ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI CÔNG ĐOẠT

TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI CÔNG ĐOẠT

TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Huế

Thái Nguyên – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Bùi Công Đoạt

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn

Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,

Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực

tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn PGS. TS. Nguyễn Thị Huế đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời

gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Bùi Công Đoạt

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ..................................................................... 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .............................................................. 3

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 4

5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 5

6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 5

7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 6

NỘI DUNG ..................................................................................................... 7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................................. 7

1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đời sống văn hóa,

con người Ninh Bình ....................................................................................... 7

1.2. Đời sống văn hóa, con người Ninh Bình ................................................. 10

1.3. Khái niệm Tục ngữ, Ca dao, Địa danh ..................................................... 15

1.4. Văn học dân gian Ninh Bình và tục ngữ, ca dao Ninh Bình .................... 18

1.5. Tục ngữ, ca dao Ninh Bình ..................................................................... 20

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 23

Chương 2: TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH VỀ MẢNH

ĐẤT CON NGƯỜI VÀ SẢN VẬT ............................................................. 25

2.1. Tục ngữ, ca dao địa danh về đất Ninh Bình ............................................ 25

2.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về người Ninh Bình ...................... 31

2.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu sản vật, nghề nghiệp

và phong tục. .................................................................................................. 39

2.4. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu về phong tục, lễ hội ...... 49

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 53

Chương 3: TỤC NGỮ CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH VỀ KINH

NGHIỆM SẢN XUẤT, QUAN HỆ XÃ HỘI .................................................... 55

3.1.Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về kinh nghiệm sản xuất ................ 55

3.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về các quan hệ xã hội .................... 61

3.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tinh thần lạc quan,

Yêu đời ........................................................................................................... 80

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 82

KẾT LUẬN .................................................................................................... 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86

PHỤ LỤC ...................................................................................................... 90

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài (Lý do chọn đề tài)

Có thể nói rằng Văn học dân gian là một phần không thể tách rời nền văn

học dân tộc . Ra đời rất sớm (từ khi con người chưa có chữ viết) bộ phận văn học

này đã góp phần nuôi dưỡng, vun đắp nền văn học Việt Nam. Trong dòng chảy

của lịch sử, văn học dân gian Ninh Bình đặc biệt là tục ngữ, ca dao đã là những

mạch nguồn trong mát nuôi dưỡng tâm hồn biết bao người con Ninh Bình để rồi

“Ăn đâu, làm đâu” mọi người con Ninh Bình đều hướng về quê hương, nguồn cội

với tấm lòng thành kính, tri ân và khát vọng cống hiến xây dựng quê hương Ninh

Bình ngày càng văn minh, giầu đẹp.

Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ, ca dao Ninh Bình giúp chúng ta hiểu thêm

về diện mạo và đặc trưng của Văn học dân gian Ninh Bình nói chung và tục ngữ,

ca dao Ninh Bình nói riêng. Ninh Bình, mảnh đất ngàn năm văn hiến mà ở đó mỗi

tên làng, tên xã, mỗi ngọn núi, dòng sông đều mang “bóng dáng ông cha”, mang

“dáng hình xứ sở” được ghi lại qua những câu tục ngữ, ca dao để rồi trường tồn

cùng quê hương, đất nước.

Đến với Ninh Bình hôm nay, chúng ta cảm nhận về một vùng quê đang

từng ngày thay đổi trong xu thế đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, có nhiều địa danh

mới xuất hiện và không ít những địa danh cũ mất đi hoặc thay đổi tên gọi. Tìm

hiểu những địa danh của Ninh Bình qua những câu tục ngữ, ca dao sẽ giúp chúng

ta bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vô cùng quí báu của cha ông, để từ đó

chúng ta thêm tự hào và thấy được trách nhiệm của mình trong việc quảng bá, gìn

giữ kho tàng tục ngữ, ca dao Ninh Bình cho thế hệ mai sau.

Từ những mong muốn trên, tôi chọn đề tài luận văn của mình là: “Tục ngữ,

ca dao địa danh Ninh Bình”. Hy vọng rằng công trình là sự hệ thống những câu

tục ngữ, ca dao có nói tới những địa danh của tỉnh Ninh Bình với những tên gọi,

sự tích đầy thú vị, gợi mở cho giáo viên và học sinh Ninh Bình trong quá trình

tiếp nhận tục ngữ, ca dao địa phương (Ngữ văn lớp 7). Luận văn cũng là món quà

nhỏ mà người viết tri ân quê hương Ninh Bình yêu dấu.

2

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

2.1.Việc sưu tầm và giới thiệu tục ngữ, ca dao nói chung đã được tiến hành từ lâu

(thế kỷ XVIII). Đó là công trình Nam phong giải trào của Trần Danh Án, Ngô

Hạo Phu, Trần Doãn Giác, soạn vào năm 1788 - 1789 đến nửa thế kỷ XIX; Tục

ngữ, cổ ngữ gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1897; Việt Nam phong

sử của Nguyễn Văn Mại, soạn năm 1914; Tục ngữ và cách ngôn của Hàn Thái

Dương, 1920; An Nam tục ngữ của Vũ Như Lâm và Nguyễn Đa Gia, 1933; Phong

giao, ca dao, phương ngôn, tục ngữ của Nguyễn Văn Chiểu, năm 1936; Ngạn ngữ

phong dao của nguyễn Can Mộng, 1941; Đặc biệt là công trình Tục ngữ phong

dao của Nguyễn Văn Ngọc (Nhà xuất bản Vĩnh Hưng Long), 1928, đã có tới 6

500 câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao, được sưu tầm và giới thiệu. Tuy nhiên công

trình này chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu.

Từ sau năm 1975 việc sưu tầm và giới thiệu tục ngữ, ca dao, dân ca đã có

những thuận lợi hơn, thời kỳ này phải kể tới công trình của Vũ Ngọc Phan đó là

cuốn Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, (Xuất bản lần đầu năm 1955 đến nay đã

tái bản nhiều lần). Công trình là một tập hợp tương đối đầy đủ và hệ thống tục

ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam ở cả ba miền đất nước. Ở ấn phẩm này tác giả đã

sưu tầm và giới thiệu được một số câu ca dao Ninh Bình về những địa danh nổi

tiếng như núi Phi Diên (núi Cánh Diều), cửa biển Thần Phù (nay thuộc xã Yên

Lâm, Yên Mô)…

Trong khoảng gần 30 năm trở lại đây các nhà nghiên cứu đã tập trung

nghiên cứu tục ngữ, ca dao theo chuyên đề, đáng chú ý là các công trình nghiên

cứu sau:

- Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp của Nguyễn Thái Hòa, Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, năm 1997…

- Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam của Phan Thị Đào, Nhà xuất bản

Thuận Hóa, năm 1999

- Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc của

Triều Nguyên, Nhà xuất bản Thuận Hóa, năm 2003

3

- Thi pháp ca dao, do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội năm 2006

2.2. Giới thiệu về tục ngữ, ca dao Ninh Bình cho đến nay còn có ở trong các công

trình của Ninh Bình: Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, do Trương Đình Tưởng

chủ biên, Nhà xuất bản Thế giới, năm 2004;

Địa chí Ninh Bình, do Tỉnh ủy Ninh Bình – Viện khoa học xã hội Việt

Nam chịu trách nhiệm nội dung, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, năm 2010;

Chùa Dầu di tích lịch sử văn hóa, do Thích Minh Đức, Lã Đăng Bật chủ

biên, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, năm 2008;

Tục ngữ ca dao, dân ca Yên Mô, do Trần Đình Hồng chủ biên, Nhà xuất

bản vãn hóa thông tin, nãm 2012. Bên cạnh ðó còn có các tác giả: Đặng Hữu Vân,

Phạm Thị Ánh Nguyệt, biên tập phần tục ngữ, ca dao giảng dạy trong chương

trình ngữ văn địa phương trong các trường THCS tỉnh Ninh Bình.

Tất cả những công trình trên là những tài liệu quí báu, định hướng cho tôi có

được cái nhìn sâu sắc về địa danh Ninh Bình qua những câu tục ngữ, ca dao. Tuy

nhiên một số công trình nghiên cứu trên chỉ giới thiệu tục ngữ, ca dao Ninh Bình qua

dư địa chí, hoặc nghiên cứu tục ngữ, ca dao Ninh Bình trong dòng chảy của văn học

dân gian nói chung, hoặc nghiên cứu tục ngữ, ca dao của một huyện, một vùng, nên

chưa có được cái nhìn thật khái quát, đầy đủ về tục ngữ, ca dao Ninh Bình đặc biệt

là những câu tục ngữ, ca dao gắn với các địa danh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Từ lý

do đó tôi mạnh dạn chọn đề tài Tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình, nhằm nối

dài những nghiên cứu về tục ngữ ca dao Ninh Bình đặc biệt là tìm hiểu những địa

danh của tỉnh được nhắc tới trong tục ngữ, ca dao, những tên gọi, sự tích, ý nghĩa của

mỗi địa danh đều có sức hấp dẫn riêng mà mỗi người con Ninh Bình nhất là thế hệ

trẻ cần phải hiểu biết và gìn giữ.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là tục ngữ, ca dao về địa danh

Ninh Bình, trong đó tập trung làm rõ một số vấn đề sau:

4

- Tên gọi địa danh.

- Sự tích tên gọi – những câu chuyện, giai thoại, con người gắn với các câu

tục ngữ, ca dao về địa danh của Ninh Bình.

- Nội dung phản ánh, giá trị ý nghĩa các câu tục ngữ, ca dao về địa danh của

Ninh Bình.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Luận văn nhằm nghiên cứu tìm hiểu qua những câu tục ngữ, ca dao về địa

danh khám phá những giá trị văn hóa ẩn chứa trong tên gọi, những câu chuyện kể

về địa danh đó…

- Thông qua việc tập hợp, sưu tầm, nghiên cứu tìm hiểu các câu tục ngữ, ca

dao về địa danh Ninh Bình để thấy được bức tranh toàn cảnh về mảnh đất và con

người Ninh Bình, cũng như thấy được một phần diện mạo Văn học dân gian Ninh

Bình.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu phục vụ giảng dạy Ngữ văn

địa phương Ninh Bình.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống, phân loại những câu tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình làm

ngữ liệu để triển khai nội dung luận văn.

- Khảo sát những vấn đề có liên quan đến tên gọi của địa danh trong những

câu tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình, trong đó có những câu chuyện, điển tích,

điển cố có liên quan. …

- Khái quát giá trị nội dung phản ánh thực tiễn, lịch sử, văn học, văn hóa,

đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình , đề xuất phương

pháp tiếp nhận một cách khoa học.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điền dã: nhằm khảo sát, sưu tầm số lượng tục ngữ, ca dao

về địa danh địa phương ở Ninh Bình.

5

- Phương pháp thống kê: để hệ thống, phân loại các câu tục ngữ, ca dao

về địa danh Ninh Bình

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: giúp tìm hiểu nội dung và giá trị của

các câu tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình

- Phương pháp liên ngành: kết hợp các phương pháp nghiên cứu để tìm

hiểu và khẳng định giá trị của các câu tục ngữ, ca dao về địa danh địa phương

Ninh Bình.

5. Phạm vi nghiên cứu

5.1. Phạm vi tư liệu nghiên cứu

Nguồn tư liệu của luận văn đã được liệt kê trong phần thư mục trong đó

chúng tôi sử dụng những tư liệu quan trọng sau:

- Địa chí Ninh Bình do Tỉnh ủy Ninh Bình - Viện khoa học xã hội Việt

Nam, biên soạn, năm 2010; Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, do Trương Đình

Tưởng chủ biên, năm 2004; tài liệu Ngữ văn địa phương do Đặng Hữu Vân, chủ

biên , năm 2009, Phạm Thị Ánh Nguyệt chủ biên, năm 2013, Trương Đình Tưởng,

Ninh Bình qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ và ca vè, tài liệu chưa công bố. Ngoài

ra chúng tôi thu thập thêm những câu tục ngữ, ca dao trong quá trình đi thực tế,

phỏng vấn người dân ở một số địa phương trong tỉnh.

5.2. Phạm vị vấn đề nghiên cứu

Trong luận văn này chúng tôi tập trung tìm hiểu nội dung ý nghĩa và đặc

điểm nghệ thuật phản ánh của những câu tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, cấu trúc của

luận văn gồm 03 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận và những vấn đề liên quan đến đề tài

Chương 2: Tục ngữ ca dao địa danh Ninh Bình về mảnh đất, con người,

sản vật

Chương 3: Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về kinh nghiệm sản xuất,

và quan hệ xã hội.

6

7. Đóng góp của luận văn

- Luận văn lần đầu tiên là một tập hợp những câu tục ngữ, những bài ca dao

về địa danh Ninh Bình.

- Luận văn lần đầu tiên đi sâu tìm hiểu nội dung phản ánh, giá trị và ý nghĩa

tên gọi của mỗi địa danh trong các câu tục ngữ, ca dao của Ninh Bình. Qua đó

giúp chúng ta thấy được một phần diện mạo của văn hóa dân gian Ninh Bình, thấy

được vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi cảnh vật nơi đây, và đặc biệt là chúng ta cảm nhận

được tâm hồn tình cảm của mỗi người con Ninh Bình đối với quê hương, đất nước.

- Luận văn góp phần cung cấp tài liệu cho giáo viên và học sinh tỉnh Ninh

Bình nói riêng và các địa phương khác nói chung trong các tiết Ngữ văn địa

phương.

NỘI DUNG

7

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đời sống văn hóa, con

người Ninh Bình

Trong quá trình tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đời sống

văn hóa con người Ninh Bình, bên cạnh tìm hiểu qua thực tế tác giả luận văn còn

tìm hiểu qua một số tài liệu có liên quan. Về nội dung này tác giả luận văn đã sử

dụng nguồn tư liệu sau: “Tài liệu giảng dạy của Đại học Hoa Lư”, “Tài liệu tuyên

truyền kỷ niệm 25 năm tái lập tỉnh Ninh Bình” của thành ủy Ninh Bình, đây là

những văn bản quan trọng với những thông tin đáng tin cậy, đồng thời tác giả luận

văn cũng cập nhật thêm số liệu mới nhất để hoàn thiện phần trình bày này.

1.1.1. Những điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý: Tỉnh Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây

Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ, và nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà

Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Đây là cửa ngõ trọng

tâm của nửa phía Bắc Việt Nam. (khu vực các tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra), có

diện tích tự nhiên là 1.386,8 km2.

Đặc điểm địa hình: Có thể nói Ninh Bình như một Việt Nam thu nhỏ bởi

có đủ các miền địa hình Địa hình và được chia làm 3 vùng rõ rệt: vùng đồi núi,

nửa đồi núi; vùng đồng bằng; vùng ven biển và biển. Dãy núi đá vôi ở phía Tây

của tỉnh chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, bắt nguồn từ vùng rừng núi Hoà

Bình chạy ra biển tạo thành vùng phù sa cổ ven chân núi. Do quá trình tạo sơn

hơn 200 triệu năm về trước, dãy núi đá vôi ở phía Tây của tỉnh có nhiều hang

động đẹp như: Tam Cốc, Bích Động, Địch Lộng, Xuyên Thuỷ Động, Bàn Long,

Hoa Sơn...Tiếp đó là vùng đồng chiêm trũng thuộc các huyện Nho Quan, Gia

Viễn, Yên Mô và một phần của huyện Hoa Lư. Toàn tỉnh có 18 km bờ biển thuộc

huyện Kim Sơn, có cửa sông Đáy đổ ra biển tạo ra vùng bãi bồi, hàng năm tiển

ra biển khoảng 100 - 120m.

8

Khí hậu: Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, chịu ảnh

hưởng của khí hậu ven biển. Thời tiết trong năm chia làm hai mùa khá rõ: mùa

khô từ tháng 11-12 năm trước đến tháng 4 năm sau; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng

10. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.860 - 1.950 mm nhưng phân bố

không đều, tập trung 70% lượng mưa vào mùa hạ.

Dân cư: Dân số Ninh Bình tính đến năm 2016 là 952 509 người, đại bộ phận

dân cư Ninh Bình là dân tộc Kinh và có khoảng 20 000 người là đồng bào dân tộc ít

người, chủ yếu là dân tộc Mường sinh sống ở một số xã miền núi huyện Nho Quan.

Có hai tôn giao chính: phật giáo và công giáo. Phật giáo chiếm khoảng 5,18% và

công giáo chiếm 16,3% dân số (chủ yếu ở huyện Kim Sơn)

Ninh Bình là nơi những dấu tích của con người tồn tại từ hàng vạn năm trở

về trước vẫn còn lưu lại; là cố đô Hoa Lư một thời sáng chói, như một minh chứng

về một vùng đất cổ "địa linh, nhân kiệt". Truyền thống, hiện đại luôn hoà quyện

với nhau để làm nên một Ninh Bình giàu bản sắc văn hoá, giàu truyền thống yêu

nước và cách mạng, là cội nguồn sức mạnh của người dân Ninh Bình trong kháng

chiến chống giặc ngoại xâm cũng như trong thời kỳ hội nhập và phát triển cùng

đất nước.

Về tài nguyên thiên nhiên, đây là mảnh đất có rất nhiều tiềm năng và thế

mạnh, cụ thể:

Đất đai: Ninh Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 139.011 ha. Trong đó

đất cho sản xuất nông nghiệp là 61.959 ha (chiếm 44,57%). Các loại đất phù sa

được bồi và phù sa không được bồi tạo điều kiện cho nuôi trồng thuỷ sản và cây

công nghiệp; đất phù sa cũ chua, nghèo…thích hợp cho thâm canh lúa, hoa màu;

đất feranit thích hợp phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu.

Sinh vật: Ninh Bình có thảm thực vật rừng phong phú, tập trung ở vườn

Quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương thuộc loại rừng mưa nhiệt đới điển hình

với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng, phong phú về thành phần loài. Một số loài

thực vật điển hình là Chò xanh, cây Lê, cây Chân chim…Động vật ở đây cũng

9

rất phong phú. Hiện đã phát hiện 233 loài động vật có xương sống, nhiều loài

chim và 24 bộ côn trùng trong số 30 bộ côn trùng thường gặp ở nước ta.

Tài nguyên khoáng sản: Ninh Bình có nhiều loại khoáng sản nhưng đáng

kể nhất là đá vôi với diện tích 1,2 vạn ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối và hàng

chục triệu tấn đôlômit, chất lượng tốt. Đây là nguồn nguyên liệu lớn cho sản xuất

vật liệu xây dựng. Ngoài ra, đất sét phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp dùng

để sản xuất gạch ngói và là nguyên liệu cho ngành đúc. Than bùn có trữ lượng

2triệu tấn/năm dùng để sản xuất phân vi sinh. Nước suối Kênh Gà, Nước khoáng

Cúc Phương cũng là những nguồn lợi lớn trong việc chữa bệnh và phát triển du

lịch…[57; 1,2; 12]

1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội

Những lĩnh vực kinh tế lợi thế: Trong những năm tới, các ngành công

nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ như: Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,

đặc biệt là xi măng, đá, gạch sẽ phát triển, trở thành khâu đột phá đưa nền kinh tế

Ninh Bình tăng tốc và ưu tiên hàng đầu cho ngành sản xuất xi măng.

Phát triển đa dạng các ngành kinh tế thuỷ sản, trong đó nuôi thuỷ, hải sản

là trọng tâm được coi là một khâu đột phá của ngành nông nghiệp và nền kinh tế

của tỉnh.

Với các khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đặc biệt là các khu:

Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc - Bích Động, Bái Đính - Tràng An…là thế mạnh của

tỉnh trong phát triển du lịch.

Tiềm năng du lịch: Sự kì thú của thiên nhiên với những danh lam thắng

cảnh đẹp, đa dạng như: Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu hang động Tam Cốc-

Bích Động, khu Địch Lộng Vân Long, khu du lịch Tràng An - Bái Đính…cùng

với tài nguyên nhân văn như: Cố đô Hoa Lư, quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm,

chùa Non Nước, phòng tuyến Tam Điệp- Biện Sơn…tạo điều kiện cho Ninh Bình

phát triển những tuyến du lịch hấp dẫn, đưa tỉnh nhà trở thành địa bàn du lịch quan

trọng của vùng đồng bằng Bắc bộ và cả nước.

10

Non nước Ninh Bình kỳ thú, nên thơ, lại nằm ở cửa ngõ đồng bằng Bắc bộ

và dải lãnh thổ miền Trung, nên từ xa xưa là nơi gặp gỡ giao thoa của ba nền văn

hoá lớn của đất nước. Nhân dân Ninh Bình vừa tiếp thu những nét tinh hoa văn

hoá của các vùng, miền khác trong nước, tạo dựng nên sắc thái văn hoá Ninh

Bình phong phú đa dạng lại có những nét đặc sắc riêng biệt.

Nghiên cứu và tìm hiểu về văn hoá Ninh Bình, chúng ta nhận thấy: vùng

đất này có nhiều điều hấp dẫn, thú vị. Nhiều phong tục, tập quán, truyền thống tốt

đẹp của cộng đồng người Việt được con người Ninh Bình tiếp thu và sáng tạo.

Mỗi ngọn núi, dòng sông, mỗi thôn xã, làng bản…đều âm vang những huyền tích,

huyền thoại. Quá khứ, hiện tại, trí tưởng tượng của người lao động và hiện thực

lịch sử đan xen vào nhau, tạo nên bản sử thi hùng tráng của dải đất cuối sông, đầu

núi, dải đất đã được mệnh danh là “cổ họng”, là “yết hầu” của Bắc – Nam này.

[57; 3; 13]

1.2. Đời sống văn hóa, con người Ninh Bình

1.2.1. Ninh Bình - nơi in đậm dấu ấn văn hoá của cư dân Việt cổ

Dấu vết khảo cổ học: Ninh Bình là vùng đất có con người cư trú từ rất sớm.

Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các động

vật trên cạn ở Núi Ba (Tam Điệp) thuộc sơ kỳ đồ đá cũ, cách ta khoảng ba mươi

vạn năm; ở Thung Lang (Tam Điệp) có niên đại cách ta khoảng ba mươi nghìn

năm; động ngưòi xưa (Cúc Phương) có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá

Hoà Bình cách ta khoảng 7.580 + 100 năm. Di chỉ của con người văn hoá Hoà

Bình còn tìm thấy ở một số hang động ở Tam Điệp, Nho Quan. Sau thời kỳ văn

hoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ cho rằng, vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá,

Ninh Bình là nơi định cư của con ngưòi thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ Đồng

Vườn (Yên Thành, Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng (di

chỉ Gò Trũng có niên đại C14: 4700 + 50 năm cách ngày nay). Cư dân cổ di chỉ

Đồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô) ở

giai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu, cách đây

3.300 - 3700 năm.

11

1.2.2. Ninh Bình - " văn hoá mới" của cư dân ven biển

Ninh Bình là một trong những tỉnh điển hình về sự mở rộng không gian

văn hoá Việt xuống biển Đông. Trong quá trình kiến tạo địa chất, biển lùi dần tạo

ra đồng bằng vùng hạ lưu sông Đáy. Con người tiến dần ra chiếm lĩnh vùng đồng

bằng ven biển và tạo ra những trung tâm văn hóa như Hoa Lư, sau là kinh đô của

cả nước trong 42 năm (968-1010). Vùng ven sông Vân sau là trung tâm của đạo,

trấn, rồi tỉnh Ninh Bình. Dấu ấn về biển còn in đậm trên đất Ninh Bình. Những

địa danh: cửa biển Phúc Thành (thành phố Ninh Bình), cửa biển Đại An (nay là

ngã ba Độc Bộ), nơi tiếp giáp giữa yên Khánh và Nghĩa Hưng (Nam Định), cửa

biển Con Mèo (Yên Thành, Yên Mô), cửa Biển Thần Phù (Yên Lâm, Yên Mô)

làm cho chúng ta có cảm tưởng một thời biển còn ở đâu đây. Cùng với các địa

danh về các cửa biển là các con đê lịch sử như đê Hồng Đức (1471), đê Hồng Lĩnh

(1773) do Nguyễn Nghiễm - thân phụ Nguyễn Du đắp, đê Đường Quan(1830), đê

Hồng Ân (1899), đê Hoàng Trực (1927), đê Văn Hải (1933-1934), đê Bình Minh

I (1959-1960), đê Bình Minh II (1981). Cho đến nay, Ninh Bình vẫn tiến ra biển

mỗi năm gần 100m. Như vậy, từ ngàn xưa, ngưòi dân Ninh Bình đã hướng ra

biển, khát vọng chinh phục biển, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoá

từ Bắc vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển còn in đậm các di chỉ văn hoá thời kỳ

đồ đồng. Cho đến nay, kinh tế biển còn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế

của tỉnh. Khai thác kinh tế biển như nghề đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo,

nuôi cua…vẫn là hướng phát triển quan trọng. Cùng với phát triển kinh tế tỉnh

Ninh Bình cũng rất chú trọng đến công tác đảm bảo an ninh quốc phòng cũng như

môi trường sinh thái biển để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của nền kinh tế

quan trọng này.

1.2 3. Hệ thống di tích văn hoá, lịch sử và những danh lam thắng cảnh nổi tiếng

của Ninh Bình

Trước khi đi sâu tìm hiểu giới thiệu về tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình

chúng tôi muốn giới thiệu về hệ thống di tích lịch sử văn hóa những danh lam

12

thắng cảnh nổi tiếng của Ninh Bình để độc giả hình dung ra một Ninh Bình “Địa

linh nhân kiệt”.

Ninh Bình cùng với Hạ Long là 2 đỉnh cạnh đáy của tam giác châu thổ sông

Hồng với địa hình Karst được các biến đổi địa chất theo thời gian và phù sa bồi

đắp tạo cho Ninh Bình một "Hạ Long trên cạn" với vô số các hang động, đầm hồ

ngập nước có giá trị phát triển du lịch. Ninh Bình, vùng đất “địa linh” là nơi chứa

những vật báu của trời”(Nguyễn Tử Mẫn), nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố của một

Việt Nam thu nhỏ: có rừng, núi, sông, với các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc

gia, khu dự trữ sinh quyển thế giới, khu du lịch quốc gia...

Nói đến Ninh Bình là nói đến một mảnh đất có mật độ dày đặc các di tích

văn hoá - lịch sử. Theo thống kê, Ninh Bình có 795 di tích lịch sử, văn hoá với

225 ngôi chùa, 242 đình làng…Ngoài ra còn có 280 nhà thờ, trong đó có 73 nhà

thờ giáo xứ, 207 nhà thờ họ.

1.2.3.1. Những di tích lịch sử, văn hoá

Ninh Bình có khu di tích lịch sử văn hoá cố đô Hoa Lư được công nhận là

di tích đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, với 47 di tích trong đó nổi bật là: Đền

thờ vua Đinh Tiên Hoàng, lăng mộ vua Đinh; đền thờ và lăng mộ vua Lê Đại

Hành; nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ; đền thờ công chúa Phất Kim; miếu

thờ công chúa Phù Dung; đền Trần Quý Minh; phủ Khổng; phủ Đột; động Hoa

Sơn; động Hoa Lư; núi Mã Tiên; bia Cầu Dền; sông Sào Khê; đền Vực Vông…

Khu văn hoá tâm linh núi chùa Bái Đính với chùa Bái Đính cổ (có đền thánh

Nguyễn Minh Không, các hang động thờ Mẫu, thờ Phật, thờ thần Núi…) và khu

chùa Bái Đính mới với 5 toà lớn dọc theo sườn núi. Bảo tháp với chiều cao 100

m, 13 tầng, có thang máy và 72 bậc leo, là nơi trưng bày xá lợi Phật từ Ấn Độ

cũng là một điểm nhấn của khu du lịch tâm linh này.

Quần thể nhà thờ Phát Diệm là kỳ quan Thiên chúa giáo, một công trình

kiến trúc có một không hai ở Việt Nam. Các công trình kiến trúc nguy nga, tráng

lệ nhưng hài hoà giữa truyền thống và hiện đại bao gồm: Ao hồ, Phương Đình,

nhà thờ lớn và 4 nhà thờ ở 2 bên, 3 hang đá nhân tạo. Nhà thờ đá Phát Diệm được

13

thiết kế độc đáo, thể hiện sự giao hòa giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo, cũng là

nét kết hợp văn hóa Đông – Tây đậm nét nhất.

Các di tích văn hoá khác như phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn; đồn Gián

Khẩu; các đền thờ: Trương Hán Siêu, Nguyễn Công Trứ, Triệu Quang Phục, Lý

Quốc Sư, đền Thái Vi, cửa Thần Phù, Cố Viên Lầu…

Các di tích tâm linh Nho giáo: Chùa Bích Động, chùa Nhất Trụ, chùa Đồng

Đắc, chùa Địch Lộng, chùa Bàn Long, chùa Bái Đính, chùa Non Nước…

Các di tích lịch sử, cách mạng: Khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, núi Non

Nước, di tích chiến dịch Hà Nam Ninh…

1.2.3.2. Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng

Khu du lịch vườn Quốc gia Cúc Phương với các loại hình: sinh thái, môi

trường, nghiên cứu khoa học, đa dạng sinh học, khảo cổ học, đêm lửa trại và tìm

hiểu văn hoá Mường…

Khu du lịch Tam Cốc- Bích động với nhiều tuyến du thuyền trên sông với

các điểm hang động, di tích lịch sử.

Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long với các loại hình du lịch trên đầm sinh

thái cảnh quan ngập nước.

Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng với du lịch sinh thái đồng quê

và cảnh quan ven biển.

Các ngọn núi và các hang động đẹp như: núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Non Nước

(núi Thuý), núi Kỳ Lân, động Địch Lộng, động Vân Trình, động Mã Tiên, động

Bích Động, động Tam Giao, động Thiên Tôn, động Tiên, động Sinh Dược là

những điểm hấp dẫn khách du lịch với thời gian tham quan ngắn.

Các hồ nước tự nhiên: Hồ Kỳ Lân, hồ Đồng Chương, Hồ Yên Quang phù

hợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần; hồ Yên Thắng, hồ Đồng thái còn

có thêm loại hình du lịch thể thao.

Các di tích lịch sử- văn hoá và những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trên

chính là món quà của thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất này. Các di tích văn hóa

hữu thể và phi vật thể ấy đã làm nên nét đặc sắc văn hoá Ninh Bình.

14

Ninh Bình còn là vùng đất có vị trí chiến lược trong suốt hàng ngàn năm

dựng nước, giữ nước của dân tộc. Các cuộc hành quân thần tốc vào Nam hay ra

Bắc vẫn âm vang trên mặt đất này. Đây còn là vùng đất rút lui chiến lược để vào

Thanh Hoá của tướng Đô Dương (thời Hai Bà Trưng). Đất phát tích của Đinh Bộ

Lĩnh, là kinh đô của cả nước trong suốt 42 năm. Đất Ninh Bình ken dày vết chân

lịch sử. Kinh đô Hoa Lư với ngót nửa thế kỷ của hai vương triều Đinh - Lê dựng

nền độc lập chính thống. Nơi hoạch định kế sách và phát xuất các đạo hùng binh

năm 981 - 982 phá Tống, bình Chiêm. Lê Đại Hành đã kiến tạo võ công oanh liệt

trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hoa Lư cũng là nơi khai sinh

ra vương triều Lý với áng văn “Chiếu dời đô" lịch sử.

Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diện

mạo đa dạng, phong phú của văn hoá Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu vết văn hoá

của các "tao nhân mặc khách" khi qua vùng sơn thanh, thuỷ tú này. Bao đế vương,

công hầu, khanh tướng danh nhân văn hoá lớn về đây, xếp gương, đề bút, sông

núi hoá thành thi ca! Chỉ nói riêng núi Thuý đã có trên 30 bài thơ, văn khắc vào

và còn đến hàng trăm bài thơ vịnh cảnh của các danh nhân qua các triều đại: Trần

Anh Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,

Phạm Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Cao Bá Quát, Nguyễn khuyến, Phạm

Văn Nghị…Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đó

đã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thu, sáng tạo làm

giàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình.

Đất Ninh Bình không chỉ là “địa linh” mà còn là nơi “nhân kiệt”. Biết bao

danh nhân, danh tướng, danh sỹ sinh ra trên mảnh đất này! Khí thiêng sông núi

quê hương đã hun đúc nên họ. Thời nào Ninh Bình cũng có những nhân tài như:

anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, các danh tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh

Tú, Lưu Cơ, hoàng hậu Dương Vân Nga, Quốc sư Nguyễn Minh Không, nhà thơ

Trương Hán Siêu, bảng nhãn Vũ Duy Thanh, tiến sĩ Ninh Tốn, nhà văn hóa Vũ

Phạm Khải, Phạm Thận Duật…Có thể nói, yếu tố “địa linh”,“nhân kiệt”là nhân

15

tố quan trọng và chủ yếu nhất làm nên gương mặt lịch sử – văn hoá Ninh Bình

qua các thời đại.

1.3. Khái niệm Tục ngữ, Ca dao, Địa danh

1.3.1. Khái niệm về tục ngữ

Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian hình thành, phát triển và tồn tại

trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân.

Về nội dung: Tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao động

sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội, hoặc thể hiện triết lý dân gian

của nhân dân. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản

xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác, theo nhà văn hóa

Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (Xuất bản lần đầu

năm 1955 đến nay đã tái bản nhiều lần) thì “ Tục ngữ là một câu tự nó đã diến đạt

trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có khi

nó là một sự phê phán”[01; 37; 08TLTK]. Như vậy có thể thấy tục ngữ mang tính

trí tuệ cao, bởi nó đúc rút những kinh nghiệm, những điều quan sát được trong tự

nhiên, xã hội, con người, những tri thức từ thực tiễn lao động sản xuất. Được ứng

dụng và kiểm nghiệm nên tục ngữ rất gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày của

nhân dân.

Về hình thức: Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, được diễn đạt bằng

ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ

là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh

hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên

răn. Theo Nguyễn Thị Bích Hà trong cuốn Giáo trình văn học dân gian Việt

Nam, cũng đã đưa ra nhận xét “Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn có

vần, có nhịp, có hình ảnh” [02; 16; 16TLTK]. Như vậy có thể thấy tục ngữ là

những câu hoàn chỉnh, có vần, dễ nhớ, dễ thuộc, đặc điểm này giúp chúng ta dễ

dàng phân biệt tục ngữ với thành ngữ. Bởi cũng theo tác giả Vũ Ngọc Phan trong

cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” “Về hình thức ngữ pháp mỗi thành ngữ

chỉ là một nhóm từ, chưa phải một câu hoàn chỉnh” ”[03; 37; 08TLTK]. Từ những

16

đặc điểm trên chúng ta có thể thấy tục ngữ là một thể loại văn học dân gian rất dễ

nhớ, dễ vận dụng, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân,

Giữa hình thức và nội dung tục ngữ cũng có sự gắn bó chặt chẽ, một câu

tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc

kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình

tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so

sánh, nhân hóa, ẩn dụ...

Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt

nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ

ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục

ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán,

nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán. Các kiểu suy luận:

liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ

phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.

1.3.2. Khái niệm ca dao

Nếu như tục ngữ là một thể loại văn học dân gian ra đời trước ca dao, thiên

về tổng kết những kinh nghiệm về tự nhiên, xã hội thì ca dao lại thiên về đời sống

tình cảm của con người. Như vậy có thể thấy ca dao ra đời khi đời sống xã hội

của con người đã phức tạp hơn. Không chỉ biểu hiện đời sống vật chất, đời sống

tình cảm ca dao còn thể hiện ý thức của con người trong lao động sản xuất, cải tạo

thiên nhiên, kinh tế xã hội và tinh thần đấu tranh chống lại áp bức, cường quyền,

những thói hư tật xấu trong xã hội…Về cơ bản ca dao thể hiện mối quan hệ giữa

con người với con người trong xã hội, mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên…nên ca dao bao giờ cũng thể hiện cái nhìn chủ quan của con người với thế

giới khách quan, đó là cái tôi trữ tình mà chúng ta rất dễ nhận ra qua những sáng

tác dân gian này.

Là thể loại văn học dân gian tồn tại bằng phương thức truyền miệng ca dao

đã được nhiều thế hệ lưu truyền với những dị bản khác nhau. Tuy nhiên ca dao

vẫn giữ được nét mộc mạc, giản dị trong cách thể hiện. Chúng ta có thể bắt gặp

17

những bài ca dao ở thể bốn chữ, năm chữ, bảy chữ…nhưng dễ bắt gặp nhất là thể

sáu – tám (lục bát). Bên cạnh đó ca dao cũng thể hiện nhuần nhị cách nói so sánh

ví von, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, thậm xưng, điệp từ, điệp ngữ… với một hệ thống

thanh điệu phong phú, giàu tính nhạc với những thể phú, tỷ, hứng đó là những

phương pháp nghệ thuật cơ bản cần thiết cho cấu tứ của ca dao.

1.3.3. Khái niệm địa danh

Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi nhận thấy địa danh Ninh Bình

được nghiên cứu dưới góc độ địa lý, lịch sử và được giới thiệu trong các công

trình “Địa chí Ninh Bình” , “Địa chí văn hoá dân gian Ninh Bình”, v.v… những

chỉ dẫn trên đã cung cấp cho luận văn các thông tin về một số địa danh cổ (một

số địa danh nay đã bị mất đi), giải thích nguồn gốc, tên gọi, cùng với đời sống

văn hoá của một số địa danh đó. Qua nghiên cứu các tài liệu có liên quan bước

đầu chúng tôi nhận thấy: Địa danh nói chung hay địa danh Ninh Bình qua tục ngữ,

ca dao nói riêng là tên gọi của những vùng đất, miền quê, tên làng, tên xã, tên núi,

tên sông, tên của các công trình xây dựng…như vậy địa danh còn là đối tượng

nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác như lịch sử, địa lý, dân tộc học, ngôn

ngữ...

Trước hết chúng ta thấy chức năng của địa danh là định danh sự vật do đó

địa danh là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học. Mỗi địa danh là một danh từ

vì vậy khả năng kết hợp cũng như chức năng ngữ pháp trong câu của địa danh về

cơ bản cũng như một danh từ. Địa danh thường là do con người bản địa tạo ra,

nên địa danh gắn chặt với lời ăn, tiếng nói hàng ngày của từng vùng, từng địa

phương. Đến Ninh Bình chúng ta dễ dàng bắt gặp những câu nói như: đi hội

Trường Yên, lễ chùa Bái Đính, con gái La Mai…như vậy địa danh cũng là đối

tượng nghiên cứu của phương ngữ học.

Một nét đáng chú ý nữa về địa danh đó là địa danh còn đánh dấu về một

thời kỳ lịch sử nên nó trở nên vĩnh hằng, bất biến, mỗi địa danh như một “tấm bia

bằng ngôn ngữ” ghi đậm dấu ấn về thời đại nó ra đời như: sông Hoàng Long –

huyện Gia Viễn (gắn liền với truyền thuyết Đinh Bộ Lĩnh và cờ lau tập trận), đền

18

Quán cháo -Tam Điệp (đền Quán Cháo gắn liền với sự tích tiên nữ dâng cháo cho

quân lính Tây Sơn trước giờ xung trận), Cầu Lim- cầu bắc qua sông Vân ở trung

tâm thành phố Ninh Bình (chuyện kể khi xưa cầu được bắc bằng gỗ lim, tên gọi

này còn mãi đến nay)…

1.4. Văn học dân gian Ninh Bình và tục ngữ, ca dao Ninh Bình

1.4.1. Khái quát về văn học dân gian Ninh Bình

1.4.1.1. Thể loại tự sự

Thần thoại

Thần thoại Ninh Bình tập hợp những chuyện kể dân gian về các vị thần,

các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, sư tổ của nghề; phản ánh

quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người...

Thần thoại Ninh Bình bị truyền thuyết hóa, biến tướng trong phật thoại, tiên

thoại, truyện cố tích...

Thần thoại tiêu biểu và phổ biến nhất ở Ninh Bình là thần thoại về ông

Khổng Lồ (Nguyễn Minh Không 1066 – 1141)

Truyền thuyết

Truyền thuyết Ninh Bình kể lại tích các nhân vật lịch sử, giải thích các

nguồn gốc, các phong vật địa phương theo quan niệm, tưởng tượng của người dân.

Truyền thuyết dân gian Ninh Bình mang dấu ấn về vùng đất và con người

Ninh Bình.

Truyện truyền thuyết Ninh Bình ghi đậm công tích của người Ninh Bình

trong việc khai khẩn đất hoang, lập làng, lập ấp... và đặc biệt là truyền thuyết về

các vị vua.

Cổ tích

Truyện cổ tích Ninh Bình phản ánh những xung đột, mâu thuẫn trong gia

đình và xã hội.

Truyện cổ tích Ninh Bình thể hiện ước mơ về một cuộc sống ấm no, hạnh

phúc của nhân dân.

19

Truyện cổ tích Ninh Bình phản ánh triết lý sống, đạo lý làm người và ước

mơ công lý của nhân dân.

Truyện cười

Truyện cười Ninh Bình là hình thức giải trí, đem lại tiếng cười vui trong

cuộc sống thường ngày.

Phê phán những thói hư, tật xấu của con người, lên án các ác, đả kích giai

cấp thống trị trong xã hội phong kiến.

Truyện thơ

Truyện thơ Ninh Bình mang tính tự sự kể về một sự kiện, một hiện tượng

xã hội như Ký sự nhật trình, Kim Sơn sự tích Doanh điền ca...

Truyện thơ viết về đề tài lịch sử, danh nhân văn hóa, nhân vật lịch sử:

Truyện Đinh Tiên Hoàng diễn ca, Thánh Nguyễn...

1.4.1.2. Thể loại trữ tình và luận lý

Ca dao, dân ca: Ca dao, dân ca Ninh Bình giản dị, chất phác như đất và

người Ninh Bình, phản ánh đời sống, tình cảm, tâm hồn của người dân Ninh Bình.

Tục ngữ: có tính chất đúc kết kinh nghiệm về con người, về lao động sản

xuất, đấu tranh xã hội, thiên nhiên, về những sản vật của địa phương Ninh Bình.

1.4.1.3. Khái quát về đặc trưng, đặc điểm của văn học dân gian Ninh Bình

Là một bộ phận không thể tách rời của văn học dân tộc, văn học dân gian

Ninh Bình cũng có đầy đủ những đặc điểm chung của văn học dân gian. Tuy nhiên

được ra đời và phát triển gắn liền với những sinh hoạt văn hóa làng xã của cư dân

nông nghiệp với đa dạng địa hình nên văn học dân gian Ninh Bình cũng mang

màu sắc địa phương khá rõ nét đó là:

* Tính đa dân tộc của văn học dân gian Ninh Bình

Ninh Bình có hai dân tộc chính là người Kinh và người Mường. Tộc người

Mường sinh sống chủ yếu ở một số xã vùng núi huyện Nho Quan như: Thạch

Bình, Xích Thổ, Yên Quang, Văn Phương, Phú Long, Kỳ Phú, Cúc Phương,

Quảng Lạc…Tộc người Kinh chiếm đa phần, phân bố ở các huyện, thành phố còn

lại trong tỉnh. Chính vì vậy văn học của người Kinh chiếm số lượng lớn với nhiều

20

thể loại: Phương ngôn, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện kể dân gian, sân khấu dân

gian,…những sáng tác dân gian của tộc người Kinh phong phú về nội dung và

hình thức thể hiện. Trong khi đó những sáng tác của tộc người Mường cho đến

nay số lượng sưu tầm được chưa nhiều, đáng chú ý là những truyền thuyết kể về

nguồn gốc, sinh tồn của cộng đồng người Mường, điều đặc biệt là mỗi nhóm cộng

đồng người Mường lại có những cách lý giải khác nhau về nguồn gốc, lai lịch của

mình. Dân ca Mường cũng phong phú về hình thức diễn xướng kết hợp với cúng

lễ tiêu biểu là hát nói và hát Sắc Bùa ngoài ra còn có hát Đúm và hát giao duyên

của trai gái Mường mỗi dịp đầu xuân.

