hết thiêng” ?
A Nan, Ca Diếp đều là hai tôn giả của đất Phật, vâng lệnh Như Lai đem chân kinh truyền
cho Đường Tam Tạng, dẫu đã bị Ngộ Không tố giác với đức Phật, nhưng lần thứ hai vẫn tiếp
tục đòi Đường Tâng phải đưa tiền lễ. Tam Tạng không có gì nộp, đành bảo Sa Tăng lấy bát tộ
tía bằng của vua Đường Tăng cho xin ăn dọc đường dâng lên. Thế mà A nan cũng đưa tay đỡ
lấy, để mấy người lực sĩ coi lầu ngọc, mấy người đầu bếp ở trong Hương Tích thấy tôn giả làm
như vậy;, người vuốt mặt kẻ đập lưng, nào xua tay, nào bĩu môi cười rộ: “Rõ bêu! Rõ bêu! Lại
đi hạch lạc, đòi ăn lễ người lấy kinh”. A Nan tuy hổ thẹn, mặt mũi nhăn nhúm, nhưng tay vẫn
dữ chặt cái bát tộ! Một hình ảnh đầy vẻ châm biếm những ẩn sau nó cái ý nghĩa triết lý cao
thâm.
Nói Tam Tạng, không còn vật báu để dâng nộp là sai, bởi Đường Tăng còn hai bảo vật
của Quan Âm tặng là chiếc áo cà sa báu và cây thiên trượng, vậy tại sao chỉ dâng cho A Nan,
Ca Diếp chiếc bình bát?
Trong đời sống xuất gia, bình bát là biểu tượng của nhà tu khất thực. Nhưng chiếc bình
bát bằng vàng này nguyên là của vua Đường ban cho Tam Tạng để đi thỉnh kinh. Vì thế, có thể
69
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
nói bình bát này là tượng trưng cho của cải và danh vọng ở thế gian, giao nạp là quá đúng,
Đường Tăng muốn thành Phật thì phải dứt bỏ tham vọng trần túc. Vì vậy, để lãnh kinh báu, thọ
lãnh đạo giải thoát, Đường Tăng phải dâng bình bát, ngụ ý người xuất gia lìa bỏ danh vọng và
của cải thế tục. Hành động của Đường Tăng ở đây là ẩn dụ, có tính cách biểu tượng. Bởi đạo
pháp bất khinh truyền, kẻ thọ đạo phải chấp nhận đánh đổi, như khi xưa Thái tử cồ Đàm phải
đánh đổi cả ngai vàng, vợ đẹp con thơ, cuộc sống nhung lụa đế vương để tìm đạo giải thoát.
Việc hư cấu của tác giả chuyện đòi hối lộ để đưa vào đó một chi tiết đắt giá là việc truyền
kinh trắng. Chẳng phải A Nan, Ca Diếp vì không được thỏa mãn mà có ý lừa dối, mà đó chính
là ý định của Phật Tổ bởi “quyển trắng tinh là chân kinh không chữ, cũng là những kinh hay”
Dẫu sau đó đức Phật cũng đồng ý đổi kinh có chữ cho thầy trò Đường Tăng. Vấn đề then chốt
ở đây là kinh vô tự có trước rồi mới tới kinh hữu tự. Nó đúng với lịch sử truyền đạo của đạo
Phật.
Khai sáng Phật giáo là Thích Ca. khi ngài đi tu không có lễ bái, kinh kệ, cũng chẳng có
thầy. Ngài chỉ nhờ giác ngộ bổn tâm của mình, bằng con đường tham thiền mà tìm được chân
lý. Bởi vậy, bài thuyết pháp đầu tiên của ngài trước đông đảo đệ tử là im lặng, đó chính là kinh
trắng. Bởi
Bất tập văn tự
Giảo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhẩn tâm
Kiến tánh thành Phật
Không Cần thông qua chữ nghĩa, không sử dụng kinh diếp giáo lý, nhắm thẳng vào nội
tâm con người, hễ thấy bổn tánh thì thành Phật. Đó cũng là Cách Phật tổ truyền đạo pháp cho
Nhị tổ Ca Diếp. Khi truyền đến tam tổ là A Nan thì mới bắt đầu có kinh kệ. Vì vậy có thể nói
Ca Diếp là tiêu biểu cho con đường tâm pháp nội tu, nên ngài mới trao kinh trắng cho Tam
Tạng, còn A Nan là đại diện cho giáo lý công truyền nên mới trạo kinh hữu tự cho Đường
Tăng. Kinh vô tự bị đổi thành kinh hữu tự, đó là vì tâm pháp bị hữu vi hóa. Tuy nhiên giáo lý
chỉ có thể giúp con người thêm sáng suốt chứ không thể biết phàm trần thành Phật tiên được,
70
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
tức chưa thể đáo bỉ ngạn để qua tới bên kia bến bờ giác ngộ. Kinh hữu tự không thể đưa con
người hoàn toàn đến nơi giải thoát. Ý nghĩa sâu sắc đó được Ngô Thừa Ân diễn tả bằng việc
phơi kinh ướt nên mất mấy tờ cuối, cũng giống như việc tu hành chưa tới được chánh quả.
71
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
CHƯƠNG BA:TÍNH NHÂN SINH TRONG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ
3.1.GIÁ TRỊ NHÂN SINH THỂ HIỆN TRONG CÁC NHÂN VẬT
3.1.1.TÔN NGỘ KHÔNG
Có thể nói Tôn Ngộ Tôn là nhân vật trung tâm của truyện Tây Du Ký. Người viết xin
được trích nhận xét của Giáo sư Trần Xuân Đề về tác phẩm này: “Trong Tây Du Kí, Ngô Thừa
Ân xây dựng rất nhiều hình tượng nhân vật, nhưng nổi bật nhất là hình tượng Tôn Ngộ Không.
Đọc xong Tây Du Ký hình ảnh Tôn Ngộ Không, người anh hùng lí tưởng, giàu màu sắc thần kì
vẫn lởn vởn trong tâm trí đọc giả. Mọi người theo dõi việc đại náo thiên cung của Tôn Ngộ
Không, say sưa nhiệt tình như khi để tâm hồn hòa theo chiến thăng của Gia Cát Lượng trong
trận Xích Bích. Vĩ thế, nếu đem Tam Quốc Diễn Nghĩa là nơi sánh mưu của Gia Cát Lượng thì
Tây Du Kỷ là nơi trổ tài của Tôn Ngộ Không”. [57:118]
Giá trị nhân sinh của truyện được thể hiện rất đậm nét qua hình tượng nhân vật này. Ngộ
Không là một đứa trẻ tự nhiên, do một khối đá sinh ra: Chính nhờ lòng dũng cảm và trí tuệ phi
thường mà nó được làm vua bầy khỉ. Dưới xã hội phong kiến, đây là một tư tưởng khá tiến bộ.
Để thành đạt, phải dựa vào tài năng của chính mình chứ không có chuyện “con vua thì lại làm
vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Trong suốt cuộc hành trình, mặc dù Ngộ Không nhiều khi
cũng phải nhờ cậy các thế lực thần tiên, nhưng trước đó, Hành Giả luôn tự thân vận động để đạt
mục đích của mình.
Từ khi còn ở núi Hoa Quả, Ngộ Không đã có tú tưởng tự do tự tại, luôn muốn nắm lấy
vận mệnh của chính mình. Bằng trí dũng hết sức song toàn, nó đã tìm ra động Thủy Liêm và
đưa dòng họ vào trong đó. Nó được lũ khỉ tôn làm đại vương lên ngôi hoàng đế, tự xứng Mỹ
Hầu Vương. Dòng họ nhà khỉ “sớm chơi núi Hoa Quả đêm ngủ động Thủy
Liêm, cùng nhau một lòng không chịu lấn vào rừng chim bay, không đi theo muôn trại”.
Nhưng chưa bằng lòng với xã hội ước mơ đó, với trí tiến thủ không ngừng và tư tưởng
muốn tránh khỏi luân hồi, không sinh không diệt, thọ ngang với trời đất, núi sông thúc giục
Hầu Vương lên đường tìm thầy học đạo. Con người có tài ngang ười dọc đất đó không bao giờ
72
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
chịu bó tay để số mệnh sai khiến? Vì thế, sau khi học được bảy mươi hai phép thần thông biến
hoa, Ngộ Không rẽ nước xuống tận Long cung đòi cho được cây thiết bổng nặng một vạn ba
ngàn năm trăm cân làm vũ khí tày thân rồi đánh đến tận Sâm La, bảo Diêm Vương cho xem sổ
sinh tử. Bất kể Diêm Vương cho sống báo lâu, Ngộ Không cũng cầm bút xóa tên mình, tên loài
khỉ rồi ném sổ xuống đất. Rõ ràng Tôn Ngộ Không chống đối với mọi thế lực thống trị. Tôn cả
gan khiêu chiến với những kẻ muốn nắm vận mệnh mình.
Đỉnh cao của sự phản kháng chính là cuộc chống đối thiên đình của Tề Thiên. Tinh thần
phản kháng của Tôn Ngộ Không lúc bấy giờ so với lúc đại náo long cung, khuấy động âm phủ
lại tiến lên một bước nữa, là dám trọi lại với thiên đình. Kẻ thống trị ở trên trời sợ uy lực lớn
lao của Tôn Ngộ Không, phải thừa nhận Tôn là “Tề Thiên Đại Thánh” được nhưng một lần nữa
Tôn lại nổi loạn. Lần này Thiên đình phải tốn hết sức lực mới bắt được Tôn, nhưng không có
cách nào giết nổi Tôn. Tôn bị bỏ vào trong lò Bát Quái của Thái Thương Lão quân hết bốn
mươi chín ngày vẫn không chết. Nhân lúc Lão Quân mở lò để lấy thuốc, tự nghĩ chắc Tôn đã
biến thành than, nào ngờ Tôn liền nhảy vọt ra, rút gậy như ý vung lên, chẳng cần hay dở đại
náo cung trời, “đánh cho chín diệu tinh phải đóng chặt cửa cổng, bốn thiên vương không còn
bóng dáng” . Hình ảnh mới hào hùng làm sao!
Hãy nghe lời Tề Thiên nói với Như Lai: “Kẻ mạnh là cao quý, phải nhường cho ta: anh
hùng chỉ thế đấy ai dám tranh hơn!” rõ ràng đến đây tinh thần phản kháng của Tôn Ngộ Không
phát triển lên đến tột cùng, lật đổ uy quyền thống trị của thiên đình, thật sung sướng ngất trời!
Trong chuyện này, tác giả đã xây dựng hình tượng Tề Thiên hết sức chói lọi. Tôn đã dũng cảm
làm theo lý tưởng của mình, đạp đổ mọi sự áp bức thống trị, đặc biệt là rất tự tin vào sức mình.
Tôn đã dùng sức mạnh thần kỳ của mình làm náo động ba giới trời, bể, đất. Thiên đình, cái nơi
được coi là thần thánh bất khả xâm phạm, đứng trước sự tấn công dũng mãnh của Tôn Ngộ
Không đã hoàn toàn bộc lộ sự mục rã ở bên trong. Tác phẩm chứa đựng giá trị triết lý nhân
sinh, con người muốn tồn tại phải biết vượt lên tự khẳng định mình, vạch trần rõ bản chất các
triều đại phong kiến lúc bấy giờ, chỉ là một con hổ già bằng giấy, ngoài thì ra vẻ oai nghiêm mà
trong thì mềm yếu. Đó là bóng dáng của các cuộc khởi nghĩa nông dân,những anh hùng vùng
vẫy một thời.
73
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tuy cuối cùng Ngộ Không cũng thất bại, bị đè dưới Ngũ Hành Sơn. Tuy vậy, trước sau
Tôn Ngộ không không phải là kẻ chịu đầu hàng mà là người chiến thắng. Ngộ Không không
chịu nằm yên dưới Ngũ Hành Sơn, y giẫy giụa khiến núi non nứt nẻ. Cho đến sau khi được
Đường Tam Tạng cứu khỏi, Ngộ Không vẫn là chú khỉ có ý chí quật cường và tinh thần đấu
tranh tự bao giờ. Không phải Ngộ Không ngoan ngoãn đội cái mũ “khẩn cô nhi” của Quan Thế
Âm Bồ Tát mà tìm mọi cách đập nát nó đi. Ngộ Không là vậy đó, suốt đời đấu tranh để được tự
do .
Kể từ đó, Ngộ Không theo Đường Tăng đi thỉnh kinh. Tôn quy y Phật pháp, trở thành
người đệ tử đắc lực hết lòng bảo vệ Đường Tăng sang Tây Thiên lấy kinh. Từ đây sự đấu tranh
phản kháng của Tôn khác trước, cốt truyện thay đổi đưa đến diễn biến mới về tính cách của:
nhân vật nhưng trước sau vẫn vậy, ở Tôn luôn là thái độ kiêu hãnh của người anh hùng, không
bao giờ cúi đầu xu nịnh. Mỗi lần gặp Ngọc Hoàng, Tôn chỉ chào to: “Chào lão quan, phiền,
phiền ngài!”. Đối với các vị thánh thần, Tôn vẫn luôn luôn thẳng thắn, có lần Tôn vạch trần sự
kìm thúc bất minh của Lão Quân để hai đứa đồng tử coi lò vàng lò bạc lấy trộm bảo bối xuống
hạ giới làm điều bậy bạ. Cũng có lần Ngộ Không mắng cả Bồ Tát rất nặng nề: “Cái bà Bồ Tát
này thực chẳng ra sao! Khi xưa giải nạn cho Lão Tôn bảo phải đừà Đường Tăng sang Tây
Trúc thỉnh kinh, ta đã nói đường lối gian nguy khó đi, người đã từng hứa với ta nếu gặp nạn
gấp sẽ thân hành đến cứu. Bây giờ lại cho tinh ma hại ngầm, ăn nói không thực như thế đáng
kiếp cả đời không có chồng!” [57:107]
Vậy đó, tính cách của nhân vật Tôn Ngộ Không trên đường đi lấy kinh không hề thay đổi
mà chỉ kế thừa tính cách của người anh hùng trong chuyện “Đại náo Thiên cung”, nhưng phạm
vi đấu tranh có hẹp hơn, phương pháp và phương thức đấu tranh khác trước mà thôi. Bởi việc
đi thỉnh kinh phần nào tượng trưng ý chí của nhân dân, mong thoát khỏi hiện thực đen tối. Vì
vậy trên đường đi Ngộ Không luôn nổ lực tiêu diệt yêu ma cản đường, quấy nhiễu dân lành.
Những hành động dũng cảm kiên cường của Tề Thiên đưa Đường Tăng vượt qua tám mươi
mốt tai nạn đạt mục đích cuối cùng cũng vì thế. Ý nghĩa hiện thực của tác phẩm cũng là ở đó.
Bởi những yêu ma quỷ quái trên đường đi là những chướng ngại vật của thầy trò Đường Tăng
đồng thời cũng là tai nạn cho nhân dân. Ví dụ Linh cảm đại vương ở Thông Thiên Hà là một
con yêu chuyên ăn thịt trai gái đương tơ, hoặc đạo sĩ được vua ban phong Quốc trượng Tỳ
74
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Kheo định giết một nghìn một trăm mười một em bé để lấy một nghìn một trăm mười một bộ
tim gan nấu làm thang... Tôn Ngộ Không ra công tiêu diệt những loại yêu ma quỷ quái này
cũng là hành động cụ thể nhằm cứu nhân dân khỏi tai nạn.
Những yêu ma quỷ quái đó cũng là thế lực thiên nhiên được nhân cách hóa việc Tôn Ngộ
Không là thể hiện ước muốn của nhân dân chinh phục thiên nhiên. Ngọc Hoàng Thượng Đế,
Long vương, Diêm vương là chúa tể của lực lượng này. Tôn chiến thắng thế lực đó có nghĩa là
chiến thắng những tai họa do thiên nhiên gây ra. Yêu ma quỷ quái cũng làm lực lượng thống trị
hiện thực trần gian. Bọn chúng cấu kết với giai cấp thống trị làm mọi điều tàn ác. Ví như Kim
giác đại vương, Ngân Giác đại vương ở núi Bình Đính là hai đồng tử coi lò luyện thuốc của
Thái Thượng Lao Quân; Độc Giác Tỷ đại vương ở động Kim, Đâu là con trâu xanh mà Thái
Thượng Lão quân thường cưỡi, hoặc Hoàng bào yêu là Khuê Mộc Long tinh ở trên trời. Rõ
ràng đó là hoá thân của lũ quần thần gian nịnh trong cuộc sống hiện thực. Với mạnh phi thường
với trí tuệ vô cùng tận với tinh thần dũng cảm hiếm có, Tôn Ngộ Không chiến đấu ngoan
cường với những thế lực hung ác ấy. Những yêu tinh đó có liên, quan với bọn thống trị trên trời
xuống cối trần tàn hại nhân dân có khác gì bọn địa chủ quan liêu, cương hào ác bá, dựa vào vua
chúa phong kiến để áp bức hãm hại dân lành. Vì vậy Ngộ Không không những tiêu diệt chúng
mà tìm mọi cách vạch trần nguồn gốc của chúng để chặt đứt mọi dây mớ rễ má của hệ thống
quan liêu phong kiến. Ví như khi được tin ba con yêu độc ác ở núi Sư Bà có quen với Đức Phật
Tổ Như Lai, Ngộ Không lập tức đến gặp Như Lai và nói: “Bạch Như Lai, tôi nghe thấy người
ta nói yêu tinh có họ hàng thân tích với người ...Người quen của ông là đàng cha của ông hay
đàng mẹ của ông đó vậy?” Sau khi nghe Như Lai kể lại lai lịch của con yêu tinh, Ngộ Không
cười nói: “ Như Lai, nếu đem so sánh ra thì người vẫn là cháu ngoại của con yêu tinh đó chứ?”
Chính tính cách anh hùng xuất chúng của Tôn đã làm nổi bật giá trị nhân sinh của tác
phẩm. Từ đầu đến cuối trước sau Tôn vẫn không sợ trời sợ đất. Tôn bền bỉ dẻo dai, lạc quan
hăng hái, không nhu nhược , như Đường Tăng, không dao động, bi quan như Trư Bát Giới.
