BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Trương Ánh Ngọc
VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI MYANMAR TỪ CUỐI
THẾ KỶ XIX ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Trương Ánh Ngọc
VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI MYANMAR TỪ CUỐI
THẾ KỶ XIX ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành : Lịch sử Thế giới
Mã số
: 60 22 03 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ BÍCH LIÊN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là một công trình nghiên cứu độc lập, những trích
dẫn nêu trong luận văn đều chính xác và trung thực.
An Giang, tháng 9 năm 2014
Tác giả luận văn
Lê Trương Ánh Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, trước hết tôi xin cảm ơn các thầy cô trường
Đại học An Giang, Phòng Quản lý sau Đại học của trường Đại học Sư phạm TPHCM
đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô hướng dẫn khoa học TS
Hà Bích Liên cùng tập thể thầy cô khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã
tận tâm giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Tôi xin chân thành gửi lời tri ân đến cán bộ thư viện Đại học Sư phạm TPHCM,
Khoa học tổng hợp TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình hoàn
thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng nghiệp và người thân
đã quan tâm giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian của khoá học.
An Giang, tháng 9 năm 2014
Tác giả luận văn
Lê Trương Ánh Ngọc
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
DẪN LUẬN .................................................................................................................... 1
1.1. Myanmar – vùng đất của Phật ......................................................................................... 8
Chương 1. PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR ............... 8
1.1.1. Vị trí địa lý.................................................................................................. 8
1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Myanmar .............................................................................. 13
1.1.2. Bức tranh các tộc người .............................................................................. 8
1.2.1 Những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo .............................................. 13
1.2.2 Phật giáo ở Hạ Miến (từ thế kỉ V – XI) ..................................................... 14
1.2.3 Phật giáo Tiểu thừa đến Pagan (thế kỉ XI - XIII) ...................................... 15
1.2.4. Phật giáo ở Myanmar (thế kỉ XIII – XVII) .............................................. 19
1.2.5. Phật giáo ở Myanamar (thế kỉ XVII – XIX) ............................................ 21
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 26
2.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar và những chính sách đối với Phật giáo ................. 27
Chương 2. PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948 ... 27
2.1.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar ......................................................... 27
2.2. Sự phát triển của Phật giáo giai đoạn 1824 – 1948 ....................................................... 39
2.1.2. Những chính sách đối với Phật giáo......................................................... 33
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 45
Chương 3. VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU
3.1. Phật giáo trong đấu tranh chống thực dân Anh ............................................................ 49
3.2 . Những cuộc đấu tranh quyết liệt cho nền độc lập và vai trò lãnh đạo của lực lượng
Phật giáo ....................................................................................................................... 56
NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ..................... 46
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 71
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
1
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Đạo Phật là một trong những hệ tư tưởng cổ xưa nhất trên thế giới, vừa là triết
học vừa là tôn giáo. Đó là một hệ tư tưởng bắt nguồn từ quá khứ xa xưa nhưng triết lý
của Đạo Phật vẫn tiếp tục phát triển trong thế giới hiện đại. Nhận xét về vấn đề này,
nhà vật lý học thiên tài Enstein đã khẳng định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu
với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại
quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật
giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật
giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” [43]. Xét trên nhiều khía
cạnh, Phật giáo không chỉ đơn thuần là một tôn giáo mà còn là một ngành khoa học, và
có những đóng góp nhất định cho xã hội loài người.
Năm 250 BC, một vị hoàng đế vĩ đại Ashoka đã có công trong việc thống nhất
Ấn Độ cổ đại và truyền bá tư tưởng Phật giáo trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Nhiều thế
kỷ sau đó, dưới sự bảo trợ của Ashoka, Phật giáo đã vượt ra khỏi quê hương nó được
sinh ra và lan tỏa ra nhiều nơi trên thế giới.
Trong quá trình Phật giáo phát triển, Phật giáo một mặt đã có ảnh hưởng đến
các nền văn hóa mà nó thâm nhập để truyền bá; mặt khác, nó cũng bị bản địa hóa và
phân hóa thành các giáo phái. Có ít nhất 18 giáo phái trong đó có hai phái chính:
Theravada Buddhism – Phật giáo Tiểu thừa được phổ biển ở Nam và Đông Nam Á,
Mahayana Buddhism – Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Bắc và Đông Á. Chính điều
này tạo nên sự sinh động và phong phú trong thế giới Phật giáo đầy màu sắc.
Mặc dù không phải là một trong bảy quốc gia có được “Bảy kỳ quan của thế
giới Phật giáo” (Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka, Thái Lan, Campuchia, Hong Kong, Mỹ),
nhưng Myanmar được cả thế giới biết đến như là một vùng đất vàng, một vùng đất của
Phật.
Là một quốc gia nằm không xa Việt Nam, với hơn 2500 năm Phật giáo
Theravada ngự trị, Myanmar thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế với những
tháp chùa lấp lánh ánh vàng, với những con người chân chất thuần lương; bởi lẽ, Phật
giáo là đạo đức cơ bản của xã hội Myanmar từ trong quá khứ cho đến hiện tại.
2
Năm 1954, Đại hội Phật Đản được tổ chức thành công ở chùa Kaba Aye – Chùa
Hòa Bình Thế Giới, nơi họp mặt của 2500 vị đại biểu các quốc gia trên thế giới, tượng
trưng cho 2500 đệ tử Phật thời Phật tại thế. Năm 1960, U Nu lãnh đạo khối Phật giáo,
đắc cử một cách vẻ vang, thành lập chính phủ dân sự. Tháng 10/1962, ông đưa ra dự
thảo đạo luật lấy Phật Giáo làm Quốc giáo. Để trấn an những tôn giáo khác, ông chủ
trương tự do tôn giáo, triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Năm
1980, trường Đại Học Phật giáo được thành lập tại Yangon và Mandalay.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử của đất nước Myanmar, Phật giáo nổi bật lên với
vai trò là một lực lượng kết nối các thành phần trong xã hội vốn chứa đựng những bất
đồng sâu sắc về mặt sắc tộc và tôn giáo.
Những thập niên cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế XX (1885 – 1948), là một
giai đoạn có nhiều sự biến động trong xã hội Myanmar. Cùng chung số phận với hầu
hết các quốc gia Đông Nam Á khác, Myanmar rơi vào sự thống trị của chủ nghĩa thực
dân Anh và sau đó là phát xít Nhật. Dưới ách cai trị và đô hộ của kẻ đi xâm lược, xã
hội truyền thống Miến Điện bị thay đổi nhanh chóng bởi sự sụp đổ của chế độ quân
chủ và sự tách rời giữa tôn giáo và nhà nước, bản chất kinh tế xã hội bị thay đổi đáng
kể, trong đó có sự du nhập Kitô giáo vào Myanmar.
Những biến động đó của lịch sử, hiển nhiên có sự tác động đến sự phát triển của
Phật giáo Myanmar. Nhưng cho dù thế nào, trong suốt giai đoạn này, Phật giáo vẫn
tiếp tục là một nhân tố không thể tách rời trong xã hội Myanmar, Phật giáo – Tăng già
đã kết hợp tinh thần Phật giáo với tinh thần dân tộc trong quá trình đấu tranh giải
phóng dân tộc, cũng như đã có những đóng góp to lớn trong đời sống xã hội ở
Myanmar.
Sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là
một sự cụ thể hóa về tư tưởng và tính ứng dụng tích cực của đạo đức Phật giáo được
Đức Phật khai sinh hơn 2500 năm cách nay, là sự tiếp nối dòng chảy chủ đạo xuyên
suốt lịch sử Myanmar và cũng là sức thu hút mãnh liệt nhất của nền văn hóa Myanmar
từ quá khứ cho đến hiện tại. Vì lý do đó, đề tài “Vai trò của Phật giáo trong đời sống
chính trị – xã hội Myanmar từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX” là một nội
dung quan trọng cần được nghiên cứu.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nếu như Ấn Độ với những sa mạc khô cằn nhưng luôn thu hút sự quan tâm của
thế giới bởi Ấn Độ có một sông Hằng kỳ bí gắn liền với thế giới Ấn giáo đầy màu sắc
như bản chất sống động của người Ấn; thì Myanmar – đất nước chùa vàng đã tạo
nguồn cảm hứng sâu sắc cho những ai thích tìm hiểu khám phá những gì liên quan đến
giá trị truyền thống, niềm tin và đạo đức Phật giáo. Quả đúng như vậy, không bất kỳ
nơi đâu trên thế giới này có nhiều chùa tháp được xây cất như ở Myanmar; đấy chính
là công sức, là trí tuệ và sự lao động quên mình của con người.
Các học giả người Anh, Pháp, Liên Xô… và kể cả Việt Nam đã tập trung
nghiên cứu về đất nước Myanmar với nhiều khía cạnh khác nhau đã để lại những công
trình vô cùng giá trị.
Anh là quốc gia hàng đầu trong việc nghiên cứu về Myanmar. Trung tướng
Arthur Purves Phayre (1812 – 1885) là ủy viên cai trị đầu tiên của Anh ở Myanmar.
Với nguồn tài liệu thu thập được và cùng với thời gian sinh sống ở Myanmar, Phayre
đã cho ra đời “History of Burma including Burma proper, Pegu, Taungu, Tenasserim,
and Arakan, London: Teubner & co, Ludgate Hill, 1883” là tác phẩm đầu tiên của
người Anh nhưng rất quý giá về lịch sử tổng quan của Miến Điện từ buổi đầu cho đến
trước khi thực dân phương Tây đến nô dịch.
Một tác giả người Anh khác đã có những nghiên cứu sâu sắc về Myanmar. Đó
chính là Daniel George Edward Hall (1891-1979). Ông đã viết khá nhiều về lịch sử
Miến Điện, về văn hóa Miến Điện cũng như châu Á. “Lịch sử Đông Nam Á (sách
tham khảo), Nxb CTQG HN, 1997”, ở chương 44 – Miến Điện thuộc Anh 1886 -
1942, Hall đã đề cập rất nhiều nội dung liên quan đến chính sách cai trị của Anh đối
với Phật giáo, làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với chính quyền thực dân
ngày càng trở nên sâu sắc.
Liên Xô cũ trước đây cũng là một trong nhiều quốc gia có những nghiên cứu có
giá trị về Myanmar. Đáng kể là tác phẩm “Miến Điện vào đêm trước sự xâm lược của
Anh” của M.G. Cudơluva viết về 100 năm cuối cùng của nhà nước Miến Điện độc lập.
Ph. Vaxiliep “Lược sử Miến Điện (1885 - 1948)”. Trong cuốn sách tác giả không chỉ
4
nêu lên lịch sử hình thành và hành động của chế độ thực dân mà còn đưa ra sự đánh
giá rõ ràng về phong trào giải phóng dân tộc diễn ra ở Myanmar.
Tác giả Nguyễn Bích Liên trong thời gian làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại
Miến Điện, đã dày công nhận xét và kê cứu, soạn thành quyển đia phương chí là một
tập tài liệu tuy tác giả gọi là giản lược nhưng cũng khá đầy đủ về một nước mà vị trí
không xa gì Việt Nam. “Nguyễn Bích Liên, Miến Điện, Nxb Cơ sở Phạm Quang Khai,
1968” là một bức tranh tổng hòa về các mặt kinh tế – chính trị – xã hội – văn hóa ở
Myanmar từ buổi bình minh của quốc gia cho đến khi Miến Điện giành độc lập và thi
hành chính sách trung lập. Trong suốt công trình nghiên cứu, tác giả đặc biệt đề cập
một cách sâu sắc về sự trung lập của Myanmar đối với thế giới.
Ở Việt Nam, nhiều nhà sử học lớn cũng nghiên cứu về Myanmar với các tác
phẩm tiêu biểu như: Lương Ninh (chủ biên) – Đỗ Thanh Bình – Trần Thị Vinh, Lịch
sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, 2008; PGS.TS Nguyễn Văn Kim, Lịch sử Đông Nam
Á, tập 4, Nxb KHXH, 2012; Phan Ngọc Liên (chủ biên) – Nghiêm Đình Vỹ – Đinh
Ngọc Bảo – Trần Thị Vinh, Lược sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, 1998. Tuy nhiên
đây chỉ là những nghiên cứu một cách tổng quan chung về Đông Nam Á, trong đó có
Myanmar.
Vũ Quang Thiện được biết đến là một học giả với rất nhiều công trình khám
phá chuyên sâu về Myanmar như: Ở xứ chùa vàng (Tìm hiểu văn hóa Miến Điện), Nxb
Văn hóa Hà Nội, 1988; Quá trình phát triển của Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội, 1997;
Lịch sử Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội, 2005.
Về mảng đề tài liên quan đến Phật Giáo, có nhiều tác phẩm nghiên cứu được
xuất bản rộng rãi ở Myanmar, như: Roger Bischoff, Buddhism in Myanmar – A short
history, Buddha Dharma Education Associaion Inc, 1998. Đây là một tóm tắt ngắn gọn
nhưng hết sức đầy đủ về sự du nhập, quá trình phát triển và tồn tại của Phật giáo ở
Myanmar từ những cuộc tiếp xúc đầu tiên với những bằng chứng về khảo cổ học và
truyền thuyết, cho đến thế kỷ thứ XIX – khi mà Anh đã xác lập hoàn toàn sự thống trị
ở Myanmar. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các vị hoàng đế
Miến đối với sự nghiệp duy trì và bảo vệ Phật giáo, đây là một đặc điểm nổi bật về
Phật giáo ở Myanmar so với các quốc gia Phật giáo trong khu vực và trên thế giới.
5
Jerrold Schecter, The new face of Buddha – Buddhism and political power in
southeast Asia, John Wealtherhill, Tokyo, 1965. Đây là một quyển sách đã được chôn
vùi bởi cát bụi và thời gian. Là trưởng phòng cho tờ Time – life nhưng Jerrold
Schecrer lại có những nghiên cứu và báo cáo có giá trị về Đông – Đông Nam Á kể cả
hai tạp chí Time và Wall Street Journal nổi tiếng. Trong quyển sách với 300 trang viết,
Jerrold Schecrer đã khắc họa vai trò sôi động và sức mạnh trong chính trị đương đại
của Phật giáo ở các quốc gia Miến Điện – Campuchia – Sri Lanka – Trung Hoa – Nhật
Bản – Thái Lan – Nam Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng, chính sách cai trị của phương
Tây hoàn toàn thất bại trước sức mạnh chính trị của Phật giáo.
Trần Quang Thuận, Phật giáo Miến Điện, Nxb Tôn giáo, 2008. Quyển sách dày
483 trang là một quá trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả về Phật giáo Myanmar.
Nội dung sách cung cấp đầy đủ tất cả các vấn đề liên quan đến Phật giáo ở Myanmar,
điều đáng quan tâm hơn là tác giả đã dành gần một nửa số trang của tác phẩm để nói
đến vai trò của Phật giáo cũng như tổ chức Tăng già – Sangha trong xã hội Myanmar
hiện đại. Đây được xem là một nghiên cứu rất đáng trân trọng và cần có về Phật giáo
Myanmar.
Chiêm Tế, Phương Đông từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917 – 1959)
miền Đông Á và Đông Nam Á, Nxb Văn sử địa, 1959. Đây là một quyển sách có giá trị
và quý báu cho những ai nghiên cứu về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước Đông Á và Đông Nam Á. Từ trang 344 đến trang 362, với cách hành văn đơn
giản quyển sách của Chiêm Tế đã cung cấp một cách đầy đủ và rõ ràng về con đường
đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar nhằm chống lại ách đô hộ của thực dân Anh
và phát xít Nhật, trong đó có sự đóng góp của Phật giáo.
Một vị sư có pháp danh là Thích Thái Hòa đã mang đến một nghiên cứu với tên
gọi “Miến Điện mặt trời lên” đã nhắc đến vai trò của Phật giáo trong quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar. Bên cạnh đó, cuốn sách còn liệt kê và miêu tả
những địa danh Phật giáo nổi tiếng ở Myanmar như: Yangon, Pegu, Pagan và Inlay.
Một số những tác giả chuyên nghiên cứu về văn hóa Đông Nam Á như: Mai
Ngọc Chừ, Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Quốc gia Hà Nội, 1998; GS.TS Phạm Đức
Dương (chủ biên), Lịch sử văn hóa Đông Nam Á, Nxb Văn hóa thông tin, 2013;
6
PGS.TS Ngô Văn Lệ, Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á,
Nxb ĐHQG TPHCM, 2003; đã phác họa về sự ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa
Myanmar.
Như vậy, với phần thống kê trên đây, trong giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX, thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có chi tiết, có
hệ thống và chuyên biệt về vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội
Myanmar. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề với hy vọng nghiên cứu một cách có
hệ thống trên cơ sở tiếp thu các công trình của những người đi trước để lại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội ở Myanmar, từ nửa cuối
thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX.
- Thời gian: từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX.
- Không gian: đất nước Myanmar
3.2 Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như:
phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, phân tích và đánh giá
để khái quát lại một cách tốt nhất vấn đề đang nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ hơn sự đóng góp của Phật giáo trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc ở Myanamr, cũng như sự ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội
Myanmar trong suốt thời gian từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Một
mảng đề tài chưa được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống tại Việt Nam.
- Hệ thống hóa tư liệu về Phật giáo Myanmar.
6. Mục tiêu của đề tài
Qua việc nghiên cứu vai trò của Phật giáo trong xã hội Myanmar và trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, luận
văn hướng đến chứng minh sự khác biệt của Phật giáo Myanmar so với các quốc gia
7
phương Đông ở chính khía cạnh “nhập thế” tích cực của tôn giáo này trên một quốc
gia mà nó du nhập vào.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
khóa luận gồm có ……trang, chia thành 3 chương:
Chương 1: PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR.
Chương 2: PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948
Chương 3: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX.
8
Chương 1.
PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR
Một sự bình yên bao trùm cả không gian và thời gian, mọi chuyển động dường
như trở nên chậm hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới, không vội vã không ồn ào. Đó là
cảm nhận của những ai một lần đến với Myanamar – một vùng đất mà giáo lý nhà Phật
tưới tẳm từ lâu khiến cho con người trở nên nhân hậu hiền lương.
1.1. Myanmar – vùng đất của Phật
1.1.1. Vị trí địa lý
Về mặt địa lý, Myanmar nằm kề sát với Ấn Độ ở phía Tây, nên cư dân nơi đây
là những người đầu tiên tiếp nhận các thành tố văn hóa của Ấn Độ. Phía Bắc giáp
Trung Quốc, Đông giáp Lào, Đông Nam giáp Thái Lan, Tây Nam giáp biển Andaman
và vịnh Bengal ở phía Tây.
Myanmar là một đất nước có trường địa lý không thuần nhất, xét trên các
phương diện địa hình địa mạo, khí hậu cũng như tính đa dạng sinh học [17, tr.17]. Núi
đồi thống trị toàn bộ cảnh quan các vùng biên cương và đặc điểm này tạo thế khép kín
của Myanmar trước các nước láng giềng. Các dòng sông chính ở Myanmar là
Irrawaddy, Chindwin, Salween và Sittang, trong đó Irrawaddy được xem là huyết
mạch của đất nước.
1.1.2. Bức tranh các tộc người
Hàng năm vào ngày 12/02, trên các đường phố Yangon diễn ra những cuộc tuần
hành rực rỡ. Tất cả các dân tộc và bộ lạc cử đến thủ đô những đại biểu của mình.
Trong hàng ngũ của đoàn người tuần hành, người ta dễ dàng nhận ra người Karen qua
quần áo dệt màu đỏ, người Môn qua bím tóc đuôi sam của đàn ông, người Palaung với
áo khoác sặc sỡ, người Shan quần đen rộng, người Kachin thì lưỡng quyền cao như
người Mông Cổ... mỗi tộc người trên đất Miến kết hợp lại thành một bức tranh tộc
người đầy màu sắc, rất đa dạng nhưng vẫn thống nhất trong một chỉnh thể chung: dân
tộc Myanmar. Người Myanmar là dân tộc yêu tự do và can đảm, có lòng tự hào dân
tộc cao. Họ rất hiếu khách, rất tồn cổ và hãnh diện về tinh thần tồn cổ của mình [8,
tr.115]. Tuy nhiên họ cũng rất thực tế, vui vẻ và thích trào phúng. Điều đáng chú ý là
mỗi tộc người ở Myanmar có sự tương đương về mặt số lượng, trình độ và lịch sử, tạo
9
nên tính tự trị cao của mỗi tộc người; điều này làm cho vấn đề tộc người ở Myanmar
trở nên nổi bật và phức tạp.
Dân cư Myanmar bao gồm nhiều sắc tộc khác nhau, họ là những người đầu tiên
qua ba cuộc di cư từ Trung Á và Tây Tạng đến định cư tại vùng đất Myanmar. Cuộc di
cư đầu tiên đưa đến đây người Môn – Khmer, nhóm di cư thứ hai là người Tạng –
Miến, và nhóm thứ ba vào khoảng thế kỷ XIII – XIV là nhóm người Hán – Tháí. Với
hơn 135 sắc tộc khác nhau cùng tồn tại, Myanmar được mệnh danh là thiên đường cho
các nhà nghiên cứu về dân tộc và ngôn ngữ, trong đó có 8 tộc người chủ yếu.
Người Môn là những tàn dư bị cô lập của những cư dân cổ nhất của Miến Điện
còn sót lại ở ba khu miền Nam là Thaton – Pegu – Tanitayi [15, tr.11]. Đó là một
nhóm dân tộc thiểu số thuộc chủng Mongoloid, xuất phát từ thung lũng sông Dương
Tử, họ đã di chuyển vào châu thổ các con sông lớn ở Đông Nam Á như Menam,
Irrawaddy. Họ có quan hệ họ hàng với những người Khmer dựa trên điểm tương đồng
trong ngôn ngữ và hình dáng bên ngoài, sống ở Hạ Myanmar ngày nay. Trước khi tiến
sâu hơn nữa về phía Nam, người Môn sống ở đồng bằng Kyaukse tại Trung Myanmar.
Trước thời kỳ Thiên Chúa giáo không xa, họ di chuyển tới hai nơi khác nhau là vùng
Hạ Myanmar và vùng đông Salween ở Thái Lan. Người Môn chính là người thầy dạy
cho người Miến, cả người dân bình thường lẫn giới cầm quyền, về nghệ thuật - tôn
giáo và hành chính. Vô số các từ tiếng Miến sử dụng ngày nay có nguồn gốc là tiếng
Môn.
Thương gia Ấn Độ cùng các nhà thám hiểm đầu tiên đã đi dọc theo đường biển
Bengal tiến vào Suvarnabhumi hay còn gọi là “Vùng đất của những vị thần” [24, tr.
39] đã mang tri thức từ Ấn Độ truyền sang cho người Môn. Vào thế kỷ III BC, hoàng
đế Ashoka đã cử hai đại sư sang Myanmar truyền đạo. Người Môn sử dụng tiếng Phạn
và tiếng Pali vào thời kỳ muộn hơn so với văn tự tiếng Granthi ở miền Nam Ấn Độ.
Sau khi đao Phật suy tàn ở Ấn Độ, người Môn tiếp tục duy trì quan hệ với Sri Lanka
nơi mà Phật giáo Tiểu thừa vẫn giữ nguyên địa vị như trong thời đại Ashoka. Một
trong mối liên kết Phật giáo Tiểu thừa còn tồn tại đến ít nhất là thế kỷ XI.
Vào thiên niên kỷ I, người Môn làm chủ những khu vực rộng lớn ở Đông Nam
Á lục địa, một “Thế giới Môn” hình thành bao gồm ba khu vực trên đó thống trị ba
10
quốc gia hùng mạnh là Haripungaya, Dvaravati ở Thái Lan và Thaton ở Myanmar [17,
tr. 67]. Nhưng qua quá trình lịch sử, người Môn bị người Miến đồng hóa nhiều, đã
mất dần tiếng nói riêng kể cả trang phục riêng.
Tộc người đầu tiên để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử Myanmar là tộc người
Pyu đến từ Tây Nam Trung Hoa vào khoảng thế kỷ III AD. Những tàn tích của kinh
thành Sri Kshetra cách Prome 6 dặm về hướng Đông là dấu vết còn sót lại của nền văn
hóa rực rỡ của họ trong khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII. Người Pyu không chỉ
theo Hindu giáo mà còn theo Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa. Vào khoảng thế kỷ VII,
Phật giáo Tiểu thừa trở thành tôn giáo chủ yếu trong bộ máy chính quyền cũng như
trong xã hội của người Pyu. Theo các nguồn tài liệu tiếng Trung, người Pyu sống chủ
yếu trong các thành phố lớn được bao xung quanh là những bức tường gạch, họ là
những con người thân thiện và hòa bình nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên đôi khi bản chất
yêu hòa bình lại trở thành nhược điểm. Chẳng hạn như khi họ từ chối dùng lụa bởi
muốn sản xuất ra lụa thì phải hy sinh những con tằm. Tội ác rất ít khi xảy ra và các
hình phạt cũng rất nhẹ nhàng chỉ trừ tội giết người.
Vua Pyu đặc biệt coi trọng việc truyền bá và nghiên cứu Phật học. Cư dân Pyu
đã để lại rất nhiều những công trình kiến trúc tuyệt đẹp nằm ở Prome. Đó là những
ngôi chùa cổ có chứa hài cốt của các vị cao tăng xây dựng theo kiểu hình trụ mái vòm,
ảnh hưởng của kiến trúc Oriyan từ duyên hải phía Đông Bắc Ấn Độ. Điểm đặc biệt của
kiến trúc Pyu là yếu tố vay mượn các sikhara (tháp), từ đó đem lại cho các đền chùa vẻ
vững chãi như thể các đền thờ Bhubaneshwa ở Orissa [24, tr. 40].
Người Pyu sau đó bị người Miến hay còn gọi là người Tây Tạng – Burma đánh
bại. Đó là tổ tiên của người Miến hiện nay, là một dân tộc đông nhất ở Myanmar, sống
tập trung chủ yếu ở những vùng rộng lớn và phì nhiêu của các lưu vực sông Irrawaddy
và Sittaung. Họ có đặc điểm nước da hơi đen và cao lớn.
Có giả thuyết cho rằng vào thiên niên kỷ III BC, người Miến đã bị những người
thuộc bộ tộc Trung Hoa đánh đuổi ra khỏi quê hương của mình ở phía Tây Bắc Trung
Hoa thuộc tỉnh Kansu (Cam Túc), qua miền Đông Tây Tạng, từ nơi đó họ đi qua Vân
Nam để rồi tới Myanmar ròng rã suốt mấy thế kỉ. Người Miến kể lại rằng họ đã đến
đồng bằng Kyaukse nơi gặp gỡ của hai con sông Irrawaddy và Chindwin này vào thế
11
kỷ II AD. Đồng bằng Kyause, sau đổi thành Ledwin (vùng đất lúa gạo) chính là nền
tảng sức mạnh cho đế chế Miến suốt vài thế kỷ. Trước khi đánh chiếm lãnh thổ của
người Pyu, người Miến đã tiếp nhận Phật giáo Đại thừa, sau này Phật giáo Đại thừa
vẫn chiếm ưu thế trên Thượng Myanmar cho tới giữa thế kỷ XI.