*Sự giao lưu văn học dân gian Ninh Bình với văn học dân gian cả nước

Là một bộ phận của văn học dân gian Việt Nam, Văn học dân gian Ninh

Bình cũng mang nét chung của văn học dân gian Việt Nam: do nhân dân lao động

sáng tác, có nhiều thể loại (Truyện cổ dân gian, thơ ca dân gian, nghệ thuật sân

khấu dân gian). Tuy nhiên, văn học dân gian Ninh Bình gắn với thực tiễn của

người Ninh Bình, từ việc đánh dậm, riu tép đến chuyện vương triều, chuyện giặc

dã…Văn học dân gian Ninh Bình được diễn xướng trong những hoàn cảnh cụ thể

của làng xã Ninh Bình. Cũng như văn học dân gian Việt Nam, văn học dân gian

Ninh Bình hướng tới chân, thiện, mỹ, thể hiện truyền thống đạo lí của con người

Ninh Bình nói riêng, con người Việt Nam nói chung trong lao động, đấu tranh

giai cấp và đấu tranh dân tộc.

1.5. Tục ngữ, ca dao Ninh Bình

1.5.1. Thống kê số lượng

Qua các tài liệu khảo sát đã nêu và tư liệu sưu tầm của tác giả luận văn bước

đầu chúng tôi thông kê được số lượng tục ngữ, ca dao địa danh cụ thể:

Thống kê số lượng tục ngữ, ca dao Ninh Bình

21

STT Tư liệu

Số lượng tục ngữ 14 Số lượng ca dao 14 Địa chí Ninh Bình 1

Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình 29 38 2

Ngữ văn Ninh Bình 11 14 3

Tục ngữ, ca dao Yên Mô 37 57 4

Văn học dân gian cội nguồn sức mạnh, 9 21 5 tương lai phát triển

Báo chí văn nghệ Ninh Bình 17 23 6

Tư liệu tác giả luận văn sưu tầm 7 16 7

Tài liệu giảng dạy Đại học Hoa Lư 10 24 8

Ninh Bình qua ca dao, tục ngữ , thành ngữ 115 85 9 và ca vè (chưa xuất bản)

Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam 1 1 10

249 297 Tổng 1

Tổng 2 Loại trừ những câu có nội dung trùng lặp 125 204

Thống kê tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình theo nội dung

STT Nội dung

Số lượng tục ngữ 45 Số lượng ca dao 83 1

6 2 2

23 15 3

27 8 4

5 4 5

5 12 6 Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về đất Ninh Bình. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về các nhân vật lịch sử của nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh - Lê Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về nét đẹp con người của các dòng họ, các nhân vật văn hóa tiêu biểu của Ninh Bình. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu sản vật quê hương. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu nghề nghiệp của địa phương. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu phong tục lễ hội.

22

9 10 7

0 34 8

0 14 9

1 0 10

4 19 11

0 3 12

Tổng 125 204 Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về kinh nghiệm sản xuất. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về tình yêu đôi lứa. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tình cảm vợ chồng. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tình bằng hữu. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tinh thẩn đấu tranh xã hội, tính cạnh tranh “công kích” giữa các địa phương. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời.

1.5.2. Nội dung phản ánh

Qua thống kê cho thấy tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình thể hiện khá

đậm nét đặc trưng của vùng đất và con người Ninh Bình. Cả hai bộ phận tục ngữ

và ca dao địa danh Ninh Bình đều đúc kết những kinh nghiệm về thời tiết và sản

xuất cũng như phản ánh niềm tự hào về những nhân vật lịch sử, sản vật địa phương,

cuộc sống , tình yêu lứa đôi và các quan hệ xã hội của người dân Ninh Bình.

Về tục ngữ địa danh Ninh Bình: Cho đến nay số lượng tục ngữ địa danh Ninh

Bình đã được công bố trong tài liệu: “Địa chí Ninh Bình”; “Địa chí văn hóa dân

gian Ninh Bình”; “Tài liệu Ngữ văn địa phương”;“Tài liệu giảng dạy của Đại

học Hoa Lư” và một số báo, tạp chí …là 125 câu, trong đó tập trung phản ánh

một số lĩnh vực trong cuộc sống thể hiện khá đậm nét đặc trưng của vùng đất và

con người Ninh Bình.

+ Đúc kết kinh nghiệm lao động sản xuất, đấu tranh, xã hội:

+ Thể hiện niềm tự hào về những người con ưu tú, những sản vật quê hương

Về ca dao, địa danh Ninh Bình: Hiện nay số lượng ca dao địa danh được

sưu tầm và công bố trong các tài liệu: “Địa chí Ninh Bình”; “Địa chí văn hóa dân

gian Ninh Bình”; “Ngữ văn địa phương”; “Tài liệu giảng dạy của Đại học Hoa

Lư” và một số báo, tạp chí …là 204 bài, với các nội dung chính sau:

23

+ Ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện niềm tự hào về quê hương:

+ Ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tình yêu lứa đôi, nghĩa vợ tình chồng,

mối quan hệ gia đình, xã hội phong phú.

+ Ca dao địa danh Ninh Bình phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống,

công việc lao động vất vả nặng nhọc một nắng hai sương của người dân Ninh Bình ...

Tiểu kết chương 1

Trong chương I chúng tôi đã nêu lên những nét cơ bản về điều kiện tự nhiên,

xã hội và những nét văn hóa độc đáo của tỉnh Ninh Bình đó là: Ninh Bình là một

tỉnh nhỏ ở phía nam của đồng bằng Bắc Bộ nhưng rất đa dạng về địa hình vừa có

vùng rừng núi, vùng đồng chiêm trũng lại vừa có vùng đồng bằng, ven biển. Sự

đa dạng các vùng địa hình đã làm phong phú hệ động, thực vật, sản vật và đặc biệt

là đời sống văn hóa của nhân dân. Qua các công trình khảo cứu địa chất đã khẳng

định nơi đây con người đã từng sinh sống từ 7.000 đến 12.000 năm trước. Có sự

xuất hiện của con người là xuất hiện một nền văn hóa và trong mạch nguồn văn

hóa đó tục ngữ, ca dao nói chung, tục ngữ, ca dao địa danh nói riêng ra đời và

phát triển đó là sản phẩm trí tuệ, là tiếng nói tình cảm của người dân Ninh Bình

trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống xã hội.

Mảnh đất Ninh Bình - nơi phát tích của hai triều đại Đinh, Tiền Lê và là

nơi khởi nghiệp của triều Lý, gắn liền với sự ra đời và phát triển của kinh đô Hoa

Lư. Kinh đô Hoa Lư tồn tại được 42 năm, trong đó 12 năm đầu là triều Đinh (968-

980), 29 năm kế tiếp là triều Tiền Lê (980-1009) và năm cuối (1009-1010) là triều

Lý.

Ninh Bình là một tỉnh có diện tích không lớn, song vốn được coi là vùng

đất cổ có sự cư trú của con người từ khá sớm, nhưng khi biển lùi xa, Ninh Bình

lại có thêm sự đa dạng sinh học, tôn giáo (sự xuất hiện của xứ đạo Kim Sơn), cùng

với nghề trồng cói, dệt chiếu, trồng rừng ngập mặn và nuôi trồng thủy, hải sản của

cư dân nơi đây...tất cả đã góp phần làm nên nét riêng trong diện mạo văn hóa Ninh

Bình.

24

Mảnh đất Ninh Bình với phong cảnh hữu tình, con người thuần hậu, lịch sử

hào hùng quả đúng là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”. Vùng đất ấy đi vào kho tàng

tục ngữ, ca dao địa danh với tất cả niềm tự hào của người dân Ninh Bình đối với

quê hương, đất nước.

Chương viết đã bước đầu chỉ ra những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và

nét đặc trưng văn hóa của cư dân Ninh Bình, đã khơi mạch nguồn cảm hứng, sáng

tạo cho những người nghệ sỹ dân gian nơi đây làm nên bức tranh văn học dân

gian Ninh Bình nói chung, tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình nói riêng hết sức

phong phú. Các tác phẩm văn học dân gian đó đã trở thành niềm tự hào, nguồn cổ

vũ động viên các thế hệ người con Ninh Bình.

Bên cạnh đó, chương viết cũng đề cập, chỉ rõ các khái niệm công cụ được

sử dụng trong luận văn như tục ngữ, ca dao, địa danh để có được định hướng

trong việc tiếp cận và nghiên cứu về đề tài Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình.

Chương 2

TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH

25

VỀ MẢNH ĐẤT CON NGƯỜI VÀ SẢN VẬT

2.1. Tục ngữ, ca dao địa danh về đất Ninh Bình

Từ lâu, Ninh Bình đã nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh thơ mộng,

quyến rũ và đậm chất văn hóa. Đó là nhà thờ đá Phát Diệm, Tam Cốc, Bích Động

(cảnh quan môi trường giống như Vịnh Hạ Long trên cạn), rừng nguyên sinh Cúc

Phương, khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, suối nước nóng

Kênh Gà và cố đô Hoa Lư gắn liền với tên tuổi vị vua có công dẹp loạn 12 sứ

quân, thống nhất đất nước - Đinh Tiên Hoàng. Đặc biệt danh thắng Tràng An là

quần thể danh thắng kép được UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 2014.

Ai về qua đất Ninh Bình

Mà xem phong cảnh hữu tình nên thơ

Nước non, non nước như mơ

Càng nhìn Dục Thúy càng ngơ ngẩn lòng

[08; 424; 12]

Về với quê hương Ninh Bình, một vùng non nước hữu tình mà ở đó mỗi

ngọn núi, dòng sông đều chứa đựng bao trầm tích văn hóa và đã từ lâu Núi Dục

Thúy (Dục Thúy Sơn, hay còn gọi là núi Non Nước nằm ở bên bờ sông Đáy, phía

bắc thành phố Ninh Bình – Ngã ba sông Đáy với sông Vân) đã trở thành biểu

tượng của mảnh đất này. Cảnh vật Ninh Bình là sự hòa hợp giữa mây trời, sông

núi vừa kỳ thú vừa hữu tình, huyền ảo nên thơ.

Đường vào Tam Cốc đâu xa

Non xanh nước biếc bao la trập trùng

Lô nhô non nước mông lung

Cảnh tiên sa xuống một vùng Hạ Long

[53; 28; 14]

Tam Cốc - Bích Động, còn được biết đến với những cái tên nổi tiếng như

"vịnh Hạ Long trên cạn" hay "Nam thiên đệ nhị động" là một khu du lịch trọng

điểm quốc gia . Toàn khu vực bao gồm hệ thống các hang động núi đá vôi và các

di tích lịch sử liên quan đến Hành cung Vũ Lâm của triều đại nhà Trần nằm chủ

26

yếu ở xã Ninh Hải, Hoa Lư, Ninh Bình. Quần thể danh thắng Tràng An - Tam

Cốc được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt và

đã được tổ chức UNESCO xếp hạng di sản thế giới.

Nói tới cảnh vật Ninh Bình chúng ta không thể không thể không nhắc tới

vẻ đẹp của kinh thành Hoa Lư, nơi vua Đinh đã chọn để đóng Đô từ những ngày

đầu tiên.

Bắc phương đầu núi Thảo Dinh,

Đền thờ Tiên Đế thánh linh một toà;

Có cây cổ thụ rườm rà,

Cuối non lại có ổ gà một thung;

Đẹp thay núi nhỏ đằng đông,

Đá chồng từng tấm như chồng sách cao;

Trời sinh ra tự thuở nào?

Giống như chồng sách Thiên Tào xén xong;

Phương tây một dải sông trong

Triều lên khuya xuống mênh mông trước làng;

Dưới sông trên chợ, quán hàng,

Thuyền buôn, khách bán lại càng vui thay!

Mấy đâu, trời phú cảnh này

[19; 14]

Núi Thảo Dinh, đền thờ Tiên đế (đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng) thuộc kinh

thành Hoa Lư xưa. Hơn 1.000 năm trước đây, năm 968, sau khi b́ nh định 12 sứ

quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước

là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư làm kinh đô. Sở dĩ Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư

để định đô bởi nơi đây có vị trí vô cùng hiểm trở với hệ thống núi đá trùng điệp

làm tường thành, sông bao làm hào để phòng thủ quân sự. Vì thế, Hoa Lư còn

được gọi là “kinh đô đá”. Theo sử sách và tài liệu thì kinh đô Hoa Lư xưa là một

cung điện nguy nga, tráng lệ, được bao bọc bởi những ngọn núi đá hình vòng

cung, cảnh quan kỳ vĩ cùng những hồ, đầm... tạo nên vẻ đẹp vừa có nét duyên

27

dáng, mềm mại, lại vừa có những nét kỳ bí. Tuy nhiên kinh thành Hoa Lư xưa với

thế núi, thế sông rất thuận lợi để người dân buôn bán làm ăn, do vậy mà ở đây

luôn tấp nập, đông vui, trên bến, dưới thuyền. Đó mới thực sự là cảnh “trời phú”.

Ninh Bình – vùng đất cực nam của đồng bằng Bắc bộ nơi lưu giữ biết bao

giá trị văn hóa đặc sắc, ở đây mỗi ngôi đền, ngôi chùa, mỗi ngọn núi, dòng sông

…đều có những nét riêng in đậm trong tâm hồn mỗi người con Ninh Bình, người

dân tự hào về các di tích lịch sử, văn hóa của quê hương. Họ nhắc nhở con cháu

luôn biết tôn tạo và giữ gìn cho mai sau. Đến với vùng quê Gia Viễn chúng ta

chúng ta cảm nhận được niềm tự hào của nhân dân nơi đây về ngôi đền của quê

hương mình qua câu tục ngữ: “Núi Thiệu có đổ, đền Trùng mới siêu” [85; 420;12],

Núi Thiệu tên gọi ngắn gọn của núi Thần Thiệu ở xã Gia Tân huyện Gia Viễn,

bên cạnh sông Hoàng Long. Ngôi đền Trùng được xây dựng từ thế kỷ XVII ở thôn

Tùy Hối, xã Gia Tân nổi tiếng là ngôi đền có kiến trúc đẹp, vững trãi. So sánh

ngôi đền – một công trình kiến trúc nhân tạo với núi Thiệu – một hình ảnh thiên

nhiên vĩnh hằng, bất biến, tác giả dân gian khẳng định sự vững trãi của ngôi đền

trường tồn cùng thời gian. Nhân dân Ninh Bình tự hào vì nơi đây còn lưu giữ một

số “kỷ lục” của địa phương như: “Cờ Điềm, trống Hối, hội La Mai”[29; 421;12].

Cờ thần thờ Thánh Nguyễn, ở làng Điềm Giang (xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn)

là cờ ngũ sắc mỗi chiều dài 5 mét. Trống làng Tùy Hối (xã Gia Tân huyện Gia

Viễn) vừa to, vừa đẹp, đánh kêu vang cả một vùng. Hội đền Thánh Cả làng La

Mai (xã Ninh Giang huyện Hoa Lư) cứ 6 năm mở hội một lần vào ngày 10 tháng

3 âm lịch. Hội rất đông vui, có nhiều trò chơi dân gian, đặc biệt có tế Kỳ phúc

(cầu phúc lành cho dân). Cờ, trống, hội - những giá trị văn hóa đặc sắc còn được

lưu giữ cho đến tận ngày nay. Gia Viễn quê hương của vua Đinh Tiên Hoàng và

đức thánh Nguyễn Minh Không còn được biết đến là một vùng quê non nước hữu

tình, nên thơ.

Ai về Gia Viễn quê tôi,

Non xanh, nước biếc, núi đồi nên thơ;

Hoàng Long nước chảy la đà,

28

Núi Cờ, núi Cả, kênh Gà nổi danh.

[06; 13]

Cũng là vẻ đẹp của núi, sông nhưng vùng quê Gia Viễn lại mang một vẻ

đẹp khác, vẻ đẹp “Sơn thủy hữu tình”. Với lời mời quen thuộc mà chúng ta dễ bắt

gặp trong ca dao: Ai về…tác giả dân gian Ninh Bình đã khéo léo giới thiệu vẻ đẹp

của quê hương mình: Dòng sông Hoàng Long chảy giữa đôi bờ lúa xanh bát ngát.

Núi Cờ, Núi Cả (thuộc xã Gia Thịnh) như tô điểm cho bức tranh đồng quê thêm

sinh động . Dòng kênh Gà (kênh nước nóng chứa khoáng chất có lợi cho sức khỏe

con người) nổi danh cũng là nét độc đáo của vùng quê này.

Xuôi xuống phía nam của tỉnh về với đồng đất Yên Mô chúng ta lại có dịp

chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một miền quê vừa có vẻ đẹp thiên nhiên “bao la hữu

tình” vừa có truyền thống văn học rất đáng trân trọng.

Phượng Trì phong cảnh dễ coi

Chùa Hang, tượng Đá, Núi Voi thần tình

Nhìn xem địa vật, địa linh

Phượng Trì văn học tiếng lành đồn xa

Ai về đồng đất quê ta

Ngắm nhìn phong cảnh bao la hữu tình

[90;13]

Phượng Trì – Côi Trì nay thuộc xã Yên Mỹ huyện Yên Mô - một địa danh

vốn nổi tiếng với chùa Hang, tượng Đá, núi Voi. Được phù sa bồi lắng vùng quê

Yên Mô rất trù phú, tốt tươi, ngoài hai vụ lúa trong năm người dân nơi đây còn

trồng hoa màu, trồng dâu, nuôi tằm ươm tơ dệt lụa. Đây cũng là quê hương của

Vũ Phạm Khải - một nhà sử học, một nhà thơ, nhà văn, một nhà chính trị có tài

năng trên nhiều lĩnh vực. Ông mang tâm hồn và chí hướng của một sĩ phu yêu

nước. Ông đã làm quan trải qua ba triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức và luôn

giữ trọn tấm lòng vì vua, vì nước. Yên Mô cũng còn là quê hương của nhà cách

mạng Phạm Thận Duật (1825 – 1885) người có nhiều đóng góp trong cuộc chiến

đấu chống Thực dân Pháp xâm lược, được người đời tôn vinh và ghi nhớ công

29

lao. Bài ca dao ca ngợi vẻ đẹp của quê hương Yên Mô nơi hội tụ của thiên nhiên

tươi đẹp, truyền thống văn học, khoa bảng nức danh và những người con yêu nước.

Đến với vùng quê Yên Khánh – một vùng quê thuần nông với màu xanh

bát ngát của lúa, ngô và thấp thoáng dưới những dạng tre làng, những bóng cây

cổ thụ những mái đình, mái chùa rêu phong cổ kính cùng với những lễ hội đầu

xuân đậm chất dân gian.

Bầu trời, cảnh phật, non tiên,

Ở làng Yên Vệ có chiền Vệ An;

Chuông kêu rền rĩ đã vang,

Bước sang mồng Bốn thì làng tế Xuân;

Xin Ngài phù hộ cho dân,

Trong làng già trẻ khang an, thọ trường;

Ai ơi gắng sức, gắng công,

Đem lòng trung tín mà trông việc đền;

Ngày sau phúc lộc vững bền,

Con con, cháu cháu giữ nền thảo ngay

[21; 13]

Đã từ lâu đời người dân Yên Khánh đã xây dựng cho mình một đời sống

văn hóa tâm linh rất phong phú. Ở làng nào, vùng nào của huyện cũng có chùa,

chùa ở đây được xây dựng khang trang như Chùa Dầu (Di tích văn hóa được xếp

hạng), chùa Quán Vệ, đền Vua Thày…Bài ca dao nhắc tới chùa Vệ thuộc thôn

Yên Vệ, xã Khánh Phú. Cảnh phật, non tiên chính là vẻ thanh khiết, trang nghiêm

nơi chùa chiền ở vùng quê này. Phủ Yên Khánh xưa nay là huyện Yên Khánh vốn

nổi tiếng về phong cảnh hữu tình, lại thêm có những mái đình, mái chùa rêu phong

cổ kính với nét văn hóa lễ hội đầu xuân cầu cho Quốc thái, dân an mùa màng tươi

tốt con cháu “giữ nền thảo ngay”. Tất cả đã tạo nên nét quê hương bình dị thân

thuộc từ bao đời. Vùng quê ấy cũng sở hữu nhiều “kỷ lục” văn hóa rất đáng tự

hào.

30

“Chiêng Phúc Nhạc, Hạc Yên Ninh, Đình Quảng Phúc”[49; 108; 1] .Trước

đây nhân dân thôn Phúc Nhạc, nay là xã Khánh Nhạc huyện Yên Khánh quyên

góp tiền đúc một chiếc chuông rất to (còn gọi là Bulu), mỗi khi có hội hè lại đem

ra đánh, thanh âm của chiếc chiêng vọng tới cung vua, sợ mắc tội nhân dân vùng

này đem giấu chiếc chiêng đi làm báu vật của làng, tuy nhiên thời Pháp thuộc

chiếc chiêng đã bị thất lạc. Nhân dân Phúc Nhạc tự hào về chiếc chiêng bao nhiêu

thì nhân dân thôn Yên Ninh, nay là thị trấn Yên Ninh tự hào về hai con hạc lớn ở

đình làng bấy nhiêu, ở ngôi đình này đồ thờ là hai con hạc bằng đá, mỗi con cao

2 mét. Đó là đồ thờ truyền thống ở mỗi đình làng Việt Nam. Từ Khánh Nhạc,

Khánh Ninh qua sông Vạc thôn Quảng Phúc có ngôi đình rất to kiến trúc theo lối

phương Đông với ngói mũi, cột, xà bằng gỗ lim chạm trổ tinh vi, bên trong thờ

một vị tướng thời Hùng Vương. Ngày lế tết nhân dân trong vùng thường thắp

hương tưởng niệm, tri ân tổ tiên, dòng tộc. Trải qua năm tháng chiến tranh ngôi

đình đã không còn nữa nhưng trong tâm trí người dân nơi đây các bảo vật văn

hóa, những giá trị tinh thần sẽ mãi mãi trường tồn.

Xuôi về phía đông của tỉnh vẻ đẹp vùng đất mới được mở ra:

Ai về thăm chợ Năm Dân

Kim Sơn vùng biển xa gần nức danh

Cảnh, người đẹp tựa bức tranh

Bộn bề sản vật đua ganh bốn mùa

[11; 14]

Hay:

Kim Sơn đồng đất bao la,

Đồng xanh bát ngát, biển hoà chân mây

[68; 14]

Chợ Năm Dân, đây là chợ sầm uất của vùng kinh tế biển Kim Sơn, nằm ở

ngã ba sông Vạc trung tâm thị trấn Phát Diệm. Chợ Năm Dân đang được đề nghị

UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhìn vào sản vật bộn bề của chợ

Năm Dân chúng ta cảm nhận được cuộc sống no ấm, hạnh phúc của người dân

31

nơi đây. Bức tranh Ninh Bình được tô điểm thêm bằng vẻ đẹp của đồng lúa xanh

bát ngát, đồng cói dặm dài nơi “biển hòa chân mây” của vùng biển Kim Sơn.

2.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về người Ninh Bình

2.2.1. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về các nhân vật lịch sử của nhà

nước Đại Cồ Việt thời Đinh - Lê

Ninh Bình, vùng đất chứa đựng biết bao sự tích huyền thoại và chứng tích lịch

sử. Qua thần tích và thần phả các đình chùa miếu mạo, các đền thờ còn lưu lại,

kết hợp với các sử liệu từ thời dựng nước, người và đất Ninh Bình đã gắn liền với

nhiều sự tích truyền thuyết và huyền thoại. Đó là một vùng đất cổ, có con người

cư trú từ rất sớm. Tục ngữ, ca dao Ninh Bình ghi đậm dấu về nơi phát tích hai

triều đại phong kiến Việt Nam đó là nhà Đinh, tiền Lê và khởi nghiệp của nhà Lý

cũng như những người con kiệt xuất của dân tộc: Quốc sư Nguyễn Minh Không,

Thái sư nhà Lý Tô Hiến Thành…Khảo sát tục ngữ địa danh Ninh Bình chúng tôi

nhận thấy có 9/125 câu tục ngữ, 2/204 câu ca dao thể hiện lòng tự hào của người

dân Ninh Bình về các vị thánh, các bậc đế vương, những người con ưu tú của quê

hương. Người dân Ninh Bình nhất là nhân dân huyện Gia Viễn thường nhắc nhau:

“Đại hữu sinh vương, Điềm Dương (Giang) sinh thánh”[32; 418; 12] Đại Hữu

nay thuộc xã Gia Phương huyện Gia Viễn là quê hương vua Đinh Tiên Hoàng,

còn Điềm Dương (Điềm Giang) nay thuộc xã Gia Thắng là quê hương của Nguyễn

Minh Không, vị Quốc Sư thời Lý. Câu phương ngôn thể hiện sâu sắc niềm tự hào

của nhân dân về một vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Câu tục ngữ có hai vế cân đối

nhau, bổ xung cho nhau làm nổi bật lên hai vùng quê Gia Viễn nơi có Đế Vương,

nơi có Quốc Thánh. Có lẽ trong tình cảm của người dân Ninh Bình nghĩ về nguồn

cội, nghĩ về quá khứ là chúng ta tưởng nhớ Vua Đinh – người có công dẹp loạn

12 xứ quân, thống nhất giang sơn gấm vóc, khơi mở nền phong kiến tập quyền

đầu tiên của đất nước ta.

Cũng với chủ đề trên người dân nơi đây còn có câu: “Nhất đại vi Vương,

vạn đại vị Man phương Tù trưởng”[79; 418; 12] (Một đời làm vua, vạn đời làm

Tù trưởng người Man/Mường), vị vua mà người dân nhắc đến trong câu tục ngữ

32

trên là vua Đinh Tiên Hoàng, cũng là nhắc tới dòng họ Đinh – Dòng họ lớn (trong

bốn dòng họ lớn là Đinh, Quách, Bạch, Hoàng/Hà) và có thế lực nhất của người

Mường (dân tộc Mường định cư nhiều ở vùng Nho Quan – Ninh Bình, Hòa Bình,

Thanh Hóa). Như vậy vua Đinh, dòng họ Đinh một đời làm vua và đời đời làm

Tù trưởng trong cộng đồng người Mường. Cách nói đối lập một đời > < vạn đời,

cách nói so sánh làm vua với làm Tù trưởng như khẳng định vị thế của vua Đinh

cũng như dòng họ Đinh trong cộng đồng người Mường.

Nói tới sự nghiệp thống nhất đất nước của vua Đinh không thể nói tới tổng

Trường Yên và Làng Sọng:

“Yên Khánh: Trường Yên

Thiên Quang: Làng Sọng”

[124; 419; 12]

Câu phương ngôn này như một tổng hợp lại sự nghiệp thống nhất đất nước

của Vua Đinh Tiên Hoàng. Làng Sọng (nơi đây xưa kia có nhiều cây sọng) xưa

thuộc huyện Phụng Hóa, phủ Thiên Quan, năm 1862 đổi thành phủ Nho Quan,

nay là huyện Nho Quan. Đây là địa danh gắn liền với thời kỳ đầu của nghĩa quân

Hoa Lư do Đinh Bộ Lĩnh làm chủ soái. Tổng Trường Yên, trước thuộc huyện Gia

Viễn, năm 1906, thành lập huyện Gia Khánh, Trường Yên thuộc huyện Gia

Khánh, nay là huyện Hoa Lư – nơi vua Đinh chọn đặt làm kinh đô nước Đại Cồ

Việt. Như vậy Làng Sọng là nơi khởi đầu cho sự nghiệp thống nhất đất nước và

Trường Yên là địa danh kết thúc thắng lợi của nghĩa quân Hoa Lư. Bốn địa danh

được nhắc tới trong phương ngôn trên đều nhắc nhớ về vua Đinh Tiên Hoàng,

nghĩa quân Hoa Lư và sứ mệnh dẹp loạn 12 xứ quân, lập nên nhà nước phong kiến

tập quyền đầu tiên của nước ta.

Phương ngôn Ninh Bình còn ghi lai việc thờ tự vua Đinh Tiên Hoàng ở hai

địa phương là Đại Hữu và Đào Ao qua câu: “Đại Hữu làm sao, Đào Ao làm vậy”

[33; 419; 12], Đại Hữu (Đại Hoàng) là quê hương của vua Đinh còn Đào Ao (Đào

Áo/Đào Úc) xưa thuộc tổng Uy Viễn, tức vùng Uy Tế, ngày ngay gồm các xã

Liên Sơn, Gia Phú, Gia Hưng huyện Gia Viễn là nơi Đinh Bộ Lĩnh khi xưa được

33

bầu làm Trưởng, cả hai địa danh trên đều thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, hàng năm

vào ngày 10 tháng 3 âm lịch khi Đại Hữu mở hội, tế lễ thì ở Đào Ao cũng làm

như vậy. Rõ ràng trong tâm thức của nhân dân, mỗi địa danh gắn liền với vua

Đinh đều trở nên liêng liêng và gần gũi. Câu phương ngôn không phải nói về sự

bắt chước của Đào Ao với Đại Hữu mà sự tôn kính cùng hướng về vua Đinh của

hai địa phương này.

Cũng về việc thờ tự vua Đinh Người dân Ninh Bình còn lưu truyền câu tục

ngữ: “Đền Đinh thượng miếu, đền Lê hạ từ” [38; 410; 12], hai địa danh được nhắc

tới trong câu tục ngữ này là làng Yên Thượng (đền thờ vua Đinh), làng Yên Hạ

(đền thờ vua Lê) nay thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư, với việc dùng từ thượng

(trên) đối lập với từ hạ (dưới) tác giả dân gian như khảng định vị thế của vua Đinh

hơn vị thế vua Lê, bởi trong dân gian vẫn coi vua Lê là bầy tôi của vua Đinh. Trên

thực tế đền vua Đinh cũng được xây cất cao hơn đền vua Lê. Không chỉ nói tới

hai ngôi đền thờ hai vị vua mà nhân ta còn nói lên những quan điểm, cảm xúc có

phần phức tạp của mình…

Tưởng nhở công lao của vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại hành hàng

năm nhân ta thường mở hội với nhiều hoạt động tế lễ mang đậm nét văn hoá tâm

linh của nhân nơi đây.

Ai là con cháu Rồng Tiên

Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về

Về thăm đô cũ Đinh - Lê

Non xanh nước biếc bốn bề như tranh

[01; 424;12]

Xưa kia nhân dân thường mở hội Trường Yên vào mùa xuân, có thể là ngày

sinh của Đinh Bộ Lĩnh (15/2 âm lịch), hoặc đầu tháng 3 bắt đầu từ 6/3 đến 10/3

âm lịch (Tương truyền, ngày 10/3 là ngày Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, ngày

8/3 là ngày mất của vua Lê Đại Hành), Lễ hội Hoa Lư đã được xếp hạng là di sản

văn hóa cấp quốc gia và đang được đề nghị nâng tầm tổ chức lễ hội theo nghi thức

cấp nhà nước. Lễ hội Hoa Lư là lễ hội đã có lịch sử lâu đời, phản ánh đậm nét,

34

sinh động về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của đức vua Đinh Tiên Hoàng và

lịch sử Việt Nam qua ba triều đại Đinh, Lê, Lý. Lễ hội Hoa Lư xưa được các

vương triều phong kiến tổ chức trang trọng ở cấp Nhà nước. Hiện nay, lễ hội Hoa

Lư vẫn là lễ hội có tầm ảnh hưởng lớn. Với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ

như thi hát chèo, thi Người đẹp Cố Đô, lễ rước nước từ sông Hoàng Long, tế lễ

tại hai đền thờ vua Đinh và vua Lê, chơi cờ người, kéo chữ…Lễ hội đã góp phần

gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và là một sản phẩm du lịch độc đáo của một vùng

non nước Ninh Bình.

Ninh Bình không chỉ là nơi phát tích của hai vương triều Đinh và tiền Lê,

mảnh đất này còn là quê hương của những bậc thánh nhân. Về vùng đất sinh thánh

tục ngữ có câu: “Điềm Giang Thánh Cả, Điềm Xá Thánh Nhị” [41; 419; 12], để

nói về hai vùng đất liền kế nhau sinh ra hai người con kiệt xuất đó là Nguyễn

Minh Không và Tô Hiến Thành. Điềm Giang là quê của Quốc sư Nguyễn Minh

Không, dân gian gọi là Đức Thánh Cả, còn Điềm xá là quê của Thái sư Tô Hiến

Thành mà dân gian quen gọi là Đức Thánh Nhị. Câu tục ngữ: “Điềm Giang Thánh

Cả, Điềm Xá Thánh Nhị” như nhắc nhở cháu con về công đức của hai vị thánh.

Ngoài ngôi đền thờ đức Thánh Nhị ở Điềm Xá, Thái sư Tô hiến Thành còn được

thờ ở rất nhiều ngôi đình nhý: tại các di tích đền Thánh Tô, đình Trùng Hạ, đình

Vân Thị, đình Trùng Thượng thuộc huyện Gia Viễn. Tuy nhiên hai ngôi đến được

nhắc tới trong câu tục ngữ vừa thể hiện sự tri ân của con cháu với các bậc tiền

nhân lại vừa gợi cho chúng ta tới một câu chuyện trong quá khứ đó là sinh thời

thân phụ và thân mẫu của Tô Hiến Thành về đền đức Thánh Nguyễn cầu tự sau

đó sinh ra Tô Hiến Thành. Hai ngôi đền thờ hai vị thánh của quê hương như là

một sự nối tiếp giữa các thế hệ những con người tài, đức trên mảnh đất “Địa linh

nhân kiệt” này.

Như vậy có thể thấy rằng khi nhắc tới các nhân vật lịch sử tục ngữ, ca dao

địa danh Ninh Bình đã tập trung làm nổi bật công lao của các bậc Ðế Vương, các

bậc Quốc Thánh, cũng như lòng biết ơn của nhân dân ta đối với các bậc tiền nhân

35

– những người con của quê hương đã khơi mở nhà nước phong kiến tập quyền

đầu tiên trên đất nước ta.

2.2.1. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về nét đẹp con người các dòng họ,

các nhân vật văn hóa tiêu biểu của Ninh Bình

Để xứng đáng với cha ông trên mảnh đất Cố Đô nghìn năm văn hiến, nhân

Ninh Bình đã phát huy truyền thống, tạo dựng và gìn giữ một phong cách sống

giản dị, thanh cao :

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

[25; 425;12]

Từ thế kỷ IX, thời thuộc Đường vùng đất Ninh Bình đã có tên châu Trường

Yên đọc là Tràng An (phiên âm của người dịch). Năm 1010, Lý Công Uẩn dời

đô từ Hoa Lư ra thành Đại La - Thăng Long, đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An.

Không biết từ bao giờ hoa nhài là một loài hoa giản dị, mộc mạc, với sắc trắng

ngần. Nó không lộng lẫy kiêu sa như hoa hồng, và cũng không rực rỡ như hoa

phong lan. Nhưng sắc trắng của hoa vừa gợi lên sự tinh khiết, thanh cao vừa gợi

sự kín đáo, dịu dàng của hương thơm, thoang thoảng, nhưng lâu bền. Còn nói về

lối sống người Tràng An thì rất tao nhã, thanh cao, cử chỉ rất văn minh, lịch sự.

So ánh vẻ đẹp của hoa nhài với phong cách sống thanh lịch của người Tràng An

giúp chúng ta thấy được nét riêng trong lối sống đã trở thành bản sắc; dù có đi

xuôi về ngược, vào Nam ra Bắc, bản sắc đó cũng không thay đổi. Dù ở đâu nguời

ta vẫn có thể nhận ra người dân Cố Đô, cũng như người ta nhận ra hương nhài

giữa “rừng hương”, ở đất kinh kì này, phụ nữ thì trang phục thanh nhã, dáng đi

nhẹ nhàng, ăn nói dịu dàng, lời lẽ giản dị mà lịch sự, nổi tiếng cả nước về vẻ xinh

tươi, đoan trang dịu hiền mà vẫn lanh lợi tinh anh. Người đàn ông thì thông minh,

nhạy bén trong giao tiếp lịch sự với những người khác giới và cũng có một sự ưa

nhìn không kém.

Cùng với cách nói so sánh như trên, ca dao Ninh Bình còn có câu:

Chẳng xinh cũng gái Kim Sơn,

36

Chẳng ngon cũng thể là cơm gạo mùa

[26; 13]

Hay:

Ai về Quy Hậu quê tôi,

Bát cơm thì trắng, bát rươi thì đầy;

Con gái má đỏ hây hây,

Ruộng đồng cũng giỏi, dệt may cũng tài

[09;13]

Con gái vùng quê Kim Sơn là những người con gái rất xinh đẹp, đó như

một lẽ tự nhiên vậy. Con gái Kim Sơn được sống trong không khí trong lành của

vùng đồng bằng ven biển, nắng gió biển khơi, cộng với việc chăm chỉ cấy cày,

giỏi trồng cói dệt chiếu , làm muối nên họ có vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của

những con người lao động. Gạo mùa (được gieo trồng từ tháng 5,6 thu hoạch

tháng 9,10) là thứ gạo làm ra từ lúa vụ mùa, có thời gian sinh trưởng dài ngày, tuy

năng xuất không cao nhưng chất lượng lại rất dẻo và thơm ngon. Cơm gạo mùa

ngon, con gái Kim Sơn thì xinh đẹp đó như là một lẽ tự nhiên vậy.

Nói đến vẻ đẹp của con người Ninh Bình, tục ngữ, ca dao địa danh còn nói

tới vẻ đẹp tâm hồn của những người con gái, siêng năng, đảm đang, tháo vát vì

chồng vì con.

Hỡi cô kéo vó bên đồng

Cô đi lấy chồng vó lại để không

Lấy chồng em vẫn vó vồng

Được tôm được tép nuôi chồng nuôi con

[71; 426; 09]

Người con được nói tới trong bài ca dao trên ở vùng quê Gia Viễn, Ninh

Bình đó là những cô gái vừa đảm đang, tháo vát vừa giầu tình yêu thương chồng,

con. Lời đối đáp của cô vừa thể hiện tài “ứng khẩu” nhưng cũng thể hiện được

bản tính hay lam hay làm của những phụ nữ nơi vùng đồng chiêm trũng.

37

Đến với mọi miền quê Ninh Bình nét đẹp thanh lịch, dịu dàng còn được thể

hiện rõ hơn ở những chàng trai, cô gái không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết, họ

có thể là những chàng trai, cô gái đất kinh kỳ Hoa Lư nhưng cũng có thể là những

chàng trai, cô gái nơi thôn quê, song tất cả đã tạo nên một phong cách sống lịch

lãm đầy bản sắc. Tục ngữ Ninh Bình có câu: “Trai Trung Trữ, nữ Trường

Yên”[104; 422; 12],“Con gái La Mai, bánh gai Cam Giá ’’[28;13], “Bánh giầy

nếp cái, con gái họ Ngô”[04; 422; 12], là để minh chứng cho nét duyên dáng,

đáng yêu của những con người nơi đây. Con trai làng Trung Trữ (nay tuộc xã

Ninh Giang huyện Hoa Lư) có tiếng đẹp trai, giỏi giang. Con gái Trường Yên

(nay là xã Trường Yên huyện Hoa Lư) nổi tiếng xinh đẹp, giỏi giang khéo léo.

Con gái làng La Mai (nay thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư) có tiếng là xinh

đẹp nết na. Bánh gai làng Cam Giá (nay thuộc phường Ninh Khánh, thành phố

Ninh Bình) nổi tiếng thơm ngon. Bánh dày nếp cái thì dẻo ngon, con gái họ Ngô

theo quan niệm dân gian thì xinh đẹp, nết na, chiều chồng. (họ Ngô dòng họ lớn

ở Yên Mô, và Hoa Lư Ninh Bình)

Không chỉ nổi bật với vẻ thanh lịch, dịu dàng, người dân Ninh Bình còn

toát lên vẻ đẹp của trí tuệ, bởi nơi đây còn là một miền có nhiều người học hành

giỏi giang đỗ đạt, làm quan to, nhân dân Ninh Bình còn lưu truyền mãi câu tục

ngữ: “Sinh đồ họ Tống, hương cống họ Bùi”[97; 31; 14], như một niềm tự hào về

truyền thống hiếu học của con người nơi đây. Từ thời hậu Lê ở làng La Mai, nay

thuộc xã Ninh giang huyện Hoa Lư có nhiều người học hành đỗ đạt, dòng họ Tống

có nhiều người đỗ Sinh đồ (tức Tú tài thời Nguyễn), dòng họ Bùi có nhiều người

đỗ Hương cống (tức Cử nhân thời Nguyễn). Như vậy ở trong một làng mà có tới

hai dòng họ đỗ đạt, thành danh. Câu tục ngữ như một lời nhắc nhở con cháu noi

gương các bậc tiền nhân, phát huy truyền thống dòng họ học hành chăm chỉ, góp

phần làm rạng danh quê hương, dòng tộc.

Nối tiếp dòng họ Tống, dòng họ Bùi ở làng La mai, làng Địch Lộng thuộc

xã Gia Thanh huyện Gia Viễn cũng là nơi có truyền thống hiếu học, tục ngữ có

câu: “Địch Lộng Tiến sĩ, Đoan Vĩ Quận công”[40; 420; 12], là khẳng định Địch

38

Lộng nay thuộc xã Gia Thanh huyện Gia Viễn có nhiều người đỗ Tiến Sĩ, Đoan

Vĩ nay thuộc xã Thanh Hải huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam nơi có nhiều người

làm tới chức Quận Công. Cách nói so sánh, ví von hai làng của hai tỉnh giáp nhau

như thượng tôn tinh thần thượng văn, thượng võ của hai địa phương này.