Vì vậy, Tôn Ngộ Không chính là một hình tượng lý tưởng hóa cho nguyện vọng của nhân
dân lao động trong xã hội phong kiến. Vì vậy, khi Tôn không hất được Ngọc Hoàng ở trên ngôi
báu Hoàng Đế xuồng đã khiến bao người đọc phải tiếc rẻ.
75
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
3.1.2.TRẦN HUYỀN TRANG
Có thể nói, Trần Huyền Trang là nhân vật mang đậm tư tưởng đạo đức, lễ giáo phong
kiến nhất. Con người Đường Tăng, từ diện mạo tới tính cách, đạo đức đều là chuẩn mực theo
quan điểm Nho giáo.
Huyền Trang có một diện mạo thật oai nghi lẫm liệt, tư thế hiên ngang, cử chỉ tề chỉnh, da
trắng hồng, cặp mắt tinh anh, không hổ danh là vị chân tu đắc đạo. Truyện Tây Du mô tả
Đường Tăng khi người thử áo cà sa:
Mặt hoa lẫm liệt rất uy nghi
Áo Phật vừa người in như vẽ
Tưng bừng trời đất vẻ tươi vui
Rạng rỡ kiền khôn thêm đẹp đẽ
Minh châu trên dưới thẳng đường ken
Kim tuyến trước sau đều lối kẻ
Bốn bề viển gấm sắc hồng tươi
Muôn sợi chỉ thùa màu đỏ khé
Áo đơm cúc báu khoe chiều thanh
Lưng thắt đai nhung phô vẻ lệ
Phật trời lớn nhỏ thấp cao bày
Tinh tú dưới trên sau trước đệ
Huyền Trang sư trưởng lắm duyên may
Vật bấu ngày nay được thừa kế
Khác nào La Hán hiện chân thân
Tựa thế thần tiên xuồng trần thế
Gậy tích chín vòng sang sảng kêu
76
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Mũ tỳ lư đội coi bệ vệ
Đúng là con Phật chẳng đồn ngoa
Hơn cả Bồ đề sao thiết kể. [35:210]
Đường Tăng được xem là một vị tu hành với tấm lòng đầy cao thượng, đầy lòng từ thiện
và luôn giữ gìn nghiêm ngặt giới luật. Ngay khi còn nhỏ, Đường Tăng đã luôn làm việc thiện
và tôn trọng những điều cao thượng. Việc giữ gìn giới luật của Đường Tăng đã được thể hiện
hầu như trong suốt cuộc thỉnh kinh, nó có một giá trị nhấn sinh rất lớn, hướng người đọc về
một cõi diệt dục, bởi vậy Đường Tăng thường dạy đệ tử: “Người xuất gia nghĩ điều gì cũng
không rời khỏi thiện tâm, quét nhà sợ hại mạng sâu kiến, con thiêu thân sa đèn còn thương
tiếc...”
Điều đáng quý nhất ở Đường Tăng chính là một nghị lực sắt đá. Bác Hồ cũng từng nói
“Huyền Trang là một con người có lập trường vô cùng kiên định”. Giáo sư Trần Xuân Đề cũng
viết “Việc Đường Tăng không quản trăm cay nghi đắng cùng Ngộ Không vượt bao nhiêu trờ
ngại khó khăn, trèo đèo lội suối sang tận Tây Thiên để lấy kinh , Phật trở về Đông Thổ là điều
đáng được khẳng định”.[57:116]
Tuy nhiên, do hạn chế của tư tưởng phong kiến và đạo Phật, Đường Tăng luôn có quan
niệm cao quí, bần tiện, sang hèn, giàu nghèo là những điều đã định trong xã hội, mọi người
phải răm rắp phục tùng, không thể vượt khỏi khuôn khổ đó. Vì vậy, dù là lãnh đạo đoàn thỉnh
kinh, nhưng hình tượng nhân vật Đường Tăng không để lại cho độc giả những ấn tượng sâu sắc
bằng Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới. Có cảm giác rằng Đường Tăng là con người nhu nhược,
yêu đuối, vô tài, bất lực, quan liêu với người dưới, khuất phục kẻ trên, mang nặng quan niệm
đẳng cấp truyền thống của tư tưởng phong kiến. Đường Tăng cũng là tuyên truyền viên tích
cực của tôn ti trật tự, lễ giáo phong kiến. Bất cứ nơi nào, chốn nào, gặp thần Phật nào, đường
Tăng cũng cúi đầu lạy tạ, gặp ông vua nước nào, Đường Tăng cũng cung kính chắp tay, tung
hô vạn tuế, Đường Tăng quả là người ủng hộ tích cực cho chế độ đẳng cấp phong kiến nhất.
Trước khó khăn, Đường Tăng chỉ biết cúi đầu khóc lóc thở than “nhăn mày, ròng ròng sa đôi
hàng lệ”, hễ thấy yêu ma là hết hồn hết vía, đến nỗi:
77
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
“ngồi không vững trên yên ngựa đẹp đẽ, ngã lộn nhào tứ trên lưng ngựa trắng xuống”, hễ
rời Tôn Ngộ Không ra thì không đi được nửa bước, thậm chí cả cơm ăn cũng không nuốt được.
Khi qua núi rắn, cuối khe Ưng sầu, một con rồng nuốt chửng con ngựa bạch còn đóng
nguyên yên cương, Đường Tăng liền than: “nó ăn thịt mất ngựa rồi thì làm sao được! khổ
chưa, thiên sơn vạn thủy làm thế nào mà đi được.”, nói xong nước mắt giàn giụa. Khiến hành
Giả phải quát lên: “Sư phụ đừng làm cái trò bịn rịn như thế! Hãy cứ ngồi yên, ngồi yên, để lão
Tôn này đi tìm con vật kia, bắt nó phải đền ngựa lại”.
Có thể nói Đường Tăng và Tôn Ngộ Không thật khác nhau về giai cấp, tính tình và đặc
điểm. Với bản chất như vậy, quả thực nếu không có Ngộ Không giúp sức thì dù cho Đường
tăng có sắt đá bao nhiêu đi nữa cũng đừng hòng đặt chân lên đất Phật. Ấy vậy mà Đường Tăng
đã nhiều lần đuổi Ngộ Không đi không mảy may luyến tiếc nhớ thương. Ngộ Không ra tay trừ
yêu giết cướp, không ngoài mục đích bảo vệ an toàn tính mạng cho Đường Tăng. Thế mà
Đường Tăng vẫn tưởng Ngộ Không phạm tội giết người, làm điều thất đức. Truyện kể Khi
đoàn người thỉnh kinh qua núi cao, gặp ba mươi tên tướng cướp ở hai bên đường nhảy ra chắn
lối đi, đòi tiền mãi lộ, Đường Tăng sợ run lập cập, ngồi không vững, ngã từ trên ngựa xuống,
đứng lom khom trên đám cỏ bên đường, kêu ca: “Đại vương tha tội! đại vương tha tội” Tam
Tạng còn định đem ngựa bạch cho họ để mong cứu mạng dẫu biết rằng đó cũng chính là một đệ
tử đã không quản khó nhọc biến thành ngựa bạch cho mình cưỡi. Bởi vậy, Hành Giả mới nổi
giận mắng: “Sư phụ không được việc gì cả. Thiên hạ tuy cũng có hoa thượng nhưng nhút nhát
như thầy thì rất ít. Vua Đường Thái Tôn sai thầy, sang tây Thiên bái Phật cầu kinh, ai bảo thầy
đem Long mã tống cho kẻ cướp”.[35:253] Hành Giả vung gậy Như ý đánh chết hai tên cướp.
Tam Tạng thấy xác chứng máu me lênh láng, không nỡ lòng nhìn bèn bảo Bát Giới đào lỗ
chôn, sai Ngộ Không đốt hương nến để đọc “Đảo cầu kinh” độ cho họ. Tam Tạng quả là giàu
lòng tứ bi, nhưng hãy nghe lời , khấn của Đường Tăng: “Kinh duy hảo hán nghe thấy nguyên
nhân, tôi là đệ tử, người Đường thường dân, vâng chiếu chỉ Thái Tông Hoàng Đế, sang Tây
phương cầu lấy kinh văn. Đấy này vừa tới, gặp lữ ác nhân, ở phủ nào, huyện nào, châu nào
không biết, đều đến tại núi này kết đảng thành quần. Ta lấy lời lẽ van vỉ ân cần. Không nghe
thì chớ, lại còn hung hăng. Gặp phải Hành Giả gậy đánh hoại thân. Nghĩ nỗi thi hài bộc lộ, ta
cho đắp điếm mộ phần. Bẻ tre tươi làm hương nến, không vẻ sáng. Có lòng nhân, lấy đá cuội
78
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
làm bố thu không mùi vị. Có thành nhân, các người đến điện Sâm La kiện cáo, cây bới, rễ lần.
Y họ Tôn, ta họ Trần. Mỗi người một họ, oán có đầu, nợ có chủ; chớ bảo nhà sư đi lấy kinh
văn”. [37:199]
Nghĩ mà ngán ngẩm cho nhân tình thế thái, cho kẻ có lòng từ bi rẻ giá, vô nguyên tắc như
Đường Tăng. Tôn Ngộ Không ra tay diệt cướp cứu Tam Tạng, Tam Tạng không ơn thì chớ, lại
còn đốt hương khấn vái sai khiến oan hồn lũ cướp xuống Diêm Vương kiện Tôn Ngộ Không!
Lần này cũng như ba lần. Tam Tạng đuổi Tôn Ngộ Không ở núi Bạch Hổ Lĩnh đều chứng
minh lần nào Ngộ Không cũng phải. Ngô Thừa Ân dùng sự thực đó để phê phán cái từ bi giả
dối của Đường Tăng, đồng thời khẳng định tinh thần đấu tranh tích cực, yêu ghét rõ ràng của
Ngộ Không, vì vậy mà Ngộ Không phải thốt lên: “Sư phụ, bố già nhà mình, không một chút
nghĩa. Vì thầy đi lấy kinh, con phải phí hao công sức, nay đánh chết vài tên giặc cỏ kia, thầy
nỡ lòng nào bảo chúng đi kiện lão Tôn. Tuy nhiên là tay con đánh, nhưng cũng chỉ vì thầy. Nếu
thầy không sang Tây Thiên lấy kinh, con không làm đồ đệ, làm gì mà biết chốn này, biết đánh
giết người”. [37:201]
Tuy tác giả có nhiều đoạn phê phán Đường Tăng như vậy, nhưng lại mô tả Đường Tăng
là nhân vật chính diện. Trong tác phẩm, Đường Tăng không phải là người ác, Đường Tăng
không quản trăm đắng nghìn cay, trèo đèo lội suối, để sang Tây Thiên lấy kinh; chính vì thế
Tôn Ngộ Không bao lần bị đuổi vẫn lại có thể cùng Đường Tăng đi thỉnh kinh.
Thật vậy, Đường Tăng là con người có lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu
hành vượt qua trăm ngàn cám dỗ. Truyện tây du chưa lột được cái đấu tranh ghê gớm của
Đường Tăng ở Tây Lương nữ quốc và khi rơi vào tay yêu nữ động Tỳ Bà nhưng cũng đủ cho ta
thấy lòng kiên định của Đường Tăng. Các sai lầm của Tam Tạng là bởi Đường Tăng còn có
tánh phàm, u mê nhu nhược, ba phải, bởi dẫu sao, Đường Tăng vẫn chỉ là người trần mắt thịt,
hành động nhiều khi chỉ theo cảm tính.
3.1.3.TRƯ BÁT GIỚI
Để đánh giá con người Trư Bát Giới không phải chuyện dễ dàng. Ở Bát Giới cái tốt cái
xấu lẫn lộn. Họ Trư không có cái sự quyết lòng đi thỉnh kinh như Đường Tăng và Tề Thiên,
cũng không có sự cần mẫn như Sa Tăng, lại hay trốn tránh trách nhiệm. Nhưng họ Trư cũng có
79
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
lúc hết lòng vì thầy, vì anh em, chẳng quản việc khó nhọc, dơ bẩn, họ Trư không được kiên
quyết trước trở ngại như Ngộ Không nhưng không hề sợ hãi như Tam Tạng. Nếu đứng ở gốc
độ nhân sinh mà xét thì Bát Giới rõ ràng là nhân vật chính diện.
Trư Bát Giới một khi xuất hiện tuy vẫn còn một ít yêu khí, nhưng cũng cho chúng ta một
ấn tượng mạnh mẽ về con người Trư, đó là sự yêu thích lao động. Độc giả yêu mến Trư bởi tuy
Trư ham lợi nhưng không quên điều nghĩa. Khi còn ở trang viên lão Cao, có lần Trư kể lể với
vợ: “Mợ à, tôi quét nhà, thông cống, dời gạch, chở ngói, xây nền, đắp tường, cày ruộng, bừa
đất, gieo lúa, cấy mạ, xây dựng cơ đồ cho nhà mợ. Ngày nay, mợ xem, mình mặc áo gấm, tai
đeo vàng, bốn mùa hoa quả không ngớt miệng”...[35:320] . Sau khi đã làm đồ đệ cho Đường
Tăng, như nhận xét của Giáo sư Trần Xuân Đề “tuy đổi với công việc lấy kinh, Trư hoàn toàn
không hiểu biết gì, cũng chẳng cảm thấy hứng thú, lại dễ dàng bị dao động, nhưng Trư Bát
Giới lại là kẻ hết lòng với công việc chung của cả bọn” [57:115]. Trư sẵn sàng ra tay cùng Ngộ
Không diệt trừ yêu quái ở trên đường để đi thông sang Tây Thiên. Trư Bát Giới ít can đảm, sợ
khó khăn, tuy đã nhiều lần bị yêu ma bắt được, nhưng rất đáng quý là không hề thỏa hiệp, đầu
hàng mà vẫn một lòng một dạ với sự nghiệp chung. Chỉ cần có Tôn bên cạnh là Trư phấn chấn
tinh thần, dũng cảm tiến lên. Như khi Trư Bát Giới bị Hồng Hài Nhi bắt được bỏ vào túi da,
Bát Giới vẫn cứ quát mắng như thường, trên đường đi lấy kinh, Bát Giới đã làm khá nhiều
cồng việc nặng nề khó khăn. Khi tới Kinh Cúc Lĩnh, đỉnh núi gai góc um tùm, dây tơ quấn
quanh, tuy có đường đi, nhưng hai bên đều có cành sắc gai nhọn. Trong lúc mọi người bàn ra
tán vào thì Bát Giới “tay bắt quyết, miệng đọc thần chú, dướn người lên một cái, hô “dài” thân
thể vọt lên cao tới hai mươi trượng, cầm đinh ba vung một cái hô “biến” cán đinh ba dài tới ba
mươi trượng, bước chân đi dẹp gai góc hai bên mở lối”. [35:510], nhờ đó mà thầy trò Tam
Tạng vượt khỏi “núi Kim Cúc”. Khi qua Thất Tuyết Sơn, Hi Thị Thông là hai hòn núi bẩn thỉu
tanh tưởi nhất, Đường Tam Tạng lo đến phát khóc, Tôn ngô Không bịt mũi kêu khó, nhưng Bát
Giới kiên trì dọn trong hai ngày liền, dùng mồm dũi đường cho đoàn thỉnh kinh đi qua. Một
gánh hành lý nặng nề kia của cả bọn cũng cơ hồ do một mình Bát Giới từ Đông Thổ gánh tới
Tây Thiên. Tính cách ngây thơ, thẳng thắn, lạc quan của Trư, khiến Trư đáng yêu và đó cũng là
tính cách của Trư.
80
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Nhưng Trư Bát Giới cũng có nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Trư Bát Giới luôn đòi chia
hành lý mỗi khi đoàn gặp khó khăn, Tam tạng bị yêu quái bắt. Tại động Vô Đề núi Hãm
Không,, khi nghe tin Đường Tăng bị yêu tinh bắt ép thành thân, Bát Giới liền bảo Sa Tăng: “Sa
hoa Thượng, đem ngay hành lý ra đây, chúng mình chia nhau đi! Chia nhau rồi chú trở về Lưu
Sa ăn thịt người như cũ, tôi vệ Cao Lão Trang thăm vợ, anh cả trở về núi Hoa Quả làm thánh,
ngựa Bạch Long về bể lớn hóa rồng. Sư phụ đã lấy vợ ở trong động yêu tinh rồi, chúng mình
mỗi người ở yên một nẻo”. [36:510] Trư Bát Giới nhát gan, ngại khó, gặp yêu ma là sợ hãi chùn
lại không dám tiến, thậm chí khi lâm trận còn bỏ trốn nếu không có Ngộ Không bên cạnh, như
khi đánh nhau với Hoàng Bào Lão Yêu, thấy không đủ sức chống đỡ, Trư bảo với Sa Hoa
Thượng: “Sa Tăng, chú hãy tiến lên, đánh với nó, cho tôi đi tiểu tiện một tí”, nói xong “y bỏ
liền Sa tăng ở đấy, chạy đến đống cỏ gà, bất chấp dây mơ rễ má, gai góc, chui thêm vào trong,
chẳng quản rách da, nát mặt, lăn kềnh ra, ngáy khò khò, không dám thò ra nữa, nhưng vẫn để
một bên tai nghe tiếng mõ cầm canh”[35:515].
Điều đáng buồn cười nhất là Trư còn dành một món vốn riêng là bốn đồng cân sáu phân
vàng nhét sẵn vào tai dẫu quãng đường sang Tây Thiên đầy gian khổ. Trư Bát Giới thích đưa
lời gièm và đơm đặt chuyện. .
Xem như thế đủ thấy Trư Bát Giới rất nhiều khuyết điểm, và những khuyết điểm ấy đối
lập với khá nhiều ưu điểm sáng sủa của Tôn Ngộ Không. Chính Ngô Thừa Ân thông qua những
tình tiết giàu tính hài hước phản ánh tinh thần lao động thiếu kiên định của Trư, nhằm làm nổi
bật sự đối chiếu về tính cách giữa hai nhân vật Ngộ Không và Ngộ Năng. Ngộ Không chưa hề
nghĩ đến chuyện chia hành lí bỏ về nhà, cũng không bao giờ sợ hãi chùn chân trước khó khăn
gian khổ.