Người Miến dựng nên vương quốc của mình bao xung quanh thành phố chính
Pagan khoảng năm 849. Theo như các bộ biên niên sử của người Miến kể lại, vương
quốc Miến ban đầu gồm 19 ngôi làng, mỗi ngôi làng có môt nat (linh hồn) của riêng
mình. Cũng vào năm 849, một vị thủ lĩnh đã họp nhất 19 ngôi làng ấy lại thành một
quốc gia mang linh hồn dân tộc chung nhất. Dù cho làn sóng Ấn Độ hóa cùng Phật
giáo Tiểu thừa được chọn làm quốc giáo vào thế kỷ XI, tín ngưỡng thờ nat vẫn tiếp tục
tồn tại trong tâm trí của những người con của mảnh đất Miến Điện.
Người Miến được ngợi ca là những con người mạnh mẽ anh hùng với vị vua vĩ
đại nhất của mỗi thời đại – Anawrahta. Ông chính là người đã lập ra đất nướcMiến
Điện cổ có lãnh thổ gần giống với đất nước Myanmar ngày nay với đường biên giới
trải dài từ Bhamo ở phía Bắc cho tới vịnh Martan ở phía Nam. Đường biên này được
thiết lập sau rất nhiều lần chinh phục và hợp nhất với các tộc người bên ngoài bao gồm
cả tộc người Môn phồn thịnh ở phương Nam. Tuy nhiên, kẻ đi chinh phục lại chịu
khuất phục trước sức mạnh văn hóa vượt lên trên cả bạo quyền của kẻ đi chinh phục
[24, tr. 42]. Sau cái chết của vua Anawrahta năm 1077, văn hóa Môn ảnh hưởng lớn
tới Pagan trong cả cuộc sống chốn cung đình lẫn nơi thôn dã. Các ngôi chùa ở Pagan
đều do các kiến trúc sư và thợ thủ công người Môn xây dựng nên. Chữ viết của người
Môn là cơ sở của chữ viết người Miến ra đời sau này, nó cũng trở thành phương tiện
truyền bá cho trào lưu Ấn Độ hóa trong văn hóa, luật pháp và văn học. Trong khi
người Miến thích thú với vai trò điều hành chính trị thì người Môn lại đảm trách lĩnh
vực thông thương buôn bán với thế giới bên ngoài Myanmar [24, tr. 41]. Người Môn
và người Miến có mối quan hệ thân thiết và giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
mở rộng bờ cõi cũng như góp nhặt nhiều yếu tố để tạo nên bản sắc riêng của văn hóa
Myanmar, tuy vậy giữa họ vẫn có những bất đồng sâu sắc.
Người Shan sống chủ yếu ở phía Đông của Myanmar, có đặc điểm cao lớn với
nước da sáng là họ hàng gần với người Thái – Lào – Campuchia và Việt Nam. Có thể
12
chia người Shan thành 3 nhóm chính: người Shan chính gốc (Moshan), người Hán –
Shan, người Miến - Shan. Những người Shan ở miền Bắc sống tiếp cận với người
Miến, Kachin… đã hỗn hợp với các dân tộc đó ở một mức độ rõ rệt và hiện nay họ đã
rất khác với những đồng tộc của họ trong bang Shan. Đa phần người Shan làm nông
nghiệp, nghề thủ công khá phát triển, họ sống tập trung trong các thung lũng ven sông
và những vùng chảo biệt lập trên cao nguyên Shan.
Người Karen là sắc tộc lớn thứ hai, sống trong các vùng rừng núi bao la dọc
biên giới Thái Lan – Myanmar, rải rác từ miền Bắc cho đến tận miền Nam của đất
nước. Vùng cư trú của người Karen ở miền Bắc chạy dọc xuống cho tới hồ Inlay, còn
ở miền Nam thì chạy dọc xuống đến eo đất Kera. Một điểm tập trung nữa của người
Karen là đồng bằng châu thổ Irrawaddy. Ở mỗi miền họ nói một phương ngữ khác
nhau, khác nhau về phong tục, tập quán. Nghề chính của người Karen là nông nghiệp
và làm rừng. Thủ công nghiệp gia đình phát triển (gốm và dệt). Họ theo Phật giáo, một
số ít theo Thiên chúa giáo.
Người Chin sống chủ yếu ở vùng núi Arakan, có quan hệ thân thuộc với người
Miến hơn cả. Do bị tách ra và chia thành những bộ phận nhỏ từ lâu, nên người Chin đã
khác người Miến về phong tục, tập quán, tôn giáo và nhiều đặc điểm khác trong sinh
hoạt. Họ gồm nhiều bộ phận với những phương ngữ khác nhau. Nguồn sống chính là
nông nghiệp, canh tác theo lối làm rẫy và du canh, nghề đan lát và dệt thủ công cũng
phát triển. Người Chin theo vật linh giáo.
Người Kachin chủ yếu sống ở vùng núi thượng lưu sông Chindwin và
Irrawddy. Từ khoảng giữa thế kỷ trước, họ bắt đầu di cư nhiều về phía Bắc bang Shan
và các miền Bamo và Cato của người Miến. Một bộ phận người Kachin sống lan sang
tỉnh Vân Nam của Trung Quốc và Atsam của Ấn Độ. Người Kachin sống chủ yếu
bằng làm rẫy, du canh, trồng lúa và ngô. Họ sử dụng ngôn ngữ Tạng – Miến. Những
người sống ở phía Đông theo đạo Phật, còn những người sống ở phía Tây theo vật linh
giáo.
Người Kayah (Karen đỏ, Kareni) sống tại bang Kayah, phía Nam bang Shan [4,
tr. 61 - 62]. Họ thường được biết đến với cái tên “người cổ dài”.
13
Với hơn 100 sắc tộc cùng tồn tại, có nguồn gốc xuất xứ nguyên thủy đa dạng,
khác biệt về lối sống, thiết chế chính trị, các mối quan hệ hình thái kinh tế, sắc thái văn
hóa; nhưng trong quá trình chung sống gần gũi, thông qua các mối quan hệ trao đổi
kinh tế – văn hóa – hôn nhân đã đưa đến một hệ quả là nhiều tộc người không còn bảo
lưu toàn bộ các đặc tính nguyên thủy, một số bộ tộc bị “vỡ” thành nhiều “mảnh” nhỏ
tách biệt nhau, nhiều nhánh đã trở nên xa lạ với nhau, thậm chí không hiểu được tiếng
nói của nhau. Chính vì lẽ đó, bức tranh tộc người ở Myanmar ngày càng trở nên phức
tạp và nhiều màu sắc.
1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Myanmar
1.2.1. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo
Phật giáo đã truyền đến Hạ Miến vào thời vua Ashoka, ba thế kỷ trước công
nguyên [18, tr. 98], nhưng các bằng chứng khảo cổ học ở Hạ Miến lại không chứng
minh điều này. Bia đá V và XIII của vua Ashoka có ghi danh sách các nước vua
Ashoka gởi chư tăng đến hoằng truyền chánh pháp mà không đề cập đến Hạ Miến,
nhưng sử liệu Tích Lan lại ghi đầy đủ chi tiết tên các nước phái đoàn đến hoằng hóa
chánh pháp. Hai bộ sử Dipavamsa (Tiểu sử) và Mahavamsa (Đại sử) của Tích Lan đã
đề cập đến sự kiện này và được các nhà học giả phương Tây chấp nhận.
Theo Sasam – vamsa, là một biên niên sử tiếng Phạn được viết bởi Tỳ kheo
Panasami cho rằng: Đức Phật đã đến Thaton và Shwesettan và để lại hình ảnh của
Bàn chân khác còn lại trong đá của núi Saccabandha. Những dấu chân Đức Phật vẫn
mình để thờ phượng – bàn chân Đức Phật ở sông Nammada gần với núi Saccabandha.
còn nhìn thấy cho đến ngày hôm nay đã được người Môn – Pyu và những vị vua
Myanmar thờ cúng và bảo tồn trong những nơi linh thiêng nhất của quốc gia. Một sự
kiện quan trọng khác là sự xuất hiện các di vật tóc trong Yangon ngay sau khi Đức
Phật giác ngộ: tám sợi tóc của Phật đã cho hai thương nhân Tapussa và Bhallika, trong
đó ba sợi được cất giữ trong bảo tháp nay là chùa Shwedagon – chùa vàng Shwedagon.
Cuốn sách “The Myanmar oral traditional” cho rằng Đức Phật đã có bốn
chuyến du hành đến Myanmar. Mỗi chuyến có một ý nghĩa khác nhau và mỗi nơi Phật
đến là những địa điểm hành hương nổi tiếng ngày nay ở Myanmar.
14
Thế kỷ III, theo Nagarjunakonda các Tỳ kheo ở Nam Ấn Độ đã đến vùng đất
Likatas – vương quốc của người Môn ở vùng Hạ Myanmar. Dựa trên phát hiện khảo
cổ học với một đèn dầu La Mã và một bức tượng Phật có niên đại I hoặc II AD [26, tr.
16 – 21].
Theo sử liệu Trung Hoa, Linyang – vương quốc Prome là nơi tất cả người dân
đều tôn kính Đức Phật và là nơi hàng ngàn Tỳ kheo và tu sĩ sinh sống.
Như vậy, trong buổi bình minh của Phật giáo Myanmar, việc xác định thời gian
chính xác về sự du nhập của Phật giáo vào quốc gia này vẫn chưa rõ ràng. Tuy vậy,
sau quá trình thâm nhập, Phật giáo đã thích nghi, tồn tại và phát triển một cách vững
vàng ở vùng Hạ Myanmar vào các thế kỷ V – XI trong các vương quốc Môn và Pyu.
1.2.2. Phật giáo ở Hạ Miến (từ thế kỉ V – XI)
Nhiều bia ký viết bằng tiếng Pali tìm thấy tại Hmawza, trong đó có hai bia vàng
đều khắc dòng chữ Pali, bắt đầu với câu Ye dhamma-hetuppabhava - Vạn pháp tùy
duyên, đã cho thấy Phật giáo Nam Tông bắt đầu bành trướng ở Hạ Miến vào thế kỷ thứ
VI [18, tr. 101]. Một tập sách dày 20 trang chữ Pali viết bằng mẫu tự Andhra Kadamba
ở Nam Ấn, trên vàng lá, tìm thấy gần Hmawza cho chúng ta hai dự kiện: thứ nhất,
Phật giáo Nam Tông đã phát triển ở Hạ Miến vì chữ Pali khá phổ biến; thứ hai, chữ
Pali viết bằng mẫu tự Andhra Kadamba của Nam Ấn chứng tỏ mối liên hệ văn hóa và
tôn giáo khá chặt chẽ giữa Nam Ấn Độ và Miến Điện.
Vào các thế kỷ V - VI, Kancipuram – Negapatam và Kaveripattam ở Nam Ấn
Độ là những trung tâm Phật giáo Nam Tông quan trọng, bằng chứng là Buddhagosa,
một nhà sư thông thái, đạo hạnh đã xuất hiện tại vùng đất này. Nhà sư này đã có hoạt
động hoằng hóa khá sôi nổi tại Sri Lanka và Miến Điện. Sau một thời gian lưu trú tại
Sri Lanka, ngài hoàn tất công tác phiên dịch luận, sớ tiếng Sri Lanka ra tiếng Pali, ngài
trở về Miến Điện, mang theo cuốn văn phạm Pali của Kaccayana và bộ luật Manu.
Ngài dịch cuốn văn phạm Pali tiếng Sri Lanka ra tiếng Miến Điện, giới thiệu bộ luật
Manu cho độc giả Miến Điện, biên soạn bộ sách nói về ngạn ngữ Miến Điện. Có thể
nói, Buddhagosa là người có công truyền bá và phát triển Phật giáo Nam Tông tại
Miến Điện và giáo phái này đã thịnh hành ở đây vào thế kỷ VI.
15
Theo hồi ký của Đại sư Nghĩa Tịnh (I-sting), dân xứ Shil-li Chatalo tức là
Prome hay Hạ Miến, rất sùng kính Tam bảo và tại đây có 4 giáo phái Phật giáo, phái
Àyamahàsanghika, Àryasthavira-vàda, Àryamùla-sarvàstivàda và Àryasammitiya.
Khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, Tăng già phân hóa bị phân chia làm
hai phe, một phe cho Phật luật quá nghiêm khắc muốn thay đổi, phe khác không đồng
ý muốn giữ nguyên. Phái bảo thủ có danh hiệu Sthavira-vàda (Trưởng Lão Bộ) hay
Theravàda (Thượng Tọa Bộ), còn phái chủ trương cải cách tên là Mahàsanghika (Đại
Chúng Bộ) [18, tr. 103].
Phái Sarvastivàda là một nhánh của Theravàda, về sau phân chia thành các chi
phái nhỏ hơn và danh xưng Sarvastivàda được đổi thành Mùlasarvastivàda. Phật giáo
thịnh hành ở Prome vào thế kỷ VII - VIII. Vương quốc Pyu có 18 chư hầu ở Nam
Miến và thủ phủ là Shil-li Chatalo, dân chúng trong thành đều theo đạo Phật với hơn
100 ngôi chùa được xây dựng. Nhiều tác phẩm điêu khắc được khai quật tại Prome
diễn tả Đức Phật ngồi trên tòa sen, trong tư thế Bhùmisparasamudra, tay trái cầm bình
bát, chung quanh có 4 hình tượng dâng cúng phẩm vật cho Phật đã chứng minh Phật
giáo thịnh hành ở vương quốc này [18, tr. 105].
Như vậy, từ thế kỷ V đến thế ky X, Phật giáo Nam Tông tồn tại và phát triển
rực rỡ ở Prome; nhưng đến thế kỷ XI, sắc dân Thái ở Namchao (Nam Chiếu), lúc bấy
giờ đã chiếm cứ vùng Tây và Tây Bắc Vân Nam, bị áp lực người Hán dồn ép, tràn
xuống miền Nam, tiến chiếm Pyu vào năm 832. Lịch sử Phật giáo Miến Điện bước
sang một giai đoạn mới: đó là sự xâm chiếm của Phật giáo Nam Tông từ Thaton vào
Thượng Miến – Pagan. Cả hai nền văn hóa Phật giáo ở Myanmar, Môn và Pyu bị xóa
bỏ vào thế kỷ XI bởi đội quân xâm lược của người Miến, họ đã thành lập một lực
lượng lãnh đạo thống nhất, là người sáng lập Pagan và Anawrahta là một vị vua vĩ đại
trong Phật giáo.
1.2.3. Phật giáo Tiểu thừa đến Pagan (thế kỉ XI - XIII)
Pagan được cho là do những nông dân Myanmar xây dựng vào những năm 849-
850 tại vùng Kyauksai gần Mandalay. Vua Anawrahta bắt đầu hợp nhất khu vực bằng
cách chinh phục những thủ lĩnh khác và đã thành công trong việc đưa Myanmar trở
thành một quốc gia, cộng đồng rộng lớn. Sự kiện quan trọng trong lịch sử Myanmar
16
không phải là việc thành lập thành phố Pagan và xây dựng các bức tường thành của nó
mà là sự tiếp nhận Phật Giáo Nguyên Thủy vào thành phố Pagan vào thế kỷ XI. Tôn
giáo này đã du nhập đến Thượng Miến nhờ một Tỳ kheo tên là Sun Shin Arahan [26,
tr. 45].
Tôn giáo phổ biến của Miến trước đó và trong đầu triều đại của Anawrahta là
một số hình thức Phật giáo Đại thừa, mà có lẽ con đường truyền bá là từ vương quốc
Pala ở Bengal. Điều này thể hiện rõ ràng qua các bức tượng Bồ Tát bằng đồng, đặc
biệt là tượng "Lokanàtha" ở Bengal, một vị Bồ Tát được cho là đã trị vì trong giai
đoạn giữa sự sụp đổ của Đức Phật Gotama (Cồ Đàm, Phật tổ) và sự ra đời của Đức
Phật Metteyya (Phật Di Lặc). Vua Anawrahta vẫn tiếp tục cho đúc những bài vị đất
nung với hình ảnh của Lokanàtha ngay cả sau khi ông chấp nhận học thuyết Nguyên
Thủy.
Đầu của thế kỷ XI, Phật giáo đối với người Môn ở vùng Suvannabhumi bị mờ
nhạt do con người bị quấy rầy bởi bọn cướp bóc, những kẻ đột kích, bệnh dịch và các
đối thủ của tôn giáo. Những ảnh hưởng này hầu hết đến từ vương quốc Ấn giáo Khmer
ở Campuchia và miền bắc Thái Lan. Người Khmer đã nỗ lực để chiếm Thaton và các
vương quốc của người Môn khác ở miền Nam để mở rộng đế chế của họ. Shin Arahan
(một nhà sư của dân tộc Môn) lo ngại rằng các Tỳ kheo sẽ không thể tiếp tục duy trì sự
tu hành của họ cũng như là việc nghiên cứu các kinh phật trong hoàn cảnh này. Do đó,
ông đã đi đến một nơi mới, ở đó người dân đã phát triển một vương quốc vững mạnh,
thịnh vượng và an toàn trước kẻ thù [26, tr. 47]. Shin Arahan đến vùng lân cận của
Pagan, gặp gỡ vua Anawrahta và giúp nhà vua cải đạo từ Đại thừa sang Tiểu thừa.
Điều đáng lưu ý trong thời gian này là Phật giáo cũng bị tấn công ở nhiều nơi
khác. Colas là một triều đại Ấn Độ giáo đã phản đối mạnh mẽ đối với Phật Giáo xuất
hiện ở miền Nam Ấn Độ, cũng là một trong những thành trì cuối cùng của Phật Giáo
Nguyên Thủy. Giai đoạn 1017-1070, họ đã có thể mở rộng quyền lực để nắm giữ hầu
hết Sri Lanka. Dvàravatã là thành phố lớn của người Môn, một trung tâm Phật Giáo
Nguyên Thủy tại miền Nam Thái Lan rơi vào tay người Khmer, chủ nhân của toàn bộ
Thái Lan là những người Ấn giáo Shaivite. Ở phía bắc của Ấn Độ, quân đội Hồi giáo
đang cố gắng để tiêu diệt những gì còn sót lại của Phật giáo. Giáo sư Luce viết: “Trong
17
giai đoạn nguy hiểm này, Phật giáo đã được cứu chỉ bởi những chiến binh dũng cảm
là Vijayabàhu ở Sri Lanka và Anawrahta” [26, tr. 48].
Thông qua Shin Arahan, Anawrahta lúc bấy giờ đã tìm thấy được tôn giáo mà
ông từng khao khát, ông quyết định đi tìm kiếm Kinh phật và các di tích thiêng liêng
của tôn giáo này. Ông mong muốn vương quốc mình sẽ giữ gìn được những giáo lý
nguyên thuỷ của Đức Phật. Ông đã cố gắng để tìm thấy Kinh phật và các di tích về tôn
giáo mới của mình ở những khu vực khác nhau. Với lòng nhiệt thành của mình, nhà
vua đã không giới hạn vùng tìm kiếm của mình đối với Thaton, mà còn tìm kiếm ở đế
chế của người Khmer ở Angkor, ở Tali thủ đô của Nanchao, vùng đất thuộc Vân Nam
Trung Quốc, nơi đây từng được cho rằng cất giữ một chiếc răng của Đức Phật. Nhưng
không nơi nào ông tìm được. Sau đó ông đã đi đến Thaton, quê hương của Shin
Arahan, để xin bản kinh phật. Theo người Miến thì yêu cầu của Anawrahta đã bị
khước từ, không thể chịu được thêm những lời từ chối nào, ông chuẩn bị quân đội của
mình vào năm 1057 để đánh chiếm Thaton và có được các Tipinaka (Tam Tạng Kinh)
bằng vũ lực. Trước khi chinh phục Thaton, ông đã chinh phục Sri Ksetra, thủ đô Pyu.
Từ đây, ông đã mang các di tích ở chùa Bawbaw-gyi của vua Dwattabaung đến Pagan
[26, tr. 51].
Một số người cho rằng mục đích của cuộc chinh phạt của ông chủ yếu là để
thêm các thuộc địa thịnh vượng Ấn Độ ở vùng Hạ Myanmar vào sự sở hữu của mình,
một số khác lại cho rằng thực sự ông đến Thaton để ngăn chặn sự tiến công đế quốc
Khmer. Dù nguyên nhân trực tiếp của cuộc viễn chinh của ông đến vùng Hạ là gì đi
chăng nữa nhưng chắc chắn rằng ông đã mang về triều đình Pagan cùng với các nghệ
sĩ Môn và các học giả, và trên hết là với các Tỳ kheo của Thaton và kinh sách của họ
cùng với Tipinaka. Vùng Suvannabhumi và người dân Môn bây giờ đã thuộc về người
Miến, văn hóa và tôn giáo của người Môn đã được chấp nhận và tiếp thu một cách
nhiệt thành ở Pagan.
Ban đầu, lòng nhiệt thành chỉ hạn chế đối với vua và đoàn tùy tùng trực tiếp của
ông, nhưng ngay cả khi họ tiếp tục tạo điều kiện cho những vị thần truyền thống vì lợi
ích của thế gian thì tôn giáo mới vẫn được coi là một sự tu hành cao nhất. Phật Giáo
Nguyên Thủy không đưa ra nhiều nghi lễ, nhưng không một triều đình hoàng gia nào
18
mà không có chúng. Vì vậy, các lễ nghi truyền thống của Nagas (hình ảnh con rồng)
tiếp tục được sử dụng cho các nghi lễ cung đình và là một phần của tôn giáo phổ biến,
trong khi đó các tăng sĩ rất được tôn kính và sư phụ của họ, Đức Phật Gotama (Đức
Phật Thích Ca) thì được tôn vinh thông qua việc dựng lên vô số các ngôi chùa và đền
thờ.
Anawrahta được nhắc đến trong biên niên sử của người Miến, người Môn,
người Khmer, người Thái và người Sinhalese như một vị khai sáng vĩ đại của Phật
giáo vì ông đã phát triển Pagan thành một cường quốc và đặt nền móng cho sự vinh
quang của vùng đất này. Tuy ông đã không xây dựng nhiều đền - chùa nổi tiếng ở
Pagan, nhưng ngôi đền cổ nhất được xây dựng chỉ liền sau triều đại của ông. Điều
quan trọng là sự quan tâm của ông không chỉ dành riêng cho Pagan. Ông đã xây dựng
nhiều ngôi chùa ở mọi nơi mà ông đã chinh phạt và trang trí chúng với hình ảnh minh
họa từ tiền thân và cuộc đời của Đức Phật.
Anawrahta để lại bảng linh vị bằng đất sét được trang trí với hình ảnh của Đức
Phật, tên của nhà vua một số danh từ Pali và những câu thơ Sanskrit. Tiêu biểu là câu:
“Bởi tôi, vua Anawrahta, lời chỉ dẫn của Sugata (Đức Phật) đã được tạo ra. Thông
đây, tôi có thể có những con đường dẫn đến Niết Bàn khi Đức Phật Phật Di Lặc
(Metteyya) được đánh thức” [26, tr. 56]. Anawrahta mơ ước trở thành một đệ tử của
Đức Phật Phật Di Lặc (Metteyya), không giống như nhiều vị vua sau này của
Myanmar mong muốn được Phật quả. Đây có phải là một dấu hiệu cho thấy người đàn
ông vĩ đại này vẫn còn là một người khiêm tốn mặc dù xây dựng một đế chế Myanmar
rộng lớn trong sự nghiệp của mình? [26, tr. 56 – 61].
Một đặc điểm quan trọng của Phật giáo Nam Tông ở Miến Điện trong giai đoạn
này là sự liên hệ đặc biệt với Phật giáo Sri Lanka. Triều đại Narapatisithu rất quan
trọng trong lịch sử Phật giáo Miến Điện. Vua tăng cường liên hệ giữa Miến Điện và
Sri Lanka. Quốc sư Tăng Thống Uttarajiva (người Talaing) cùng thị giả Sa di Chapala
và một số tăng sĩ Miến Điện đến Sri Lanka năm 1170 hay 1171 để chiêm bái thánh
tích như được ghi trong bia ký Kalàani của Dhammaceti, thế kỷ XV [18, tr. 117].
Nhìn dưới góc độ tôn giáo và văn hóa, triều đại Narapatisithu là thời kỳ cực
thịnh của Pagan. Vua nỗ lực bảo vệ và phát triển Phật giáo, muốn dân chúng hành trì
19
Phật đạo. Vua xây dựng nhiều ngôi đại tự như chùa Gawdawpalin, Sulamani,
Dhammayazaka, Mimalungkyaung, Chaukpala và xây đắp những ngôi tượng Phật lớn
thờ trong chùa; vua cung cấp những phương tiện cần thiết, khuyến khích chư tăng
chuyên học Pali, nghiên cứu luận tạng, giữ gìn giới luật, giáo hóa độ sinh; nhiều chư
tăng học giả đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển và phổ cập văn học Phật
giáo như Chapata, Saddhammasiri, Uttara, Uttama, Abhaya… Họ là tác giả của những
bộ luận kinh điển Phât giáo nổi tiếng.
Cuối thế kỷ XIII, Pagan bắt đầu suy yếu và chấm dứt sự tồn tại của triều đại này
vào năm 1287 trước sự xâm lăng của vó ngựa Mông Cổ – Hốt Tất Liệt. Sau khi Pagan
thất thủ, Miến Điện lại trở về tình trạng phân tán như trước với sự vươn lên của tộc
người Shan lật đổ vương quyền của Hạ Miến, bắc Arakan cũng tuyên bố độc lập, khi
đó trung tâm Phật giáo từ Thượng Miến lại chuyển về Hạ Miến với sự yểm trợ của các
Tiểu vương Hạ Miến.
1.2.4. Phật giáo ở Myanmar (thế kỉ XIII – XVII)
Năm 1486, Miến Điện lại tái thống nhất dưới triều đại Toungoo, đây là một
vương quốc rộng lớn và đa sắc tộc; tuy nhiên lại có ít các di sản về văn hóa, nhưng
lãnh thổ vương quốc được mở rộng thông qua các cuộc chinh phục bộ tộc Shan.