Một nét đẹp văn hóa khác mà nhân dân vùng Yên Khánh còn lưu truyền

cho đến ngày nay đó là truyền thống văn sách của người dân tổng Bồng Hải xưa:

“Văn Bồng Hải, Phú Bái Dương, Kinh nghĩa Tử Ô”[125; 109; 01]. Ngày xưa văn

sách, thơ phú, kinh nghĩa là ba thể văn dùng trong nhà trường, các sĩ tử phải vượt

qua các bài thi này mới được trúng cách trong các kỳ thi. Trong các quyển thi

được chép lại để các nho sinh tham khảo thấy nổi bật các bài văn sách của người

Bồng Hải (tổng Bồng Hải thuộc huyện Yên Khánh ngày nay), kinh nghĩa của

người Tử Ô (Thanh Biện – Hải Dương) và thơ phú của quan nghè Bái Dương

(Nam Định). Văn sách là loại văn có yêu cầu cao hơn. Người làm bài văn sách

phải có kiến thức sâu rộng. Câu tục ngữ: “Văn Bồng Hải, Phú Bái Dương, Kinh

nghĩa Tử Ô”.Thể hiện niềm tự hào của người dân Bồng Hải về sự thông minh,

hiểu biết sâu rộng, thông hiểu thời sự, kinh sử của các nho sinh xưa, văn chương

của họ có thể so sánh được với tài thơ phú , kinh nghĩa của của Xứ Đông và vùng

Nam Định nơi vốn có truyền thống hiếu học.

Những ông quan Lang của tỉnh thời xưa cũng được nhắc tới với những cung

bậc cảm xúc phức tạp: “Quan Lang tỉnh Ninh, một mình một khoảnh”[94; 419;

12], ngày xưa khi đường lên các bản Mường thuộc vùng Thiên Quang nay là Nho

Quan rất khó khăn cách trở. Các quan phủ, quan huyện thường ít lui tới. Những

vùng đó phó mặc cho các quan Lang địa phương cai trị. Bởi vậy mỗi vị quan như

một ông vua của vùng đó, một mình một khoảnh đất trời cai trị nhân dân. Khi nói

tới các ông quan lang tỉnh Ninh nhân dân ta để ngỏ lời nhận xét: Quan Lang tỉnh

Ninh, một mình một khoảnh thì tốt, hay thường xuyên được kiểm tra của các quan

phủ, quan huyện thì tốt hơn…

Những tên làng, tên xã được nhắc đến trong những câu phương ngôn Ninh

Bình còn là niềm tự hào của người dân địa phương về nơi phát tích các vĩ nhân:

39

“Nhất Phùng, nhì Vệ, thứ ba Duệ Đồng/Nhuệ Đông”[83; 420; 12], Ba địa danh được

nhắc tới trong câu tục ngữ là làng Phùng Thiện nay là xã Khánh Tiên, làng Vệ nay

là xã Khánh Phú huyện Yên Khánh, làng Nhuệ Đồng nay xã Yên Thắng huyện Yên

Mô là những nơi cảnh thanh, người lịch. Khí hậu thuận hòa, phong tục thuần hậu, có

nhiều ruộng cấy, trâu cày, nhiều người có công giúp dân, giúp nước.

Qua những câu phương ngôn trên tác giả dân gian Ninh Bình không chỉ làm

nổi bật sự linh thiêng của một vùng đất “Địa linh nhân kiệt” mà còn gợi mở cho

chúng ta về vẻ đẹp trong sáng, thanh lịch, dịu dàng của người dân đất Cố Đô.

2.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu sản vật, nghề nghiệp và

phong tục.

2.3.1. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu về sản vật quê hương

Ninh Bình là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi có đủ 3 miền địa hình: vùng

ven biển, đồng bằng và rừng núi chính vì thế sản vật Ninh Bình rất phong phú và

đi liền với nghệ thuật ẩm thực của người dân Ninh Bình.

Tái dê chấm với tương gừng,

Rượu tiết cạn chén xin đừng quê nhau

[95;13]

Có thể nói món “tái dê, rượu tiết” là sản vật nổi tiếng của Ninh Bình. Do

được chăn thả trên núi, chạy nhảy nhiều, thịt dê ở đây săn chắc, ít mỡ và có vị

thơm ngon hơn dê nuôi ở các vùng khác. Trong các món ấy, dê tái chanh được

xếp đầu bảng. Công thức chế biến thịt dê tái chanh không quá khó, nhưng phải đủ

vị, đúng kiểu mới ngon. Trước hết, thịt dê được hấp lá sả đến khi chín tái, lấy ra

thái mỏng. Sả thái nhỏ, nước chanh, bột ngọt, lá chanh, gừng, ớt tươi thái nhỏ,

vừng rang giã dập rồi trộn đều tất cả với thịt đã thái thành dê tái chanh. Ăn kèm

với tái dê thường có chuối xanh thái lát, khế chua, lá mơ, rau thơm, sả... Và một

thứ không thể thiếu đó là nước tương để chấm, muốn nước tương ngon thì cho

thêm gừng và ít đường vào. Thông thường tái dê được gói trong lá sung để tạo vị

bùi, vì vậy, món ăn này vừa có vị bùi, vị chát, vừa thơm ngọt.Người ta cũng cho

rằng chỉ có tương bần Hưng Yên mới “xứng” với tái dê Ninh Bình. Quả đúng thế,

40

khi chấm với tương bần Hưng Yên chúng ta sẽ cảm nhận được hết độ ngon của

món ăn này. Lời dặn dò của nhân vật trữ tình trong bài ca dao “Rượu tiết cạn chén

xin đừng quên nhau” như khẳng định về một đặc sản nổi tiếng trên vùng đất Cố

đô.

Cùng với món tái dê – sản vật nổi tiếng còn có đặc sản nem chua Yên Mạc

cũng được nhiều nơi biết đến với những hương vị rất riêng.

- Yên Mạc có món nem chua

Thơm ngon nổi tiếng đến vua cũng thèm

- Yên Mạc đặc sản nem chua

Tiệc tùng đình đám thường mua về dùng

[109;28;14]

Yên Mạc là một xã miền núi nằm ở phía nam huyện Yên Mô, Ninh Bình.

Địa phương này được biết tới bởi món nem chua nổi tiếng. Đầu tiên phải chọn

nguyên liệu làm nem chua, đó là những miếng thịt ngon nhất ở phần đùi, mông,

hoặc ở phần trên dọc theo sống lưng cho phần thịt thăn ngon nhất. Với loại thịt

này khi làm sẽ cho ra những chiếc nem chua có độ tơi, khô, dẻo thơm độc đáo.

Sau khi chọn được thịt nạc vừa ý, người dân ở đây thái mỏng thớ ngang rồi cho

vào cối giã nhuyễn. Đặc biệt, trong nem sẽ được trộn một ít sợi bì lợn ở một tỉ lệ

thích hợp nhất, những sợi bì này được thái mỏng tạo nên độ kết dính với thịt nạc

làm nên miếng nem màu hồng rất hấp dẫn.Một bí quyết khác, với người dân ở đây

họ dùng lá ổi để làm lớp lá cuốn trong cùng nên cho vị chát, bùi rất đặc trưng. Sau

đó, ở ngoài là một lớp lá chuối tươi rồi đóng rất chắc và kín để nem lên men chua

và bảo quản dài lâu.Từ từ bóc lớp lá chuối bóng bẩy màu xanh tươi sẽ hiện ra

chiếc nem màu đỏ hồng bắt mắt, vị thơm chua chua xông lên tận mũi khó cầm

lòng được. Nem chua Yên Mạc được ăn kèm với lá ổi, rau thơm, lá sung và chén

nước mắm chanh, tỏi, ớt. Nem chua Yên Mạc đã trở thành một sản vật độc đáo

của vùng đất Ninh Bình, chẳng thế mà nó đã đi vào ca dao ở vùng đất này:

Nem Yên Mạc níu chân người

Rượu bầu thơ túi một đời tìm nhau

41

[109;28;14]

Về với vùng đất Ninh Bình đặc biệt là trung tâm của tỉnh, nơi có sông Vân,

núi Thúy chúng ta sẽ thưởng thức vị trà đặc biệt được làm từ một loài hoa.

Người về Non Nước quê ta

Hương trà kim cúc đậm đà khó quên

[80; 427;12]

Trà Kim Cúc được làm từ một loại hoa cúc vàng nổi tiếng vừa thơm ngon

vừa có giá trị chữa bệnh mọc trên núi Non Nước (nay thuộc thành phố Ninh Bình).

Tương truyền loài hoa này do danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu trồng. Trà hoa

cúc hương vị đậm đà, thưởng thức trà chúng ta như cảm nhận hương vị của thảo

mộc tự nhiên được chắt lọc tinh túy từ nắng gió trên núi cao, cảm nhận được sự

chăm chút tỷ mỷ của danh nhân cùng nét thưởng trà thanh cao của người dân

Tràng An thanh lịch.

Không chỉ có vị trà kim cúc thơm ngon, ẩm thực Ninh Bình còn được biết

tới vị trà xanh Tam Điệp với cách thưởng thức rất dân dã «Khôn uống chè Trại,

dại uống chè Me, mẹ bảo không nghe uống chè Bồng Lạng » ; « Khôn uống chè

trại, dại uống chè Đằng, bố bảo lằng nhằng, uống chè Bồng Lạng »[57; 421;12],

chè Ba Trại thộc xã Quang Sơn (Quang Sỏi), Tam Điệp được trồng trên vùng đất

đồi nên có hương vị rất đặc trưng. Người dân uống nước chè bằng bát và thưởng

thức cùng với khoai lang luộc. Chất quê, hồn quê như hòa quyện cùng bát nước

chè xanh sóng sánh. Chè Me là chè được trồng ở các xã : Gia Vượng, Gia Vân,

Liên Sơn, huyện Gia Viễn, đây là vùng đất bạc màu, nghèo dinh dưỡng, chất đất

không phù hợp nên chè uống không ngon, có vị chát, dân gian không ưa dùng.

Chè Bồng Lạng thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam uống chát, chất lượng

không bằng chè Me Gia Viễn. Qua cách nói so sánh trên tác giả đề cao chè Ba

Trại Tam Điệp nổi tiếng từ bao đời. Chè Ba Trại thuộc xã Quang Sơn (Quang Sỏi)

nổi tiếng thơm ngon hương vị đậm đà. Chè bán chợ Đằng, trồng ở đồi Tràng Khê

thuộc xã Yên Đồng lá to, dày trông thô kệch, nấu nước giếng đồng uống vào mùi

vị chan chát nên người ta ít mua. Chè Bồng Lạng đất Ba Sao tỉnh Hà Nam lá to,

42

dày, xanh tốt quanh năm, nấu nước có màu xanh mông mốc, uống vào có vị ngai

ngái.

Vị chè ngon không chỉ được trồng trên vùng đất thích hợp mà còn phải có

nguồn nước ngọt ngon, trong mát. Chè Núi Quéo (Yên Mô) được nấu với nước

giếng làng Me là một “đặc sản” của vùng này. “Nước giếng Me, chè Núi Quéo,

kẹo Bình Hào” [87; 421;12]. Giếng Me ở phía đông làng Quảng Thượng, xã Yên

Thắng, huyện Yên Mô là giếng nước tự nhiên chảy từ trong lòng núi ra rất trong,

mát, và không bao giờ cạn. Núi Quéo cũng thuộc xã Yên Thắng, chè trồng ở núi

này có tiếng thõm ngon, lại pha với nước Giếng Me lại càng xanh, vị đậm đà.

Tương truyền người dân nơi đây đã dâng tiến vua Quang Trung thứ nước uống

thơm ngon này khi nhà vua dừng chân ở Tam Ðiệp trên đường tiến quân ra bắc

đánh giặc Thanh xâm lược vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789. Bình Hào cũng thuộc

xã Yên Thắng ở đây có nghề nấu kẹo lạc bằng mật mía ăn rất ngon, thơm, vị khó

quên.

Nước chè xanh Tam Điệp, chè xanh Núi Quéo được thưởng thức cùng với

khoai Hoàng Long là một thức quà quê quen thuộc:

Trăng rằm đã tỏ lại tròn

Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi

[107; 104;02]

Phủ Hoàng Long xưa nay là huyện Nho Quan có giống khoai lang dây tím,

ruột vàng ăn rất thơm ngon. Thuộc loại hình cây dài trung bình, lá già xanh tím ,

gân lá tím, mặt dưới lá tím, lá hình trái tim, củ hồng nhạt , ruột vàng đậm, bở trung

bình, độ ngọt khá. Thời gian sinh trưởng ngắn, vụ đông 100 ngày, vụ xuân 120

ngày. Năng suất bình quân 8-10 tấn/ha , cao 15 tấn/ha. Khoai lang Hoàng Long là

một sản vật được yêu thích ở Ninh Bình.

Ninh Bình trước đây là một vùng quê thuần nông, nên những sản vật Ninh

Bình đều là sản phầm của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Sản phầm vải lụa tơ

tằm , chiếu hoa (dệt từ cói) là sản vật kết tinh bao công sức, sự khéo léo của người

phụ nữ vùng quê nơi đây:

Chiêú Bồng Hải, vải Yên Liêu

43

Con nên mua lấy chớ điều chê bai

[27; 426;12]

Tổng Bồng Hải của huyện Yên Khánh xưa gồm các xã : Khánh Thiện,

Khánh Cường, Khánh Trung, Khánh Công, Khánh Thành nổi tiếng với sản phẩm

chiếu hoa, chiếu ở đây dày và bền đẹp, hoa văn nhã nhặn. Thôn Yên Liêu thuộc

xã Khánh Thịnh (trước kia thuộc huyện Yên Khánh từ tháng 1 năm 1965 đến nay

thuộc huyện Yên Mô) nổi tiếng với sản phẩm vải lụa tơ tằm. Những sản vật này

thường có trong những dịp quan trong như cưới hỏi, quà tặng…

Khi biển đã lùi xa (mỗi năm từ 100 đến 120 m), huyện Kim Sơn được thành

lập, chúng ta lại có thêm sản phẩm chiếu cói Kim Sơn.

Anh về mua chiếu Kim Sơn,

Mua chăn Gia Khánh thành hôn em về

[16;13]

Sản phẩm chiếu cói Kim Sơn – Ninh Bình hiện nay đã và đang là mặt hàng

xuất khẩu sang các nước Mỹ, Nhật, Châu Âu, và rất được yêu thích vì sản phẩm

bền, đẹp ,tiện sử dụng, và thân thiện với môi trường vì chiếu được dệt từ nguyên

liệu cói tự nhiên. Cùng với chiếu hoa Bồng Hải, chiếu Kim Sơn đã làm phong phú

thêm mặt hàng chiếu cói Ninh Bình – một sản vật gắn liền với đời sống tinh thần

của nhân dân ta.

Bên cạnh những sản vật nổi tiếng Ninh Bình cũng có những sản vật hết sức

bình dị gắn liền với những địa danh làng xã mà mỗi khi nhắc đến gợi cho chúng

nhiều cảm xúc.

Muốn ăn cơm ngon, lấy con bà mót

Muốn ăn mật ngọt, lấy vợ Bình Hào

Muốn ăn khoai ao, lấy chồng làng Khẩn

[74; 423;12]

Ngày xưa ở vùng đồng chiêm trũng chỉ cấy được một vụ lúa tháng năm (vụ

chiêm). Sau khi gặt được một thời gian gốc rạ lại nẩy lên cây lúa mới vẫn cho

bông dân gian quen gọi là lúa dài. Người dân đi gặt mót loại lúa này về. Gạo lúa

44

dài nấu cơm dẻo và ngon. Như vậy lấy con bà mót sẽ được ăn cơm gạo lúa dài rất

ngon miệng. Bình Hào thuộc xã Yên Thắng huyện Yên Mô có nghề kéo mật mía,

mật trong và sạch. Khoai lang làng Khẩn xã Yên Thắng huyện Yên Mô bở, thơm

nổi tiếng trong vùng.

Tre mả Hóa, cá Đồng La, mạ Cây Đa, cà Vườn Lão

[110; 423;12]

Các địa danh: Mả Hóa, Đồng La, Cây Đa, Vườn Lão đều thuộc xã Yên

Thắng huyện Yên Mô. Mả Hóa có loại tre cây thẳng, dóng dài và cứng. Cánh đồng

La có nhiều cá. Ruộng Cây Đa gieo mạ rất tốt, mạ xanh, dảnh đều. Vườn Lão có

loại cà quả to, ăn giòn và ngon.

Như vậy có thể thấy sản vật Ninh Bình được giới thiệu qua tục ngữ, ca dao

là những sản vật nông nghiệp quen thuộc, gắn liền với đời sống sản xuất và sinh

hoạt hàng ngày của người dân. Những sản vật dùng trong ẩm thực như tái dê Cô

Đô, nem chua Yên Mạc, trà hoa cúc trên Núi Thuý …hay sản vật mang giá trị tinh

thần như vải Yên Liêu, chiếu Bồng Hải, chiếu Kim Sơn…đều là thành quả lao

động một nắng hai sương và sự khéo léo, tài hoa cùng những bí quyết riêng của

nhân dân Ninh Bình trong quá trình tạo lập cuộc sống xây dựng xây quê hương,

đất nước.

2.3.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu nghề nghiệp của địa phương

Ninh Bình là một vùng đất thuần nông, ngoài sản xuất nông nghiệp người

dân Ninh Bình còn có các nghề phụ để tăng thêm thu nhập lúc nông nhàn, tuy

nhiên có những làng nghề được phát triển và sau này trở thành những làng nghề

truyền thống được nhân dân cả nước biết đến.

Ai qua đồng bể mà xem

Có về nơi ấy với anh thì về

Bình Hải có cây bồ đề

Có sông tắm mát có nghề dao bay

Nghề ngõa cổ truyền đến nay

Đắp nghê, đắp phượng, đắp cây, đắp người

45

Đắp lân, rồng cũng tuyệt vời

Để rồi khắp chốn người người đều khen

[03; 120;01]

Những người dân thôn Thôn Bình Hải nay thuộc xã Yên Nhân huyện Yên

Mô đã từ lâu đời làm nghề thợ xây, nhưng nhờ học hỏi, sáng tạo và khéo léo họ

đã làm nên những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Trong các công trình kiến trúc

như đình, chùa, nhà thờ…đều có sự hiện diện khéo léo bàn tay người thợ. Tỷ mỷ,

kiên trì , giầu sáng tạo và tưởng tượng người thợ nề (thợ xây) đã làm sống động

những linh vật góp phần làm phong phú đời sống tâm linh của nhân dân ta. Với

cách nói mời mọc tình tứ quen thuộc trong ca dao truyền thống “Ai qua…mà

xem”; “Có về…thì về” bài ca dao đã đưa chúng ta về với một miền quê mà ở đó

có những nghệ nhân khéo léo tài hoa xây dựng bao công trình, làm đẹp cho đời.

Cũng trong xây dựng nhà cửa, chùa chiền, đình đền…cùng với người thợ

xây người thợ mộc luôn ở vị trí cao bởi vì trong các công trình kiến trúc xưa

thường phải sử dụng nhiều gỗ để làm khung nhà, cửa và các vật dụng thờ cúng,

sinh hoạt…Bằng sự chăm chỉ, trí thông minh người dân làng Phúc Lộc, Ninh

Phong, thành phố Ninh Bình đã cho ra đời những sản phẩm mộc nổi tiếng “Đồ gỗ

Phúc Lộc, Vải mộc La Mai” [43; 13]. Làng mộc Phúc Lộc nằm ở phía đông nam

thành phố Ninh Bình, gần quốc lộ 10 và tuyến đường nối cảng Ninh Phúc. Làng

Phúc Lộc có 4 phố: Phố Phúc Lộc, Phố Phong Lộc, Phố Đa Lộc, Phúc Lâm và

xóm Mơ. Hiện nay khu vực làng nghề đã được xây dựng tại vị trí giao cắt giữa

quốc lộ 1A với quốc lộ 35 (đường nối cảng Ninh Phúc) Làng nghề mộc Phúc Lộc

hiện có tới 400 người làm nghề sản xuất đồ mộc và khoảng 200 người lao động

phụ. Sản phẩm làng nghề Phúc Lộc đa dạng các loại đồ gỗ cao cấp, cầu kỳ, sang

trọng như: tủ chè, sập gụ, sập lim, tạc tượng, chạm trổ hoa văn các loại… Làng

mộc Phúc Lộc Ninh Bình được xếp vào danh sách 50 làng nghề truyền thống tiêu

biểu nhất Việt Nam.

46

Ninh Bình là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi có nhiều núi đá vôi, người

dân địa phương ở đây đã biết tận dụng đá vôi trong sản xuất vật liệu xây dựng và

sản xuất đá mỹ nghệ.

Ai về Xuân Vũ Ninh Vân

Làng nghề chạm đá xa gần nức danh

[13; 48;07]

Xuân Vũ thuộc xã Ninh Vân, huyện Hoa lư, tỉnh Ninh Bình, là một làng

nghề chạm khắc đá nổi tiếng và độc đáo trong và ngoài tỉnh. Nghề chạm khắc đá

ở đây có từ rất lâu đời, qua đôi bàn tay của biết bao thế hệ nghệ nhân , cùng với

những biến cải thăng trầm của lịch sử. Sản phẩm được tạo nên bằng đá từ nơi đây,

nếu nhìn ở góc độ văn hoá, chính là sự hoá thân của thiên nhiên trong môi trường

sinh hoạt của con người. Khác với những làng đá nổi tiếng khác, nét độc đáo của

làng đá Ninh Vân chính là ở các sản phẩm đá mỹ nghệ được chế tác hoành tráng

trên các công trình lớn như: đình, chùa, lăng mộ, tượng đài, phù điêu... Theo các

cụ cao niên trong làng kể lại, xưa kia, nơi đây đã nổi tiếng với nghề làm tượng đá

cho Kinh thành và đền chùa ở Hoa Lư, từ thời vua Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980

- 1009). Những người dân làng nghề cũng đã từng tới Thăng Long, theo Vua Lý

Thái Tổ sinh cơ lập nghiệp, tạo nên những bức tượng đá, thành quách và chùa chiền

từ thời Lý (1010 - 1225) qua thời Trần (1225 - 1400).

Cũng như bao miền quê khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nghề trồng dâu,

nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải cũng khá phát triển.

Em là con gái đồng chiêm

Gieo mạ câý lúa lại thêm trồng màu

Ươm tơ dệt vải nhuộm nâu

May áo bền chắc, theo trâu cày bừa

Con gái đồng chiêm – con gái vùng đồng chiêm trũng Gia Viễn, Ninh Bình

Không chỉ biết cày bừa cấy hái năm hai vụ lúa mà còn biết trồng dâu, nuôi tằm,

ươm tơ, dệt lụa. Họ chăm chỉ, cần cù, tất bật "Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm

47

ăn cơm đứng", để cho ra đời những sản phẩm dệt bền, chắc, trước là “tự cung, tự

cấp” “ăn chắc, mặc bền” sau là sản phầm thương mại.

Nếu như con gái vùng quê Gia Viễn có nghề ươm tơ, dệt vải lúc nông nhàn

thì ở xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư nghề thêu, đặc biệt là thêu cải đã trở thành một

nghề truyền thống của địa phương thu hút cả nam giới tham gia, mặt hàng thêu ở

đây đã đạt đến mức tinh xảo và được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. “Thêu

cải Ninh Hải, dệt vải Nuốn Khê”[100; 13], nghề thêu ren truyền thống của xã

Ninh Hải có từ rất lâu đời và được UBND tỉnh công nhận làng nghề năm 2006.

Năm 2007 Hiệp hội làng nghề Việt Nam cũng đã công nhận Văn Lâm là một trong

12 làng nghề tiêu biểu của cả nước.

Cùng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải nghề cung bông (bật

bông) cũng là nghề khá phổ biến ở một số miền quê Ninh Bình

Hỡi cô thắt dải lưng xanh,

Có về Lực Giá với anh thì về.

Lực Giá có cây bồ đề,

Có sông tắm mát có nghề cung bông.

[66; 23;09]

Thôn Lực giá nay thuộc xã Ninh Mỹ huyện Hoa Lư nổi tiếng với nghề cung

bông (bật bông) – làm chăn bông. Đầu tiên, người thợ sẽ cho bông vào máy quay

cho tơi, bụi bẩn rơi ra. Bông tơi lên thì mang ra sàn nhà trải rộng đủ khổ chăn

mình cần, bắt đầu công đoạn làm chăn. Người thợ dùng dây cung bật cho những

sợi bông tơi thành những tựa bông dài. Dụng cụ là cái cung bật bông bằng gỗ, dài

hơn 2m, đường kính 8,9cm đầu bè, mỏng bẹt, đuôi tròn để cầm, đòn ngồi thấp

hơn cái ghế. Dùi và cung có tác dụng làm cho mặt chăn trải dài, rộng hẹp theo cữ

chăn, nhưng phải làm quá mỗi chiều 20cm để gấp bìa. Dây cung kết từ hàng nghìn

các sợi tơ và được vuốt sáp ong. Sau khi bông được bật tơi, người thợ dùng sàng

ập lên cho phẳng và mỏng bớt xuống, rải vải màn lên trên, rồi lại lộn mặt trên

xuống dưới, dưới lên trên, tiếp tục bật dây cung vào bông ở mặt đó cho tơi xốp.

Công đoạn dùng sợi để mạng thành 4 cấp mới là công việc đòi hỏi khéo tay và kỹ

48

thuật cao. Sau khi hoàn thành công đoạn này, dùng bàn xoa bằng gỗ da du có mặt

hơi gai để ngọn bông quyện với sợi mạng. Tóm lại, lải, gấp bìa, mạng sợi, xoa...

rồi mới lồng vải hoa hoặc sa tanh màu mỏng để làm vỏ. Cuối cùng là chần chăn

theo lối quả trám hoặc theo các họa tiết trang trí. Ngày nay khi có nhiều loại chăn

được làm từ sợi công nghiệp nên nghề cung bông cũng được ít người biêt tới.

Về một số xã phía nam huyện Nho Quan và huyện Gia Viễn chúng ta còn

được nghe nhân dân nơi đây nhắc đến một nghề lúc nông nhàn và gắn với vùng

đồng chiêm trũng.

Hoàng Long có núi chăn dê,

Có hồ thả cá, có nghề riu tôm.

[64; 13;]

Dụng cụ để đi đánh riu bao gồm: riu, rổ đãi, quang, gánh, giá, mẹt đều là

những sản phẩm của nghề đan lát ở địa phương với nhiều người có tay nghề giỏi,

(. Trong các đồ dùng trên thì việc đóng khung làm riu là khó nhất. Người thợ mua

tre về chẻ khung rồi đem đốt để nắn làm gọng khung, sau đó đến công đoạn dựng

khung và đặt mành, để làm được một chiếc riu tôm phải mất 4 - 5 ngày. Khi có

riu rồi, người dân phải mua thêm những dụng cụ ở những nhà đan khác trong làng.

Riu sau khi mua về có thể sử dụng luôn mà không sợ hỏng (vì khi làm khung tre

đã được đốt hong qua lửa cùng với việc ngâm nước hàng ngày thì sẽ không bị mối

mọt). Còn các đồ đan khác muốn cho bền thì phải treo lên gác bếp. Công việc riu

tôm rất vất vả, đòi hỏi nhiều sức lực của người dân. Thường khi đi đánh riu phải

có hai người: một người vác riu còn người kia thì gánh một bên rổ đãi và một bên

quang, giá đựng tôm. Người khỏe vác riu chịu trách nhiệm riu tôm (thường là nam

giới), còn người yếu hơn thì đãi tôm và mang ra chợ bán (do nữ giới đảm

nhiệm). Từ những con tôm, tép bắt được người dân chế biến thành món mắm tép

thơm ngon nổi tiếng.

Ninh Bình là một vùng đất cổ, nơi có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng

cảnh nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, nhà thờ đá Phát Diệm,

vườn quốc gia Cúc Phương, khu hang động Tràng An…Nơi đây còn là vùng đất

49

tồn tại nhiều làng nghề truyền thống với những nghề nổi tiếng, đã làm nên những

sản phẩm không chỉ đẹp mà còn đậm chất văn hoá và chứa đựng những giá trị cao

đẹp của con người quê hương Ninh Bình.

2.4.Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu về phong tục, lễ hội

Nằm trong chiếc nôi văn hóa đồng bằng Bắc Bộ Ninh Bình cũng có nhiều

lễ hội thể hiện sinh hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân vùng ven biển. Lễ hội lớn

nhất ở Ninh Bình là lễ hội Đinh – Lê.

Dù ai buôn đâu bán đâu,

Nhớ ngày mở hội Cờ Lau thì về;

Dù ai buôn bán trăm nghề,

Cờ Lau vào đám thì về Trường Yên.

[48;425;9]

Xưa kia nhân dân thường mở hội Trường Yên vào ngày 15 tháng 2, nay là

các ngày 6,7,8 tháng 3 âm lịch. Trong nhiều triều đại phong kiến, lễ hội Trường

Yên là một Quốc lễ, vì đây là nơi, là dịp tưởng niệm các vị hoàng đế, anh hùng

dân tộc: Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Về dự lễ hội Cố đô Hoa Lư, các thế

hệ công dân của nước Đại Cồ Việt xưa và nước Việt Nam ngày nay cùng tiếp nối,

khơi thêm dòng chảy của lịch sử cộng đồng dân tộc từ hàng nghìn năm trước với

sứ mệnh: dựng nước, giữ nước, chấn hưng, phát triển và tự chủ. Lễ hội Cố đô Hoa

Lư đã được bắt đầu ngay khi nhà Lý dời đô về Thăng Long – Và trên nền móng

của cung điện Hoa Lư, hai ngôi đền thờ vua Đinh và vua Lê được tạo dựng. Để

có được một hình thức lễ hội như hiện nay là cả một quá trình mà trong đó hoà

quyện những sự kiện lịch sử và truyền thuyết dân gian. Hình thức của lễ hội gồm

có: Lễ rước nước, Lễ dâng hương, Lễ rước lửa, Tập trận cờ lau, Tế nữ quan, Kéo

chữ, múa rồng lân, thổi cơm thi và những tiết mục biểu diễn, thi đấu quen thuộc

đối với nhiều lễ hội truyền thống dân gian khác như thi Người đẹp Cố Đô, thi hát

chèo…một trong những nghi lễ quan trọng nhất của lễ hội là lễ rước nước sông

Hoàng Long. Vào buổi sáng ngày khai hội hàng năm thường diễn ra Lễ rước nước,

tạ ơn Rồng vàng đã cứu giúp Đinh Bộ Lĩnh – người đã có công dẹp loạn 12 sứ

50

quân cát cứ, thu giang san về một mối; Cầu mong thần Sông giữ cho dòng nước

mát hiền hoà, phù trợ cho dân nước Đại Việt tránh mọi điều ác dữ…Cuộc rước

nước truyền thống ở lễ hội Cố đô Hoa Lư hàng năm biểu hiện mối liên hệ mật

thiết, hữu cơ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của cả cộng đồng, bao hàm những

yếu tố: linh khí núi sông, tâm thức dân gian về cội nguồn đất nước, dân tộc theo

đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Đã hơn một nghìn năm, kể từ khi kinh đô Hoa

Lư trở thành Cố đô, phong sương, hoài niệm, những âm thanh của trống hội Thăng

Long vẫn luôn cộng hưởng, hùng tráng, khoan nhặt cùng tiếng trống rước nước ở

Hoa Lư để hướng về cội nguồn, thêm đậm đà bản sắc dân tộc.

Ngoài lễ hội Đinh – Lê là lễ hội lớn nhất trong năm ở Ninh Bình thì các lễ

hội mùa xuân gắn với các hoạt tín ngưỡng tâm linh cũng khá phong phú, tiêu biểu

là lễ hội Đền Dâu Tam Điệp.

Dù ai đi đâu về đâu

Nguyên tiêu lễ hội Đền Dâu thì về

Dù ai bận rộn trăm bề

Nguyên tiêu lễ hội th́ về Đền Dâu

[50; 426;12]

Đền Dâu thuộc địa phận phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh

Bình, đền có tên chữ là “Tang Dã Linh Từ” (nghĩa là: Đền Thiêng nương Dâu)

thờ Liễu Hạnh Công chúa – một trong tứ bất tử của điện thần Việt Nam đã hoá

thân vào người con gái địa phương giúp dân và quân lính Tây Sơn trồng dâu nuôi

tằm.Tại di tích còn gắn với những sự kiện lịch sử được truyền lại như: Chúa Trịnh

Tùng phò tá vua Lê thống lĩnh ba quân vượt đèo Ba Dội để đánh ra Đông Kinh(Hà

Nội) có qua và nghỉ lai Đền Dâu(TK 16-1592) hay vào năm 1788 khi Hoàng đế

Quang Trung tập kết hơn 10 vạn quân ở Tam Điệp có dựng hành cung ngay tại

Đền Dâu. Hàng năm nhân dân địa phương mở hội vào ngày rằm tháng giêng (tết

nguyên tiêu) để cầu may mắn, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu.

Nếu như vùng Đọi Sơn – Hà Nam có lễ hội Tịch điền để tôn vinh nghề nông

thì ở Ninh Bình có lễ hội Chọi trâu - một lễ hội gắn với sản xuất nông nghiệp. Có

51

thể nói rằng con trâu không chỉ là “đầu cơ nghiệp” mà còn là người bạn thân thiết

của nhà nông.

Dù ai buôn đâu bán đâu

Mồng Mười tháng Tám chọi trâu thì về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Mồng Mười tháng Tám cũng về chọi trâu

[49; 414;12]

Nhân dân Ninh Bình ở nhiều nơi mở hội chọi trâu vào ngày mồng Mười

tháng Tám. Hội không chỉ là “thi chọi” mà qua đó còn thi tài chăm sóc trâu xem

làng nào, xã nào có trâu béo, khỏe. Hội thi chọi trâu là dịp để thể hiện tinh thần

thượng võ, cũng như khát vọng ấm no, mùa màng bội thu của nhân dân ta.

Một nét đẹp văn hóa nữa của người Ninh Bình rất đáng trân trọng, đó là họ

luôn nhắc nhở con cháu phải biết giữ gìn truyền thống tốt đẹp của quê hương:

“Ích Duệ làm sao, Đồng Giao làm vậy”[51; 420; 12], làng Ích Duệ nay thuộc xã

Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình. Đồng Giao, nay thuộc thành phố Tam Điệp.

Người làng Ích Duệ vào làm ăn ở nông trường Đồng Giao rất nhiều (và cả nơi

khác nữa). Câu tục ngữ là lời nhắc nhở con cháu phải biết giữ gìn truyền thống tốt

đẹp của quê hương, họ mạc: Ở Ích Duệ làm như thế nào thì vào Đồng Giao cũng

làm như vậy.

Người xưa thường nói: “Đất có lề, quê có thói”. Đến với vùng đất Ninh

Bình ngoài những phong tục tập quán chúng ta dễ dàng bắt gặp như bao vùng quê

khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ như cưới hỏi, ma chay, tết, giỗ, lễ hội...thì cũng còn

có những phong tục tập quán mang những nét riêng, tuy không nhiều nhưng cũng

đủ làm nên bản sắc Ninh Bình.

Giỗ bà chúa lễ cỗ chay

Giỗ ông Hoàng lễ bánh dày

Ngày rằm tháng chạp rủ nhau

Kéo về Chùa Dầu xem bánh xem xôi

Muốn cho tóc bạc da mồi

52

Để về ăn bánh ăn xôi Chùa Dầu

[58; 32;02]

Hay:

Đời đời tôn kính phụng thờ

Ngàn năm còn đó bây giờ là đây

Giỗ bánh chay, lệ bánh dày

Thuần phong mỹ tục xưa nay vẫn truyền

[46; 13;]

Chùa Dầu ở thôn Khương Du, xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, Ninh

Bình. Chùa còn có tên gọi là Linh Nha Tự, thờ đức Giác Hải thiền sư, đồng môn

với quốc sư Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh thời Lý. Cứ 3 năm một lần,

chùa Dầu tổ chức Lễ hội vào ngày 29 tháng 2 (âm lịch) trong 3 ngày ở các năm

Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Còn ngày giỗ ông Hoàng (Câu Vương) là ngày 15 tháng 1

(âm lịch), giỗ bà Chúa (Huyền Tư) là ngày 30 tháng 2 (âm lịch). Giỗ ông Hoàng

phải dâng bánh dày, giỗ bà Chúa phải dâng oản.Tương truyền, ông Hoàng và bà

Chúa tu ở chùa đã để lại 173 mẫu lộc điền cho làng Dầu (tức là hai thôn Hương

Du và Phương Du) cày cấy để tế lễ. Làng quy định, cứ 4 sào ruộng phải làm một

chiếc bánh dày to (bốn người mới khiêng nổi), một sào ruộng phải dóng 4 phẩm

oản (mỗi người chỉ gánh được 4 phẩm oản) Phong tục này còn giữ đến tận ngày nay.

Một nét phong tục khác cũng khá độc đáo của vùng quê Yên Mô, “Đi làng

Nuốn , uống Nộn Khê” [39; 20; 03], làng Nuốn xã Yên từ có nghề dệt vải nhờ đó

mà đời sống người dân có phần sung sướng hơn các làng khác, theo hương ước,

con gái của làng đi lấy chồng cùng làng phải nộp treo cho làng 500 viên gạch đỏ,

và nộp cho dân làng 1000 viên gạch đỏ nếu lấy chồng làng khác, nhờ đó mà con

đường làng luôn rộng rãi, xanh mát bóng dừa. Làng Nộn Khê văn hóa thanh lịch,

có nhiều trí thức, ở đây thường uống trà vào buổi sáng. Các cụ rất cầu kỳ trong

việc chọn trà, luộc chén, chọn ấm vì vậy uống trà ở Nộn Khê đã trở thành nét ẩm

thực độc đáo của người dân nơi đây.

53

Ngược lên phía bắc của tỉnh đồng bào dân tộc Mường huyện Nho Quan có

phong tục tiếp đón khách rất chân tình, nồng hậu:

Trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm. [108; 107; 01] ,

Với cách nói so sánh ví von “Trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm”

Cộng đồng dân tộc Mường muốn nói tới một phép ứng xử rất tự nhiên của chủ

nhà và khách ở địa phương này: Đến nhà nhau chơi gặp bữa thì ăn, nhưng chỉ là

“ăn cơm” thôi giản dị và gần gũi như những thành viên trong gia đình hàng ngày

vẫn dùng bữa vậy. Nét phong tục này đã thể hiện rõ lòng hiếu khách của người

dân nơi đây.

Tiểu kết chương 2

Qua tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình, chúng ta như được thả hồn vào

khung cảnh sơn thủy hữu tình nơi có vẻ trầm mặc của kinh thành Hoa Lư, nét cổ

kính rêu phong của những mái đình, mái chùa, nét thanh bình của làng quê sau

lũy tre xanh.

Trước hết, tục ngữ ca dao địa danh Ninh Bình có một số lượng lớn những

câu ca dao tục ngữ nói về các nhân vật lịch sử của nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh

- Lê như là một sự tri ân công đức của dân gian đối với các vị vua, các vị thánh –

những người con ưu tú của quê hương. Tiếp đó, tục ngữ ca dao địa danh Ninh

Bình ca ngợi nét thanh lịch, dịu dàng của con người vùng đất Cô Đô cùng những

nhân vật văn hóa và các dòng họ đăng khoa tiêu biểu của Ninh Bình.

Bức tranh lao động của nhân Ninh Bình xưa cũng được thể hiện rõ qua

những câu tục ngữ, ca dao, địa danh về nghề nghiệp. Đó có thể là một nghề mang

lại thu nhập cho người dân, có nhiều nét đặc trưng cho một miền quê, mỗi nghề

nghiệp lại gắn với thế mạnh, sở trường và cuộc sống của người dân Ninh Bình.

Có những nghề ở Ninh Bình đã tồn tại, phát triển cho đến tận ngày nay như nghề

mộc (Ninh Phong), nghề thợ xây (ở Bình Hải – Yên Mô), nghề chiếu cói (Kim

Sõn), nhưng cũng có nghề đã bị mai một dần như nghề dệt vải (ở Ninh Khang),

nghề bật bông (ở Ninh Mỹ - Hoa Lư), nghề riu tôm (ở Hoàng Long)...

54

Qua tục ngữ, ca dao địa danh về nghề nghiệp chúng ta càng tự hào, khâm

phục người dân quê Ninh Bình, họ đã sống và lao động bằng bàn tay, sự sáng tạo,

khéo léo để làm nên những sản vật gần gũi, thân quen nhưng vô cùng hữu ích. Từ

đôi chiếu Kim Sơn, chiếc chăn Gia Khánh trong ngày vui lứa đôi cho đến miếng

ăn, nước uống hàng ngày...tất cả đều chứa đựng bao mồ hội, công sức của người

dân Ninh Bình. Từ đôi bàn tay người dân bao sản vật quê hương Ninh B́ nh đã có

mặt trong cuộc sống , sản vật được làm ra từ đôi bàn tay người nông dân, người

thợ, nghệ nhân...đều mang dấu ấn của vùng quê thuần nông vùng đồng bằng bắc

bộ.

Có thể nói rằng ca ngợi vẻ đẹp của con người và vùng đất Ninh Bình cũng

như những nét văn hóa, phong tục và sản vật là nội dung phong phú của tục ngữ,

ca dao địa danh Ninh Bình. Mỗi bài ca dao, mỗi câu tục ngữ đều chan chứa niềm

tự hào về một vùng đất “Địa linh, nhân kiệt” vừa có Đế Vương, vừa có Quốc

Thánh, mảnh đất có nhiều ruộng cấy, trâu cầy có những con người thanh lịch,

thuần hậu cùng với nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Tìm hiểu tục ngữ,

ca dao địa danh về các nhân vật lịch sử, con người và sản vật Ninh Bình càng làm

cho chúng ta tự hào về quê hýõng, ðất nýớc, thấy rõ trách nhiệm của mình trong

việc gìn giữ, bảo tồn những giá trị tinh thần của cha ông

Chương 3

TỤC NGỮ CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH VỀ KINH NGHIỆM

SẢN XUẤT, QUAN HỆ XÃ HỘI

3.1.Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về kinh nghiệm sản xuất

Là một tỉnh ở cực nam đồng bằng Bắc Bộ đời sống nhân dân Ninh Bình

(trước đây) chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, và điều đầu tiên mà người dân

quan tâm đó là khí hậu, thời tiết.

“Chớp núi Bùng thì chớ, Chớp núi Lớ thì mưa” [108; 107; 01],

55

Núi Bùng nay thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Núi Lớ

thuộc xã Ninh Nhất thành phố Ninh Bình. Theo dân gian thì chớp núi Bùng thì

không mưa, ngược lại chớp núi Lớ thì có mưa. Kinh nghiệm thời tiết của nhân

dân vùng Hoa Lư và thành phố Ninh Bình dựa trên quan sát hiện tượng thiên nhiên

ở hai dãy núi là núi Bùng và núi Lớ. Kinh nghiệm này giúp nhà nông chủ động

hơn trong sản xuất và sinh hoạt.