Đặc điểm tính cách của Trư còn là tấm gương phản chiếu những dục vọng của con người
trong cuộc sống người hiện thực. Người viết hoàn toàn đồng ý với đánh giá của Giáo sư Trần
Xuân Đề: “Ngày nay ba tiếng “Trư Bát Giới” được dùng làm những danh từ chung chỉ những
kẻ tham ăn, thèm ngủ, háo sắc, lười lao động, tự tư, tự lợi...” [57:110]. Quả thật hầu như trong
toàn bộ tác phẩm, tác giả đã đi sâu khai thác tính chất này của Trư. Như chuyện thầy trò Tam
Tạng ở trang viên họ Giả. Bà chủ nhà tìm lời gạ gả con gái cho Đường Tăng. Trong khi Tam
81
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tạng vờ câm giả điếc, nhắm chặt mắt lại im lặng không đáp, sợ rúm cả người thì Bát Giới nghe
đến giàu sang, gái đẹp la thấy ngứa ngáy ngay, ngồi trên ghế như kim châm vào hông, nghiêng
bên nọ, ngả bên kia, nhịn không nổi bèn tìm mụ Giả nói: “các người ấy vâng chỉ ý vua Đường,
không dám trái lệnh vua, không chịu làm việc ấy. Vừa rồi, bọn họ cứ vun vào cho con ở nhà
ngoài, nhưng con lại ngại ngùng chỉ sợ mẹ lại chê con mồm dài, tai to thôi” [35:400].Quả thật,
đối với Trư, sắc dục là một cửa ải vô cùng khó khăn để vượt qua, bởi đó đã là bản tính của vị
Thủy Thần sông thiên hà, từng giữ chức thiên Bồng Nguyên Soái, bởi say rượu trêu ghẹo tiên
nga ở hội bàn đào mà phải đầu thai xuống hạ giới, thân làm súc vật này rồi. Vì vậy Bát Giới
trong chốc lát khó có thể dứt được lòng tham và tình sắc. Bởi vậy mà họ Trư cũng coi trọng
chuyện ăn uống không kém. Hồi hai mươi bốn kể chuyện thầy trò Tam Tạng đến nghỉ trọ Ngũ
Trang quán. Tại đây, có cây nhân sâm rất quý, Tôn Ngộ dùng mẹo hái được ba quả, phân cho
mỗi người một quả, thế là “Bát Giới miệng rộng, vừa cầm lấy quả nhân sâm vội đút thỏm vào
mồm, trệu trạo vài cái lạ nuốt ực, trợn cả mắt lên”. [35:450]
Trư Bát Giới là nhân vật chính diện. Bản chất của Trứ vẫn là tốt, nhưng Trư không thể là
khuôn mẫu cho người ta học tập được. Ý nghĩa hình tượng ấy của Trư Bát Giới một mặt là phụ
vào cho hình tượng Tôn Ngộ Không thêm rực rỡ, và mặt khác là đã phản ánh những khuyết
điểm của kẻ tiểu tư hữu. Tuy nhiên, Tác giả dù phê phán khắt khe những khuyết điểm và nhược
điểm của Trư Bát Giới, nhưng lại là phê phán có thiện ý. Tác giả phê phán đấy nhưng trước sau
vẫn không quên mặt cơ bản phải khẳng định là mặt tốt của Trư, vì vậy dù mang nhiều tật xấu
nhưng hình tượng nhân vật Trư Bát Giới không hề bị tổn hại mà vẫn luôn in đậm trong tâm
tưởng người đọc.
3.1.4.SA TĂNG VÀ LONG MÃ
So với Ngộ Không và Bát Giới, hình ảnh Sa Tăng và Long Mã ít nổi bật dử cả hai cũng là
đề đệ của Đường Tăng, cùng đồng cam cộng khổ trên đường đi thỉnh kinh.
Suốt dọc đường thỉnh kinh, Sa Tăng chỉ âm thầm gánh hành lý, không hề tranh quyền
đoạt lợi như Bát Giới, không hờn lẫy, cải thầy như Ngộ Không. Còn Long Mã không một lần
lên tiếng, khiến người đọc nếu không xem những hồi đầu có cảm tưởng đó chỉ là một con ngựa
bạch bình thường. Tại sao vậy, có cảm giác như Sa Tăng và Long Mã không hề đóng góp vào
82
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
sự nghiệp thỉnh kinh. Không hề như vậy, bất cứ cuộc chiến đấu lớn nhỏ nào của các vị đệ tử
Đường Tăng đều có Sa Tăng tham gia, thậm chí có khi ra tay một mình. Như ở hồi 43, khi qua
sông Hắc Thủy, Đường Tăng và Bát Giới bị yêu quái lừa bắt, Sa Tăng liền bảo ngay Ngộ
Không: “anh hãy trông coi ngựa và hành lý, để tôi xuống nước đi tìm”. Hành Giả thấy nước
sông đen ngòm, tỏ ý lo ngại cho Sa Tăng, nhưng Ngộ tĩnh đa khẳng khái nói: “nước sông này
so với sông Lưu Sa của tôi trước thế nào được. Đi được! Đi được” Truyện kể: “Sa Hòa thượng
bèn cởi ngay áo chẽn ra, nắn vuốt tay chân, cầm cây bảo trượng hàng yêu, nhảy thủm mội cái
rẽ dòng nước ra, lẫn vào trong đám sóng rảo bước tiến lên. Gặp yêu quái liền nổi cơn tức giận,
giơ bảo trượng lên đánh phá lung tung”[36:263]. Như vậy đã rõ, Sa Tăng đâu phải đi theo
đoàn chỉ để gánh hành lý! Còn Long Mã thì sao, ở hồi 30, lúc Tam Tạng bị yêu Hoàng Bào
biến thành hổ mà không có ba đồ đệ bên mình, Long Mã liền ra tay cứu giúp. Truyện kể: “chợt
nghe người ta nói Đường Tăng là con hổ tinh, con ngựa nghĩ thầm trong bụng:
- Sư phụ mình rõ ràng là người tốt,, tất nhiên bị yêu quái đem biến người ra hổ tinh để
làm hại người. Làm thế nào bây giờ. Đại sư huynh bỏ đi đã lâu, Bát Giới, Sa Tăng thì chẳng
thấy tin tức gì! bây giờ mà ta không đi cứu Đường Tăng, công quả sẽ hỏng mất.
Ngựa không thể nhịn mãi, trụt cương tháo yên, bỏ đệm cuốn dây, vội vươn mình hóa
phép, y nhiên lại hóa thành con rồng, cưỡi đám mây đen, lên khỏi chín từng mây, đi cứu
Đường Tăng”. [35:522]
Rõ ràng, so với Bát Giới, công trạng bảo hộ Đường Tăng của Sa Tăng và Long Mã không
hề kém, vậy mà họ vẫn bị lép vế, tại sao vậy? Chính là ý đồ của tác giả để kể về hiện thực cuộc
đời, có biết bao người vẫn thầm lặng làm việc tốt mà không hề nói một tiếng nào, họ cũng có
nhiều chiến công lặng lẽ như Sa Tăng và Long Mã vậy.
3.1.5.YÊU TINH VÀ THÁNH THẦN
Yêu tinh trong truyện Tây Du Ký có một ý nghĩa nhân sinh rõ rệt. Yêu tinh quỷ quái hằng
hà sa số cản đường ngăn lối cuộc thỉnh kinh cũng là thói hư tật xấu của chính ta. Yêu tinh có
hai loại. Có thứ là giống chồn cáo, rắn rít, cọp beo... biến thành. Hình ảnh này là ẩn dụ con
người luôn luôn đương đầu với cái xấu, cái ác, các nghịch cảnh từ bên ngoài tác động vào bản
thân. Loại yêu quái này luôn luôn bị Tề Thiên đập chết không cứu chúng. Trên nẻo đường truy
83
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
cầu chân lý, tìm Đạo, con.người phải dũng mãnh, nghị lực, quyết tâm san bằpg mọi trở lực,
chướng ngại ngoại lai để đạt cho kì được cứu cánh chân lí của mình, dứt khoát không khoan
nhượng.
Nhưng... lại kì quặc hơn, có thứ quỷ quái mà Tề Thiên vừa vung thiết bổng định đập chết,
thì liền có tiên này Phật kia hiện ra cản lại, xin tha mạng chúng để rồi mang về thượng giới
quản lí. Loại yêu này xét lí lịch đã rõ, vốn là các con thú con vật mà các vị ở cõi trời nuôi
dưỡng, chẳng may để sổng, nên chúng lẻn xuống trần làm tinh ma quái quỷ. Có người đọc
truyện Tây du, gặp những chỗ như vậy liên hệ gần xa rồi cho rằng yêu cũng người đỡ đầu. Loại
yêu có “ô dù” cỡ bự như vậy là do đâu? Chính là cái xấu, cái ác, cái chướng ngại cản ngăn nội
tại. Chúng nằm trong chính ta, và là một phần của ta. Giết chúng nghĩa là giết ta ư?
Đối lập với các loài yêu quái là các vị thánh thần từ long cung tới diêm la, thường giới.
Hẵn nhiên người trần mắt thịt không thể tiếp xúc các vị, chỉ có Tề Thiên đại thánh với bảy
mươi hai phép địá sát biến hóa, đủ phép thần thông cân đẩu vân, “ẩn mình, tránh mình, cất
mình lên, thu hình lại, lên trời cũng có đường, xuống đất cũng có lốiy bước vào mặt trời mặt
trăng không có bóng, đi vào vàng đá không vướng mắc, nước không thể làm chìm, lửa không
thể cháy” mới dễ dàng đi gặp các vị.
Tuy nhiên, ta có cảm giác các vị thánh thần trong truyện không khác người phàm là mấy,
cũng biết yêu ghét, sợ hãi. Long vương là vị thần đầu tiên mà Ngộ Không gặp. Thoạt đầu Tôn
Ngô Không còn chút ít mềm mỏng, nhưng càng về sau, Tôn tiến xa hơn nữa trọng các yêu cầu
khác. Tác phẩm cho thấy Long vương từ nhượng bộ nay đến nhượng bộ khác đối với Tôn Ngộ
Không. Không những Long vương, mà còn có cả-các huynh đệ của Long Vương ở Nam Hại,
Bắc Hải, Tây Hải cũng đều nhượng bộ, dù rất căm giận trong lòng, nhưng run sợ trước sức
mạnhvà tài quyền biến của Ngộ Không mà đành im lặng.
Vị thánh thần thứ hai đầy quyền lức chính là thập điện diêm la. Vậy mà cũng bằng vào tài
sức kỳ diệu của mình, Ngộ Không đến thẳng điện Sâm La, nơi ngự của Diêm Vương để tìm
cách xóa tên tuổi của mình cùng giống loài trong sổ tử. Tác phẩm có đoạn lý thú: “Ngộ Không
cầm gậy như ý lên thẳng điện Sâm-La, ngồi ngay giàn giữa, quay mặt về nam. Mười vua sai
phán quan lấy sổ ra tra. Phán quan vội vàng đến phòng giấy, lấy ra năm sáu quyển sổ và sổ
84
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
biên tên mười loại chúng sinh, trình Hầu vương xem qua một lượt. Trong các loại khỏa trùng,
mao trùng, vũ trùng; côn trung, lân giới trùng đều không thấy tên Tôn Ngộ Không đâu cả. Lại
xem đến sổ loài khỉ, nguyên loài khỉ giống như người, nhưng không vào sổ tên người, giống
như khỏa trùng mà không ở địa giới nước nào; giống như loài thú chạy song không thuộc kỳ
lân cai quản; giống loài chim bay mà không thuộc Phượng hoàng cai quản. Ngộ Không lấy
quyển sổ này tự kiểm duyệt lấy, đến mãi số hồn 1350 mới thấy chú tên họ Tôn Ngộ Không là
khỉ đá trời sinh ra, thọ đến 342 tuổi là chết. Ngộ Không nói: Ta cũng không biết đã thọ được
bao nhiêu năm rồi, bây giờ xóa tên này đi là xong! Đem bút giấy ra đây!” [35:71]. Cũng như
Long Vương, Diêm vương cũng chỉ là một tuồng chết nhát, run sợ trước mỗi đòi hỏi của Ngộ
Không.
Có một điều tuy không phải quan trọng, nhưng (Cần nói thêm ở hồi thứ 3 này, trong tác
phẩm, việc Tôn Ngộ Không đại náo Sâm-La đòi xóa tên tuổi trơng sổ tử do Diêm Vương quản
là việc diễn ra trong một giấc mộng khi Ngộ Không ngủ say. Vậy mà, tác phẩm đoạn tiếp sau
có đoạn nói Tần Quang Vương ở âm phủ cầm tờ biểu của u minh giáo chủ Địa Trung vương
Bồ Tát dâng lên cẩn tấu Ngọc Hoàng về tội đại náo điện Sâm-La của Ngộ Không. Việc cẩn tấu
này cũng đi liền sau cẩn tấn của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng về tội đại náo Long Cung,
lấy cây Thiết bổng của Ngộ Không. Hai việc này, gần giống nhau nhưng thực sự về mặt nội
dung cốt lõi của sự việc thì hai sự việc khác xa nhau, có lẽ, không phải tác giả vô tình nhập hai
vấn đề lại mà là khẳng định thêm, đồ đậm thêm khát vọng trường sinh của nhân vật. Trong việc
đối đấu với hai vị vương này. Đọc kỹ nội dung của hai lời cẩn tấu nói trên thì sẽ thấy thêm về
tình trạng sợ hãi của họ đối với Ngộ Không.
Ngoài Long Vương và Diêm Vương, tác phẩm còn rất nhiều chư vị thần tiên trên thượng
giới. Gác vị này được tả rõ qua các trận chiến kịch liệt giữa Tôn Ngộ Không với các thế lực ấy.
Nhưng nếu so với các lực lượng ở Thiên Cung thì chiều kích của các lực lượng ở Long Cung -
Âm Ty không sánh kịp. Do lực lượng không sánh được nhau, nên các vị cũng được tác giả
miêu tả đầy đặn, chi tiết hơn. Có thể phân thành hai loại, các vị thượng tiên nơi thiên đình và
các Bồ Tát, chư Phật tại Tây Thiên.
85
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Có thể thấy những vấn đề như tâm lý, địa bàn cư trú, lịch sử, không gian cuộc đời, ngôn
ngữ, tôn giáo, triết học... của một dân tộc thường để lại những dấu ấn trong văn chương. Chính
vì vậy, các vị thượng tiên trên trời được mô tả cũng chẳng khác nào các vị quan nơi trần thế.
Tuy nhiên Ngộ Không chưa bao giờ e sợ các vị cả. Cách nói năng của Ngộ Không luôn biểu
hiện sự bất kính của Tề Thiên đối với Ngọc Hoàng và thế giới thiên đình. Nếu hình tượng nhân
vật trong văn học bao giờ cũng ký gởi một quan niệm về nhân sinh của nhà văn thì sự coi
thường của Ngộ Không đối với Ngọc Hoàng cùng thế giới thần Phật cũng.là điều có thể gợi
thức cho bạn đọc liên tưởng về ý nghĩa xã hội có thể của nó, Theo hướng này, Giáo sư Trần
Xuân Đề rất có lý khi cho rằng: “Có thể xem thái độ ngạo mạn của Tôn Ngộ Không đối vội
Ngọc Hoàng Thượng Đế là thể hiện thái độ miệt thị của nhân dân lao động đối với chế độ đẳng
cấp và bọn quyền quý, thể hiện nguyện vọng yêu cầu bình đẳng cửa nhân dân” [57:115]
3.2.GIÁ TRỊ NHÂN SINH QUA HÀNH ĐỘNG
3.2.1.NGỘ KHÔNG CHĂN NGỰA
Phải nói rằng, Ngộ Không là một người đầy trách nhiệm. Từ khi ở Hoa Quả Sơn tới khi
lên Thiên Đình nhận chức Bật Mã Ôn và sau đó theo phò Tam Tạng, lúc nào Ngộ Không cũng
hết lòng với trách nhiệm của mình.
Truyện Tây Du kể “Xong việc, khi Mộc Đức Tỉnh Quân về cung, Ngộ Không vội hội họp
tất cả giám thừa, giám mã, ... lại kiểm tra công việc. Ngộ Không xét lại sổ sách điểm rõ số
ngựa trong sở này, điền ba giữ việc mua rơm cỏ, lực sĩ coi việc tắm cho ngựa, cho ngựa ăn,
cho ngựa uống. Giám thừa giám phó giữ việc thôi đốc. Bật Mã Ôn ngày đêm không ngủ trông
nom ngựa. Ban ngày còn chơi đùa được, ban đêm thì chăm sóc ân cần, như ngựa ngủ thì đánh
thức dậy cho ăn cỏ, ngựa chạy quanh thì bắt đem về chuồng. Những con thiên mã thấy Bật Mã
Ôn là chổng tại giậm cẳng, nhưng ngược lại chúng được nuôi nấng béo tốt”. [35:87]
Như đã thấy, Ngộ Không vốn ham bay nhảy, vậy mà sẵn sàng ngày đêm chăm sóc bầy
ngựa, không một chút lơi lỏng. Cậu chuyện có một giá trị nhân sinh rất cao, đối với công việc
mà họ Tôn không thích lắm, nhưng khi chưa biết đó là chức quan mạt hạng, bị xem thường rẻ
rúng thì Tôn vẫn hết mình chu toàn. Có thể nói hình ảnh những con thiên mã cúi đầu phục tùng
Ngộ Không là hình ảnh đầy thú vị và rất có ý nghĩa. Do đâu vậy, do chúng được nuôi dưỡng rất
86
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
tận tình, rất là béo tốt. Ở đời cũng vậy, để người ta phục không phải chỉ ra uy là đủ mà còn phải
biết thi ân. Ân đi liền với uy thì mới thâu phục được nhân tâm. Ở Ngộ Không có đủ cả hai điều
đó, ngày đêm trông nom, ân cần chăm sóc, hỏi làm sao lũ ngựa chẳng chổng tai giậm cẳng khi
thấy họ Tôn được. Liên hệ những hồi khác, ta thấy rõ đó là đức tính tốt của Ngộ Không rất
đáng khâm phục và học tập. Ngộ Không chăn dắt bầy khỉ, dẫu chưa phạt một ai mà chúng vẫn
luôn phục tùng hầu vương. Họ Tôn đi thì chớ, mỗi khi quay về là bầy khỉ lập tức vui mừng
nhảy nhót. Bởi vì đâu, vì lúc nào Ngộ Không cũng một lòng lo cho chúng. Như ở hồi 28, khi bị
Đường Tăng đuổi đi, quay về Hoa Quả Sơn, Đại thánh lập tức tiêu diệt bọn đi săn độc ác, đem
lại yên bình cho bầy khỉ.
