BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Trương Ánh Ngọc

VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG

CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI MYANMAR TỪ CUỐI

THẾ KỶ XIX ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Trương Ánh Ngọc

VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG

CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI MYANMAR TỪ CUỐI

THẾ KỶ XIX ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

Chuyên ngành : Lịch sử Thế giới

Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ BÍCH LIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là một công trình nghiên cứu độc lập, những trích

dẫn nêu trong luận văn đều chính xác và trung thực.

An Giang, tháng 9 năm 2014

Tác giả luận văn

Lê Trương Ánh Ngọc

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, trước hết tôi xin cảm ơn các thầy cô trường

Đại học An Giang, Phòng Quản lý sau Đại học của trường Đại học Sư phạm TPHCM

đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ.

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô hướng dẫn khoa học TS

Hà Bích Liên cùng tập thể thầy cô khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã

tận tâm giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.

Tôi xin chân thành gửi lời tri ân đến cán bộ thư viện Đại học Sư phạm TPHCM,

Khoa học tổng hợp TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình hoàn

thành luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng nghiệp và người thân

đã quan tâm giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian của khoá học.

An Giang, tháng 9 năm 2014

Tác giả luận văn

Lê Trương Ánh Ngọc

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

DẪN LUẬN .................................................................................................................... 1

1.1. Myanmar – vùng đất của Phật ......................................................................................... 8

Chương 1. PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR ............... 8

1.1.1. Vị trí địa lý.................................................................................................. 8

1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Myanmar .............................................................................. 13

1.1.2. Bức tranh các tộc người .............................................................................. 8

1.2.1 Những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo .............................................. 13

1.2.2 Phật giáo ở Hạ Miến (từ thế kỉ V – XI) ..................................................... 14

1.2.3 Phật giáo Tiểu thừa đến Pagan (thế kỉ XI - XIII) ...................................... 15

1.2.4. Phật giáo ở Myanmar (thế kỉ XIII – XVII) .............................................. 19

1.2.5. Phật giáo ở Myanamar (thế kỉ XVII – XIX) ............................................ 21

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 26

2.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar và những chính sách đối với Phật giáo ................. 27

Chương 2. PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948 ... 27

2.1.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar ......................................................... 27

2.2. Sự phát triển của Phật giáo giai đoạn 1824 – 1948 ....................................................... 39

2.1.2. Những chính sách đối với Phật giáo......................................................... 33

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 45

Chương 3. VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU

3.1. Phật giáo trong đấu tranh chống thực dân Anh ............................................................ 49

3.2 . Những cuộc đấu tranh quyết liệt cho nền độc lập và vai trò lãnh đạo của lực lượng

Phật giáo ....................................................................................................................... 56

NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ..................... 46

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 66

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 71

PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

1

DẪN LUẬN

1. Lý do chọn đề tài

Đạo Phật là một trong những hệ tư tưởng cổ xưa nhất trên thế giới, vừa là triết

học vừa là tôn giáo. Đó là một hệ tư tưởng bắt nguồn từ quá khứ xa xưa nhưng triết lý

của Đạo Phật vẫn tiếp tục phát triển trong thế giới hiện đại. Nhận xét về vấn đề này,

nhà vật lý học thiên tài Enstein đã khẳng định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu

với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại

quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật

giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật

giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” [43]. Xét trên nhiều khía

cạnh, Phật giáo không chỉ đơn thuần là một tôn giáo mà còn là một ngành khoa học, và

có những đóng góp nhất định cho xã hội loài người.

Năm 250 BC, một vị hoàng đế vĩ đại Ashoka đã có công trong việc thống nhất

Ấn Độ cổ đại và truyền bá tư tưởng Phật giáo trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Nhiều thế

kỷ sau đó, dưới sự bảo trợ của Ashoka, Phật giáo đã vượt ra khỏi quê hương nó được

sinh ra và lan tỏa ra nhiều nơi trên thế giới.

Trong quá trình Phật giáo phát triển, Phật giáo một mặt đã có ảnh hưởng đến

các nền văn hóa mà nó thâm nhập để truyền bá; mặt khác, nó cũng bị bản địa hóa và

phân hóa thành các giáo phái. Có ít nhất 18 giáo phái trong đó có hai phái chính:

Theravada Buddhism – Phật giáo Tiểu thừa được phổ biển ở Nam và Đông Nam Á,

Mahayana Buddhism – Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Bắc và Đông Á. Chính điều

này tạo nên sự sinh động và phong phú trong thế giới Phật giáo đầy màu sắc.

Mặc dù không phải là một trong bảy quốc gia có được “Bảy kỳ quan của thế

giới Phật giáo” (Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka, Thái Lan, Campuchia, Hong Kong, Mỹ),

nhưng Myanmar được cả thế giới biết đến như là một vùng đất vàng, một vùng đất của

Phật.

Là một quốc gia nằm không xa Việt Nam, với hơn 2500 năm Phật giáo

Theravada ngự trị, Myanmar thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế với những

tháp chùa lấp lánh ánh vàng, với những con người chân chất thuần lương; bởi lẽ, Phật

giáo là đạo đức cơ bản của xã hội Myanmar từ trong quá khứ cho đến hiện tại.

2

Năm 1954, Đại hội Phật Đản được tổ chức thành công ở chùa Kaba Aye – Chùa

Hòa Bình Thế Giới, nơi họp mặt của 2500 vị đại biểu các quốc gia trên thế giới, tượng

trưng cho 2500 đệ tử Phật thời Phật tại thế. Năm 1960, U Nu lãnh đạo khối Phật giáo,

đắc cử một cách vẻ vang, thành lập chính phủ dân sự. Tháng 10/1962, ông đưa ra dự

thảo đạo luật lấy Phật Giáo làm Quốc giáo. Để trấn an những tôn giáo khác, ông chủ

trương tự do tôn giáo, triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Năm

1980, trường Đại Học Phật giáo được thành lập tại Yangon và Mandalay.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử của đất nước Myanmar, Phật giáo nổi bật lên với

vai trò là một lực lượng kết nối các thành phần trong xã hội vốn chứa đựng những bất

đồng sâu sắc về mặt sắc tộc và tôn giáo.

Những thập niên cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế XX (1885 – 1948), là một

giai đoạn có nhiều sự biến động trong xã hội Myanmar. Cùng chung số phận với hầu

hết các quốc gia Đông Nam Á khác, Myanmar rơi vào sự thống trị của chủ nghĩa thực

dân Anh và sau đó là phát xít Nhật. Dưới ách cai trị và đô hộ của kẻ đi xâm lược, xã

hội truyền thống Miến Điện bị thay đổi nhanh chóng bởi sự sụp đổ của chế độ quân

chủ và sự tách rời giữa tôn giáo và nhà nước, bản chất kinh tế xã hội bị thay đổi đáng

kể, trong đó có sự du nhập Kitô giáo vào Myanmar.

Những biến động đó của lịch sử, hiển nhiên có sự tác động đến sự phát triển của

Phật giáo Myanmar. Nhưng cho dù thế nào, trong suốt giai đoạn này, Phật giáo vẫn

tiếp tục là một nhân tố không thể tách rời trong xã hội Myanmar, Phật giáo – Tăng già

đã kết hợp tinh thần Phật giáo với tinh thần dân tộc trong quá trình đấu tranh giải

phóng dân tộc, cũng như đã có những đóng góp to lớn trong đời sống xã hội ở

Myanmar.

Sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là

một sự cụ thể hóa về tư tưởng và tính ứng dụng tích cực của đạo đức Phật giáo được

Đức Phật khai sinh hơn 2500 năm cách nay, là sự tiếp nối dòng chảy chủ đạo xuyên

suốt lịch sử Myanmar và cũng là sức thu hút mãnh liệt nhất của nền văn hóa Myanmar

từ quá khứ cho đến hiện tại. Vì lý do đó, đề tài “Vai trò của Phật giáo trong đời sống

chính trị – xã hội Myanmar từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX” là một nội

dung quan trọng cần được nghiên cứu.