Một kinh nghiệm nữa của nhân dân Ninh Bình trong dự báo thời tiết:

Kiến đen tha trứng lên cao

Thế nào cũng có mưa rào rất to

[73; 428; 09]

Kiến đen là loài côn trùng rất nhạy cảm với sự biến đổi của thời tiết, sắp có

mưa rào kiến đen thường tha trứng lên chỗ cao ráo. Quan sát loài côn trùng nhỏ

bé này dân gian rút ra kinh nghiệm hết sức quí báu: khi kiến đen tha trứng lên cao

là lúc sắp có mưa rào, biết trước điều này chúng ta sẽ tránh được những thiệt hại

trong sản xuất và sinh hoạt. Từ quan sát các hiện tượng thiên nhiên đến việc rút

ra những kinh nghiệm về thời tiết đã cho chúng ta thấy được tác động trực tiếp

của thiên nhiên đến các hoạt động sản xuất của nhân dân ta là rất lớn. Ngày nay

việc dự báo thời tiết đã có sự hỗ trợ của khoa học, công nghệ. Nhưng nếu chúng

ta biết kết hợp với những kinh nghiệm dân gian thì công tác dự báo càng chính

xác hơn.

Trong sản xuất nông nghiệp thì kinh nghiệm về thiên nhiên là chưa đủ,

muốn có năng xuất cao chúng ta cần có con giống tốt, đặc biệt là con trâu. Bởi vì

con trâu là nguồn sức kéo chính của nhà nông.

Tam tinh, khoáy sọ thì chừa

Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi

[90; 428; 12]

Hay:

Lang đuôi thì bán

Lang trán thì cày

56

[58; 13]

Khi con trâu vẫn được coi là một khối tài sản rất lớn, việc tậu trâu vẫn

nghiễm nhiên đứng đầu trong 3 việc lớn của người nông dân là “Tậu trâu, lấy vợ,

làm nhà”. Chính vì vậy một con trâu được coi là tốt phải hội tụ khá nhiều tiêu

chuẩn: nào là “tai lá mít, đít lồng bàn”, nào là “bốn khoáy đóng chuồng, hai thiều

dưới mắt”, nào là “chân cao mình dài, đuôi bẹ dừa”. Những con trâu có các đặc

điểm trên thường hay ăn chóng lớn, ít bệnh tật, khỏe mạnh và dai sức. Con nào có

khoáy tam tinh (xoáy lông giữa trán) thì đặc biệt khỏe mạnh, phải cái tội tính tình

hung tợn, đòi hỏi phải có một người chủ biết lựa tính mà chiều mới phát huy được

tác dụng. Chán nhất là loại trâu đốm đuôi nát chủ (miệng cười hý chủ), cứ nhìn

thấy người là hếch mõm lên kêu, đã biếng ăn lại lười vận động, quật roi đến đỏ cả

lưng vẫn cứ đứng ỳ một chỗ không chịu kéo cày. Con trâu là đầu cơ nghiệp vì vậy

chọn được một con trâu to khoẻ giúp nhà nông cày bừa là một công việc quan

trọng của đời người.

Cùng với kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm chọn trâu thì kinh nghiệm

về mùa vụ cũng giúp cho người nông dân có những mùa vàng bội thu.

Lập thu mới cấy lúa mùa

Khác nào hương khói lên chùa cầu con

[74; 428; 9]

Người dân Ninh Bình có hai vụ sản xuất lúa chính trong năm đó là vụ chiêm

(gieo cấy tháng giêng, hai thu hoạch vào tháng 4,5) và vụ lúa mùa (gieo cấy tháng

5,6 thu hoạch vào tháng 9,10) vì vậy nếu đợi đến lập thu mới cấy lúa mùa thì sẽ

bị trễ thời vụ, cây lúa sẽ bị ảnh hưởng mưa bão nên năng xuất thấp thậm chí mất

mùa. So sánh việc cấy lúa mùa vào tiết lập thu với việc lên chùa cầu có con tác

giả dân gian Ninh Bình muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mùa vụ đối với

cây trồng. Ngày nay mặc dù khá chủ động trong sản xuất nông nghiệp song kinh

nghiệm mùa vụ của cha ông ta vẫn rất có ý nghĩa, nó nhắc nhở chúng ta về lịch

gieo trồng, khung thời vụ không chỉ có sản xuất lúa mà cả các loại cây trồng khác.

Cũng về kinh nghiệm thâm canh cây lúa nước lúa , nhân dân Ninh Bình nhắc

57

nhau tận dụng thời gian thu hoạch nhanh vụ chiêm xuân để làm đất gieo cấy vụ mùa.

Mênh mông đồng lúa chín vàng

Anh nhắn cô nàng cắt xén nhanh tay

Để anh sớm có ruộng cày

Mạ non tới lứa, kịp thời cấy chiêm

[79; 428; 12]

Sản xuất vụ lúa mùa (thu hoạch tháng 9,10) cần phải gieo cấy sớm để tránh

mưa bão tháng 7,8. Chính vì vậy nhân dân ta đã coi trọng thời gian gieo cấy vụ

lúa này. “Tháng sáu hơn đêm, tháng chạp mềm sướng”, cấy lúa vụ mùa vào tháng

sáu cần kịp thời vụ, vụ lúa chiêm cấy tháng chạp thì cần làm đất kỹ lưỡng (mềm

sướng) thì cây mạ mới nhanh bén rễ và phát triển tốt. Bài ca dao là lời người con

trai nhắc nhở cô gái nhanh tay thu hoạch vụ lúa chiêm để kịp thời làm đất gieo

cấy vụ mùa, đó cũng là tinh thần thi đua trong lao động sản xuất của nhân dân

Ninh Bình.

Một kinh nghiệm nữa của nhân dân Ninh Bình trong sản xuất nông nghiệp

đó là kinh nghiệm về quá trình thâm canh.

Cày sâu bừa nát, kiếm bát mà ăn [16; 22; 09]

Trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt là thâm canh cây lúa nước việc “cày

sâu, bừa nát” đồng nghĩa với việc làm đất kỹ càng giúp cho cây lúa nhanh bén rễ,

sinh trưởng tốt. “Cày sâu bừa nát kiếm bát mà ăn” là lời nhắc nhở chúng ta

phải chú ý tới khâu làm đất. Nếu chúng ta làm dối sẽ không diệt được cỏ dại, cây

lúa sinh trưởng kém, năng xuất thấp.

Đối với người dân đồng bằng Bắc Bộ nói chung và người dân Ninh Bình

nói riêng công việc nhà nông phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, năng xuất cây

trồng thấp, đời sống nhân gặp nhiều khó khăn, chúng ta hãy lắng nghe lời dạy của

các bậc cha mẹ đội với con cái.

Quê ta đồng trắng nước trong

Lúa gạo thì ít rêu rong thì nhiều

Dặn con phải nhớ lấy điều

58

Muốn no ấm phải sớm chiều siêng năng

[87; 417; 12]

Đồng trắng nước trong – chỉ vùng đồng chiêm trũng Gia Viễn, Ninh Bình.

Nhân dân ở đây thường chịu cảnh ngập lụt, mất mùa, ý thức được điều đó người

nông dân đã dạy con phải sớm chiều siêng năng, cần cù chịu khó, mùa nào việc

ấy không chơi bời, lêu lổng. Càng khó khăn vất vả càng phải chịu khó lao động

có vậy mới được no ấm.

Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên

đặc biệt là ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt…nhân Ninh Bình càng có ý thức trong

đắp đê, ngăn lũ bảo vệ mùa màng.

Đắp đê xin chớ làm bừa

Đất mịn đất tốt hãy đưa đắp vào

Bây giờ tốn chút công lao

Đến mùa nước lũ hết vào đồng ta

Làm ruộng phải biết lo xa

Đã tốn công sức phải ra lúa vàng

[47; 427; 12]

Bài ca dao là lời cha ông nhắc nhở con cháu, trong quá trình đắp đê chống

lụt phải biết chọn đất tốt, đất mịn. Bởi nếu làm ẩu , làm bừa dễ dẫn đến hậu quả

đáng tiếc, không chỉ ảnh hưởng đến mùa màng mà còn ảnh hưởng đến tính mạng

của con người. Đắp đê là công việc quan trọng vì vậy phải tốn công lao, phải biết

chọn đất, biết lo xa để khỏi uổng phí công lao động. Nếu chỉ chú trọng thâm canh

cây lúa mà lơ là việc đắp đê thì cũng khó bảo vệ được mùa màng. Ngày nay đứng

trên những con đê sông Hoàng Long, đê sông Đáy…sừng sững chúng ta càng cảm

nhận được sự vất vả của nhân dân trong quá trình trị thuỷ để bảo vệ sản xuất và

sinh hoạt của mình. Dù đã có kinh nghiệm trong đắp đê chống lụt tuy nhiên có

những năm mưa nhiều thì có đê tốt chưa đủ mà còn phải biết tát nước cứu lúa nữa.

Mưa dầm tháng ba đồng ta lúa tốt

Mưa dầm tháng bảy nước lụt mênh mông

59

Gầu dai cùng với gầu sòng

Tát nước chống úng, ruộng trong ruộng ngoài

[82; 427; 12]

“Tháng bảy nước nhảy qua bờ”, theo kinh nghiệm dân gian mưa dầm tháng

bảy dễ gây lụt lội vì vậy phải tích cực chống lụt. Gầu gai, gầu sòng là những dụng

cụ tát nước chống lụt của nhà nông cần phải tận dụng triệt để.

Nếu trong thâm canh cây lúa nước nhà nông rất chú ý đến thời vụ và đắp

đê bảo vệ mùa màng thì trong sản xuất một số cây hoa màu khác dân gian Ninh

Bình lại chú ý đến những đặc tính riêng của từng loại cây trồng.

Nửa đêm gà gáy o o

Chàng ơi thức dậy lấy gio tráng dành

Có đi thì đi cho nhanh

Nếu mà đi chậm vác dành về không

[85; 427; 12]

Ca dao vùng Ninh Khang – Hoa Lư. Ở đây, xưa kia nhân dân thường dậy

sớm hót phân trâu, bò về để trồng dâu. Cây dâu là cây trồng quen thuộc của bao

miền quê nó gắn liền với nghề nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Trong thâm canh cây

dâu tằm nhân dân ta rút ra kinh nghiệm: cây dâu tằm rất ưa bón bằng phân trâu

bò, loại phân hữu cơ này giúp cho cây dâu phát triển, sinh trưởng tốt, năng xuất

cao, kháng sâu bệnh , lâu già cỗi.

Để cây trồng có năng xuất cao ngoài bón phân thích hợp, cũng cần phải có

thổ nhưỡng phù hợp. Kinh nghiệm “Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen” là kinh

nghiệm khá phổ biến trong dân gian, nhưng ở vùng quê Gia Viễn, Ninh Bình

người dân lại có thêm một kinh nghiệm nữa trong việc trồng cây khoai lang.

Trăng rằm đã tỏ lại tròn

Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi

[107; 104; 01]

Một phần huyện Nho Quan và Gia Viễn có giống khoai lang dây tím, ruột

vàng ăn rất thơm ngon. Nhân dân vùng nơi đây trồng khoai trên những thửa ruộng

60

đất cát vừa tơi xốp vừa giầu dinh dưỡng nên rất thích hợp cho loại cây trồng này.

Khoai trồng trên chân ruộng đất cát cho năng xuất cao, thơm ngon, khi thu hoạch

lại dễ dàng.

Không chỉ có kinh nghiệm thâm canh cây trồng nhân Ninh Bình còn biết

phân bố thời gian hợp lý trong năm để đảm bảo công việc của nhà nông.

Tháng Giêng cày cấy đã xong

Tháng hai vác cuốc vun trồng ngô khoai

Tháng Ba bồi đắp đê quai

Tháng Tư bón thúc ruộng ngoài ruộng trong

Tháng Năm cây lúa trĩu bông

Đẹp đồng lúa tốt, bõ công cấy cầy

Trâu ơi ta bảo trâu này

Sớm mai trâu dậy trâu cày với ta

Cái nắng tháng sáu cháy da

Làm sớm trời mát thêm ra đường cày.

[92; 428; 12]

Để đảm bảo thời vụ và lịch gieo trồng, trong sáu tháng đầu năm người nông

dân đã tiến hành những công việc : cấy lúa chiêm, chăm sóc ngô, khoai, đắp đê,

bón thúc cho cây trồng, gặt lúa và chuẩ bị làm đất gieo cấy vụ mùa. Bài ca dao

nhắc nhở con cháu nhớ thứ tự việc làm trong nửa đầu của năm, có vậy mới đảm

bảo mùa vụ thắng lợi.

Như vậy có thể thấy trong tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình kinh nghiệm

của nhân dân về lao động sản xuất tập trung ở mảng thời tiết, khí hậu, phương

thức, canh tác gieo trồng một số loại cây đặc biệt là cây lúa nước. Qua đó chúng

ta có thêm được những tri thức làm cơ sở cho nghiên cứu khoa học, cũng như áp

dụng trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp ở địa phương.

3.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về các quan hệ xã hội

3.2.1. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về tình yêu đôi lứa

61

Tình yêu đôi lứa - tình yêu nam nữ là chủ đề được thể hiện sâu sắc nhất và

cũng rõ nhất trong tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình. Nói tới tình yêu đôi lứa,

tình chồng nghĩa vợ, tục ngữ, ca dao đã thể hiện thật ý nhị, uyển chuyển, chân

thành mộc mạc – những cung bậc cảm xúc ngọt ngào của tình yêu từ lúc tỏ tình,

đến khi nên duyên chồng vợ vượt qua bao khó khăn vất vả, để hướng đến một

cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Đời sống nhân dân Ninh Bình gắn liền với những hoạt động sản xuất nông

nghiệp nên tình yêu nam – nữ nảy nở và gắn liền với những hình ảnh quen thuộc:

đồng ruộng, cái cày, con trâu...chính vì vậy mà những lời giới thiệu, chào hỏi của

những chàng trai cô gái Ninh Bình rất đơn sơ, mộc mạc...

Em là con gái đồng chiêm

Gieo mạ câý lúa lại thêm trồng màu

Ươm tơ dệt vải nhuộm nâu

May áo bền chắc, theo trâu cày bừa

[55; 417; 12]

Người con gái đồng chiêm (vùng Gia Viễn, Ninh Bình) không ngần ngại

khi giới thiệu về bản thân mình. Quê cô ở vùng đồng chiêm trũng nơi chiêm khê,

mùa thối, cuộc sống lao động lam lũ, vất vả nhưng người con gái quê đó lại là

người đảm đang, tháo vát công việc nhà nông như cấy hái, trồng màu, ươm tơ...đặc

biệt cô gái ấy lại là người biết chắt chiu “ăn lấy chắc, mặc lấy bền”. Bài ca dao

đã làm nổi bật hình ảnh người con gái thôn quê hồn hậu, chất phác, thuần thục

trong công việc cấy cày, canh cửi. Và cũng trong đời sống lao động sản xuất họ

đã gặp gỡ nhau.

Con cò bay lả bay la

Bay từ sông Nuốn bay ra cửa Càn

Gặp em ở giữa đồng làng

Hỏi em tha thẩn tìm đàng đi đâu?

Quanh năm lội cánh đồng sâu

Nào em có tính đi đâu tìm đàng

62

Cơ duyên may được gặp chàng

Cậy chàng, chàng chỉ con đàng thiếp đi.

[38; 13]

Bài ca dao ban đầu là lời người con trai nói với người con gái (chỉ là cái cớ

để gặp gỡ) là em tìm đàng đi đâu? Rõ ràng không có ai lại ra giữa cánh đồng làng

để hỏi đường đi, mà đó chỉ là dịp để chàng trai gặp gỡ cô gái. Phần sau của bài ca

dao là lời của cô gái nói với chàng trai: Cậy chàng, chàng chỉ con đường thiếp đi.

Như vậy có thể thấy những cách làm quen, những lời giới thiệu

tṛò chuyện ban đầu của con trai, con gái Ninh Bình qua ca dao đều thể hiện sự kín

đáo, khéo léo, tế nhị và vô cùng chân thực.

Từ những lời giới thiệu, những cuộc gặp gỡ, các chàng trai bao giờ cũng là

người chủ động tỏ tình trước. Chúng ta hãy cùng đến với một bài ca dao Ninh

Bình lấy cảnh nói tình và ngỏ lời qua một câu nhắn nhủ hết sức tình tứ.

Mình về đường ấy thì xa

Để anh bắc cầu Sông Cái đi qua Ninh Bình

Đất Ninh Bình có chùa Non Nước

Núi Phi Diên Hồi Hạc xung quanh

Em về em chớ quên anh!

[80; 425; 12]

Sông Cái hay còn gọi là sông Đáy – một đoạn sông Hoàng Long chảy qua

địa phận thành phố Ninh Bình. Chùa Non Nước – ngôi chùa nằm cạnh chân núi

Non Nước bên sông Đáy. Núi Phi Diên nay là núi Cánh Diều, núi Hồi Hạc (nay

không còn) đều thuộc thành phố Ninh Bình. Bằng cách nói thậm xưng quen thuộc

lời nhắn nhủ của người con trai thật lãng mạn, anh sẵn xàng bắc cầu để người

mình yêu đến với quê hương Ninh Bình, với lời hẹn ước “Em về em chớ quên

anh!”. Cũng trong cách nói của mình chàng trai đã nhắc tới các địa danh nổi tiếng

của Ninh Bình với niềm tự hào như: sông Cái, chùa Non Nước, núi Phi Diên, núi

Hồi Hạc.

63

Không chỉ có các chàng trai mà các cô gái Ninh Bình cũng có cách ngỏ lời

tình tứ không kém.

Em là con gái Ngòi Ngang,

Chợ Xanh, chợ Cát biết rằng về đâu?

Chợ Xanh mua vải ruộm nâu,

Chợ Cát mua một cơi giầu đợi anh!

[63; 13]

Hay:

Trời mưa thì mặc trời mưa,

Đường làng lát đá sớm khuya đi về;

Quê em là đất Nuốn Khê,

Hỏi anh có muốn đi về hay không?

Em thưa bác mẹ bằng lòng,

Em thì dệt vải, anh trồng ngô khoai;

Tứ thời bát tiết anh ơi,

Ổ rơm cũng ấm, ngô khoai cũng bùi.

[35; 13]

Bài ca dao là lời người con gái nói với người con trai rất mạnh dạn, Em là

con gái Ngòi Ngang, em đi chợ Xanh, chợ Cát (Yên Khánh, Ninh Bình), để mua

vải ruộm nâu và mua một cơi giầu. Rõ ràng người con gái ở vùng quê Yên Khánh

đã khéo léo gợi ý cho người con trai biết đến nghi lễ cưới hỏi, biết đến chợ Xanh,

chợ Cát quê mình và quan trọng là biết: Em đang đợi anh, cũng là để chàng trai

biết đến tình cảm và mong ước của mình.

Nêu như cô gái Yên Khánh Ninh Bình tỏ tình có phần kín đáo thì những

chàng trai vùng quê Gia Viễn lại có cách tỏ tình bạo dạn hơn nhưng cũng rất “đồng

chiêm”

Rủi riu anh đẩy anh đun

Được tôm được tép sớm hôm nhọc nhằn

Nhọc nhằn anh chẳng ngại ngùng

64

Chỉ thương em ở phòng không một mình

[89; 415; 12]

Hay:

Lấy anh thì sướng hơn vua

Anh đi đánh rậm được cua kềnh càng

Mang về nấu nấu rang rang

Ăn vào mát ruột rõ ràng hơn vua

[75; 425; 9]

Chàng trai trong bài ca dao là một người lao động vùng đồng chiêm trũng,

hàng ngày phải dầm mình trong nước để riu tôm, tép. Vất vả khó nhọc nhưng

chàng trai không quản ngại. Lời tỏ tình của chàng trai rất thẳng thắn nhưng cũng

dễ thương, anh không quản ngại vất vả để đến với người mình yêu. Tình yêu bắt

nguồn từ tình thương bao giờ cũng chân thật và mặn nồng.

Đến Ninh Bình đôi khi chúng ta bắt gặp những lời tỏ tình bạo dạn đến

không ngờ, đó là lời của chàng trai Hải Phòng ngỏ lời với cô gái Ninh Bình.

Anh là con trai Hải Phòng

Chạy tàu phi hổ ở trong Ninh Bình

Thấy em duyên dáng tươi xinh

Anh thuận nhân tình anh nắm cổ tay

Nắm rồi lắc khẽ cổ tay

Anh hỏi câu này: Có lấy anh không?

[12; 426; 12]

Hay :

Em về lối ấy cho xa,

Theo anh về nẻo làng La cho gần;

Dạo chơi núi Thuý, sông Vân,

Cánh Diều, Hồi Hạc, Kỳ Lân hữu tình;

Bõ công bác mẹ sinh thành,

Bồng Lai, Tiên cảnh em về cùng anh!

65

[68; 13]

Hay:

Đêm qua giăng tỏ, giăng mờ,

Em đi đổi bún tình cờ gặp anh;

Rảo chân em bước nhanh nhanh,

Anh đỡ lấy gánh: - Để anh gánh cùng;

Gánh về đến xóm Tam Dương,

Anh xin cha mẹ được thương em cùng

[52; 13]

Chàng trai Hải Phòng là thủy thủ tàu Phi Hổ (tên một con tàu chạy sông

của công ty Bạch Thái Bưởi) khi đến vùng quê Ninh Bình bắt gặp những cô gái

Ninh Bình tươi xinh, đã bạo dạn nắm tay cô gái, lắc khẽ và hỏi nhỏ : có lấy anh

không ? có lẽ do lao động sông nước không có nhiều thời gian nên chàng trai Hải

Phòng đã thể hiện trực tiếp tình cảm của mình với cô gái Ninh Bình mà anh yêu

thương.

Tuy nhiên không phải lúc nào tình yêu của họ cũng xuôi chèo mát mái, bởi

người con gái theo đạo thiên chúa giáo không được phép yêu thương người con

trai theo đạo phật do “Lương giáo bất đồng” đó là nỗi day dứt của những cô gái

trót yêu người ngoài đạo.

Ngày đêm em đến nhà thờ

Nghe chuông buông nhịp mà ngơ ngẩn lòng

Về nhà em ngóng em trông

Giáo Lương nào biết tơ hồng có xe

[64; 416; 12]

Hay:

Em là con gái nhà Dòng

Cầu kinh nguyện Chúa mà lòng thương anh

Em như chiếc lá còn xanh

Ngày tàn lá úa, phúc lành ở đâu?

66

[64; 416; 12]

Bài ca dao là lời người con gái xứ đạo(Công giáo) có người yêu theo đạo

Phật (Lương) nên bị mẹ cha cấm cản, nhưng tình cảm của cô dành cho người mình

yêu không vì thế mà ảnh hưởng, ngược lại cô càng thương người yêu hơn. Miệng

thì cầu kinh nguyện chúa nhưng trái tim vẫn tha thiết yêu thương. Có lẽ đó là một

bi kịch của tình yêu? Cô gái tự hỏi: ông tơ, bà nguyệt có bao giờ xe duyên cho họ,

cũng như cô gái đang độ tuổi xuân thì nhưng lại sống trong “ngày tàn lá úa” thì

đâu là hạnh phúc? Từ những khoảng cách vô hình Giáo – Lương, những quan

niệm tôn giáo còn lạc hậu ấy đã có biết bao cô gái bị mẹ cha bắt vào nhà tu, tình

yêu đã làm cho họ chỉ biết khấn cầu đức chúa: ban phước lành để nhà tu không

phải là nhà tù giam hãm tuổi thanh xuân của họ.

Em như một đóa hoa đào

Mẹ cha muốn phước bắt vào nhà tu

Trăm ngàn lạy chúa Giê Su

Nhà tu đừng hóa nhà tù giam em

[67; 416; 12]

Cô gái trong bài ca dao đã tự ý thức về bản thân: em đã lớn lại xinh đẹp,

nhưng lại bị mẹ cha cấm cản yêu đương, bắt em phải vào nhà tu. Bên tình, bên

hiếu khiến cho cô gái thật khó xử, cô chỉ biết ngày đêm cầu nguyện đức chúa Giê

Su che chở cho t́ình yêu của ḿình.

Không chỉ bị mẹ cha ngăn cấm do yêu thương người ngoài đạo, mà ngay

cả những người con gái có người yêu cùng tôn giáo họ cũng có nhiều dự cảm, trăn

trở, lo lắng và điều họ lo lắng trăn trở thường là sự thay lòng đổi dạ:

Chung quanh những nước non người,

Giữa hòn Non Nước mình tôi với chàng;

Ví chàng mà có lòng thương,

Thì chàng đắp điếm trăm đường đi cho;

Yêu chán sợ chàng lại no,

Hỏi khi mưa nắng biết nhờ cậy ai?

67

[33; 425; 12]

Người phụ nữ trong bài ca dao đã không ngần ngại khi trải lòng mình. Cô

lo lắng cho tương lai khi người mình yêu thay lòng đổi dạ khi ấy lấy ai nhờ cậy

lúc nắng mưa? Hạnh phúc là có được người mình yêu, và vì yêu nhau người ta

cũng sẵn xàng “đắp điếm trăm đường” “Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”

Câu hỏi cuối bài ca dao nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng hiện tại, biết vun

đắp hạnh phúc cho tương lai.

Trong tình yêu lứa đôi, những chàng trai, cô gái Ninh Bình còn thể hiện

được tấm lòng vị tha rất đáng trân trọng.

Thương em anh tủi anh sầu

Sa cơ lỡ bước vào đầu Cầu Lim

Lênh đênh bảy nổi ba chìm

Khăn điều trôi mất khăn thâm lập lờ

[93; 425; 12]

Lời người con trai nói với người con gái vừa cay đắng, xót xa vừa chan chứa

tình thương: anh thương người con gái vì sa cơ, lỡ bước mà phải vào đầu cầu Lim

làm cô đầu con hát, cuộc sống lênh đênh bảy nổi ba chìm. Người con trai nói thương

người con gái nhưng cũng là thương chính mình “anh tủi, anh sầu”

(Cầu Lim – cầu bắc qua sông Vân Sàng. Xưa cầu được làm bằng gỗ lim

nên có tên gọi là cầu Thiết Lâm dân gian quen gọi là cầu Lim, nay cầu được làm

bằng bê tông cốt thép, lan can đá nhưng tên cầu vẫn là cầu Lim, thuộc thành phố

Ninh Bình. Phố cầu Lim thời Pháp thuộc là phố cô đầu con hát)

Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tình yêu đôi lứa vừa hồn nhiên

trong sáng vừa dung dị, tình tứ, như tình người, tình đất Ninh Bình.

3.2.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tình cảm vợ chồng

Từ những cuộc gặp gỡ, trò chuyện, tỏ tình rồi trải qua nhiều trắc trở, khó

khăn những chàng trai, cô gái đã đến được với nhau, nên duyên chồng, vợ. Chính

vì vậy họ càng trân trọng những gì đã có, cùng nhau đắp xây cuộc sống ấm no,

hạnh phúc.

68

Kể chi trời rét đồng sâu

Có chồng có vợ rủ nhau đi bừa

Bây giờ trưa đã hồ trưa

Chồng vác lấy bừa, vợ dắt con trâu

Một đoàn chồng trước vợ sau

Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng!

[72; 417; 9]

Hay:

Lênh đênh bè ngổ, bè dừa,

Em cấy ruộng dưới, anh bừa ruộng trên

[77; 13]

Tình cảm vợ chồng của những người dân quê Ninh Bình thật thuận hòa,

đầm ấm. Lao động nhà nông vất vả, trời thì rét, đồng lại sâu cả người và vật làm

việc quên cả nghỉ ngơi. Hình ảnh người chồng vác bừa đi trước, người vợ dắt trâu

theo sau ríu rít, vui vẻ đã cho chúng ta cảm nhận được về một gia đình nông dân

hạnh phúc. Dường như càng khó khăn vất vả họ càng thương yêu nhau nhiều hơn

và cùng nhau thề nguyền giữ gìn hạnh phúc.

Anh lên Tam Điệp em men Non Trình

Củi than nhem nhuốc với tình

Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên

[13; 13]

Hay:

Nhất cao là núi Cối Sơn,

Nhất trong là nước trên nguồn Cúc Phương;

Đôi ta chín nhớ mười thương,

Núi cao ta vượt, nước nguồn ta khơi.

[84; 13]

Hay:

Chung quanh những nước non người,

Giữa hòn Non Nước có tôi với chàng;

Mặc cho sóng gió phũ phàng,

69

Giữa trời Non Nước có nàng, có tôi.

[34; 13]

Xưa người con trai, con gái lên núi Tam Điệp, non Trình để kiếm củi đầy vất

vả khó nhọc (Dãy núi Tam Điệp, Non Trình nay thuộc thành phố Tam Điệp). Chính

vì vậy họ giao ước với nhau càng khó khăn vất vả càng thủy chung son sắt. Lời

vàng đá chính là là lời thề thủy chung của những chàng trai, cô gái vùng này.

Chiếu hoa Bồng Hải anh ngồi

Tình chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương

Chiếu này dệt vấn tơ vương

Anh ngồi em trải thiệt hơn xá gì.

[30; 13]

Đã nên duyên chồng vợ thì tình cảm lại càng keo sơn, gắn bó “giận rồi lại

thương” không có hơn, không có thiệt chỉ có tình chồng nghĩa vợ mà thôi. Bài ca

dao là lời bộc bạch tình cảm vợ chồng vừa chân thành vừa sâu sắc. Tuy nhiên

trong cuộc sống cũng không tránh khỏi những đổ vỡ trong tình yêu, trong hạnh

phúc gia đình.

Ai làm nên thảm nên sầu,

Bỏ cái ngao ngán cho nhau mà về;

Đang sầu, đang thảm, đang mê,

Chàng bỏ chàng về, đường cái phân đôi;

Sầu này biết thuở nào nguôi,

Tưởng rằng như đã để rơi lạng vàng;

Có chàng em mới thở than,

Vắng chàng em biết phàn nàn cùng ai?

Có chàng vui một cười hai,

Vắng chàng em biết lấy ai than cùng?

Mùa xuân cho chí mùa đông,

Mùa nào cũng lạnh vì không có chàng

70

[02; 13]

Bài ca dao nói lên tâm trạng buồn tủi của cô gái khi mất người mình yêu,

một cảm giác tiếc nuối như đã “để rơi lạng vàng” và sau đó là sự trống vắng trong

tâm hồn. Nhưng có lẽ cái mất lớn nhất là mất đi một tri kỷ, cô gái cảm thấy cô

đơn khi không biết chia sẻ vui, buồn cùng ai? Cái lạnh không đến từ mùa đông

mà đến từ sự đổ vỡ trong tình yêu. Những lúc buồn tủi, cô đơn ấy họ lại nhớ đến

lời thề năm xưa mà trong lòng đầy chua xót, đắng cay.

Đã từng lên Rịa xuống Ghềnh,

Cơm khoai, cháo sắn sao mình quên ta?

Đã từng lên Khuốt xuống La,

Sao người nỡ phụ tình ta hỡi người?

[42; 13]

Hay:

Đã từng vượt cửa Đại Nha,

Đã từng chèo lái khi qua Thần Phù;

Qua cơn sóng cả gió to,

Sao nàng lại dễ phụ ta hỡi nàng?

Mai còn vượt cửa Càn Giang,

Sóng to, gió lớn thì nàng gọi tôi!

[44; 13]

Bài ca dao mở đầu bằng những câu hỏi gieo vào lòng người đầy ai oán: đã

từng …sao người nỡ phụ ?…như hờn giận những kẻ bạc tình, có trãng quên sao,

có mới nới cũ, trà đạp lên lời thề xưa để lại vết thương tinh thần trong lòng bao

chàng trai, cô gái.

Nói về tình yêu đôi lứa, tình chồng nghĩa vợ ca dao là phương tiện truyền

tải một cách dễ dàng hơn, bởi ca dao vốn là tiếng nói từ trái tim, tiếng nói của tình

cảm con người. Những cung bậc cảm xúc trong tình yêu đôi lứa đã được ca dao

địa danh Ninh Bình thể hiện một cách uyển chuyển, tế nhị, mà cũng vô cùng sâu

sắc.Tuy nhiên không phải mối tình nào cũng kết thúc có hậu. Chính tình yêu và

71

bao mộng ước thật đẹp về tương lai là động lực, là nguồn sống để con người vượt

qua và hướng đến cái đẹp ấy. Nếu như con đường đi đến hạnh phúc toàn là thảm

đỏ thì người đi sẽ không ý thức được bước chân của ḿnh như thế nào; con đường

đi ấy phải có nhiều chông gai để từ đó phát huy được sự nỗ lực, tinh thần cầu tiến

của mỗi con người. Cho nên, dù có trắc trở, hờn trách nhau thế nào thì tình yêu

vẫn là một tiếng nói khát vọng hạnh phúc của con người từ xưa cho đến ngàn sau,

mà mỗi con người luôn trân quí và giữ gìn.

3.2.3. Tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình thể hiện tình bằng hữu, sự cạnh

tranh “công kích ” giữa các địa phương và tính đấu tranh

3.2.3.1. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tình bằng hữu

Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình mảng quan hệ xã hội chủ yếu ca ngợi

tình làng, nghĩa xóm, nhân dân coi nhau như anh em ruột thịt sẵn sàng giúp đỡ

nhau trong cuộc sống và là vũ khí sắc bén trong đấu tranh giai cấp. “Anh em Bồng

Hải, đạo ngãi Kim Sơn” [02; 421; 12]. Tổng Bồng Hải của huyện Yên Khánh xưa

gồm các xã : Khánh Thiện, Khánh Cường, Khánh Trung, Khánh Công, Khánh

Thành là vùng quê được coi là văn vật, nhân dân coi nhau như anh em, mối quan

hệ keo sơn bền chặt. Huyện Kim Sơn được thành lập năm 1829, đạo thiên chúa

giáo nhanh chóng du nhập và phát triển ra toàn huyện, nhất là khi xây dựng xong

nhà thờ đá Phát Diệm năm 1889. Tác giả dân gian nói ‘đạo ngãi’ là nói tới Đạo

Thiên Chúa giáo. Câu phương ngôn trên đã cho chúng ta thấy được tình đoàn kết

của nhân dân vùng Yên Khánh cũng như dân dân Ninh Bình nói chung.

3.2.3.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tính cạnh tranh “công kích”

giữa các địa phương

Trong quan hệ xã hội xưa ngoài ngoài những bài ca dao là vũ khí để đấu

tranh giai cấp thì cũng có rất nhiều bài ca dao các làng, xã “công kích” lẫn nhau,

nhưng chỉ là để làm nổi bật đặc điểm của vùng đó, hoặc là để cùng nhau vượt qua

khó khăn chung sống hòa bình xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

Ai vô Quán Cháo Đồng Giao

Má hồng để lại xanh xao mang về

72

[07; 144; 01]

Hay:

Ai đưa ta đến chốn này,

Bên kia Quán Cháo, bên này Đồng Giao

[07; 144; 01]

Hay:

Đồng Giao đi dễ khó về,

Trai đi có vợ, gái về có con.

[07; 144; 01]

Quán Cháo, Đồng Giao – địa danh thuộc địa phận thành phố Tam Điệp,

Ninh Bình, xưa kia nổi tiếng rừng thiêng, nước độc, cuộc sống khó khăn, vất vả,

nhiều người sống ở đây bị ngã nước nên rất gày gò, xanh xao. Nhiều người than

thở khi đến đây “Ai đưa ta đến chốn này”. Ngày nay cuộc sống của người dân

vùng này đã được cải thiện nhiều, chính vì vậy mà có những bài ca dao ca ngợi

Quán Cháo, Đồng Giao như là một sự thanh minh cho vùng đất này.

Ai vô Quán Cháo, Đồng Giao

Má hồng thêm thắm người nào cũng xinh.

[07; 144; 01]

Cũng nói về những vùng đất còn gặp nhiều khó khãn nhân dân Ninh Bình

còn nhắc tới những địa danh thuộc huyện Nho Quan, để nhắc nhở mọi người phải

cẩn thận khi đến vùng đất này.

Ai lên Cổ Đế, Đầm Đa,

Bủng beo da thịt chẳng ma nào nhìn.

[04; 13]

Hay:

Đàn ông mà chửa ang ang,

Không người làng Vĩnh, cũng sang làng Còng

[45; 13]

Hay:

73

Chưa đi chưa biết Vó Vồng ,

Đi thì mới biết sao chồng có mang.

[32; 13]

Cổ Đế thuộc Gia Viễn, Đầm Đa thuộc Lạc Thủy (Hòa Bình) là vùng đất

kéo dài dọc theo sông Bôi. Làng Vĩnh là làng Vĩnh Khương thuộc xã Quảng Lạc

và làng Còng thuộc xã Sơn Hà,Vó Vồng đều thuộc huyện Nho Quan, nơi đây

nước độc, muỗi rừng truyền bệnh sốt rét rất khủng khiếp. Những người ở vùng

đồng bằng lên đây thường bị mắc bệnh trướng bụng (ngã nước) giống như người

đàn bà có mang. Tác giải dân gian nói tới những địa danh này như một sự thấu

hiểu, thông cảm với người dân nơi đây và cũng nhắc nhở người dân nơi khác đến

đây sinh sống phải cẩn thận vì đây là vùng đất “Rừng thiêng, nước độc”. Ngoài ra

địa hình đồi núi ở một số xã của huyện cũng gây khó khăn cho không ít người dân

Cái cóc lăn lóc bờ ngòi

Lấy chồng Phú Lộc đi đồi quanh năm.

[25; 13]

Xã Phú Lộc huyện Nho Quan có nhiều đồi núi, người dân đi chăn dê, kiếm củi,

và sản xuất nông nghiệp đều phải leo đồi. Các cô gái nơi khác đến làm dâu vùng này

đều biết trước điều đó. Mà đâu chỉ có một số địa phương ở Nho Quan và một phần

Lạc Thủy, Hòa Bình có cuộc sống khó khăn mà ngay cả một số địa phương vùng đồng

bằng như Yên Mô đường xá đi lại cũng chẳng mấy dễ dàng.

Vật hành Yên Tế Lộ, vật thú Nộn Khê thê

[117; 20; 03]

Nước Vĩnh Khương, đường Yên Tế

[89; 111; 01]

Vĩnh Khương thuộc xã Quảng Lạc huyện Nho Quan xưa kia nước vùng này

rất độc ai đến đây cũng bị ngã nước (sốt rét). Vùng Yên Tế thuộc xã Yên Đồng

huyện Yên Mô đường đi lại khó khăn nên nhân dân trong vùng thường khuyên

nhau: Vật hành Yên Tế lộ có nghĩa là đừng đi đường Yên Tế. Làng Nộn Khê thuộc

xã Yên Từ, huyện Yên Mô, vào thời Lê Thánh Tông (1470 – 1497) một số người

74

từ đất Nộn Nam Châu (nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), di chuyển vào

vùng đất bồi ven đê Hồng Đức, lập ấp, đặt tên làng là Nộn Khê để ghi nhớ quê cũ

Lục Nộn và Côi Khê. “Nộn” là non trẻ, “Khê” là khe suối. Nộn Khê nghĩa là dòng

suối mới khai dòng. Dân làng Nộn Khê có nghề dệt vải truyền thống được nhiều

nơi biết tới. Một vùng quê khác của huyện Yên Khánh cũng có giao thông không

thuận tiện đó là hai xã Khánh Công và Khánh Thành.

Anh đi sứ sự mười đông,

Không bằng vượt lội Khánh Công, Khánh Thành;

Anh đi khắp chốn Nam - Thanh,

Không bằng vượt lội Khánh Thành, Khánh Công

[11; 13]

Khánh Công, Khánh Thành là hai xã phía đông của huyện Yên Khánh, xưa

kia đường xá đi lại khó khăn,vất vả nhất là những ngày mưa gió, bão lụt. Lời

người con trai nói với người con gái không chỉ để nói về sự khó khăn đường đi,

lối lại, mà đó còn là sự thấu hiểu, đồng cảm của người dân khi đến địa phương

này.

Một địa phương khác cũng thường bị “công kích” đó là thôn Đông Hội

Con gái dù đẹp như tiên,

Lấy chồng Đông Hội như thuyền chở phân.

[41; 13]

Thôn Đông Hội thuộc xã Ninh An, huyện Hoa Lư, là một thôn đồng chiêm

có nhiều khó khăn, vất vả, người con gái nào lấy chồng ở vùng này cũng đều coi

là “già trước tuổi”, vì vậy họ rất nhớ quê.

Cơm ăn một bát sao no,

Lấy chồng Đông Hội chỉ lo đường về.

[41; 13]

Trước đây là như vậy, còn bây giờ cuộc sống của người dân thôn Đông Hội

đã có nhiều cải thiện, người dân thôn Đông Hội cũng “phản pháo” lại, như một

lời thanh minh, một lời tự vệ.

75

Con gái mà xấu như ma,

Lấy chồng Đông Hội cũng ra thân người.

[41; 13]

Người dân huyện Gia Viễn tự hào vì có nước Kênh Gà - một nguồn nước

quí, hiếm. Họ “châm chọc” người dân Yên Mô.

Cô kia đẹp đẽ như tiên,

Tắm nước sông Kiền cũng xấu như ma;

Cô kia xấu xí như ma,

Tắm nước Kênh Gà cũng đẹp như tiên!

[36; 13]

Sông Kiền tức sông Càn ở huyện Yên Mô, nước sông nhiều phù sa, đục

ngầu. Kênh Gà là suối nước khoáng nóng ở thôn Kênh Gà, xã Gia Thịnh, huyện

Gia Viễn có nhiều chất khoáng, tắm và uống chữa được nhiều bệnh tật. Bằng cách

nói so sánh, nói quá “đẹp đẽ như tiên” với “xấu như ma” tác giả dân gian đã làm

nổi bật nét đặc sắc của quê hương Gia Viễn đó là có nguồn nước khoáng quí giá

có thể giúp người phụ nữ cải thiện được sắc đẹp.

Nói về vất vả của nghề mộc ở thôn Phúc Lộc (nay là phố Phúc Lộc, phường

Ninh Phong), nghề chèo đò ở thôn Hạ Trạo nay là phố Thiện trạo, phường Ninh

Sơn dân gian có câu:

Cái Cóc lặn lội bờ sông,

Lấy chồng Phúc Lộc chổng mông mà bào;

Cái Cóc lặn lội bờ ao,

Lấy chồng Hạ Trạo chèo đò quanh năm.

[24; 13]

Nay nghề thợ mộc đã đỡ vất vả lại có thu nhập cao thì người dân nơi đây

nhất là các cô gái đã tự hào nói rằng:

Lấy chồng thợ mộc sướng ghê,

Mạt cưa nhóm bếp, vỏ bào nấu cơm.

Vỏ bào thì cháy hơn rơm,

76

Mạt cưa nhóm bếp thơm hơn mùi trầm.

[25; 13]

Không chỉ “công kích” những làng, xã, thôn, bản có nhiều bất lợi về địa lý,

tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình còn đả phá những thói hư tật xấu của một số

người ở một số địa phương trong tỉnh.

Ai ơi chớ lấy gái La,

Vừa lười canh cửi, lại la mắng chồng.

[06; 13]

Một số chàng trai cho rằng gái làng La (La Phù, Ninh Khang, Hoa Lư) có

tật xấu là lười nhác và hay mắng chồng, biết được điều này các cô gái làng La đã

có phản ứng lại :

Em là con gái làng La,

Giồng dâu dâu tốt, giồng cà cà sai;

Hội làng vào đám tháng Hai,

Sắm vai Bộ Lĩnh thiên oai như thần;

Cờ lau phất giục ba quân,

Tiếng reo dậy đất, trống rần dậy non!