Có thể nói, tác giả đã xây dựng lên hình tượng nhân vật Ngộ Không đầy tính nhân sinh.
Ngộ không đi tới đâu là đem lại yên bình cho chúng sinh tới đó. Hành Giả sẵn sàng đương đầu
với thiên binh vạn tướng, tróc nã yêu ma, làm nổi can qua cũng chỉ để cho thập loại chúng sinh
được an bình. Từ câu chuyện trách nhiệm của vị Bật Mã Ôn đến lòng thương của vị Hầu
Vương, tính cách của Ngộ Không không hề thay đổi, nhất y bất biến. Cái tâm của Ngộ Không
là chỗ đó, có thể nói là “ngàn năm gương sáng bụi không mờ”. Thật đáng để nghiền ngẫm và
suy tư.
3.2.2.CUỘC NỔI LOẠN CỦA NGỘ KHÔNG
Có thể. nói, cuộc nổi loạn của Ngộ Không trong bảy hồi đầu tác phẩm Tây Du Ký là bảy
hồi rực rỡ nhất trong toàn bộ tác phẩm, có một ý nghĩa nhân sinh thật mạnh mẽ và thuyết phục.
Sự phản kháng của Tề Thiền chính là cái quyết tâm không chịu mọi sự cai trị, đè nén, câu thúc,
nghiền ngẫm sâu hơn, sẽ là một vấn đề sâu sắc, mang một ý nghĩa nhân sinh và Ngô Thừa Ân
chính là vì nhân sinh mà sáng tạo.
Điều này quả không thể khác hơn, Nghiền ngẫm một cuộc đời bao lận đận, bất đạc chí
của Ngô Thừa Ân, người viết không thể nào không đồng ý với ý kiến của Giáo sư Lương Duy
Thứ cho rằng Ngô Thừa Ân không thệ không có một mục đích nghiêm túc khi cặm cụi hoàn
thành tác phẩm này vào những năm cuối đời mình. Cho nên, có thể nói, mô hình cuộc sống
không chịu các thế lực đè nén bao giờ cũng là mô hình đẹp đẽ, lý tưởng mang đậm tính nhân
sinh.
87
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tuy nhiên, cuộc sống bình yên, hạnh phúc lại rất khó có thể tồn tại lâu dài, vì vậy Ngộ
Không phải đấu tranh để bảo vệ nó. Mỹ Hầu Vương vốn có những ưu tư, hoài bão mang tính
chiến lược, theo Hầu Vương, tự do tự tại còn phải là vấn đề miên viễn trường cửu, thoát hẳn
được cái chết nghiệt ngã vốn không bỏ qua ai, và vì vậy, Ngộ Không đã không ngần ngại gạch
hết tên loài khỉ trong sổ sinh tử của Diêm vương. Quả vậy, Sau khi được cây thiết bổng, Tôn
Ngộ Không quyết một phen đánh đến Sâm La, bảo Diêm Vương cho xem sổ sinh tử. Bất kể
Diêm Vương cho sống bao lâu Ngộ Không cầm bút lăn thấm mực xoa tên mình, tên loài khỉ rồi
ném sổ xuống đất. Bọn thập diện Diêm vương trơ mắt đứng nhìn, tấu trình Địa Tạng Vương để
tâu lên Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rõ ràng Tôn Ngộ Không chống đối với mọi thế lực thống trị.
Tôn cả gan khiêu chiến với những kẻ nắm vận mệnh, muốn thoát khỏi mọi sự ràng buộc được
mãi hưởng hạnh phúc. Thật thú vị khi đọc đoạn Ngộ Không đại náo Thiên cung, quấy rối âm
phủ, xông xáo như vào chỗ không người. Bọn Long Vương, Diêm Vương đều cúi đầu sợ hãi.
Sau khi Đông Hải Long Vương Ngao Quảng dâng biểu, Ngọc Hoàng bèn gọi Ngộ Không lên
trời giao cho chức “Bật Mã Ôn”. Khi đến ngoài điện Linh Tiêu, Ngô Không không chờ truyền
chiếu, đi thẳng vào trước ngự tọa, với thái độ tự đắc là của kẻ chiến thắng trước Ngọc Hoàng
Thượng Đế và chỉ xưng một tiếng “Lão Tôn đây”, một thái độ thật ngang tàng khiến các thần
tiên đều sợ hãi thất sắc.
Phải nói, câu chuyện Tây Du Ký tuy là thần thoại nhưng mang tính chân thật cao, Ngộ
Không nổi loạn cũng chính vì sự không trọng dụng của Thượng Đế. Ngọc Hoàng giao cho Ngộ
Không chức Bật Mã Ôn khác nào chính quyền phong kiến không chịu trọng dụng những người
thực tài. Ngộ Không bỏ chức quan về Hoa Quả Sơn dựng cờ “Tề .Thiên Đại Thánh”. Ngộ
Không tự xem mình ngang bằng trời. Quả thật, lần này Ngộ Không không chỉ làm những việc
bình thường như quấy rối Long cung, đại náo Âm phủ mà đã dám chống lại thế lực thống trị tối
cao là thiên đình. Một lần nữa, thiên đình đành chịu thua Hầu Vương, Ngọc Hoàng thượng đế
lo ngại sức phản kháng của Tôn Ngộ Không đành xuống chỉ chiêu an, thừa nhận chức “Tề
Thiên đại Thánh” mời Ngộ Không lên triều đình. Nhưng thiên đình lại thêm một lần lừa dối
Ngộ Không vì chức “Tề Thiên Đại Thánh” chỉ là hữu danh vô thực, thật chẳng khác nào sự đối
xử của triều đình phong kiến với các cuộc khỏi nghĩa nông dân.
88
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Chính vì vậy, lại xảy ra một cuộc binh đao nữa giữa Ngộ Không và thiên binh, thiên
tướng. Lần này Ngọc Hoàng thượng Đế gân lắm, sai bốn đại vương hiệp cùng Lý thiên vương
và Na Tra Thái Tử, cùng mười vạn thiên binh căng mười tám thiên la địa võng vây chặt Hoa
Qua Sơn. Chúng ta được chứng kiến những trận kịch chiến lững lẫy giữa quân thiên đình và
quân yêu vương loài khỉ động Hoa quả. Kỳ thực đó là cuộc chiến đấu giữa thần tướng thiên
đình và tài phép của Ngộ Không. Nhưng dù lực lượng của thiên binh thiên tướng có hùng hậu
bao nhiêu đi nữa cũng không thể làm gì trước sức mạnh vô địch của Ngộ Không. Tuy nhiên,
chiến thắng của Tôn Ngộ Không và tồn tại của Đại Thánh cùng giống nòi của mình vẫn chưa
yên, vì các lực lượng của Thiên đình cũng không đơn giản bó tay như vậy. Thế là cuộc chiến
đấu đã tiếp tục xảy ra, cuộc chiến đấu giữa Ngộ Không với Nhị Lang. Có lẽ cũng chưa có cuộc
chiến đấu nào dai dẳng như cuộc chiến đấu này. Tài sức của Ngộ Không và Nhị Lang khó phân
thắng bại, dù đánh nhau liên tiếp với rất nhiều trận long trời lở đất. Nếu tất cả những cuộc chiến
đấu trước đây của Ngộ Không hầu như không có sự can thiệp sâu của chính bàn tay các nhân
vật bề trên của lực lượng đối lập, thì lần này, phía đối phương đã được nhiều bàn tay-bề trên trợ
giúp trực tiếp. Đó là Quan Âm Bồ Tát và Lão Quân, nhất là cái vòng kim cương của Lão Quân.
Chính cái vòng kim cương nghiệt ngã này đã rơi vào đầu Ngộ Không, làm cho vị vua của loài
khỉ và tự do phải chấp chiến bại. Sự chiến bại này cũng là điều dễ hiểu.
Tuy phải tốn nhiều công sức mới bắt được Tôn nhưng không cách nào giết nổi Tôn. Dao
chém, búa bổ, giáo đâm, kiếm sả vẫn không hề hại đến thân thể của Tôn. Thần hoa bộ phóng
lửa đốt, Tôn không cháy, thần lôi bộ lấy roi sét đánh, Tôn chẳng hề mảy may. Ngọc Hoàng
Thượng Đế bèn giao Tôn cho Thái Thượng Lão Quân dùng lửa văn vũ luyện đan trong lò bát
quái để thiêu cháy Tôn.
Tuy nhiên, với khát vọng tự do, và tính cách bất khuất đã từng được hun đúc, Tôn Ngộ
Không vẫn không từ bỏ lý tưởng của mình, Ngộ Không đã tự thoát ra lò bát quái của Lão Quân
rồi tiếp tục đại náo thiên cung hết sức lẫy lừng.
Như là sự huy hoàng của một tính cách bất khuất, một khí phách ngang tàng, lần đại náo
Thiên cung này, quả rằng Tôn Ngộ Không chẳng né tránh bất cứ một nhân vật to lớn uy quyền
nào cả.. Chính người có vòng kim cương ném vào đầu Ngộ Không và nung Ngộ Không trong
89
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
lò Bát Quái là Lão Quân, cũng đã bị Ngộ Không đánh cho một đòn trí mạng. Chuyện kể “Ngộ
Không” “không kể trên dưới, dùng gậy sắt đánh đông đánh tây, không một thần nào chống lại
được. Đại thánh đánh luôn đến điện Thông Minh, điện Linh Tiên”. Trước sự tái xuất kinh động
ghê gớm của Tề thiên đại thánh, Ngọc Hoàng phải cầu cứu Đức Phật Tổ Như Lai đến cứu giá.
Một lần nữa, chứng tỏ Tôn Ngộ Không không chỉ phá rối Long cung, Diêm cung, đại náo
Thiên cung, cũng không muốn dừng ở mức “Tề Thiên” mà còn làm thương đế. Có thể xem đó
là đỉnh cao của sự phản kháng của Tôn. Rõ ràng cuộc nổi loạn của Ngộ Không đã tuân theo
một quy luật hợp lý. Như Giáo sư Trần Xuân Đề nhận xét: “Dĩ nhiên điều đó rất thích hợp thực
tế của các cuộc khởi nghĩa nông dân không bao giờ dẫm chân tại chỗ. ban đầu là sự phục thù
cá nhân, về sau những cá nhân đó tập hợp lại công khai tuyên chiến với thế lực thống trị. Cuộc
khởi nghĩa của một trăm linh tám anh hùng ở Lương Sơn Bạc là bằng chứng cụ thể khi mới
bước chân ra đi, Tống Giang, Lâm Xung, Dương Chí, Lư Tuấn Nghĩa ...có ai tự nguyện đứng
trên hàng ngũ của nghĩa quân nông dân, công khai chống lại trỉềụ đình, thật ra họ là những
người “Vô gia khả quy hữu quốc nan đầu”, gặp nhiều nỗi bất bình trong cuộc sống riêng tư
đành khoác dao lên Lương Sơn Bạc làm-nghề “Lạc thảo” tinh thần phản kháng của Tôn Ngộ
Không không phát triển theo chiều hướng đó”.[57:116]
Tôn Ngộ Không được xây dựng thành hình tượng nhân vật anh hùng, nhưng tiếc thay,
người anh hùng có bảy mươi hai phép thần thông biến hoa đó lại không thể nào nhảy khỏi bàn
tay của Phật Tổ Như Lai, đành bị giam mình năm trăm năm dưới Ngũ Hành Sơn mà như Giáo
sư Trần Xuẩn Đề nhận định: “đó là vấn đề mà thời đại bấy giờ chưa thể giải quyết được. Ngũ
Hành Sơn tượng trưng sức mạnh tinh thần kìm hãm sức phản kháng của Tôn Ngộ Không”.
[57:118]
3.2.3.NGỘ KHÔNG MỘT MÌNH HỘ TỐNG TAM TẠNG VÀ THU NHẬN ĐỒ ĐỆ
Kể từ hồi 13, là bắt đầu quá trình thỉnh kinh. Sau khi chia tay với Bá Khâm tại núi Lưỡng
Giới Sơn, Huyền Trang một mình một ngựa tới núi Ngũ hành, Đường Tăng cứu Tôn Ngộ
Không, rồi thu nhận làm đệ tử, cùng đi thỉnh kinh. Từ đây, Tôn Ngộ Không bắt đầu một hành
trình mới với một nhiệm vụ mới, nhưng con người quái kiệt này vẫn nguyên vẹn một tính cách,
một lý tưởng. Từ đây, ta lại thấy một tính cách mới của Ngộ Không, hết lòng tận tụy với sự
90
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
phụ, xả thân vì người. Chỉ một mình Ngộ Không, vai gánh hành lý tay dắt ngựa bạch lặn lội
đường trường đưa người đi Tầy Trúc. Giá trị nhân sinh của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua
cuộc hành trình này.
Hai thầy trò cùng cất bước trên đường đi thỉnh kinh. Trên con đường tiết tháng chạp rét
mướt, thay trò cùng nhau vượt bao đèo núi hiểm trở, vách đá cheo leo. Núi cao, rừng rậm, khe
hiểm, sông sâu, thật hùng vĩ nhưng cũng tiềm ẩn đầy tai ách. Và cũng kể từ đây, Ngộ Không có
dịp tung hết tài nghệ của mình để bảo vệ Đường Tăng. Chiến công đầu tiên của họ Tôn chính là
tiêu diệt sáu tên cướp đường. Và cũng từ đây bắt đầu một nghịch lý làm nổi bật tính cách và
tấm lòng của Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đã giết sáu tên cướp để bảo an sư phụ, nhưng chẳng
được khen mà còn bị Đường Tăng mắng nhiếc “ác quá ác quá!”. Điều này thể hiện bản chất
của Đường Tăng, chỉ có một tấm lòng thiện mù quáng mà không phân biệt đâu yêu quái, đâu
dân lành. Nhưng điều này lại góp phần làm thay đổi dần sự nóng tính của họ Tôn, lần đầu bị
mắng nhiếc, họ Tôn liền bỏ đi nhưng khi nghe Long Vương khuyên nhủ liền quay lại. Kể từ lần
đó, Ngộ Không không bao giờ tự bỏ Đường tăng đi nữa.
Kể từ đây, Ngộ Không vì Tam Tạng, hạn chế sát sinh, quả là Ngộ Không đầy tính phục
thiện. Cũng nhờ sự kiềm chế đó, mà thầy trò tam tạng tiếp tục cuộc hành trình thu nhận thêm
nhiều đồ đệ mới thật vậy, đầu tiên là con rồng ở khe Ưng sầu núi Rắn cuốn nuốt chửng ngựa
bạch, toan quắp Đường Tăng, nhưng Tôn Ngộ Không đã kịp thời giải cứu cho sư phụ. Nhờ
Quan Âm giúp sức, con rồng Ngao Thuận này đã hóa thành ngựa bạch, mang thồ hành lý cùng
theo đoàn đi thỉnh kinh. Có một điều rất hay là Ngộ Không với ngựa bạch vừa đánh nhau long
trời lở đất đó, nhưng khi đã cùng bái kiến sư phụ thì thù xưa bổng hóa thành huynh đệ, cùng
thương yêu săn sóc nhau. Sự biến thù thành tình đó không chỉ một lần mà còn nhiều nữa, như
với Ngộ năng va ngộ Tĩnh. Giá trị nhân sinh của tác phẩm là chỗ đó, thật đáng để suy ngẫm bởi
người ta có mấy ai được như vậy? Đoàn đi đã thêm được một nhân vật nữa. Tuy có Quan Âm
giúp sức, nhưng ngay ở hồi xuất phát này của hai thầy trò, phải thấy công lao đầu của Tôn Ngộ
Không.
Phải nói rằng Ngộ Không quả có con mắt tinh đời, đến một nơi ngỡ là bình yên như Quan
Âm viện, vậy mà Ngộ Không cũng kịp thời phát hiện ra âm mưu đốt chùa để cướp áo cà sa của
91
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
bọn sư già nơi viện Quan Âm núi Hắc Phong. Thế là tài sức của Tôn Ngộ Không lại phải bỏ ra,
Đêm mượn túi tránh lửa che cho Tam Tạng, ngày đánh nhau với Hắc Đại vương giành áo cà sa.
Có một điều thú vị là thái độ của Tề Thiên trước kẻ xấu rất cương quyết, bọn hòa thượng xấu
châm lửa đốt chùa ư, Ngộ Không sẵn sàng cho cháy cả mà không thèm cứu, lại còn “cho mượn
thêm chút gió”, nhưng đối với sư phụ, họ Tôn vẫn một lòng tôn kính, mặc dầu cũng như lần
trước, Ngộ Không dù cứu được sư phụ nhưng cũng chẳng được khen mà còn bị dọa đọc “khẩn
cô nhi chú”. Tại sao một người từ bi như Tam tạng lại hẹp hòi với Ngộ Không như vậy? Không
phải là vô cớ mà tác giả viết lên câu chuyện như thế!