3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nếu như Ấn Độ với những sa mạc khô cằn nhưng luôn thu hút sự quan tâm của

thế giới bởi Ấn Độ có một sông Hằng kỳ bí gắn liền với thế giới Ấn giáo đầy màu sắc

như bản chất sống động của người Ấn; thì Myanmar – đất nước chùa vàng đã tạo

nguồn cảm hứng sâu sắc cho những ai thích tìm hiểu khám phá những gì liên quan đến

giá trị truyền thống, niềm tin và đạo đức Phật giáo. Quả đúng như vậy, không bất kỳ

nơi đâu trên thế giới này có nhiều chùa tháp được xây cất như ở Myanmar; đấy chính

là công sức, là trí tuệ và sự lao động quên mình của con người.

Các học giả người Anh, Pháp, Liên Xô… và kể cả Việt Nam đã tập trung

nghiên cứu về đất nước Myanmar với nhiều khía cạnh khác nhau đã để lại những công

trình vô cùng giá trị.

Anh là quốc gia hàng đầu trong việc nghiên cứu về Myanmar. Trung tướng

Arthur Purves Phayre (1812 – 1885) là ủy viên cai trị đầu tiên của Anh ở Myanmar.

Với nguồn tài liệu thu thập được và cùng với thời gian sinh sống ở Myanmar, Phayre

đã cho ra đời “History of Burma including Burma proper, Pegu, Taungu, Tenasserim,

and Arakan, London: Teubner & co, Ludgate Hill, 1883” là tác phẩm đầu tiên của

người Anh nhưng rất quý giá về lịch sử tổng quan của Miến Điện từ buổi đầu cho đến

trước khi thực dân phương Tây đến nô dịch.

Một tác giả người Anh khác đã có những nghiên cứu sâu sắc về Myanmar. Đó

chính là Daniel George Edward Hall (1891-1979). Ông đã viết khá nhiều về lịch sử

Miến Điện, về văn hóa Miến Điện cũng như châu Á. “Lịch sử Đông Nam Á (sách

tham khảo), Nxb CTQG HN, 1997”, ở chương 44 – Miến Điện thuộc Anh 1886 -

1942, Hall đã đề cập rất nhiều nội dung liên quan đến chính sách cai trị của Anh đối

với Phật giáo, làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với chính quyền thực dân

ngày càng trở nên sâu sắc.

Liên Xô cũ trước đây cũng là một trong nhiều quốc gia có những nghiên cứu có

giá trị về Myanmar. Đáng kể là tác phẩm “Miến Điện vào đêm trước sự xâm lược của

Anh” của M.G. Cudơluva viết về 100 năm cuối cùng của nhà nước Miến Điện độc lập.

Ph. Vaxiliep “Lược sử Miến Điện (1885 - 1948)”. Trong cuốn sách tác giả không chỉ

4

nêu lên lịch sử hình thành và hành động của chế độ thực dân mà còn đưa ra sự đánh

giá rõ ràng về phong trào giải phóng dân tộc diễn ra ở Myanmar.

Tác giả Nguyễn Bích Liên trong thời gian làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại

Miến Điện, đã dày công nhận xét và kê cứu, soạn thành quyển đia phương chí là một

tập tài liệu tuy tác giả gọi là giản lược nhưng cũng khá đầy đủ về một nước mà vị trí

không xa gì Việt Nam. “Nguyễn Bích Liên, Miến Điện, Nxb Cơ sở Phạm Quang Khai,

1968” là một bức tranh tổng hòa về các mặt kinh tế – chính trị – xã hội – văn hóa ở

Myanmar từ buổi bình minh của quốc gia cho đến khi Miến Điện giành độc lập và thi

hành chính sách trung lập. Trong suốt công trình nghiên cứu, tác giả đặc biệt đề cập

một cách sâu sắc về sự trung lập của Myanmar đối với thế giới.

Ở Việt Nam, nhiều nhà sử học lớn cũng nghiên cứu về Myanmar với các tác

phẩm tiêu biểu như: Lương Ninh (chủ biên) – Đỗ Thanh Bình – Trần Thị Vinh, Lịch

sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, 2008; PGS.TS Nguyễn Văn Kim, Lịch sử Đông Nam

Á, tập 4, Nxb KHXH, 2012; Phan Ngọc Liên (chủ biên) – Nghiêm Đình Vỹ – Đinh

Ngọc Bảo – Trần Thị Vinh, Lược sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, 1998. Tuy nhiên

đây chỉ là những nghiên cứu một cách tổng quan chung về Đông Nam Á, trong đó có

Myanmar.

Vũ Quang Thiện được biết đến là một học giả với rất nhiều công trình khám

phá chuyên sâu về Myanmar như: Ở xứ chùa vàng (Tìm hiểu văn hóa Miến Điện), Nxb

Văn hóa Hà Nội, 1988; Quá trình phát triển của Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội, 1997;

Lịch sử Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội, 2005.

Về mảng đề tài liên quan đến Phật Giáo, có nhiều tác phẩm nghiên cứu được

xuất bản rộng rãi ở Myanmar, như: Roger Bischoff, Buddhism in Myanmar – A short

history, Buddha Dharma Education Associaion Inc, 1998. Đây là một tóm tắt ngắn gọn

nhưng hết sức đầy đủ về sự du nhập, quá trình phát triển và tồn tại của Phật giáo ở

Myanmar từ những cuộc tiếp xúc đầu tiên với những bằng chứng về khảo cổ học và

truyền thuyết, cho đến thế kỷ thứ XIX – khi mà Anh đã xác lập hoàn toàn sự thống trị

ở Myanmar. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các vị hoàng đế

Miến đối với sự nghiệp duy trì và bảo vệ Phật giáo, đây là một đặc điểm nổi bật về

Phật giáo ở Myanmar so với các quốc gia Phật giáo trong khu vực và trên thế giới.

5

Jerrold Schecter, The new face of Buddha – Buddhism and political power in

southeast Asia, John Wealtherhill, Tokyo, 1965. Đây là một quyển sách đã được chôn

vùi bởi cát bụi và thời gian. Là trưởng phòng cho tờ Time – life nhưng Jerrold

Schecrer lại có những nghiên cứu và báo cáo có giá trị về Đông – Đông Nam Á kể cả

hai tạp chí Time và Wall Street Journal nổi tiếng. Trong quyển sách với 300 trang viết,

Jerrold Schecrer đã khắc họa vai trò sôi động và sức mạnh trong chính trị đương đại

của Phật giáo ở các quốc gia Miến Điện – Campuchia – Sri Lanka – Trung Hoa – Nhật

Bản – Thái Lan – Nam Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng, chính sách cai trị của phương

Tây hoàn toàn thất bại trước sức mạnh chính trị của Phật giáo.

Trần Quang Thuận, Phật giáo Miến Điện, Nxb Tôn giáo, 2008. Quyển sách dày

483 trang là một quá trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả về Phật giáo Myanmar.

Nội dung sách cung cấp đầy đủ tất cả các vấn đề liên quan đến Phật giáo ở Myanmar,

điều đáng quan tâm hơn là tác giả đã dành gần một nửa số trang của tác phẩm để nói

đến vai trò của Phật giáo cũng như tổ chức Tăng già – Sangha trong xã hội Myanmar

hiện đại. Đây được xem là một nghiên cứu rất đáng trân trọng và cần có về Phật giáo

Myanmar.

Chiêm Tế, Phương Đông từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917 – 1959)

miền Đông Á và Đông Nam Á, Nxb Văn sử địa, 1959. Đây là một quyển sách có giá trị

và quý báu cho những ai nghiên cứu về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các

nước Đông Á và Đông Nam Á. Từ trang 344 đến trang 362, với cách hành văn đơn

giản quyển sách của Chiêm Tế đã cung cấp một cách đầy đủ và rõ ràng về con đường

đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar nhằm chống lại ách đô hộ của thực dân Anh

và phát xít Nhật, trong đó có sự đóng góp của Phật giáo.