[62; 13]

Như vậy các cô gái làng La không chỉ có tài (sắm vai Bộ Lĩnh, gái giả trai)

mà còn rất đảm đang tháo vát, chắn vén việc đồng áng. “Giồng dâu dâu tốt, giồng

cà cà sai”.

Không chỉ “công kích” thói lười nhác, các chàng trai còn tiếp tục đả kích

thói trịch thượng hay bắt nạt chồng của một số cô gái vùng Gia Viễn.

Nước sông đổ lẫn nước ngòi,

Con gái Gia Viễn cầm roi dạy chồng.

Nước ngòi đổ lẫn nước sông,

Con gái Gia Viễn dạy chồng bằng roi.

[86; 13]

Đôi khi các cô gái cũng “công kích” các chàng trai quê Yên Mô:

77

Chẳng yêu anh ở Yên Mô

Bởi chưng em sợ bà cô ban chồng

[28; 13]

Như vây, tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện các quan hệ xã hội

như quan hệ anh em, bằng hữu giữa nhân dân các vùng, đấu tranh với các tầng

lớp áp bức bóc lột, cũng như sự ganh đua giữa các làng, các xã, công kích những

thói hư tật xấu của con người …tất cả tạo nên bức tranh đời sống khá chân thực

và sinh động các mối quan hệ xã hội của nhân dân Ninh Bình thời xưa.

3.2.3.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tinh thần đấu tranh

Trong đời sống xã hội phong kiến xưa, còn tồn tại nhiều tiêu cực mà dễ

nhận thấy nhất là việc các quan ăn hối lộ.

Đồng tiền lấp miệng khó chi

Sẵn cơm sẵn rượu việc gì mà lo

Ông lớn thì đánh miếng to

Ông nhỏ miếng bé thì đò êm xuôi

Ông Hương chín Ông Lý mười

Ông Xã tám rưỡi đò xuôi ầm ầm

[57; 417; 12]

Bài ca dao đã đả kích một loạt các ông quan trong xã hội từ quan lớn đến

quan bé, từ ông Hương, ông Lý đến ông quan xã cấu kết với nhau ăn hối lộ của

người dân. Ở vị trí nào, môi trường nào, hoàn cảnh nào họ cũng “đánh miếng” do

đó đồng tiền đã chi phối họ, miếng ăn đã làm cho kẻ cầm quyền tối mắt lại. Công

lý thuộc về kẻ có tiền. việc này phổ biến đến nỗi người dân coi đó là một luật lệ

khi phải đến cửa quan.

Bộ mặt của quan lại trong xã hội xưa còn xấu xa hơn nhiều, trong lúc đời

sống người dân vô cùng cực khổ thì bọn quan lại ra sức vơ vét của cải, đục khoét

bóc lột nhân dân.

Chém cha cái lũ áo dài

Ăn no đến tận mang tai vẫn lần

Nó lần đến bẹn khố dân

Trong ngoài bòn sạch không phân thứ gì

78

Ăn no rồi lại nằm khì

Mặc dân rên xiết khốn nguy nhọc nhằn

[29; 417; 12]

Lũ áo dài mà người dân nhắc đến trong bài ca dao chính là tầng lớp quan

lại xưa. Chúng lần (tìm), bòn (vét sạnh) hết mọi thứ của người dân đó là thủ đoạn,

âm mưu là dã tâm của bọn người không có lương tri, vô cảm. Không chỉ thế bọn

quan lại xưa còn là lũ người dâm dục mất hết nhân tính, là nỗi khiếp sợ của những

cô gái nơi thôn quê.

Em là con gái Yên Ninh

Em đi bán vải qua dinh ông Nghè

Mắt le mày lét quan ve

Thưa bẩm quan nghè tôi đã có con

Có con thì mặc có con

Sao cái nõn nòn nó chẳng ròn đi

[65; 28; 14]

Yên Ninh, nay thuộc thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh, Ninh Bình.

Những cô gái Yên Ninh Xưa muốn đi buôn bán làm ăn xa thường nhất là qua lại

mặt quan thường cải trang, giả dạng là gái đã có chồng con, thế mà bọn quan lại

chúng cũng chẳng tha, chúng ve vãn, tán tỉnh mặc cho người phụ nữ hết lời van

xin. Bộ mặt xấu xa tàn ác của bọn quan lại phong kiến càng được bộc lộ rõ khi

người dân đã thấy được sự bất công ngang trái đó.

Lên chùa cầu phật cầu trời

Xét cho một việc ở đời bất công

Canh nông sớm tối ngoài đồng

Suốt ngày cặm cụi chổng mông lên trời

Bữa cơm như bữa vét nồi

Đói cào đói rã mồ hôi ướt đầm.

Sống gì sống tối sống tăm

Khổ ngày, khổ tháng, khổ năm, khổ đời

Bắc thang lên hỏi ông trời

Cớ sao nỡ để kiếp người đắng cay

79

[76; 418; 09]

Hay:

Rạng ngày vác cuốc ra đồng

Tay cầm mồi lửa, tay ròng thừng trâu

Ruộng đầm nước cả bùn sâu

Suốt ngày cùng với con trâu cày bừa

Việc làm chẳng quản nắng mưa

Cơm ăn đắp đổi muối dưa qua ngày.

[88; 416; 12]

Hay:

Đắng cay tột đỉnh trời ơi

Cái nghèo cái khổ chẳng rời tôi ra

[46; 13]

Đời sống tối tăm, ngột ngạt của nhân ta trong xã hội phong kiến xưa được

tái hiện qua ca dao rất chân thực. Người nông dân lao động vất vả “Một nắng hai

sương” cặm cụi sớm tối ngoài đồng nhưng cái mà họ được hưởng chỉ là “Bữa

cơm như bữa vét nồi”, để rồi cái đói cứ quay quắt từ ngày này sang ngày khác.

Nhân dân ta đã nhận thức rất rõ về sự bất công đó, họ chỉ biết lên chùa cầu phật,

cầu trời, than thân trách phận.

Nhìn chung, có thể thấy ca dao địa danh Ninh Bình với nội dung phản ánh

về quan hệ xã hội , đồng thời cũng giúp chúng ta thấy được đời sống thực tế của

nhân dân Ninh Bình trong xã hội xưa. Bức tranh hiện thực đó càng làm cho chúng

ta càng thêm trân quí những giá trị trong hiện tại.

3.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời

Có thể nói rằng cuộc sống của nhân Ninh Bình xưa còn gặp nhiều khó khăn

vất vả, sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, năng xuất cây

trồng thấp, lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhưng không vì thế mà người dân Ninh

Bình mất đi sự lạc quan, yêu đời. Với họ nụ cười hồn nhiên, dí dỏm là niềm vui,

80

là động lực để họ vượt qua khó khăn xây dựng cuộc sống. Chúng ta hãy nghe lời

tỏ tình của chàng trai Gia Viễn chứa đầy sự lạc quan.

Lấy anh thì sướng hơn vua

Anh đi đánh rậm được cua kềnh càng

Mang về nấu nấu rang rang

Ăn vào mát ruột rõ ràng hơn vua

[75; 425; 09]

Vùng quê đồng chiêm Gia Viễn, nơi “Sáu tháng đi chân, sáu tháng đi tay”,

“Sống ngâm da chết ngâm xương” người dân chịu rất nhiều vất vả. Những ngày

tháng tám nước ngập mênh mông họ chỉ biết ra đồng kiếm thêm con cua con cá đắp

đổi qua ngày. Vất vả là vậy nhưng người dân nơi đây vẫn đùa vui tếu táo, tiếng

cười mang đến sự lạc quan để họ quên đi cái thực tại vất vả của mình. Trong cách

so sánh : Lấy anh th́ ì sướng hơn vua, cũng hàm chứa một suy nghĩ rất đáng trân

trọng đó là người dân nghèo cũng có niềm vui riêng, niềm vui đến từ sự thanh thản

trong tâm hồn, đến từ những điều bình dị trong cuộc sống gia đình.

Cũng nói về lòng lạc quan trong cuộc sống, nhân dân huyện Yên Mô xưa

thường nhắc lại bài ca dao.

Đầu thời đội đỉnh Núi Son

Chân thời đạp đất chon von Thần Phù

Bao giờ mở hội Trà Tu

Mẹ con ta lại võng dù xênh xang

[48; 425; 12]

Mượn lời người mẹ nói với con: hiện tại mẹ con mình còn nhiều vất vả, đầu

đội đỉnh núi Son, chân đạp đất Thần Phù, nhưng nhất định mẹ con mình sẽ sung

sướng, an nhàn khi làng mở hội Trà Tu và được ngồi võng dù xênh xang. (Tương

truyền thượng thư Ninh Tốn dấu tới 50 tấn vàng dưới thời Hậu Lê ở vùng núi Tam

Điệp, địa danh núi Son, Thần Phù, Trà Tu đều nằm dọc dãy núi Tam Điệp - từ

thành phố Tam Điệp tới cửa Thần Phù cổ nay là xã Yên Lâm, huyện Yên Mô).

81

Bài ca dao đã làm vơi đi bao mệt nhọc vất vả của người dân lao động, Bao giờ mở

hội Trà Tu? Câu hỏi thể hiện niềm tin vào ngày mai tươi sáng, một tương lai tốt

đẹp hơn đang chờ đợi họ ở phía trước.

Niềm vui lạc quan còn là sức mạnh tinh thần giúp cho cho người dân tích

cực hơn trong lao động sản xuất.

Kim Sơn đồng ruộng bao la

Đường làng thẳng tắp, biển xa rộng dài.

Nơi đây ruộng mật bờ xôi,

Lời ca đồng vọng sáng ngời Bắc – Nam.

[69; 13]

Kim Sơn là huyện ven biển nằm ở cực nam của tỉnh Ninh Bình và miền

Bắc, đây là một huyện thuần khiết đồng bằng, được thành lập bởi nhà doanh điền

sứ Nguyễn Công Trứ trong công cuộc khai hoang lấn biển cách đây 2 thế kỷ.

Vùng đất được biết đến với vai trò trung tâm của xứ đạo Phát Diệm, nay là giáo

phận Phát Diệm với mật độ dày đặc các nhà thờ công giáo. Người dân Kim Sơn

vui vì đồng đất quê mình bao la, trù phú, ruộng mật bờ xôi. Lời ca đồng vọng thể

hiện niềm vui trong lao động của người dân Kim Sơn trong công cuộc xây dựng

đất nước.

Có thể nói rằng những câu tục ngữ, ca dao địa danh phản ánh tinh thần lạc

quan của người dân chưa nhiều song cũng phần nào giúp chúng ta hiểu thêm về

đời sống tinh thần phong phú của người dân Ninh Bình, đó là niềm vui trong lao

động, niềm tin vào tương lai tốt đẹp đang ở phía trước, là động lực để người dân

quên đi thực tại vất vả hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc đó cũng là tư tưởng

tích cực rất đáng trân trọng.

Tiểu kết chương 3

Có thể thấy rằng tục ngữ, ca dao dịa danh Ninh Bình về Kinh nghiệm sản

xuất, tình yêu đôi lứa, quan hệ gia đình xã hội có số lượng khá phong phú. Về

kinh nghiệm sản xuất của nhân dân Ninh Bình được thể hiện chủ yếu qua những

82

câu tục ngữ, còn tình cảm gia đình và quan hệ xã hội lại được chủ yếu thể hiện

qua ca dao. Điều đó cũng dễ hiểu bởi tục ngữ thiên về tổng kết những kinh nghiệm

trong sản xuất nên mang tính trí tuệ cao.

Những câu tục ngữ địa danh Ninh Bình nói về kinh nghiệm sản xuất thường

ngắn gọn, có vần điệu, dễ thuộc và dễ nhớ, chủ yếu phản ánh kinh nghiệm trong

sản xuất nông nghiệp đặc biệt là kỹ thuật thâm canh cây lúa nước và các mối quan

hệ gia đình, xã hội của làng quê Ninh Bình thuở xa xưa.

Những bài ca dao địa danh Ninh Bình nói về quan hệ xã hội có số lượng lớn,

đó là những câu ca dao nói về tình yêu đôi lứa, tình chồng nghĩa vợ vừa ngọt ngào

đằm thắm, vừa mộc mạc chân thành. Tình cảm lứa đôi dung dị như nhánh lúa,

nhành khoai, tình cảm ấy gắn liền với cuộc sống lao động sản xuất, hòa quyện với

thiên nhiên, đất trời của Ninh Bình. Do vậy, mỗi lời ca dao địa danh Ninh Bình

như mỗi lời tỏ tình, mỗi lời thương yêu của người dân nơi đây và đều hướng về

một cuộc sống hạnh phúc tốt đẹp hơn. Tuy nhiên cũng có một số bài ca dao còn

mang những dự cảm, trăn trở về sự thay lòng đổi dạ trong tình yêu. Tất cả tạo nên

những cung bậc cảm xúc, một bức tranh đa màu sắc trong đời sống tình cảm của

người dân Ninh Bình. Một số bài ca dao ca ngợi tình bằng hữu của người dân ở

một số địa phương và không ít những bài ca dao thể hiện mối quan hệ làng xã còn

mang tính địa phương, cục bộ, tuy nhiên mức độ không gay gắt, nhiều bài chỉ đơn

thuần làm nổi bật những nét độc đáo ở địa phương mình.

Ngoài ra ca dao địa danh Ninh Bình còn là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu

tranh với những thói hư, tật xấu cũng như những bất công ngang trái trong xã hội

đó là một lũ quan lại sâu mọt bòn rút, đục khoét nhân dân, đẩy người dân vào một

cuộc sống tăm tối, đói khát. Những bài ca dao về nội dung này thường chỉ rõ nỗi

thống khổ của nhân dân và những nguyên nhân đẩy người dân đến nỗi thống khổ

đó.

Tình cảm con người vốn có những cung bậc cảm xúc khác nhau, trong một

mối quan hệ nhiều chiều, có những yêu thương nồng hậu lại có những dự cảm lo

lắng. Có tình bằng hữu đậm sâu nhưng lại có lúc “cục bộ” cạnh tranh địa phương.

83

Tục ngữ, ca dao địa danh đã giúp cho chúng ta nhận thức sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn

người dân Ninh Bình cũng như những góc ẩn khuất cần nhìn nhận thấu đáo hơn.

KẾT LUẬN

1. Thực hiện đề tài “Tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình”, luận văn bước

đầu khái quát về diện mạo văn học dân gian Ninh Bình nói chung, tục ngữ, ca dao

địa danh Ninh Bình nói riêng. Văn học dân gian Ninh Bình khá đa dạng, phong

phú cả về đề tài và số lượng, nhưng phong phú và đa dạng hơn cả là thần thoại,

truyền thuyết, cổ tích và tục ngữ, ca dao. Hầu hết tục ngữ, ca dao đều nhắc tới các

địa danh của tỉnh Ninh Bình. Điều đó cho thấy nét riêng của tục ngữ, ca dao địa

danh Ninh Bình mà mỗi chúng ta khi tìm hiểu, nghiên cứu về văn học dân gian

Ninh Bình không thể bỏ qua.

2. Về tục ngữ, ca dao Ninh Bình nói chung, tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình

nói riêng đều mang đậm nét về một vùng non nước hữu tình, nơi phát tích các

vương triều phong kiến tập quyền đầu tiên của đất nước ta. Mỗi tên làng, tên xã,

mỗi ngọn núi, dòng sông đi vào tục ngữ, ca dao địa danh đều vô cùng quen thuộc,

gần gũi và đậm nét cảm quan của người dân Ninh Bình. Đó là tình yêu quê hương,

đất nước, lòng tự hào về văn hóa, sản vật của địa phương cũng như kinh nghiệm

của người dân trong sản xuất, sinh hoạt và quan hệ xã hội. Qua lý giải tên gọi các

84

địa danh, tác giả dân gian đã thể hiện vẻ đẹp nội tâm, những xúc cảm nhiều chiều

cùng những nhận xét đánh giá tinh tế, xác thực về con người và sự vật của Ninh

Bình.

3. Luận văn trên cơ sở tiếp thu những kết quả sưu tầm, nghiên cứu của những

người đi trước, đồng thời sưu tập bổ sung và hệ thống hoá số lượng những câu tục

ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình. Từ đó phân loại, tìm hiểu giá trị nội dung,

nghệ thuật, trong đó chú trọng tìm hiểu, lý giải tên gọi, ý nghĩa các địa danh chứa

đựng trong mỗi câu tục ngữ, ca dao địa danh đó.

4. Luận văn đã phân tích, tìm hiểu nội dung phản ánh của tục ngữ, ca dao về địa

danh Ninh Bình thông qua những nhóm chủ đề chính. Ðồng thời luận vãn chỉ ra

giá trị, ý nghĩa cũng như khẳng định dấu ấn văn hóa địa phương đã tạo nên nét

đặc trưng riêng của bộ phận tục ngữ, ca dao này. Việc phân chia nhóm chủ đề

giúp chúng ta có được cái nhìn khái quát, định hướng tiếp nhận tục ngữ, ca dao

địa danh. Luận văn cũng tiến hành chỉ ra một vài đặc điểm, một số biện pháp nghệ

thuật thể hiện của tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình, qua đó thấy được nếp

cảm, nếp nghĩ và truyền thống sáng tạo của người dân nơi đây trong việc sản sinh

ra những tác phẩm văn học dân gian.

5. Qua kết quả nghiên cứu của luận văn, người viết hướng tới việc đề xuất cách

tiếp cận và giảng dạy tục ngữ, ca dao Ninh Bình trong chương trình Ngữ văn địa

phương. Đó là, trên cơ sở nắm vững thi pháp tục ngữ, ca dao nói chung, việc tìm

hiểu địa danh được đề cập trong mỗi câu tục ngữ, ca dao bao gồm cả về nguồn

gốc và ý nghĩa tên gọi, cách nói, cách sử dụng từ ngữ, phương tiện biểu đạt, … sẽ

giúp ta thấy được nếp cảm nghĩ riêng, cũng như thấy được vẻ đẹp và giá trị tiềm

ẩn sâu xa chứa đựng trong mỗi câu tục ngữ, ca dao mà người dân Ninh Bình đã

lưu giữ lâu nay.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Danh Án, Ngô Hạo Phu, Trần Doãn Giác, (soạn vào năm 1788 - 1789

đến nửa thế kỷ XIX), “Nam phong giải trào”.

2. Nguyễn Nhu An (số 12/1993), “Một số đặc điểm nhân cách con người Việt

Nam qua ca dao, tục ngữ”, Tạp chí nghiên cứu giáo dục.

3. Trần Thị An (2000), “Tổng hợp văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt

Nam”, Nhà xuất bản khoa học xã hội - Hà Nội

4. Phạm Thị Kim Anh (số 1/2006), “Những triết lý giáo dục truyền thống qua

tục ngữ, ca dao”, Tạp chí dạy học và ngày nay.

5. Huỳnh Tịnh Của (1897), “Tục ngữ, cổ ngữ gia ngôn”.

6. Nguyễn Văn Chiểu (1936), “Phong giao, ca dao, phương ngôn, tục ngữ”.

7. Nguyễn Nghĩa Dân (2001), “Ca dao Việt Nam 1945 – 1975”. Nhà xuất bản

Giáo dục.

8. Hàn Thái Dương (1920), “Tục ngữ và cách ngôn”.

9. Chu Xuân Diên (1997), “Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại”,

Táp chí văn học số 4.

86

10. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1995), “Tục ngữ Việt

Nam”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

11. Hà Đan (2006), “Từ chữ “nghĩa” trong ca dao tìm hiểu về một nét ứng xử

trong truyền thống văn hóa người Việt”, Tạp chí ngôn ngữ số 12.

12. Phan Thị Đào (1999), “ Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam”. Nhà xuất bản

Thuận Hóa.

13. Anh Đào, “Một số thành ngữ, tục ngữ, ca dao về lời ăn tiếng nói”, Tạp chí

ngôn ngữ số 2.

14. `Hoàng Minh Đạo (2006), “Tiếp cận tục ngữ từ góc độ văn hóa học”, Tạp

chí văn hóa dân gian – Hà Nội.

15. Nguyễn Thái Hòa (1997), “Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp”. Nhà

xuất bản Khoa học xã hội.

16. Nguyễn Thị Bích Hà (?), “Giáo trình văn học dân gian Việt Nam”, Trang 16.

17. Nguyễn Việt Hương (1999), “Tình hình sưu tầm, biên soạn, và nghiên cứu tục

ngữ Việt Nam từ 1975 đến nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian – Hà Nội.

18. Vũ Thị Thu Hương (2007), “Ca dao Việt Nam – những lời bình – tuyển

chọn”, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.

19. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002), “Văn

học dân gian Việt Nam”, Nhà xuất bản Giáo dục.

20. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Phạm Đăng Nhật (1995), “Kho tàng ca dao

người Việt”, Nhà xuất bản văn hóa thông tin.

21. Nguyễn Xuân Kính (2006),“Thi pháp ca dao”. Nhà xuất bản Đại học Quốc

gia Hà Nội.

22. Nguyễn Xuân Kính (2002), “Tổng tập văn học dân gian người Việt – tập

1”, Nhà xuất bản khoa học xã hội – Hà Nội.

23. Lê Như Kỳ (1999), “Làm thế nào để nhận biết được sự khác nhau giữa ca

dao và tục ngữ”, Tạp chí văn nghệ dân gian Phú Thọ.

24. Đỗ Thị Tuyết Lan (2007), “Không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại”,

Luận văn Thạc sỹ, Đại học sư phạm Thái Nguyên.

87

25. Mã Giang Lân (1995), “Tục ngữ ca dao Việt Nam”, Nhà xuất bản Giáo dục.

26. Phan Ngọc Liên (1992), “Cách ngôn tục ngữ và đạo đức”, Nhà xuất bản

Giáo dục.

27. Nguyễn Hữu Long (4/1997), “Đi tìm bức tranh tâm lý trong trong kho tàng

tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu giáo dục.

28. Phạm Việt Long, “Tục ngữ, ca dao và việc phản ánh phong tục tập quán

của người Việt trong quan hệ gia đình”, Nhà xuất bản văn hóa thông tin.

29. Nguyễn Xuân Lạc (1996), “Quan điểm tiếp cận và phương pháp dạy học

ca dao ở Phổ thông trung học”, Luận án PTS KH sư phạm – tâm lý.

30. Vũ Như Lâm và Nguyễn Đa Gia (1933), “ An Nam tục ngữ”.

31. Nguyễn Văn Mại (1914), “Việt Nam phong sử”

32. Nguyễn Can Mộng (1941), “Ngạn ngữ phong dao”.

33. Nguyễn Văn Ngọc (1928), “Tục ngữ phong dao” Nhà xuất bản Vĩnh Hưng

Long.

34. Triều Nguyên (2003), “Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo

mô hình cấu trúc” Nhà xuất bản Thuận Hóa.

35. Triều Nguyên (2006), “Khảo luận về tục ngữ người Việt”, Nhà xuất bản

giáo dục thành phố Hồ Chí Minh.

36. Bùi Mạnh Nhị (1997), “Công thức truyền thống và những đắc trưng cấu

trúc của ca daio dân ca trữ tình”, Tạp chí văn học.

37. Vũ Ngọc Phan (1968), “Phát huy nghệ thuật truyền thống của ca dao xưa

trong những sáng tác ca dao mới”, Tạp chí văn học.

38. Vũ Ngọc Phan (1978) “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, (Xuất bản lần

đầu năm 1955 đến nay đã tái bản nhiều lần)

39. Vũ Đức Phúc (1970), “Qui luật phát triển của văn học dân gian cũ và văn học

truyền miệng hiện đại từ sau cách mạng tháng Tám”, Tạp chí văn học.

40. Lê Trường Phát (2000), “Thi pháp văn học dân gian”, Nhà xuất bản Giáo dục.

41. Nguyễn Hằng Phương (2009), “Sự chuyển đổi thi pháp từ ca dao cổ truyền

đến ca dao hiện đại”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

88

42. Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2001), “Văn

học dân gian Việt Nam”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Hoàng Tiến Tựu (1990), “Văn học dân gian Việt Nam – tập 2” , Nhà xuất

bản Giáo dục.

44. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), “Giảng văn văn học dân gian

Việt Nam”, Nhà xuất bản giáo dục.

45. Trần Ngọc Thêm (1997), “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Trường Đại học khoa

học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.

46. Trần Thị Thu Trang (2005), “Đặc điểm lối miêu tả diện mạo con người

trong ca dao người Việt”, Luận văn Thạc sỹ.

47. Đỗ Bình Trị (1991), “Văn học dân gian – tập 1”, Nhà xuất bản giáo dục.

48. Trần Quốc Vượng, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ Dung, Trần

Thúy Anh (2006), “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Nhà xuất bản giáo dục.

49. Phạm Thu Yến (chủ biên), Nguyễn Bích Hà, Lê Trường Phát( 2002), “Văn

học dân gian Việt Nam”, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

50. Phạm Thu Yến (1988), “Thế giới nghệ thuật ca dao”, Nhà xuất bản Giáo dục.

89

PHỤ LỤC 1

TƯ LIỆU KHẢO SÁT

1. Đỗ Văn Chuyến (2010), Văn học dân gian Ninh Bình - Cội nguồn sức mạnh

tương lai phát triển, Nhà xuất bản văn học, H.

2.Thích Minh Đức, Lã Đăng Bật (2008), Chùa Dầu di tích lịch sử văn hóa, Nhà

xuất bản văn hóa dân tộc, H.

3. Trần Đình Hồng (1998), Tục ngữ, Ca dao Yên Mô, Nhà xuất bản văn hóa –

thông tin, H.

4. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia

Hà Nội, H.

5. Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường, Nhà

xuất bản giáo dục, H.

6. Vũ Văn Lâu (2015), Văn hóa dân gian về 12 con giáp, Nhà xuất bản khoa học

xã hội, H.

7. Phạm Thị Ánh Nguyệt (2013), Tài liệu Ngữ văn địa phương Ninh Bình lớp

6,7,8,9, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, H.

8. Vũ Ngọc Phan (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nhà xuất bản khoa

học xã hội, H.

90

9. Tài liệu giảng dạy của Đại học Hoa Lư.

10. Tài liệu sưu tầm của tác giả luận văn.

11.Tỉnh ủy Ninh Bình (2010), Địa chí Ninh Bình , Viện khoa học xã hội Việt

Nam, biên tập, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, H.

12. Trương Đình Tưởng (2004), Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, Nhà xuất

bản thế giới, H.

13. Trương Đình Tưởng, Ninh Bình qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ và ca vè, (tài

liệu chưa công bố).

14. Đặng Hữu Vân (2009), Ngữ văn Ninh Bình, Sở giáo dục và đào tạo Ninh Bình

phát hành.

PHỤ LỤC 2 VĂN BẢN TỤC NGỮ, CA DAO SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

1. Tục ngữ:

[01; 13]

- Ác độc làng Gành, Hiền lành làng Khánh; Hay đánh Trà Tu; Hay thù làng Núi.

[02;421; 12]

Anh em Bồng Hải, đạo ngãi Kim Sơn.

Làng Gành hay còn gọi là làng Ghềnh, một làng cổ bên đường Thiên Lý, thuộc Ðồng Giao, nay là đất thôn Lý Nhân, xã Yên Bình, TP Tam Ðiệp. Xưa kia, theo truyền ngôn, người làng này vì mâu thuẫn với làng Cổ Do, cũng là một làng cổ bên đường Thiên Lý, gần cầu Ghềnh, họ đã giết nhiều ngýời làng Cổ Do trong một đêm. Vì vậy dân gian gọi làng Ghành/Ghềnh là làng bất nhân! Làng Khánh sau này gọi là làng Ðàm Khánh, nay thuộc xã Yên Bình, TP Tam Ðiệp. Làng Tu nay là làng Trà Tu, thuộc xã Yên Thắng, huyện Yên Mô. Làng Núi là tên cổ, nay là Bình Sơn, thuộc xã Mai Sơn, huyện Yên Mô. Tổng Bồng Hải của huyện Yên Khánh xưa gồm các xã : Khánh Thiện, Khánh Cường, Khánh Trung, Khánh Công, Khánh Thành là vùng quê được coi là văn vật, nhân dân coi nhau như anh em, mối quan hệ keo sơn bền chặt. Huyện Kim Sơn được thành lập năm 1829, đạo thiên chúa giáo nhanh chóng du nhập và phát triển ra toàn huyện, nhất là khi xây dựng

91

Ao Đông Lân, dân Mai Xá

[03; 20; 1]

Bánh giầy nếp cái, con gái họ Ngô.

[04; 422; 12]

[05; 13]

Bánh lá La Mai Bánh gai Cam Giá Bánh gai Cam giá Bánh lá Bạch Cừ

[06; 20; 3]

Bảy thôn Bồ Ba thôn Bót Thua đám hát Làng Bình Hào

[07; 13]

Bện thừng Cổ Đà, Tạc đá Dương Vũ.

[08; 13]

Bùi Kỳ Lão, Gạo làng Mô.

[09; 13]

Bụng Hạ Giá, Dạ Yên Ninh

[10; 13]

Bưởi Lưu phương, Tương Vân Sàng.

xong nhà thờ đá Phát Diệm năm 1889. Tác giả dân gian nói ‘đạo ngãi’ là nói tới Đạo Thiên Chúa giáo. Dân làng Đông Lân đào ao phạm vào long mạch nước đỏ chảy ra như máu, khiến các cụ cao niên làng Đông Lân cứ ốm rồi chết dần. Dân làng Mai Xá, Trực Lệ, Ý Yên, Nam Định đến làng Yên Mô Thượng làm ăn, họ chém đá thề đồng sinh, đồng tử giữ gìn mảnh đất này. Sau này làng Côi trì mới được thành lập. Bánh dày nếp cái thì dẻo ngon, con gái họ Ngô theo quan niệm dân gian thì xinh đẹp, nết na, chiều chồng. (họ Ngô dòng họ lớn ở Yên Mô, và Hoa Lư Ninh Bình). Có người đọc: "Bánh gai Cam Giá/ Bánh lá La Phù". La Phù là thôn La Phù, thuộc xã Ninh Khang, huyện Hoa Lư. La Mai: thôn thuộc xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư. Làng Cam giá thuộc phýờng Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Làng Bạch Cừ thuộc xã Ninh Khang, huyện Hoa Lư. Bánh lá, bánh gai thuộc hai vùng này ðều rất thõm ngon. Làng Bồ Xuyên xã Yên Thành, Yên Mô có 7 thôn, làng Bạch Bát có 3 thôn, làng Bình Hào heo hút hẻo lánh, thế nhưng vào hội mùa xuân trai làng Bồ Xuyên và Bạch Bát đều không thể hát đối đáp được với những cô gái làng Bình Hào. Làng Cổ Ðà thuộc xã Yên Phú, huyện Yên Mô có nghề bện thừng. Làng Dương Vũ thuộc xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư có nghề tạc đá mỹ nghệ. Kỳ Lão là một bản thuộc xã Kỳ Phú, có trồng nhiều cây bùi. Làng Mô thuộc xã Yên Quang có giống lúa thơm ngon, hai địa danh này đều thuộc huyện Nho Quan. Thôn Hạ Giá thuộc xã Khánh Cư; Yên Ninh: thị trấn huyện lỵ, huyện Yên Khánh. Câu tục ngữ cho thấy những người dân Hạ Giá và những người dân ở thị trấn Yên Ninh đều rất tốt bụng, sống lương thiện, ngay thẳng. Lưu Phương là một xã thuộc huyện Kim Sơn có giống bưởi quí, chợ Vân

92

[11; 13]

Cá làng Vân, Cần làng Hối.

[12; 17,18; 3]

Cái thác Kênh Lê Chẳng bằng trăm suối chảy về Yên Tế Trăm suối Yên Tế Chẳng bằng nước thiêng Quán Cháo Nước thiêng Quán Cháo Không bằng hang cáo Trà Tu Hang cáo Trà Tu Không bằng sóng Phù dữ dội

Sàng, nay là chợ Rồng, thành phố Ninh Bình. Xưa kia, còn có thôn/làng Vân Sàng ven sông Vân Sàng, nhưng nay thôn này không còn nữa. Thôn Vân Sàng có nghề làm tương bần khá nổi tiếng. Làng Vân là làng Vân Thị có nghề nuôi cá. Làng Hối là làng Tuỳ Hối. Có nghề trồng rau cần. Cả hai làng này thuộc xã Gia Tân, huyện Gia Viễn. Kênh nhà Lê có hai ba sông chảy về thủy triều lên xuống. Làng Yên Tế có nhiều núi bao bọc, thác ghềnh, mùa mưa thường bị ngập lụt. Quán Cháo rừng núi Tam Điệp âm u nhiều khe nước có lá rụng nên rất độc. Hang cáo Trà Tu là quán thờ rừng sâu rậm rạp, nơi tập trung nhiều thú dữ, khiến người nào qua đây cũng hoảng sợ. Cửa biển Thần Phù mênh mông nhiều lớp sóng dữ.

Cam Lai Thành,chanh Thượng Kiệm.

Xã Lai Thành, xã Thượng Kiệm thuộc huyện kim sơn. Cam lai Thành, chanh Thượng kiệm nổi tiếng thơm ngon.

[13; 22; 11]

[14; 13]

Cam Giá đào ngòi, Phúc Am quay cá.

[15; 1 8; 3]

Cản bèo Nhuệ Giang Không bằng khúc cản kênh Càn Khúc cản Kênh càn Không bằng đắp đằng đê Đức Đắp đằng đê Đức Không bằng lấp vực ao Trì Lấp vực ao Trì Không bằng muối kỳ Mòn Non Muối kỳ Mòn Non Không bằng hang Lòn động quỷ Hang Lòn động quỉ Không bằng nước rỉ hang Voi

Phúc Am là làng Phúc Am thuộc xã Ninh Thành, huyện Gia Khánh, nay thuộc phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình. Làng Phúc Am xưa kia có tục thờ thần cá, có con cá gỗ rất to, dài tới 3m. Làng Cam Giá (Ninh Khánh) có tục đào vét ngòi Oản, tiếp giáp với làng Phúc Am. Hễ thấy bên Phúc Am quay tượng cá thì bên làng Cam Giá lại đào vét ngòi Oản, và ngược lại. Dân gian cho rằng phải làm nhý thế dân làng mới an thái. Kênh Càn (Sông Càn) chảy từ sông Trinh Giang về sông Ân (Kim Sơn) hai bờ đê sông nhỏ bé nước các nơi dồn về như thác, có khi làm vỡ đê mùa màng thất bát. Đê Đức là con đê dài hơn hai chục cây số từ cửa biển Thần Phù tới xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh do vua Lê Thánh Tông huy động nhân dân đắp để ngăn dòng nước mặn. Nhà vua giao cho tướng Lê Niệm lấy thuyền chở đá ở các núi về neo lại rồi chọc thủng thuyền đánh đắm mà thành đê. Vực Ao Trì là vực do quá trình đắp đê Hồng Đức để lại cần phải

93

Nước rỉ hang Voi Không bằng núi Vàng đòi của

san lấp. Khi công việc đắp đê hoàn thành (1471) tướng Lê Niệm cho thành lập làng Thiên Trì, nhân dân nhớ ơn tướng Lê Niệm nên lập đền thờ ngài trên Núi Voi, đường lên núi nhiều khi trơn trượt các cụ già leo lên núi rất vất vả. Cửa biển Thần Phù sóng dâng cao như quả núi nước mặn dội vào chân non lồi lõm, lỗ rỗ như là sâu quảng. Làng Mã Tiên, xã Yên Đồng, trong làng có một cái hang rất hoang vắng nhiều thú dữ tụ tập nhất là đàn khỉ độc đít đỏ nên nhân dân vùng này gọi là Động Quỷ. Xã Yên Mạc có một dãy núi tuyệt đẹp hình giống một con voi, tương truyền tướng Lê Niệm ngồi trên mình voi chỉ huy nhân dân đắp đê, và quân Lê – Mạc bao lần chinh chiến trên mình voi khiến cho voi bị nhiều thương tích, trong bụng voi có một vòm trời hang động tiên kỳ diệu, nơi đây có một ngôi chùa nguy nga, có tượng phật bà nghìn tay, nghìn mắt, suốt năm nước chảy thánh thót. Dân gian quen gọi là Hang Voi. Gần thành Lệ Thiên Phúc, làng Quảng Nạp Yên Thắng có một cái núi rất sâu và rộng tương truyền nơi đây có một người con gái bị bị một vị khách người Tàu bắt lên núi để làm thần giữ của nên nhân dân quen gọi là núi Vàng.

Cày sâu bừa nát, kiếm bát mà ăn.

Kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp của nhân dân Ninh Bình.

[16; 22;09]

[17; 22; 9]

Chè Trại lạo (Làng Lạo), gạo Làng Bái

Chè làng Lạo, gạo làng Hốt.

[18; 22;09]

Chè trại Lạo, gạo Vô Hốt.

[19; 13]

Trại Lạo thuộc xã Đồng Phong, huyện Nho Quan có giống chè lá nhỏ, dày, nước sánh. Làng Bái nay thuộc thị trấn Nho Quan có giống lúa (gạo) hạt to, mẩy đều rất dẻo và thơm ngon. Làng Lạo nay thuộc xã Đồng Phong, làng Hốt thuộc xã Đức Long, huyện Nho Quan. Chè làng Lạo, gạo làng Hốt nổi tiếng thơm ngon. Làng Lạo nay thuộc xã Ðồng Phong, làng Hốt thuộc xã Ðức Long, huyện Nho Quan. Chè làng Lạo, gạo làng Hốt nổi tiếng thơm ngon.

94

Chết đường chết sá, Không bằng Đa Giá vào nhà.

[20; 13]

[21; 422; 12]

Chiếu Bồng Hải, vải Nộn Khê.

[22; 13]

Chiếu Bồng Hải, vải Yên Ninh.

Chiếu làng Chẹo, Kẹo chợ Rồng.

[23; 13]

Chớp Núi Bùng thì chớ,

Chớp Núi Lớ thì mưa.

[24; 29; 14]

[25; 13]

Chớp Đồng Cân , Ra sân chạy lúa.

Chớp núi Đái, quái Hang Mo

[26; 13]

Con gái La Mai, bánh gai Cam Giá.

[27; 422; 12]

Làng Ða Giá thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Câu tục ngữ nhắc nhở mọi người cần chú ý khi tiếp xúc với người dân ở địa phương này. Tổng Bồng Hải xưa nay thuộc các xã Khánh Thiện, Khánh Cường, Khánh Thành, Khánh Công có nghề dệt chiếu đẹp nổi tiếng, xưa đã từng tiến vua. Làng Nộn Khê nay thuộc xã Yên Từ huyện Yên Mô có nghề dệt vải lâu đời, vải dệt đẹp nổi tiếng trong vùng. Bồng Hải thuộc Yên Khánh, có nghề dệt chiếu đẹp nổi tiếng, xưa đã từng tiến vua; Làng Nộn Khê (xã Yên Từ, huyện Yên Mô), có nghề dệt vải lâu đời, vải dệt đẹp nổi tiếng trong vùng. Yên Ninh: chợ huyện lỵ huyện Yên Khánh. Làng Chẹo thuộc phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình, có nghề dệt chiếu, chợ Rồng nay thuộc phường Vân Giang, thành phố Ninh Bình có nghề nấu kẹo (kẹo lạc, kẹo vừng, kẹo mạch nha...) Núi Bùng nay thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Núi Lớ thuộc xã Ninh Nhất thành phố Ninh Bình. Theo dân gian thì chớp núi Bùng thì không mưa, ngược lại chớp núi Lớ thì có mưa. Ðồng Cân: tên một quả núi mọc giữa cánh ðồng, thuộc xã Ninh Khang, huyện Hoa Lý. Theo kinh nghiệm dân gian hễ thấy chớp phía núi Ðồng Cân thì thế nào cũng có mưa. Núi Ðái: Tên chữ là Ðái Sơn, hoặc Hoành Sơn, núi nằm ngang so với hướng núi khác trong khu vực nên có tên gọi thế, nay thuộc xã Yên Bình, TP Tam Ðiệp. Hang Mo, hang núi thuộc huyện Yên Mô. Chớp Núi Ðái, quái hang Mo thường báo hiệu những hiện tượng thời tiết bất thường cần phải cảnh giác. Con gái làng La Mai (nay thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư) có tiếng là xinh đẹp nết na. Bánh gai làng Cam Giá (nay thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh B́ nh) nổi tiếng thơm ngon.

95

[28; 13]

Con gái La Mai, Con trai Cam Giá.

[29; 421; 12] Cờ Điềm, trống Hối, hội La Mai.

La Mai - thôn thuộc xã Ninh Giang; Cam Giá - thôn thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Con gái làng La Mai, con trai làng Cam Giá nổi tiếng giỏi giang, đảm đang, tháo vát. Trong ngôi đền thờ Thánh Nguyễn ở làng Điềm Giang (Gia Thắng, Gia Viễn) có lá cờ thần ngũ sắc rất to và đẹp, mỗi chiều dài 5 mét. Trống làng Tùy Hối (Gia Tân, Gia Viễn) vừa to, vừa đẹp, đánh kêu vang cả một vùng. Hội đền Thánh Cả làng La Mai (Ninh Giang, Hoa Lư), cứ 6 năm mở hội một lần vào ngày 10 tháng 3 âm lịch rất đông vui, có nhiều trò chơi dân gian đặc biệt là có tế Kỳ Phúc (cầu phúc lành cho dân).

Của Thiên Quan, Hoàn Đế Viến.

Thiên Quan là tên phủ Thiên Quan, sau đổi thành huyện Nho Quan. Ðế Viến: địa danh thuộc xã Gia Phú, Gia Viến.

[30; 13]

[31; 01; 10]

Củi Làng Hốt, tốt vì dây, Củi Châu Sơn, tốt đầu đầy.

Đại Hữu sinh vương, Điềm Dương (Giang) sinh thánh

[32; 418; 12]

Làng Hốt thuộc xã Lạc Vân, làng Châu Sơn thuộc xã Phú Sơn huyện Nho Quan. Củi làng Hốt tốt vì dây: người dân làng Hốt bó củi bán thường buộc nhiều dây. Củi Châu Sơn, tốt đầu đầy: người dân làng Châu Sơn thì bó củi đầy đặn hơn đầu trên, đầu dưới gần bằng nhau. Đại Hữu nay thuộc xã Gia Phương huyện Gia Viễn là quê hương của vua Đinh Tiên Hoàng. Điềm Dương (Điềm Giang) nay thuộc xã Gia Thắng là quê hương của đức Thánh Nguyễn Minh Không – vị Quốc sư triều Lý. Đại Hữu, Điềm Dương nơi sinh ra Đế Vương, nơi sinh ra Quốc Thánh

[33;419; 12]

Đại Hữu làm sao, Đào ao làm vậy.