Trong triều đại Toungoo, Phật giáo bành trướng mạnh mẽ tại Hạ Miến, quốc
vương xứ Môn tích cực hộ đạo và duy trì mối liên hệ mật thiết với Phật giáo Sri
Lanka. Nhưng trong thời gian trị vì của Binnya Dhammayaza (1423 – 1426), Phật giáo
suy thoái do chiến tranh liên miên trong suốt thời gian cai trị của cha ông là Razadarit
(1384 – 1423). Để khôi phục Phật giáo, ông đã gởi một phái đoàn đến Sri Lanka
nghiên cứu Tam Tạng kinh vào năm 1424.
Dưới thời vua Dhammazedi, tình trạng chư tăng Miến Điện xáo trộn vì quan
điểm dị đồng về thủ tục yết ma (Sima), phương thức tổ chức đại giới đàn, cách thức
hành trì Bố Tát. Mỗi giáo phái có qui luật riêng, cách thức tổ chức riêng. Vua cho triệu
tập chư tăng thuộc 6 giáo phái, thông thạo Tam Tạng để hỏi về thủ tục yết ma, bố tát,
tổ chức đại giới đàn, nhưng không được lời giải đáp thỏa đáng, đồng thuận, nên vua
quyết định gởi 22 vị tỳ kheo, 22 vị sa di đến Sri Lanka nghiên cứu, tìm đáp án cho vấn
đề trên.
20
Dựa vào sự giúp đỡ của Phật giáo Sri Lanka, cùng với tinh thần hộ pháp tích
cực, vua Dhammazedi đã liên kết tất cả giáo phái Phật giáo Miến Điện thành một tổ
chức duy nhất, cùng hành trình qui tắc truyền giới, thọ giới, bố tát, an cư chung theo
mô hình Mahàvihara Sri Lanka.
Miến Điện vào đầu thế kỷ XVI, chia làm 3 phần: Bắc Miến do dân Shan – Thái
cai trị, Thượng Miến (Ava) do các hoàng thân Shan cai trị cho đến khi triều đại
Toungoo xuất hiện vào giữa thế kỷ XVI, Hạ Miến do người Môn thống lãnh. Năm
1527, Bắc Miến do sắc dân Shan – Thái cai trị, tấn công Thượng Miến, phá hủy Ava,
khiến cho dân Miến tại Ava tản cư đến Toungoo, vùng đông nam Miến Điện. Năm
1539, vua Tibinshweti (1531- 1551) con vua Minkyinyo xứ Toungoo tiến chiếm thủ
phủ Pegu của người Môn, năm 1541 chiếm Martaban, Moulmein, năm 1542 chiếm
Prome, năm 1544 cai trị toàn Trung Miến, năm 1546 cai trị toàn cõi Miến Điện, thủ đô
đặt tại Pegu. Sau khi vua Tibinshweti băng hà, người anh rể Bayin Naung (1551 -
1581) lên cầm quyền đế quốc Miến Điện với lãnh thổ rộng lớn gồm Nabbisipura của
dân tộc Shan và Ayuthaya của Xiêm La.
Thế kỷ XVI Miến Điện là một quốc gia thống nhất và hùng mạnh, nhưng thời
gian này là một trong những giai đoạn khó khăn nhất đối với Phật giáo ở vùng Thượng
Myanmar - sự hủy hoại Tăng già được nổ lực gây ra bởi những nhà lãnh đạo người
Shan. Vua Thohanbwa (1527-1543) đặc biệt nổi tiếng với sự dã man của mình. Ông đã
phá hủy nhiều ngôi chùa tu viện và cướp kho báu. Mặc dù là một vị vua nhưng
Thohanbwa không có học thức và dốt nát. Do đó vì sợ ảnh hưởng của các tu sĩ và nghi
ngờ trong việc đi lại của họ, đức vua đã gây ra vụ thảm sát hàng ngàn người. Dưới chế
độ thảm sát của các nhà lãnh đạo Shan, người dân Myanmar cảm thấy không an toàn.
Nhiều người gồm cả các Tỳ kheo có học thức trốn sang Toungoo - thành trì của các
dân tộc Miến ở phía Nam. Mặc dù tình trạng hỗn loạn đang diễn ra khắp nơi, nhưng
một số bài luận quan trọng theo cấu trúc văn phạm tiếng Phạn được biên soạn ở vùng
Thượng Miến vào những năm này [26, tr. 93].
Dưới sự cai trị của Bayin Naung, Phật giáo Myanmar bước vào giai đoạn tái
sinh. Bayin Naung không chỉ thống nhất đất nước về chính trị, mà còn làm cho nguyên
lý Phật giáo trở thành tiêu chuẩn cho toàn bộ vương quốc của mình. Nhà vua cấm giết
21
mổ các động vật để hiến tế, cho xây dựng chùa và tu viện ở tất cả các vùng đất mới
chinh phục, tạo điều kiện cho các Tỳ kheo có học thức giúp những cư dân “mông
muội” thay đổi tín ngưỡng một cách nhẹ nhàng. Ngôi nhà tôn giáo chính của vua
Bayin Naung là chùa Mahàzedi - một tượng đài hùng vĩ với pho tượng Phật tại thủ đô
Pegu. Bayin Naung cũng đăng quang ngôi vị tại chính ngôi chùa với các đồ trang sức
trên vương miện của riêng mình, đây là một phong tục được thực hiện bởi nhiều nhà
lãnh đạo của đất nước. Ông tiếp tục truyền thống của Dhammazedi, trong việc hỗ trợ
Tăng già và tài trợ việc sắc phong cho nhiều Tỳ kheo trong lâu đài sắc phong ở
Kalyani gần Pegu. Người ta nói rằng, ông đã xây dựng nhiều tu viện bằng thời gian mà
ông ta tại thế trong cuộc đời mình. Vẫn còn là một điều bí ẩn về một vị vua có lòng
sùng kính sâu sắc và sự hòa phóng đối với tôn giáo của Đức Phật [26, tr. 95].
Sau khi nhà vua băng hà, người kế thừa dồn nổ lực bành trướng lãnh thổ, Miến
Điện rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nanda Bayin (1581 – 1599) nhiều lần ra lệnh
xuất quân tấn công Xiêm La. Để có đủ nhân lực, vật lực cung cấp cho chiến tranh, vua
bắt dân Môn nhập ngũ. Nhiều người Môn từ chối nên vào chùa xuất gia, vua bắt họ
hoàn tục, họ chạy đến Arakan và Xiêm La lánh nạn. Năm 1595, quân Xiêm phản công
đánh Pegu. Miến Điện bị thất thủ và phân tán thành nhiều tiểu quốc. Pegu – thủ đô
Miến Điện trước đây là một thành phố phồn vinh, là trung tâm Phật giáo Nam Tông
dưới thời vua Dhammazedi thế kỷ XV và dưới thời Bayin Naung thế kỷ XVI, giờ đây
trở thành một đống gạch vụn - Phật giáo Miến Điện bước vào giai đoạn suy thoái.
1.2.5. Phật giáo ở Myanamar (thế kỉ XVII – XIX)
Thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển năng động trong lịch sử Phật giáo ở
Myanmar. Các bản văn tự tiếng Pali được dịch sang ngôn ngữ Miến, tạo ra sự phát
triển vượt bậc trong việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp [26, tr. 101].
Atthasalini (Chú giải bộ pháp tụ), Sammohavinodana (Phân tích các uẩn),
Kankhavitarani (Giới pháp), Abhidhammatthavibhavini (Tạng vi diệu pháp),
Sankhepavannana (Luận A – tỳ - đàm), Abhidhammatthasangaha (Thắng pháp tập yếu
luận gồm Tâm Vương (Citta) - Tâm sở (Cetasika), Matika (Mẫu đề), Dhatukatha
(Luận giải về các yếu tố hay giới), Yamaka (Song đối), Patthana (Bộ duyên hệ – Bộ
vị trí), Kaccayana (Duyên khởi) và Nettippakarana (Hướng dẫn chú giải Tam Tạng)
22
đã được các học giả người Miến nghiên cứu và dịch sang ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của
họ. Việc chuyển tải các công trình này đã giúp ích rất nhiều cho người dân Myanmar
trong việc nghiên cứu Phật pháp; là những người bình dân, Tỳ - kheo hay trẻ con đều
có thể tiếp xúc với Đạo Phật mà không còn phụ thuộc vào các học giả người Ấn Độ.
Cũng chính trong giai đoạn này, trường học tu viện và chương trình giảng dạy của nhà
chùa được thiết lập và phát triển mạnh mẽ, đã có những đóng góp tích cực trong sự bồi
dưỡng trí tuệ và học vấn cho nhân dân.
Trong nửa sau của thế kỷ, vị Tỳ kheo Devacakkhobhasa đã thiết kế một hệ
thống cho việc nghiên cứu và giảng dạy về Patthana, cuốn sách cuối cùng của Vi Diệu
Pháp, mà ở Myanmar được cho là giáo lý cao nhất của Đức Phật. Vua
Devacakkhobhasa lúc bấy giờ bị chinh phục bởi sự uyên bác của Devacakkhobhasa
thể hiện trong giáo lý cao cả này, nhà vua đã ra lệnh cho Patthana được nghiên cứu và
giảng dạy trong tất cả các tu viện ở Myanmar. Sự nhấn mạnh vào vai trò của Vi Diệu
Pháp và Patthana một cách đặc biệt đã tồn tại ở Myanmar cho đến tận ngày nay.
Phong trào bắt đầu từ thế kỷ XVII những vẫn còn nguyên ý nghĩa đối với Phật giáo.
Hai mươi bốn nguyên tắc của Patthana có thể được tìm thấy trong các giới luật đối với
các Tỳ kheo, trên lịch và trên các áp phích. Trong một số tu viện, các tu sĩ được đánh
thức mỗi buổi sáng bằng hai mươi bốn tiếng chuông trên một thân cây rỗng, trong khi
các Tỳ - kheo đáng kính phải đọc thuộc lòng hai mươi bốn nguyên tắc trong Patthana.
Ngay cả các em nhỏ cũng học cách đọc hai mươi bốn nguyên tắc cùng với các bài kinh
được xem như một sự bảo vệ. Patthana được xem là lời giáo huấn cao nhất và khó
nhất của Đức Phật, nên người ta tin rằng Patthana sẽ là giáo lý đầu tiên bị thất truyền.
Để làm chậm sự suy giảm của lời dạy của Đức Phật, nhiều người Myanmar, Tỳ kheo
và giáo dân cùng nhau ghi nhớ Patthana và đọc nó hàng ngày [26, tr. 103].
Ở Pagan, những câu chuyện về tiền thân (Jataka) và lịch sử cuộc đời của Đức
Phật là đối tượng chính của nghiên cứu tôn giáo. Trong thế kỷ sau đó, ngữ pháp Pali
và nghiên cứu về Vinaya (Tuệ và giác ngộ) là quan trọng nhất trong các vấn đề nghiên
cứu. Phong trào cải cách của vua Dhammazedi, sự quan trọng và đóng góp của Vi
Diệu Pháp – những lời giáo huấn của Đức Phật; đã làm cho ngôn ngữ Miến phát triển
song hành cùng ngôn ngữ Pali, nền văn minh quốc gia được nâng cao với sự đóng góp
23
của giáo dục tu viện; Myanmar đã có một sự chuyển mình quan trọng không chỉ về
mặt Phật pháp mà bao gồm cả xã hội Myanmar. Do đó, thế kỷ XVII được xem là một
khúc quanh quan trọng trong sự phát triển Phật giáo ở Myanmar, tạo nền tảng vững
chắc cho sự phát triển cao hơn trong các thế kỷ kế tiếp.
Trong số các nhà lãnh đạo của thế kỷ XVIII, một số rất có quyền lực và chuyên
chế, trong khi những người khác không có hoặc bị tước mất quyền lực. Nhà vua cố
gắng mở rộng quyền lực của mình bằng chiến tranh, trong khi những người khác lại
hài lòng với cảnh bị mất nước. Có nhiều cuộc xung đột với Thái Lan và người dân
Myanmar phải chịu cảnh thiếu thốn vì chiến tranh luôn đòi hỏi người dân không chỉ ở
nước đi chinh phục mà còn ở nước bị chinh phục tham gia vào quân đội.
Cũng như Bayin Naung, Alaungpaya (1752 – 1760) thành lập một đế chế
Myanmar bao gồm vương quốc Môn, Pegu, Toungoo Henzada, Myaungmya, Bassein,
Sandoway, thống nhất Thượng Miến, Hạ Miến, thành lập triều đại Konbaung, đã cùng
dân Môn hợp tác phát triển xứ sở, kiện toàn tổ chức Phật giáo. Vua là một phật tử
ngoan đạo, thường tổ chức trai tăng vào ngày Bố Tát để cúng dường chư tăng.
Bodawpaya (1782 – 1819), con trai thứ năm của Alaungpaya lên ngôi, là một vị
vua thông minh, đảm lược, giúp Phật giáo giải quyết sự tranh chấp giữa hai phái
Parupana và Ekamsika đã kéo dài trên 100 năm (từ năm 1698). Sự phân hóa xuất phát
từ quan điểm và hành trì giới luật. Số là Gunabhilamkara, một nhà sư người Tunna,
khi đi khuất thực trong làng, tay cầm quạt lá, đầu che kín, không choàng y cả hai vai.
Một số tăng ủng hộ hành động này gọi là phái Ekamsika, trong khi chư tăng theo
truyền thống, khi đi khuất thực phải choàng y cả hai vai, không được để hở vai, gọi là
phái Parupana.
Với các vua tiền nhiệm sự mâu thuẫn này vẫn không được làm rõ, khi
Bodawpaya tại vị đã cho thành lập một ủy ban đi khắp các chùa Miến Điện, thu thập ý
kiến, sưu tập tài liệu, so sánh kinh, luật Phật từ trước đến thời bấy giờ. Phái Ekamsika
cho biết phương thức hành trì của họ không dựa vào giới luật truyền thống. Sau thời
gian nghiên cứu, phân tích vấn đề và dựa vào những dữ kiện thu thập được, vua ban
hành đạo dụ công bố phương thức hành trì của phái Parupana hoàn toàn đúng theo giới
luật Phật, chấm dứt sự tranh chấp giữa hai phái. Mâu thuẫn đã được giải quyết, tạo ra
24
một sự thống nhất trong Tăng già dưới sự lãnh đạo của một hội đồng Tỳ kheo cao cấp
do vua bổ nhiệm và bảo vệ sự thuần khiết về phẩm cách của Tỳ kheo, do đó các
Sangha thịnh vượng và phát triển mạnh mẽ dưới triều đại của Bodawpaya [18, tr. 117].
Ngoài công năng giải quyết tranh chấp trên, vua Bodawpaya còn tiếp tay giúp
đỡ tổ chức đại giới đàn thu nhận những Sadi không được Sri Lanka cho phép thọ Đại
giới. Số là vua Sri Lanka là Kiti Sri Rajasinha tuy là một ông vua hộ đạo, nhưng chính
sách của ông đối với Tăng già có phần kỳ thị đối với hàng bình dân, không phù hợp
với lối hành xử của Phật và truyền thống Phật giáo. Vua chỉ cho chư tăng Sri Lanka
thuộc giai cấp thượng lưu được thọ Tỳ kheo giới, còn các Sadi thuộc cấp hạ lưu không
được thọ Cụ Túc Giới. Một vị Sa di hiệu là Ambagahapitiya Nanavimalatissa cùng
một số Sa di khác đến Amarapura gần Ava năm 1799, thỉnh cầu chư tăng Miến Điện
truyền giới cho hàng Sa di Sri Lanka, khi đó năm vị tăng Miến Điện đã cùng các Sa di
này và mang theo kinh sách về Sri Lanka tổ chức đại giới đàn, truyền đại giới cho Sa
di Sri Lanka không phân biệt giai cấp, thành lập hệ phái Tăng già Miến Điện tại Sri
Lanka.
Triều đại Bodawpaya đã đánh dấu một bước ngoặt trong mối quan hệ giữa Phật
giáo Myanmar và Sri Lanka: từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII, Sri Lanka đóng vai trò
trọng yếu trong việc thiết lập hệ thống Phật giáo Nam Tông và hệ phái Sihala Sangha
trên nhiều quốc gia Đông Nam Á; nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, Myanmar đã giúp Sri
Lanka giải quyết vấn đề thọ giới, thành lập hệ phái Tăng già Miến Điện, tạo sự hòa
hợp giữa hàng tăng sĩ Sri Lanka trước chính sách kỳ thị của vương triều Sri Lanka.
Mặc dù vua Bodawpaya là một vị vua đạo đức và sùng đạo, nhưng mối quan
hệ của ông với Sangha phần nào cũng có vấn đề. Ông ủng hộ họ và thậm chí sử dụng
họ để mở rộng quyền lực cho mình nhưng dường như ông đã ghen tị với sự tôn trọng
mà các tu sĩ nhận được từ người dân. Lòng đố kỵ trở nên rõ ràng và ở mức độ khác
nhau. Nhà vua tuyên bố danh hiệu “Hpoungyi - người của Vườn Công đức” chỉ dành
riêng cho vua chứ không phải cho các chư tăng; ra lệnh thu hồi đất đai và các phẩm vật
ban tặng cho chùa và Sangha; buộc các Sangha xác nhận chính thức rằng ông là vị Bồ
Tát nhưng không thành công. Để tăng thêm danh tiếng cho mình, vua Bodawpaya áp
đặt đạo đức năm giới theo quy định của nhà vua và người phạm tội bị xử lý ngay lập
25
tức. Án tử hình cho những người bán và uống rượu, giết chết động vật lớn như trâu,
lan truyền quan điểm dị giáo, và hút thuốc phiện. Bodawpaya đã cai trị đất nước bằng
một bàn tay thép. Người kế nhiệm ông là người nhân từ, nhưng có thể họ có thể được
như vậy chỉ vì nỗi sợ hãi cai trị của ông đã thấm nhuần trong dân chúng [26, tr. 116].
Kế vị vua Bodawpaya là vua Bagyidaw (1819-1837), là người đầu tiên trong
các vị vua Myanmar để mất lãnh thổ cho quân xâm lược đến từ phương Tây. Tuy
nhiên, Bagyidaw đã đóng góp rất quan trọng đến sự phát triển của Sangha và văn học
của Myanmar nói chung. Cha ông - Bodawpaya, đã đoàn kết Sangha bằng cách giải
quyết các tranh chấp liên quan đến việc xếp nếp của chiếc áo choàng trên một hoặc hai
vai. Bagyidaw thấy sự cần thiết của việc tạo ra sự ổn định cho các Sangha. Nhà vua
cảm thấy rằng điều này có thể đạt đến một mức độ nào đó bởi nó có một ý nghĩa lịch
sử và lịch sử của Phật giáo bắt đầu từ thời Đức Phật, đã được để hiển thị một cách
không gián đoạn về truyền thống tinh khiết thông qua con người, từ trẻ con cho đến
người trưởng thành. Bagyidaw cho biên dịch sách Hman-nan-ya-za-win, Biên niên sử
về Cung điện thủy tinh, đây là một công trình lịch sử thế tục của Myanmar. Và nhà vua
cảm thấy rằng việc thiếu một tác phẩm ghi chép về lịch sử của Phật giáo nguyên thủy
sẽ phát sinh những quan điểm sai lầm trong nhân dân cũng như trong hệ thống Sangha,
nhưng đây không phải là công việc dễ dàng và hoàn thành trong một thời gian nhất
định [26, tr. 120].
Trải qua các triều vua Tharawaddy - Min (1837 - 1846), Pagan - Min (1846-
1852) và Mindon (1852 - 1877) với sự sáp nhập hoàn toàn Myanmar bởi người Anh,
một thời đại lịch sử đã kết thúc: Phật Giáo Nguyên Thủy được phát triển tại Myanmar
trong hơn hai thiên niên kỷ phải đứng trước nguy cơ bị đe dọa và tấn công bởi một tôn
giáo mới – Thiên Chúa giáo.
26
Tiểu kết chương 1
Myanmar được biết đến là một quốc gia đa sắc tộc, với hơn 135 sắc tộc cùng tồn
tại với nhiều ngôn ngữ và tập quán khác nhau, kết hợp với sự chia cắt về mặt lãnh thổ,
đã khiến cho vấn đề sắc tộc ở Myanmar trở thành một vấn đề nan giải.
Tuy nhiên, sự thống nhất trong một tôn giáo chung – Phật giáo đã góp phần mang
những cá nhân trong cộng đồng dân tộc Miến xích lại gần nhau. Với hơn 90% dân số
theo Phật giáo Tiểu thừa, Myanmar được mệnh danh là thiên đường của những chùa
tháp nổi tiếng uy nghi trầm mặc. Và Pagan là một thành phố bất tử.
Phật giáo đã du nhập vào Myanmar từ thế kỷ III TCN. Trải qua quá trình tồn tại
và phát triển (TK V – X ở vương quốc Môn – Pyu), Phật giáo Tiểu thừa chính thức trở
thành tôn giáo dân tộc dưới thời trị vì của Anawrahta. Anawrahta đã mở đầu một giai
đoạn mới trong lịch sử Miến Điện – lịch sử khai quốc Miến Điện; Pagan trở thành
ngọn nguồn của đất nước, để từ đây bắt đầu hình thành tinh thần và văn hóa dân tôc
Miến. Muôn đời các thế hệ người Miến vẫn coi Pagan là một cõi đi về cội nguồn dân
tộc.
Thế kỷ XIII – XVII, Myanmar trở thành đế quốc dưới triều đại Toungoo và Phật
giáo Tiểu thừa bành trướng một cách mạnh mẽ ở Hạ Miến. Từ quốc vương
Dhammazedi cho đến Bayin Naung, nguyên lý Phật giáo trở thành tiêu chuẩn cho toàn
bộ vương quốc. Thế kỷ XVII, là khúc quanh quan trọng trong Phật giáo Myanmar.
Đây là giai đoạn bùng nổ với vô số kinh điển Phật giáo từ tiếng Pali được dịch và biên
soạn sang tiếng Miến, ngày nay Myanmar nổi tiếng về việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp
là do đóng góp rất lớn của những con người tài giỏi trong giai đoạn này (nhà vua, các
bậc chân sư, tăng đoàn Sangha). Trong hệ thống kinh điển, Patthana – 24 nguyên tắc
về giới luật được cả nhân dân và chư tăng tụng đọc và thực hành hằng ngày.
Nửa sau thế kỷ XIX, các nhà truyền giáo đã đến Myanmar. Phật giáo đang bị đe
dọa bởi một tôn giáo mới – Thiên chúa giáo. Cả đất nước Myanmar và Phật giáo đang
đứng trước một sự đổi thay lớn trong các thế kỷ tiếp theo: thực dân Anh xâm lược
Myanmar.
27
Chương 2.
PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948
Vào thế kỷ XVI, các quốc gia châu Âu bắt đầu nô dịch các nước ở châu Á, châu
Mỹ, châu Phi và những vùng khác của thế giới. Các quốc gia châu Âu đã đưa người
của đến những vùng đất mới để thiết lập chính phủ và cai trị cư dân địa phương sống ở
đó. Trong khu vực Đông Nam Á, người Bồ Đào Nha đến đầu tiên và sau đó là Anh –
Hà Lan – Pháp và những tên thực dân khác. Người Anh đã thành lập một đế chế ở Ấn
Độ vào thế kỷ XVII, trong thế kỷ XIX đế chế của họ bao gồm cả Myanmar [34, tr. 13].
Trước khi thực dân Anh đến, vào thế kỷ XVIII, Myanmar là một quốc gia thống
nhất hùng mạnh nhất Đông Nam Á. Quân Mông – Nguyên mang quân xâm chiếm
Myanmar nhưng cả bốn lần đều thất bại.
Vua Alaungpaya (1752 – 1760) là người đặt nền móng đầu tiên cho triều đại
Konbaung – triều đại hoàng gia Miến Điện cuối cùng. Cũng giống như các vua
Toungoo, các nhà cầm quyền Konbaung đã đẩy mạnh chiến tranh và chinh phục vùng
đất của người Môn - Arakan và Xiêm. Đặc biệt khi Bodawpaya lên ngôi vua thì các
cuộc chiến tranh xâm lược Xiêm và Arakan diễn ra càng quyết liệt hơn. Những cuộc
chiến tranh này đã tàn phá nặng nề nhà cửa, ruộng đồng của nhân dân gây thiệt hại lớn
về vật chất và sinh lực. Vì thế mâu thuẫn nội bộ giai cấp phong kiến cầm quyền ngày
càng gay gắt, các cuộc nội chiến và chính biến cung đình xảy ra thường xuyên. Điều
này làm cho mâu thuẫn xã hội lên cao, đẩy Miến Điện lâm vào tình trạng khủng hoảng
nặng nề và không còn đủ sức đối phó với các cuộc tấn công xâm lược của Anh. Nền
quân chủ độc lập của Hoàng gia Miến thật sự kết thúc khi phát súng xâm lược của thực
dân Anh bùng nổ ở Miến Điện vào năm 1824.
2.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar và những chính sách đối với Phật giáo
2.1.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar
Thực dân Anh đánh chiếm Myanmar với mục đích củng cố vai trò đế quốc của
mình tại Ấn Độ, tách các nước Arakan, Assam, Manipur thần phục Miến Điện dưới
thời vua Bodawpaya ra khỏi nước này và muốn củng cố vị trí của mình ở Đông Nam
Á, loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp tại Ấn Độ và Miến Điện. Về kinh tế, chính
quyền Anh sau khi chiếm Miến Điện làm thuộc địa đã tiến hành khai thác triệt để
28
nguồn tài nguyên dồi dào nhất là gỗ, đá quý (hồng ngọc) và làm bàn đạp để mở rộng
thương mại với Trung Hoa, qua trung gian Miến Điện – quốc vương Myanmar được
xem là nhà buôn lớn nhất, giao thương với Trung Hoa đóng vai trò vô vùng quan
trọng, nhất là nghành xuất khẩu bông gòn từ Myanmar sang. Đối với tôn giáo, họ
muốn biến đổi tôn giáo truyền thống ở Miến Điện là Phật giáo bằng cách yểm trợ cho
những nhà truyền giáo thuộc giáo hội Baptist và Baptist hóa Miến Điện.