Một vị sư có pháp danh là Thích Thái Hòa đã mang đến một nghiên cứu với tên

gọi “Miến Điện mặt trời lên” đã nhắc đến vai trò của Phật giáo trong quá trình đấu

tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar. Bên cạnh đó, cuốn sách còn liệt kê và miêu tả

những địa danh Phật giáo nổi tiếng ở Myanmar như: Yangon, Pegu, Pagan và Inlay.

Một số những tác giả chuyên nghiên cứu về văn hóa Đông Nam Á như: Mai

Ngọc Chừ, Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Quốc gia Hà Nội, 1998; GS.TS Phạm Đức

Dương (chủ biên), Lịch sử văn hóa Đông Nam Á, Nxb Văn hóa thông tin, 2013;

6

PGS.TS Ngô Văn Lệ, Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á,

Nxb ĐHQG TPHCM, 2003; đã phác họa về sự ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa

Myanmar.

Như vậy, với phần thống kê trên đây, trong giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX

đến đầu thế kỷ XX, thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có chi tiết, có

hệ thống và chuyên biệt về vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội

Myanmar. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề với hy vọng nghiên cứu một cách có

hệ thống trên cơ sở tiếp thu các công trình của những người đi trước để lại.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội ở Myanmar, từ nửa cuối

thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX.

- Thời gian: từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX.

- Không gian: đất nước Myanmar

3.2 Phạm vi nghiên cứu

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như:

phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, phân tích và đánh giá

để khái quát lại một cách tốt nhất vấn đề đang nghiên cứu.

5. Đóng góp của đề tài

- Góp phần làm rõ hơn sự đóng góp của Phật giáo trong sự nghiệp đấu tranh giải

phóng dân tộc ở Myanamr, cũng như sự ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội

Myanmar trong suốt thời gian từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Một

mảng đề tài chưa được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống tại Việt Nam.

- Hệ thống hóa tư liệu về Phật giáo Myanmar.

6. Mục tiêu của đề tài

Qua việc nghiên cứu vai trò của Phật giáo trong xã hội Myanmar và trong phong

trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, luận

văn hướng đến chứng minh sự khác biệt của Phật giáo Myanmar so với các quốc gia

7

phương Đông ở chính khía cạnh “nhập thế” tích cực của tôn giáo này trên một quốc

gia mà nó du nhập vào.

7. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của

khóa luận gồm có ……trang, chia thành 3 chương:

Chương 1: PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR.

Chương 2: PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948

Chương 3: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC

CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX.

8

Chương 1.

PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR

Một sự bình yên bao trùm cả không gian và thời gian, mọi chuyển động dường

như trở nên chậm hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới, không vội vã không ồn ào. Đó là

cảm nhận của những ai một lần đến với Myanamar – một vùng đất mà giáo lý nhà Phật

tưới tẳm từ lâu khiến cho con người trở nên nhân hậu hiền lương.

1.1. Myanmar – vùng đất của Phật

1.1.1. Vị trí địa lý

Về mặt địa lý, Myanmar nằm kề sát với Ấn Độ ở phía Tây, nên cư dân nơi đây

là những người đầu tiên tiếp nhận các thành tố văn hóa của Ấn Độ. Phía Bắc giáp

Trung Quốc, Đông giáp Lào, Đông Nam giáp Thái Lan, Tây Nam giáp biển Andaman

và vịnh Bengal ở phía Tây.

Myanmar là một đất nước có trường địa lý không thuần nhất, xét trên các

phương diện địa hình địa mạo, khí hậu cũng như tính đa dạng sinh học [17, tr.17]. Núi

đồi thống trị toàn bộ cảnh quan các vùng biên cương và đặc điểm này tạo thế khép kín

của Myanmar trước các nước láng giềng. Các dòng sông chính ở Myanmar là

Irrawaddy, Chindwin, Salween và Sittang, trong đó Irrawaddy được xem là huyết

mạch của đất nước.

1.1.2. Bức tranh các tộc người

Hàng năm vào ngày 12/02, trên các đường phố Yangon diễn ra những cuộc tuần

hành rực rỡ. Tất cả các dân tộc và bộ lạc cử đến thủ đô những đại biểu của mình.

Trong hàng ngũ của đoàn người tuần hành, người ta dễ dàng nhận ra người Karen qua

quần áo dệt màu đỏ, người Môn qua bím tóc đuôi sam của đàn ông, người Palaung với

áo khoác sặc sỡ, người Shan quần đen rộng, người Kachin thì lưỡng quyền cao như

người Mông Cổ... mỗi tộc người trên đất Miến kết hợp lại thành một bức tranh tộc

người đầy màu sắc, rất đa dạng nhưng vẫn thống nhất trong một chỉnh thể chung: dân

tộc Myanmar. Người Myanmar là dân tộc yêu tự do và can đảm, có lòng tự hào dân

tộc cao. Họ rất hiếu khách, rất tồn cổ và hãnh diện về tinh thần tồn cổ của mình [8,

tr.115]. Tuy nhiên họ cũng rất thực tế, vui vẻ và thích trào phúng. Điều đáng chú ý là

mỗi tộc người ở Myanmar có sự tương đương về mặt số lượng, trình độ và lịch sử, tạo

9

nên tính tự trị cao của mỗi tộc người; điều này làm cho vấn đề tộc người ở Myanmar

trở nên nổi bật và phức tạp.

Dân cư Myanmar bao gồm nhiều sắc tộc khác nhau, họ là những người đầu tiên

qua ba cuộc di cư từ Trung Á và Tây Tạng đến định cư tại vùng đất Myanmar. Cuộc di

cư đầu tiên đưa đến đây người Môn – Khmer, nhóm di cư thứ hai là người Tạng –

Miến, và nhóm thứ ba vào khoảng thế kỷ XIII – XIV là nhóm người Hán – Tháí. Với

hơn 135 sắc tộc khác nhau cùng tồn tại, Myanmar được mệnh danh là thiên đường cho

các nhà nghiên cứu về dân tộc và ngôn ngữ, trong đó có 8 tộc người chủ yếu.

Người Môn là những tàn dư bị cô lập của những cư dân cổ nhất của Miến Điện

còn sót lại ở ba khu miền Nam là Thaton – Pegu – Tanitayi [15, tr.11]. Đó là một

nhóm dân tộc thiểu số thuộc chủng Mongoloid, xuất phát từ thung lũng sông Dương

Tử, họ đã di chuyển vào châu thổ các con sông lớn ở Đông Nam Á như Menam,

Irrawaddy. Họ có quan hệ họ hàng với những người Khmer dựa trên điểm tương đồng

trong ngôn ngữ và hình dáng bên ngoài, sống ở Hạ Myanmar ngày nay. Trước khi tiến

sâu hơn nữa về phía Nam, người Môn sống ở đồng bằng Kyaukse tại Trung Myanmar.

Trước thời kỳ Thiên Chúa giáo không xa, họ di chuyển tới hai nơi khác nhau là vùng

Hạ Myanmar và vùng đông Salween ở Thái Lan. Người Môn chính là người thầy dạy

cho người Miến, cả người dân bình thường lẫn giới cầm quyền, về nghệ thuật - tôn

giáo và hành chính. Vô số các từ tiếng Miến sử dụng ngày nay có nguồn gốc là tiếng

Môn.

Thương gia Ấn Độ cùng các nhà thám hiểm đầu tiên đã đi dọc theo đường biển

Bengal tiến vào Suvarnabhumi hay còn gọi là “Vùng đất của những vị thần” [24, tr.

39] đã mang tri thức từ Ấn Độ truyền sang cho người Môn. Vào thế kỷ III BC, hoàng

đế Ashoka đã cử hai đại sư sang Myanmar truyền đạo. Người Môn sử dụng tiếng Phạn

và tiếng Pali vào thời kỳ muộn hơn so với văn tự tiếng Granthi ở miền Nam Ấn Độ.

Sau khi đao Phật suy tàn ở Ấn Độ, người Môn tiếp tục duy trì quan hệ với Sri Lanka

nơi mà Phật giáo Tiểu thừa vẫn giữ nguyên địa vị như trong thời đại Ashoka. Một

trong mối liên kết Phật giáo Tiểu thừa còn tồn tại đến ít nhất là thế kỷ XI.