Đại Hữu (Đại Hoàng) nay thuộc xã Gia Phương huyện Gia Viễn, quê hương của vua Đinh. Đào Ao (Đào Áo/Đào Úc) nay thuộc xã Gia Phú, Liên Sơn, Gia Hưng huyện Gia Viễn là nơi Đinh Bộ Lĩnh Được bầu làm Trưởng, ở đây có đền thờ vua Đinh. Hàng năm cứ vào dịp ngày 10 tháng 3 âm lịch thường có lễ hội tưởng nhớ vua Đinh. Nếu ở Đại Hữu mở hội tế lễ như thế nào, thì ở Đào Ao cũng làm như vậy.

96

Đan rế Quảng Công, múa rồng Xuân Vũ.

[34; 13]

Đánh trống Giáp Nam, hay làm Giáp Trung, anh hùng Giáp Đông.

[35; 421; 12]

[36; 13]

Đầm Bàn rộ thì ráo, đầm Láo rộ thì mưa

[37; 20; 1]

Đê Hồng Đức,vực Mô Càn.

Đền Đinh thượng miếu, đền Lê hạ từ.

[38; 420; 12]

[39; 20; 3]

Đi làng Nuốn , uống Nộn Khê.

Quảng Công thuộc xã Yên Thái, huyện Yên Mô có nghề đan rế. Xuân Vũ thuộc xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư có truyền thống múa rồng rất đẹp. Thôn Kiến Ốc xã Khánh Trung, huyện Yên Khánh trước đây có 3 giáp : Nam, Trung, Đông. Mỗi giáp lại có đặc điểm riêng : Giáp Nam có nhà thờ xứ đạo, sáng sớm, hoặc chiều tà lại vang lên những hồi trống để gọi con chiên đến nhà thờ. Còn người dân Giáp Trung thì chăm chỉ nghề nông. Người dân Giáp Đông thì vượt khó, vượt nghèo, chăm chỉ học hành, thi cử đỗ đạt Ðầm Bàn thuộc xã Phú Lộc; Ðầm Láo thuộc xã Vãn Phú, huyện Nho Quan. "Rộ": từ cổ, là cảnh nước suối chảy mạnh từ trên cao xuống gây tiếng động lớn, nhân dân gian cũng thường nói "rộ lên" có nhĩa là mạnh lên, nổi lên. Ðầm Bàn rộ thì ráo, đầm Láo rộ thì mưa – kinh nghiệm của nhân dân Ninh Bình về thời tiết. Đê Hồng Đức là con đê dài hơn hai chục cây số từ cửa biển Thần Phù tới xă Khánh Cường, huyện Yên Khánh do vua Lê Thánh Tông huy động nhân dân đắp để ngăn dòng nước mặn. Nhà vua giao cho tướng Lê Niệm lấy thuyền chở đá ở các núi về neo lại rồi chọc thủng thuyền đánh đắm mà thành đê. Vực Mô Càn nay thuộc xă Yên Mạc, Yên Mô h́ ình thành trong quá tŕnh đắp đê Hồng Đức. Đền thờ vua Đinh xưa kia thuộc làng Yên Thượng, đền thờ vua Lê thuộc làng Yên Hạ, nay đều thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư. Theo quan niệm dân gian đền vua Đinh xây cất cao hơn đền vua Lê để ngầm so sánh công lao của hai vị vua đối với đất nước Làng Nuốn xã Yên từ có nghề dệt vải nhờ đó mà đời sống người dân có phần sung sướng hơn các làng khác, theo hương ước, con gái của làng đi lấy chồng cùng làng phải nộp treo cho làng 500 viên gạch đỏ, và nộp cho dân làng 1000 viên gạch đỏ nếu lấy chồng làng khác, nhờ đó

97

Địch Lộng Tiến sĩ, Đoan Vĩ Quận công.

[40; 420; 12]

Điềm Giang Thánh Cả, Điềm Xá Thánh Nhị

[41; 419; 12]

[42; 13]

Đói chạy lên Bắc, Giặc chạy vào Vũ Lâm.

Đồ gỗ Phúc Lộc, Vải mộc La Mai.

[43; 13]

[44; 18; 3]

Đục khẩu Thần Phù Không bằng đào mù núi Sú Đào mù núi Sú Không bằng vỡ đê Thần Phù Vỡ đê Thần Phù

mà mà con đường làng luôn rộng rãi, xanh mát bóng dừa. Làng Nộn Khê văn hóa thanh lịch, có nhiều trí thức, ở đây thường uống trà vào buổi sáng. Các cụ rất cầu kỳ trong việc chọn trà, luộc chén, chọn ấm vì vậy uống trà ở Nộn Khê đã trở thành nét ẩm thực độc đáo của người dân nơi đây. Địch Lộng nay thuộc xã Gia Thanh huyện Gia Viễn nơi xưa kia có nhiều người đỗ Tiến sỹ ? Đoan Vĩ nay thuộc xã Thanh Hải huyện Thanh Liêm (tỉnh Hà Nam) nới xưa kia có nhiều người làm tới chức Quận Công ? Cách so sánh trên chỉ là đề cao tinh thần thượng văn, thượng võ của hai địa phương này bởi trên thực tế cho đến nay vẫn chưa thấy có tên các vị Tiến sỹ, Quận công nào ở hai địa phương trên. Điềm Giang nay thuộc xã Gia Thắng huyện Gia Viễn – nơi có đền thờ đức Thánh Nguyễn Minh Không dân gian quen gọi là đức Thánh Cả. Điềm xá nay thuộc xã Gia Tiến huyện Gia Viễn – nơi có đền thờ Thái sư Tô Hiến Thành thời Lý, dân gian quen gọi là đức Thánh Nhị. Theo dân gian cha mẹ của Tô Hiến Thành đã về đền Đức Thánh Nguyễn cầu tự sau đó sinh ra Tô Hiến Thành. Bắc: chỉ vùng Kinh Bắc xưa (nay là vùng Bắc Ninh); Vũ Lâm: thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, nơi còn di tích cung Thái Vi của nhà Trần lập nên để chống nhau với quân Nguyên Mông trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 và thứ 3 của quân dân Ðại Việt (1285-1288). Phố Phúc Lộc thuộc phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình, có nghề mộc nổi tiếng, sản phẩm mộc ở đây rất bền và đẹp. Thôn La Mai thuộc xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư có nghề dệt vải, vải mộc (vải chưa nhuộm) ở đây rất bền chắc. Thời xưa khi Mã Viện truy đuổi quân của Hai Bà Trưng chạy vào Thanh Hóa cửa biển dữ dội không thể cho quân đi bằng đường thủy được nên Mã Viện đã sai quân đi ven núi Biện Sơn, cho quân đục

98

Không bằng vỡ vù đê Thắng

[45; 13]

Gái chưa chồng ra trông núi Lớ, Trai chưa vợ đến ngó hang Công.

[46; 23; 3]

Gạo dự Bến ngự, Bến tắm ngào ngạt hương thắm.

Gạo Đa Giá, cá Áng Sơn.

[47; 13]

Giai Cam Giá, Gái Thư Điền.

[48; 13]

[49; 20; 3] [49; 108; 1]

- Giang Trinh Nữ, Chữ Quan Các, Hạc Yên Ninh, Đình Quảng Phúc. - Chiêng Phúc Nhạc, Hạc Yên Ninh, Đình Quảng Phúc.

núi canh hàn tạc khẩu Thần Phù. Núi Sú vùng đồi núi Tam Điệp tương truyền là nơi vua Lê cho cất dấu vàng bạc châu báu, những người vận chuyển vàng bạc đều bị giết không ai được về. Núi Lớ thuộc xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình. Hang Công thuộc xã Ninh Xuân, huyên Hoa Lư. Vào năm 1407 Trần Ngỗi xưng vương, nhà vua cho làm một cái bến để tắm và , một bến để ngự. Vua ngồi trên đài cao xem duyệt thủy quân, khi đê Hồng Đức đắp xong, biển lùi ra xa, bến tắm, bến ngự trở thành nội đồng, cấy lúa dự, lúa nếp hương thơm ngào ngạt, hàng năm cứ đến mùa thu hoạch dân làng Yên Mô lại dâng gạo quí tiến vua, đến thời Nhà Nguyễn tục này mới được bỏ đi. Ða Giá thuộc xã Ninh Mỹ, có giống lúa thơm ngon; Áng Sơn thuộc xã Ninh Hoà, huyện Hoa Lư, có nghề nuôi cá, cá ở đây mau lớn, sạch bệnh, chất lượng tốt. Cam Giá thuộc phường Ninh Khánh, Thư Ðiền thuộc xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình; Các làng này xưa kia thuộc huyện Hoa Lư. Giai làng Cam Giá, Gái làng Thư Ðiền đều giỏi giang, tháo vát. Làng Trinh Nữ xã Yên Hòa, Yên Mô có đền thờ Trinh Nữ và con sông chảy qua đây cũng gọi là sông Trinh Nữ …Làng Phượng Trì xã Yên Mạc có cụ Phạm Vũ Khải đỗ cử nhân thời Nguyễn, cụ rất thông minh, uyên bác, có biệt tài sáng tác thơ văn. Làng Yên Ninh nay là thị trấn Yên Ninh huyện Yên Khánh có ngôi đình cổ kính, đình có lưỡng long chầu nguyệt, xà cột lim to…đặc biệt có đôi hạc cao to tuyệt đẹp như đang xòe cánh đậu trên mai rùa. Đình Quảng Phúc thuộc thôn Quảng Phúc, xã Yên Phong, huyện Yên Mô đền thờ ba vị tướng thời Hùng Duệ Vương (Vua Hùng Vương thứ 18) có công đánh giặc ngoại xâm. Đền Quảng Phúc có cấu trúc mặt bằng theo kiểu tiền nhất hậu đinh, gồm ba tòa Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Trong đền còn giữ lại được nhiều di vật cổ như 13 đạo sắc

99

[50; 13]

Giàu ai bằng quan Các, ác ai bằng lớn Khâm.

[51; 420; 12]

Ích Duệ làm sao, Đồng Giao làm vậy

[52; 13]

Khoai sọ Yên Quang, Khoai lang Thạch Bình

[53; 13]

Khoai làng Lạo, Gạo Hữu Thường

[54; 13]

Khôn bằng tinh, Đến chợ Ninh cũng chết.

[55; 13]

Khôn bằng ranh Đến chợ Xanh cũng mất cắp.

[56; 13]

Khôn như le, Đến chợ Me cũng chết.

phong đời Lê - Nguyễn, hoành phi, long ngai, câu đối…Trước đây nhân dân thôn Phúc Nhạc quyên góp tiền đúc một cái chiêng rất to, mỗi khi hội hè thường mang ra đánh, tiếng động đến tận cung vua, như vậy là phạm thượng, dân làng bèn dấu đi làm bảo vật. Thời thuộc Pháp chiếc chiêng này đã bị đánh cắp. Quan Các: Vũ Phạm Khải (1807- 1872), quan đại thần triều Nguyễn. Lớn Khâm: Tức giám mục Trần Chiêm (còn có tên Trần Lục, Cha Sáu) giúp Pháp ðánh chiếm Hà Nội, Ninh Bình, được thực dân Pháp ép triều Nguyễn phong làm Khâm sai đại thần, quyền thế rất lớn, nổi tiếng gian ác. Làng Ích Duệ thuộc xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình, Đồng Giao thuộc thành phố Tam Điệp. Người Ích Duệ vào làm ăn ở Đồng Giao rất nhiều. Đây là lời Người Ích Duệ dặn dò con cháu đi làm ăn, lập nghiệp ở Đồng Giao (và nhiều nơi khác nữa) là hãy giữ gìn truyền thống quê hương, họ mạc. Xã Yên Quang và xã Thạch Bình thuộc huyện Nho Quan. Khoai sọ trồng trên đất Yên Quang, khoai lang trồng trên đất Thạch Bình đều rất thơm ngon. Làng lạo, Làng Hữu Thường đều Thuộc huyện Nho Quan. Khoai làng Lạo, gạo làng Hữu Thường được mọi người ưa thích. Chợ Ninh, chợ huyện lỵ huyện Yên Khánh, trên đất thị trấn Yên Ninh. Câu tục ngữ nhắc nhở mọi người cần cảnh giác khi tham gia mua bán ở chợ này. Chợ Xanh thuộc xã Khánh Thiện, huyện Yên Khánh. Câu tục ngữ nhắc nhở mọi ngýời cần cảnh giác khi tham gia mua bán ở chợ này. Chợ Me, Chợ thị trấn Me, huyện lỵ huyện Gia Viễn. Câu tục ngữ nhắc nhở mọi người cần cảnh giác khi tham gia mua bán ở chợ này.

100

[57; 421; 12]

- Khôn uống chè Trại, dại uống chè Me, mẹ bảo không nghe uống chè Bồng Lạng. - Khôn uống chè trại, dại uống chè Đằng, bố bảo lằng nhằng, uống chè Bồng Lạng.

Chè Ba Trại thộc xã Quang Sơn (Quang Sỏi) nổi tiếng thơm ngon hương vị đậm đà. Chè Me là chè thuộc xã Gia Vượng, Gia Vân, Liên Sơn, huyện Gia Viễn trồng trên đất bạc màu, uống không ngon, có vị chát, dân gian không ưa dùng. Chè Bồng Lạng thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam uống chát, chất lượng không bằng chè Me Gia Viễn. Qua cách nói so sánh trên tác giả đề cao chè Ba Trại Tam Điệp thơm ngon nổi tiếng từ bao đời. Chè Ba Trại thộc xã Quang Sơn (Quang Sỏi) nổi tiếng thơm ngon hương vị đậm đà. Chè bán chợ Đằng, trồng ở đồi Tràng Khê thuộc xã Yên Đồng lá to, dày trông thô kệch, nấu nước giếng đồng uống vào mùi vị chan chát nên người ta ít mua. Chè Bồng Lạng đất Ba Sao tỉnh Hà Nam lá to, dày, xanh tốt quanh năm, nấu nước có màu xanh mông mốc, uống vào có vị ngai ngái

Lang đuôi thì bán, Lang trán thì cày.

Kinh nghiệm chọn trâu, bò của ngýời dân Ninh Bình.

Láo nháo như làng Láo vỡ đê.

[58; 13] [59; 13]

Lão Yên Mô, Đồ Côi Trì

[60; 20; 3]

Lắm bụt chùa Gà, lắm ma chùa Nhội, lắm tội chùa Hang, lắm vàng chùa Ngô.

[61; 422; 12]

Làng Láo thuộc xã Vãn Phú, huyện Nho Quan, khi có đê bị vỡ mọi người thường mất bình tĩnh dẫn đến nhốn nháo. Làng Yên Mô Thượng, Yên Mạc có truyền thống trọng lão, hàng năm cứ vào ngày rằm tháng 2 làng lại mở hội Yến lão. Làng Côi Trì xã Yên Mỹ xưa kia có nhiều dòng họ đỗ đạt cao, nhiều người mở trường dạy học, các làng bên thường mượn các thày đồ về dạy cho con em mình. Chùa Gà (xã Ninh Hòa huyện Hoa Lư) là nơi có nhiều tượng phật. Chùa Nhội (xã Trường Yên huyện Hoa Lư) là nơi có nhiều hiện tượng lạ dân gian quen gọi là có lắm ma. Chùa Hang ngôi chùa đặt trong động Am Tiên (thôn Yên thượng, xã Trường Yên huyện Hoa Lư) tương truyền là nơi nhốt hổ để trị người có tội. Chùa Ngô (còn gọi là chùa Bà Ngô, xã Trường Yên huyện Hoa Lư) tương truyền là nơi người Tàu để của nên dân gian cho rằng có nhiều vàng bạc, lại cũng có thuyết cho

101

rằng khi vua Đinh mất hoàng hậu họ Ngô ra tu hành ở đây mang theo nhiều vàng bạc châu báu.

[62; 423; 12]

Chùa Gôi ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định có tiếng là lắm tượng phật, chùa Đồi ở xã Yên Đồng huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định có tiếng nhiều xôi thờ phật, chùa Phượng Ban thuộc xã Khánh Thịnh, huyện Yêm Mô, tỉnh Ninh Bình, ngoài thờ phật chùa này còn thờ các tướng thời nhà Đinh như Đinh Điền, chùa này cũng có nhiều chỗ ngồi cho khách về lễ phật.

- Lắm bụt chùa Gôi, lắm xôi chùa Đồi, lắm chỗ ngồi chùa Phượng Ban - Bụt chùa Gôi, xôi chùa Đồi, chỗ ngồi chùa Phượng. -Lắm bụt chùa Gôi, lắm xôi chùa Dầu, lắm trâu Yên Phó, lắm chó Yên Xuyên, lắm tiền Yên Vệ, lắm thuế Phương Du.

[63; 13]

Lắm dang Nho Quan, Lắm vàng Bồ Xuyên.

[64; 13]

Lắm hang Thiên Trường, Lắm xưởng Văn Lâm.

[65; 13]

Lắm trâu Yên Vệ, Lắm rế Yên Xuyên; Lắm thuyền Yên Cống, Lắm thúng La Bình.

Lì xì như Xuân Trì vỡ đê.

[66; 13]

Lúa Đồng Bái, Khoai Đồng Vồ, Ngô Đồng Báng.

[67; 13]

Mít Phú Sơn, tôm Đồng An.

[68; 13]

[69; 13]

Huyện Nho Quan thường trồng nhiều cây giang, làng Bồ Xuyên: thuộc xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tương truyền nơi đây cất dấu nhiều vàng từ thời Hậu Trần. Thiên Trường, thôn Thiên Trường, xã Trường Yên, có nhiều hang đá. Thôn Văn Lâm thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư có nhiều xưởng thêu ren. Thôn Yên Vệ, thuộc xã Khánh Phú thường nuôi nhiều trâu ; thôn Yên Xuyên và thôn Yên Cống thuộc xã Khánh An, có nghề đan rế và đan thuyền. Thôn La Bình thuộc xã Khánh Vân có nghề đan thúng. Cả bốn địa danh này đều thuộc huyện Yên Khánh. Thôn Xuân Trì thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn nõi có sông Hoàng Long chảy qua. Câu tục ngữ thể hiện sự lo lắng của người dân vùng này trước nguy cơ vỡ đê. Các thôn: Ðồng Bái, Ðồng Vồ, Ðồng Báng đều thuộc xã Sơn Lai, huyện Nho Quan. Có người đọc: "Lúa Ðồng Lai..". Lúa trồng ở Ðồng Báng,, Ngô trồng ở Ðồng Vồ, Khoai trồng ở Ðồng Báng đều cho năng xuất cao và thơm ngon. Mít trồng trên đất xã Phú Sõn (Nho Quan), tôm nuôi ở Ðồng Báng (thuộc xã Lạng Phong – Nho Quan) đều sinh trưởng tốt và rất thơm ngon. Ðống Ða: Gò Ðống Ða, chôn quân Thanh xâm lược, nay thuộc quận Ðống Ða, thành

102

làng

Mồ Đống Đa, ma Tráng.

[70; 111; 2]

Mồng mười Làng Dầu bắc cầu vo gạo.

Một trăm cửa bể, phải nể Thần Phù.

[71; 19; 3]

Muỗi cửa Càn, quan xứ Nghệ.

[72; 29; 14]

[73; 13]

Muỗi cửa Càn, gan Cồn Nổi.

[74; 423; 12]

Muốn ăn cơm ngon, lấy con bà mót. Muốn ăn mật ngọt, lấy vợ Bình Hào. Muốn ăn khoai ao, lấy chồng làng Khẩn.

Muốn ăn cua rốc, ốc nhồi

phố Hà Nội. Làng Tráng: Tức làng Tráng Mưi xưa đã mất tích vào khoảng thế kỷ XVI- XVII, nay dấu tích làng cổ vẫn còn, dưới chân núi Tráng, thuộc Yên Quang, phường Tân Bình, TP Tam Ðiệp. Vì làng mất tích, theo truyền thuyết thì cả làng bị chết hết nên người ta cho rằng vùng này lắm ma, như khu gò Ðống Ða (Quận Ðống Ða, Hà Nội, quân Thanh bị quân Tây Sõn tiêu diệt, chết la liệt, chôn thành những gò lớn. Cứ ba năm một lần lễ hội Chùa Dầu (phủ Dầu) xã Khánh Hòa, Yên Khánh lại tổ chức lễ hội. Từ ngày mồng mười tháng hai âm lịch nhân dân hai làng Hương Du và Phương Du lại bắc cầu ra giữa ao để vo gạo nếp làm bánh dày và oản để lễ phật. Việc dâng bánh dày và oản trong lễ hội là nét đặc trưng riêng của chùa Dầu, nó đã in sâu trong tâm thức của nhân dân từ bao đời nay. Cửa biển Thần Phù xưa nay thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô. Nơi đây nổi tiếng hiểm trở, sóng to gió lớn là mối nguy hại cho tàu bè mỗi khi qua lại. Cửa Càn xưa nay là xã Yên Mạc huyệnYên Mô là nơi có nhiều muỗi, rệp. xứ Nghệ (Nghệ An) là nơi có nhiều người đỗ đạt, làm quan to. Cửa Càn là Cửa sông Càn Giang, thuộc Kim Sơn, Cồn Nổi: vùng đất mới bồi huyện Kim Sơn, đây là nơi sình lầy phải là người có “gan” mới ra được đến đây. Ngày xưa ở vùng đồng chiêm trũng chỉ cấy được một vụ lúa tháng năm (vụ chiêm). Sau khi gặt được một thời gian gốc rạ lại nẩy lên cây lúa mới vẫn cho bông dân gian quen gọi là lúa dài. Người dân đi gặt mót loại lúa này về. Gạo lúa dài nấu cơm dẻo và ngon. Như vậy lấy con bà mót sẽ được ăn cơm gạo lúa dài rất ngon miệng. Bình Hào thuộc xã Yên Thắng huyện Yên Mô có nghề kéo mật mía, mật trong và sạch. Khoai lang làng Khẩn xã Yên Thắng huyện Yên Mô bở, thơm nổi tiếng trong vùng Thôn Đồng Chưa thuộc xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn là một vùng đồng chiêm

[75; 107; 01]

103

Đem con mà gả cho người Đồng Chưa.

[76; 13]

Muốn ăn bánh gai thì về Cam Giá, Muốn ăn bánh lá thì đến Bạch Cừ.

[77; 13]

Nằm đường nằm xá, Hơn làm bạn với Đa Giá, Đá Nhân.

[78; 13]

Ngỗng Phong Hoà, Gà Cam Giá, Cá Liên Thành.

Nhất đại vi vương, vạn đại vi Man phương Tù trưởng

[79; 418; 12]

Nhất Quận Gành, nhì Quành Vó.

[80; 13]

trũng, xưa kia người ta hay dùng cụm từ “dân cua ốc” để chỉ những con người xuất thân từ đồng ruộng lam lũ nghèo khó. Ngày nay khi món ăn được chế biến từ ốc nhồi (không chỉ của vùng Gia Viễn) đều được mọi người biết đến và yệu thích thì người dân Đồng Chưa nói riêng và nhân dân vùng đồng chiêm trũng nói chung có quyền tự hào về một “đặc sản” của quê hương mình. Thôn Cam Giá thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình; Thôn Bạch Cừ thuộc xã Ninh Khang, huyện Hoa Lý. Bánh gai, bánh lá là hai thứ bánh ngon của hai thôn này. Ða Giá, Ðá Nhân thuộc xã Ninh Mỹ, huyện Hoa Lý. Thời Hậu Lê, làng Ða Giá Thượng có bè đảng cướp của giết người ở hang núi Hú nên dân gian rất khiếp sợ khi tiếp giao với người làng này. Nay làng Ða Giá Thượng không còn nữa. Phong Hoà, Liên Thành là các làng thuộc xã Ninh Mỹ, huyện Hoa Lý. Cam Giá là làng Cam Giá, nay thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Xưa kia, các làng này chăn nuôi gà, ngỗng và thả cá rất phát triển. Theo dân gian: Vua Đinh Tiên Hoàng có nguồn gốc là người Mường, một đời đã làm vua, còn vạn đời làm chúa (Tù trưởng). Vì xưa kia dòng họ Đinh là dòng họ lớn và có thế lực nhất trong bốn dòng họ lớn của người Mường ở Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Quận Gành: tên thật là Nguyễn Thể, người làng Gành/Ghềnh, nay ở thôn Ðàm Khánh, thuộc thị xã Tam Ðiệp có đền thờ ông nên chúng tôi cho rằng ông người làng Ðàm Khánh, nhưng dân gian gọi Quận Gành cho đễ nhận biết hơn làng Ðàm Khánh, và cũng vần nhịp điệu với "Quành Vó". Vì có công giúp vua Lê Trang Tông (1533-1548) đánh quân Mạc nên được phong là Lý Quận Công. Dân gian lấy tên làng gọi là Quận Gành hay Quận Công làng Gành.

104

[81; 13]

Nhất đỉa chùa Đùm, Nhất hùm sụ Chạ, Nhất quạ làng Dơ, Nhất cờ làng Láo, Nhất cháo làng Kho.

[82; 13]

Nhất nước ao làng Nga, Nhì ma thiêng Quèn Thạch.

[83; 420; 12]

Nhất Phùng, nhì Vệ, thứ ba Nhuệ Ðồng.

Nón trại Tre, chè làng Giá,cá làng Điềm.

[84; 13]

[85; 420; 12]

Núi Thiệu có đổ, đền Trùng mới xiêu.

Núi Kẽm Trống, động Vân Trình.

[86; 13]

Quành Vó: Tên thật là Phạm Quỳnh, ngýời làng Vó, nay thuộc xã Ninh Vân, huuyện Hoa Lý, có công giúp vua Lê đánh Mạc nên được phong là Quận Công. Dân gian đọc trệch chữ Quỳnh thành Quành. Sau chùa Ðùm, xã Vãn Phú, có cái ao đỉa nhiều vô kể; Làng Chạ (xã Phú Lộc), xưa kia cây cối rậm rạp, tum tùm, có nhiều hùm/hổ dữ; Làng Dõ (xã Phú Lộc) có nhiều quạ về trú ngụ trong các bụi tre làng; Làng Láo (Vãn Phú) thýõng mở hội đông vui, cờ cắm dầy đặc; Làng Kho (xã Phú Lộc) xưa kia đói khổ, nhân dân thường xuyên phải nấu rau cháo ãn qua bữa. Tất cả các xã trên ðều ở huyện Nho Quan. Ao làng Nga và Quèn Thạch thuộc xã Cúc Phương, huyện Nho Quan. Nước ao làng Nga thường rất độc. Quèn Thạch là nơi đi lại khó khãn nên có nhiều người mất ở đây (nhiều ma) Phùng tức làng Phùng Thiện nay thuộc xã Khánh Tiên, Vệ tức làng Yên Vệ nay thuộc xã Khánh Phú huyện Yên Khánh. Nhuệ Đồng tức làng Nhuệ Đồng nay thuộc xã Yên Thắng huyện Yên Mô. Xưa kia cả ba làng này đều thuộc phủ Yên Khánh nay là huyện Yên Khánh nổi tiếng về phong cảnh hữu t́nh, con người thuần hậu, có nhiều ruộng cấy, trâu cày. Làng Trại Tre có nghề làm nón, Làng Giá có giống chè ngon, Làng Ðiềm có nghề nuôi cá cả ba địa danh trên đều thuộc huyện Gia Viễn. Núi Thiệu tức núi Thần Thiệu ở thôn Thần Thiệu xã Gia Tân huyện Gia Viễn (cạnh sông Hoàng Long). Đền Trùng ở thôn Tùy Hối xã Gia Tân là ngôi đền lớn, có kiến trúc đẹp được xây dựng từ thế kỷ XVII. Kẽm Trống: Là kẽm sông qua núi mà "Hai bên là núi giữa là sông" trong thõ Hồ Xuân Hýõng, nay thuộc xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, phía bắc địa đầu tỉnh Ninh Bình. Ðộng Vân Trình là một động đẹp, thuộc tổng Vân

105

[87; 421; 12]

Nước giếng Me, chè Núi Quéo, kẹo Bình Hào.

[88; 31; 14]

Nước độc Lang Ca, ma thiêng Tráng Mõi.

[89; 111; 1]

Nước Vĩnh Khương, đường Yên Tế.

Nước giếng Me, chè Ba Trại.

[90; 22;09]

Nước Lang Ca, ma Quang Hiển

[91; 13]

Nước Lang Ca, ma Quán Cháo.

[92; 13]

[93; 13]

Ông Nguyễn thần thông, Thổi một niêu đồng, Được chín quang cơm.

Trình xưa, nay thuộc xã Thượng Hoà, huyện Nho Quan Giếng Me ở phía đông làng Quảng Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô là giếng nước tự nhiên chảy từ trong ḷòng núi ra rất trong, mát, và không bao giờ cạn. Núi Quéo cũng thuộc xă Yên Thắng, chè trồng ở núi này có tiếng thơm ngon, lại pha với nước Giếng Me th́ lại càng xanh, vị đậm đà. Tương truyền người dân nơi đây đã dâng tiến vua Quang Trung thứ nước thơm ngon này khi nhà vua dừng chân ở Tam Điệp trên đường tiến quân ra bắc đánh giặc Thanh xâm lược vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789. Bình Hào cũng thuộc xã Yên Thắng ở đây có nghề nấu kẹo lạc bằng mật mía ăn rất ngon, thơm, vị khó quên Lang Ca nay thuộc xã Yên Sơn, thành phố Tam Điệp. Tráng Mõi là một làng cổ thuộc xã Yên Bình, Yên Mô (nay không còn) nổi tiếng ma thiêng nước độc. Vĩnh Khương thuộc xã Quảng Lạc huyện Nho Quan xưa kia nước vùng này rất độc ai đến đây cũng bị ngã nước (sốt rét). Vùng Yên Tế thuộc xã Yên Đồng huyện Yên Mô đường đi lại khó khăn. Giếng Me ở phía đông làng Quảng Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô là giếng nước tự nhiên chảy từ trong lòng núi ra rất trong, mát, và không bao giờ cạn. Chè Ba Trại thộc xã Quang Sơn (Quang Sỏi) nổi tiếng thơm ngon hương vị đậm đà. Phố Lang Ca và phố Quang Hiển: thuộc phường Tân Bình, TP Tam Ðiệp, xưa kia nổi tiếng ma thiêng nước độc. Phố Lang Ca thuộc phường Tân Bình; Quán Cháo thuộc phường Tây Sơn, TP Tam Ðiệp, nơi đây xưa kia nổi tiếng ma thiêng nước độc. Ông Nguyễn: Tức Thánh Nguyễn Minh Không (1065-1141), quốc sư nhà Lý, người quê Ðiềm Dương, nay là xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn.

106

Quan lang tỉnh Ninh, Một mình một khoảnh

[94; 419; 12]

Xưa kia đường lên các bản Mường thuộc vùng Thiên Quan (Nho Quan) rất khó khăn cách trở, các quan phủ, quan huyện thường ít khi lui tới được những vùng đó, phó mặc cho các quan lang ở địa phương cai quản, bởi vậy mỗi ông lang ở địa phương như một ông vua của vùng đó, một mình một khoảnh đất trời riêng để cai trị dân.

[95; 13]

Sáng lên Hối, tối xuống Me. Sáng quãng Hối, tối quãng Điềm.

Sắc như mác, đến chợ Cát cũng cùn.

[96; 13]

[97; 31; 14]

Sinh đồ họ Tống, Hương cống họ Bùi.

[98; 17; 3]

Sóng Phù dữ dội Không bằng quãng lội Sáu Eo Hang lội Sáu Eo Không bằng cản bèo Nhuệ Giang

[99; 424; 12]

Sống ngâm da, chết ngâm xương.

Thêu cải Ninh Hải, dệt vải Nuốn Khê.

[100; 13]

Thiên hạ đảo vũ , không bằng làng Chủ đắp đường.

[101;424; 12]

Làng Hối là làng Tuỳ Hối, xã Gia Tân. Me nay là thị trấn Me, huyện lỵ huyện Gia Viễn. Ðiềm tức Ðiềm Giang, Ðiềm Xá: thuộc xã Gia Tiến, huyện Gia Viễn. Câu tục ngữ nói lên sự vất vả của người dân Gia Viễn xưa. Chợ Cát thuộc xã Khánh Trung, huyện Yên Khánh. Câu tục ngữ nhắc nhở mọi người cần phải cảnh giác khi tham gia mua bán ở khu chợ này. Từ thời hậu Lê ở làng La Mai nay thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư có nhiều người học hành đỗ đạt cao. Họ Tống có nhiều người đỗ Sinh đồ tức Tú tài thời Nguyễn. Họ Bùi có nhiều người đỗ Hương cống tức Cử nhân thời Nguyễn. Sóng phù là sóng cửa bể Thần Phù, nay thuộc xã Yên Lâm, Yên Mô, nổi tiếng nguy hiểm, quãng lội Sáu Eo từ cầu Hội vào đi qua núi Ô Rô sang huyện Hà Trung, Thanh Hóa rừng rậm hoang vu, có nhiều thú dữ. Sông Nhuệ Giang từ Cầu Yên nước chảy qua Sông Vạc xuống ngã ba Chẽ vào Thắng Động, sông này ít thuyền bè qua lại nên bèo dày đặc. Người dân Gia Viễn, Ninh Bình nói về nỗi khổ của mình: lúc sống và cả khi chết đều trong cảnh nước ngập mênh mông. Xã Ninh Hải thuộc huyện Hoa Lý có nghề thêu cải rất phát triển. Thôn Nuốn Khê thuộc xã Yên Từ, huyện Yên Mô có nghề dệt vải truyền thống từ lâu đời. Làng Chủ là tên gọi cũ của làng Đông Hội xã Ninh An, huyện Hoa Lư. Thời xưa người ta lập đàn tràng đảo vũ (cầu mưa) rất công phu, nhộn nhịp nhưng dân làng

107

Thợ mộc Côi Trì, thợ nề Bình Hải.

[102; 111; 1]

[103; 13]

Thợ đồng Ninh Xá, thợ đá Xuân Vũ.

Trai Trung Trữ, nữ Trường Yên.

[104;422; 12]

Trai Lạc Khoái, gái Trường Yên.

[105; 22;09]

Chủ đắp đường đi còn vất vả công phu hơn cả đảo vũ. Làng Côi Trì không chỉ có nhiều người học hành đỗ đạt cao mà làng c ̣n có nghề thợ mộc truyền thống, rất đáng tự hào, làng Bình Hải có nghề thợ nề đắp nghê, đắp tượng… Ninh Xá: thuộc xã Yên Ninh, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Ðịnh; Xuân Vũ: thuộc xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư. Con trai làng Trung Trữ (nay tuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư) có tiếng đẹp trai, giỏi giang. Con gái Trường Yên (nay là xã Trường Yên huyện Hoa Lư) nổi tiếng xinh đẹp, giỏi giang khéo léo. Làng Lạc Khoái nay thuộc xã Gia Lạc huyện Gia Viễn Ninh, Trường Yên nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Trai Lạc Khoái nổi tiếng đẹp trai, giỏi giang, gái Trường Yên nổi tiếng xinh đẹp, nết na.

Trăm cái tội, Không bằng cái lội xóm Thái.

Tức thôn Hồng Thái, xã Khánh Trung, huyện Yên Khánh.

[106; 13]

Trăng rằm đã tỏ lại tròn Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi.

[107;104; 01]

[108;107;01]

Trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm.

[109; 13]

Trâu đâm bò húc Không bằng Quảng Phúc vào nhà.

Tre mả Hóa, cá Đồng La, mạ Cây Đa, cà Vườn Lão

[110;423; 12]

Phủ Hoàng Long xưa nay là huyện Nho Quan có giống khoai lang dây tím, ruột vàng ăn rất thơm ngon. Ở vùng Nho Quan Ninh Bình đồng bào dân tộc Mường thường nhắc đến câu tục ngữ “Trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm” như một phong tục thể hiện lòng hiếu khách của mình, và đó cũng là phép ứng xử của chủ nhà và khách ở địa phương này. Quảng Phúc: thôn thuộc xã Yên Phong, huyện Yên Mô. Câu này có ngýời nói "Trâu đâm bò húc, Không bằng Ninh Phúc vào nhà". Các địa danh: Mả Hóa, Đồng La, Cây Đa, Vườn Lão đều thuộc xã Yên Thắng huyện Yên Mô. Mả Hóa có loại tre cây thẳng, dóng dài và cứng. Cánh đồng La có nhiều cá. Ruộng Cây Đa gieo mạ rất tốt, mạ xanh, dảnh đều. Vườn Lão có loại cà quả to, ăn giòn và ngon.

108

[111; 17; 3]

Trèo lên Hang Voi Không bằng lội ngòi Xác Dưới Lội ngòi Xác Dưới Không bằng gánh củi Sáu Eo Gánh củi Sáu Eo Không bằng cản bèo Kênh Mạc Cản bèo Kênh Bạc Không bằng đắp sạt Thành Hồ Đắp sạt Thành Hồ Không bằng sóng rồ Đê Đức

[112; 17; 3]

Trèo đèo Ba Dội Không bằng chỗ lội cổ Do Chỗ lội Cổ Do Không bằng bến đò Thắng Động Bến đò Thắng Động Không bằng lái công Tam Dương

Tục Bồ Xuyên Thiêng Bình Hải Vải Nộn Khê

[113; 20; 1]

Núi làng Phượng Trì có động Hang Voi, đường lên, xuống âm u, ngoắt ngoéo. Ngòi Xác Dưới nối sông Trinh, bùn bèo nhiều quãng lội khó mà qua được. Làng Quảng Công, Yên Thái, Yên Mô có sáu cái eo đèo núi, vượt qua sáu eo này sang đất Nga Sơn, Thanh Hóa rất vất vả. Kênh nhà Mạc dài từ cửa biển Thần Phù đến cầu ít thuyền bè qua lại nên rất nhiều bèo, bùn lầy lội. Thành nhà Hồ, giáp kênh Lê trải qua mưa gió thành bị sạt hết. Đắp đê Hồng Đức vào khoảng năm 1475 luôn luôn bị sóng rồ rất vất vả và nguy hiểm. Đèo Ba Dội khu quèn thờ, Tam Điệp địa hình hiểm trở, lên thác xuống ghềnh , trèo Đèo Ba Dội rất mệt nhọc. Nhưng không vất vả bằng khúc lội cầu Do, làng Đàm Khánh, Thâm Trùng bùn lầy lội. Bến đò Thắng Động nhiều khúc như vực thẳm lội xuống không rút được chân lên. Cống Tam Dương, xã Khánh Dương nhiều vũng trâu đầm sâu như vực. Vượt qua cống Tam Dương còn vất vả hơn đường đến bến đò Thắng Động. Làng Bồ Xuyên xã Yên Thành có 7 thôn, làng này có tục lệ hằng năm cứ đến ngày 15 tháng 2 (âm lịch) tổ chức tế phối hưởng. làng có lệ thi đua làm xôi thật nhanh, thanh khiết. Trước khi vào tế còn có ban kiểm soát, xôi thôn nào đạt mới được dâng tế, chấm thi: nhất, nhì, ba… xôi thôn nào phẩm chất kém thì bị phạt, năm ấy làm ăn kém phát đạt. Làng Bình Hải xã Yên Nhân có 3 anh em họ Bạch nổi tiếng võ nghệ cao cường, có lòng yêu nước chống giặc ngoại xâm. Năm 43 khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa 3 anh em đã theo Hai Bà chống lại quân Nam Hán. Họ đã hy sinh tại cửa biển Thần Phù và đã hiển thánh, nhân dân nhớ ơn đã lập đền thờ ở làng Bình Hải, tương truyền ngôi đền rất linh thiêng, nhân dân đến kêu cầu việc gì đều như ý. Dân làng Nộn Khê có nghề dệt vải cổ truyền phát triển trở thành một làng nghề nổi tiếng ở huyện Yên Mô.

109

Vải Nuốn Khê, đề Mô Thượng.

[114; 23; 3]

[115; 18; 3]

Vàng núi Hệ Tệ Chính Đại Hại Bình Hào Ma Làng Tráng

[116; 13]

Vận tải Kim Sơn, bãi bơn Gián Khẩu.

Làng Nuốn Khê nay thuộc xã Yên Từ xưa kia có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Làng Yên Mô Thượng có một cây đề ngót 700 năm tuổi. Núi Hệ (núi Thiên hệ) thuộc làng Thiên Dưỡng, Ninh Vân nay thuộc xã Ninh Vân huyện Hoa Lư, thời Bắc thuộc các quan lại Trung Quốc vơ vét của cải mang về không hết bèn cất dấu ở các hang động nước ta và có di chúc để lại. Có đôi vợ chồng chú khách (người Tàu) sang dò la về cạnh núi Thiên Hệ sau đó lấy đi toàn bộ số vàng bạc ở đây. Làng Chính Đại không ai đỗ đạt làm quan, một hôm vào đầu xuân làng tổ chức lễ hội tế thần biển, bỗng họ nh́ n thấy một ông già vai đeo túi sách giống như thày địa lý dân làng mời cụ vào đình làng hội kiến nhờ thày để hướng cho đình làng giúp cho dân làng Chính Đại học hành đỗ đạt làm quan to. Nhưng sau khi thày địa lý người Yên Mô bị hãm hại thì các quan to làng Chính Đại cũng chết dần. Làng Bình Hào xưa kia nghèo xơ xác sau nhờ một thày địa lý người Tàu tìm hướng cho ngôi đình làng mà cả làng đều “Ăn nên làm ra”, nhưng sau khi bị hãm hại thày đại lý người Tàu đã trả thù bằng cách chỉ cho dân làng Bình Hào đào một cái ao ngay trước đình làng. Từ đó làng Bình Hào gặp nhiều tai họa, của cải trong nhà lần lượt ra đi…Làng Cháng thuộc xã Yên Bình là một vùng đồng chiêm trũng “Chiêm khê mùa thối” cũng nhờ thày địa lý tìm hướng cho ngôi đình làng mà làng Cháng đạt được 18 quận công vinh hoa phú quí. Nhưng sau khi ông thày địa lý bị hãm hại đã tìm cách trả thù dân làng. Ông ta cải trang thành một thày địa lý người Tàu chỉ bảo dân làng đào một cái ao trước đình làng để thả sen, nhưng khi ao đào xong thì dân làng chết như ngả dạ, từ đó mới có câu ma làng Cháng. Gián Khẩu: ngã ba sông Hoàng Long và sông Ðáy, thuộc xã Gia Trấn, huyện Gia Viễn.

110

[117; 20; 3]

Vật hành Yên Tế Lộ, vật thú Nộn Khê thê.

Vật hành Yên Tế lộ có nghĩa là đừng đi đường Yên Tế. Làng Nộn Khê thuộc xã Yên Từ, huyện Yên Mô, vào thời Lê Thánh Tông (1470 – 1497) một số người từ đất Nộn Nam Châu (nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), di chuyển vào vùng đất bồi ven đê Hồng Đức, lập ấp, đặt tên làng là Nộn Khê để ghi nhớ quê cũ Lục Nộn và Côi Khê. “Nộn” là non trẻ, “Khê” là khe suối. Nộn Khê nghĩa là dòng suối mới khai dòng. Dân làng Nộn Khê có nghề dệt vải truyền thống được nhiều nơi biết tới.