Cũng từ đây, Ngộ Không bắt đầu thu phục thêm đồ đệ. Đầu tiên là Bát Giới. Ở hồi 18,19,
Tại trạng trại Lão Trang, Tôn Ngộ Không phải đánh nhau với Trư Cương Liệp, cứu thoát Thúy
Lan và Trư Cương Liệp đã quy thuận theo đoàn thỉnh kinh. Đoàn đi thêm được một nhân vật
nữa và Đường Tăng đặt tên cho Trư Cương Liệp là Trư Bát Giới. Thêm được đệ tử cho Tam
Tạng lại cứu được cuộc đời con gái Cao Lão, như ta thấy, tất cả đều do tai sức của Tôn Ngộ
Không, Bát Giới dẫu mang tánh tham nhưng không dám càn rỡ cũng một phần vì sợ uy danh
Tam Tạng.
Thế đấy, suốt dọc đường thỉnh kinh, bất cứ tai nạn nào đến với Tam Tạng, người đầu tiên
đứng ra lo liệu vẫn là đại đệ tử đầu tiên theo phò Huyền Trang, Tôn Ngộ Không. Những kể từ
khi thu phục Bát Giới, thì anh em họ cũng đã ít nhiều có sự giúp đỡ lẫn nhau cùng tiểu trừ yêu
quái. Cái hay của chuyện là chỗ đó. Dù Bát Giới có hay trốn việc nhưng lão Trư lại chính là kẻ
có công đầu trong việc thu phục Hoàng Phong Đại Vương bằng việc đón đường đánh chết yêu
quái Hồ Tiên Phong. Thế rồi, cùng với tài năng của Tôn Ngộ Không và uy lực của Linh Cát Bồ
Tát, Hoàng Phong, nguyên là con chuột ở núi Linh Sơn tu đắc đạo, đã chấp nhận thua cuộc và
cùng theo về với Linh Cát. Thế là tính mạng của Đường Tăng được giải cứu. Nếu ở hồi này,
Đường Tăng chỉ biết bó tay, thụ động trước tai nạn thì Tôn Ngộ Không đã không ngừng quyền
biến để chiến thắng phép kim thuyền thoát xác của Hồ Tiên Phong, đã kiên nhẫn chữa bệnh đau
mắt vì gió độc của Hoàng Phong mà tìm đường cứu nguy cho sư phụ, trong đó, phần công lao
của Trư Bát Giới đáng được ghi nhận. Sự vận động của hành động nhân vật ở đây có tính tăng
tiến rõ rệt.
92
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Bốn nhân vật tiếp tục hành trình đến sông Lưu Sa và thu phục đồ đệ mới, chính là Quyển
Liêm đại tướng sa Ngộ Tĩnh, tức Sa Tăng. Đoàn thỉnh kinh thêm được một nhân vật nữa, tức
thành năm và dù “Lưu Sa tám trăm rộng, Nhược Thủy sâu ba nghìn” nhưng Đoàn thỉnh kinh
cũng đã vượt sông bình yên, mở ra một chương mới cho cuộc hành trình, năm thầy trò cùng
đồng cam cộng khổ trên đường thiên lý vạn dặm. !
3.2.4 LÒNG TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO CỦA NGỘ KHÔNG
Tấm lòng của Ngô Không đối với các vị sư phụ không bao giờ thay đổi, luôn một lòng
kính trọng và phò tá. Thật vậy sau mười mấy năm trời vất vả cầu tìm Phật- Tiên - Thần -
Thánh, năm ba năm kiên nhẫn tu luyện phép thần thông do Tổ sư truyền dạy, Tổ sư đã cho
phép Tôn Ngộ Không trở về nơi đã xuất phát ra đi, đó là động Thủy Liêm, núi Hoa Quả. Thật
cảm động khi thấy Tôn Ngộ Không “ứa hai hàng nước mắt” khi Sư tổ bảo phải trở về. Ngộ
Không lúc này đã tinh thông 72 pháp biến hóa, có thể tự do bay nhảy vậy mà vẫn không muốn
rời xa Sư Tổ. Ngộ Không vô cùng ân hận khi biết mình đã phạm phải lỗi khoe khoang tài sức
khiến sư phục phải phật lòng. Khi chia tay, sư phụ đã dặn dò Tôn Ngộ Không cần khiêm tốn thì
mới mong an toàn tính mệnh. Sư tổ nói: “Ngươi đi chuyến này hẳn gặp điều không hay. Ngươi
gây vạ, hành hung thế nào tùy ý, nhưng không được nói là đồ đệ ta”. Tình thầy trò là vậy đó,
Ngộ Không đành phải gạt nước mắt ra đi, từ giả sư phu.
Vì vậy, khi theo phò Tam Tạng, Ngộ Không đã hết lòng báo đáp công giải cứu của sư
phụ. Rời Vạn Thọ Sơn, Đoàn thỉnh kinh tiếp tục cuộc hành trình. Hầu như bao giờ cũng vậy,
mỗi khi thấy núi cao, sông sâu, mỗi khi thấy đói lòng, Đường Tăng thường gọi Tôn Ngộ
Không. Chính Tôn Ngộ Không là người chuyên chú nhất quán bảo vệ sư phụ trong bất kỳ hoàn
cảnh nào. Nhưng công trạng của Tôn vẫn không được Đường Tăng đánh giá đúng mức, thậm
chí Đường Tăng còn tức giận và đuổi Tôn Ngộ Không trở về núi Hoa Quả. Tầm nhìn, sự đánh
giá của Đường Tăng đối với Tôn Ngộ Không lại trở nên tệ hại và thiếu bản lĩnh hơn khi Đường
Tăng nghe lời xúc xiểm của Trư Bát Giới. Con người chân tu, một lòng theo Phật đó đã từng
thề “Nếu còn gặp mi, ta sẽ sa xuống địa ngục A Tụy”. Vậy mà khi về sắp đến núi Hoa Quả,
động Thủy Liêm, Tôn Ngộ Không vẫn còn tấm lòng thương nhớ Đường Tăng! Đó là biểu hiện
93
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
tình nghĩa của Tôn Ngộ Không -một con người sống có đạo lý chứ không hề như Đường Tăng
đánh giá.
Truyện Tam Tạng bị yêu quái hóa thành hổ cũng vậy. Khi Tôn Ngộ Không về “Trùng tu
Hoa Quả Sơn, phục chỉnh Thủy Liêm Động” thì thầy trò Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng, ngựa
bạch bị nạn yêu quái Hoàng Bào ở núi Hắc Tùng. Không có Tôn Ngộ Không, nên Bát Giới, Sa
Tăng phải ra tay đánh yêu quái để cứu Đường Tăng. Nhưng yêu quái Hoàng Bào là con yêu
nhiều tài phép hiểm, nên anh em Bát giới, Sa tăng không sao thắng nổi. Tam Tạng còn bị
Hoàng Bào vu là yêu quái và dùng phép biến thành hổ vằn. Bát Giới đành phải đi cầu cứu Tôn
Ngộ Không. Bỏ qua sự tệ bạc của Đường Tăng, Ngộ Không lập tức đi cứu sư phụ và lên thẳng
Ngọc Hoàng truy tìm tông tích yêu quái. Đó là Khuê Mộc Lang đã xuống hạ giới 13 năm.
Một lần nữa, Ngộ Không lại cứu Đường Tăng. Một lần nữa, Ngộ Không vì nghĩa đạo mà
trở lại với Đoàn, cùng tiếp tục đi thỉnh kinh.
3.2.5.NGỘ KHÔNG MỘT TAY CHE TRỜI
Truyện Tây Du có đặc điểm ngộ nghĩnh là trẻ nhỏ đọc thì mê mà người lớn đọc thì say
sưa. Trẻ thơ thích Tề Thiên Đại thánh thần thông quãng đại, có bảy mươi hai phép biến hóa,
Trư Bát Giới chọc cười duyên dáng... còn người lớn thì say vì những ý nghĩa thâm trầm, triết lý
sâu sắc khéo gói kín trong những chuyện thần quái trào lộng dí dỏm. Có lẽ một trong những
hồi hấp dẫn và lý thụ nhật là cảnh Ngộ Không dùng túi gói trời.
Truyện kể thầy trò Tam Tạng đi đến núi Bình Đính Sơn. Ngộ Không dẫu có cặp mắt
chiếu yêu, đã nhận rõ lũ yêu quái nhưng phải nghe lời Đường Tăng cõng yêu quái trên lưng nên
đành chịu thua kế di sơn của chúng khiến Tam Tạng bị bắt đi khi Ngộ Không bị núi đè. Bát
Giới đánh nhau với Ma Vương Kim Giốc và Ngân Giốc ở động Liên Hoa, rồi bị chúng bắt.
Nhờ sự giúp sức của Kim Đẩu Yết Đế và Thổ Địa, Sơn thần, Tôn Ngộ Không thoát được núi
đè, lập tức tính ngay phương kế giải cứu sư phụ và các đệ Bát Giới; Sa Tăng. Biết yêu quái có
hai bửu bối lợi hại là Hồ lô hồng vàng tía và Bình mỡ ngọc dê, Tôn Ngộ Không qua đối thoại,
tìm hiểu, rồi lừa đổi hồ lô giả mà họ Tôn tự gọi là hồ lô gói trời. Tôn Ngộ Không nhanh trí đi
báo Ngọc Hoàng, nhờ Natra giúp sức, đến Bắc thiên môn, nhờ thêm Chân vũ và Natra dùng là
cờ đen làm tối cả trời đất, nên yêu ma kinh sợ. Sau đó, Tôn Ngộ Không làm sáng trời đất lại và
94
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
đổi lấy được hồ lô thật cùng Bình mỡ ngọc dê, rồi biến đi. Hai yêu má Quý tinh tế và Trùng
linh lợi thí nghiệm hồ lô gói trời thì không có tác dụng, biết ngay là đồ giả. Sợ bị lộ, Tôn Ngộ
Không dùng phép thu lại hồ lô giả, nên hai yêu ma chỉ còn tay không!
Điều thú vị nhất là Ngộ Không không dùng sức mạnh cướp lấy bảo bối mà dùng mẹo lừa,
vì sao vậy. Bởi lão Tôn nghĩ “Vật quý giá, ta chỉ khẽ quẹt đuôi một cái bay vụt đi, những thứ
này sẽ rơi vào tay lão Tôn ngay. Nhưng không được! Không được! Đã dành lấy được, nhưng
có hại cho danh dự lão Tôn, như thế gọi là bạch đoạt giữa ngày”. Vậy đó, Ngộ Không chỉ đánh
những kẻ ngang sức, còn lũ tiểu yêu này thì y không thèm ra tay mà dùng mẹo để đổi hồ lô
bằng giấy trắng mực đen rõ ràng.
Càng hấp dẫn hơn nữa là hình tượng tung hoành của Ngộ Không. Khi phải kẹt dưới núi,
thế mà thoắt một cái, đã lên tới thiên đình, chớp một cái lại làm trời đất từ sáng sang tối, biến
đổi khôn lường đối với những trở lực diễn ra. Nhưng tài năng ấy vẫn còn phải chiến đấu không
ngừng. Ngay như bọn yêu quái đang nói ở đây, chúng còn những ba bảo bối khác, là Kiếm thất
tinh, quạt ba tiêu và dây kim tuyến đang ở mẫu thân của tên ma em. Nhờ thần thông, nên Tôn
Ngộ Không biết cả địa chỉ, mưu kế công việc của yêu ma và đã giết được con Hồ ly chín đuôi
là yêu mẹ. Nhưng ma già đã dùng hồ lô bắt được Tôn nhốt vào bên trong. Tôn lại biến thành
con bọ mát, rồi nhân lúc ma em sơ hở đưa hồ lô cho Ý Hải Long tức thì Tôn chớp lấy ngay và
biến bù lại hồ lô giả. Tôn Ngộ Không thừa thắng tiến đánh cả dòng họ yêu đó, từ Ma Kim Giới
đại vương tới Hồ A Thất. Chiến thắng xong, Tôn Ngộ Không lần lượt giải cứu cho Sự phụ, tất
cả đều vui mừng tạ ơn rồi lên đường.
Tới đây, mọi chuyện lại như những hồi trước và sau này, lũ yêu quái lại được các vị
thượng tiên kêu xin tha tội. Lần này là Thái Thượng Lão Quân đòi lại tất cả bảo bối mà Tôn
Ngộ Không đã tước đoạt của nhà lão mà, vì đó là của Thái Thượng mà bọn yêu ma đã ăn cắp.
Khi biết nguồn gốc các bảo bối có liên quan đến Quan Âm thì Tôn liền phán ngay “Thực chằng
ra sao”. Đó chính là tính cách của Ngộ Không, không ngừng tung hoành ngang dọc, ngay khi
bị nạn núi đè vẫn “khí tượng hiên ngang, tiếng nói sang sảng”.
95
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
3.2.6.TAM TẠNG BAO LẦN MÙ QUÁNG
Câu chuyện thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng sẽ trở nên nhàm chán nếu cứ mãi diễn ra
cảnh yêu tinh bắt Tam tạng, rồi Ngộ Không đi giải cứu. Thật vậy, Tây Du Ký có một sức hấp
dẫn kì bí bao người đọc bởi những kịch tính bất ngờ của nó. Sợi dây xuyên suốt câu chuyện
chính là tính cách của bốn thầy trò, trong đó nổi bật là Tam Tạng và Ngộ Không. Nếu Ngộ
Không vẫn luôn một lòng phò tá sư phụ thì Tam Tạng bao lần mù quáng vì sự cả tín và lòng
thiện không đúng chỗ khiến tình cảm thầy trò bao lần bị thử thách.
Chỉ vì tâm thiện và mù quáng theo kinh Phật mà Tam Tạng chẳng kể chi công lao khó
nhọc của đệ tử bảo vệ mình mà sẵn sàng mắng nhiếc khi Ngộ Không ra tay giết bọn cướp. Đọc
những hồi này, người đọc nào cũng thấy bất nhẫn, nhưng sự đời là thế, có lẽ như Đường Tăng
có sẵn lòng từ bi với hết thảy mọi người, những kẻ không giúp gì cho Tam Tạng cả nhưng lại
rất hẹp hòi với Tề Thiên, kẻ vào sinh ra tử vì mình.
Có lần Ngộ Không đánh chết hai tên cướp, Tam Tạng liền đọc kinh cầu siêu cho chúng,
nhưng bất ngờ hơn là ông lại bảo chúng đi kiện hành vi của Tôn Ngộ Không. Đã vậy Đường
Tăng còn đọc chú Cẩn Cô nhi rồi đuổi Tôn Ngộ Không đi khỏi đoàn, nhưng người đồ đệ tình
nghĩa và rất cần thiết này vẫn muốn theo thầy tầm đạo. Ấy vậy mà sư phụ Đường Tăng lại nói
những lời như không phải thoát ra từ miệng bậc chân tu: “Ta đi được hay không đi được, không
bận chi đến mi! xéo ngay! xéo ngay! Nhà ngươi hơi chậm một tí, ta sẽ đọc chú, lần này đọc
không ngừng miệng, thắt cho mi vãi óc ra!” [35:467]
Ôi nhân tình thế thái, Ngộ Không ngày đêm vất vả chẳng quản hiểm nguy là vì ai? Vậy
mà Tam tạng lại rả rúng Ngộ Không đến dường đó. Cũng vì không cần Ngộ Không mà một lần
nữa Tam Tạng lại gặp nạn, lần này là do con con yêu khỉ sáu tai gây ra đã làm Tôn Ngộ Không
phải đấu những trận chiến đấu cực kỳ gian khổ. Đó là các trận chiến đấu từ động Thủy Liêm
đến núi Bối Âm rồi điện Sâm La ở Âm ty. Sự giả dạng trà trộn song song thành Tôn Ngộ
Không của con khỉ sáu tai thực đã kích thích những năng lực xử trí tài tình của Tôn Ngộ
Không. Và, cuối cùng, dù Như Lai can ngăn, Tôn Ngộ Không vẫn kết thúc đời yêu quái của nó
bằng một gậy sắt đầy căm giận. Trừ khử những yêu ma ác nghiệt như thế, chẳng lẽ lại là hành
động bất nhân ư?
96
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Chính vì lẽ đó mà tai nạn vẫn không chịu buông tha con người có quan niệm, dị thường
này và giải quyết những tai nạn kế tiếp cho cả đoàn ở các hồi tiếp theo vẫn là người đồ đệ từng
bị Sư phụ Đường Tăng làm cho nhiều lần đau đớn: Tôn Ngộ Không. Thất vậy, chỉ vì không
nghe lời Tôn Ngộ Không, mà Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng đều bị quân của Độc Giốc Tỉ đại
vương bắt tất cả đem về động. Đây là yêu quái cực kỳ lợi hại, đã làm Tôn Ngộ Không nhiều
phen điêu đứng. Không thể bỏ Sư phụ và các sư đệ, Tôn Ngộ Không tìm đến tận động Kim
Đâu đánh nhau với yêu quái trên dưới năm mươi hiệp và cuối cùng Tôn Ngộ Không bị thu gậy
sắt. Mất vũ khí sống còn, Tôn buộc phải nhiều phen đi về từ mặt đất lên Thiên Đình để nhờ các
lực lượng khác nhau trợ giúp. Nhưng tất cả đều thua cái vòng kim cương của yêu quái, một bảo
bối cực hiểm. Tôn Ngộ Không bèn dựa vào sở trường biến hình của mình là hóa ra con nhặng
xanh, rồi con tinh đầu cầy để vào động lấy cắp bảo bối của yêu và gậy sắt của mình. Không
thấy bảo bối cái vòng; chỉ lấy được gậy sắt, Tôn Ngộ Không lại đi đánh tiếp, lại bị thu gậy sắt
lần nữa. Cuối cùng, Tôn Ngộ Không cưỡi mây đi Tây Thiên cầu viện Như lai, rồi đến Thái
thượng ở điện Đẩu Xuất Ly hậu thiên mới hàng phục được yêu quái bằng quạt Ba Tiêu của
Thái Thượng. Đó là một con trâu xanh đã trốn từ thượng giới xuống trần gian ở động Kim Đâu
để quấy phá. Vậy là tất cả bọn yêu đều bị giết sạch và thầy trò Đường Tăng đã được giải cứu.
Thu lại tất cả binh khí, hành lý cho Đoàn.