Vào thiên niên kỷ I, người Môn làm chủ những khu vực rộng lớn ở Đông Nam

Á lục địa, một “Thế giới Môn” hình thành bao gồm ba khu vực trên đó thống trị ba

10

quốc gia hùng mạnh là Haripungaya, Dvaravati ở Thái Lan và Thaton ở Myanmar [17,

tr. 67]. Nhưng qua quá trình lịch sử, người Môn bị người Miến đồng hóa nhiều, đã

mất dần tiếng nói riêng kể cả trang phục riêng.

Tộc người đầu tiên để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử Myanmar là tộc người

Pyu đến từ Tây Nam Trung Hoa vào khoảng thế kỷ III AD. Những tàn tích của kinh

thành Sri Kshetra cách Prome 6 dặm về hướng Đông là dấu vết còn sót lại của nền văn

hóa rực rỡ của họ trong khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII. Người Pyu không chỉ

theo Hindu giáo mà còn theo Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa. Vào khoảng thế kỷ VII,

Phật giáo Tiểu thừa trở thành tôn giáo chủ yếu trong bộ máy chính quyền cũng như

trong xã hội của người Pyu. Theo các nguồn tài liệu tiếng Trung, người Pyu sống chủ

yếu trong các thành phố lớn được bao xung quanh là những bức tường gạch, họ là

những con người thân thiện và hòa bình nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên đôi khi bản chất

yêu hòa bình lại trở thành nhược điểm. Chẳng hạn như khi họ từ chối dùng lụa bởi

muốn sản xuất ra lụa thì phải hy sinh những con tằm. Tội ác rất ít khi xảy ra và các

hình phạt cũng rất nhẹ nhàng chỉ trừ tội giết người.

Vua Pyu đặc biệt coi trọng việc truyền bá và nghiên cứu Phật học. Cư dân Pyu

đã để lại rất nhiều những công trình kiến trúc tuyệt đẹp nằm ở Prome. Đó là những

ngôi chùa cổ có chứa hài cốt của các vị cao tăng xây dựng theo kiểu hình trụ mái vòm,

ảnh hưởng của kiến trúc Oriyan từ duyên hải phía Đông Bắc Ấn Độ. Điểm đặc biệt của

kiến trúc Pyu là yếu tố vay mượn các sikhara (tháp), từ đó đem lại cho các đền chùa vẻ

vững chãi như thể các đền thờ Bhubaneshwa ở Orissa [24, tr. 40].

Người Pyu sau đó bị người Miến hay còn gọi là người Tây Tạng – Burma đánh

bại. Đó là tổ tiên của người Miến hiện nay, là một dân tộc đông nhất ở Myanmar, sống

tập trung chủ yếu ở những vùng rộng lớn và phì nhiêu của các lưu vực sông Irrawaddy

và Sittaung. Họ có đặc điểm nước da hơi đen và cao lớn.

Có giả thuyết cho rằng vào thiên niên kỷ III BC, người Miến đã bị những người

thuộc bộ tộc Trung Hoa đánh đuổi ra khỏi quê hương của mình ở phía Tây Bắc Trung

Hoa thuộc tỉnh Kansu (Cam Túc), qua miền Đông Tây Tạng, từ nơi đó họ đi qua Vân

Nam để rồi tới Myanmar ròng rã suốt mấy thế kỉ. Người Miến kể lại rằng họ đã đến

đồng bằng Kyaukse nơi gặp gỡ của hai con sông Irrawaddy và Chindwin này vào thế

11

kỷ II AD. Đồng bằng Kyause, sau đổi thành Ledwin (vùng đất lúa gạo) chính là nền

tảng sức mạnh cho đế chế Miến suốt vài thế kỷ. Trước khi đánh chiếm lãnh thổ của

người Pyu, người Miến đã tiếp nhận Phật giáo Đại thừa, sau này Phật giáo Đại thừa

vẫn chiếm ưu thế trên Thượng Myanmar cho tới giữa thế kỷ XI.

Người Miến dựng nên vương quốc của mình bao xung quanh thành phố chính

Pagan khoảng năm 849. Theo như các bộ biên niên sử của người Miến kể lại, vương

quốc Miến ban đầu gồm 19 ngôi làng, mỗi ngôi làng có môt nat (linh hồn) của riêng

mình. Cũng vào năm 849, một vị thủ lĩnh đã họp nhất 19 ngôi làng ấy lại thành một

quốc gia mang linh hồn dân tộc chung nhất. Dù cho làn sóng Ấn Độ hóa cùng Phật

giáo Tiểu thừa được chọn làm quốc giáo vào thế kỷ XI, tín ngưỡng thờ nat vẫn tiếp tục

tồn tại trong tâm trí của những người con của mảnh đất Miến Điện.

Người Miến được ngợi ca là những con người mạnh mẽ anh hùng với vị vua vĩ

đại nhất của mỗi thời đại – Anawrahta. Ông chính là người đã lập ra đất nướcMiến

Điện cổ có lãnh thổ gần giống với đất nước Myanmar ngày nay với đường biên giới

trải dài từ Bhamo ở phía Bắc cho tới vịnh Martan ở phía Nam. Đường biên này được

thiết lập sau rất nhiều lần chinh phục và hợp nhất với các tộc người bên ngoài bao gồm

cả tộc người Môn phồn thịnh ở phương Nam. Tuy nhiên, kẻ đi chinh phục lại chịu

khuất phục trước sức mạnh văn hóa vượt lên trên cả bạo quyền của kẻ đi chinh phục

[24, tr. 42]. Sau cái chết của vua Anawrahta năm 1077, văn hóa Môn ảnh hưởng lớn

tới Pagan trong cả cuộc sống chốn cung đình lẫn nơi thôn dã. Các ngôi chùa ở Pagan

đều do các kiến trúc sư và thợ thủ công người Môn xây dựng nên. Chữ viết của người

Môn là cơ sở của chữ viết người Miến ra đời sau này, nó cũng trở thành phương tiện

truyền bá cho trào lưu Ấn Độ hóa trong văn hóa, luật pháp và văn học. Trong khi

người Miến thích thú với vai trò điều hành chính trị thì người Môn lại đảm trách lĩnh

vực thông thương buôn bán với thế giới bên ngoài Myanmar [24, tr. 41]. Người Môn

và người Miến có mối quan hệ thân thiết và giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc

mở rộng bờ cõi cũng như góp nhặt nhiều yếu tố để tạo nên bản sắc riêng của văn hóa

Myanmar, tuy vậy giữa họ vẫn có những bất đồng sâu sắc.

Người Shan sống chủ yếu ở phía Đông của Myanmar, có đặc điểm cao lớn với

nước da sáng là họ hàng gần với người Thái – Lào – Campuchia và Việt Nam. Có thể

12

chia người Shan thành 3 nhóm chính: người Shan chính gốc (Moshan), người Hán –

Shan, người Miến - Shan. Những người Shan ở miền Bắc sống tiếp cận với người

Miến, Kachin… đã hỗn hợp với các dân tộc đó ở một mức độ rõ rệt và hiện nay họ đã

rất khác với những đồng tộc của họ trong bang Shan. Đa phần người Shan làm nông

nghiệp, nghề thủ công khá phát triển, họ sống tập trung trong các thung lũng ven sông

và những vùng chảo biệt lập trên cao nguyên Shan.

Người Karen là sắc tộc lớn thứ hai, sống trong các vùng rừng núi bao la dọc

biên giới Thái Lan – Myanmar, rải rác từ miền Bắc cho đến tận miền Nam của đất

nước. Vùng cư trú của người Karen ở miền Bắc chạy dọc xuống cho tới hồ Inlay, còn

ở miền Nam thì chạy dọc xuống đến eo đất Kera. Một điểm tập trung nữa của người

Karen là đồng bằng châu thổ Irrawaddy. Ở mỗi miền họ nói một phương ngữ khác

nhau, khác nhau về phong tục, tập quán. Nghề chính của người Karen là nông nghiệp

và làm rừng. Thủ công nghiệp gia đình phát triển (gốm và dệt). Họ theo Phật giáo, một

số ít theo Thiên chúa giáo.