[118; 13]

Phượng Trì: Thôn Phượng Trì, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô. Yên Tế là thôn thuộc xã Yên Ðồng, huyện Yên Mô, xưa kia, đường đi lại rất khó khãn. Thôn Côi Trì nay thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô. Thôn Phù Sa, nay thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô.Làng Nộn Khê hay còn gọi là Nuốn Khê thuộc xã Yên Từ, huyện Yên Mô.

[119; 13]

Trường Yên: Xã Trường Yên, huyện Hoa Lý; Vân Sàng:thuộc thành phố Ninh Bình. Cam Giá: thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. La Mai: thuộc xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư. Bồ Ðề: Thôn Bồ Ðề, xã Ninh An, huyện Hoa Lư.

[120; 13]

Khê Ðầu, Tuân Cáo, Khả Lưõng, Hạ Trạo, Hành Cung: thuộc xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư. Ðại Nha nay là Ðộc Bộ, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Ðịnh.

Vật đả Phượng Trì kỳ , Vật hành Yên Tế lộ, Vật giao Côi Trì hữu, Vật ẩm Phù Sa tửu, Vật thú Nộn Khê thê. Dịch: Chớ đánh cờ với người Phượng Trì, Chớ đi đường Yên Tế, Chớ kết bạn với người Côi Trì, Chớ uống rượu ở làng Phù Sa, Chớ lấy vợ làng Nộn/(Nuốn Khê; Vật thú Vân Sàng thê, Vật giao Cam Giá hữu. Vật mãi La Mai bố, Vật ẩm Bồ Đề tửu, Vật thính Trường Yên ngôn Dịch: Chớ lấy vợ ở làng Vân Sàng, Chớ kết bạn với người Cam Giá. Chớ mua vải ở làng La Mai, Chớ uống rượu ở làng Bồ Đề, Chớ nghe lời người Trường Yên. Vật đấu Khê Đầu dũng, Vật giao Tuân Cáo hữu. Vật thính Khả Lương ôn, Vật cầu Hạ Trạo thân. Vật vong Hành Cung ân Dịch: Chớ đánh nhau với người làng Khê Đầu.

111

Chớ kết bạn với người làng Tuân Cáo. Chớ nghe lời người làng Khả Lương, Chớ cầu thân thiết với người làng Hạ Trạo. Chớ quên ơn người làng Hành Cung.

Vượt Đại Nha, qua Thần Phù

[121; 29; 14]

Vượt Quèn Thạch, không phát hạch cũng dỗ đùi.

[122; 13]

[123; 13]

Xây đá Trường Yên, đóng thuyền Phát Diệm.

Yên Khánh: Tràng An, Thiên Quan: Làng Sọng

[124;419; 12]

[125;109; 01]

Văn Bồng Hải, Phú Bái Dương, Kinh nghĩa Tử Ô

Đại Nha nay là Độc Bộ, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, cửa biển Thần Phù xưa nay thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô. Nơi đây xưa kia nổi tiếng hiểm trở, sóng to gió lớn là mối nguy hại cho tàu bè mỗi khi qua đây. Quèn Thạch: Quèn đá, trên đường vào vườn Quốc gia Cúc Phương, thuộc xã Cúc Phương, huyện Nho Quan. Theo dân gian Vượt qua Quèn Thạch rất vả “không phát hạch cũng rỗ đùi” Trường Yên: thuộc huyện Hoa Lư, có nghề xây đá rất giỏi; Phát Diệm: thuộc huyện Kim Sơn, có nghề đóng thuyền. Trường Yên xưa thuộc phủ Yên Khánh nay là huyện Hoa Lư nơi vua Đinh đặt làm kinh đô nước Đại Cồ Việt. Làng Sọng, nơi có đồi sọng, trên đồi mọc nhiều cây sọng đũa. Làng Sọng sưa thuộc huyện Phụng Hóa phủ Thiên Quan nay là huyện Nho Quan đây là địa danh có liên quan đến thời kỳ đầu của nghĩa quân Hoa Lư do Đinh Bộ Lĩnh làm chủ soái. Nói tới Trường Yên và làng Sọng là nói tới điạ danh khởi đầu và địa danh kết thúc thắng lợi của nghĩa quân Hoa Lư. Tổng Bồng Hải xưa nay thuộc huyện Yên Khánh, Ninh Bình. Tử Ô - thuộc Thanh Biện – Hải Dương, Bái Dương nay thuộc Nam Định. Câu tục ngữ: “Văn Bồng Hải, Phú Bái Dương, Kinh nghĩa Tử Ô”.Thể hiện niềm tự hào của người dân Bồng Hải về sự thông minh, hiểu biết sâu rộng, thông hiểu thời sự, kinh sử của các nho sinh xưa, văn chương của họ có thể so sánh được với tài thơ phú , kinh nghĩa

112

của của Xứ Đông và vùng Nam Định nơi vốn có truyền thống hiếu học.

2. Ca dao 2.1. Ca dao địa danh Ninh Bình về mảnh đất, con người và sản vật

STT

Ngữ liệu

[01; 424; 12]

Ai là con cháu Rồng Tiên Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về Về thăm đô cũ Đinh - Lê Non xanh nước biếc bốn bề như tranh

[02; 13]

Ai ơi buôn bán quanh năm, Rủ nhau về hội ngày Rằm thôn Tân; Sáu giáp rước kiệu vào xuân, Trẻ già nô nức xa gần đua chen.

[03; 120; 1]

Chú thích địa danh Xưa kia nhân dân thường mở hội Trường Yên vào ngày 15 tháng 2 âm lịch để tưởng nhớ công lao vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành. Lễ hội thôn Tân thuộc xã Khánh Lợi, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình mở vào rằm tháng 2 âm lịch hàng năm. Làng có 6 giáp: Nhất, Nhị, Cầu, Đoài, Đông, Tây. Đây là lễ hội khá vui trong vùng, các giáp thi nhau rước kiệu, làm bánh dày, xôi nén dâng tiến Thánh Thôn Bình Hải nay thuộc xã Yên Nhân huyện Yên Mô nổi tiếng có nghề thợ xây, đắp nghê, đắp tượng…

[04; 13]

Ai qua đồng bể mà xem Có về nơi ấy với anh thì về Bình Hải có cây bồ đề Có sông tắm mát có nghề dao bay Nghề ngõa cổ truyền đến nay Đắp nghê, đắp phượng, đắp cây, đắp người Đắp lân, rồng cũng tuyệt vời Để rồi khắp chốn người người đều khen Ai qua sông Vạc quê tôi, Nước trong, gạo trắng, bát xôi ngần ngần.

[05; 13]

[06; 13]

[07; 13]

Sông Vạc – con sông chảy từ cầu Yên Ninh (Ninh An, Hoa Lư) làm ranh giới giữa huyện Yên Khánh và Yên Mô đổ ra biển Đông ở huyện Kim Sơn Ải Quan – tên một huyệt đất thuộc huyện Yên Khánh. Hoàng Long – sông Hoàng Long, núi Cờ, núi Cả, kênh Gà là những địa danh thuộc xã Gia Thịnh huyện Gia Viễn. Mả Gạo – địa danh thuộc chùa Dầu xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh

Núi Dục Thúy (Dục Thúy Sơn) hay còn gọi là núi Non Nước nằm ở bên bờ sông Đáy, phía bắc

[08; 424; 12]

Ải Quan có lỗ đồng tiền, Ai mà để được kết liền Trạng nguyên. Ai về Gia Viễn quê tôi, Non xanh, nước biếc, núi đồi nên thơ; Hoàng Long nước chảy la đà, Núi Cờ, núi Cả, kênh Gà nổi danh. Ai về Mả Gạo mà xem, Tiền đồng lúc nổi, lúc chìm lạ thay; Ai người vận tốt, duyên may, Nhặt được sau này gia nội an khang. Ai về qua đất Ninh Bình Mà xem phong cảnh hữu tình nên thơ Nước non, non nước như mơ Càng nhìn Dục Thúy càng ngơ ngẩn lòng

113

[09; 13]

thành phố Ninh Bình – Ngã ba sông Đáy với sông Vân. Thôn Qui Hậu thuộc xã Hùng Tiến huyện Kim Sơn

Ai về Quy Hậu quê tôi, Bát cơm thì trắng, bát rươi thì đầy; Con gái má đỏ hây hây, Ruộng đồng cũng giỏi, dệt may cũng tài. Ai về Sòng Cạn, Dốc Giang, Mà xem xác giặc ngổn ngang đầy đường.

[10; 13]

[11; 13]

Ai về thăm chợ Năm Dân Kim Sơn vùng biển xa gần nức danh Cảnh, người đẹp tựa bức tranh Bộn bề sản vật ðua ganh bốn mùa

[12; 13]

Sòng Cạn, dốc Giang là địa danh trên trục đường từ phố Rịa (Nho Quan) đi phố Cát (Thạnh Thành, Thanh Hóa). Câu ca dao tả cảnh giặc Pháp bị quân ta chặn đánh, tiêu diệt trong chiến dịc Tây Nam Ninh Bình từ ngày 25 đến ngày 28/10/1953. Chợ Nãm Dân Ðây là chợ sầm uất của vùng kinh tế biển Kim Sõn, nằm ở ngã ba sông Vạc trung tâm thị trấn Phát Diệm. Chợ Nãm Dân ðang ðýợc ðề nghị UNESCO công nhận là di sản vãn hóa thế giới Tiên Nông nay thuộc xã Yên Hưng huyện Yên Mô.

Ai về thăm đất Tiên Nông, Bên tây thì chợ, bên đông thì chùa; Ở giữa có miếu thờ vua, Đôi dòng sông chảy đò đưa dập dềnh

[13; 48; 7]

Ai về Xuân Vũ Ninh Vân Làng nghề chạm đá xa gần nức danh

[14; 13]

Làng Xuân Vũ thuộc xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư nổi tiếng với nghề làm đá mỹ nghệ Sông Càn, núi Bảng, núi Văn, núi Võ – địa danh thuộc xã Yên Mạc huyện Yên Mô.

Ai về Yên Mạc quê tôi Non xanh nước biếc như khơi họa đồ Sông Càn, Núi Bảng nên thơ Núi Văn, núi Võ không mờ sử xanh Anh ơi về bể ăn còng,

[15; 13]

Thịt dê, thịt bê, thịt bò – đặc sản ẩm thực của đất cố đô Hoa Lư.

[16; 13]

Về sông ăn cá, về đồng ăn cua; Về núi em đãi thịt dê, Lên đồi em đãi thịt bê, thịt bò; Quê em là đất Cố Đô, Cảnh thanh, người lịch tha hồ thung thăng Ba Chon ai đắp nên cao, Ngã ba Gián Khẩu ai đào mà sâu? Hoàng Long ai đắp ai đào, Bái Đính ai vạ đá vào mà cao?

[17; 13]

Ba Chon ai đắp nên cao, Ngã ba Non Nước ai đào mà sâu; Bạch Cừ đất tốt nhiều dâu,

Gián Khẩu: ngã ba sông Hoàng Long và sông Đáy thuộc xã Gia Trấn, huyện Gia Viễn. Bái Đính: núi Bái Đính thuộc xã Gia Sinh huyện Gia Viễn Ba Chon – núi Ba Chon ở Vân Long thuộc xã Gia Vân huyện Gia Viễn, Non Nước – núi Non Nước hay còn gọi là Dục Thúy

114

Con trai, con gái đi đâu cũng về.

[18; 13]

Ba Mươi đường ấy năm nào, Diệt đồn Gián Khẩu tiến vào Thăng Long; Quang Trung tài trí anh hùng, Bảy ngày phá nát điệp trùng quân Thanh.

đồng

thời

Long

[19; 13]

Sơn nay thuộc thành phố Ninh Bình, ngã ba Non Nước là chỉ ngã ba sông Vân Sàng và sông Đáy dưới chân núiNon Nước. Thôn Bạch Cừ thuộc xã Ninh Khang huyện Hoa Lư là vùng trồng dâu nuôi tằm trù phú nổi tiếng. Gián Khẩu (hay Gián Khuất) là tên một địa danh thuộc huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Gián Khẩu nằm ở vị trí hội tụ giao thông giữa quốc lộ1A và tỉnh lộ vị 470 trí sông Hoàng đổ vào sông Đáy Núi Ông Trạng, núi Hòn sách ở thôn Thiên Trường, đền thờ Tiến Đế tức đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở Trường Yên, Hoa Lư .

Bắc phương đầu núi Thảo Dinh, Đền thờ Tiên Đế thánh linh một toà; Có cây cổ thụ rườm rà, Cuối non lại có ổ gà một thung; Đẹp thay núi nhỏ đằng đông, Đá chồng từng tấm như chồng sách cao; Trời sinh ra tự thuở nào? Giống như chồng sách Thiên Tào xén xong; Phương tây một dải sông trong Triều lên khuya xuống mênh mông trước làng; Dưới sông trên chợ, quán hàng, Thuyền buôn, khách bán lại càng vui thay! Mấy đâu, trời phú cảnh này Bạch Cừ đất tốt nhiều dâu Con trai con gái đi đâu cũng về

[20; 426; 12]

Thôn Bạch Cừ thuộc xã Ninh Khang huyện Hoa Lư nổi tiếng có nghề trồng dâu, nuôi tằm. Yên Vệ: thôn Yên Vệ thuộc xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh. Chiền có nghĩa là chùa.

[21; 13]

[22; 425; 12]

Bầu trời, cảnh phật, non tiên, Ở làng Yên Vệ có chiền Vệ An; Chuông kêu rền rĩ đã vang, Bước sang mồng Bốn thì làng tế Xuân; Xin Ngài phù hộ cho dân, Trong làng già trẻ khang an, thọ trường; Ai ơi gắng sức, gắng công, Đem lòng trung tín mà trông việc đền; Ngày sau phúc lộc vững bền, Con con, cháu cháu giữ nền thảo ngay. Cánh Diều ai đắp nên cao Ngã ba Non Nước ai đào mà sâu

Núi Cánh Diều hay còn gọi là Phi Diên nay thuộc thành phố Ninh Bình.

115

[23; 13]

Cầu Chà Là cầu bắc qua sông Vân thuộc thành phố Ninh Bình.

Cầu Chà Là không dài mà hẹp Gái Chợ Rồng không đẹp mà yêu Ninh Bình có núi Cánh Diều Có chùa Non Nước có nhiều bến xưa Cầu Lim bước tới Phúc Đăng, Hai cầu soi bóng trên sông Vân Sàng.

[24; 13]

[25; 425; 12]

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng ngườiTràng An

[26; 13]

[27; 426; 12]

Chẳng xinh cũng gái Kim Sơn, Chẳng ngon cũng thể là cơm gạo mùa. Chiêú Bồng Hải, vải Yên Liêu Con nên mua lấy chớ điều chê bai

[28; 13]

Chín mươi chín núi chầu về, Riêng núi Đỗ Thích bất nghì quay đơ ; Hay đâu chỉ một giấc mơ, Bất trung để một tiếng dơ muôn đời.

[29; 1; 10]

Cầu Phúc Đăng – cầu nối hai làng Phúc Am và Đại Đăng nay là cầu sông Vân tục gọi là cầu Xi Măng thuộc thành phố Ninh Bình. Từ thế kỷ IX, thời thuộc Đường vùng đất Ninh Bình đã có tên châu Trường Yên đọc là Tràng An (phiên âm của người dịch). Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La - Thăng Long, đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An Kim Sơn – một huyện phía đông của tỉnh Ninh Bình Tổng Bồng Hải của huyện Yên Khánh xưa gồm các xã : Khánh Thiện, Khánh Cường, Khánh Trung, Khánh Công, Khánh Thành nổi tiếng với nghề dệt chiếu, thôn Yên Liêu thuộc xã Khánh Thịnh (trước kia thuộc huyện Yên Khánh từ tháng 1 năm 1965 đến nay thuộc huyện Yên Mô) nổi tiếng với nghề dệt vải. Núi non vùng Nho Quan, Gia Viễn đều chầu về lăng phát tích nhà Đinh ở làng Đại Hữu, xã Gia Phương, Gia Viễn, nhưng có một trái núi nằm quay đơ (quay ngang) dân gian gọi là núi Đỗ Thích nay thuộc xã Gia Vượng, Gia Phương huyện Gia Viễn. Làng Lòn, chợ Huyện – địa danh thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư.

[30; 13]

[31; 13]

*Chớ ăn bún nuột Làng Lòn Riêu cua Chợ Huyện chồng con mất nhờ *Cầu Lòn ai bắc qua sông, Anh sang mua bún sao không thấy về? Chợ Dầu một tháng chín phiên, Già trẻ khắp miền mua bán đông vui. Chòm Vàng có trái núi Vàng,

Chợ Dầu thuộc xã Khánh Hòa huyện Yên khánh. Chòm Vàng, núi Vàng tên một xóm nhỏ thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, địa danh

116

Có con lợn mẹ dẫn đàn lợn con.

trúc chùa

[32; 20; 2]

Chùa Dầu lắm bánh nhiều xôi Chùa Gôi lắm bụt đời đời phong lưu

[33; 13]

này gắn với truyền thuyết: có một đàn lợn bằng vàng thường chạy ra chân núi vào những đêm tối trời, thấy người đàn lợn cứ quấn vào chân, có cả những con lợn què nhưng không ai bắt được con nào cả. Chùa Dầu là một ngôi chùa cổ, nằm ở xóm Chùa, xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Chùa được xây dựng từ thời Vua Lý Thái Tông trị vì nhưng mang đậm dấu ấn phong thời cách kiến Trần. Chùa quay theo hướng nam, tọa lạc trên khu đất rộng khoảng 5000 mét vuông, đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Chùa Gôi thuộc thị trấn Gôi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Chùa Quán Vinh thuộc thôn Quán Vinh, xã Ninh Hòa, huyện Hoa Lư.

[34; 1; 10]

Chùa này là chùa Quán Vinh, Thờ hai công chúa vua Đinh Tiên Hoàng; Ngỡ rằng nát ngọc, tan vàng, Hoa Lư còn mãi tiếng vàng nghìn thu Con cò bay lả bay la Bay từ Cầu Phủ bay ra Cửa Càn

Cửa Càn là cửa sông Càn nay thuộc xã Yên Mạc huyện Yên Mô (hiện nay sông này đã bị bồi lấp). Cầu Phủ xưa thuộc phủ Yên Khánh nay thuộc xã Khánh Thượng huyện Yên Mô.

[35; 13]

Nộn Khê hay còn gọi là Nuốn Khê, Làng Nuốn thuộc xã Yên Từ huyện Yên Mô nổi tiếng có nghề quay tơ, dệt vải.

* Con gái của làng Nuốn Khê Ai đi mang nhớ, ai về mang thương Dậy từ mờ sáng tinh sương Quay tơ dệt vải, lát đường người qua ; Dẻo tay cấy lúa trồng hoa, Lại khéo trồng đậu, trồng cà, làm tương *Làng Nuốn nức tiếng văn chương, Có lầu Thuỷ tạ có đường thênh thang; Đường làng lát gạch Bát Tràng, Dừa xanh mát rượi rộn ràng tiếng ca; Tháng Giêng Báo bản Mười Ba, Trẻ già trai gái, nhà nhà bình thơ. *Trời mưa thì mặc trời mưa, Đường làng lát đá sớm khuya đi về; Quê em là đất Nuốn Khê, Hỏi anh có muốn đi về hay không?

117

Em thưa bác mẹ bằng lòng, Em thì dệt vải, anh trồng ngô khoai; Tứ thời bát tiết anh ơi, Ổ rơm cũng ấm, ngô khoai cũng bùi.

[36; 13]

Cồn Thoi thả sức chim bay, Bể mênh mông sóng, mặc bầy cá bơi.

[37; 13]

Cồn Thoi là tên một xã thuộc vùng quai đê lấn biển phía Nam huyện Kim Sơn Làng Cống Thủy xưa nay là xã Khánh Thủy, Khánh Mậu, Khánh Hội huyện Yên khánh.

Cống Thuỷ đất gái lam làm, Xay thóc, giã gạo nuôi đàn lợn con; Ruộng đồng chắn vén nước non, Năm sương mười nắng vẫn giòn như ai.

[38; 13]

Cửa Càn một dải thênh thênh, Mượn tay tạo hoá xây thành ngàn dâu; Nước non non nước một màu, Ai hay đất hiểm mà đau lòng người

[39; 13]

Đại Hoàng phong cảnh hữu tình, Sông dài, đồng rộng, gái xinh, trai tài.

[40; 13]

Cửa Càn tức Cửa Càn Hải cổ, nơi đây năm 1408 Hồ Quí Ly cho xây thành Quảng Công (thành trồng nhiều dâu), để chống lại quân xâm lược nhà Minh, nay là thôn Quảng Công xã Yên Thái, huyện Yên Mô Khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong 12 sứ quân thống nhất đất nước lập nên triều Đinh (968-980) đóng đô ở Hoa Lư thì đất này gọi là châu Đại Hoàng của nước Đại Cồ Việt. Một xã ven biển huyện Kim Sơn, Ninh Bình.

[41; 13]

Tổng Trường là tổng Trường Yên xưa nay là xã Trường Yên huyện Hoa Lư, Ninh Bình.

Dân thuở ấy còn chăm chài lưới, Xưa mấy ai cấy hái cày bừa; Vậy nên ruộng vẫn hoang thừa, Để cho bãi vịt lần lừa lại thuê; Trước còn mượn lối đi về, Sau dần dần mới lên bề xã to. Dập dìu cánh hạc chơi vơi, Tiễn thuyền vua Lý đang dời kinh đô; Đi thì nhớ cậu cùng cô Về thì lại nhớ cá rô Tổng Trường.

[42; 13]

Đèo nào dốc bằng đèo Ba Dội, Núi nào vời vợi hơn núi Ba Chon; Sông nào quanh hơn sông Trinh Nữ, Cửa bể nào sóng dữ bằng cửa bể Thần Phù? Anh ơi cắt nghĩa cho ra, Thì em kết ngãi giao hoà cùng anh. Đèo Đồi Ngang dốc bằng đèo Ba Dội, Núi Phi Diên vời vợi hơn núi Ba Chon; Sông Hang Luồn quanh co hơn sông Trinh Nữ,

Đèo Ba Dội thuộc thành phố Tam Điệp (nơi tiếp giáp giữa tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh Hóa), núi Ba Chon, sông Trinh Nữ, cửa bể Thần Phù, thuộc huyện Yên Mô. Đèo đồi Ngang – địa danh tiếp giáp giữa Tỉnh Ninh Bình và tỉnh Hòa Bình, thuộc địa phận huyện Nho Quan. Núi Phi Diên (núi Cánh Diều) thuộc thành phố

118

Cửa bể Đại Ác sóng dữ ngang cửa bể Thần Phù Bây giờ anh đã giải ra, Em ơi kết ngãi một nhà cùng anh!

Ninh Bình. Sông Hang Luồn thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Cửa bể Đại Ác - cửa biển ở xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, là nơi sông Đáy đổ ra biển. Xưa nơi đây có tên là cửa Liêu.

[43; 13]

Cầu Lim – cầu bắc qua sông Vân ở trung tâm thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

[44; 13]

Mễ Lâm, chùa Sở thuộc Ninh Hải, Hoa Lư – căn cứ địa của nhà Trần.

Đi qua ngã tư cầu Lim, Thấy cầu to đẹp đứng nhìn mà say. Cầu xưa bắc ở nơi đây, Gỗ lim đã mất tên nay vẫn còn. Dù cho nước chảy đá mòn, Tên cầu mãi mãi vẫn còn là Lim Địa đầu mở một ngôi chiền, Mễ Lâm, Chùa Sở còn truyền đến nay; Non sông may khéo là may, Nên dân Nghiêu - Thuấn vui vầy Đường-Ngu

[45; 13]

Đố ai biết lúa mấy cây, Làng ta Cam Giá đá xây mấy hòn?

[46; 13]

Đời đời tôn kính phụng thờ Ngàn năm còn đó bây giờ là đây Giỗ bánh chay lễ bánh dày Thuần phong mỹ tục xưa nay lưu truyền

[47; 13]

Đồn Dâu quân đóng sẵn sàng, Đất này là đất Quan Hoàng thuở xưa.

Làng Cam Giá thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Chùa Dầu ở thôn Khương Du, xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, Ninh Bình. Chùa còn có tên gọi là Linh Nha Tự, thờ đức Giác Hải thiền sư, đồng môn với quốc sư Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh thời Lý. Đồn Dâu – địa danh thuộc phường Lam Sơn thành phố Tam Điệp

[48; 425; 09]

Xưa kia nhân dân thường mở hội Trường Yên vào ngày 15 tháng 2 âm lịch để tưởng nhớ công lao vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.

[49; 414; 12]

*Dù ai buôn đâu bán đâu, Nhớ ngày mở hội rủ nhau mà về Dù ai bận rộn trăm nghề Tháng Hai mở hội thì về Trường Yên *Dù ai buôn đâu bán đâu, Nhớ ngày mở hội Cờ Lau thì về; Dù ai buôn bán trăm nghề, Cờ Lau vào đám thì về Trường Yên. Dù ai buôn đâu bán đâu Mồng Mười tháng Tám chọi trâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Mồng Mười tháng Tám cũng về chọi trâu

[50; 426; 12]

Nhân dân Ninh Bình ở nhiều nơi mở hội chọi trâu vào ngày mồng Mười tháng Tám. Hội không chỉ là “thi chọi” mà qua đó còn thi tài chăm sóc trâu xem làng nào, xã nào có trâu béo, khỏe. Đền Dâu thuộc địa phận phường Nam Sơn, thành phố

119

Dù ai đi đâu về đâu Nguyên tiêu lễ hội Đền Dâu thì về Dù ai bận rộn trăm bề Nguyên tiêu lễ hội thì về Đền Dâu

tháng giêng

rằm

[51; 13]

Dù ai buôn đâu bán đâu, Cũng không tránh khỏi Cầu Châu, Vân Sàng; Dù ai buôn dọc bán ngang, Cũng không bỏ chợ Vân Sàng, Cầu Châu.

Tam Điệp tỉnh Ninh Bình, đền có tên chữ là “Tang Dã Linh Từ” (nghĩa là: Đền Thiêng nương Dâu) thờ Liễu Hạnh Công chúa – một trong tứ bất tử của điện thần Việt Nam đã hoá thân vào người con gái địa phương giúp dân và quân lính Tây Sơn trồng dâu nuôi tằm.Tại di tích còn gắn với những sự kiện lịch sử được truyền lại như: Chúa Trịnh Tùng phò tá vua Lê thống lĩnh ba quân vượt đèo Ba Dội để đánh ra Đông Kinh (Hà Nội) có qua và nghỉ lai Đền Dâu (TK 16-1592) hay vào năm 1788 khi Hoàng đế Quang Trung tập kết hơn 10 vạn quân ở Tam Điệp có dựng hành cung ngay tại Đền Dâu. Hàng năm nhân dân địa phương mở hội vào ngày (tết nguyên tiêu) Chợ Cầu Châu ở Phủ Lý – Hà Nam; chợ Vân Sàng nay là chợ Rồng thuộc thành phố Ninh Bình. Đây là hai chợ nổi tiếng buôn bán nhộn nhịp, sầm uất.

[52; 13]

Cầu Da, Chương Lai, phố Sở, non Côi, Cát Đằng, Cao Bồ - địa danh thuộc tỉnh Nam Định. Non Nước, Ba Vuông, cầu Yên, cống Vó, cung Do, dốc Diệm, Quán Cháo, núi Ngang, đồn Dâu – địa danh thuộc tỉnh Ninh Bình.

[53; 28; 14]

Đừng về lối ấy mà xa, Lại đây chỉ nẻo cầu Da cho gần; Chương Lai, phố Sở dời chân, Một thôi đủng đỉnh tới gần non Côi; Cát Đằng cũng sắp tới nơi, Ăn cơm uống nước nghỉ ngơi Cao Bồ; Nhác trông núi mọc lô xô, Người ra Non Nước, kẻ vô Ninh Bình; Ba Vuông trải mấy sự tình, Cầu Yên, Cống Vó, dập dình cung Do; Nhác trông Dốc Diệm tà tà, Đi qua Quán Cháo giao hoà núi Ngang; Đồn Dâu quân đóng sẵn sàng, Đất này là đất quan hoàng thuở xưa. Đương cơn mưa gió bão bùng, Ông Sét đánh đùng, Rùa đứt cổ ra. Đường vào Tam Cốc đâu xa Non xanh nước biếc bao la trập trùng Lô xô non nước mông lung Cảnh tiên sa xuống một vùng Hạ Long

Tam Cốc - Bích Động một danh lam thắng cảnh thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, Ninh Bình.

120

[55; 417; 12]

Con gái đồng chiêm – con gái vùng đồng chiêm trũng Gia Viễn, Ninh Bình

[55; 13]

Thôn Hoàng Sơn thuộc xã Ninh Tiến, thành phố Ninh Bình.

Em là con gái đồng chiêm Gieo mạ câý lúa lại thêm trồng màu Ươm tơ dệt vải nhuộm nâu May áo bền chắc, theo trâu cày bừa Em là con gái Hoàng Sơn, Đi đâu cũng nhớ nước non quê nhà; Quê em rừng núi bao la, Non xanh nước biếc như là gấm thêu.

[56; 13]

Em là con gái Nộn Khê Sau vụ gặt hái lại về quay tơ Tay em thoăn thoắt thoi đưa Dệt nên tấm vải người ưa, người dùng

Em là con gái Yên Mô, Theo chồng đi đắp thành Hồ Quảng Công; Thành cao áp sát bể Đông, Vua sai đóng cọc, xích sông cản đường.

[57; 14]

Nộn Khê hay còn gọi là Nuốn Khê, Làng Nuốn thuộc xã Yên Từ huyện Yên Mô nổi tiếng có nghề quay tơ, dệt vải Yên Mô là một huyện vùng trũng phía nam của tỉnh Ninh Bình. Phía tây giáp thành phố Tam Điệp, phía nam giáp hai huyện NgaSơn và Hà Trung của tỉnh Thanh Hóa, phía bắc giáp huyện Hoa Lư, phía đông giáp huyện Kim Sơn, phía đông bắc giáp huyện Yên Khánh. Thành Hồ Quảng Công thuộc xã Yên Thái, huyện Yên Mô.

[58; 32; 2]

Tục lễ bánh dày, bánh chay ở chùa Dầu (phủ Dầu) thuộc xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh

[59; 13]

Giỗ bà chúa lễ cỗ chay Giỗ ông Hoàng lễ bánh dày Ngày rằm tháng chạp rủ nhau Kéo về Chùa Dầu xem bánh xem xôi Muốn cho tóc bạc da mồi Để về ăn bánh ăn xôi Chùa Dầu Hang Chiêng, hang Trống, hang Trâu, Con trai con gái đi đâu cũng về, Cùng nhau múa hát đề huề… Hiu hiu gió thổi mùa Thu, Hăm lăm tháng Tám nhảy dù Kim Sơn.

[60; 13]

[61; 13]

Hoa Lư là đất đế kinh, Núi non vạn trạng, muôn hình giănggiăng; Thuyền ai đậu bến Long Giang,

Hang Chiêng, hang Trống, hang Trâu, thuộc xã Ninh Xuân, huyện Hoa Lư. Ngày 25 tháng 8 (âm lịch) năm 1949 tức ngày 16 tháng 10 năm 1949, thực hiện kế hoạch Rơ ve với sự viện trợ của Mỹ, giặc Pháp nhảy dù xuống huyện Kim Sơn nhằm đánh chiếm Ninh Bình và các tỉnh lân cận. Trong trận này chúng đã giết hại dã man nhiều cán bộ và nhân dân huyện Kim Sơn. Kinh thành Hoa Lư xưa nay thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư là nơi đóng đô của nhà Đinh.

121

Có về Đại Hữu cho nàng cùng theo.

[62; 13]

Long Giang, Đại Hữu – địa danh thuộc huyện Gia Viễn Ấp Yên Mô xưa được chia thành Yên Mô Thượng và Yên Mô Càn (càn – trời; không – đất)

[63; 13]

[64; 13]

[65; 13]

[66; 23; 9]

[67; 13]

Bàn Long : tên chùa từ thời nhà Đinh, chùa dưới chân núi Tượng Sơn, trong chùa vách núi có hình tượng rồng uốn khúc rất đẹp nên người xưa gọi là chùa Bàn Long, thuộc xã Ninh Xuân huyện Hoa Lư, nay nằm trong quần thể danh thắng Tràng An. Huyện Hoàng Long xưa nay là huyện Nho Quan, Ninh Bình. Thôn Hoàng Sơn thuộc xã Ninh Tiến, thành phố Ninh Bình. Thôn Lực giá nay thuộc xã Ninh Mỹ huyện Hoa Lư nổi tiếng với nghề cung bông (bật bông) – làm chăn bông Ca dao Ninh Bình nói về vua Đinh Tiên Hoàng

Hoàng Lê Bảo Thái ra đời, Yên Mô một ấp chia đôi đinh điền. Phân ra tách biệt chùa chiền, Mệnh danh mới gọi thôn Kiền từ đây. Cửa Càn một dải thênh thênh, Mượn tay tạo hoá xây thành yên dân Hoàng Long bến cũ đâu xa, Gần đây lại có động là Bàn Long; Bốn bề khói toả mây lồng, Hai bên tả hữu núi Rồng giương vây; Khê Đầu gối nguyệt êm thay, Chuông chùa văng vẳng đêm ngày ngân nga Muốn cho ơn khắp gần xa, Vượt lên đem nước Ngân Hà làm mưa. Hoàng Long có núi chăn dê, Có hồ thả cá, có nghề riu tôm. Hoàng Sơn có cái núi vàng, Mã Thiều hổ phục, Đồng Quang thần đồng. Hỡi cô thắt dải lưng xanh, Có về Lực Giá với anh thì về. Lực Giá có cây bồ đề, Có sông tắm mát có nghề cung bông. Kiệu tay, lọng nón, cờ lau Phong lưu trong đám chăn trâu chẳng vừa Mai ngày ta được làm vua Tán vàng, tán tía cũng thừa phong lưu. Kim Sơn đồng đất bao la, Đồng xanh bát ngát, biển hoà chân mây

[68; 13]

[69; 13]

Kim Sơn đồng ruộng bao la Đường làng thẳng tắp, biển xa rộng dài. Nơi đây ruộng mật bờ xôi, Lời ca đồng vọng sáng ngời Bắc – Nam.

[70; 13]

Lại về Yên Vệ qui y Lấy nồi gánh nước ngã quì gối in

Kim Sơn là huyện ven biển nằm ở cực nam của tỉnh Ninh Bình và miền Bắc. Kim Sơn là huyện ven biển nằm ở cực nam của tỉnh Ninh Bình và miền Bắc, đây là một huyện thuần khiết đồng bằng, được thành lập bởi nhà doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ trong công cuộc khai hoang lấn biển cách đây 2 thế kỷ. Vùng đất được biết đến với vai trò trung tâm của xứ đạo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm với mật độ dày đặc các nhà thờ công giáo Làng Yên Vệ thuộc xã khánh Phú huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

122

[71; 13]

Xưa kia nhân dân thường mở hội Trường Yên (Cờ Lau) vào ngày 15 tháng 2 âm lịch để tưởng nhớ công lao vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành

[72; 13]

Làng ta mở hội Cờ Lau, Chiêng vang, trống giục rủ nhau lên đền; Long ngai vua ngự ở trên, Tả văn, hữu võ, bốn bên rồng chầu; Giai thời diễn tích cờ lau, Gái ca Cửu Khúc vang câu sấm truyền; Trăm năm bia đá còn nguyên, Ngàn năm công đức còn truyền sử xanh. *Làng ta, Đông Hải, Tây Hà Bắc giáp Cổ Đà, nam giáp Cổ Lâm * Làng ta là làng Yên Mạc, Thuở sa bồi man mác phù sa; Mênh mông Đông hải, Tây hà, Bắc, Nam tiếp giáp Cổ Đà, Cổ Lâm.

Bình

[73; 13]

Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. La hời la hỡi hời la, Mưa ngâu lất phất ơi là mưa ngâu; Giời mưa ướt cả vườn dâu, Lá dâu rụng xuống, bông lau phất cờ; Sào Khê nước lặng như tờ, Thuyền Rồng của Chúa đi qua hang Luồn; Thênh thênh một dải đào nguyên, Bồng Lai tiên cảnh hữu duyên, hữu tình;

Đây là địa giới xã Yên Mô xưa, vốn gốc là đất Mô Độ cũ, căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Hậu Trần, sau gồm bốn xã là : Thiên Trì, Côi Trì, Nộn Khê, Càn Thôn, nay là các xã : Yên Từ, Yên Mỹ, Yên Mạc, huyện Yên Mô Cửa biển Thần Phù hiện nằm trên tuyến sông Nhà Lê, thuộc ranh giới giữa 2 xã Yên Lâm,Yên Mô, Ninh và Nga Điền, Nga Sơn, Thanh Hóa. Khu vực Thần Phù nay ở thượng nguồn lưu vực sông Càn, con sông cùng với dãy núi Tam Điệp là ranh giới giữa 2 miền Trung - Bắc Việt Nam. Sông Sào Khê, hang Luồn thuộc huyện Hoa Lư Ninh Bình.

[74; 13]

Núi Nẹ - một trái núi đứng ngoài biển, thuộc vùng biển huyện Kim Sơn.

[75; 13]

Quần thể chùa Bái Đính thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, Ninh Bình.

[76; 426; 12]

[77; 13]

Mênh mông kênh rạch, lạch đầm, Mái chèo gõ mạn thì thầm tiếng ru; Quê ta bãi biển phù sa, Trồng lúa lúa tốt, trồng cà cà sai; Bãi bồi mỏi cánh cò bay, Núi Nẹ như thể bàn tay vẫy chào. Mồng Sáu trong tiết tháng Giêng, Trẻ già náo nức trống, chiêng vang trời; Trèo lên Bái Đính một hơi, Cầu xin Phật Thánh, đất trời phù cho; Nhà nhà khang thái, ấm no, Dân giàu, nước mạnh, cơ đồ vững âu; Con Hồng, cháu Lạc đâu đâu, Tháng Giêng, mồng Sáu rủ nhau mà về. Muốn ăn cơm trắng cá mè Thì về Bạch Bát hái chè với anh Mênh mông kênh rạch, lạch đầm, Mái chèo gõ mạn thì thầm tiếng ru. Thời Nghiêu Thuấn hay Đường Ngu,

Bạch Bát thuộc xã Yên Thành huyện Yên Mô.

123

Phượng Trì - Côi Trì nay thuộc xã Yên Mỹ huyện Yên Mô.

Côi Trì thuỷ tú thiên thu vẫn còn. Chóp Chài, Mả Vó, Gò Con, Sóng khơi rợn đến đỉnh non Thần Phù. Đoài phương tam ngạn sương mù, Có kênh Ngọc Thỏ, Đồng Trù linh thiêng. Núi Rùa nằm ở Bạch Liên, Hữu tình non nước thiên nhiên đặt bày

[78; 13]

Ngày xuân đâu phải là dài, Chơi chùa Bích Động kẻo mai nữa già.

Ngọc Mỹ có gái tiến vua, Thuần phong, mỹ tục chẳng thua nơi nào!

[79; 13]

[80; 427; 12]

Người về Non Nước quê ta Hương trà Kim Cúc đậm đà khó quên

[81; 13]

Ninh Bình có Ngọc mỹ nhân Nhiều con gái đẹp mỏi chân anh về

[82; 13]

Ninh Bình kết nghĩa Bạc Liêu Keo sơn gắn bó mối tình Bắc – Nam

[83; 13]

Ninh Bình lắm cảnh thiên nhiên, Trà Tu động ấy ở miền Yên Mô; Giữa năm Quý Dậu, mùa thu, Bỗng đâu có kẻ tiều phu tìm vào; Mịt mù hang thẳm, núi cao, Nhìn xem phong cảnh khác nào động Tiên; Chốn là đệ nhất Nam thiên, Đan đài, Ngọc thất miên miên trùng trùng.

[84; 13]

Chùa Bích Động thuộc danh thắng Tam cốc Bích Động, ở xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Ngọc Mỹ (ngọc mỹ nhân – núi Cánh Diều) nay thuộc thành phố Ninh Bình. Trà Kim Cúc được làm từ một loại hoa cúc vàng nổi tiếng vừa thơm ngon vừa có giá trị chữa bệnh mọc trên núi Non Nước nay thuộc thành phố Ninh Bình. Núi Ngọc Mỹ Nhân hay còn gọi là núi Cánh Diều, núi Phi Diên nay thuộc thành phố Ninh Bình Tỉnh Ninh Bình kết nghĩa với tỉnh Bạc Liêu ngày 23 tháng 1 năm 1960 Động Trà Tu xưa kia thuộc thôn Trà Tu, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô. Nay phân lại địa giới hành chính, động Trà Tu thuộc xã Đông Sơn, thành phố Tam Điệp. Đây là một động đẹp, phong cảnh kỳ thú, thâm u, do một tiều phu phát hiện năm Quý Dậu (1933). Địa danh này thuộc huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.

[85; 13]

[86; 13]

Nơi đây truyền thống đấu tranh, Ngàn năm còn đượm mối tình giáo lương; Núi Vàng biển bạc mênh mông, Bình minh rực rỡ, sóng hồng chân mây. Núi Đính ai đắp mà cao, Ngã ba Non Nước ai đào mà sâu? Núi Voi có động có hang, Có đền Lê Niệm khói nhang mịt mờ.

Núi Đính thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Núi Voi, chùa Hang, đền thờ Lê Niệm là một quần thể di tích lịch sử danh thắng của thôn Phượng Trì, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, Ninh Bình, đã được công nhận là di tích lịch sử.

124

[87; 13]

Nước non, non nước như tranh, Dưới trời mây trắng là thành Hoa Lư.

[88; 22; 02]

Kinh thành Hoa Lư xưa nay thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư. Tục lễ bánh dày, bánh chay ở chùa Dầu (phủ Dầu) thuộc xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh.

[89; 13]

[90; 13]

Phú Vinh nay thuộc thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn. Phượng Trì – Côi Trì nay thuộc xã Yên Mỹ huyện Yên Mô.

[91; 13]

Phủ Dấu giỗ chúa tháng hai Giỗ chay dâng tiến thiền đài Linh Nha Đời con cho chí đời cha Thành tâm tiến cúng trẻ già nhắc nhau Phú Vinh lắm của nhiều con, Có cái cầu Ngói lăn tòm xuống sông. Phượng Trì phong cảnh dễ coi Chùa Hang, tượng Đá, Núi Voi thần t́nh Nh́ n xem địa vật, địa linh Phượng Trì văn học tiếng lành đồn xa Ai về đồng đất quê ta Ngắm nhìn phong cảnh bao la hữu tình Qua Tu thì bước tới Ngò, Qua Lồng tới Bút, chợ Mo cũng gần.