Vào năm 1819, Anh đã chiếm xong Singapore và đầu những năm 1820 chấm
dứt các cuộc chiến tranh chống Nepal và người Marath. Nếu như quan điểm ban đầu
của người Anh về Myanmar chỉ là một phần mở rộng của Ấn Độ cả về kinh tế – chính
trị và văn hóa, thì cho đến khi nền móng cai trị được gây dựng từ giữa thế kỷ XVIII đã
trở nên vững chắc ở miền Đông Ấn Độ và nhu cầu cấp thiết cho việc phòng thủ biên
giới phía Đông khiến người Anh chú ý đến vùng đất này. Myanmar trở thành đối
tượng quan trọng trong sự toan tính thực dân trực tiếp [17, tr. 235]
Cho đến những năm đầu của thế kỷ XIX, Vương triều Konbaung Miến Điện
vẫn tiếp tục mở rộng ảnh hưởng ra xung quanh bằng các cuộc chinh phục. Vương quốc
Miến Điện đã mở rộng quyền kiểm soát của mình qua vùng Arakan tiếp giáp với
Bengal. Những người tị nạn bỏ chạy qua biên giới và từ đó tổ chức các cuộc đấu tranh
chống lại người Miến. Tháng 07/1822, Miến Điện gửi đến Calcutta bức thư đòi Anh
phải trao trả những người tị nạn nhưng không được quân Anh chấp nhận, người Anh
càng đẩy mạnh công cuộc thôn tính Miến Điện. Quan hệ Anh - Miến Điện ngày càng
căng thẳng và những cuộc xung đột biên giới giữa Anh - Miến Điện diễn ra thường
xuyên. Phía Anh đòi Miến Điện rút quân khỏi công quốc Ấn Độ như Atsam, Kasa,
Manipua… mà Miến Điện chiếm trước đây. Phía Miến Điện đã chiếm được Bengal và
nhất quyết đòi trao trả những người tị nạn chính trị, nếu không họ sẽ tiến đến
Chittagon.
Năm 1823, Anh và Myanmar tranh chấp với nhau về đảo Xapuri giữa sông
Naaf – biên giới tự nhiên giữa Rakhain và Bengal. Miến Điện bắt giữ thuyền từ Bengal
vào Rakhain do không chịu nộp thuế và một số người của công ty Đông Ấn vượt sông
sang đất Rakhain. Toàn quyền Anh Amherst cho tăng cường phòng thủ, yêu cầu Miến
Điện vạch đường biên giới cụ thể. Hai sĩ quan Anh sau đó tới điều tra tình hình bị
29
quân Miến bắt giữ. Một đơn vị Anh liền đổ bộ lên chiếm đảo Xapuri. Tổng đốc
Rakhain gửi thư cho toàn quyền Anh và thủ hiến Chittagon phản đối, yêu cầu rút đơn
vị Anh khỏi đảo. Đêm 23 rạng sang 24 tháng 9, quân Miến Điện quét sạch đơn vị này
[17, tr. 236].
Tháng 01/1824, trong cuộc đàm phán tại Maundo, phía Anh đòi sở hữu hòn
đảo, phía Miến Điện yêu cầu trung lập. Năm 1824, quân Miến Điện chia hai cánh tiến
đánh Calcutta. Theo kế hoạch, một cánh qua Cachar vào, còn cánh kia từ Rakhain tiến
sang. Ngày 17/01, cánh Cachar bị đánh bại ở làng Bokrampua. Sau vài giao tranh nhỏ,
viên chỉ huy cho rút quân. Cánh Rakhain do tổng tư lệnh Maha Bandula chỉ huy thì
đánh thắng đơn vị Anh do một đại úy chỉ huy ở Rama, gây không khí hoảng loạn ở
Calcutta. Nhưng Pandula không thừa thế tiến thêm mà dừng lại chờ cánh quân Cachar,
vì thế bỏ lỡ cơ hội chiếm Chittagon.
Ngày 05/03/1824, Anh tuyên bố tình trạng chiến tranh với Miến Điện. Trong
cuộc chiến tranh Anh – Myanmar lần thứ nhất (1824 – 1826), do lúc này thế lực của
Miến Điện còn mạnh nên Anh gặp khó khăn trong việc chinh phục, cả Anh và Miến
Điện đều chịu nhiều tổn thất. Phía Anh đã bị thiệt hại đến 15.000 người; trong đó phần
nhiều là quân sĩ Ấn Độ dưới quyền điều khiển của Anh và 3.586 quân sĩ Anh. Về phía
Myanmar, tướng Maha Bandula tử trận vào tháng 4 năm 1825 cùng với 3.115 binh sĩ.
Hòa ước Yandabo được ký kết giữa Anh và Miến năm 1926. Miến phải nhường
hai tỉnh Arakan và Tenasserim cho hãng Đông Ấn, bồi thường 1.000.000 bảng Anh,
trả bốn kỳ trong hai năm đồng thời chấp nhận sự có mặt Quan Khâm Sai Anh trong
cung đình Miến [18, tr. 50].
Vào cuối triều vua Bagiyidaw (1819 - 1837), người dân Miến không có gì thiện
cảm với người Anh vì họ cho rằng người Anh không giữ cam kết khi ký hòa ước
Yandabo. Quan Khâm Sứ Anh lạm quyền. Tuy nhiên, vua Bagiyidaw vẫn giữ thái độ
ôn hòa để lấy lại hai tỉnh đã mất nhưng không có kết quả, làm cho nhiều thành phần
yêu nước của Miến Điện bấy giờ bất mãn.
Nhân cơ hội này, Hoàng tử Tharawaddy em của vua nổi dậy làm cuộc đảo
chính, lên làm vua vào năm 1837 và quyết định chấm dứt mọi liên hệ với Anh quốc,
30
bãi bỏ hòa ước Yandabo. Năm 1840, Quan Khâm Sứ của Anh rút lui khỏi Miến Điện,
vì không được tiếp đãi theo nghi lễ. Mọi liên hệ giữa Anh và Miến xem như kết thúc.
Chiến tranh kết thúc nhưng mối quan giữa chính quyền Anh và Miến không có
phần giảm nhiệt vì bất đồng về quyền lực và kinh tế. Vào thập niên 1840, Yangon trở
thành trung tâm thương mại quan trọng giữa Anh và Trung Hoa; bông gòn, gỗ lim và
đồ gia vị là những sản phẩm trao đổi chính yếu giữa hai nước. Năm 1841, vua
Tharawaddy tuyên bố gỗ lim là độc quyền của hoàng gia Miến cho nên các thương gia
Anh bất mãn.
Anh lấy cớ triều đình Miến gây khó khăn cho thương gia Anh tại Yangon,
muốn biến Hạ Miến trực thuộc chính quyền Anh. Triều đình Miến chỉ định Maung Ok
làm Tổng đốc năm 1850. Để tái thiết Yangon sau khi bị hỏa hoạn, Maung Ok quyết
định tăng thuế, gây khó khăn và phạt các thuyền trưởng người Anh. Toàn quyền Anh
ra lệnh Đề Đốc Hải quân Anh là George Robert Lambert đến Miến Điện điều tra. Khi
đến Miến Điện, George Robert Lambert ra phán quyết cho Tổng đốc Maung Ok rằng,
ông không xứng đáng để giao tài sản và sinh mệnh người Anh, sau đó gởi tối hậu thư
đến triều đình Miến Điện và đưa chiến hạm đến Yangon tạo cớ để chiến tranh bùng nổ
vào năm 1852. Quân đội Anh trang bị vũ khí hiện đại, nên không bao lâu đã đánh
chiếm Yangon, rồi Hạ Miến và đến Toungoo. Toàn quyền Dalhousie tuyên bố sáp
nhập Pegu với thượng Miến, mọi vấn đề đều do chính quyền Anh định đoạt, triều đình
Miến Điện hoàn toàn mất chủ quyền ở vùng này. Việc mất Pegu là một thảm họa đối
với Miến Điện vì nước này sẽ không có cửa ngõ đi ra biển, không thể liên hệ với thế
giới bên ngoài ngoại trừ với Trung Hoa thông qua đường bộ. Tại thủ đô Miến Điện
bấy giờ là Mandalay diễn ra cuộc đảo chính, vua Pagan bị truất phế. Vua Mindon Min
lên thay thế thi hành chống lại chính sách xâm lăng của Anh, đồng thời đức vua cũng
cố gắng hòa hoãn và có thái độ thân thiện với Anh hy vọng Anh sẽ trả lại Pegu, nhưng
kết quả không như mong muốn vì người Anh đã tìm cách chiếm đoạt những phần còn
lại của lãnh thổ Miến Điện.
Vua Mindon Min cũng chịu nhiều áp lực từ chính quyền Anh, trong hai năm
1866 - 1867 có nhiều vụ nổi loạn của dân tộc Shan ở Thượng Miến, con trai vua nổi
lên làm loạn giết em trai của vua, tình hình chính trị rối rắm, vua phải yêu cầu chính
31
quyền Anh giúp đỡ. Chính quyền Anh đặt điều kiện là triều đình Miến Điện không
được giữ quyền xuất cảng, ngoại trừ đá quý - dầu hỏa - cây rừng, phải giảm thuế cho
thương gia Anh và cho phép công dân Anh sử dụng luật lệ Anh; công dân Anh - Ấn
được xét xử tại tòa án gồm đại diện chính quyền Anh và đại diện cấp cao của chính
phủ Miến Điện. Vua đồng ý cho Quan Công Sứ cư trú tại Bhamo và thương thuyền
thuộc hãng Irawaddy Flotilla Company được phép đi lên thượng nguồn một tuần một
lần [18, tr. 56].
Năm 1873, vua Mindon đã gởi phái đoàn ngoại giao đến London để điều đình
trực tiếp với chính phủ Anh, sau đó viếng thăm Pháp và Ý. Chính quyền Pháp và Ý đã
tiếp phái đoàn ngoại giao của Miến một cách trang trọng với đầy đủ lễ nghi của bộ
ngoại giao, phái đoàn ngoại giao của Miến Điện đã ký hiệp ước thương mại và xây
dựng đường xe lửa với hai chính phủ này; trong khi nữ hoàng Anh tiếp phái đoàn của
triều đình như là một bộ phận của Ấn Độ thuộc Anh.
Sau vụ thảm sát một viên chức người Anh từ Thượng Hải đến Miến Điện là
Augustus Margary, tình hình quan hệ giữa Anh và triều đình của vua Mindon càng lúc
càng xấu đi. Chính quyền Anh ra chỉ thị đối với vua Mindon là trong tương lai, đại
diện của Anh ở Mandalay sẽ không cởi giày dép khi tiếp kiến nhà vua. Toàn quyền
Lord Northbrook ra lệnh cho các nhân viên đại diện chính phủ Anh đến gặp hoàng gia
Miến không cởi giày dép trước khi bước vào cung điện. Kết quả điều đình giữa Anh và
Miến không thành. Trong tình thế ấy, vua Mindon băng hà.
Vua Mindon băng hà năm 1878, con trai Thibaw kế vương vị, nội bộ triều đình
Miến Điện bấy giờ lộn xộn, lực lượng chống Anh tại Miến Điện ngày càng gia tăng
thế lực. Cuộc hội đàm giữa hai chính phủ Anh - Miến tại Simla bị đình hoãn, lực
lượng chống Anh đòi hủy bỏ hiệp ước Yandabo giữa Anh và Miến năm 1826, xác định
sự độc quyền của nhà vua về các sản phẩm ở Miến và hạn chế sự tự do đi lại của nhân
viên Anh trên đất Miến. Triều đình Miến gởi một phái bộ ngoại giao đi châu Âu để
yêu cầu viện trợ, học hỏi kỹ thuật để áp dụng và canh tân đất nước.
Thỏa ước Pháp Miến được ký kết tại Paris ngày 15 - 1 - 1885, trong đó chấp
nhận Pháp được quyền buôn bán, thiết lập tòa lãnh sự tại Miến và được thừa hưởng ân
huệ kinh tế đặc biệt. Sau khi thỏa ước đã được ký kết khoảng mười ngày, Jules Ferry
32
lên làm Thủ tướng Pháp, nói với bá tước Anh là Lyons đang làm đại sứ Anh tại Pháp
rằng: Miến Điện là nước láng giềng của các quốc gia thuộc địa Pháp, nên cần phải có
thỏa ước về biên giới. Qua sự kiện vừa nêu, người Anh tạo ra những tin tức thiếu
chuẩn xác về quan hệ giữa Pháp và Miến để kiếm cớ can thiệp sâu vào nội tình triều
đình Miến.
Vào tháng 11 năm 1885 (chiến tranh Anh – Myanmar lần ba), quân đội Anh
tiến chiếm Mandalay, trong vòng 15 ngày, thiệt hại 10 binh sĩ. Quân đội Anh hống
hách, đi giày vào trong cung điện, ra lệnh hoàng gia phải rời khỏi hoàng cung trong
vòng 45 phút, không được cưỡi voi ra cửa thành, chỉ đi xe bò đến hải cảng để đi đến
Ấn Độ. Họ đã phế truất vị vua cuối cùng – Thibaw một cách dễ dàng, lừa dối triều
đình và nhân dân là đang đưa một hoàng tử sống lưu vong lên ngôi thay thế vua
Thibaw. Người Anh do nhầm lẫn về tên gọi của tộc người lớn nhất Barma nên đã gọi
đất nước này là Burma và người dân ở đây là Burmese.
Có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan để biến Myanmar từ một quốc
gia phong kiến độc lập trở thành thuộc địa của đế quốc Anh.
Thứ nhất, năm 1784 Miến Điện sau khi sáp nhập được Arakan, vô hình chung
đã hình thành một đường ranh giới chung giữa Bengal của Công ty Đông Ấn Anh
(công ty này lúc đó đã trở thành một lực lượng chính trị quyết định ở Ấn Độ) với Miến
Điện. Chính sách che chở những người Arakan di cư là khát vọng của nhà cầm quyền
Anh muốn dùng áp lực và tìm cách len lỏi vào Miến Điện.
Thứ hai, người Anh quan tâm đến Miến Điện với ý đồ muốn mở rộng hoạt động
của công ty Đông Ấn với mục đích làm cho đại diện của họ được công nhận ở Miến
Điện.
Thứ ba, Miến Điện là là đối tượng cạnh tranh trực tiếp giữa Anh và Pháp – hai
con hổ phương Tây tranh giành nhau những cơ hội thương mại với Trung Quốc qua
thành phố Bhamaw.
Thứ tư, thắng lợi của thực dân Anh trong cuộc chinh phục Miến Điện là do sự
suy yếu về các mặt kinh tế – chính trị – quốc phòng của triều đình phong kiến
Konbaung. Nguyên nhân chính yếu của tình trạng này là do các đời vua Miến luôn có
tham vọng chinh phục con người và mở rộng đất đai, các cuộc chiến tranh liên miên đã
33
làm cho đất nước Miến Điện rơi vào tình trạng kiệt quệ về kinh tế và bất ổn về chính
trị.
Thứ năm, Miến Điện nhanh chóng trở thành thuộc địa của Anh bởi thực dân
Anh hơn hẳn Miến Điện về trình độ phát triển. Đây là một sự thật lịch sử mà không ai
có thể chối cãi được. Phải đối đầu với một tên đế quốc thực dân được xem là công
xưởng của thế giới với những vũ khí tối tân hiện đại thì những mũi tên thô sơ và sự
thất bại của Miến Điện vào thời điểm bấy giờ là điều không thể tránh khỏi. Việt Nam –
Lào – Campuchia – Indonesia… và hàng loạt các quốc gia Đông Nam Á khác cũng
cùng chung số phận với Myanmar.
Như vậy, cho đến 1885, nền độc lập của hoàng gia Miến Điện chấm dứt, người
Anh đã hoàn thành việc kiểm soát Miến Điện. Hệ quả đưa đến là xã hội truyền thống
Miến Điện bị thay đổi nhanh chóng bởi sự sụp đổ của chế độ quân chủ và sự tách rời
giữa tôn giáo và nhà nước, khi đó bản chất kinh tế xã hội cũng bị thay đổi một cách
đáng kể [35, tr. 1].
2.1.2. Những chính sách đối với Phật giáo
Trải qua các triều đại phong kiến độc lập, dưới sự bảo trợ của nhà vua và sự
cúng kính của nhân dân, Phật giáo được truyền bá rộng rãi và phát triển thịnh vượng ở
Myanmar.
Ở Miến Điện, vua Miến là người có quyền hành và có trách nhiệm giữ gìn cho
đạo Phật được “tinh khiết”, là người bảo vệ đạo Phật. Mỗi vị vua khi xây dựng cung
điện cũng luôn quan tâm đến việc tạo dựng những ngôi chùa - thiền viện nhằm thể
hiện sự thành tâm và công đức của họ đối với đạo Phật. Kể từ thời vua Anwrahta trị vì,
và trong thời gian trị vì, trong vương quốc đã có hàng ngàn đền, chùa được xây dựng.
Theo một bài dân ca địa phương “tiếng cót két của những bánh xe bò”, đếm số những
ngôi đền chùa cho thấy ở Pagan có hơn 4000 - chính ước vọng tôn giáo cao đẹp là một
nhân tố giúp con người lao động quên mình. Chùa chiền thi nhau mọc lên khắp quê
hương Miến Điện và nơi đây được mệnh danh là “vùng đất chùa tháp - vùng đất của
Phật”.
Dưới sự bảo trợ của đức vua, các nhà sư không phải lao động, không phải phu
phen tạp dịch mà sống nhờ vào tặng vật của nhà nước và nhân dân. Vua cấp cho nhà
34
chùa rất nhiều ruộng đất hoặc cho hưởng thuế cả một vùng. Không những thế, chính
quyền còn ban phẩm trật, bảo trợ tổ chức đại giới đàn, tổ chức những kỳ thi Phật hoc,
tổ chức tang lễ đại qui mô cho những bậc cao tăng khi viên tịch, chư tăng chỉ được xử
trong tòa án Giáo Hội, nhà chùa có thể dung chứa những người phạm pháp biết quy y
hối cải, chư tăng và thân quyến khỏi đóng thuế… Ngoài ra chính quyền còn cho thiết
lập Hội Đồng Giáo phẩm, dưới sự điều khiển của vị Tăng Thống do nhà vua tuyển
thỉnh [18, tr. 319].
Để đáp lại sự ưu ái của chính quyền trong vai trò hộ đạo, Phật giáo dấn thân ở
Myanmar, giáo Pháp của Đức Phật từ trong kinh điển bước vào đời sống con người,
uốn nắn và nuôi dưỡng nhân dân Miến, tạo nên một tập thể con người từ vua – quan
đến thường dân đều cung kính và tin theo Phật giáo. Phật giáo chính là cuộc sống -
cách sống của người Myanmar. Nhà chùa chính là trường học, trẻ con đều học tập ở
chùa, được học tính và kinh kệ, văn học. Các bài thơ mà nhà sư dạy cho các em học
được lấy cảm hứng chủ đề từ Phật giáo. Trong đó có bài ca ngợi vua, có bài ca ngợi
Phật và có bài kêu gọi con người làm điều thiện. Chư tăng hành hoạt như người trung
gian giữa chính quyền và dân chúng. Họ giúp dân chúng tránh sự cai trị hà khắc, bất
công, họ giúp chính quyền bằng cách khuyên nhủ dân chúng tuân thủ pháp luật. Họ
còn thường can thiệp xin nhà vua miễn án tử hình, bảo vệ người nghèo khó, yếu hèn bị
quan chức hiếp đáp, bóc lột, đề nghị biện pháp giúp đỡ nạn nhân thiên tai, thiên
chuyển những viên chức chính quyền không được lòng dân, ngay cả can thiệp việc
chính quyền sung công bất động sản của dân.
Rõ ràng có một sự quan hệ tương liên mật thiết giữa chính quyền và Giáo Hội.
Đó là mối liên hệ tương duyên, tương trợ. Nhà vua một mặt hộ trì chánh pháp, mặt
khác thanh tịnh hóa thiền môn, loại trừ những phần tử không nghiêm túc trong tổ chức
Tăng Già – Sangha, mặt khác không để cho Giáo Hội trở thành một thế lực chính trị
độc lập làm thương tổn an ninh, trật tự quốc gia. Về phía Giáo Hội, ủng hộ vương
quyền đồng thời bảo vệ quần chúng khỏi ách độc tài, bóc lột qua ảnh hưởng đạo đức
và trí tuệ của hàng ngũ Tăng Già.
Nói như vậy không có nghĩa là vào thời quân chủ, Phật giáo luôn luôn được hậu
đãi, không gặp tai kiếp. Vua Thahanbwa, thế kỷ XVI, không những tịch thu tất cả bảo
35
vật trong chùa mà còn triệt hạ chư tăng. Ông tổ chức trai tăng, mời chư tăng đến kinh
thành Ava rồi ra lệnh tàn sát tập thể, 360 vị tăng bị sát hại cùng nhiều kinh sách bị tiêu
hủy. Vào thế kỷ XVIII, Alaungpaya ra lệnh quăng 3000 nhà sư người Môn dưới chân
voi vì cho những người này đã giúp dân Môn chống lại triều đình. Chùa chiền bị phá
hoại, bình bát và các vật dụng khác của chư tăng cũng bị hủy hoại [18, tr. 220].
Dù thế nào đi chăng nữa, nhà vua ở Myanmar vẫn là những vị “hộ pháp” đáng
kính và quan trọng bậc nhất đối với Phật giáo. Họ có nhiệm vụ bảo vệ Phật Pháp, duy
trì tính chất thuần khiết của Tăng Già, họ được mời tham dự hội bàn nội bộ Tăng Già,
nhất là khi có những tranh luận hay bất đồng ý kiến về giáo lý và giới luật. Thật vậy từ
khi nền quân chủ tại Miến Điện bắt đầu cho đến ngày cáo chung, nhà vua đã tích cực
tham gia, cung cấp phương tiện, cải cách giáo hội. Sau khi phái Sinhala (Sri Lanka)
được thành lập tại Miến Điện, được Tăng Già Miến Điện xem như mô hình gương
mẫu là nhờ sự can thiệp của vua Narapatisithu vào thế kỷ XII. Cũng như vậy, chính
vua Dhammazeti là người có công làm cho giáo phái này được ở vị trí độc tôn vào thế
kỷ XV bằng cách thanh lọc hàng ngũ Tăng Già, thanh lọc những phần tử không
nghiêm trì giới luật theo quan điểm của giáo phái Sri Lanka, loại trừ những vị sư làm
nghề phù phép, bói toán, tích lũy tài sản, những kẻ thiếu thành tín. Tất cả những biện
pháp dùng để thanh tịnh hóa Tăng Già đều do vua chủ xướng, chứ không phải do chư
tăng và chư tăng hoan hỷ hợp tác, theo gương nhà vua [18, tr. 221].
Cụ thể như sự xung khắc giữa hai phái Ekamsika và Parupana suốt hàng thế kỷ,
suốt bốn triều đại, phái nào cũng muốn được sự ủng hộ của triều đình cho đến thời vua
Bodipaya, nhờ sự quyết tâm của nhà vua mới giải quyết được. Nhà vua xen vào nội
tình của Phật giáo cho đến ngày tàn của chế độ, khi vua Mindon nhận thấy một số nhà
sư không nghiêm trì giới luật – ăn trầu sau giờ ngọ, hút thuốc, đi vào làng mang dù, đi
giày dép… vua dùng biện pháp mạnh bắt những nhà sư ấy tuân thủ giới luật.
Như vậy, cho đến thế kỷ XVIII, Phật giáo được xem là linh hồn của dân tộc –
quốc gia Myanmar, là thành trì vững chắc cho thế giới Phật giáo Tiểu thừa đã tồn tại
và phát triển một các rực rỡ dưới sự bảo trợ của chế độ quân chủ. Phật giáo giữ vai trò
trung gian là mối dây gắn kết các thành phần, các sắc tộc trong xã hội Miến Điện, và
vai trò ấy vẫn còn phát huy một cách hiệu quả cho đến ngày nay. Giáo lý Phật giáo
36
chính là nền tảng tư tưởng cho sự phát triển về đạo đức, tâm linh, ngôn ngữ, văn học
và nghệ thuật. Có lẽ, nền nghệ thuật Myanmar dường như chỉ dành riêng cho những
công trình tôn giáo hoặc xoay quanh đề tài tôn giáo. Nghệ thuật chủ yếu là một cách
để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Phật và những lời dạy của Ngài về hòa bình, thiện ý
và tình yêu. Từ buổi đầu của những nền văn minh và kéo dài cho đến ngày nay, khái
niệm nghệ thuật được hiểu gần như là một hình thức của sự thờ phụng trí tuệ Đức Phật
và nó gần như chẳng thay đổi gì mấy theo thời gian [23, tr. 26]. Cũng như các nền
nghệ thuật sơ khai khác, nghệ thuật Myanmar có nguồn gốc từ tín ngưỡng – Phật giáo.
Có rất nhiều sáng tác của các họa sĩ tài hoa đã hiến dâng tình yêu không chỉ của bản
thân họ cho Đức Phật. Những bức tranh tường thời trung đại có thể nhìn thấy ở những
ngôi chùa hang Po Win Taung của quận Monywa và chùa Ratna Theingu gần làng
Myauk Myay thuộc thành phố nhỏ Paleik. Còn những bức tranh tường thời kỳ Pinya
ngắn ngủi thì có thể nhìn thấy ở chùa Aung Myay Lawka thuộc làng Chaung Oo;
những ngôi chùa Yoke Son và Lawka Aung Myay của làng Kin Bun đều ở quận
Monywa; chùa Shinpin Sakyo ở Salay và trong nhiều ngôi chùa nhỏ khác rải rác khắp
vùng Thượng và vùng trung tâm Myanmar [23, tr. 21].
Mặc dù Miến Điện dưới sự cai trị của người Anh không phải là nước bị đàn áp
về tôn giáo như Sri Lanka. Việc Âu hóa ở Miến không diễn ra quá mạnh đến nỗi ảnh
hưởng nhiều đến đời sống văn hóa của người Miến, bởi vì Miến Điện do Anh cai trị
chỉ như một phần của Ấn Độ và thời kỳ thuộc Anh cũng ngắn hơn nhiều so với Sri
Lanka. Tuy nhiên, nhân tố quan trọng duy nhất phá vỡ xã hội truyền thống Miến Điện
chính là sự thờ ơ của người Anh đối với tăng đoàn Phật giáo. Nền văn hóa – lịch sử
của Myanmar luôn hướng đến Phật giáo, đây là nét đặc trưng riêng biệt của Myanmar
nhưng những kẻ đi chinh phục thực dân Anh đã cố tình làm ngược lại. Đây là một sai
lầm mà lịch sử đã thừa nhận trong chính sách cai trị của thực dân Anh.