Người Chin sống chủ yếu ở vùng núi Arakan, có quan hệ thân thuộc với người

Miến hơn cả. Do bị tách ra và chia thành những bộ phận nhỏ từ lâu, nên người Chin đã

khác người Miến về phong tục, tập quán, tôn giáo và nhiều đặc điểm khác trong sinh

hoạt. Họ gồm nhiều bộ phận với những phương ngữ khác nhau. Nguồn sống chính là

nông nghiệp, canh tác theo lối làm rẫy và du canh, nghề đan lát và dệt thủ công cũng

phát triển. Người Chin theo vật linh giáo.

Người Kachin chủ yếu sống ở vùng núi thượng lưu sông Chindwin và

Irrawddy. Từ khoảng giữa thế kỷ trước, họ bắt đầu di cư nhiều về phía Bắc bang Shan

và các miền Bamo và Cato của người Miến. Một bộ phận người Kachin sống lan sang

tỉnh Vân Nam của Trung Quốc và Atsam của Ấn Độ. Người Kachin sống chủ yếu

bằng làm rẫy, du canh, trồng lúa và ngô. Họ sử dụng ngôn ngữ Tạng – Miến. Những

người sống ở phía Đông theo đạo Phật, còn những người sống ở phía Tây theo vật linh

giáo.

Người Kayah (Karen đỏ, Kareni) sống tại bang Kayah, phía Nam bang Shan [4,

tr. 61 - 62]. Họ thường được biết đến với cái tên “người cổ dài”.

13

Với hơn 100 sắc tộc cùng tồn tại, có nguồn gốc xuất xứ nguyên thủy đa dạng,

khác biệt về lối sống, thiết chế chính trị, các mối quan hệ hình thái kinh tế, sắc thái văn

hóa; nhưng trong quá trình chung sống gần gũi, thông qua các mối quan hệ trao đổi

kinh tế – văn hóa – hôn nhân đã đưa đến một hệ quả là nhiều tộc người không còn bảo

lưu toàn bộ các đặc tính nguyên thủy, một số bộ tộc bị “vỡ” thành nhiều “mảnh” nhỏ

tách biệt nhau, nhiều nhánh đã trở nên xa lạ với nhau, thậm chí không hiểu được tiếng

nói của nhau. Chính vì lẽ đó, bức tranh tộc người ở Myanmar ngày càng trở nên phức

tạp và nhiều màu sắc.

1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Myanmar

1.2.1. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo

Phật giáo đã truyền đến Hạ Miến vào thời vua Ashoka, ba thế kỷ trước công

nguyên [18, tr. 98], nhưng các bằng chứng khảo cổ học ở Hạ Miến lại không chứng

minh điều này. Bia đá V và XIII của vua Ashoka có ghi danh sách các nước vua

Ashoka gởi chư tăng đến hoằng truyền chánh pháp mà không đề cập đến Hạ Miến,

nhưng sử liệu Tích Lan lại ghi đầy đủ chi tiết tên các nước phái đoàn đến hoằng hóa

chánh pháp. Hai bộ sử Dipavamsa (Tiểu sử) và Mahavamsa (Đại sử) của Tích Lan đã

đề cập đến sự kiện này và được các nhà học giả phương Tây chấp nhận.

Theo Sasam – vamsa, là một biên niên sử tiếng Phạn được viết bởi Tỳ kheo

Panasami cho rằng: Đức Phật đã đến Thaton và Shwesettan và để lại hình ảnh của

Bàn chân khác còn lại trong đá của núi Saccabandha. Những dấu chân Đức Phật vẫn

mình để thờ phượng – bàn chân Đức Phật ở sông Nammada gần với núi Saccabandha.

còn nhìn thấy cho đến ngày hôm nay đã được người Môn – Pyu và những vị vua

Myanmar thờ cúng và bảo tồn trong những nơi linh thiêng nhất của quốc gia. Một sự

kiện quan trọng khác là sự xuất hiện các di vật tóc trong Yangon ngay sau khi Đức

Phật giác ngộ: tám sợi tóc của Phật đã cho hai thương nhân Tapussa và Bhallika, trong

đó ba sợi được cất giữ trong bảo tháp nay là chùa Shwedagon – chùa vàng Shwedagon.

Cuốn sách “The Myanmar oral traditional” cho rằng Đức Phật đã có bốn

chuyến du hành đến Myanmar. Mỗi chuyến có một ý nghĩa khác nhau và mỗi nơi Phật

đến là những địa điểm hành hương nổi tiếng ngày nay ở Myanmar.

14

Thế kỷ III, theo Nagarjunakonda các Tỳ kheo ở Nam Ấn Độ đã đến vùng đất

Likatas – vương quốc của người Môn ở vùng Hạ Myanmar. Dựa trên phát hiện khảo

cổ học với một đèn dầu La Mã và một bức tượng Phật có niên đại I hoặc II AD [26, tr.

16 – 21].

Theo sử liệu Trung Hoa, Linyang – vương quốc Prome là nơi tất cả người dân

đều tôn kính Đức Phật và là nơi hàng ngàn Tỳ kheo và tu sĩ sinh sống.

Như vậy, trong buổi bình minh của Phật giáo Myanmar, việc xác định thời gian

chính xác về sự du nhập của Phật giáo vào quốc gia này vẫn chưa rõ ràng. Tuy vậy,

sau quá trình thâm nhập, Phật giáo đã thích nghi, tồn tại và phát triển một cách vững

vàng ở vùng Hạ Myanmar vào các thế kỷ V – XI trong các vương quốc Môn và Pyu.

1.2.2. Phật giáo ở Hạ Miến (từ thế kỉ V – XI)

Nhiều bia ký viết bằng tiếng Pali tìm thấy tại Hmawza, trong đó có hai bia vàng

đều khắc dòng chữ Pali, bắt đầu với câu Ye dhamma-hetuppabhava - Vạn pháp tùy

duyên, đã cho thấy Phật giáo Nam Tông bắt đầu bành trướng ở Hạ Miến vào thế kỷ thứ

VI [18, tr. 101]. Một tập sách dày 20 trang chữ Pali viết bằng mẫu tự Andhra Kadamba

ở Nam Ấn, trên vàng lá, tìm thấy gần Hmawza cho chúng ta hai dự kiện: thứ nhất,

Phật giáo Nam Tông đã phát triển ở Hạ Miến vì chữ Pali khá phổ biến; thứ hai, chữ

Pali viết bằng mẫu tự Andhra Kadamba của Nam Ấn chứng tỏ mối liên hệ văn hóa và

tôn giáo khá chặt chẽ giữa Nam Ấn Độ và Miến Điện.

Vào các thế kỷ V - VI, Kancipuram – Negapatam và Kaveripattam ở Nam Ấn

Độ là những trung tâm Phật giáo Nam Tông quan trọng, bằng chứng là Buddhagosa,

một nhà sư thông thái, đạo hạnh đã xuất hiện tại vùng đất này. Nhà sư này đã có hoạt

động hoằng hóa khá sôi nổi tại Sri Lanka và Miến Điện. Sau một thời gian lưu trú tại

Sri Lanka, ngài hoàn tất công tác phiên dịch luận, sớ tiếng Sri Lanka ra tiếng Pali, ngài

trở về Miến Điện, mang theo cuốn văn phạm Pali của Kaccayana và bộ luật Manu.

Ngài dịch cuốn văn phạm Pali tiếng Sri Lanka ra tiếng Miến Điện, giới thiệu bộ luật

Manu cho độc giả Miến Điện, biên soạn bộ sách nói về ngạn ngữ Miến Điện. Có thể

nói, Buddhagosa là người có công truyền bá và phát triển Phật giáo Nam Tông tại

Miến Điện và giáo phái này đã thịnh hành ở đây vào thế kỷ VI.