[92; 13]

Chợ Tu, chợ Ngò, chợ Lồng, chợ Bút, chợ Mo thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình. Sông Trinh Nữ, cửa Thần Phù xưa nay thuộc huyện Yên Mô. Yên Đồng – một xã miền núi, phía nam huyện Yên Mô.

[93; 13]

[94; 428; 12]

Sông Hoàng – Sông Hoàng Long, Sông Đáy thuộc tỉnh Ninh Bình. Bến đò Tam Tòa nay thuộc xã Nghĩa Trung, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

[95; 13]

Quanh co uốn khúc là sông Trinh Nữ Ầm ầm sóng dữ là cửa Thần Phù. Quê em là đất Yên Đồng, Núi Văn, núi Võ, núi Còng, hang Thung; Có thành Lưu Thủ vua Hùng, Sùng Công trấn giữ một vùng nước non. *Quê em phong cảnh hữu tình, Non xanh, nước biếc, như tranh họa đồ. *Quê em đất lịch, người thanh, Non non, nước nước như tranh hoạ đồ. *Quê em rừng núi bao la, Non xanh, nước biếc như là gấm thêu. Quê ta phía bắc sông Hoàng Phía đông Sông Đáy, phía nam Tam Tòa Quê ta đồng đất bao la Con đê sừng sững trải qua bao đời Nắng mưa là việc của trời Đắp đê chống lụt việc người trần gian Tái dê chấm với tương gừng, Rượu tiết cạn chén xin đừng quê nhau Thanh nhàn mát mẻ Thủ Trung Đầy đay dệt chiếu làm công nhẹ nhàng

[96; 13]

Tái dê – đặc sản ẩm thực Ninh Bình Thôn Thủ Trung thuộc xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, Ninh Bình.

[97; 13]

Côi trì nay thuộc xã Yên Mỹ huyện Yên Mô.

Thời Nghiêu-Thuấn hay Đường- Ngu, Côi Trì thuỷ tú thiên thu vẫn còn; Chóp Chài, Mả Vó, Gò Con, Sóng khơi còn vọng núi non Thần Phù; Đoài phương tam ngạn sương mù, Có kênh Ngọc Thỏ, Đồng Trù linh thiêng; Núi Rùa nằm ở Bạch Liên, Bức tranh thuỷ mạc thiên nhiên hữu tình.

125

[98; 13]

Thong thả vào đền Thái Vi Một trăm trái núi Trâu quì về đây.

[99; 13]

Thứ nhất là hội Phủ Dầy, Vui thì vui vậy chẳng tày hội La.

Đền Thái Vi ở thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư thờ vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Hiển Từ Hoàng thái hậu và thờ phụ vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông. Phủ Dày thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Hội La thuộc xã Yên Thành, huyện Yên Mô, Ninh Bình.

[100; 13]

Xã Thượng Kiệm thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình.

Thượng Kiệm như cái sao sa, Cùng là một xã chia ra ba chòm; Thượng Kiệm lắm của nhiều con, Có cái cầu Ngói lăn tòm xuống sông.

[101; 13]

Hang Thung – địa danh thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình.

[102; 13]

Trần ai, ai biết ai đâu, Hoa Lư có đám trẻ trâu anh hùng; Cờ lau tập trận hang Thung, Một phen thảo phạt bốn phương một nhà. Trèo lên non nước xanh xanh, Trên non dưới nước như tranh tuyệt vời. Trường Yên đất tốt cao nền Ai đi đến chốn Trường Yên quên nhà

[103;425;12]

[104; 13]

Tượng giời ai vẽ vào đây, Trăm hang chỉ có hang này là hơn; Thăm thẳm vào đền Thái Vi, Núi non trăm ngả chầu quy đất Thần.

[105; 13]

[106; 13]

Vân Sàng là chốn hữu tình, Thuyền buôn tấp nập, rập rình bến Non. Vân Sơn tươi đẹp lạ lùng, Mây bay dưới núi, trăng lồng đáy sông.

[107;127;01]

Núi Non Nước thuộc thành phố Ninh Bình. Trường Yên – Phủ Trường Yên xưa nay là xã Trường Yên huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh B́ ình. Đền Thái Vi được xây dụng ở phía tây thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải ,huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đền thờ Trần Nhân Tông, hoàng hậu Thuận Thiên và Trần Thánh Tông – ông vua có công rất lớn đối với làng Văn Lâm. Vân Sàng nay là Sông Vân thuộc địa phận thành phố Ninh Bình. Vân Sơn hay còn gọi là Phi Vân dải núi thuộc kinh thành Hoa Lư xưa Sông Ân (Ân giang) thuộc địa phận huyện Kim Sơn, Ninh Bình.

[108; 13]

Vì con, vì cháu, vì mình Vì dân, vì giáp, vì tình nước non Sông Ân muôn thuở vẫn còn Nhân dân bảy tổng như con một nhà Truy tư mới lập đền thờ Ghi công đức để đến giờ làm gương Nếu ai nghiêng ngả coi thường Tội vong ân ấy tự mang vào mình Vực Vông, Cổ Giải sóng cồn, Thuỷ chung, tiết hạnh sử còn lưu danh

Vực Vông, Cổ Giải thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư,

126

[109;28; 14]

Ninh Bình thờ bà quận chúa Nguyễn Thị Liên. Yên Mạc là một xã miền núi nằm ở phía nam huyện Yên Mô, Ninh Bình. Địa phương này được biết tới bởi món nem chua nổi tiếng.

[110; 13]

*Yên Mạc có món nem chua Thơm ngon nổi tiếng đến vua cũng thèm *Yên Mạc đặc sản nem chua Tiệc tùng đình đám thường mua về dùng *Nem Yên Mạc níu chân người Rượu bầu thơ túi một đời tìm nhau Yên Mô đẹp lắm mình ơi, Sơn thanh thuỷ tú hiếm nơi đẹp bằng.

Yên Mô - một huyện phía nam của tỉnh Ninh Bình .

2.2. Ca dao địa danh Ninh Bình về kinh nghiệm sản xuất và quan hệ xã hội

STT

Ngữ liệu

[01; 13]

Ai đi trẩy hội Trường Yên, Cho em đi với chung thuyền được không? Thuyền vào đến bến Long Giang, Lễ anh đi trước, lễ nàng tiến sau.

Chú thích địa danh Hội Trường Yên là lễ hội lớn nhất tỉnh Ninh Bình và được công nhận là lễ hội truyền thống cấp quốc gia vào năm 2015. Hội diễn ra hàng năm từ ngày 8 đến ngày 10 tháng ba âm lịch, tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, kinh đô của nước Đại Cồ Việt xa xưa. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ công lao to lớn của vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Tình cảm đôi lứa của những chàng trai, cô gái Ninh Bình xưa.

[02; 13]

[03; 13]

Chợ Huyện, chợ Vân – địa danh thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư.

Ai làm nên thảm nên sầu, Bỏ cái ngao ngán cho nhau mà về; Đang sầu, đang thảm, đang mê, Chàng bỏ chàng về, đường cái phân đôi; Sầu này biết thuở nào nguôi, Tưởng rằng như đã để rơi lạng vàng; Có chàng em mới thở than, Vắng chàng em biết phàn nàn cùng ai? Có chàng vui một cười hai, Vắng chàng em biết lấy ai than cùng? Mùa xuân cho chí mùa đông, Mùa nào cũng lạnh vì không có chàng. Ai lên chợ Huyện, chợ Vân, Chợ Huyện bán lụa, chợ Vân ruộm màu; Em ơi đi chợ mau mau, Mua cho anh tấm riềm bâu hạt rền.

[04; 13]

Ai lên Cổ Đế, Đầm Đa,

Cổ Đế thuộc Gia Viễn, Đầm Đa thuộc Lạc Thủy (Hòa Bình) là vùng đất kéo dài dọc theo sông Bôi, xưa kia nổi tiếng nước độc,

127

Bủng beo da thịt chẳng ma nào nhìn.

[05; 13]

Ai lên Đa Giá, La Phù, La Mai rồi đến Bạch Cừ mau mau; Mua cho một tấm lụa màu, Để anh may áo đi hầu vua ra.

Ai ơi chớ lấy gái La, Vừa lười canh cửi, lại la mắng chồng.

[06; 13]

người nơi đây thường mắc chứng bệnh “báng bụng”(bụng chướng) dân gian quen gọi là “ngã nước” rồi chết. Làng La Phù, làng Bạch Cừ thuộc xã Ninh Khang, làng Đa Giá thuộc xã Ninh Mỹ, làng La Mai thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình Làng La Phù thuộc xã Ninh Khang, làng La Mai thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư. Quán Cháo, Đồng Giao – địa danh thuộc địa phận thành phố Tam Điệp, Ninh Bình.

[07; 144; 1]

*Ai vô Quán Cháo Đồng Giao Má hồng để lại xanh xao mang về *Ai vô Quán Cháo, Đồng Giao Má hồng thêm thắm người nào cũng xinh. * Ai đưa ta đến chốn này, Bên kia Quán Cháo, bên này Đồng Giao * Đồng Giao đi dễ khó về, Trai đi có vợ, gái về có con.

[08; 13]

Ai xây Cầu Ngói vồng vồng, Hỡi cô bán chiếu má hồng chờ ai?

Cầu Ngói thuộc thị trấn Phát Diệm, cầu được xây dựng năm 1902, cầu ngói Phát Diệm là một trong những cây cầu có kiến trúc độc đáo ở nước ta hiện nay. Cầu có dáng cầu vồng, bên trên lợp ngói… không chỉ có chức nãng giao thông, cầu còn là điểm hẹn vãn hóa của người dân địa phương qua nhiều thế hệ.

[09; 143; 1]

Tam Điệp – dãy núi Tam Điệp nay thuộc thành phố Tam Điệp, Ninh Bình.

Ăn trầu chọn lấy cau khô Trèo lên Tam Điệp thấy cô bán hàng Cô bán hàng lòng cô buồn bã Nắng xế chiều đã ngả về tây Đợi cô ba bảy hai mươi mốt năm nay, Cớ sao cô lại ngồi đây bán hàng!

[10; 13]

Tình cảm lứa đôi của những chàng trai cô gái vùng quê Gia Viễn Ninh Bình.

[11; 13]

Anh đi đánh dậm đồng làng, Gặp em có tấm lòng vàng yêu anh; Chẳng chê áo rách, quần manh, Thương nhau chân đất, quần manh sá gì! Anh đi sứ sự mười đông, Không bằng vượt lội Khánh Công, Khánh Thành Anh đi khắp chốn Nam - Thanh, Không bằng vượt lội Khánh Thành, Khánh Công.

Khánh Công, Khánh Thành là hai xã phía đông của huyện Yên Khánh, xưa kia đường xá đi lại khó khăn,vất vả nhất là những ngày mưa gió, bão lụt.

128

Phi Hổ - tên một con tàu chạy sông của công ty Bạch Thái Bưởi

[12;426; 12]

[13 ;13]

Dãy núi Tam Điệp, Non Trình nay thuộc thành phố Tam Điệp

Tình cảm đôi lứa của những chàng trai, cô gái Ninh Bình xưa.

[14; 13]

Anh là con trai Hải Phòng Chạy tàu phi hổ ở trong Ninh Bình Thấy em duyên dáng tươi xinh Anh thuận nhân tình anh nắm cổ tay Nắm rồi lắc khẽ cổ tay Anh hỏi câu này: Có lấy anh không? Anh lên Tam Điệp em men Non Trình Củi than nhem nhuốc với tình Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên Anh tham nón tốt nhưng dột trời mưa Anh tham vợ đẹp nhưng thua việc làm Cơm sống thì anh lại rang Quí hồ vợ đẹp ra đàng người khen

[15; 13]

Anh về bán núi Mã Yên, Bán sông Gián Khẩu lấy tiền cưới em.

Núi Mã Yên thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư, Gián Khẩu (hay Gián Khuất) là tên một địa danh thuộc huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Gián Khẩu không phải là một đơn vị hành chính nhưng do nằm ở vị trí hội tụ giao thông giữa quốc lộ1A và tỉnh lộ 470, đồng thời là vị trí sông Hoàng Long đổ vào sông Đáy.

[16; 13]

Kim Sơn, Gia Khánh (nay thuộc Hoa Lư) là hai huyện của tỉnh Ninh Bình.

[17; 13]

Phát Diệm: Thị Trấn Phát Diệm huyện Kim Sơn; Lưu Phương: xã Lưu Phương huyện Kim Sơn

[18; 13]

Làng La Phù thuộc xã Ninh Khang, làng La Mai thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư.

[19; 13]

Núi Ba Chon thuộc huyện Yên Mô Ninh Bình.

Anh về mua chiếu Kim Sơn, Mua chăn Gia Khánh thành hôn em về; Dẫn cưới một trăm con dê, Trăm con lợn béo, nghìn bò, vạn trâu; Vạn vò rượu, triệu quả giầu, Mời khắp thiên hạ chín châu, mười mường; Thách thế em mới thoả lòng, Anh mà lo được là chồng em ngay! Anh về Phát Diệm, Lưu Phương, Đi qua cầu Ngói nhớ thương đêm rằm. Chung lời hẹn ước trăm năm, Tỏ đèn anh đọc thắm đằm Kinh răn. Áo lụa La của chàng vắt mắc, Đêm em nằm em đắp lấy hơi; Chàng đi mù mịt bể khơi, Để em ôm ấp những nhời thề xưa; Bao giờ chàng giở về La, Thì em giả áo năm xưa cho chàng! Ba Chon cao tới tận trời, Hỏi lòng em đã có người nào chưa? Ba Chon cao đến trăng sao, Lòng em sớm ước tối ao có chàng. Ba Chon cao ngất mấy tầng,

129

[20; 13]

Ái ân đôi chữ xin nàng chớ quên; Một ngày nên nghĩa cũng nên, Đừng vui chốn mới mà quên chốn này; Em về thưa với mẹ thày, Anh thưa bác mẹ chọn ngày vu quy. Bao giờ quýt lớn hơn cam? Cam lớn hơn bưởi, thau năm hơn vàng? Ngẩn ngơ đứng trước Đình Ngang, Nhìn vàng chẳng biết là vàng hay thau

[21; 13]

Bao giờ Thiện Hối ăn cheo, Điềm Dương vào đám ta neo thuyền tình

[22; 13]

Bao giờ Yên Vệ đổ đình, Yên Xuyên cưới chợ thì mình lấy ta ; Bao giờ Tráng Mõi hết ma, Lang Ca hết độc thì ta lấy mình

Đình Ngang – ngôi đình lớn thuộc kinh đô Hoa Lư xưa, nay là xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Thôn Thiện Hối thuộc xã Gia Tân, thôn Điềm Dương (Điềm Giang) nay thuộc xã Gia Thắng huyện Gia Viễn. Làng Yên Vệ, làng Yên Xuyên thuộc xã Khánh Phú, làng, Lang Ca nay thuộc xã Yên Sơn, thành phố Tam Điệp. Tráng Mõi là một làng cổ thuộc xã Yên Bình, Yên Mô (nay không còn) nổi tiếng ma thiêng nước độc.

[23; 13]

Chợ Huyện nay thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, Ninh Bình.

[24; 13]

[25; 13]

thuộc Phố Phúc Lộc nay phường Ninh Phong, thôn Hạ Trạo nay thuộc phố Thiện Tiến, thành phố Ninh Bình, Ninh Bình. Phú Lộc – một xã Miền núi huyện Nho Quan.

Bấy lâu anh đến chơi nhà, Hạt cải chưa rắc, hạt cà chưa gieo; Gạo thì sạch nhẵn trong niêu, Lửa thì đã tắt từ chiều hôm qua; Đi lên chợ Huyện thì xa, Đi xuống chợ Tổng mua cà, mua dưa; Mặt giời thì đã xế trưa, Hỏi rằng nhân ngãi có chờ được chăng? Còn thiếu một món mầm măng, Chạy lên Đầm Rừng xẻ rãnh trồng tre; Hết củi thì em buôn bè, Ba năm được củi chở về nấu cơm; Hết mắm vác đó đi đơm, Ba năm mắm ngấu làm cơm thết chàng; Thôi thôi ta giã ơn nàng, Chờ cỗ nàng đãi thì vàng mắt ra! * Cái Cóc lặn lội bờ sông, Lấy chồng Phúc Lộc chổng mông mà bào; * Cái Cóc lặn lội bờ ao, Lấy chồng Hạ Trạo chèo đò quanh năm. * Cái cóc lăn lóc bờ ngòi, Lấy chồng Phú Lộc đi đồi quanh năm. *Lấy chồng thợ mộc sướng ghê, Mạt cưa nhóm bếp, vỏ bào nấu cơm. Vỏ bào thì cháy hơn rơm, Mạt cưa nhóm bếp thơm hơn mùi trầm. *Chẳng biết mua bán chi chi

[26; 13]

130

Chợ Bút thuộc thôn Đông Sơn xã Yên Mạc huyện Yên Mô, Ninh Bình.

Mười phiên chợ Bút em đi cả mười! Hay em hò hẹn với người, Mười phiên chợ Bút cả mười em đi *Em buôn hoa trái trong vườn, Buôn tôm, buôn cá, buôn nguồn, bán sông; Chắt chiu nuôi mẹ, nuôi chồng, Nuôi con cho được như bằng người ta; Nào em buôn bán chi xa, Mười phiên chợ Bút em ra cả mười.

Chàng về thiếp cũng xin về,

[27; 13]

Chàng về Thượng Kiệm, em về Lưu Phương.

[28; 13]

Thượng Kiệm, Lưu Phương - hai xã thuộc huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình. Yên Mô nay là huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình. Lũ áo dài – chỉ bọn quan lại thời xưa ở tỉnh Ninh Bình.

[29;417; 12]

[30; 13]

Chẳng yêu anh ở Yên Mô Bởi chưng em sợ bà cô bên chồng . Chém cha cái lũ áo dài Ăn no đến tận mang tai vẫn lần Nó lần đến bẹn khố dân Trong ngoài bòn sạch không phân thứ gì Ăn no rồi lại nằm khì Mặc dân rên xiết khốn nguy nhọc nhằn Chiếu hoa Bồng Hải anh ngồi Tình chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương Chiếu này dệt vấn tơ vương Anh ngồi em trải thiệt hơn xá gì.

[31; 13]

[32; 13]

Chợ Mo đắt muối rẻ cà, Đàn ông vô khối, đàn bà tám thiên; Tám thiên thì mặc tám thiên, Anh không có tiền thì vẫn nằm không! Chưa đi chưa biết Vó Vồng , Đi thì mới biết sao chồng có mang.

Tổng Bồng Hải của huyện Yên Khánh xưa gồm các xã : Khánh Thiện, Khánh Cường, Khánh Trung, Khánh Công, Khánh Thành nổi tiếng với nghề dệt chiếu Chợ Mo nay thuộc xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình Vó Vồng – địa danh thuộc huyện Nho Quan, nơi đây nước độc, muỗi rừng truyền bệnh sốt rét rất khủng khiếp. Những người ở vùng đồng bằng lên đây thườngbị mắc bệnh trướng bụng (ngã nước) giống như người đàn bà có mang.

[33;425; 12]

Hòn Non Nước – núi Non Nước hay còn gọi là núi Thúy nay thuộc thành phố Ninh Bình.

[34; 13]

Chung quanh những nước non người Giữa hòn Non Nước mình tôi với chàng Ví chàng mà có lòng thương Thì chằng đắp điếm trăm đường đi cho Yêu chán thì chàng lạo no Hỏi khi mưa nắng biết nhờ cậy ai ? Chung quanh những nước non người, Giữa hòn Non Nước có tôi với chàng; Mặc cho sóng gió phũ phàng,

Hòn Non Nước – núi Non Nước hay còn gọi là núi Thúy nay thuộc thành phố Ninh Bình.

131

[35; 13]

[36; 13]

Giữa trời Non Nước có nàng, có tôi. Có duyên lấy gái Cồn Thoi, Đan cói cũng giỏi, đi khơi cũng tài. Cô kia đẹp đẽ như tiên, Tắm nước sông Kiền cũng xấu như ma; Cô kia xấu xí như ma, Tắm nước Kênh Gà cũng đẹp như tiên!

Cồn Thoi một xã ven biển thuộc huyện Kim Sơn. Sông Kiền tức sông Càn ở huyện Yên Mô, nước sông nhiều phù sa, đục ngầu. Kênh Gà là suối nước khoáng nóng ở thôn Kênh Gà, xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn có nhiều chất khoáng, tắm và uống chữa được nhiều bệnh tật.

[37; 13]

Phát Diệm nay là thị trấn Phát Diệm thuộc huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.

Cơm trắng ăn với chả chim, Lấy vợ Phát Diệm những nhìn mà no; Cơm tám ăn với cá kho, Lấy vợ Phát Diệm chẳng lo đói nghèo.

[38; 13]

Cửa Càn xưa nay thuộc xã Yên Mạc huyệnYên Mô, là nơi có nhiều muỗi, rệp. Sông Nuốn xưa thuộc xã Yên từ huyện Yên Mô nhân dân hai bên bờ sông có nghề trồng dâu, dệt vải.

[39; 13]

Chợ Lồng, chợ Mo nay thuộc huyện Yên Mô. Bến đò Xanh nay thuộc huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình.

[40; 13]

Cửa Càn xưa nay thuộc xã Yên Mạc huyệnYên Mô.

[41; 13]

Thôn Đông Hội thuộc xã Ninh An, huyện Hoa Lư.

Con cò bay lả bay la, Bay từ sông Nuốn bay ra cửa Càn; Gặp em ở giữa đồng làng, Hỏi em tha thẩn tìm đàng đi đâu? Quanh năm lội cánh đồng sâu, Nào em có tính đi đâu tìm đàng; Cơ duyên may được gặp chàng, Cậy chàng, chàng chỉ con đàng thiếp đi. Còn duyên buôn cậy bán hồng, Hết duyên ngồi ngáp chợ Lồng, chợ Mo; Còn duyên thách những quan to, Hết duyên vơ vội lái đò Bến Xanh. Còn duyên kén lọng, kén ô, Hết duyên khố rách cũng vơ làm chồng; Còn duyên thách bắc, đố đông, Hết duyên kéo vó bên sông cửa Càn . * Con gái dù đẹp như tiên, Lấy chồng Đông Hội như thuyền chở phân. *Con gái mà xấu như ma, Lấy chồng Đông Hội cũng ra thân người. *Cơm ăn một bát sao no, Lấy chồng Đông Hội chỉ lo đường về.

[42; 13]

Đã từng lên Khuốt xuống La, Sao người nỡ phụ tình ta hỡi người?

[43; 13]

Đã từng lên Rịa xuống Ghềnh, Cơm khoai, cháo sắn sao mình quên ta?

[44; 13]

Đã từng vượt cửa Đại Nha, Đã từng chèo lái khi qua Thần Phù; Qua cơn sóng cả gió to,

Làng Khuốt thuộc huyện Gia Viễn, làng La thuộc huyện Hoa Lư Ninh Bình. Rịa – địa danh thuộc huyện Nho Quan, Ghềnh – địa danh thuộc thành phố Tanm Điệp tỉnh Ninh Bình. Cửa Đại Nha - cửa biển ở xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, là nơi sông Đáy

132

Sao nàng lại dễ phụ ta hỡi nàng? Mai còn vượt cửa Càn Giang, Sóng to, gió lớn thì nàng gọi tôi!

Đàn ông mà chửa ang ang, Không người làng Vĩnh, cũng sang làng Còng.

[45; 13]

[46; 13]

đổ ra biển. Xưa nơi đây có tên là cửa Liêu hay cửa Đại Ác, cửa biển Thần Phù nay thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình nơi giáp giới với Thanh Hóa. Cửa Thần Phù vốn là một cửa biển hiểm yếu Làng Vĩnh làng Vĩnh Khương thuộc xã Quảng Lạc và làng Cồng thuộc xã Sơn Hà huyện Nho Quan xưa dân mấy làng này dùng nước suối rừng độc, muỗi đốt, sốt rét mắc bệnh bụng chướng to. Lời than của người dân Ninh Bình xưa.

[47;427; 12]

Kinh nghiệm đắp đê chống lụt của nhân dân Ninh Bình.

[48;425; 12]

[49; 13]

Đắng cay tột đỉnh trời ơi Cái nghèo cái khổ chẳng rời tôi ra. Đắp đê xin chớ làm bừa Đất mịn đất tốt hãy đưa đắp vào Bây giờ tốn chút công lao Đến mùa nước lũ hết vào đồng ta Làm ruộng phải biết lo xa Đã tốn công sức phải ra lúa vàng *Đầu thời đội đỉnh Núi Son Chân thời đạp núi chon von Thần Phù Bao giờ mở hội Trà Tu Mẹ con ta lại võng dù xênh xang *Đầu thời đội mũ vàng son, Chân thời đạp núi chon von Thần Phù; Bao giờ mở động trà Tu, Mẹ con có võng có dù mà đi. Đầu thời đội mũ vàng son, Chân thời đạp núi chon von Thần Phù; Bao giờ mở động trà Tu, Mẹ con có võng có dù mà đi.

Tương truyền thượng thư Ninh Tốn dấu tới 50 tấn vàng dưới thời Hậu Lê ở vùng núi Tam Điệp, địa danh núi Son, Thần Phù, Trà Tu đều nằm dọc dãy núi Tam Điệp (từ thành phố Tam Điệp tới cửa Thần Phù cổ nay là xã Yên Lâm, huyện Yên Mô) Động Trà Tu xưa kia thuộc thôn Trà Tu, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô. Nay phân lại địa giới hành chính, động Trà Tu thuộc xã Đông Sơn, thành phố Tam Điệp. Đây là một động đẹp, phong cảnh kỳ thú, thâm u, do một tiều phu phát hiện năm Quý Dậu (1933).

Chợ Gành nay thuộc thành phố Tam Điệp, Ninh Bình. Thanh tức tỉnh Thanh Hóa.

[50; 13]

[51; 13]

Núi Đồng Cân nay thuộc xã Ninh Khang, huyện Hoa Lư.

Xóm Tam Dương thuộc xã Khánh Dương huyện Yên Mô.

Đem con mà bỏ chợ Gành, Mẹ còn tất tả vào Thanh kiếm tiền; Giời cho khoẻ mạnh liền liền, Làm thuê được tiền, mẹ sẽ chuộc con. Đêm qua chớp giật Đồng Cân, Một mình ngậm tủi, than thân một mình. Đêm qua giăng tỏ, giăng mờ, Em đi đổi bún tình cờ gặp anh; Rảo chân em bước nhanh nhanh,

133

[52; 13]

[53;427; 12]

Hình ảnh người dân Ninh Bình tát nước chống úng cứu lúa.

thuộc xã

[54; 13]

Anh đỡ lấy gánh: - Để anh gánh cùng; Gánh về đến xóm Tam Dương, Anh xin cha mẹ được thương em cùng. Đêm qua trăng tỏ đầu làng Xì xòm nước đổ vọng sang bên này Miệng cười tay kéo đôi giầy Chung gầu chống úng múc đầy đổ ra Trăng rằm soi bóng đôi ta Đêm nay tát đến trăng tà mới thôi Dệt chiếu phải giữ chắc go, Lấy vợ Đồng Đắc phải năng đi chùa.

Thôn Đồng Đắc Quang Thiện huyện Kim Sơn.

[55; 13]

Làng Gành thuộc thành phố Tam Điệp, chợ Tu thuộc huyện Yên Mô Ninh Bình.

Hình ảnh người dân Ninh Bình tát nước chống úng cứu lúa.

[56;427; 12]

[57;417; 12]

Tố cáo nạn vòi vĩnh, bóc lột nhân dân của quan lại phong kiến Ninh Bình xưa.

[58; 13]

Dịu dàng trên ruộng ngô xanh, Hỏi em quê ở làng Gành hay Tu? Em về thưa với thày u, Có cho anh được chung u, chung thày? Đời ông cho chí đời cha Đắp đê chống lụt việc là hàng năm Nhanh tay ta cuốc mình đầm Cơi đê cho chắc, giữ đồng lúa ta Đồng tiền lấp miệng khó chi Sẵn cơm sẵn rượu việc gì mà lo Ông lớn thì đánh miếng to Ông nhỏ miếng bé thì đò êm xuôi Ông Hương chín Ông Lý mười Ông Xã tám rưỡi đò xuôi ầm ầm Dù ai cho bạc cho tiền, Chẳng bằng lấy được vợ hiền Lưu Phương.

[59; 13]

Dù ai cho bạc cho vàng, Chẳng bằng lấy được vợ làng Trà Tu.

[60; 13]

Đường về Xích Thổ thì xa, Về lối Gián Khẩu với ta cho gần; Một thôi đến cầu Thiết Lâm, Vào chùa Non Nước dừng chân lễ chùa; Cầu cho Phật độ đôi ta, Nên gia nên thất, chung cha mẹ già.

[61; 13]

Lưu Phương – một xã thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình. Làng Trà Tu nằm ở phía Tây Nam xã Đông Sơn, thành phố Tam Điệp, Ninh Bình. Xã Xích Thổ thuộc huyện Nho Quan, Ninh Bình. Gián Khẩu là tên một địa danh thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình, nằm ở vị trí hội tụ giao thông giữa quốc lộ 1A và tỉnh lộ 470 đồng thời là vị trí sông Hoàng Long đổ vào sông Đáy. Cầu Thiết Lâm nay là cầu Lim ở trung tâm thành phố Ninh Bình. Chợ Rồng thuộc phường Vân Giang thành phố Ninh Bình.

[62; 13]

Đứt ruột bỏ con chợ Rồng, Xuống đò Non Nước, mà lòng xót xa; Ai ơi thương lấy con ta, Mai tôi đền đáp gấp ba bốn lần! Em là con gái làng La, Giồng dâu dâu tốt, giồng cà cà sai; Hội làng vào đám tháng Hai,

Làng La Phù thuộc xã Ninh Khang, làng La Mai thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư.

134

Sắm vai Bộ Lĩnh thiên oai như thần; Cờ lau phất giục ba quân, Tiếng reo dậy đất, trống rần dậy non!

[63; 13]

Em là con gái Ngòi Ngang, Chợ Xanh, chợ Cát biết rằng về đâu? Chợ Xanh mua vải ruộm nâu, Chợ Cát mua một cơi giầu đợi anh!

[64;416; 12]

Chợ Xanh thuộc xã Khánh Thiện hiện là chợ quê nổi tiếng Ninh Bình. Chợ Xanh nằm trên đường 481B, gần nhiều di tích lịch sử quan trọng khác như đền Tiên Yên, chùa ... Chợ cát là một chợ thuộc vùng quê của xã Khánh Trung huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Con gái nhà Dòng – những người con gái theo đạo thiên chúa giáo ở huyện Kim Sơn.

[65; 28; 14]

Yên Ninh, nay thuộc thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh, Ninh Bình.

[66;416; 12]

Tình cảnh vất vả của người dân lao động Ninh Bình thời xưa.

[67;416; 12]

[68; 13]

[69; ]

Nhà tu – nhà thờ xứ đạo huyện Kim Sơn, Ninh Bình. Làng La Phù thuộc xã Ninh Khang, làng La Mai thuộc xã Ninh Giang huyện Hoa Lư. Núi Thúy, sông Vân, núi Cánh Diều, núi Hồi Hạc (nay không còn) đều thuộc thành phố Ninh Bình. Tình cảm của người dân Ninh Bình trong lao động sản xuất.

[70; 13]

Thôn Vân Bồng nay thuộc xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, Ninh Bình.

* Em là con gái nhà Dòng Cầu kinh nguyện Chúa mà lòng thương anh Em như chiếc lá còn xanh Ngày tàn lá úa, phúc lành ở đâu? *Ngày đêm em đến nhà thờ Nghe chuông buông nhịp mà ngơ ngẩn lòng Về nhà em ngóng em trông Giáo Lương nào biết tơ hồng có xe Em là con gái Yên Ninh Em đi bán vải qua dinh ông Nghè Mắt le mày lét quan ve Thưa bẩm quan nghè tôi đã có con Có con thì mặc có con Sao cái nõn nòn nó chẳng ròn đi ? Em nay đi cấy đồng sâu Dưới chân đỉa cắn, trên đầu nắng chang Chàng ơi có thấu chăng chàng Một bát cơm vàng biết mấy công lênh Em như một đóa hoa đào Mẹ cha muốn phước bắt vào nhà tu Trăm ngàn lạy chúa Giê Su Nhà tu đừng hóa nhà tù giam em Em về lối ấy cho xa, Theo anh về nẻo làng La cho gần; Dạo chơi núi Thuý, sông Vân, Cánh Diều, Hồi Hạc, Kỳ Lân hữu tình; Bõ công bác mẹ sinh thành, Bồng Lai, Tiên cảnh em về cùng anh! Giã ơn cái cuốc cái cày Tao chẳng ở nữa sao mày nhớ tao Giã ơn cánh ruộng đồng cao Tao cày vất vả trăng sao mới về. Giếng Vân Bồng nước trong như lọc, Gái Vân Bồng da bọc trứng gà, Thương nhau chẳng lọ đường xa, Về tắm nước lọc, yêu da trứng gà.

135

[71; 426; 9]

Người con gái Gia Viễn Ninh Bình vừa đảm đang, tháo vát vừa giầu tình yêu thương chồng, con.

[72; 417; 9]

Tình cảm vợ chồng của những người dân quê Ninh Bình thật thuận hòa, đầm ấm.

[73; 428; 9]

[74; 428; 9]

[75; 425; 9]

Kinh nghiệm thời tiết của nhân dân Ninh Bình. Kinh nghiệm mùa vụ của nhân dân Ninh Bình. Lời tỏ tình rất chân thật, hồn hậu của những chàng trai quê Gia Viễn Ninh Bình

[76; 418; 9]

Người nông dân lao động Ninh Bình đã thấy rõ nguồn gốc bất công của xã hội cũ, nỗi thống khổ quanh năm ngày tháng của họ.

[77; 13]

[78;415; 12]

Hỡi cô kéo vó bên đồng Cô đi lấy chồng vó lại để không Lấy chồng em vẫn vó vồng Được tôm được tép nuôi chồng nuôi con Kể chi trời rét đồng sâu Có chồng có vợ rủ nhau đi bừa Bây giờ trưa đã hồ trưa Chồng vác lấy bừa, vợ dắt con trâu Một đoàn chồng trước vợ sau Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng! Kiến đen tha trứng lên cao Thế nào cũng có mưa rào rất to Lập thu mới cấy lúa mùa Khác nào hương khói lên chùa cầu con Lấy anh thì sướng hơn vua Anh đi đánh rậm được cua kềnh càng Mang về nấu nấu rang rang Ăn vào mát ruột rõ ràng hơn vua Lên chùa cầu phật cầu trời Xét cho một việc ở đời bất công Canh nông sớm tối ngoài đồng Suốt ngày cặm cụi chổng mông lên trời Bữa cơm như bữa vét nồi Đói cào đói rã mồ hôi ướt đầm. Sống gì sống tối sống tăm Khổ ngày, khổ tháng, khổ năm, khổ đời Bắc thang lên hỏi ông trời Cớ sao nỡ để kiếp người đắng cay Lênh đênh bè ngổ, bè dừa, Em cấy ruộng dưới, anh bừa ruộng trên Mặc thì có vải nhuộm nâu Cơm thì cà muối ưng cầu cho no

Tình cảm vợ chồng của những người dân quê Ninh Bình. Áo nâu, cơm muối là tình quê hồn hậu của những chàng trai, cô gái vùng quê Gia Viễn.

[79;428; 12]

Kinh nghiệm sản xuất vụ lúa chiêm của người dân Ninh Bình.

[80;425; 12]

Mênh mông đồng lúa chín vàng Anh nhắn cô nàng cắt xén nhanh tay Để anh sớm có ruộng cày Mạ non tới lứa, kịp thời cấy chiêm Mình về đường ấy thì xa Để anh bắc cầu Sông Cái đi qua Ninh Bình. Đất Ninh Bình có chùa Non Nước Núi Phi Diên Hồi Hạc xung quanh Em về em chớ quên anh!

[81;416; 12]

“Một ngày ba mươi sáu bữa vượt quèn Còn đâu má phấn răng đen hỡi chàng?”

Sông Cái hay còn gọi là sông Đáy – một đoạn sông Hoàng Long chảy qua địa phận thành phố Ninh Bình. Chùa Non Nước – ngôi chùa nằm cạnh chân núi Non Nước bên sông Đáy. Núi Phi Diên nay là núi Cánh Diều, núi Hồi Hạc (nay không còn) đều thuộc thành phố Ninh Bình. Quèn ở vùng đồi núi như Nho Quan, Tam Điệp

136

[82;427; 12]

Kinh nghiệm về thời tiết và sản xuất nông nghiệp của người dân Ninh Bình.

Mưa dầm tháng ba đồng ta lúa tốt Mưa dầm tháng bảy nước lụt mênh mông Gầu dai cùng với gầu sòng Tát nước chống úng, ruộng trong ruộng ngoài Năm canh chỉ ngủ có hai, Ba canh thức vượt đồi Dài, đồi Ngang.

[83; 13]

[84; 13]

Đồi Dài, đồi Ngang – địa danh tiếp giáp giữa Tỉnh Ninh Bình và tỉnh Hòa Bình, thuộc địa phận huyện Nho Quan. Núi Cối Sơn thuộc xã Lạc Phong, Cúc Phương – một xã miền núi thuộc huyện Nho Quan

[85; 427;12]

[86; 13]

Ca dao vùng Ninh Khang – Hoa Lư. Ở đây, xưa kia nhân dân thường dậy sớm hót phân trâu, bò về để trồng dâu. Gia Viễn – một huyện đồng chiêm trũng của tỉnh Ninh Bình.

[87; 417;12]

Đồng trắng nước trong – chỉ vùng đồng chiêm trũng Gia Viễn, Ninh Bình.

[88; 416;12]

Cuộc sống lao động vất vả “Một nắng hai sương” của người nông dân Ninh Bình xưa.

[89; 415;12]

Trai gái vùng đồng chiêm trũng Gia Viễn cũng có những cách tỏ tình rất “đồng chiêm”

[90; 428;12]

[91; 416;12]

[92; 428;12]

Kinh Nghiệm chọn trâu của nhân dân Ninh Bình. Cuộc sống vất vả khó nhọc của người dân Ninh Bình xưa. Công việc của người dân quê Ninh Bình trong sáu tháng đầu năm.

Nhất cao là núi Cối Sơn, Nhất trong là nước trên nguồn Cúc Phương; Đôi ta chín nhớ mười thương, Núi cao ta vượt, nước nguồn ta khơi Nửa đêm gà gáy o o Chàng ơi thức dậy lấy gio tráng dành Có đi thì đi cho nhanh Nếu mà đi chậm vác dành về không Nước sông đổ lẫn nước ngòi, Con gái Gia Viễn cầm roi dạy chồng. Nước ngòi đổ lẫn nước sông, Con gái Gia Viễn dạy chồng bằng roi. Quê ta đồng trắng nước trong Lúa gạo thì ít rêu rong thì nhiều Dặn con phải nhớ lấy điều Muốn no ấm phải sớm chiều siêng năng Rạng ngày vác cuốc ra đồng Tay cầm mồi lửa, tay ròng thừng trâu Ruộng đầm nước cả bùn sâu Suốt ngày cùng với con trâu cày bừa Việc làm chẳng quản nắng mưa Cơm ăn đắp đổi muối dưa qua ngày Rủi riu anh đẩy anh đun Được tôm được tép sớm hôm nhọc nhằn Nhọc nhằn anh chẳng ngại ngùng Chỉ thương em ở phòng không một mình Tam tinh, khoáy sọ thì chừa Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi Tay thì dắt mũi con bò Đầu đội mớ củi, tay mò nắm rong Tháng Giêng cày cấy đã xong Tháng hai vác cuốc vun trồng ngô khoai Tháng Ba bồi đắp đê quai Tháng Tư bón thúc ruộng ngoài ruộng trong Tháng Năm cây lúa trĩu bông Đẹp đồng lúa tốt, bõ công cấy cầy Trâu ơi ta bảo trâu này Sớm mai trâu dậy trâu cày với ta Cái nắng tháng sáu cháy da Làm sớm trời mát thêm ra đường cày

137

[93; 425;12]

Thương em anh tủi anh sầu Sa cơ lỡ bước vào đầu Cầu Lim Lênh đênh bảy nổi ba chìm Khăn điều trô mt khăn thâm lập lờ

Cầu Lim – cầu bắc qua sông Vân Sàng. Xưa cầu được làm bằng gỗ lim nên có tên gọi là cầu Thiết Lâm dân gian quen gọi là cầu Lim, nay cầu được làm bằng bê tông cốt thép, lan can đá nhưng tên cầu vẫn là cầu Lim, thuộc thành phố Ninh Bình

PHỤ LỤC ẢNH

Ai về qua đất Ninh Bình

Mà xem phong cảnh hữu tình nên thơ Nước non non nước như mơ Càng nhìn Dục Thúy càng ngơ ngẩn lòng !

(Núi Dục Thúy, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình)

138

Núi Đính ai đắp mà cao, Ngã ba Non Nước ai đào mà sâu? (Núi chùa Bái Đính thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình)

Ngày xuân đâu phải là dài,

Chơi chùa Bích Động kẻo mai nữa già.

(Chùa Bích Động, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, Ninh Bình)

139

Dù ai buôn đâu bán đâu, Nhớ ngày mở hội rủ nhau mà về Dù ai bận rộn trăm nghề Tháng Hai mở hội thì về Trường Yên (Lễ hội Đinh – Lê, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình)

Ngày đêm em đến nhà thờ Nghe chuông buông nhịp mà ngơ ngẩn lòng Về nhà em ngóng em trông Giáo - Lương nào biết tơ hồng có se (Nhà thờ đá, thị trấn Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình)

140

Dù ai đi đâu về đâu Nguyên tiêu lễ hội Đền Dâu thì về Dù ai bận rộn trăm bề Nguyên tiêu lễ hội thì về Đền Dâu

(Lễ hội Đền Dâu, thành phố Tam Điệp, Ninh Bình)

Nem Yên Mạc níu chân người Rượu bầu thơ túi một đời tìm nhau (Đặc sản nem chua Yên Mạc, Xã Yên Mạc, huyện Yên Mô,tỉnh Ninh Bình)

141

Anh về mua chiếu Kim Sơn Mua chăn Gia Khánh thành hôn em về (Sản phẩm chiếu cói Kim Sơn, Ninh Bình)

Thả hồn theo nắng Tràng An Mái chèo gõ nhịp mênh mang dưới trời Non xanh, nước biếc đẹp tươi Nắng chùa, gió động… mây trời Tràng An Ra về, nỗi nhớ miên man Một tà áo tím lướt ngang đò mình…

142

(Danh thắng Tràng An Ninh Bình)

Có về thăm chốn Cúc Phương

Để nghe gió thổi vẫn vương rừng chiều

Có về ngắm những hoang phiêu

Thả hồn một cõi phiêu diêu ngút ngàn.!

(Rừng nguyên sinh Cúc Phương thuộc huyện Nho Quan Ninh Bình)