Việc xóa bỏ chế độ quân chủ đã làm nảy sinh một vấn đề quan trọng về địa vị
của tổ chức Phật giáo dưới chế độ mới. Sau khi hoàn thành quá trình xâm lược và đặt
ách cai trị, nhà cai trị Anh đã có thái độ tiêu cực với Phật giáo. Những người đã từng
phục vụ lâu năm ở Miến Điện, nhất là đại tá (sau này là ngài Edward) Sladen – người
đã biết rõ vua Mindon, đã đề nghị chính phủ mới nên ủng hộ quyền lực Phật giáo
37
giống như các vị vua Miến Điện đã làm. Những nhà lãnh đạo Miến Điện có trách
nhiệm cũng góp phần gây sức ép và vị Thathanabaing - người có quyền lực và kiểm
soát tất cả những gì thuộc về tôn giáo, được vinh danh với danh hiệu cao quý dưới thời
vua Thibaw, đã dẫn đầu một phái đoàn tới gặp Frederick Roberts, viên Tổng tư lệnh
Anh, đề nghị đứng ra thuyết giảng để nhân dân thuần phục chế độ thống trị của Anh
nếu pháp quyền của Hội đồng tôn giáo (Thudhamma), như đã được thực hiện dưới thời
các vua, được khẳng định. Chính quyền Anh ở Miến Điện đã không thể thực thi những
yêu cầu đó do bị ràng buộc bởi tuyên bố của nữ hoàng Anh vào năm 1858, sau vụ binh
biến ở Ấn Độ, ra lệnh cho tất cả các quan chức Anh “không can thiệp vào đức tin hoặc
sự tôn thờ tôn giáo của bất cứ thần dân nào của ta, bằng không ta sẽ rất không bằng
lòng” [25, tr. 1050]. Lập trường của nhà cầm quyền Anh đã xóa bỏ quyền lực của các
tòa án tôn giáo không được đứng trên bộ luật hình sự và dân sự đã được thiết lập.
Chức năng pháp quyền của Hội đồng tôn giáo hầu như không còn gì.
Như chúng ta đã biết dân Miến cũng như dân các nước theo Phật giáo khác
trong vùng, có truyền thống cởi giày dép trước khi bước vào điện Phật ở chùa - nơi rất
linh thiêng, nhưng thực dân Anh đã từ chối làm điều đó. Thực dân Anh đã không thừa
nhận Phật giáo là quốc giáo như trước đây, làm suy yếu vai trò và địa vị của tăng lữ,
mối liên hệ giữa chính quyền và Giáo hội không còn được duy trì; đồng thời tước bỏ
nhiều đặc quyền đặc lợi như xoá bỏ quyền xét xử, không trợ cấp vật chất, hạn chế việc
dạy dỗ của tăng viện. Mặc dù vấn đề tôn giáo không quá đề cao trong mục đích xâm
lược của đế quốc Anh, khác với đế quốc Pháp; nhưng những nhà truyền giáo người
Anh đã hoạt động một cách tích cực trong suốt thời gian Anh cai trị Myanmar. Thiên
chúa giáo lần đầu tiên gia nhập Myanmar khoảng đầu thế kỷ XVII và có ảnh hưởng
nhất định đối với xã hội Myanmar thuộc Anh. Hiện nay có khoảng 5,6% dân số theo
Thiên chúa giáo. Phần lớn tín đồ Thiên chúa giáo là người Karen, Chin, Kachin và
người Miến theo Thiên chúa giáo dòng Baptis. Những thừa sai Thiên chúa giáo hoạt
động rất tích cực từ thời thuộc địa cho đến giữa những năm 1960, họ thành lập các
trường học, bệnh viện và các trung tâm cứu trợ xã hội. Sau năm 1962, những cơ sở này
bị chính quyền Myanmar quốc hữu hóa.
38
Giáo dục là một trong những lĩnh vực được thực dân Anh quan tâm và muốn
thay đổi cho phù hợp với các chính sách thống trị của chính quyền mới ở Miến Điện
đồng thời cũng là một phát pháo bắn trực tiếp vào Phật giáo. Theo truyền thống, giới
tăng sĩ giữ vai trò chủ chốt trong giáo dục và văn hóa nhằm thúc đẩy sự cố kết về mặt
xã hội. Việc mở các trường công và trường dòng là sự cạnh tranh trực tiếp với các
trường Phật giáo. Sự giảm sút ảnh hưởng của Phật giáo đối với nền giáo dục đã khiến
cho các nhà sư tăng cường hoạt động, họ muốn khôi phục ảnh hưởng của họ với tư
cách là những người thầy của nhân dân. Khi xưa, các hoàng tử – công chúa, ngay từ
nhỏ đã được dạy đọc các văn bản đơn giản và cuối cùng là những câu chuyện tôn giáo,
mục đích không chỉ để hiểu biết về Đức Phật, mà còn học cách đối nhân xử thế. Thỉnh
thoảng những ni sư cũng dạy cho những công chúa lớn, hoặc thậm chí cả những cung
phi và cung tần nếu nhà vua quyết định người đó cần học thêm về tôn giáo hay văn
học. Bổn kinh Jakata về Mahaw Thada, người sẽ trở thành Phật trong tương lai, là một
trong những văn bản được sử dụng để dạy trong hoàng cung, minh họa cho sức mạnh
hơn hẳn của trí tuệ, trên cả địa vị và sự giàu có. Trong nhiều thế kỷ, các trường học
của nhà chùa đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ dân trí của nhân
dân, đây cũng chính là một cách thức có hiệu quả để củng cố vai trò “quốc đạo” của
Phật giáo. Giáo dục cho cả nam và nữ luôn được ủng hộ và những người phụ nữ có
học thức luôn rất được kính trọng trong xã hội Myanmar - đây là một đặc điểm rất
khác biệt, đáng trân trọng và ca ngợi giữa Myanmar với các quốc gia trong khu vực
trong cùng thời gian. Việc đọc và viết được giảng dạy ở những tăng viện không chỉ
cho con vua mà còn cho trẻ con của những gia đình nông dân. Do nỗ lực của trường -
chùa, tỷ lệ biết chữ trong dân chúng rất cao. Cho nên, để làm suy yếu và đẩy lùi sức
ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội Miến Điện mà Anh đang cai trị, họ phải đối phó
một cách gián tiếp thông qua giáo dục.
Thế cho nên, Arthur Phayre - chánh cao uỷ đầu tiên của Miến Điện thuộc Anh
đã chủ tâm xây dựng chùa làm cơ sở cho cơ cấu giáo dục của các trường học được
chính phủ giúp đỡ bắt đầu xây dựng vào năm 1866. Kế hoạch của ông là đưa các môn
học thế tục vào các trường - chùa, nhà nước cung cấp sách, thiết bị và tiền để xây dựng
trường sở. Chương trình này bị thất bại vì rất ít nhà chùa chấp nhận sự trợ giúp của
39
chính phủ hoặc chấp nhận việc đưa các môn học thế tục vào chương trình giảng dạy.
Albert Fytche, người kế nhiệm Phayre; đã khuyến khích việc mở trường dạy tiếng
Miến cho thường dân. Nhưng các nhà sư vẫn không sẵn lòng hợp tác. Chính thái độ
không hợp tác của các nhà sư đã khiến cho kế hoạch làm suy giảm vai trò của giáo dục
tự viên không dễ gì thực hiện [25, tr. 1052].
Sau khi vùng Thượng Miến Điện bị Anh thôn tính, người đứng đầu Hội đồng
tôn giáo (Thathanabaing) đã cấm giáo dục thế tục trong các trường của tăng viện. Bên
cạnh đó, chính quyền Anh còn khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho sự thành lập và
hoạt động của các trường của chính phủ dạy song ngữ Anh - Miến cũng đã khiến cho
hệ thống giáo dục tăng viện bị sa sút. Sự sa sút của hệ thống giáo dục tăng viện có thể
được coi là kết quả của chế độ thống trị của Anh bởi sự phá hủy các yếu tố tôn giáo
trong giáo dục.
Như vậy, đối với các vùng đất mới chiếm thì người Anh luôn sử dụng thật tinh
vi và khéo léo công cụ tín ngưỡng để cai trị. Thay vì kỳ thị và đàn áp trực tiếp Phật
Giáo thì một mặt người Anh tìm cách cải đạo các dân tộc thiểu số và khuyến dụ họ
theo đạo Thiên chúa, còn một mặt thì ào ạt đưa người Ấn theo Ấn Giáo và Hồi Giáo
vào Miến Điện. Chính sách này thật hết sức thâm độc vì sẽ làm mất đi tính cách thuần
nhất của Miến Điện trên cả hai phương diện tín ngưỡng và nguồn gốc sắc tộc, nói một
cách khác là nếu muốn chiếm đất thì cũng phải phá tan bản sắc dân tộc của những
người sinh sống trên mảnh đất ấy. Mặc dù thực dân Anh không hoàn toàn thành công
trong cách cai trị này nhưng chính sự thờ ơ với Tăng Già cùng với sự tấn công trực
tiếp vào nền giáo dục tăng viện, thực dân Anh đã phá vỡ tính chất truyền thống của xã
hội Miến Điện, gây ra một sự tổn thất to lớn trong thế giới Phật giáo Myanmar.
2.2. Sự phát triển của Phật giáo giai đoạn 1824 – 1948
Kế nhiệm Bagyidaw là Tharrawaddy (1837 – 1846), trong cai trị đất nước,
Tharrawaddy đã có công lớn trong việc tu chỉnh và dịch công trình biên soạn của Đại
lão Hòa thượng Saddhammapajjoti sang tiếng Myanmar. Đây là một đóng góp rất lớn
trong việc hình thành Tạng Diệu pháp. Pagan Min (1846 – 1852), đã tiến hành lật đổ
và xoán ngôi vua cha là Tharrawaddy lên cầm quyền cai trị Myanmar. Kế tục sự
nghiệp của vua cha trong vấn đề Phật giáo, Pagan Min đã có môt sự ưu ái và đầu tư rất
40
lớn cho các học giả người Myanmar trong việc chuyển tải tất cả các công trình nghiên
cứu và văn bản từ tiếng Pali sang tiếng địa phương. Nửa đầu thế kỷ XIX, lịch sử đã ghi
nhận sự nở rộ các bản dịch từ tiếng Pali sang tiếng Miến, đáng kể nhất là Suttanta –
Trường Bộ kinh đã được tìm hiểu và nghiên cứu bằng tiếng bản xứ. Điều này có một ý
nghĩa rất lớn không chỉ cho giới Tỳ kheo mà ngay cả những người dân trong việc
nghiên cứu kinh tạng và Phật học. Các văn bản Phật học đầu tiên đã được biên soạn và
in ấn đẹp mắt với một chi phí rất thấp so với việc người dân phải thuê một người viết
các đoạn kinh phật trên lá cọ.
Về mặt chính trị, khi Pathein và Yangon bị mất vào tay người Anh, vương quốc
Ava bị mất quyền kiểm soát trên biển và ngày càng bị chi phối bởi sức mạnh phương
Tây. Vua Pagan Min bị phế truất, vua Mindon – anh trai Pagan lên thay thế và cai
quản đất nước.
Ngày nay, triều đại của vua Mindon (1852 - 1877) được biết đến như một sự
thần bí về một kỷ nguyên vàng trong tâm trí của người dân Myanmar. Không có chiến
tranh, bạo lực trong suốt 20 năm cai trị của đức vua, thậm chí nhà vua còn tuyên bố
không thích việc xử phạt bằng cách tử hình như đã làm trước đây. Đại tướng Fytche đã
ca ngợi vua Mindon là: “Không có gì nghi ngờ khi nói rằng ông là một vị vua giác ngộ
nhất trong các nhà vua đã ngồi trên ngai vàng Miến Điện” [26, tr. 128]. Nhà vua được
biết đến là một người có kiến thức uyên bác về lịch sử quốc gia - dân tộc, có khả năng
trong việc cai trị đất nước, là một con người tốt bụng và đáng nói nhất ông là một Phật
tử thuần hành, một đứa con ngoan của Đức Phật.
Vua Mindon đã chuyển kinh đô từ Ava về Mandalay – thủ đô hoàng gia Miến
Điện cuối cùng trước khi Anh sát nhập hoàn toàn vào năm 1886, nhà vua đã cải cách
và nâng cao kỷ luật tu viện, lập lại trật tự của tổ chức Sangha vì nhà vua nhận thấy một
bộ phận Tỳ kheo thực hiện các giới luật không nghiêm túc, có phần lỏng lẻo. Do vậy,
đức vua đã triệu tập một Hội đồng tôn giáo - Thudhama để thảo luận về đạo pháp và
giới luật nhằm nâng cao trật tự kỷ cương trong giới tu sĩ.
Thách thức lớn nhất vua Mindon phải đối mặt không chỉ là một vị vua Phật giáo
có nhiệm vụ chăm sóc đời sống tinh thần của thần dân trong lãnh địa riêng của mình,
mà còn trong các vùng lãnh thổ Myanmar bị người Anh chiếm đóng. Hơn nữa, ông và
41
nhiều vị Hòa thượng hàng đầu ngày càng nhận thức được rằng người Anh đã chỉ chờ
đợi một cơ hội để thôn tính toàn bộ của Myanmar. Quân đội của vua Mindon một cách
rõ ràng là không thể đứng lên để chống lại sức mạnh của thực dân Anh, nhưng một
khía cạnh nào đó nó là một công cụ quan trọng hỗ trợ cho các hoạt động tôn giáo trong
nước và cho các việc làm của một nhà vua ủng hộ Phật giáo như vua Mindon.
Thực dân Anh ngay từ đầu tỏ ra là một nhà cai trị không tiếp nối truyền thống
của vua Miến Điện trọng việc ủng hộ và bảo vệ Phật giáo. Tôn giáo mới – Thiên chúa
giáo, nhanh chóng xác lập sự ảnh hưởng thông qua các trường học hoạt động truyền
giáo. Sau khi Hạ Myanmar bị chinh phục, nhiều Tỳ kheo đã bỏ về Thượng Myanmar
để có thể sống và hoạt động dưới sự bảo trợ của nhà vua. Vua Mindon đã nhận thấy
đều này và khuyên nhủ các Tỳ kheo quay về để tiếp tục công việc và giúp đỡ nhân
dân, nhưng Hạ Miến lúc bấy giờ không có một tổ chức Sangha quản lý thì khi đó các
tu sĩ sẽ sống và hoạt động ngoài kỷ cương và giới luật. Nhà vua cố gắng nâng cao kỷ
luật của tu viện – trái tim của Phật giáo và nhà vua cũng cảm nhận được rằng các lễ
nghi tôn giáo chỉ còn là một hình thức cần thực hiện, đây là một bước sụt lùi của Phật
giáo. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của các vị hòa thượng cấp cao trong tổ chức Tăng đoàn,
nhà vua đã hoàn thành việc cải cách tu viện và giới luật.
Lúc bấy giờ xuất hiện một bậc cao tăng với tên gọi là Ngettwin Sayadaw, ngài
đã phát hiện ra việc thiền định là rất cần thiết cho tất cả các Tỳ kheo và những người
học Phật. Ngettwin Sayadaw không có ý định thành lập một giáo phái mới mà chỉ
thích tu ẩn dật với một pháp môn mới mà ông khám phá, ông khuyến cáo nhân dân
nên hạn chế việc cúng dường cũng như hoa trái trong các đền thờ mà cố gắng dành
nhiều thời gian để thực hành thiền định. Ngettwin Sayadaw thường xuyên được vua
Mindon tham khảo ý kiến và được xem như một vị quốc sư của quốc gia [26, tr. 132].
Ngày nay, Myanamar được biết đến là đất nước của các thiền viện nổi tiếng như:
Trung tâm thiền minh sát tuệ Dhamma Joti Wingaba Yele Kyaung, Trung tâm thiền
Chanmyay Yeiktha, Trung tâm thiền HMAWBI - Chanmyay Yeiktha, Trung tâm thiền
Mahasi Sasana Yeiktha Buddha Sasana Nuggaha Organisation… Hai vị Hòa thượng
nổi tiếng khác của triều đại vua Mindon xứng đáng được đề cập đến là Shwegyin
Sayadaw và Thingazar Sayadaw. Họ đã cố gắng cải cách Sangha và phong trào của
42
các ngài vẫn có giá trị và có uy tín cao ở Myanmar cho đến hôm nay. Đó là việc quy
định các nhà sư không được nhai trầu và hút thuốc sau buổi tối (Myanmar là nơi mà
người dân ăn trầu rất nhiều, có thể nhiều nhất thế giới, nam giới là những người ăn
trầu thường xuyên), tổ chức Sangha phải tự nổ lực cải cách để phù hợp với tình hình
mới mà không cần sự hỗ trợ của nhà vua.
Một việc làm đáng được ghi nhận của vua Mindon trong thời gian tại vị đó là
ông đã tổ chức thành công Đại Hội kiết tập Phật giáo lần V. Năm 1871, vua Mindon
đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ V, tại
thủ đô Mandalay, chính quốc vương làm người hộ pháp. Lần kết tập này lấy Luật tạng
làm trung tâm, khảo đính đối chiếu những điểm dị đồng của thánh điển, rồi đại chúng
cùng đọc tụng, trải qua 5 tháng mới hoàn thành. Sau đó nhà vua truyền lệnh đem văn
tự của 3 tạng đã được kết tập sắp xếp theo thể loại, rồi cho khắc trên 729 khối đá hình
vuông và đem cất vào trong chùa tháp Kuthodaw, dưới chân núi Mandalay và cho xây
45 tòa tháp Phật bao quanh ở bên ngoài. Thành quả kết tập này vẫn còn được bảo quản
tại cố đô Mandalay cho đến ngày nay. Bên cạnh đó, vua Mindon còn cho xây dựng
một cái lọng - hti trên nóc chùa Shwedagon nhằm đánh dấu sự thành công của Đại hội
kiết tập Phật giáo lần V. Sự thiêng liêng và sức hấp dẫn lớn lao của ngôi chùa vàng
Shwedagon có thể được ví với Angkor hùng vĩ của Campuchia hay cung điện Potala
Place Lhasa kỳ bí ở Tây Tạng.
Sự thắng lợi của Đại hội đồng Phật giáo thứ V và hình ảnh của chùa
Shwedagon nhắc nhở tất cả người dân Myanmar về tầm quan trọng của tôn giáo mà họ
theo đuổi, và nhấn mạnh một thực tế là vua và Hội đồng Thudhamma tu sĩ cao cấp vẫn
là người giám hộ của Phật giáo. Thẩm quyền của Hội đồng Thudhamma đã được tăng
cường rất nhiều ở Hạ Myanmar. Chùa Shwedagon được xem là một biểu tượng của sự
thống nhất tôn giáo ở Myanmar bất chấp sự chiếm đóng của Anh. Và Phật giáo sau
này trở thành điểm tập hợp cho sức mạnh của các dân tộc Myanmar đứng lên chiến
đấu cho độc lập dân tộc.
Sau cái chết của Mindon của năm 1877, con trai ông Thibaw lên ngôi. Là một
vị vua yếu đuối và không lỗi lạc như cha mình, Thibaw đã cai trị Miến Điện trong thời
gian rất ngắn (1878 – 1885). Năm 1886, ông bị mất vương quốc của mình cho đế quốc
43
Anh và bị lưu đày đến Ấn Độ. Sự vàng son của các triều đại phong kiến Miến Điện kết
thúc đánh dấu giai đoạn khó khăn của Phật giáo Myanmar: tôn giáo và chính quyền là
hai tổ chức độc lập, một sự khác biệt rất lớn trong truyền thống Miến Điện.
Có người cho rằng bản chất của cuộc khủng hoảng mà nhân dân Miến Điện trải
qua năm 1885 là khó khăn, chủ quyền quốc gia và tinh thần dân tộc hơn là tôn giáo.
Các bằng chứng cho thấy niềm tin tôn giáo, thói quen và các tổ chức từ thiện tiếp tục
phát triển rất nhiều bên ngoài thành phố của thủ đô. Tuy nhiên các nhà sư Miến Điện
không còn ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề quốc gia như họ đã từng làm trước năm
1885 mặc dù uy tín của các nhà sư trong nhân dân vẫn không thay đổi [42].
Một sự thay đổi và là một tổn thất to lớn cho Phật giáo Miến Điện sau khi
người Anh làm chủ quyền cai quản đất nước, đó là sự suy giảm quyền lực và vai trò
của Thathanabaing – người đứng đầu Hội đồng tôn giáo – Thudhamma. Những bản
báo cáo về vai trò của các Thathabaning từ thế kỷ XIX so với các thế kỷ trước cho
thấy họ chỉ còn là danh nghĩa và ảnh hưởng của các đạo luật về tôn giáo chỉ có tác
dụng trong một phạm vi hẹp.
Nếu như trước đây, việc bổ nhiệm một Thathanabaing mới là một sự kiện trọng
đại của quốc gia, do nhà vua chỉ trì, người được đưa ra bầu chọn phải được chọn lựa
rất kỹ và được sự tín nhiệm của cả nước; thì từ năm 1885 trở đi, thực dân Anh sẵn
sàng sắp đặt một vị Thathanabaing mới mà họ tự cho là thích hợp. Họ sẽ cung cấp và
đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của vị Thathanabaing mới, miễn sao ông làm tốt việc
vận hành tổ chức giáo hội tuân thủ theo những quy chế và sự cai trị của chính phủ
thuộc địa. Do đó, Thathabaing rất khó trong việc điều phối một tổ chức Sangha to lớn,
cho nên kỷ cương và kỷ luật bị xáo trộn và xem thường. Quyền lực và sức mạnh tôn
giáo đã suy giảm ở Myanmar.
Có một yếu tố quan trọng duy nhất trong sự thay đổi, xảy ra trong tình trạng
chính trị và ảnh hưởng đến Phật giáo trong suốt thời gian người Anh cai trị, không
phải là sự suy giảm quyền lực của Thathanabaing mà là sự vắng mặt của nhà vua.
Giáo hội Phật giáo truyền thống vào trước thời kỳ năm 1885 dựa vào sự hiện diện và
quyền lực của nhà vua; đó được xem là máu, là dinh dưỡng, là nguồn sống của Phật
giáo ở Myanamr. Cuộc xâm lược của người Anh, trục xuất nhà vua và loại bỏ ngai
44
vàng từ cung điện Madalay đánh dấu sự sụp đổ của các hệ thống đạo đức liên kết với
Phật giáo. Đó là cuộc khủng hoảng tâm lý quốc gia, một trong những nguyên nhân
mạnh nhất của biến động xã hội và đạo đức trong giai đoạn sau năm 1885 [42].
Một nhân tố nữa đánh dấu sự suy giảm vai trò chức năng của Phật giáo trong xã
hội Myanmar; đó là việc xuất hiện các trường thế tục của người Anh. Ở đó, họ dạy cho
trẻ con biết đọc, viết, tính toán và các môn khoa học khác, phục vụ hiệu quả cho cuộc
sống tương lai. Với chương trình đào tạo chuyên nghiệp mới và mang tính thực tiễn
cao, nền giáo dục tự viện của các tu sĩ bị đe dọa và tấn công, số lượng giờ dạy về tôn
giáo và đạo đức giảm hẳn, sự ảnh hưởng của giáo dục tự viện chỉ còn thấy phổ biến ở
nông thôn.
Như vậy, trong những năm tháng người Anh làm chủ Miến Điện, Phật giáo đã
chịu những tổn thất lớn lao, đây được xem là giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử
Phật giáo Myanmar. Phật giáo Myanmar cần phải làm một cuộc cách mạng để cứu vãn
thực trạng này. Các nhà sư Myanmar đã nhanh chóng hành động để bảo vệ tôn giáo
mà họ theo đuổi. Từ tư tưởng bảo vệ giáo lý cao đẹp của nhà Phật đã phát triển thành
một tư tưởng lớn trong việc giành lại độc lập dân tộc.
45
Tiểu kết chương 2
Kể từ khi người Anh đến và cai quản vùng đất Miến Điện (1886) cùng với sự ra
đi của các nhà vua Miến Điện đã làm cho Phật giáo mất đi một chỗ dựa vững chắc.
Từ năm 1824 đến 1948, Phật giáo Myanmar trải qua hai giai đoạn phát triển,
thịnh vượng trong giai đoạn đầu khi Phật giáo còn nhận được sự nâng đỡ của chính
quyền phong kiến; nhưng về sau khi người Anh có mặt ở Myanmar thì tôn giáo này
bắt đầu bị phân hóa, chia rẽ và không còn sự liên kết với chính quyền mới. Vai trò của
Phật giáo bị suy giảm nghiêm trọng trên bình diện xã hội ở Myanmar về tất cả các khía
cạnh mà nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Chức năng và vai trò của giáo dục tự viện bị
tụt dốc một cách đáng kể khi các trường thế tục được thành lập và thu hút lôi kéo trẻ
con đến trường vì tính thực dụng cao. Vai trò của tu sĩ như là những người thầy khả
kính của quần chúng cũng bị suy giảm một cách báo động. Mặc dù việc đầu tư cho
giáo dục là cần thiết trong một xã hội hiện đại, nhưng nó đã tạo ra một khoảng trống
cho hệ thống Phật giáo, nơi mà cả dân tộc Miến Điện gởi cả linh hồn và thể xác vì một
niềm tin mãnh liệt.
Vì thế các nhà sư đã tiến hành các hoạt động chống đối nhằm thiết lập lại các
trật tự cũ trong truyền thống Myanmar. Họ tiếp thu những tư tưởng mới từ Ấn Độ,
thành lập những tổ chức để phục hồi chức năng của giáo hội, kêu gọi và làm cảnh tỉnh
nhân dân đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa. Họ là những chiến sĩ tiên phong trên
chính trường Miến Điện, đã quyết tử vì đạo nghĩa và nền hòa bình dân tộc. Phật giáo
Myanmar đang chuyển mình trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
46
Chương 3.
VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Cũng như tất cả các nước thực dân khác, đế quốc Anh sau khi thôn tính và làm
chủ đất đai Miến Điện; họ đã tiến hành khai thác vơ vét triệt để tất cả nguồn tài nguyên
dồi dào về nhân lực và vật lực. Về chính sách cai trị của Anh có thể chia ra làm hai
thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất, bắt đầu từ sau khi kết thúc chiến tranh xâm lược Miến Điện
cho đến năm 1937 là năm mà thực dân Anh chủ trương Miến – Ấn phân trị; thời kỳ thứ
hai, từ năm 1937 trở đi. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ thứ nhất là thực dân Anh dùng
thủ đoạn lấy người Ấn trị người Miến, biến Miến Điện thành thuộc địa của thuộc địa
[13, tr. 334].
Trên lĩnh vực kinh tế, Miến Điện từng là nơi sản xuất gạo nhiều nhất ở châu Á
với sản lượng 350 vạn tấn/ năm. Mỗi năm thực dân Anh khai thác 100.000 cara ngọc
ruby, 500.000 tấn gỗ tếch và các loại gỗ quý khác, 27 triệu gallon dầu mỏ, 71.000 tấn
chì, 76.000 tấn thiếc, 7.500 tấn đồng, 43.000 tấn niken, 5,92 triệu ounce bạc 1,29 triệu
ounce vàng. Việc vơ vét tài nguyên, lũng đoạn và nắm mọi yết hầu kinh tế của nhân
dân Miến, đế quốc Anh đã biến Miến Điện thành một nơi cung cấp nguyên liệu và tiêu
thụ hàng hóa của chính quốc. Nông dân rơi vào cảnh phá sản bần cùng, công nhân thì
bị bóc lột một cách tàn khốc. Chính chính sách áp bức về chính trị và kinh tế của đế
quốc Anh đã làm cho mọi tầng lớp nhân dân Miến Điện hết sức bất mãn và căm phẫn.