15

Theo hồi ký của Đại sư Nghĩa Tịnh (I-sting), dân xứ Shil-li Chatalo tức là

Prome hay Hạ Miến, rất sùng kính Tam bảo và tại đây có 4 giáo phái Phật giáo, phái

Àyamahàsanghika, Àryasthavira-vàda, Àryamùla-sarvàstivàda và Àryasammitiya.

Khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, Tăng già phân hóa bị phân chia làm

hai phe, một phe cho Phật luật quá nghiêm khắc muốn thay đổi, phe khác không đồng

ý muốn giữ nguyên. Phái bảo thủ có danh hiệu Sthavira-vàda (Trưởng Lão Bộ) hay

Theravàda (Thượng Tọa Bộ), còn phái chủ trương cải cách tên là Mahàsanghika (Đại

Chúng Bộ) [18, tr. 103].

Phái Sarvastivàda là một nhánh của Theravàda, về sau phân chia thành các chi

phái nhỏ hơn và danh xưng Sarvastivàda được đổi thành Mùlasarvastivàda. Phật giáo

thịnh hành ở Prome vào thế kỷ VII - VIII. Vương quốc Pyu có 18 chư hầu ở Nam

Miến và thủ phủ là Shil-li Chatalo, dân chúng trong thành đều theo đạo Phật với hơn

100 ngôi chùa được xây dựng. Nhiều tác phẩm điêu khắc được khai quật tại Prome

diễn tả Đức Phật ngồi trên tòa sen, trong tư thế Bhùmisparasamudra, tay trái cầm bình

bát, chung quanh có 4 hình tượng dâng cúng phẩm vật cho Phật đã chứng minh Phật

giáo thịnh hành ở vương quốc này [18, tr. 105].

Như vậy, từ thế kỷ V đến thế ky X, Phật giáo Nam Tông tồn tại và phát triển

rực rỡ ở Prome; nhưng đến thế kỷ XI, sắc dân Thái ở Namchao (Nam Chiếu), lúc bấy

giờ đã chiếm cứ vùng Tây và Tây Bắc Vân Nam, bị áp lực người Hán dồn ép, tràn

xuống miền Nam, tiến chiếm Pyu vào năm 832. Lịch sử Phật giáo Miến Điện bước

sang một giai đoạn mới: đó là sự xâm chiếm của Phật giáo Nam Tông từ Thaton vào

Thượng Miến – Pagan. Cả hai nền văn hóa Phật giáo ở Myanmar, Môn và Pyu bị xóa

bỏ vào thế kỷ XI bởi đội quân xâm lược của người Miến, họ đã thành lập một lực

lượng lãnh đạo thống nhất, là người sáng lập Pagan và Anawrahta là một vị vua vĩ đại

trong Phật giáo.

1.2.3. Phật giáo Tiểu thừa đến Pagan (thế kỉ XI - XIII)

Pagan được cho là do những nông dân Myanmar xây dựng vào những năm 849-

850 tại vùng Kyauksai gần Mandalay. Vua Anawrahta bắt đầu hợp nhất khu vực bằng

cách chinh phục những thủ lĩnh khác và đã thành công trong việc đưa Myanmar trở

thành một quốc gia, cộng đồng rộng lớn. Sự kiện quan trọng trong lịch sử Myanmar

16

không phải là việc thành lập thành phố Pagan và xây dựng các bức tường thành của nó

mà là sự tiếp nhận Phật Giáo Nguyên Thủy vào thành phố Pagan vào thế kỷ XI. Tôn

giáo này đã du nhập đến Thượng Miến nhờ một Tỳ kheo tên là Sun Shin Arahan [26,

tr. 45].

Tôn giáo phổ biến của Miến trước đó và trong đầu triều đại của Anawrahta là

một số hình thức Phật giáo Đại thừa, mà có lẽ con đường truyền bá là từ vương quốc

Pala ở Bengal. Điều này thể hiện rõ ràng qua các bức tượng Bồ Tát bằng đồng, đặc

biệt là tượng "Lokanàtha" ở Bengal, một vị Bồ Tát được cho là đã trị vì trong giai

đoạn giữa sự sụp đổ của Đức Phật Gotama (Cồ Đàm, Phật tổ) và sự ra đời của Đức

Phật Metteyya (Phật Di Lặc). Vua Anawrahta vẫn tiếp tục cho đúc những bài vị đất

nung với hình ảnh của Lokanàtha ngay cả sau khi ông chấp nhận học thuyết Nguyên

Thủy.

Đầu của thế kỷ XI, Phật giáo đối với người Môn ở vùng Suvannabhumi bị mờ

nhạt do con người bị quấy rầy bởi bọn cướp bóc, những kẻ đột kích, bệnh dịch và các

đối thủ của tôn giáo. Những ảnh hưởng này hầu hết đến từ vương quốc Ấn giáo Khmer

ở Campuchia và miền bắc Thái Lan. Người Khmer đã nỗ lực để chiếm Thaton và các

vương quốc của người Môn khác ở miền Nam để mở rộng đế chế của họ. Shin Arahan

(một nhà sư của dân tộc Môn) lo ngại rằng các Tỳ kheo sẽ không thể tiếp tục duy trì sự

tu hành của họ cũng như là việc nghiên cứu các kinh phật trong hoàn cảnh này. Do đó,

ông đã đi đến một nơi mới, ở đó người dân đã phát triển một vương quốc vững mạnh,

thịnh vượng và an toàn trước kẻ thù [26, tr. 47]. Shin Arahan đến vùng lân cận của

Pagan, gặp gỡ vua Anawrahta và giúp nhà vua cải đạo từ Đại thừa sang Tiểu thừa.

Điều đáng lưu ý trong thời gian này là Phật giáo cũng bị tấn công ở nhiều nơi

khác. Colas là một triều đại Ấn Độ giáo đã phản đối mạnh mẽ đối với Phật Giáo xuất

hiện ở miền Nam Ấn Độ, cũng là một trong những thành trì cuối cùng của Phật Giáo

Nguyên Thủy. Giai đoạn 1017-1070, họ đã có thể mở rộng quyền lực để nắm giữ hầu

hết Sri Lanka. Dvàravatã là thành phố lớn của người Môn, một trung tâm Phật Giáo

Nguyên Thủy tại miền Nam Thái Lan rơi vào tay người Khmer, chủ nhân của toàn bộ

Thái Lan là những người Ấn giáo Shaivite. Ở phía bắc của Ấn Độ, quân đội Hồi giáo

đang cố gắng để tiêu diệt những gì còn sót lại của Phật giáo. Giáo sư Luce viết: “Trong

17

giai đoạn nguy hiểm này, Phật giáo đã được cứu chỉ bởi những chiến binh dũng cảm

là Vijayabàhu ở Sri Lanka và Anawrahta” [26, tr. 48].

Thông qua Shin Arahan, Anawrahta lúc bấy giờ đã tìm thấy được tôn giáo mà

ông từng khao khát, ông quyết định đi tìm kiếm Kinh phật và các di tích thiêng liêng

của tôn giáo này. Ông mong muốn vương quốc mình sẽ giữ gìn được những giáo lý

nguyên thuỷ của Đức Phật. Ông đã cố gắng để tìm thấy Kinh phật và các di tích về tôn

giáo mới của mình ở những khu vực khác nhau. Với lòng nhiệt thành của mình, nhà

vua đã không giới hạn vùng tìm kiếm của mình đối với Thaton, mà còn tìm kiếm ở đế

chế của người Khmer ở Angkor, ở Tali thủ đô của Nanchao, vùng đất thuộc Vân Nam

Trung Quốc, nơi đây từng được cho rằng cất giữ một chiếc răng của Đức Phật. Nhưng

không nơi nào ông tìm được. Sau đó ông đã đi đến Thaton, quê hương của Shin

Arahan, để xin bản kinh phật. Theo người Miến thì yêu cầu của Anawrahta đã bị

khước từ, không thể chịu được thêm những lời từ chối nào, ông chuẩn bị quân đội của

mình vào năm 1057 để đánh chiếm Thaton và có được các Tipinaka (Tam Tạng Kinh)

bằng vũ lực. Trước khi chinh phục Thaton, ông đã chinh phục Sri Ksetra, thủ đô Pyu.