Tuy nhiên, tài phép và tấm lòng ấy chừng như không thay đổi gì được về tình cảm, quan
niệm và tính cách của Đường Tăng. Chính ở tại nạn vừa kể trên, cũng có lần Đường Tăng nghe
lời Trư Bát Giới nên đã niệm chú làm đau đớn Tôn Ngộ Không. Cũng mới đó thôi, khi Đường
Tăng cảm tạ công đức Tôn Ngộ Không đã cứu mình từ con hổ câm tiếng trở lại chân thân làm
người, Tôn Ngộ Không chỉ mong Sư phụ đừng niệm chú là đủ rồi, vậy mà Đường Tăng vẫn cứ
niệm chú. Tác phẩm kể rằng từ hồi 40 đến hồi 43, đồ đệ của Đường Tăng, nhất là Tôn Ngộ
Không đã liên tiếp ứng biến không kể thân mình để cứu Đường Tăng và cả Đoàn thỉnh kinh.
Phát hiện ra yêu tinh, Tôn Ngộ Không cảnh báo nhưng những ý kiến đúng đắn của Tôn Ngộ
Không không được Tam Tạng lưu tâm mà trái lại còn luôn tỏ ra giận dữ đối với người đệ tử
thành tâm và thông tuệ này. Do không nghè lời đệ tử, quả nhiên Đường Tăng bị nạn lớn. Vậy là
tất cả đồ đệ phải lo cứu Sự phụ để hoàn thành sứ mệnh bảo an cho Sư phụ cùng cả Đoàn thỉnh
kinh.
97
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Có thể nói phần lớn tai nạn xảy ra với đoàn thỉnh kinh là do sự tin người mù quáng, lòng
thương người không biết soi xét của Tam Tạng. Bao lần gặp yêu ma giả nạn kêu cứu liền bắt
học trò cứu nguy. Như trường hợp con yêu Địa dũng phu nhân (nguyên là con nuôi Lý thiên
vương, em nuôi Na Tra). Phải đánh đến hai ba lần với con yêu nay ở động Vô Đề của nó,
nhưng Tôn Ngộ Không vẫn không thắng được. Lần cuối, Tôn Ngộ Không vào thẳng động đánh
nó để cứu sư phụ Đường Tăng thì phát hiện nguồn gốc của nó qua bài vị thờ còn để lại. Nhờ
trực giác về quan hệ nguồn gốc này, mà Tôn đã thắng được con yêu Địa dũng phu nhân cứu
được Tam Tạng.
3.2.7.TRÊN ĐẤT PHẬT
Có thể nói, suốt một trăm hồi của tác phẩm thì từ hồi thứ 98, đất Phật mới dần dần được
hiện ra. Nếu những Vị Bồ Tát, các Chư Phật đã từng xuất hiện ở những hồi trước không được
tập trung miêu tả, ít có tính thuần nhất, thì đến đây, chúng ta sẽ gặp được Thiên Trúc cực lạc
thực sự. Cũng đến không gian này, không hề có hiện tượng yêu ma giả Bồ Tát, giả Phật như đã
từng có ở các hồi 22, 57, 91... đã làm Đường Tăng khôn lũy muôn phần. Mở đầu cho việc đến
được cõi Phật, thầy trò Đường Tăng phải qua bến Lăng Vân bằng một chiếc thuyền không đáy.
Vì còn ở bên này cõi đời xác thận phàm tục, nên Đường Tăng còn phải một lần té sông mới
“Xương cốt phàm thai đã thoát thân”. Khi đã ngộ đạo, cảm nhận được hết trí tuệ rộng lớn của
Phật Tổ, Thầy trò-lần lượt gặp nhiều cảnh cực lạc tuyệt vời mà suốt mười mấy năm qua chưa
hề biết đến. Đây là chùa Lôi Âm: “Đỉnh sát tầng Tiêu Hán, chân tiếp mạch Tu Di. Núi khéo xếp
vòng la liệt, đá lạ bài trí lô Nhô. Cỏ ngọc hoa vàng treo sườn núi, huệ thơm lan tía rợp đường
đi. Vượn tiên hái quả báu, thẳng lối vào rừng đào, rầng rậc tựạ lửa bốc thiêu vàng; hạc trắng
đỗ cây tùng, vắt vẻo đầu cành, cuồn cuộn như khói vòng nâng ngọc” [37:529].
Từng đôi phượng múa, hướng dương vang hót khúc lành nhiều. Từng cặp loan xanh, đón
gió xòe tung đời ít có. Lại kìa, mái ngoái xếp uyên ương vàng rực rỡ, tường nọ gạch hoa mã
não sáng long lanh. Đông một hàng, Tây một hàng, hết thảy đều là vầng cung châu khuyết.
Nam một dãy, Bắc một dãy, nhìn không chán những gác báu lầu vàng. Điện thiên vương bên
trên tỏa hào quang; nhà Hộ pháp đằng sau phun lửa đỏ, tháp phủ đề nổi rõ, hoa sen vàng ngát
lừng. Chính là nơi: “đất cao kỳ, ngỡ trời riêng biệt; mây lơ lững, thây ngày dài ghê. Bụi hồng
98
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
không bạn, mọi duyên cắt hết. Muôn kiếp vô cùng nơi đại pháp môn” [37:661]. Rồi thầy trò
được tiếp tục lên núi Linh Sơn và cuối cùng đã ra mắt được với Phật Tổ Như Lai. Những trang
văn tự sự ở đoạn này phong phú, đầy đặn, chất chồng đạo pháp Phật giáo. Từ điện Đại Hùng,
đến vô số các vị A la Hán, Kim Cương, Yết Đế, Già Lam... cho đến lời lời châu ngọc của Phật
Tổ Như Lai dạy bảo Đường Tăng... đều góp phần tạo ra một cảm giác hết sức cực lạc của
không gian Tây Trúc.
Từ những dòng trên đây về không gian Tây Thiên cực lạc, chúng ta thấy rằng, đôi với Tây
Thiên cực lạc tác giả có một sự sùng kính nhất định, nơi nay dưới ý nghĩa nhân sinh chính là
mơ ước của mội người tr ần thế. Tuy nhiên, nếu từ sau khi bỏ đạo tu tiên, một lòng theo Phật,
bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên, Tề Thiên cơ bản vẫn giữ được tính cách, lý tưởng của mình
thì khi đến tại xứ Phật, sự ngay thẳng, tính cương trực, không cúi đầu trước những việc sai
trái... vẫn tiếp tục thể hiện, mà việc bạch Phật Tổ Như Lai về trò hạch tiền của Anan, Ca Diếp
là ví dụ điển hình. Việc đấu tranh của Tôn Ngộ Không có thể không đạt nguyện vọng, nhưng
nó là sự biểu hiện của một tính cách không ngừng chống chọi lại với hoàn cảnh. Do vậy, hình
tượng của nhân vật trung tâm này ở đây vẫn tiếp tục nổi bật.
3.3.GIÁ TRỊ THƯỞNG THỨC TÁC PHẨM
Phải thừa nhận một điều, Tây Du Ký là một tác phẩm có sức thu hút mãnh liệt đối với
mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội. Gần như hình tượng Trư Bát Giới, Tôn Ngộ Không, Đường
Tăng, Sa Tăng đã trở thành quen thuộc trong xã hội. Tây Du Ký có thể được xem như Truyện
kiều của Nguyễn Du về sự ảnh hưởng của nó. Ngày này, nói Trư Bát Giới là nói tới tính tham
ăn, háu gái, cũng như nói Sở Khanh là chỉ kẻ lừa tình.
Sở dĩ tác phẩm Tây Du Ký đạt được như vậy là do giá trị triết lý nhân sinh của nó. Phật
dạy hồi đầu thị ngạn. Quay đầu nhìn lại sẽ thấy ngay bến bờ giác ngộ. Buông đao đẫm máu
xuống, mười tám ông ăn cướp lập tức hóa ra thập bát la hán. Con người là một hình ảnh hai
cuộc đời. Trong ta là sự tồn tại của hai mặt đối lập lẫn nhau. Ta là Thích Ca, Lão Tử mà ta
cũng thừa sức bầy trò nga quỷ giở thói súc sanh. Trong ta vừa có thiên đàng, niết bàn cực lạc,
vừa có cả hỏa ngục, a tỳ. Trong cuộc chiến đấu để đạt tới chân lý, con người có thể chuyển hóa
cái ác thành cái thiện. Tây Du Kí cũng khẳng định chân lý, hôm trước còn là Hồng Hài Nhi
99
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
hung tợn, khoái ăn thịt người thì hôm sau đã là Thiện Tài Đồng Tử trang nghiêm, cung kính
hầu cận một bên Quan Âm Bồ Tát. Bữa nọ còn làm yêu quái tụm bầy chận đường bắt người
cướp của ăn tươi nuốt sống, thì bữa nay đã thành voi thần, sư tử thánh đỡ chân cho Phổ Hiền và
Văn Thù Bồ Tát nơi cõi Phật.
Cómột điều hấp dẫn là Tây Du thoạt xem, tưởng đâu rặt chuyện nghịch lý, vô lý. Tại sao
Tề thiên náo loạn thiên cung, cõi trời nghiêng ngửa, vậy mà lắm phen cam đành thất điên bát
đảo với lũ yêu ma? Tề Thiên không ngán Lão Tử, thế sao chẳng trị nổi con trâu xanh của lão
Tử sổng chuồng ở núi Kim Đâu?
Tề Thiên tuy có con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái biết ngay chân tướng yêu ma nhưng
không phải luôn luôn đều dễ dàng chế ngự được yêu ma. Phải lắm phen cất công đi tìm Phật,
Tiên, Bồ Tát cứu nạn. Bồ Tát và Phật Tiên trong Tây du tượng trưng cho đạo đức chân chính.
Vậy, phải chăng lý trí tuy có khả năng xét suy phân biệt phải trái rạch ròi, nhưng chưa đủ mạnh
mẽ? Đối với tha nhân, sửa chữa cái xấu, cải tạo cái ác có khi không bằng lý lẽ hay sức mạnh,
mà phải cảm hóa bằng đạo đức nghĩa nhân còn với chính bản thân, có những cái xấu cái ác mà
lương tri, lương tâm đã tự biết là xấu là ác, là không nên nhúng tay vào, nhưng con người lại
quá yếu đuối thường không đủ sức cưỡng lại nổi những ham muốn mãnh liệt, đành buông xuôi.
Khi đó, chỉ còn có nhân nghĩa đạo đức là chiếc phao cuối cùng cho khách hồng trần bấu víu để
khỏi đắm chìm giữa cơn phong ba bão táp của hải hà dục vong.
Phật tiên hay Thượng Đế cõi trời con là hình ảnh biểu tượng của chính đại quang minh,
của đại nhân quân tử. Yêu ma quỷ quái là phản diện, tiêu biểu cho tiểu nhân, giả trá lọc lừa. Tề
Thiên vốn không từng lép vế với cõi trời mà lại nhiều phen chịu ngậm hờn cùng lũ quỷ. Trong
cuộc đấu tranh của con người với con người, từ nghìn xưa đến nay, soi gương kim cổ, phải
chăng ai cũụg thấy rằng ta không sợ đấu lý đấu tranh, với người biết điều đại độ, chính trực, mạ
ta lại đều phải sợ giáp mặt cùng kẻ hẹp hòi, ngu dốt, chấp nê. Hai mặt trận vớii hai đối thủ rõ
ràng khác biệt.
Đọc Tây Du như là đi từ ta để tìm về cái tôi. Ngô Thừa Ân đã giải mã mật ngữ siêu thoát
của Lão, Phật, Đạo. Ai xưa kia đã thọ hưởng được cái học của thánh hiền mà giác ngộ, không
100
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
nỡ đem dấu làm của báu tư riêng, nên lấy cuộc văn chương, mượn chừ nghĩa bầy truyện Tây
du?
Cái hay nữa của Tây du Kí là các nhân vật trong truyện rất thực, rất người. Như nhân vật
Trư Bát Giới. Xuất hiện từ hồi thứ mười tám và đi suốt với Đoàn thỉnh kinh bằng tất cả những
ưu điểm,, khuyết điểm, Trư Bát Giới cũng là nhân vật gây nhiều ấn tượng vừa thú vị, vừa trần
tục, gần gũi với đời thường. Bàn về nhân vật Trư Bát Giới, Giáo sư Lương Duy Thứ viết: “...Ở
Trư Bát Giới chúng ta lại tìm thấy tất cả những cái bình thường, thâm chí hèn mọn của con
người được vũ trang bằng cái cào cỏ, y có dáng dấp một nông dân. Y ham lao động, suy nghĩ
đơn giản, nhưng cứng rất có tư lợi, thích nhàn nhã, dễ bị cám dỗ bởi sinh hoạt vật chất. Không
thể coi Trư Bát Giới là “điển hình của dục vọng “y là “ con lợn lòng của loài người”. Hình
tượng Trư Bát Giới đa dạng hơn thế và do đó cũng lớn hơn thế”[21:220]. Thật vậy, có thể thấy
từ trong bản chất, Bát Giới luôn có tinh thần lao động. Điều này có thể được minh chứng trên
suốt cuộc hành trình đi Tây Thiên, nhất là khi gặp khó khăn, tai ách. Tuy nhiên, như mọi người
phàm, Bát Giới lắm khi cũng dao động, hoang mang, vì vậy y thường đòi chia hành lý, ai lo
phần nấy khi có khó khăn. Biểu hiện hoang mang dao động này có từ bản chất của nhân vật, và
nó cũng có trong mỗi chúng ta. Tuy nhiên, nếu so với Đường Tăng thì Bát Giới có khí phách
hơn nhiều. Khi gặp bất trắc, gian nguy thì Đường Tăng thường khiếp sợ, khóc sụt sùi và nhiều
lần ngã từ trên ngựa xuống đất. Trong khi đó, Bát Giới vẫn vững vàng. Đành rằng Trư cứ đòi
chia hành lý, có khi đang giao chiến với yêu ma lại trốn vào bụi cây để ngủ, nhưng rõ ràng,
những toan tính, dự định của Trư Bát Giới được diễn ra từ từ. Còn Đường Tăng thì dường như
là “lập tức” bộc lộ sự mất bình tĩnh khi gặp sự cố. Ngoài ra, Bát Giới lại còn hiếu sắc và tham
ăn nữa. Người đọc luôn phì cười trước các tính xấu này của Trư. Tính tham ăn, ăn nhiều, ăn
uống chẳng kể sĩ diện là nét thường thấy nhất ở Trư Bát Giới. Từ việc ăn quả nhân sâm ở Ngũ
Trang Quán, ăn cơm chay nhiều vô kể ở các trang viên cho đến khi đã thành chánh quả, dự tiệc
thết đãi ở gia đình họ Trần Gia Trang, Trư Bát Giới vẫn không thay đổi cố tính tham ăn. Lòng
tham của Trư Bát Giới không phải bộc lộ riêng ở mỗi việc ăn uống, mà còn tham tư lợi về tiền
bạc ngay cả trong hoàn cảnh nhiều khó khăn của đoàn thỉnh kinh. Để có lợi cho mình, có khi
Trư Bát Giới còn nói lời xúc xiểm đối với Tôn Ngộ Không, ở hồi thứ 49, khi ba anh em cùng đi
cứu Đường Tăng ở sông Thiên Hà mà Trư Bát Giới vẫn còn chơi khăm đối với Tôn Ngộ
101
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Không. Những nét phẩm chất, tính nết trên đây của Trư Bát Giới thật ra cũng cần được nhìn
nhận từ nhiều phía. Có thể nói, đây là nhân vật phức tạp về mặt tính cách. Nhìn rộng hơn, ta sẽ
thấy, ở mỗi tâm lý, mỗi nét tính cách như vậy đều gần như có hai phía tốt và xấu. Cả hai phía
này thống hợp trong một hình tượng nên có khi như một nghịch lý. Chúng ta đều biết, việc đi
thỉnh kinh, thật ra Trự Bát Giới chẳng hiểu sâu sắc gì và cũng không lấy gì làm hứng thú,
nhưng Bát Giới đã theo suốt cuộc hành trình và hầu như gánh hành lý nặng nề của cả đoàn ấy
cũng cơ hồ ở suốt trên vai Bát Giới. Tuy có khi Bát Giới nói lời xúc xiểm dèm pha có hại cho
Tôn Ngộ Không, nhưng chính Trư Bát Giới, ở hồi thứ 41, đã trực tiếp chữa bệnh cho Tôn Ngộ
Không khỏi bệnh do khói độc của Hồng Hài Nhi. Những quá trình ba anh em cùng đi cứu sư
phụ Đường Tăng, có lúc Trư Bát Giới đã thúc nhanh Tôn Ngộ Không không được chậm trễ,
phải đi cứu gấp, dù trong đêm tối tù mù. Trong suốt cuộc hành trình đến Tây Thiên, Trư Bát
Giới đã làm nhiều công việc hết sức nặng nhọc. Có thể còn có nhiều biểu hiện, chi tiết khác về
tính cách của Trư Bát Giới. Nhưng chỉ những điều trên đây - cả về hai phía tốt và xấu - chúng
ta đều thấy đây là một hình tượng nhân vật không nên đánh giá một chiều và sức hấp dẫn của
nhân vật chính là chỗ đó.
Nói về Đường Tăng - người thủ lĩnh của đoàn thỉnh kinh, cò ý kiến nhận xét rằng
“Đường Tăng là một hòa thượng ngây thơ, muốn thực hiện lý tưởng, song không có biện pháp
gì khả thi”. Xét về “chiến lược” của một người có lý tưởng muốn đi tìm chân lý một cách thành
thật và kiên trì như Đường Tăng thì nhận xét khái quát nói trên rất đúng. Giáo sư Trần Xuân Đề
cũng xác định đây là nhân vật “nhu nhược, yếu đuối, vô tài, bất lực, quan liêu với người dưới,
khuất phục kẻ trên, mang nặng quan niệm đẳng cấp truyền thống của Tây Thiên phong kiến”.
Quan sát nhân vật này từ đầu quá trình đi thỉnh kinh cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng ta
thấy ý kiến này càng phong phú về minh chứng. Đường đi của cả đoàn thỉnh kinh hầu như luôn
luôn gặp nhiều khó khăn, tai ách. Mỗi lần như thế, Đường Tăng thường khóc lóc, sụt sùi. Đứng
trước nhiều gian nguy, thử thách không thể kể hết ra đây, nói chung, Đường Tăng “như con
rối”, hoàn toàn mất phương hướng và không đủ sự vững vàng của bản lĩnh để xử lý công việc.