Người dân Myanmar hầu như chẳng được lợi lộc gì từ những thay đổi về kinh tế
do chính quyền Anh đưa ra. Rất nhiều đất đai được chuyển thành đất canh tác với
lượng xuất khẩu đáng kể, song chúng chỉ có lợi cho giới cho vay lãi người Ấn và các
công ty Anh tham gia vào việc chế biến, vận chuyển và xuất khẩu thóc gạo. Nông dân
Miến cầm cố cây trồng và ruộng đất để mượn tiền giới cho vay lãi người Nam Ấn là
các Chettya, với lãi suất cắt cổ thời kỳ chiến tranh thế giới II là 50%, bằng không họ sẽ
bị tịch thu ¼ số đất canh tác để thế nợ. Việc chuyển nhượng đất vốn không được
truyền thống Miện Điện chấp thuận, nên người dân Miến lại càng lên án tính nguy hại
của việc chuyển nhượng này. Sự bất an và căng thẳng khủng khiếp cứ thế gặm nhấm
47
những người nông dân. Họ đi từ làng này sang làng khác; lắng nghe lời các lãnh tụ
chính trị, những người gắn làn sóng bọn cho vay lãi và công nhân người Ấn với chủ
nghĩa đế quốc Anh. Và chính tại vùng đồng bằng lúa gạo Hạ Myanmar này, chủ nghĩa
dân tộc đã nở rộ hơn cả [24, tr. 225].
Những gì xảy ra với lúa gạo thì cũng xảy ra với dầu, kẽm, chì, thiếc. Người Miến
chẳng được chút lợi ích nào từ việc khai thác mỏ hay rừng tếch. Tuyến đường sắt vòng
quanh đất nước còn tàu thuyền thì ngập tràn các hải cảng. Trong khi phần lớn vốn
cũng như công nhân đều từ bên ngoài, chủ yếu là của người Anh và Ấn, mà những kẻ
này đâu có chịu chia sẻ lợi nhuận với các cư dân Miến bản địa.
Cơ cấu hành chính Anh đã phá vỡ cơ chế cũ. Nó xóa bỏ các thủ lĩnh truyền thống
do họ cầm đầu các cuộc nổi dậy sau năm 1885, thay thế họ bằng những công chức làm
việc cho chính quyền Anh. Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XX, việc gộp nhiều
làng làm một và chịu sự cai quản của một thủ lĩnh đã làm giảm đáng kể số lượng
trưởng làng. Bên cạnh hạn chế về số lượng, các trưởng làng mới còn không gây được
lòng tin và sự trung thành ở lực lượng nông dân như hệ thống cai trị dựa vào giới
myothugyi – huyện trưởng đã từng đạt được trước thời thuộc Anh. Người Miến còn bất
bình trước sự nghi ngại cùng chính sách cách ly người Miến khỏi một số vị trí quan
trọng trong bộ máy hành chính. Các quốc gia Karen ở miền Tây Miến Điện được thực
dân Anh cho hưởng quyền độc lập theo Hiệp ước 1875 dưới sự bảo hộ của Anh. Thủ
lĩnh các quốc gia Shan ở miền Bắc được toàn quyền Anh tấn phong tước hiệu và ban
cho nhiều đặc quyền riêng dưới sự giám sát của người Anh. Ở khu vực người Kachin,
các thủ lĩnh địa phương được giao nhiều quyền lực hơn so với quốc gia Shan. Ở các
vùng dân tộc thiểu số thưa dân giáp Trung Quốc như tộc người Wa, Naga, Chin... thực
dân Anh cai trị gián tiếp bằng chế độ quan lại địa phương. Thực dân Anh đặc biệt nâng
đỡ người Karen, kích động mâu thuẫn giữa người Karen với người Miến. Tỷ lệ người
Karen được học hành, tuyển dụng làm việc trong cơ quan hành chính, bệnh viện... cao
hơn hơn hẳn người Miến. Người Miến không được tham gia quân đội hoàng gia.
Chính sách “chia để trị” của thực dân Anh nhìn bề ngoài là nhằm bảo vệ các dân tộc
nghèo kém phát triển, nhưng thực chất là nhấn mạnh sự khác biệt, duy trì và kéo dài sự
trì trệ ở các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là nhằm ngăn cản quá trình hòa trộn tự
48
nhiên về văn hóa giữa các sắc tộc. Hơn nữa, bộ máy tuyên truyền của thực dân Anh
không ngừng thổi phồng, xuyên tạc “tội ác” của các triều đại phong kiến Miến Điện
trước kia, vẽ ra hình ảnh sai lệch, xấu xa về người Miến trong con mắt của các sắc tộc
khác. Họ còn dùng Thiên chúa giáo mê hoặc dân tộc Karen, biến họ thành những tín
đồ ngoan đạo, vì tôn giáo mà hiềm khích với dân tộc Miến theo đạo Phật. Vì thế giữa
dân tộc Miến và Karen luôn xảy ra những cuộc xung đột đẫm máu mà người Anh
ngấm ngầm sắp đặt. Những sự thật đó là những bằng chứng rõ rệt nhất của thủ đoạn
phân hóa và ly gián một cách có kế hoạch của đế quốc Anh nhằm chống lại nhân dân
Miến và làm suy yếu phong trào đấu tranh của họ.
Nghiêm trọng hơn, thực dân Anh đã xúc phạm nền truyền thống của văn hóa
Miến Điện, ngang nhiên chà đạp lên những quy định, nguyên tắc truyền thống thiêng
liêng của đạo Phật, mang về Anh các tượng Phật quý, chuông quý của Miến Điện; tự
tiện đi giày, dép vào các đền, chùa của Miến Điện hoặc có những hành động khiếm
nhã đối với các sư sãi, đồng thời thẳng tay trấn áp mọi hoạt động phản kháng của nhân
dân Miến Điện.
Với lịch sử oai hùng hàng ngàn năm chinh phục, mở mang bờ cõi, người Miến
Điện chưa từng khuất phục bất kỳ kẻ thù nào đến xâm phạm, với họ thật khó khăn để
chấp nhận thực tế: đất nước bị biến thành một bang của Ấn Độ thuộc Anh. Ngay cả
tầng lớp trên của xã hội cũng coi việc đặt ngang hàng Myanmar với một tỉnh của Ấn
Độ là điều sỉ nhục đối với lòng tự hào của họ về Myanmar, một vương quốc cổ đại với
bao truyền thống vẻ vang, rực rỡ [24, tr. 226].
Nhìn chung dưới ách cai trị thực dân, những giá trị truyền thống lâu đời trong xã
Miến Điện bị phá vỡ một cách nhanh chóng. Bức tranh xã hội Myanmar bị xé toạc và
trở nên nham nhở bởi những mảng màu sáng tối, khi đậm khi nhạt mà thực dân Anh đã
cố tình tô điểm. Việc thực thi chính sách chia rẽ dân tộc và tôn giáo được xem là một
gam màu đậm nhất trong chính sách cai trị mà người họa sĩ thực dân đã cố tình tạo
nên. Đây được xem là một biện pháp vô cùng hữu hiệu và cực kỳ thâm độc trong
chính sách cai trị thực dân. Có lẽ ở đâu đó trên thế giới, không có nơi nào mà bức
tranh chính trị sắc tộc lại phức tạp và chồng chéo như ở Myanmar. Việc khoét sâu mâu
49
thuẫn dân tộc sẽ làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc chiến chống mục
tiêu chung là chủ nghĩa đế quốc Anh đang cai trị.
Tất cả những nhân tố vừa nêu đã thôi thúc ý chí và tinh thần dân tộc của nhân
dân Miến Điện nổi dậy chống lại thực dân Anh, giành độc lập dân tộc. Sứ mạng lịch
sử quan trọng này đã được lựa chọn và đặt trên vai những nhà sư – những con người
có một vị thế và sức ảnh hưởng lớn lao trong xã hội Myanmar. Thật là một điều lý thú
khi mà sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc ở Myanmar lại được châm ngòi
ở nơi mà sự ganh ghét – thù hằn – đố kỵ và nhất là chiến tranh bị lên án hơn bao giờ
hết. Nhưng trong thời điểm này, Phật giáo – tự viện chính là linh hồn, là quả tim của
cả dân tộc Myanmar, họ chỉ có thể thống nhất lực lượng và tìm được tiếng nói chung
dưới ánh sáng Phật pháp. Cho nên, các tăng đoàn Phật giáo đã trở thành nơi chặn bước
xâm nhập của văn hóa phương Tây cũng như là trung tâm phản kháng phương Tây nói
chung.
3.1. Phật giáo trong đấu tranh chống thực dân Anh
Năm 1897, tổ chức bảo vệ Phật giáo đầu tiên ra đời ở Mandalay, với tên gọi
“Buddha Sasana Noggaha – Hội Phật giáo”. Không lâu sau đó những tổ chức tương
tụ xuất hiện ở các thành phố khác như: Hội Ashoka ở Bassein năm 1902, Hiệp hội
pháp giáo ở trường Đại học Yangon 1904, Tổ chức Toàn Miến đầu tiên – Hiệp hội
Thanh niên Phật giáo – Young Men’s Buddhist Assocation” đã được thành lập 1906
tại Yangon. Với sự ra đời của các Hội này, Tăng Đoàn và các cơ sở tự viện trở thành
những trung tâm bảo vệ truyền thống tâm linh và văn hóa, chống lại sự xâm nhập Tôn
giáo và văn hóa Tây phương vào Miến Điện. Từ năm 1885 đến 1897, khắp lãnh thổ
Miến Điện nổi dậy phong trào chống Anh, phần nhiều do các vị sư lãnh đạo, khiến
Toàn quyền Anh tại Miến Điện viết lời nhận định tình thế: “Nếu có dấu hiệu tổ chức
chống đối nào, chư Tăng là những người đầu não. Không có một phong trào kháng
Anh nào có tầm cỡ, nếu không có nhà sư lãnh đạo” [5, tr. 93].
Hội Thanh Niên Phật Giáo Miến Điện được thành lập vào năm 1906 và thiết lập
các trường học Phật giáo, dạy cho giới trẻ ý thức về quốc gia và sự công bằng lẽ phải ở
trong Phật giáo đối với nhân sinh và xã hội. Đây là một việc làm có ý nghĩa rất lớn
trong việc thức tỉnh tinh thần dân tộc. Nhiều nhà trí thức và lãnh đạo quốc gia Miến
50
Điện xuất thân từ hội này và sau đó hội đổi tên thành Tổng Hội Phật Giáo Miến Điện,
do những thanh niên tân học lãnh đạo phát động phong trào chống Anh với tinh thần
bất bạo động của Thánh Gandhi ở Ấn Độ. Charles Crothwaite, phụ trách chương trình
bình định của chính quyền Anh tại Miến Điện nhận xét: “…Rất khó phân biệt thành
phần có ảnh hưởng lớn với tình hình chính sự và sự tích cực tham gia phong trào
chống lại chúng ta của những phần tử làm cách mạng. Khi một nhà sư trở thành một
lãnh tụ yêu nước, đó cũng chính là nhà yêu nước khoác áo ca sa. Rất nhiều kế hoạch chống đối chính quyền xuất phát từ trong chùa bởi những Pongyis” [5, tr. 94].
Từ mô hình ban đầu của Hiệp hội Thanh niên Thiên chúa giáo – YMBC, tổ chức
YMBA mở trường dạy theo giáo trình quy định của chính phủ, đồng thời đưa thêm bài
giảng Kinh Phật nhằm đối lập với các trường Thiên chúa giáo qua bài giảng về Kinh
Thánh. Các trường YMBA sớm trở thành điểm quy tụ cộng đồng xã hội và thức tỉnh
dân tộc. Họ đưa các tổ chức tôn giáo trở thành một giải pháp lá chắn chính trị an toàn
để phát huy tình cảm dân tộc. Đạo Phật trang bị một cương lĩnh chung cho những con
người đang bất bình trước sự thờ ơ và xâm hại của chính quyền thuộc địa đối với niềm
tin của họ. Hàng loạt đảng phái chính trị thời kỳ sau này đều do các cựu thành viên
YMBA đứng đầu.
Hội Phật giáo Thanh niên đánh dấu bước thế tục hóa của phong trào Phật giáo, là
sự dấn thân của Phật giáo vào trong chính trị và công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc ở Myanamr. Hội Phật giáo Thanh niên ban đầu là sự phát triển kế thừa các hội Phật
giáo trong nước trước đó, nhưng đồng thời cũng mang nội dung hàm ý chống lại tổ
chức Kitô giáo do chính quyền thuộc địa lập nên.
Người sáng lập Hội là U May Aung – luật sư tốt nghiệp tại Cambridge và luật sư
U Kin xuất thân trong một gia đình khá giả, từng du học ở châu Âu. Các hội Phật giáo
được giới kinh doanh dân tộc ủng hộ, nhiều công chức Myanamar cũng tham gia. Hội
Phật giáo Thanh niên tuyên bố mục tiêu truyền bá Phật giáo nên ngay cả chính quyền
thuộc địa cũng tỏ ý quan tâm, giúp 50% ngân sách hoạt động cũng như giúp lập các cơ
sở giáo dục của Hội. Trong các cơ sở này, ngoài Phật học, học sinh còn được học các
môn khoa học mới.
51
Năm 1911, Hội Phật giáo Thanh niên cho ra đời tờ nhật báo in bằng chữ Miến
Thuriah – nghĩa là Mặt trời, do U Ba Pe làm chủ bút, tờ báo góp phần đáng kể trong
việc thức tỉnh tinh thần dân tộc Myanamar.
Năm 1916, YMBA họp ở Hendada thông qua nghị quyết yêu cầu tất cả mọi
người, dù là người Âu hay người Á, đều phải đi chân đất trong các khu vực đền chùa.
Phong tục được tôn trọng lâu đời này đã bị người Anh xâm phạm, làm tổn thương tình
cảm tôn giáo, dân tộc thiêng liêng nhất của người Myanmar. Nghị quyết thổi bùng lên
phong trào hưởng ứng mạnh mẽ, và “vấn đề đôi giày” trở thành tiêu điểm của tình cảm
chống Anh bởi vì người Anh vẫn sẽ không muốn tháo bỏ đôi giày của họ khi đi vào
một ngôi chùa Phật giáo [17, tr. 312]. Nghị quyết cũng nâng cao uy tín của YMBA và
là cuộc đối mặt công khai đầu tiên với chính quyền thuộc địa. Nhưng đó là giới hạn xa
nhất mà Hội đạt tới khi đó. Trong đại hội, nhiều thanh niên trẻ muốn đẩy phong trào
lên mạnh hơn nhưng các người già muốn dừng lại. Họ hô hào nói tiếng Anh và thưởng
thức lối sống Tây và họ tự hào rằng họ là những người thượng lưu.
Mặc dù Myanmar là một tỉnh thuộc Ấn Độ nhưng vẫn bị đối xử khác biệt trong
những cải cách về chính trị. Do vậy, cải cách Mongtagu – Chelmsford năm 1919, cho
phép bầu cử để lựa chọn đa số của cơ quan lập pháp trung ương và một phần của bộ
máy hành pháp cấp tỉnh ở Ấn Độ, không được áp dụng ở Myanmar. Cùng thời kỳ,
chính phủ cho thông qua Đạo luật Đại học Yangon, song không giống với các trường ở
Ấn Độ, trường đại học mới này chưa có vị thế tự chủ. Nỗi nhục nhân đôi càng làm gia
tăng sự phẫn nộ [24, tr. 227]. Năm 1917, tại Đại Hội Phật giáo Thanh niên ở
Pyinmana, nổi lên là các lãnh tụ trẻ như U Ba Pe, U Chit Hliang. Trong khi tiếp tục
nhấn mạnh “vấn đề đôi giày”, Đại hội còn quyết định cử đoàn đại diện sang Calcutta
gặp Quốc vụ khanh về cải cách Mongtagu – Chelmsford, nêu nguyện vọng thành lập
chính phủ Myanamar tách khỏi Ấn Độ và áp dụng cải cách như nhau giữa hai nước.
YMBA đã phá tung cái vỏ tôn giáo, công khai bước vào con đường chính trị. Báo cáo
của Mongtagu – Chelmsford tháng 4/1918 đặt Myanmar ra ngoài phạm vi cải cách và
ghi rõ sẽ dành xem xét trong tương lai.
Năm 1918, một ủy ban đặc biệt đã đưa ra đề nghị tạo lập một thể chế cho riêng
Myanamar dựa trên tính khác biệt và trình độ phát triển cụ thể của đất nước. Thống
52
đốc Reginal Craddock bác bỏ đề nghị này, lấy lý do Myanmar thiếu kinh nghiệm trong
điều hành công việc quốc gia. YMBA quyết định trình bày yêu cầu với chính phủ
London. Ở London, phái đoàn YMBA tích cực hoạt động, gặp gỡ đại diện các giới và
tranh thủ được mối thiện cảm của một số chính khách cùng bộ phận công chúng Anh.
Tờ báo “Những người bạn Myanmar” ra đời cung cấp cho người Anh những hiểu biết
về Myanmar. Qua đó, nhiều người Anh mới vỡ ra rằng ngoài Ấn Độ, còn có một nước
Myanamar với lịch sử văn hóa văn minh riêng biệt. Tuy nhiên, chính phủ Anh thì vẫn
làm ngơ. Chuyến đi vừa thành công lại vừa thất bại [17, tr. 315].
Năm 1920 tại đại hội ở Prome, YMBA lúc này đã đổi tên thành Tổng Hội các
Liên đoàn Phật giáo – GCBA, do đa số trí thức trẻ Tây học lãnh đạo, đã đấu tranh theo
đường lối Gandhi chống lại nạn phân biệt, đồng thời đòi hỏi những cải cách tương tự
như ở Ấn Độ. Đại hội thông qua nghị quyết lên án kế hoạch Craddock, đòi thu hồi
ruộng đất chia lại cho nông dân, phát động phong trào tẩy chay hàng ngoại, dùng hàng
nội. Phong trào hưởng ứng diễn ra sôi nổi: khắp các nơi là khẩu hiệu “Craddock cút
đi”; nhiều nhà sư già chống gậy đi giữa các trung tâm buôn bán vận động nhân dân
dùng hàng nội. Phong trào mới mang tên Unthanu, nghĩa là Giống nòi riêng, in dấu vai
trò của giai cấp tư sản dân tộc [17, tr. 316].
Đỉnh cao của Unthanu là cuộc đấu tranh của sinh viên đại học Yangon. Ngày
20/10/1920, Đại học Tổng hợp Yangon chính thức được thành lập và đưa ra luật riêng
cho trường nhằm ngăn chặn ảnh hưởng cách mạng từ Ấn Độ. Luật quy định quyền
hành chính thuộc về một hội đồng do chính phủ bổ nhiệm, quyền học thuật thuộc về
ban giám đốc gồm các giáo sư Anh và các nhân viên cao cấp của cơ quan dân sự đại
học, không có đại diện Myanmar nào trong các ban này. Cho nên ngày 15/12, sinh
viên bãi khóa phản đối luật mà họ coi là phản dân tộc. Vượt quá giới hạn ban đầu của
cuộc bãi khóa thông thường, cuộc đấu tranh của sinh viên đã trở thành tiêu điểm của
một phong trào dân tộc mạnh mẽ và là thách thức công khai đầu tiên đối với chính
quyền Anh. Chính quyền Anh nhượng bộ sửa luật. Về sau, chính phủ Myanmar đã
quyết định lấy ngày 15/12 là ngày lễ dân tộc [17, tr. 317].
Năm 1921, vào lúc phía Anh có những phản hồi bằng việc mở rộng chính phủ
lưỡng quyền ở Myanmar, GCBA đã tăng cường các yêu sách của mình. Điều quan
53
trọng là họ đòi quyền kiểm soát cơ quan đảm trách về ruộng đất và nhập cư. Họ tẩy
chay các cuộc bầu cử hội đồng mới, đồng thời từ chối các vị trí điều hành trong nội
các mới, nơi đã chật cứng người Karen – Ấn Độ – Trung Quốc và người Anh, khiến
cho cải cách Mongtagu – Chelmsford trở thành trò lố bịch.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, một thế hệ nhà sư trẻ đã có đầu óc chính trị,
đã tiếp thu những tư tưởng của Đảng Quốc Đại cánh tả trong thời gian lưu trú tại Ấn
Độ. Năm 1921, đã bắt đầu lãnh đạo phong trào chống sự thống trị của Anh. Năm 1922,
chủ nghĩa dân tộc trong hệ thống Phật giáo đã đưa đến việc thành lập ra tổ chức
Sangha Sametggi với mục tiêu được tuyên bố là thúc đẩy sự tiến bộ của tôn giáo và
giáo dục theo đường lối dân tộc. Thành viên của Sangha Samettgi có mặt ở khắp nơi
để rao giảng việc bất hợp tác, không đóng thuế và tẩy chay. Các vị sư bắt đầu sử dụng
bộ áo cà sa màu vàng để che đậy các hoạt động chính trị. Nhưng các vị sư già lên án
hành động đó, đến năm 1921, Thathanabaing đã cấm các nhà sư tham gia chính trị
nhưng kết quả không thành công. Do đó, chính phủ Miến Điện thuộc Anh áp dụng
biện pháp mới để củng cố quyền lực của Thathabaing, và đặc biệt lập lại các chức
quan phụ trách về mặt tôn giáo để thi hành các quyết định của Thathabaing về vấn đề
kỷ luật. Nhưng khác với Thái Lan, ở Miến Điện không có việc đăng ký của các sư sãi,
và do đó trên thực tế không có quyền tước áo tu hành của các nhà sư. Các nhà lãnh đạo
bao gồm U Chit Hlaing và U Ba Pe, U Ottama - một nhà sư người Arakan, và U
Wisara cũng là một nhà sư đã tham gia vào chính trị để bảo vệ Phật giáo.
U Ottama đã từng tham gia cánh tả Đảng Quốc Đại Ấn, phong trào cải cách Phật
giáo ở Ấn Độ, từng sang Nhật và Sri Lanka. Năm 1918, ông về nước và từ đầu những
năm 1920 hiến cuộc đời cho sự nghiệp dân tộc. Ông viết bài, nói chuyện lên án chế độ
thực dân Anh, tuyên truyền cho mục tiêu tự trị và kêu gọi các nhà sư hòa mình cho
phong trào dân tộc. Ông cho rằng vì Niết bàn là giải thoát khỏi cảnh nô lệ sau khi con
người từ giã cõi đời, là thoát khỏi vòng luân hồi và vì người nô lệ không thể lên được
cõi Niết bàn, nên các nhà sư trước tiên phải tụng cầu cho sự giải phóng con người khỏi
sự nô lệ ngay trần thế, trên đất nước Myanamar. U Ottama tích cực góp phần thành lập
Hội liên hiệp các nhà sư, cũng như Hiệp hội Myanmar, lên tiếng chống chế độ thuế
cao, kêu gọi các phật tử đoàn kết với các tín đồ Islam và Hindu. Chính quyền thực dân
54
gán cho ông tội danh kích động bạo loạn và kết án ông 12 tháng tù giam vào năm
1921. Năm sau ra tù, ông lại lao vào đấu tranh. Năm 1924, ông lại vào tù. Năm 1927,
tự do, ông tiếp tục kiên cường đấu tranh. Năm 1938, ông hy sinh trong tù. U Ottama là
tấm gương sáng về tinh thần xả thân vì độc lập tự do của dân tộc [17, tr. 324].
Noi gương ông, nhiều nhà sư khác cũng đã hiến dâng cuộc đời cho cuộc đấu
tranh chung với những quan điểm mới mẻ. Sư U Wisara đã tuyệt thực khi bị bắt giam
vì ông không được mặc áo choàng nhà sư khi ở trong tù, ông cho rằng việc thoát khổ
nhập Niết bàn là đồng nghĩa với giải thoát khỏi vòng nô lệ chính trị, và cuối cùng ông
đã qua đời. Sư Sayado U Nye Ya thì tuyên bố rằng độc lập chính là Niết bàn trên thế
gian này, và chỉ thông qua đấu tranh chính trị, người Myanmar mới mong giành lấy
độc lập [17, tr. 324].
Sự nghiệp đấu tranh và sự ra đi của những nhà sư này đã truyền nguồn cảm hứng
mãnh liệt cho nhiều người Myanamar trong sự nghiệp đấu tranh chống lại sự cai trị
của Anh. Đặc biệt những người trẻ tuổi là những du học sinh đã được tìm hiểu về nền
dân chủ và sự độc lập. Họ đã mang những ý tưởng đó trở lại Miến Điện và bắt đầu tự
tổ chức để chống lại sự cai trị của Anh. Họ muốn vận hành một hệ thống giáo dục cho
riêng mình. Tại các ngôi trường, người Myanmar sẽ được học về lịch sử theo một cách
rất khác mà người Anh đã dạy. Và họ kết luận rằng người Anh không nên có mặt ở
Myanmar.
Năm 1929, khi phái đoàn Anh do Sir John Simon dẫn đầu, sang xem xét đòi hỏi
về hiến pháp của các nhà dân tộc Ấn Độ đưa ra đề xuất chia tách Myanmar. Đề xuất
này được xem như là “âm mưu đế quốc” dùng để cai trị Myanmar vô thời hạn. Bất
chấp sự phản kháng của nhân dân Miến, người Anh vẫn thông qua Đạo luật Cai trị Ấn
Độ năm 1935, chia tách Myanmar khỏi Ấn Độ. Đạo luật trao quyền tự trị cấp tỉnh cho
Myanmar, trong đó, vẫn “bảo tồn” quyền lực của thống đốc Anh. Cuộc khủng hoảng
những năm 1930 tác động khủng khiếp đến nền công nghiệp lúa gạo Myanmar, chất
chồng thêm những bức bối về kinh tế, chính trị trong lòng người dân. Trong khi giá cả
tụt xuống còn 1/3 mức cũ thì việc tịch thu tài sản để thế nợ, nạn thất nghiệp và tỷ lệ tội
phạm ngày càng leo thang. Bên cạnh đó nông dân Miến còn phải trả thuế Thathemada
– một loại thuế thân hàng năm. Chính vì vậy mà chính quyền Anh, giới cho vay nặng
55
lãi người Ấn trở thành tâm điểm đặc biệt để lực lượng nông dân – tá điền và lao động
nông nghiệp trút cơn thịnh nộ [20, tr. 228].