Từ đây, ông đã mang các di tích ở chùa Bawbaw-gyi của vua Dwattabaung đến Pagan

[26, tr. 51].

Một số người cho rằng mục đích của cuộc chinh phạt của ông chủ yếu là để

thêm các thuộc địa thịnh vượng Ấn Độ ở vùng Hạ Myanmar vào sự sở hữu của mình,

một số khác lại cho rằng thực sự ông đến Thaton để ngăn chặn sự tiến công đế quốc

Khmer. Dù nguyên nhân trực tiếp của cuộc viễn chinh của ông đến vùng Hạ là gì đi

chăng nữa nhưng chắc chắn rằng ông đã mang về triều đình Pagan cùng với các nghệ

sĩ Môn và các học giả, và trên hết là với các Tỳ kheo của Thaton và kinh sách của họ

cùng với Tipinaka. Vùng Suvannabhumi và người dân Môn bây giờ đã thuộc về người

Miến, văn hóa và tôn giáo của người Môn đã được chấp nhận và tiếp thu một cách

nhiệt thành ở Pagan.

Ban đầu, lòng nhiệt thành chỉ hạn chế đối với vua và đoàn tùy tùng trực tiếp của

ông, nhưng ngay cả khi họ tiếp tục tạo điều kiện cho những vị thần truyền thống vì lợi

ích của thế gian thì tôn giáo mới vẫn được coi là một sự tu hành cao nhất. Phật Giáo

Nguyên Thủy không đưa ra nhiều nghi lễ, nhưng không một triều đình hoàng gia nào

18

mà không có chúng. Vì vậy, các lễ nghi truyền thống của Nagas (hình ảnh con rồng)

tiếp tục được sử dụng cho các nghi lễ cung đình và là một phần của tôn giáo phổ biến,

trong khi đó các tăng sĩ rất được tôn kính và sư phụ của họ, Đức Phật Gotama (Đức

Phật Thích Ca) thì được tôn vinh thông qua việc dựng lên vô số các ngôi chùa và đền

thờ.

Anawrahta được nhắc đến trong biên niên sử của người Miến, người Môn,

người Khmer, người Thái và người Sinhalese như một vị khai sáng vĩ đại của Phật

giáo vì ông đã phát triển Pagan thành một cường quốc và đặt nền móng cho sự vinh

quang của vùng đất này. Tuy ông đã không xây dựng nhiều đền - chùa nổi tiếng ở

Pagan, nhưng ngôi đền cổ nhất được xây dựng chỉ liền sau triều đại của ông. Điều

quan trọng là sự quan tâm của ông không chỉ dành riêng cho Pagan. Ông đã xây dựng

nhiều ngôi chùa ở mọi nơi mà ông đã chinh phạt và trang trí chúng với hình ảnh minh

họa từ tiền thân và cuộc đời của Đức Phật.

Anawrahta để lại bảng linh vị bằng đất sét được trang trí với hình ảnh của Đức

Phật, tên của nhà vua một số danh từ Pali và những câu thơ Sanskrit. Tiêu biểu là câu:

“Bởi tôi, vua Anawrahta, lời chỉ dẫn của Sugata (Đức Phật) đã được tạo ra. Thông

đây, tôi có thể có những con đường dẫn đến Niết Bàn khi Đức Phật Phật Di Lặc

(Metteyya) được đánh thức” [26, tr. 56]. Anawrahta mơ ước trở thành một đệ tử của

Đức Phật Phật Di Lặc (Metteyya), không giống như nhiều vị vua sau này của

Myanmar mong muốn được Phật quả. Đây có phải là một dấu hiệu cho thấy người đàn

ông vĩ đại này vẫn còn là một người khiêm tốn mặc dù xây dựng một đế chế Myanmar

rộng lớn trong sự nghiệp của mình? [26, tr. 56 – 61].

Một đặc điểm quan trọng của Phật giáo Nam Tông ở Miến Điện trong giai đoạn

này là sự liên hệ đặc biệt với Phật giáo Sri Lanka. Triều đại Narapatisithu rất quan

trọng trong lịch sử Phật giáo Miến Điện. Vua tăng cường liên hệ giữa Miến Điện và

Sri Lanka. Quốc sư Tăng Thống Uttarajiva (người Talaing) cùng thị giả Sa di Chapala

và một số tăng sĩ Miến Điện đến Sri Lanka năm 1170 hay 1171 để chiêm bái thánh

tích như được ghi trong bia ký Kalàani của Dhammaceti, thế kỷ XV [18, tr. 117].

Nhìn dưới góc độ tôn giáo và văn hóa, triều đại Narapatisithu là thời kỳ cực

thịnh của Pagan. Vua nỗ lực bảo vệ và phát triển Phật giáo, muốn dân chúng hành trì

19

Phật đạo. Vua xây dựng nhiều ngôi đại tự như chùa Gawdawpalin, Sulamani,

Dhammayazaka, Mimalungkyaung, Chaukpala và xây đắp những ngôi tượng Phật lớn

thờ trong chùa; vua cung cấp những phương tiện cần thiết, khuyến khích chư tăng

chuyên học Pali, nghiên cứu luận tạng, giữ gìn giới luật, giáo hóa độ sinh; nhiều chư

tăng học giả đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển và phổ cập văn học Phật

giáo như Chapata, Saddhammasiri, Uttara, Uttama, Abhaya… Họ là tác giả của những

bộ luận kinh điển Phât giáo nổi tiếng.

Cuối thế kỷ XIII, Pagan bắt đầu suy yếu và chấm dứt sự tồn tại của triều đại này

vào năm 1287 trước sự xâm lăng của vó ngựa Mông Cổ – Hốt Tất Liệt. Sau khi Pagan

thất thủ, Miến Điện lại trở về tình trạng phân tán như trước với sự vươn lên của tộc

người Shan lật đổ vương quyền của Hạ Miến, bắc Arakan cũng tuyên bố độc lập, khi

đó trung tâm Phật giáo từ Thượng Miến lại chuyển về Hạ Miến với sự yểm trợ của các

Tiểu vương Hạ Miến.

1.2.4. Phật giáo ở Myanmar (thế kỉ XIII – XVII)

Năm 1486, Miến Điện lại tái thống nhất dưới triều đại Toungoo, đây là một

vương quốc rộng lớn và đa sắc tộc; tuy nhiên lại có ít các di sản về văn hóa, nhưng

lãnh thổ vương quốc được mở rộng thông qua các cuộc chinh phục bộ tộc Shan.

Trong triều đại Toungoo, Phật giáo bành trướng mạnh mẽ tại Hạ Miến, quốc

vương xứ Môn tích cực hộ đạo và duy trì mối liên hệ mật thiết với Phật giáo Sri

Lanka. Nhưng trong thời gian trị vì của Binnya Dhammayaza (1423 – 1426), Phật giáo

suy thoái do chiến tranh liên miên trong suốt thời gian cai trị của cha ông là Razadarit

(1384 – 1423). Để khôi phục Phật giáo, ông đã gởi một phái đoàn đến Sri Lanka

nghiên cứu Tam Tạng kinh vào năm 1424.

Dưới thời vua Dhammazedi, tình trạng chư tăng Miến Điện xáo trộn vì quan

điểm dị đồng về thủ tục yết ma (Sima), phương thức tổ chức đại giới đàn, cách thức

hành trì Bố Tát. Mỗi giáo phái có qui luật riêng, cách thức tổ chức riêng. Vua cho triệu

tập chư tăng thuộc 6 giáo phái, thông thạo Tam Tạng để hỏi về thủ tục yết ma, bố tát,

tổ chức đại giới đàn, nhưng không được lời giải đáp thỏa đáng, đồng thuận, nên vua

quyết định gởi 22 vị tỳ kheo, 22 vị sa di đến Sri Lanka nghiên cứu, tìm đáp án cho vấn

đề trên.