Đã thế mà nhiều khi Đường Tăng vẫn giữ nguyên tính cố chấp của mình, không những không
nghe những lời nói đúng mà Đường Tăng có khi còn nghe nhiều lời xúc xiểm rất có hại. Vì
vậy, Đường Tăng tuy là nhân vật thánh thiện nhưng lại rất người thật. Ông ta cũng biết sợ nên
102
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
xúi giục linh hồn mấy tên giặc đi kiện Tôn Ngộ Không ở hồi 56, cũng như ở hồi 49, con Rùa
chở cả đoàn qua sông, đã nhờ Đường Tăng hỏi Phật Tổ bao giờ Rùa mới hết kiếp, điều lẽ ra
phải cần nhớ - như một tri ân - mà Đường Tăng cũng quên bẵng! Từ tất cả những vấn đề về
hình tượng nhân vật Đường Tăng nói trên, có thể thấy rằng, đạo đức, nhân cách, tính cách...
của Đường Tăng như là những điều “có sẵn” nhưng được bộc lộ rất chân thật.
Với hình tượng Tôn Ngộ Không, hoàn toàn có điều kiện để nhận ra ý nghĩa rất thú vị của
chính nhân vật với sự say mê của độc giả dành cho tác phẩm. Như ta biết, sau khi học được bảy
mươi hai phép thần thông biến hóa, tu luyện xong phép cân đẩu vân do Tổ sư truyện dạy, Tôn
Ngộ Không bắt đầu nhập thế thực hiện các hoài bão của mình. Tôn Ngộ Không đã xuống Long
Cung bắt Long Vương nộp gậy thần, xuống Âm ti bắt Diêm Vương xóa hết tên họ loài khỉ
trong sổ tử để được trường sinh, đánh lên Thiên cung bắt Ngọc Hoàng phải nhường ngôi, rồi
sau đó, khi phải chấp nhận thua bàn tay của Phật Tổ Như Lai thì Tôn Ngộ Không lại tạo sự
nghiệp mới trên suốt cuộc hành trình bảo hộ Đường Tăng để đi Tây Thiên thỉnh kinh. Trong
truyện Ký anh hùng của nhân vật ở thời gian trước khi đi Tây Thiên, chúng ta thấy Tôn Ngộ
Không xứng đáng “là hình tượng một nhân vật phản nghịch triệt để, dám thách thức cả kẻ
thống trị tối cao”
Nhờ học được đạo, tức có bảy mươi hay phép biến hóa, phép cân đẩu vân mà khi nhập
thế, Tôn Ngộ Không rất thuận lợi trong việc nới rộng không gian vận động của mình. Theo
bước chân đầy ảo hóa của nhân vật, chúng ta thấy Tôn Ngộ Không tay bắt quyết, niệm thần
chú, mở khóa rẽ nước, đi thẳng đến đáy bể Đông gặp Long Vương để đòi vũ khí vô địch, rồi
tiếp đến điện Sâm La, nơi ngự trị của Diêm Vương để đòi xóa tên tuổi của mình cùng giống
loài trong sổ tử để được trường sinh. Chuyện chiếm lĩnh vũ khí gậy như ý, chuyện đòi xóa tên
trong sổ tử đều là chuyện phi thường, hi hữu... không thể thực hiện được ở cõi trần thế. Nó chỉ
có thể thực hiện được ở một khung trời đất mang đậm tính chất lãng mạn, và cũng hết sức phi
thường. Và quả là các thể biến hóa trong không gian Long Cung - Âm Ty được trình bày ở
những trang viết trên đã cho thấy cái lý hợp lý giữa khát vọng con người và nơi chốn thực hiện
khát vọng ấy. Nếu trong bảy hồi đầu là truyện Ký anh hùng về Tôn Ngộ Không thì từ sau khi
nhận lời cùng đi Tây Thiên lại là quá trình dằng dặc để nhân vật này tự xây dựng sự nghiệp cho
mình.. Nếu lòng dũng cảm, tinh thần bất khuật là nét nổi bật trong truyện Ký anh hùng của Tôn
103
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Ngộ Không thì tài năng, sự mưu trí... là nét khá nổi bật của quá trình xây dựng sự nghiệp của
nhân vật.
Khi Tây Du Ký từ trong truyền thuyết, thoại bản đến bàn tay sáng tạo của Ngô Thừa Ân,
đã lôi cuốn hàng triệu triệu người đọc tự bao đời nay. Theo dõi sự phát triển của tác phẩm,
chúng ta thấy rằng, du đoàn thỉnh kinh có nhiều người, nhưng cũng chủ yếu chỉ một mình Tôn
Ngộ Không là nhân vật đương đầu, đối trọng với tất cả các loại yêu ma quỷ quái. Có thể tầm
vóc cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không trên đường thỉnh kinh không thể sánh được với tầm
vóc các cuộc đại náo thiên cung, long cung, nhưng các cuộc chiến đấu trên đường thỉnh kinh lại
vô cùng phong phú về các đối tượng quỷ quái mà Tôn Ngộ Không như nhân vật duy nhất có
nhiệm vụ chiến thắng bọn chúng, vẫn là một tính cách nhất quán ấy, vẫn những tài phép đã
thuần thục ấy, Tôn Ngộ Không tiếp tục tung hoành chiến đấu với vô số những đối tượng khác
nhau: các loại yêu quái, các bọn đạo sĩ, bọn ma quan gian ác, bọn giả dạng nhà sư, bọn dựa
dẫm các thế lực trên thượng giới tại chín tầng mây. Có thể nói rằng, việc biến hóa khôn lường
của Tôn Ngộ Không trong quá trình chiến đâu là điều cực kỳ lý thú, hấp dẫn.
Trong tác phẩm, các từ ngữ: nhanh như chớp, trong chốc lát, thoắt một cái, lắc một cái,
xoa mặt một cái... luôn xuất hiện ở thời điểm bắt đầu biến hóa khôn lường của Tôn Ngộ
Không. Với ba sợi lông đặc biệt, tám mươi tư nghìn cái lông, bảy mươi hai phép thần thông,
phép cân đẩu vân, gậy như ý chính là tài sản độc đáo, vô giá đã giúp Tôn Ngộ Không có điều
kiện ngang dọc xa gần trên vô số những hoàn cảnh, điều kiện thể hiện khác nhau. Con người đã
chiến đấu với Đại lực ma vương từng biến thành muôn trượng, đầu như Thái Sơn, mắt như mặt
trời, mặt trăng ấy (hồi thứ 61) thì cũng đủ khả năng biến hóa thành những sinh thể cực kỳ nhỏ
bé để làm nhiệm vụ đánh phá kẻ thù. Ở các hồi 49, 52, 55, 65, 71, 89, 92, 97,... ta thấy Tôn
Ngộ Không từng biến hóa ra con cua, con dế, con rệp, con ong mật, con chuột tiên, con sâu
ngủ, con bướm, con đom đóm, con sâu bay... là những chứng minh hết sức thú vị. Cũng có thể
thấy một phương pháp tốt nhất của Tôn Ngộ Không là sử dụng “miếng tứ bình”, chui tạt vào
trong bụng đối phương để đâm ngang, chém dọc tận trong nội tạng làm cho kẻ thù không thể
nào chịu nổi, phải khuất phục ngay. Trong tất cả những cuộc chiến đấu như thế, Tôn Ngộ
Không luôn tự ứng hợp với các đối thủ cụ thể. Bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên, chiến đấu và
chiến thắng, đó là nhiệm vụ, là công đức, là sự nghiệp của Tôn Ngộ Không. Việc Phật tổ Như
104
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
lai nói ở hồi cuối cùng của tác phẩm: “rất mừng con biết bỏ điều xấu, làm việc lành, trên đường
đi phục ma trừ quái, trọn vẹn trước sau, gia thắng chức to chính quả, phong làm Đấu Chiến
Thắng Phật” đã góp phần khẳng định quá trình thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ của
Tôn Ngộ Không.
Thực hiện nhiệm vụ của mình, Tôn Ngộ Không nhất quán một lòng một dạ, đồng thời
thời giữ nguyên phẩm hạnh, đạo đức, tính cách ngay thẳng, bất khuất của mình. Khác với tính
tư lợi, ham ăn, nói lời đâm thọc... của Trư Bát Giới, Tôn Ngộ Không luôn quên mình vì nhiệm
vụ, không mảy may nghĩ đến việc mưu cầu quyền lợi cá nhân. Bát Giới dẫu có đối xử không
tốt với mình, Tôn Ngộ Không bao giờ cũng đứng ở tư cách sư huynh bề trên mà xem nhẹ vấn
đề. Đường Tăng nhiều lần phê phán, thậm chí đuổi Tôn đến ba lần, nhưng Tôn vẫn rất thương
sư phụ. Đang, bay trên đỉnh núi tìm phương cứu sư phụ mà nghe tin sư phụ bị yêu giết thịt, Tôn
vô cùng đau đớn và đã (đứng ở sườn núi “ khóc như mưa như gió”. Khi trở về động Thủy
Liêm, núi Hoa Quả vì bị Đường Tăng đuổi, nghe nước thủy triều lên, mà lòng Tôn nhớ thương
và lo cho sư phụ đến rưng rưng nước mắt. Những điều này, cho thấy Tôn Ngộ Không là một
con người giàu lòng nhân ái, tình nghĩa, vị tha. Chúng ta thấy Đường Tăng xem Tôn Ngộ
Không là người làm việc ác, hay đánh chết người. Kỳ thực, không làm thế, làm sao có thể dọn
đường cho Đường Tăng đi Tây Thiên. Những bọn bị Tôn trừng trị ấy đều là ma yêu quỷ quái,
nhưng còn mắt phàm trần chưa đắc đạo của Đường Tăng không thể nhìn thấu được. Trong tác
phẩm, ở hồi thứ 85, trang 286, người kể chuyện có viết về tầm vóc con người và tính chất của
việc làm của Tôn Ngộ Không như sau: “Hành giả nhất sinh là người hào kiệt, không hề đánh
vụng trộm ai bao giờ”. Điều này xác định thêm tư thế kiệt xuất và tính “quang minh chính
đại”trong các cuộc chiến đấu, chiến thắng của người anh hùng này. Chính điều này đã tôn thêm
giá trị thưởng thức cho tác phẩm.
Một giá trị khác cần được tôn vinh ở tác phẩm tây Du Ký đó là giá trị văn học của nó.
Trước hết, vấn đề thưởng thức, tiếp nhận văn học là một lĩnh vực lớn của lý luận văn học. Có
thể nói rằng, chính cuộc sống lịch sử lâu dài của tác phẩm văn học sẽ dần dần làm cho người
đọc nhận ra tính phong phú của nó trên rất nhiều bình diện. Nhiều ý kiến cho rằng “Một tác
phẩm đã hoàn thành chưa nhất thiết đã hoàn tất” là điều rất có lý. Như ta biết, sau khi tác phẩm
văn đã hoàn thành, được in ấn, phát hành thì nó đã cắt đứt mọi liên hệ về tâm lý, sinh lý đối với
105
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
người sản sinh ra nó. Từ đây, nó bắt đầù sống một cuộc sống riêng, trở thành một “Tài sản văn
hóa” chung của toàn xã hội. Hành trình này của tác phẩm văn học thật khó có thể tổng kết
được. Một điều thường xảy ra trong quá trình tiếp nhận tác phẩm ở độc giả qua các thời gian và
không gian khác nhau là có nhiều cách tiếp nhận, cách hiểu có thể ngoài những dự tưởng của
tác giả đã sáng tác ra tác phẩm và người đọc, những nghiên cứu về tiếp nhận văn học như một
bình diện mới của lý luận văn học trong lịch sử xưa nay đã cho thấy rất rõ điều này.
Ở đây, chỉ xin nói đôi nét về việc thưởng thức, tiếp nhận tác phẩm Tây Du Ký theo hướng
tìm đến giá trị triết lý nhân sinh. Ta biết giới nghiên cứu Việt Nam đã nghiên cứu nhiều về văn
học cổ điển Trung Quốc, trong đó, có tiểu thuyết Tây Du Ký. Các thành tựu nghiên cứu ấy,
nhìn chung đã xem xét toàn bộ các phương diện khác nhau của một chỉnh thể tác phẩm cụ thể.
Như thế, hình thức nghệ thuật của mỗi tác phẩm cũng đã đều được tìm hiểu, phân tích. Hiện
nay, khi Thi pháp học được vận dụng để nghiên cứu các tác phẩm văn học cùng với các
phương pháp nghiên cứu đã từng có trong truyền thống vẫn tiếp cận và chiếm lĩnh được các giá
trị tư tưởng - nghệ thuật của từng tác phẩm. Đặt vấn đề nghiên cứu giá trị triết lý nhân sinh
trong Tây Du Ký, chúng tôi cũng nghĩ đến một hiện tượng làm say mê ở Tây Dụ Ký đã có từ
lâu đời trong nhân dân ta. Sự say mê này cũng không phân biệt già trẻ. Vì sao vậy? Bởi sự say
mê Tây Du Ký từ bao đời nay chắc chắn phải có sự say mê tính chất thần kỳ, kỳ diệu của tài
phép biến hóa khôn lường của nhân vật, phải có sự kỳ thú đối với cuộc đời đi mây về gió đầy
ảo hóa của Tôn Ngộ Không. Phải có sự mong muốn công lý, mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn
như Đường Tăng đã bôn ba đi tìm.
106
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
KẾT LUẬN
Từ những kiến giải về sự việc đã trình bày trên đây, người viết có thể đi đến khẳng định
Tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thưa Ân đaã phản ánh giá trị triết lý nhân sinh một cách sâu sắc
đầy ý nghĩa. Phật giáo đi từ nhìn nhận thế giới là Nhân Duyên. Phật giáo không thừa nhận một
đấng sáng tạo ra thế giới như Brahma (một tôn giáo ở Ấn Độ). Bản chất đạo Phật là vô thần.
Thích Ca tuyên bố, ông là con người bình thường. Chính Thích Ca là một nhà tiên tri khoa học.
Ông đưa ra những nhận định đúng đắn về thế giới như tiềm năng bên trong con người, sự an lạc
nơi thánh thiện.Triết lý vô ngôn (không lời) là sự im lặng cần đến một lập luận chặt chẽ có
logic. Đạo Phật là một tôn giáo của đời sống con người nhân sinh trong thế gian. Thật vậy, trải
qua bao thế hệ từ cổ chí kim con người đều say sưa, hồi hộp theo dõi từng diễn biến của cuộc
hành trình mà thầy trò Đường Tam Tạng và cũng chính là triết lý nhân sinh được biểu hiện, nơi
ý tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
Tôn Ngộ Không đã bằng tài trí, phẩm chất anh hùng đầy mưu lược chiến đấu và giành
chiến thắng với năng lực sở trường, nhờ sự tu luyện kiên trì. Chiến đấu bằng những vũ khí,
phương tiện kì diệu với ba lợi công siêu việt, tám mươi tư ngàn cái lông, bảy mười hai phép
thần thông, phép cân đẩu vân cuộc đời Tôn Ngộ Không dù không có chỗ “ngậm ngùi” nhưng
mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc sự say mê cuốn hút đầy ma lực. Trong những tình thế
107
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
“tả xung hữu đột” không phải lúc nào, ở đâu? gặp địch thủ nào, Tôn cũng giành chiến thắng.
Trong những trường hợp như vậy, Tôn Ngộ Không bình tĩnh, mưu trí tìm ngay đến gốc gác
ngọn nguồn của từng nơi trú ngụ chân tướng thủ phạm, và ngay lập tức một bản kê khai sơ yếu
lý lịch đối thủ được phác họa. Như vậy, Tôn Ngộ Không lại đi gõ cửa cầu viện, nơi Phật Tổ
Như Lai và Quan Thế Âm Bồ Tát, nơi thế lực đầy mình với quyền phép nhiệm màu. Thế là từ
việc nhận ra những đường dây liên hệ, dù có diễn tiến phức tạp, ngụy trang, núp bóng mức độ
nào, nguy nan đến mấy, thì nội dung cách gỡ được chủ yếu thực hiện từ Tôn Ngộ Không và sự
cầu tìm các thế lực quyền uy. Những khi mất phương hướng “nhiễu sóng” để diệt trừ hậu hoa,
thì người anh hùng này chỉ một phương trời. tìm về cội nguồn của cái thế lực tối thượng siêu
nhiên đầy quyền thế. Chính vấn đề này nói lên bản lĩnh nhất quán và tính cách nhân vật quan
trọng quyết định cho sự thành bại của đoàn thỉnh kinh. Điều này càng khẳng định sự thống nhất
trong tính cách và bản lĩnh của hình tượng nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết Tây Du Ký.
Hình tượng Trư Bát Giới là nhân vật mang tính hài hước, trào lộng, luôn làm cho người
đọc bật cười. Với đặc tính ham ăn, háo sắc, lười biếng, dễ dao động, tự lợi.. Trư cũng có những
mặt tích cực biết lao động, khả năng làm việc rất khoẻ, tính tình trung hậu. Những khi xung
trận, chính Trư Bát Giới là trợ thủ không thể thiếu của Tôn Ngộ Không. Trư có lập trường , khá
kiên định, không bao giờ thỏa hiệp với đối phương. Trư có tâm trạng, sự suy nghĩ của kẻ quê
mùa tiểu tư hữu. Trư Bát Giới với ba mươi sáu phép biến hoa thần thông luôn là người bạn
chiến đấu, tin tưởng hiệp đồng, giúp sức cùng Tôn Ngộ Không đạp lên chông gai, giành những
chiến thắng, gạt bằng mọi trở ngại trên đường đi Tây Thiên. Trư Bát Giới lắm lúc đã phải một
mình dùng mũi để ủi đường phát quang cho lộ trình của đoàn thỉnh kinh được vươn xa là
những minh chứng tiêu biểu. Những thành tựu mà Trư Bát Giới lập nên so với những khuyết
tật của Trư, giúp ta thêm khẳng định đoàn thỉnh kinh không thể thiếu vắng chiếc bừa cào, trang
phục, khuôn mặt dễ bật cười của Trư.