Khi đó nổ ra một cuộc khởi nghĩa nông dân với quy mô lớn tại vùng Hạ
Myanmar. Saya San là một cựu pongyi nổi tiếng lãnh đạo một cuộc đấu tranh của nông
dân kéo dài từ 1930 đến 1932. Từng là cựu lãnh đạo của GCBA, Saya San khai thác
chủ nghĩa tượng trưng truyền thống, mang đậm tính thần bí để khôi phục lại vương
triều Phật giáo và thu hút quần chúng nông dân tham gia một cách đông đảo. Trong
những năm 1920, GCBA có nhiều cơ sở ở vùng nông thôn. Nông dân lập ra các hội
Unthanu Athin đấu tranh chống chế độ thuế nặng nề và vô nguyên tắc, khủng bố bọn
lý trưởng ác độc, cường hào cũng như các nhân viên thu thuế, và tham gia phong trào
tẩy chay, có tới 300 hội. Đội quân nông dân của Saya San đi khắp các vùng quê, giết
hết nhân viên kiểm lâm người Anh và lao động người Ấn. Ngày 28/10/1930, Saya San
đã uống một thứ thuốc ma thuật. Sau khi bận đồ nhà sư vài ngày, ông tiến hành đăng
quang theo nghi lễ cổ xưa, lấy nước Thupannaka Galon Ragia, nhân danh Phật và các
thần linh ra lệnh cho quân đội Galon tiến lên (nông dân được tổ chức thành các
Galon). Các nghĩa sĩ Galon vẽ xăm hình chim Galon và nhiều hình bùa phép trên thân
thể. Nhiều người tin rằng các hình đó giúp họ khỏi bị thương khi xung trận. Ngày
20/12, khởi nghĩa bùng nổ. Hàng ngàn con người trong tay chỉ có giáo mác xông lên
đè bẹp sức cản phá của cảnh sát địa phương. Những người nông dân đã tấn công văn
phòng của người Anh, và người Anh đã đáp trả bằng bạo lực. Mặc dù với tinh thần
chiến đấu rất cao nhưng họ trở thành những tấm bia và bị giết dã man có khoảng
10.000 người chết, 9.000 người bị đày, Saya San bị kết án sau một phiên tòa dài đằng
đẵng năm 1937. Có thể nói, cuộc khởi nghĩa Saya San là nỗ lực cuối cùng nhằm đảo
chiều xu thế hiện đại hóa và phục hồi vương triều Phật giáo cũng như lối sống truyền
thống. Cuộc “trở về với quá khứ” của Saya San không thể thực hiện được trong điều
kiện đất nước đã có nhiều đổi thay. Khởi nghĩa của nhà sư Saya San được xem là bài
ca bi tráng của những người nông dân cùng khổ nhưng chưa tìm được con đường phù
hợp [17, tr. 327].
Sự thất bại của các cuộc đấu tranh tự phát của nhân dân Miến dưới sự lãnh đạo
của các nhà sư cách mạng đã chứng tỏ con đường đấu tranh mà nhân dân Miến đang
56
theo đuổi là không phù hợp; đồng thời kết thúc vai trò của các nhà sư trong công cuộc
đấu tranh của dân tộc, vai trò lãnh đạo cách mạng được đặt lên đôi vai và trí óc của
những nhà trí thức trẻ tuổi. Năm 1935, việc cố gắng nâng cao quyền lực của
Thathabaing bị giáng một đòn chí tử khi Tòa án tối cao Yangon, với phán quyết nhất
trí qua năm quan tòa đã quy định rằng Phật giáo không có một quy chế pháp lý đặc
biệt nào và cũng như các tôn giáo khác mà không do nhà nước lập nên. Trong sự hỗn
độn của cuộc chiến tranh chính trị giữa các phe phái tranh giành quyền lực, năm 1938,
chức vụ Thathabaing xem như không còn trong Hội đồng tôn giáo vì không có người
kế nhiệm [25, tr. 1057].
Vì sự vắng mặt của Thathabaing nên các vị sư sống ngoài vòng cương tỏa, họ
trở thành những người đầu tiên thắp lên ngọn đuốc đấu tranh, là những người đầu tiên
liên kết với cư sĩ, trí thức để tạo thành một mạng lưới chính trị chống đế quốc đầu tiên
trong những năm 1920 – 1930. Việc tham gia cách mạng của những nhà sư Miến Điện
không có gì khác hơn là đem lại độc lập dân tộc, phục hồi các giá trị phồn vinh của
ngày xưa, để người nghèo cũng có thể xây dựng chùa chiền; đó chính là hạnh phúc của
nhân dân. Mặc dù hoạt động của giới tu sĩ chỉ có tác dụng và bùng nổ trong một thời
gian nhất định, về sau thì lắng dịu hẳn do sự đàn áp của thực dân Anh, nhưng đã có
một tác dụng to lớn trong việc thức tỉnh tinh thần dân tộc ở Myanmar, kêu gọi các tầng
lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng vì quê hương đất nước.
3.2. Những cuộc đấu tranh quyết liệt cho nền độc lập và vai trò lãnh đạo của lực
lượng Phật giáo
Từ 1930 trở đi, nhiều thư viện mác xít đã được xây dựng, thu hút nhiều độc giả
trong giới thanh niên học sinh. Một học giả tư sản người Anh – James Ferniwall viết
về Miến Điện ở thời kỳ này như sau: “Thanh niên Miến Điện tìm hiểu rất say mê về
Nga và về chủ nghĩa Mác. Nhiều sách kinh điển mác xít đã được dịch ra tiếng Anh
và những quan niệm mác xít về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc đã ăn sâu vào
hàng ngũ trí thức trẻ tuổi. Chủ nghĩa cộng sản ở Miến Điện bắt đầu xuất hiện và dần
dần trở thành một lực lượng chính trị thực sự” [13, tr. 353].
Những tư tưởng cách mạng được truyền bá rộng rãi dần dần nâng cao trình độ
giác ngộ của quần chúng, càng tăng cường thêm sự đoàn kết của nhân dân lao động.
57
Từ những năm 30 trở đi, những tổ chức công hội đầu tiên của công nhân được bí mật
thành lập và hoạt động ở Miến Điện: công đoàn tài xế ô tô (1933), công đoàn đường
sắt và công đoàn khuân vác thành lập ở Yangon (1934), đến năm 1937 thì đã có 10
công đoàn. Sự thành lập các tổ chức công đoàn chứng tỏ rằng phong trào thợ thuyền ở
Miến Điện đã lên cao. Vladimir Ilych Lenin đã từng nói; sự xuất hiện của tổ chức công
đoàn là một bước tiến lớn lao của giai cấp công nhân ở mỗi một nước và là một bằng
chứng về sự chuyển biến của công nhân từ tình trạng rời rạc lẻ tẻ sang tình trạng đoàn
kết thống nhất giai cấp [13, tr. 354].
Phong trào đình công phát triển lên một mức cao hơn. Tiêu biểu là cuộc bãi công
của công nhân bến tàu Yangon (5/1930), bãi công của công nhân của các nhà máy xay
gạo lớn nhất ở Yangon (1935), bãi công của công nhân ngành dầu hỏa (1936). Giai cấp
vô sản Miến Điện tập hợp lực lượng, siết chặt hàng ngũ, nâng cao ý thức giác ngộ giai
cấp dần dần đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Sự bất ổn về hiến pháp trong những năm 1930 đã tạo tiền đề cho sự ra đời của
một số đảng phái chính trị. Tất cả chính đảng này đều ủng hộ cải cách ruộng đất, đồng
thời phản đối việc người Ấn và giới cho vay lãi nước này nhập cư. Có thể kể đến hai
đảng phái quan trọng nhất là Sinyetha và Thakin. Đảng Sinyetha (Đảng của người
nghèo) do tiến sĩ Ba Maw sáng lập. Ông trở thành Bộ trưởng Bộ giáo dục năm 1932 và
năm 1937 trở thành Thủ tướng đầu tiên theo đạo luật năm 1935. Sinyetha cổ xúy việc
giảm thuế, bảo vệ nông dân trước bọn cho vay lãi và giáo dục bắt buộc [24, tr. 228].
Nhưng quan trọng hơn là Đảng Thakin – người chủ, một nhánh tổ chức do sinh
viên Đại học Yangon khởi xướng năm 1929, có tên gọi là Dohbama Asiayone (Hội
Miến Điện của chúng ta). Đảng thu hút đông đảo sinh viên, giáo viên và các bộ phận
trí thức khác. Đảng Thakin thúc giục người Miến đứng lên làm chủ đất nước mình.
Người Anh trước kia vẫn thường yêu cầu người giúp việc Miến Điện dùng cụm từ
“Thakin” để xưng hô với họ. Giờ đây, sinh viên Đại học Yangon dùng cụm từ này để
nói chuyện với nhau thông qua đó nhấn mạnh sự bình đẳng với người Anh cũng như
khẳng định rằng họ mới là chủ nhân của chính mình. Đảng Thakin ủng hộ việc phục
hồi truyền thống văn hóa Phật giáo Miến Điện. Song, nó lại cứng nhắc phản đối hệ
thống giáo dục Anh, với thiết kế giáo trình chuyên cho những thành viên phục vụ
58
trong bộ máy chính quyền tay sai. Cơ cấu tổ chức Đảng khá chặt chẽ, với ban lãnh đạo
trẻ, phần lớn là trí thức Myanmar, lại là những người có mối quan hệ sâu rộng với tầng
lớp nông dân bị áp bức. Đảng tổ chức nhiều nhóm học tập, đa phần là người phe tả.
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội mà đa số hướng tới chủ yếu được xuất phát từ giới luật
nhà Phật về công bằng và công lý, hay từ sự phản kháng trước việc người nước ngoài
kiểm soát nền kinh tế Myanmar. Cũng như tất cả các đảng phái khác ở Myanmar,
Thakin không ưa gì cộng đồng người Ấn ở Myanmar, nhưng lại vô cùng tôn trọng
Đảng Quốc Đại Ấn Độ và ban lãnh đạo của nó. Năm 1939, Thakin hợp tác với các
lãnh tụ Ấn Độ trong vấn đề từ chối chung sức tham chiến với người Anh, đồng thời
cùng chia sẻ cảnh tù đày dưới ách thực dân [24, tr. 329].
Trong những năm 1935 – 1936, phong trào thợ thuyền phát triển mạnh, những
nhóm mác xít chân chính ra sức tuyên truyền vận động quần chúng chống lại chế độ
thực dân và gia nhập Đảng Thakin, làm cho Đảng này tăng thêm tính chất cách mạng
của nó. Những phần tử mác xít nằm trong tổ chức đảng bắt đầu làm công tác giáo dục
ý thức xã hội chủ nghĩa trong hàng ngũ thợ thuyền. Đứng trên lập trường của giai cấp
vô sản, Đảng Thakin đã công khai lên án chính sách áp bức bóc lột của đế quốc Anh.
Đảng Thakin là một đảng chính trị xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử Miến Điện, đã
vạch ra cương lĩnh đấu tranh của mình, nội dung đòi thủ tiêu ách thống trị của người
Anh, đòi Miến Điện được độc lập và kêu gọi nhân dân đứng dậy vũ trang chống thực
dân xâm lược.
Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng lên cao đã buộc thực dân Anh phải đi
đến chỗ nhượng bộ. Năm 1935, chính phủ Anh quyết định tách Miến Điện ra khỏi Ấn
Độ, nhưng đến tháng 4/1937 mới được thi hành. Theo đó, Miến Điện hưởng quy chế
của một thuộc địa riêng biệt của đế quốc Anh với chế độ nghị viện dân biểu. Những
năm 1938 – 1939, phong trào phản đế trong quần chúng nhân dân lại phát triển lên một
giai đoạn mới cao hơn. Tình hình đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến tới thành
lập Mặt trận thống nhất phản đế của nhân dân Miến.
Cuối năm 1938 đầu 1939, tại vùng dầu mỏ đã nổ ra một cuộc tổng bãi công chưa
từng thấy của trên hai vạn công nhân làm việc trong các mỏ dầu và các nhà máy lọc
dầu thuộc công ty khai thác dầu hỏa của người Anh (Burma Oil Company). Cuối năm
59
1938, công nhân mỏ dầu bị ép đến bước đường cùng liền tuyên bố đình công rồi rủ
nhau đi bộ, vượt qua một chặng đường dài 500km từ mỏ dầu đến thủ đô Yangon để
phản đối nhà cầm quyền và bọn tư bản độc quyền Anh. Một nghìn rưỡi người đói rách
tham gia cuộc hành trình bi đát này. Họ đã nhận được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân
dân. Tháng Giêng năm 1939, nổ ra cuộc tổng bãi công chính trị lan rộng khắp toàn
quốc, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào cách mạng giải phóng dân
tộc ở Miến Điện.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Thakin, Hội nông dân toàn quốc được thành lập,
thống nhất lại tất cả các nông hội ở Miến Điện trong một tổ chức duy nhất. Tại khóa
họp đầu tiên của Hội năm 1939 đã thông qua chương trình hành động 5 điểm. Tháng
Giêng 1940, Tổng công hội toàn quốc được thành lập, đánh dấu một bước tiến mới của
giai cấp công nhân Miến Điện, lúc này đã trở thành một lực lượng chính trị có tổ chức.
Trong thời kỳ Thế chiến II, Thakin chia làm ba nhóm. Đi theo con đường Chủ
nghĩa cộng sản có Thakin Soe và Thein Pe; Đảng Cộng sản chính thức ra đời năm
1943. Còn đông đảo đảng viên Thakin, trong đó có Aung San thì đi theo chủ nghĩa xã
hội dân chủ. Nhóm thứ ba bao gồm U Ba Swe, U Nu và những người không ưa tư
tưởng bè phái. Mặc dù Thakin là một đảng phái có uy tín và ảnh hưởng lớn lao trong
phong trào đấu tranh của nhân dân Myanmar, nhưng Thakin vẫn chưa đủ nội lực để tự
mình đưa Myanmar đến bến bờ tự do. Họ vẫn phải nhờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài,
Trung Quốc hay Nhật Bản.
Năm 1940, một đại diện của Nhật Bản là Đại tá Suzuki Keiji, đã liên hệ với
Thakin để đưa ra đề nghị trợ giúp quân sự nếu họ đồng ý đứng về phe Nhật trong cuộc
chiến trước mắt. Những người Cộng sản và nhóm Aung San đều phản đối đề nghị.
Aung San đặt hy vọng nhiều vào sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và ông
bí mật rời đến Thượng Hải. Cải trang thành thủy thủ người Hoa, mang theo lá thư giới
thiệu từ Đảng Cộng sản Ấn Độ, ông bị người Nhật mai phục tại Amoy, phía Nhật đề
nghị được huấn luyện “30 anh hùng” nổi tiếng của Aung San trên đảo Hải Nam. Đây
là lực lượng sẽ xâm nhập Myanmar và gây dựng nòng cốt Quân đội Độc lập Miến
Điện, sau này gọi là Quân đội Quốc gia Miến Điện (BNA), do Aung San làm tổng chỉ
60
huy. Mặc dù được Nhật giúp đỡ huấn luyện quân nhưng Aung San vẫn giữ quan điểm
chống chủ nghĩa phát xít Nhật.
Tháng 12/1941, Nhật đổ bộ lên Miến Điện, huênh hoang tuyên bố mình có sứ
mạng giải phóng các dân tộc châu Á khỏi ách người da trắng. Thật ra khi đồng ý giúp
Miến Điện trong việc đánh đuổi Anh thì Nhật Bản đã nuôi ý đồ chiếm Myanmar khi
Anh bị đẩy lùi, qua đó đóng cửa dòng vật liệu tiếp tế vào Trung Quốc để nhanh chóng
kết thúc cuộc xâm lăng Trung Quốc. Lúc này, phát xít Nhật đã lập ra tổ chức tình báo
Mianmi Kikan, gọi theo biệt danh của Suzuki – người đứng đầu tổ chức. Mianmi đảm
trách kế hoạch đóng cửa Con đường Miến Điện, huấn luyện người Myanmar.
Đến cuối tháng 1/1942, quân Anh rút khỏi toàn vùng Tanintharyi. Ngày 7/3,
thành phố Yangon bị chiếm. Quân Anh rút theo hai hướng: sư đoàn Ấn 17 tới Prome,
sư đoàn Myanmar 1 về Tungoo. Tháng 4, Anh rút khỏi Prome và Tungoo. Ngày 1/5,
Mandalay rơi vào tay Nhật, kế đó là Myitkyna vào ngày 17. Trên hướng các quốc gia
Shan, ngày 29/4, Nhật chiếm Lashio, cắt đứt con đường Miến Điện. Cuối tháng 5, hầu
hết lãnh thổ Myanmar được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Anh.
Tuy nhiên, khi người Anh rút đi thì nhân dân Myanmar lại phải đối đầu với một
kẻ thù nguy hiểm hơn đó là phát xít Nhật. Công cuộc tìm kiếm tự do cho dân tộc vẫn
còn phía trước đối với nhân dân Myanmar.
Khi Nhật hất cẳng Anh ra khỏi Myanmar, phần lớn người Miến, bị mê hoặc bởi
khẩu hiệu “Châu Á của người châu Á” của Nhật, đều trông đợi một nền độc lập tức
thời. Ngày 1/8/1943, giải thể hành chính quân sự Nhật, Myanmar tuyên bố độc lập với
người đứng đầu chính phủ là TS Ba Maw. Đổi lại, Myanmar phải tuyên chiến với phe
Đồng minh và cam kết ủng hộ, hợp tác trong việc xây dựng Khu vực Đại Đông Á
Đồng Thịnh Vượng. Tuy nhiên, nhiệt tình mà người Miến dành cho người Nhật sớm
tan thành mây khói do sự thờ ơ đến nhẫn tâm của quân đội Nhật đối với những cảm
xúc của người Miến. Kiểu hành động như vả vào mặt những người có uy tín trong
làng, cưỡng ép lao động, ra lệnh trưng thu gia súc, lúa gạo bắt buộc và không đền bù,
rồi các Phật tử còn tha hồ kinh ngạc khi đền chùa bị biến thành nhà vệ sinh, kinh Phật
bị đốt phá. Đây là điều nghiêm trọng nhất khiến người dân Miến không bao giờ nguôi
nỗi căm phẫn đối với quân Nhật. Cách thức bóc lột của nhà buôn chiến tranh tham lam
61
người Nhật càng làm tăng thêm suy nghĩ trong lòng người Miến rằng có thể trông đợi
gì đây vào Khu vực Đồng Thịnh vượng.
Những gì trải qua với người Nhật để lại nỗi thất vọng tràn đầy trong lòng các nhà
dân tộc Miến. Đầu năm 1944, nhân dân, chính quyền và quân đội đều bị lung lạc tinh
thần rồi đi đến chỗ suy sụp. Một đội quân kháng chiến gồm những người Cộng sản
hoạt động bí mật dưới sự chỉ huy của Thakin Soe, nay nhập thêm các nhóm người theo
chủ nghĩa dân tộc Thakin khác để tiến hành chống Nhật. Họ liên lạc với Quân đoàn
136 của Anh, lực lượng chuyên tổ chức và hỗ trợ các phong trào kháng chiến. Trong
lúc này, Aung San và các đồng chí của ông đã bí mật giao ước với Thakin Soe để tiến
hành hợp tác kháng chiến chống Nhật. Tháng 8/1945, tất cả các tổ chức bao gồm:
Đảng Cộng sản, Đảng Thakin, Đảng Xã hội, Đảng Ái quốc, Đảng Đại Miến, Hội Liên
hiệp thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Phật giáo, Hội những người Karen, Hội
những người Shan, Ủy ban dân tộc Karen; đều về dưới mái nhà chung của một tổ chức
mới thành lập, có tên gọi Liên đoàn Tự do Nhân dân chống Phát xít – AFPFT. Than
Tun, một lãnh tụ Cộng sản lão thành nắm cương vị Tổng bí thư, còn Aung San làm
Chủ tịch.
Bản tuyên ngôn của AFPFT được xuất bản và lưu hành bí mật, trong đó cam kết
xây dựng một “nhà nước của dân” với hiến pháp do toàn dân thông qua, bao gồm tự do
tư tưởng, ngôn luận, báo chí, hội họp, tôn giáo, đồng thời nghiêm cấm nạn phân biệt
chủng tộc, tôn giáo, giới tính hay thiểu số. Kế hoạch tức thời là tiến đánh du kích, cắt
đường cung cấp lương thực để làm suy yếu quân Nhật.
Ngày 27/3/1945, diễn ra cuộc nổi dậy dưới ngọn cờ AFPFT. Trong khi Quân đội
Tự do Miến Điện kiềm chân quân Nhật ở vùng đồng bằng Thượng Miến, gần Meiktila,
để trợ giúp cho quân Anh tái chiếm Myanmar. Lúc này, AFPFT đã thực sự phát triển,
thu hút tất cả mọi lực lượng dân tộc. Tháng 5/1945, nhân dân Miến Điện phối hợp
hành động quân sự với quân Đồng minh, đánh đuổi giặc Nhật ra khỏi đất nước. Ngày
7/3/1945, Nhật bắt đầu rút lui, AFPFL đã mở rộng phạm vi kiểm soát ở khắp
Myanmar.
Sau khi Nhật rút, người Anh khăng khăng đòi thực thi giai đoạn chuyển giao
quyền lực để có thể khôi phục nền kinh tế, các phương tiện liên lạc và bộ máy hành
62
chính đất nước, vốn bị tàn phá trầm trọng trong thời chiến. Trên thực tế, hệ thống giao
thông đường thủy cũng như đường sắt không hề được bảo dưỡng và các bến đậu đều
bị hỏng hóc trầm trọng. Tầng lớp thương gia và đa phần viên chức, luật sư, bác sĩ Ấn
Độ đã tìm về quê hương khi nổ ra các cuộc bạo loạn chống người Ấn năm 1938 hoặc
ngay sau khi nổ ra chiến tranh. Ngày 17/5, chính phủ Anh công bố Sách trắng về
Myanmar, theo đó thì Myanmar sẽ trải qua thời kỳ chính quyền quân sự và chế độ
thống đốc trong ba năm. Thống đốc có các quyền cố vấn, kiểm soát, giám sát một hoạt
động của một Hội đồng hành pháp. Nội dung Sách trắng chứng tỏ chính phủ Anh quá
lạc hậu, không tính tới một Myanmar từng độc lập – dù trên danh nghĩa, trong thời
Nhật chiếm đóng, một phong trào dân tộc từng trải đang phát triển sâu rộng và có thực
lực. Không quản ngại khó khăn, nhân dân Myanmar muốn người Anh biến ngay khỏi
đất nước mình. Với đông đảo đại diện chính trị dân tộc cộng thêm ban lãnh đạo cứng
rắn đứng đầu là Aung San, AFPTF đưa ra yêu cầu độc lập tức thời và trọn vẹn.
Những sự kiện diễn ra tại Ấn Độ đã đẩy nhanh bước tiến độc lập ở Myanmar.
Xem xét tình hình sau chiến tranh và phong trào dân tộc đầy nguy hại ở Ấn Độ, chính
phủ Lao động thời hậu chiến tại Anh quyết định rút chân khỏi tiểu lục địa. Cùng nhịp
với hoạt động rút lui quyền lực ở Ấn, tháng 10 năm 1946, người Anh yêu cầu Aung
San lập Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 1/1947, Anh tuyên bố bầu cử vào Hội đồng Lập
hiến. Hiển nhiên, AFPFT đĩnh đạc trở về vào tháng 4, vượt qua mọi đối thủ, đặc biệt là
phe Cộng sản. Tuy vậy, nhân dân Myanmar hân hoan niềm vui chưa được bao lâu thì
thật cay đắng, ngay tháng 7, Aung San và sáu đồng chí của ông bị ám sát bởi tay U
Saw, một kẻ đào ngũ khỏi AFPFT. Hắn muốn một chương trình cách mạng hơn,
nhưng không được đáp ứng. Định đổ lỗi lên đầu chính quyền Anh và kích động nhân
dân lao vào cuộc nổi dậy mà ở đó hắn là lãnh tụ tối cao. U Saw bị kết án và hành
quyết. AFPFT giờ đây dưới quyền U Nu sùng đạo, đã đưa Miến Điện giành lại độc lập
hoàn toàn từ tay Anh vào ngày 4 tháng 1 năm 1948. Myanmar trở thành nước cộng
hòa, với Thủ tướng đầu tiên là U Nu và Tổng thống Sao Shwe Thaik.
Như vậy, công cuộc đánh đuổi thực dân Anh và phát xít Nhật của nhân dân
Myanmar đã được hoàn thành. Vẫn còn rất nhiều những khó khăn sau ngày độc lập,
nhưng tầng lớp lãnh đạo Myanmar độc lập chủ yếu thuộc số ít người đẳng cấp cao
63
trong xã hội, hầu hết được hưởng nền giáo dục Anh quốc, ưa thích mô hình nhà nước
dân chủ và khuynh hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phản đối các mục tiêu kinh tế – xã
hội Cộng sản chủ nghĩa. Bản hiến pháp cho phép nhà nước có quyền hạn chế, nếu
không sung công tài sản tư (bao gồm cả tài sản của người nước ngoài) và quốc hữu
hóa các nguồn năng lượng tự nhiên, giao thông, các định chế tài chính cũng như các
hoạt động kinh tế khác, kể cả hoạt động chính là xuất khẩu lúa gạo. Bản hiến pháp
phỏng theo mô hình đại nghị Anh quốc, nhưng trên cơ sở hình thức cấu trúc lãnh thổ
liên bang, phân chia theo từng nhóm dân tộc thiểu số. Hội đồng dân tộc gồm 125 thành
viên đại diện cho các thành phần dân cư, phụ thuộc vào quy mô dân số của mỗi nhóm.
Hội đồng đại diện, Hạ viện, bao gồm 250 thành viên được bầu từ các đơn vị bầu cử
không phụ thuộc vào các sắc tộc. Nhánh hành pháp do Thủ tướng đứng đầu. Tổng
thống mang biểu tượng, do cơ quan lập pháp bầu lần lượt trong số các sắc tộc. Như
vậy, nền chính trị được xây dựng trên cơ sở bảo đảm cân bằng quyền lợi giữa các sắc
tộc khác nhau. Vấn đề sắc tộc ở Myanmar luôn là một thách thức cho những nhà cầm
quyền, việc giải quyết tốt vấn đề này sẽ là một sự khắc phục rất lớn những khó khăn
mà Myanmar đang đối mặt sau ngày độc lập. Điều quan trọng đối với quan hệ Anh –
Miến Điện là Liên bang Miến Điện non trẻ quyết định cắt mọi ràng buộc với Anh,
ngoại trừ các quan hệ ngoại giao thông thường, bằng việc không gia nhập Khối Thịnh
vượng Anh [24, tr. 229 – 231].
Như vậy, khi xem xét con đường đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
Myanmar, nổi bật lên hai vấn đề như sau:
Thứ nhất: vì sao Phật giáo là lực lượng tiên phong trong việc lãnh đạo công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc?
Thứ hai: vai trò lãnh của Phật giáo đối với cách mạng Myanmar chỉ giới hạn
trong buổi đầu quá trình đấu tranh giữ nước?
Myanmar dưới ách cai trị của chính quyền thực dân Anh không phải là một quốc
gia bị áp đặt nặng về vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, con bài tôn giáo được xem là một
con bài rất lợi hại trong chính sách thống trị của thực dân Anh.
Khi Thiên chúa giáo được nhân dân Myanmar tiếp nhận, người Anh sẽ đạt được
cái họ muốn đó chính là. Những người cùng tín ngưỡng tôn giáo lại có liên kết khá
64
chặt chẽ, họ bị ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật và chịu sự điều khiển của bộ máy tổ
chức giáo hội, họ sẽ trở thành một lực lượng xã hội không thể xem thường. Lực lượng
này có khả năng hỗ trợ chính quyền và trở thành một thế lực đối kháng lại thế lực Phật
giáo đang tồn tại ở Myanmar. Hai thế lực tôn giáo khác nhau về quan điểm - tư tưởng
sẽ tạo thành mâu thuẫn nội bộ, và nhanh chóng chuyển hóa thành mâu thuẫn đối kháng
sâu sắc. Vấn đề tôn giáo vốn là một vấn đề tế nhị và phức tạp. Nếu kết hợp cả vấn đề
tôn giáo và vấn đề dân tộc trong cùng một phạm vi địa lý thì sự phức tạp sẽ nhân lên
gấp bội; sẽ tạo thành “hai gọng kìm” để “bẻ gãy xương sống” của công cuộc cách
mạng, làm suy giảm sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh đuổi kẻ thù
xâm lược của nhân dân Myanmar. Người Anh đã rất khéo léo và khôn ngoan đưa giáo
hội tôn giáo vào cuộc chiến tranh chính trị. Việc tiếp thu một tôn giáo mới và trở thành
một thế lực đối kháng là sự đe dọa đối với địa vị của Phật giáo trong lòng dân tộc
Myanmar; đồng thời sẽ trở thành mối nguy hoại cho sự ổn định an ninh quốc gia dân
tộc. Do đó, những cuộc đấu tranh của Phật Giáo trong giai đoạn này luôn gắn với
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhưng rõ ràng là vai trò tập hợp và lãnh đạo nhân dân của Phật giáo ở Myanmar
chỉ giới hạn trong buổi bình minh cách mạng. Phong trào Saya San 1937 là phong trào
cuối cùng trước ngày giành độc lập mà quyền lãnh đạo thuộc về các nhà sư. Trong
suốt những năm tháng người Anh làm chủ mảnh đất này, họ đã thi hành chính sách bài
xích Phật giáo. Việc cắt đứt nguồn viện trợ về tài chính, làm suy giảm vai trò của giáo
dục tự viện đã giáng những đòn vô cùng mạnh mẽ vào giáo hội Phật giáo, gây cho
Phật giáo những tổn thất nặng nề. Sự phát triển của thời đại, việc tiếp thu các tư tưởng
dân chủ tiến bộ đã phá vỡ tính chất truyền thống của xã hội Myanmar. Cho nên uy tín
và vai trò thống trị xã hội của thế lực nhà chùa chỉ còn giới hạn ở vùng nông thôn. Bên
cạnh đó, hình thức đấu tranh được các nhà sư sử dụng là đấu tranh một cách tự phát để
đạt được mục tiêu là “khôi phục lại vương triều Phật giáo” đã từng tồn tại ở Myanmar
trong nhiều thế kỷ. Hình thức đấu tranh và mục tiêu đề ra bản thân nó không phù hợp
cho mục tiêu giải phóng dân tộc.
Sau hàng loạt sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa do các nhà sư lãnh đạo như U
Ottama – Saya San – U Wisara – U Thilaxa, Phật giáo quay về với chức năng nguyên
65
thủy của nó là: củng cố và xây dựng một nền đạo đức Phật giáo, tạo ra những con
người Myanmar hiền lành yêu chuộng cái đẹp và hòa bình, tạo nên một sức mạnh tinh
thần trong công cuộc đánh đuổi thực dân Anh và phát xít Nhật.
Kể từ sau ngày độc lập, với công cuộc chấn hưng Phật giáo, đi đầu là Thủ tướng
U Nu, các tăng sĩ lại xuất hiện trên chính trường chính trị. Sự đóng góp to lớn của U
Nu là ông đã tuyên bố Phật giáo là quốc giáo của Myanmar, tổ chức thành công kỳ kết
tập kinh điển Phật giáo lần thứ 6 vào năm 2497 – 2499 (Phật lịch), tức năm 1954 –
1961. Ngôi chùa Hòa Bình thế giới và Đại Thạch động được gọi là Mahaguha được
xem là mô phỏng của Pasana Maha Pasana Guha nơi kỳ kết tập lần thứ nhất diễn ra.
Kỳ kết tập đã khơi dậy nơi Phật tử Miến Điện một lòng nhiệt thành mới để khôi phục
lại vinh quang tôn giáo vốn đã từng tồn tại.
66
Tiểu kết chương 3
Ngày 4 tháng 8 năm 1948, Myanmar tuyên bố độc lập. Nền hòa bình mà nhân
dân Myanmar có được vào năm 1948 là cả một quá trình chiến đấu gian khổ, là sự đồng tâm hiệp sức của cả dân tộc, trong đó có vai trò quan trọng của Phật giáo.
Phong trào thức tỉnh dân tộc trước nạn ngoại xâm được khơi nguồn từ trong
phong trào chấn hưng Phật giáo. Những nhà sư cách mạng với mục tiêu phục hưng
một nền Phật giáo truyền thống ở Myanmar đã làm nên những cuộc đấu tranh mà lịch
sử Myanmar phải ghi nhận. Mặc dù các cuộc đấu tranh của họ chỉ mang tính chất tự
phát và bị dìm trong biển máu, nhưng trong một ý nghĩa nhất định, nó đã dần dần thổi
bùng ngọn lửa đấu tranh giành độc lập dân tộc cho nhân dân Myanmar.
Nhưng rõ ràng là vai trò tập hợp và lãnh đạo nhân dân của Phật giáo ở Myanmar
chỉ giới hạn trong buổi bình minh cách mạng. Phong trào Saya San 1937 là phong trào
cuối cùng trước ngày giành độc lập mà quyền lãnh đạo thuộc về các nhà sư. Trong
suốt những năm tháng người Anh làm chủ mảnh đất này, họ đã thi hành chính sách bài
xích Phật giáo. Việc cắt đứt nguồn viện trợ về tài chính, làm suy giảm vai trò của giáo
dục tự viện đã giáng những đòn vô cùng mạnh mẽ vào giáo hội Phật giáo, gây cho
Phật giáo những tổn thất nặng nề. Sự phát triển của thời đại, việc tiếp thu các tư tưởng
dân chủ tiến bộ đã phá vỡ tính chất truyền thống của xã hội Myanmar. Cho nên uy tín
và vai trò thống trị xã hội của thế lực nhà chùa chỉ còn giới hạn ở vùng nông thôn. Bên
cạnh đó, hình thức đấu tranh được các nhà sư sử dụng là đấu tranh một cách tự phát để
đạt được mục tiêu là “khôi phục lại vương triều Phật giáo” đã từng tồn tại ở Myanmar
trong nhiều thế kỷ. Hình thức đấu tranh và mục tiêu đề ra bản thân nó không phù hợp
cho mục tiêu giải phóng dân tộc.
Sau hàng loạt sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa do các nhà sư lãnh đạo như U
Ottama – Saya San – U Wisara – U Thilaxa, Phật giáo quay về với chức năng nguyên
thủy của nó là: củng cố và xây dựng một nền đạo đức Phật giáo, tạo ra những con
người Myanmar hiền lành yêu chuộng cái đẹp và hòa bình, tạo nên một sức mạnh tinh
thần trong công cuộc đánh đuổi thực dân Anh và phát xít Nhật.
Sau thất bại của phong trào Phật giáo do Saya San lãnh đạo 1937. Con đường đấu
tranh chống ách thống trị thực dân Anh và sau đó là phát xít Nhật ở Myanmar phát
67
triển dưới nhiều hình thức phong phú hơn: tự phát trong giai đoạn đầu, đấu tranh nghị
trường với hoạt động tích cực của Đảng Thakin – người chủ, đấu tranh vũ trang kết
hợp với “sự giúp đỡ có điều kiện” của phát xít Nhật. Đến cuối năm 1942, thực dân
Anh bị đánh bật khỏi Myanmar, nền độc lập của Myanmar được khôi phục một cách
tạm thời. Tuy nhiên, ngay khi thực dân Anh rời đi, thì phát xít Nhật đã đặt chân đến và
cai trị quốc gia này. Dưới ách thống trị thực dân cũng như họa phát xít, cả dân tộc
Myanmar oằn oại dưới gót giày quân xâm lược. Kinh tế – chính trị – văn hóa, mà nhất
là Phật giáo bị ngược đãi và bị đối xử vô cùng tàn nhẫn. Công cuộc đánh đuổi quân
Nhật lại tiếp tục. Nhờ sự kết hợp sức mạnh của toàn dân vào mặt trận chung chống
phát xít, nhận được sự giúp đỡ của quân đội Đồng minh và thời cơ ngàn năm có một
do sự suy yếu của phát xít Nhật, Myanmar đã giành được độc lập. Mười năm trước
ngày độc lập, trong những cuộc đấu tranh quyết liệt của dân tộc Myanmar, ngọn cờ
lãnh đạo đã không còn trong tay tầng lớp Phật giáo mà lịch sử đã chuyển giao cho tầng
lớp trí thức, tiểu tư sản.
Kể từ sau ngày độc lập, với công cuộc chấn hưng Phật giáo, đi đầu là Thủ tướng
U Nu, các tăng sĩ lại xuất hiện trên chính trường chính trị. Sự đóng góp to lớn của U
Nu là ông đã tuyên bố Phật giáo là quốc giáo của Myanmar, tổ chức thành công kỳ kết
tập kinh điển Phật giáo lần thứ 6 vào năm 2497 – 2499 (Phật lịch), tức năm 1954 –
1961. Ngôi chùa Hòa Bình thế giới và Đại Thạch động được gọi là Mahaguha được
xem là mô phỏng của Pasana Maha Pasana Guha nơi kỳ kết tập lần thứ nhất diễn ra.
Kỳ kết tập đã khơi dậy nơi Phật tử Miến Điện một lòng nhiệt thành mới để khôi phục
lại vinh quang tôn giáo vốn đã từng tồn tại.
68
KẾT LUẬN
Trong cuộc đời mỗi con người, có ít nhất một lần chúng ta chuẩn bị và tiến hành
những chuyến viễn du. Một quốc gia hay một nền văn hóa mới cần được chinh phục.
Việc tìm hiểu “Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar
từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX” cũng là một hành trình cho những ai bị
cuốn hút bởi vấn đề này.
Khi đến Myanmar, nếu chúng ta đặt câu hỏi: Ở Myanmar có bao nhiêu ngôi
chùa?; thì chắc chắn bất kỳ người Myanmar nào cũng sẽ đáp lại rằng: trên bầu trời có
bao nhiêu ngôi sao thì ở Myanmar có bấy nhiêu ngôi chùa. Những lễ hội ở Myanmar
luôn mang đậm màu sắc Phật giáo, tiêu biểu như lễ hội nước – Thingyan, lễ hội trăng
tròn – Kason, lễ hội Wazo tháng 7, lễ thắp đèn Tadugyut. Văn học và hội họa
Myanmar cũng chính là một thế giới Phật giáo thu nhỏ. Đặc biệt nhất là, con người
Myanmar – vừa là những Phật tử vừa là những công dân chất phác thuần lương.
Khi tìm hiểu về vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội Myanmar, chúng
ta càng khẳng định khía cạnh nhập thế của tôn giáo này. Phật giáo du nhập vào Miến
Điện thế kỷ III TCN, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập với nền văn hóa bản địa và
phát triển một cách mạnh mẽ trong các vương quốc Môn – Pyu thế kỷ V – X, sau đó
lan tỏa một cách nhanh chóng từ thế kỷ XI – XIII dưới sự trị vì của vua Anawrahta.
Thành cổ Pagan hiện nay là một minh chứng hùng hồn nhất cho sự hưng thịnh của
triều đại Phật giáo Anawrahta. Sang thế kỷ XIII – XVII, Phật giáo tồn tại một cách
mạnh mẽ ở Hạ Miến trong thời gian cầm quyền của Bayin Naung và có mối quan hệ
mật thiết với Phật giáo Sri Lanka. Thế kỷ XVII – XIX, là giai đoạn phát triển một cách
năng động của Phật giáo Miến Điện, nhiều kinh điển Phật học tiếng Pali được dịch và
biên soạn sang tiếng Myanmar, tạo sự thuận lợi cho việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp
cũng như việc truyền bá giáo lý tôn giáo này trong dân chúng. Dựa vào sự hộ trì chánh
pháp của các vua Miến mà Phật giáo đã có thể tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ
như thế. Nhà vua cung cấp tài chính cho các chùa và tổ chức Sangha để họ yên tâm
trong việc tu tập. Mối quan hệ giữa triều đình phong kiến Miến Điện và tổ chức Tăng
đoàn là mối quan hệ tương hỗ tốt đẹp. Một mặt, nhà vua ủng hộ, bảo vệ và duy trì Phật
pháp, mặt khác, các nhà sư giúp cho triều đình trong vấn đề giáo dục dân chúng sống
69
tuân thủ theo khuôn phép nhà nước, tạo ra sự ổn định xã hội. Đây là đặc điểm rất riêng
của Phật giáo Myanmar so với các nền Phật giáo khác trong khu vực và trên thế giới.
Xét về góc độ xã hội, nhất là trên lĩnh vực giáo dục, sự đóng góp của Phật giáo là
rất lớn. Myanmar là một trong những quốc gia có tỷ lệ học vấn (biết đọc biết viết) cao
nhờ vào giáo dục Phật giáo. Có 3 sự ảnh hưởng lớn trong giáo dục các tự viện (khu
vực sạch sẽ và rộng rãi), giáo thọ sư (hướng dẫn tri thức lẫn tinh thần) và nội dung
giảng dạy (Tạng Pali cùng với bản dịch tiếng Myanmar, số học, thiên văn học, y học
dân tộc, văn học Myanmar, chuyên ngành đạo đức và tôn giáo cùng với những cuốn
sách được viết trên lá bối. Trên thực tế, do sự thành tựu giáo dục Phật giáo, tỉ lệ biết
đọc biết viết tương đối cao (năm 1901 đạt 48.9%, năm 1911 đạt 50.1%). Khi so sánh
với các thuộc địa của Đế quốc phương Tây, tỉ lệ biết đọc viết của Myanamar thì cao
hơn.
Nhưng khi thực dân Anh xâm chiếm và cai trị Myanmar (1885), họ đã làm đảo
lộn tất cả những quy tắc, những giá trị truyền thống trong xã hội. Phật giáo bị xâm
phạm và tổn hại một cách nghiêm trọng. Nhà chùa và giáo dục tự viện không còn là
trung tâm của xã hội. Bên cạnh đó, chính quyền thực dân đã du nhập một tôn giáo mới
– Thiên chúa giáo để làm đối trọng và cạnh tranh với Phật giáo. Họ ngang nhiên xâm
phạm đến những tình cảm và sự tôn trọng tuyệt đối của nhân dân Miến Điện đối với
Phật giáo: mang giày dép vào chánh điện của những ngôi chùa – đây là điều tối cấm
kỵ đối với những quốc gia sùng bá đạo Phật như Myanmar.
Có thể nói, từ thế nửa cuối kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, là một giai đoạn cực
kỳ khó khăn và phức tạp cho sự phát triển của Phật giáo ở Miến Điện. Đó chính là sự
ngược đãi, sự tấn công từ những người cai trị không có cùng nền văn hoá và làm tổn
thương đến Phật Giáo. Sự cùng khổ của nhân dân kết hợp với ước vọng lớn lao của
các nhà sư là mong muốn khôi phục lại vương triều Phật giáo đã tạo nên một sức mạnh
nội lực để họ dấy lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng chống lại thực dân Anh. Tuy chỉ
tham gia trong buổi đầu của quá trình giải phóng dân tộc, nhưng U Wisara – U Ottama
– Sayado U Nye – Saya San đã trở thành những nhà sư bất tử trong lòng nhân dân
Miến. Khi phong trào đấu tranh tự phát của nhân dân do các nhà sư lãnh đạo thất bại,
con đường đấu tranh giải phóng dân tộc ở Miến Điện chuyển sang một giai đoạn mới.
70
Các Đảng phái lần lượt xuất hiện, tiêu biểu nhất là Đảng Thakin – người chủ do giới
trí thức lãnh đạo. Đây là lực lượng hạt nhân và giữ vai trò nồng cốt trong suốt quá
trình đấu ở Myanmar. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng tư tưởng mác xít trong quần chúng
lao động ngày càng rõ rệt, họ ngày càng giác ngộ được sự khổ đau của chính mình là
do thực dân mang lại. Cho nên, nhiều cuộc bãi công với quy mô lớn và có tổ chức chặt
chẽ liên tiếp diễn ra. Năm 1942, người Anh phải rút hoàn toàn khỏi Myanmar. Nền
độc lập của Myanmar được khôi phục một cách tạm thời.
Vừa thoát khỏi ách cai trị thực dân, nhân dân Myanamar lại đối mặt với những
thủ đoạn cai trị độc ác của phát xít Nhật. Phật giáo lại một lần nữa bị tổn hại khi quân
lính Nhật đã biến nhiều nhà chùa, biểu tượng của văn hoá Myanmar thành nhà vệ sinh.
Xúc phạm đến niềm tin, người Myanmar lại cùng các nhà sư và các lực lượng tiến bộ
đứng lên đấu tranh cho hòa bình, cho tự do và cho tôn giáo thiêng liêng mà họ sùng
bái. Sự tập hợp và đoàn kết toàn dân trong măt trận chung Liên đoàn Tự do Nhân dân
chống phát xít – AFPFT (1945). Phát xít Nhật bị đánh lui, thực dân Anh quay lại
nhưng cuối cùng nền độc lập của Myanmar cũng được công nhận vào tháng 1/1948.
I.S.Furnivalt trong “Chính sách và thủ đoạn của thực dân” có viết: Phật giáo là
khuôn thước của đời sống và tư tưởng xã hội của người Miến. Hai danh từ phật tử và
dân Miến trên thực tế vẫn đồng nhất và không thể tách rời. Tất cả đời sống chính trị,
xã hội tại Miến, từ hoàng thành cho tới thôn xã đều xoay quanh Phật giáo và tăng đồ
Phật giáo. Do đó, khi Phật giáo trở thành nguồn sức mạnh mềm thì “vai trò của Phật
giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu
thế kỷ XX” càng được khẳng định.
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Mai Ngọc Chừ (1998), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Quốc gia Hà Nội.
2. PGS.TS Nguyễn Duy Dũng (2013), Myanmar: cuộc cải cách vẫn đang tiếp diễn,
Nxb từ điển bách khoa.
3. GS.TS Phạm Đức Dương (2013), Lịch sử văn hóa Đông Nam Á, Nxb văn hóa
thông tin.
4. Trịnh Duy Hòa (2004), Đối thoại các nền văn hóa Myanmar, Nxb Trẻ.
5. Thích Thái Hòa (2012), Miến Điện mặt trời lên, chùa Phước Duyên Huế.
6. Trương Sĩ Hùng (2003) – Cao Xuân Phổ – Huy Thông – Phạm Thị Vinh, Mấy tín
ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á, Nxb Thanh Niên.
7. PGS.TS Nguyễn Văn Kim (2012), Lịch sử Đông Nam Á, tập 4, Nxb KHXH.
8. Nguyễn Đình Lê (1987), Đất nước chùa vàng, Nxb Giáo dục.
9. PGS.TS Ngô Văn Lệ (2003), Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông
Nam Á, Nxb ĐHQG Tp. HCM.
10. Nguyễn Bích Liên (1968), Miến Điện, Nxb Cơ sở Phạm Quang Khai.
11. Phan Ngọc Liên (1998) – Nghiêm Đình Vỹ – Đinh Ngọc Bảo – Trần Thị Vinh,
Lược sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục.
12. Lương Ninh (chủ biên) – Đỗ Thanh Bình – Trần Thi Vinh (2008), Lịch sử Đông
Nam Á, Nxb Giáo dục.
13. Chiêm Tế (1959), Phương Đông từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917 –
1959) miền Đông Á và Đông Nam Á, Nxb Văn sử địa.
14. Phạm Minh Thảo (biên dịch) (2004), Những ngôi chùa thần bí Myanamr, Nxb
Văn hóa thông tin.
15. Vũ Quang Thiện – Vũ Thị Oanh – Ngô Văn Doanh – Phạm Kim Hảo (1988),
Ở xứ chùa vàng (Tìm hiểu văn hóa Miến Điện), Nxb Văn hóa Hà Nội.
16. Vũ Quang Thiện (1997), Quá trình phát triển của Myanmar, Nxb KHXH
Hà Nội.
17. Vũ Quang Thiện (2005), Lịch sử Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội.
18. Trần Quang Thuận (2008), Phật giáo Miến Điện, Nxb Tôn giáo.
19. Trần Quang Thuận (2008), Phật giáo Nam Tông tại Đông Nam Á, Nxb Tôn giáo.
72
20. Lê Quốc Vinh (chủ biên) – Hà Bích Liên (1997), Các nhân vật lịch sử trung đại –
tập 1, Nxb Giáo dục.
21. Các nước Đông Nam Á (1976), Nxb Sự thật Hà Nội.
22. G. E . Coedès (2011), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, Nxb Thế giới.
23. TS Khnim Meung Ngunt – U Sen Myo Mint, người dịch Hoàng Hạc (2006), Hội
họa Myanmar – thế giới tâm linh và khát vọng, Nxb Giáo dục.
24. D.R.Sar Desai (2009), Đông Nam Á quá khứ và hiện tại, người dịch Ths Nguyễn
Thanh Hải – khoa Đông Phương học ĐHKHXHNV, Westview pres.
25. D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á (sách tham khảo), Nxb CTQG HN.
Tiếng Anh
26. Roger Bischoff (1998), Buddhism in Myanmar – A short history, Buddha Dharma
Education Associaion Inc.
27. H.V Bowen – Elizabeth Mancke and John G.Reid (2012), Britian’s Oceanic
Empire Atlantic and Indian Ocean worda 1550 – 1850, Cambridge university
press.
28. Joseph Dautremer (2013), Burma under Bristh rule, published by Forgotten
books.
29. Ian Harris (2007), Buddhism – Power and political order, Routledge Taylor &
Francis Group, London & New York.
30. Lieut – Geneeal Sie Aethur Phayee (1883), History of Burma including Burma
proper, Pegu, Taungu, Tenasserim, and Arakan, London: Teubner & co.,
Ludgate Hill.
31. G.H.Harvey (2000), History of Burma, Asian Educational Services.
32. Jerrold Schecter (1965), The new face of Buddha – Buddhism and political power
in southeast Asia, John Wealtherhill, Tokyo.
Luận văn
33. Luận văn “Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar (từ
năm 1948 đến nay) – Trần Khánh Tâm.
Bài viết của các tác giả nước ngoài
34. History of Burma from a Multi - ethnic perspective – The curculum project.
73
http://curriculumproject.org/wp-
content/uploads/History%20of%20Burma%20Student%20-
%2021%20Aug%2008.pdf
http://curriculumproject.org/wp-
35. History of Burma
content/uploads/History%20of%20Burma%20Student%20-
%2021%20Aug%2008.pdf
http://www.phil.uni-
36. The influence of Theravada in Myanmar society, by Khin Win Thanegiby
passau.de/fileadmin/group_upload/45/pdf/conferences/paper_mathanegi.pdf
37. Politics and religion in contemporary Burma: Buddhist monks as opposition, by
Syed Mohammed Adha Aljunied Nanyang Technological University, S
Rajaratnam School of International
http://yonseijournal.files.wordpress.com/2012/08/politics-and-religion-in-
contemporary-burma.pdf
38. The role of Civil society in Promoting Democracy, Good Governance, Peace and
National Reconciliation in Myanmar, by Peter Sang Lian Thang
http://brage.bibsys.no/hia/retrieve/7187/Sang,%20Lian%20Thang%20Peter%2
0oppgaven.pdf
39. The role of monkhood in contemporary Myanmar society, by Sylwia Gil,
Specialist on South East Asia and Theravada Buddhism, Warsaw, Poland, 2008
http://library.fes.de/pdf-files/iez/05699.pdf
http://assets.cambridge.org/97805217/80216/sample/9780521780216ws.pdf
40. The making of modern Burma – Asset – Cambridge University Press
http://www.sasnet.lu.se/EASASpapers/19SwapnaBhattacharya.pdf
41. A Close View of Encounter between British Burma and British Bengal
42. Buddhist religion in Burma before and after 1885
http://himalaya.socanth.cam.ac.uk/collections/journals/bot/pdf/bot_1978_01_01.p
df
43. http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/013-albert.htm
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
PHỤ LỤC 1
Đế quốc Toungoo
Nguồn:
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/13/Map_of_Taungoo_Empire_(158
0).png
PHỤ LỤC 2
Đế quốc Konbaung
Nguồn:
http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/01/konbaung.png?w=331&h=
353
PHỤ LỤC 3
Miến Điện (Myanmar)
Nguồn: http://kachinlandnews.com/wp-content/uploads/2014/04/burmesemap.gif
PHỤ LỤC 4
Ba cuộc xâm lược của Anh ở Myanmar
Nguồn: http://donlehmanjr.com/SEA/SEA9%20Chap/SEA9Ch31%20P1.png
PHỤ LỤC 5
Vua Anawrahta (1015 – 1078) Vua Mindon (1853 – 1877)
History of Burma from a Multi - ethnic perspective – The curculum project.
Nguồn:
http://curriculumproject.org/wpcontent/uploads/History%20of%20Burma%20Student
%20-%2021%20Aug%2008.pdf
PHỤ LỤC 6
Nhà sư U Ottama
History of Burma from a Multi - ethnic perspective – The curculum project.
Nguồn:
http://curriculumproject.org/wpcontent/uploads/History%20of%20Burma%
20Student%20-%2021%20Aug%2008.pdf
PHỤ LỤC 7
Thánh địa Pagan
Nguồn: http://infoland.com.vn/KhachHang/TinTuc/print.aspx?id=2014020103
PHỤ LỤC 8
Chùa Shwedagon
Nguồn: http://phonuipleiku.org/forum/viewtopic.php?f=122&t=2700
PHỤ LỤC 9
Chùa Ananda
Nguồn: http://aseanvacation.com/attraction/Images/23/23-Ananda-Temple-Bagan-
Myanmar.jpg
PHỤ LỤC 10
Golden Rock
Nguồn: http://phonuipleiku.org/forum/viewtopic.php?f=122&t=2700