Đường Tăng nhân vật được coi là con đẻ của giới luật nhà Phật, luôn coi trọng giáo lễ và
trật tự phong kiến. Đường Tăng tôn thờ phép tắc, luật lệ phong kiến một cách cứng nhắc. Ông
là phát ngôn viên của tư tưởng “từ bi” máy móc, vô nguyên tắc, vô luật lệ. Những câu giáo lý
cửa miệng “không lúc nào xa rời lòng thiện”, “quét nhà sợ làm chết kiến”, “thương con thiêu
thân bên bóng đèn”, ta thấy nhân vật số một của đoàn thỉnh kinh này là một nhân vật nhu
108
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
nhược, hèn kém, yếu đuối, bất tài, quan liêu, xem thường cấp dưới, không phân biệt phải quấy;
khuất phục uy quyền, lạc lối khi gặp tai biến, không phân biệt thật giả như yêu quái giả dạng
trên đường qua Tây Thiên. Chú ý quan sát kỹ, ta thấy tính cách con người này hình như đã cố
hữu, định hình sẵn không dễ gì thay đổi, lay chuyển được.Tuy nhiên, trên đường đi thỉnh kinh
chưa đạt chính quả, tính cách nhân vật có biểu hiện lạ lẫm, không bình thường, nhân vật chìm
đắm trong cõi “vô minh”, hiền giả như khi đến bến đò Lăng Vân vào hồi chín mươi tám.
Tây Du Ký là một câu chuyện rất gần gũi với cuộc sống và mọi suy nghĩ của con người.
Lồng vào đó, chính tác giả Ngô thừa Ân đưa ra những tư tưởng triết lý chủ đạo của mình; đó là
tư tưởng định mệnh, nhân quả báo ứng, tư tưởng phản kháng, đạo đức Nho gia và tinh thần
hướng thiện ... Những tư tưởng triết lý được Ngô Thừa Ân đưa ra cũng chính là những tư tưởng
sống phổ biến ở xã hội đương thời, mà giá trị của nó vẫn còn ảnh hưởng đến tận ngày nay. Đặc
biệt là tư tưởng phản kháng với các thế lực cường quyền tham nhũng và tấm lòng hướng thiện
được tác giả dày công xây dựng qua từng sự kiện diễn ra trong tác phẩm. Từ sự ra đời của Tôn
Ngộ Không cho đến quá trình tầm sư học đạo của Tôn Hành Giả. Cuộc hành trình thiên lý ngàn
dặm với muôn ngàn khó nguy, nhiều lúc tưởng chừng đứt gánh, nhưng nhờ có quyết tâm, có
qúi nhân phù trợ, cuối cùng đi đến đất Phật đều in đậm dấu ấn đoàn thỉnh kinh.
Trong quá trình, con người đấu tranh để tìm về bản chất tốt đẹp của mình với đúng nghĩa
con người thực sự, con người của lý trí, của nghị lực thấm nhuần tư tưởng triết lý sâu sắc. Con
người là bể cả của thiên nhiên này, con người bình thường không chỉ có những ham muốn, dục
vọng mà còn có ước mơ một khả năng tìm đến chân lý cuộc sống tốt đẹp; Tôn Ngộ Không,
nhân vật luôn có ước muốn vươn lên, không hài lòng với thực tại với hoàn cảnh tù túng tầm
thường, muốn vượt lên giới hạn của nhân loại. Câu trả lời Phật Tổ Như Lai “Làm vua phải thay
phiên nhau mà làm, sang năm đến lượt ta.Nên bảo hắn dọn đi, nhường thiên cung cho lão,
nhược bằng không lão sẽ quấy rối mãi”. Tây Du Ký mang tâm hồn của thời đại về một lý tưởng
anh hùng, muốn hòa vào cuộc sống với niềm vui và nỗi lo toan của một khát vọng lớn, khát
vọng tự do. Tôn Ngộ không với cây gậy Như ý trong tay muốn phá tung những sơị dây trói
buộc của thời đại. Muốn tìm đến cuộc sống mới mẻ, khát khao những hiểu biết, khám phá mới,
tin tưởng mãnh liệt vào lý trí, trí tuệ con người, biết hòa nhập cùng đoàn thỉnh kinh, tích lũy
những kinh nghiệm trong cuộc sống.
109
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Những vấp ngã, những lầm lỡ những vực thẳm, lưới trời? thiên la địa võng luôn là nơi rèn
con người hãy biết nể sợ sức mạnh của đấng tối thượng vô hình. Muốn làm tròn sứ mệnh cao
cả của con người là phải biết sử dụng thử vũ khí sẵn có là lý trí, nghị lực và lòng dũng cảm.
Đồng thời, Ngô Thừa Ân lên tiếng ca ngợi tinh thần hành động, phẩm chất anh hùng. Cùng với
việc phản ánh xã hội một cách trung thực, tiểu thuyết cổ điển Trung quốc cũng thể hiện những
lý tưởng và nguyện vọng tốt đẹp, là hiện thân ước mơ của nhân dân về hình mẫu những con
người lý tưởng. Dù xã hội có những biến chuyển, tư tưởng con người có những đổi thay thì
nhân nghĩa, đạo lý hình mẫu về một con người lý tưởng luôn là một tấm gương cho hậu thế soi
rọi.
Sự tìm tòi của lý trí cội nguồn của sự tồn tại là gì? Lý thuyết, sức mạnh hay tư duy con
người để cuối cùng đi đến kết luận thật bình dị mang một ý nghĩa lớn lao chính là hành động.
Những suy nghĩ đời thường, ý thức khinh miệt,coi rẻ cuộc sống phủ nhận giá trị chân chính của
con người gieo tâm trạng hoài nghi bi quan từ bỏ lý trí là tội lỗi. Tây Du Ký là chiến thắng của
tinh thần nhân đạo với những đức tính cao qúi và cả những ham muốn với những dục vọng
thấp hèn, cái tốt và cái xấu, thiện và ác được đặt ra và đi đến khẳng định phẩm chất tốt đẹp sẽ
chiến thắng. Sự thành công của đoàn thỉnh kinh nói lên con người đã đi đến chân lý, tuy phải
trả giá cho những lầm lạc, những thói hư tật xấu những vấp ngã trên đường qua Tây Thiên.
Phẩm chất cao qúi đã chiến thắng và con người ngày càng trưởng thành. Tây Du Ký chứa chan
tinh thần lạc quan, niềm tin tưởng, nghị lực,tấm lòng kiên định ở từng thành viên, tạo nên sức
mạnh tất thắng nơi đất Phật.
Mỗi sự kiện, mỗi hành động của từng nhân vật, đều gợi cho người đọc những suy nghĩ,
cảm nhận sâu sắc về cuộc đời, về nhân tình thế thái trong xã hội. Đặc biệt tính triết lý của tác
phẩm được gắn liền với tính cách của Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng.
Chính nhờ ở sự liên kết như Bác Hồ đã vận dụng kể chuyện cho các chiến sĩ trong cuộc kháng
chiến chông thực dân Pháp : “Huyền Trang Đường Tam Tạng là một con người có lập trường
vô cùng kiên định không”? Nhận thức được sứ mạng cao cả, Huyền Trang đã xác định quyết
tâm sắt đá và trong mọi hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm vẫn tâm niệm một điều là cố gắng đến
cùng đi đến đích. Cái lập trường kiên định đó, cái quyết tâm sắt đá đó, lại được cái đức độ cao
cả không tham danh vọng tiền tài và mọi lạc thú thấp hèn đã tạo nên ở Huyền Trang Đường
110
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
Tam Tạng một bản lĩnh rắn chắc để vượt qua tất cả, tạo nên cái “Bất biến” để đương đầu đối
phó với cái “vạn biến”. Đọc tác phẩm ta thấy mỗi nhân vật trong chuyện như đang hiển hiện
với từng hành động diễn ra hàng ngày hàng giờ trong xã hội. Thật vậy, với tất cả những việc
làm, vận động, phát triển của các nhân vật trong Tây Du Ký được nêu lên trong luận văn, cũng
như nhiều công trình nghiên cứu khoa học của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều
khẳng định rằng, nội dung hình tượng nhân vật trong Tây Du Ký là sự Ký gởi trận trọng của tác
giả, là sự phản ánh hiện thực xã hội, thời gian mà nhà văn đã chiêm nghiệm, là sự biểu hiện
mối quan hệ giữa tác phẩm và xã hội.Công trình “Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc” của Giáo sư
Trần Xuân Đề cũng khẳng định điều này .Có thể xác định Tây Du Ký là sự phản ánh, biểu hiện
về hiện thực đời sống, qua đó tác giả gửi gắm những tâm sự kín đáo của mình, qua những giá
trị nhân sinh mà tác giả thể hiện. Các hành động của nhân vật như Tôn Ngộ Không đại náo
thiên cung là vậy mà chỉ là chức quan giữ ngựa quèn “Bật Mã ôn” cuộc nổi loạn của Tề Thiên
Đại Thánh, tấm lòng tôn sư trọng đạo của Hành Giả cũng như hành động Ngộ Không một tay
che chở, Tam Tạng bao lần mờ quáng ... đã thể hiện rõ điều đó.
Cũng do tác phẩm phản ánh những biến cố của thời đại mà ta cảm nhận được nhiều điều
trong Tây Du Ký nhờ tính tích cực, sự ảnh hưởng của Đạo giáo, Nho giáo và nhất là sự ảnh
hưởng có tính chất xuyên suốt của Phật giáo. Rõ ràng từ tên nhân vật, đến việc thể hiện tư
tưởng nhân quả báo ứng, làm việc thiện, tích công đức ... đều tuân theo các giao lý Phật giáo.
Chính vì vậy, qua việc phân tích triết lý nhân sinh trong tác phẩm Tây Du Ký chúng ta
càng thấy rõ sự đóng góp to lớn của tác giả. Tây Du Ký hoàn toàn có khả năng sánh vai với
hàng loạt các tiểu thuyết Minh Thanh. Đặc biệt chính triết lý nhân sinh được thể hiện trong tác
phẩm đã góp phần củng cố và làm sáng rõ những thành công vốn có của tiểu thuyết thần thoại
lãng mạn tích cực Tây Du Ký.
111
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BaKhtin - Lý luận và Thi pháp tiểu thuyết - người dịch: Phạm Vĩnh Cư, Trường Viết
Văn ngữ văn, Nguyễn Du xuất bản, 1992.
2. Bùi Văn Tiếng - Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, NXB Văn hóa
- 1997.
Đinh Gia Khánh - Điển cổ văn học - NXB khoa học xã hội, 1997. 3.
Đinh Phan Cẩm Vân - Thi pháp nhân vật trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng. Luận văn 4.
Thạc Sĩ khoa học.
Đặng Thái Mai - Xã hội sử Trung Quốc - NXB Khoa học xã hội, 1994. 5.
Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học - NXB khoa học xã hội. NXB Mũi Cà Mau, 6.
1993.
7. G.N Pospeov (chủ biên) - Dan luận nghiên cứu Văn học - 2 tập - người dịch: Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng- NXB giáo dục, 1985.
Hêghen-Mỹ học 2 tập - Người dịch: Phan Ngọc, NXB văn học, 1999. 8.
Hồ Sĩ Hiệp - Giúp học tốt Văn học Trung Quốc trong nhà trường, NXB Đồng Nai, 1998. 9.
10. Khâu Chấn Thanh - Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, người dịch: Mai
Xuân Hải, NXB giáo dục, 1994.
11. Lại Nguyên Ân - 150 thuật ngữ văn học - NXB Đại học quốc gia Hà Nội, ,1999.
12. Lê Anh Dũng - Giải mã Truyện Tây Du (Tân biên), NXB Văn hóa Thông tin. 1995.
13. Lê Từ Hiển - Một vài đặc điểm Thi pháp Liêu Trai Chí Dị - Luận văn sau đại học,
1991.
14. Lê Bán Hán (chủ biên) - Từ điển thuật ngữ văn học - NXB Giáo dục, 1992.
15. Lê Nguyên cẩn - Về một vài con số kỳ ảo trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân - Tạp chí
văn học số 1/1994.
112
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
16. Lê Văn Quán - Đại cương lịch sử Tư tưởng Trung Quốc - NXB Giáo dục, 1997.
17. Lisevich.I.S - Tư Tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa - người dịch: Trần Đình sử- ĐHSP.
TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1993
18. Lỗ Tấn - Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, người dịch: Lương Duy Tâm - NXB
Văn Hóa - 1996.
19. Lương Duy Thứ - Nguyễn Khắc Phi - Văn học Trung Quốc - tập II. NXB Giáo dục,
1988.
20. Lương Duy Thứ (chủ biên) - Tác phẩm Văn 10 - Phần Văn học nước ngoài - NXB giáo
dục, 1992
21. Lương Duy Thứ - Bài giảng Văn học Trung Quốc - Tủ sách Đại học Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, 1995.
22. Lương Duy Thứ - Để hiểu toàn bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB khoa học xã
hội - NXB Mũi Cà Mau, 1990.
23. Lương Duy Thứ - Thi pháp tiểu thuyết chương hồi - Tập bài giảng cho cao học - (nghe
giảng 1998).
24. Lương Duy Thứ (chủ biên) - Đại cương văn hóa phương Đông -NXB giáo dục, 1980.
25. Lưu Hiệp - .Văn-Tâm điêu long - Người dịch: Phan Ngọc. NXB văn học,H.1997.
26. Lưu Đức Trung (chủ biên) - Văn học Đông Nam Á - NXB Giáo dục, 1998.
27. Nguyễn Huy Khánh - Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Văn học, 1991.
28. Nguyễn Thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm từ góc độ Thi pháp -NXB giáo dục, 1995.
29. Nguyễn Văn khỏa - Thần thoại Hy Lạp - Lời giới thiệu - tập II -NXB Khoa học xã hội,
1991.
30. Nguyễn Trung Đức - Hiệu quả nghệ thuật của không - thời gian trong tiểu thuyết “Trăm
năm cô đơn” của Mác Kết - Tạp chí Văn học số 1/1995.
113
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
31. Nguyễn Trường Lịch: Huyền thoại và sức sống của huyền thoại ương văn chương xưa
và nay - Tạp chí Văn học số 5/1997.
32. Nguyễn Xuân Hòa - Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt
Nam - NXB Thuận Hóa. 1998.
33. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn - Tư tưởng và phong cách - NXB Tác phẩm mới 1979.
34. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương - Lý luận Văn học - Vấn đề và Suy nghĩ -
NXB Giáo dục, 1995.
35. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập I - Người dịch: Thụy Đình, người , hiệu đính: Chu
Thiên - NXB Văn học, 1997.
36. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập II - Người dịch: Thụy Đình, người hiệu đính: Chu
Thiên - NXB văn học, 1997.
37. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập IU - Người dịch: Thụy Đình, người hiệu đính: Chu
Thiên - NXB văn học, 1997.
38. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký (bộ 10 tập) Tập III - nhiều người dịch -người giới thiệu:
Lương Duy Thứ - NXB Văn học, 1998.
39. Ngô Nguyên Phi - Lược khảo Tây Du Ký, tập I, NXB Đồng Nai, 1998.
40. Ngô Nguyên Phi - Lược khảo Tây Du Ký, tập II, NXB Đồng Nai, 1998.
41. Phan Ngọc - Bản sắc văn hóa Việt Nam - NXB Văn hóa thông tin -1998.
42. Phan Ngọc - Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc ở Việt Nam -Nghiên cứu Trung Quốc
- số 3 (7) 1996.
43 Phạm Thị Hảo - Văn học Trung Quốc - Giáo trình ĐHTH, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
1997.
44. Phạm Tú Châu - Ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong vài bộ tiểu thuyết tiêu biểu của
Trung Quốc - Tạp chí Văn Học số 4/1992.
45. Phạm Xuân Nguyên - Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết - Tạp chí văn học số 2/1991.
114
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
46. Phương Lựu - Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo dục, 1989.
47. Phương Lựu - Vài nét về lý luận văn học mỹ học cổ điển Trung Quốc, tạp chí văn học số
6/1981.
48. Tập thể tác giả - Lịch sử văn học Trung Quốc - tập III - người dịch: Lê Huy Tiêu, Lương
Duy Thứ, Nguyễn Trung Hiến, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm, Ngô Hoàng Mai- NXB
Giáo dục - 1995.
49. Tập thể tác.giả - Từ Điển Văn học - tập I - NXB Khoa học Xã hội -1983.
50. Tập thể tác giả - Từ Điển Văn học - tập II - NXB Khoa học Xã hội -1984.
51. Tập thể tác giả - Lý luận Văn học - 3 tập - NXB giáo dục, 1988. ,
52. Thích Đồng Văn - Ảnh hưởng của Phật giáo trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc -
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, 2000.
53. Trần Đình sử- lý luận và phê bình văn học - NXB Hội Nhà văn, 1996.
54. Trần Xuân Đề - Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo dục, 1998.
55. Trần Đình sử- Thi pháp thơ Tố Hữu (chuyên luận) - NXB Tác phẩm mới 1987.
56. Trần Đình Sử- Bài giảng thi pháp học - Tài liệu của Trung Tâm Đào tạo từ xa - Huế -
1994.
57. Trần Xuân Đề - Những bộ tiểu thuyết cổ điển hay nhất của Trung Quốc Thành Phố Hồ
Chí Minh- 1991.
58. Trương Chính (và nhiều tác giả khác): Lịch sử văn học Trung Quốc, 2 tập - NXB Giáo
dục - 1971.
59. Thúy Toàn - Dịch văn học và Văn học dịch - NXB văn học, 1996.
60. Vô Đình Cường - Đường Tam Tạng thỉnh kinh - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
ấn hành, 1992 .
61. Vương Hồng sển- Thú xem truyện Tàu - NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
115
Triết lý nhân sinh trong Tây Du Ký
62. Nguyễn Hoàng Long - Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký-Luận văn Khoa học
Ngữ văn 3/2000.
116