20

Dựa vào sự giúp đỡ của Phật giáo Sri Lanka, cùng với tinh thần hộ pháp tích

cực, vua Dhammazedi đã liên kết tất cả giáo phái Phật giáo Miến Điện thành một tổ

chức duy nhất, cùng hành trình qui tắc truyền giới, thọ giới, bố tát, an cư chung theo

mô hình Mahàvihara Sri Lanka.

Miến Điện vào đầu thế kỷ XVI, chia làm 3 phần: Bắc Miến do dân Shan – Thái

cai trị, Thượng Miến (Ava) do các hoàng thân Shan cai trị cho đến khi triều đại

Toungoo xuất hiện vào giữa thế kỷ XVI, Hạ Miến do người Môn thống lãnh. Năm

1527, Bắc Miến do sắc dân Shan – Thái cai trị, tấn công Thượng Miến, phá hủy Ava,

khiến cho dân Miến tại Ava tản cư đến Toungoo, vùng đông nam Miến Điện. Năm

1539, vua Tibinshweti (1531- 1551) con vua Minkyinyo xứ Toungoo tiến chiếm thủ

phủ Pegu của người Môn, năm 1541 chiếm Martaban, Moulmein, năm 1542 chiếm

Prome, năm 1544 cai trị toàn Trung Miến, năm 1546 cai trị toàn cõi Miến Điện, thủ đô

đặt tại Pegu. Sau khi vua Tibinshweti băng hà, người anh rể Bayin Naung (1551 -

1581) lên cầm quyền đế quốc Miến Điện với lãnh thổ rộng lớn gồm Nabbisipura của

dân tộc Shan và Ayuthaya của Xiêm La.

Thế kỷ XVI Miến Điện là một quốc gia thống nhất và hùng mạnh, nhưng thời

gian này là một trong những giai đoạn khó khăn nhất đối với Phật giáo ở vùng Thượng

Myanmar - sự hủy hoại Tăng già được nổ lực gây ra bởi những nhà lãnh đạo người

Shan. Vua Thohanbwa (1527-1543) đặc biệt nổi tiếng với sự dã man của mình. Ông đã

phá hủy nhiều ngôi chùa tu viện và cướp kho báu. Mặc dù là một vị vua nhưng

Thohanbwa không có học thức và dốt nát. Do đó vì sợ ảnh hưởng của các tu sĩ và nghi

ngờ trong việc đi lại của họ, đức vua đã gây ra vụ thảm sát hàng ngàn người. Dưới chế

độ thảm sát của các nhà lãnh đạo Shan, người dân Myanmar cảm thấy không an toàn.

Nhiều người gồm cả các Tỳ kheo có học thức trốn sang Toungoo - thành trì của các

dân tộc Miến ở phía Nam. Mặc dù tình trạng hỗn loạn đang diễn ra khắp nơi, nhưng

một số bài luận quan trọng theo cấu trúc văn phạm tiếng Phạn được biên soạn ở vùng

Thượng Miến vào những năm này [26, tr. 93].

Dưới sự cai trị của Bayin Naung, Phật giáo Myanmar bước vào giai đoạn tái

sinh. Bayin Naung không chỉ thống nhất đất nước về chính trị, mà còn làm cho nguyên

lý Phật giáo trở thành tiêu chuẩn cho toàn bộ vương quốc của mình. Nhà vua cấm giết

21

mổ các động vật để hiến tế, cho xây dựng chùa và tu viện ở tất cả các vùng đất mới

chinh phục, tạo điều kiện cho các Tỳ kheo có học thức giúp những cư dân “mông

muội” thay đổi tín ngưỡng một cách nhẹ nhàng. Ngôi nhà tôn giáo chính của vua

Bayin Naung là chùa Mahàzedi - một tượng đài hùng vĩ với pho tượng Phật tại thủ đô

Pegu. Bayin Naung cũng đăng quang ngôi vị tại chính ngôi chùa với các đồ trang sức

trên vương miện của riêng mình, đây là một phong tục được thực hiện bởi nhiều nhà

lãnh đạo của đất nước. Ông tiếp tục truyền thống của Dhammazedi, trong việc hỗ trợ

Tăng già và tài trợ việc sắc phong cho nhiều Tỳ kheo trong lâu đài sắc phong ở

Kalyani gần Pegu. Người ta nói rằng, ông đã xây dựng nhiều tu viện bằng thời gian mà

ông ta tại thế trong cuộc đời mình. Vẫn còn là một điều bí ẩn về một vị vua có lòng

sùng kính sâu sắc và sự hòa phóng đối với tôn giáo của Đức Phật [26, tr. 95].

Sau khi nhà vua băng hà, người kế thừa dồn nổ lực bành trướng lãnh thổ, Miến

Điện rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nanda Bayin (1581 – 1599) nhiều lần ra lệnh

xuất quân tấn công Xiêm La. Để có đủ nhân lực, vật lực cung cấp cho chiến tranh, vua

bắt dân Môn nhập ngũ. Nhiều người Môn từ chối nên vào chùa xuất gia, vua bắt họ

hoàn tục, họ chạy đến Arakan và Xiêm La lánh nạn. Năm 1595, quân Xiêm phản công

đánh Pegu. Miến Điện bị thất thủ và phân tán thành nhiều tiểu quốc. Pegu – thủ đô

Miến Điện trước đây là một thành phố phồn vinh, là trung tâm Phật giáo Nam Tông

dưới thời vua Dhammazedi thế kỷ XV và dưới thời Bayin Naung thế kỷ XVI, giờ đây

trở thành một đống gạch vụn - Phật giáo Miến Điện bước vào giai đoạn suy thoái.

1.2.5. Phật giáo ở Myanamar (thế kỉ XVII – XIX)

Thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển năng động trong lịch sử Phật giáo ở

Myanmar. Các bản văn tự tiếng Pali được dịch sang ngôn ngữ Miến, tạo ra sự phát

triển vượt bậc trong việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp [26, tr. 101].

Atthasalini (Chú giải bộ pháp tụ), Sammohavinodana (Phân tích các uẩn),

Kankhavitarani (Giới pháp), Abhidhammatthavibhavini (Tạng vi diệu pháp),

Sankhepavannana (Luận A – tỳ - đàm), Abhidhammatthasangaha (Thắng pháp tập yếu

luận gồm Tâm Vương (Citta) - Tâm sở (Cetasika), Matika (Mẫu đề), Dhatukatha

(Luận giải về các yếu tố hay giới), Yamaka (Song đối), Patthana (Bộ duyên hệ – Bộ

vị trí), Kaccayana (Duyên khởi) và Nettippakarana (Hướng dẫn chú giải Tam Tạng)

22

đã được các học giả người Miến nghiên cứu và dịch sang ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của

họ. Việc chuyển tải các công trình này đã giúp ích rất nhiều cho người dân Myanmar

trong việc nghiên cứu Phật pháp; là những người bình dân, Tỳ - kheo hay trẻ con đều

có thể tiếp xúc với Đạo Phật mà không còn phụ thuộc vào các học giả người Ấn Độ.

Cũng chính trong giai đoạn này, trường học tu viện và chương trình giảng dạy của nhà

chùa được thiết lập và phát triển mạnh mẽ, đã có những đóng góp tích cực trong sự bồi

dưỡng trí tuệ và học vấn cho nhân dân.

Trong nửa sau của thế kỷ, vị Tỳ kheo Devacakkhobhasa đã thiết kế một hệ

thống cho việc nghiên cứu và giảng dạy về Patthana, cuốn sách cuối cùng của Vi Diệu

Pháp, mà ở Myanmar được cho là giáo lý cao nhất của Đức Phật. Vua

Devacakkhobhasa lúc bấy giờ bị chinh phục bởi sự uyên bác của Devacakkhobhasa

thể hiện trong giáo lý cao cả này, nhà vua đã ra lệnh cho Patthana được nghiên cứu và

giảng dạy trong tất cả các tu viện ở Myanmar. Sự nhấn mạnh vào vai trò của Vi Diệu

Pháp và Patthana một cách đặc biệt đã tồn tại ở Myanmar cho đến tận ngày nay.

Phong trào bắt đầu từ thế kỷ XVII những vẫn còn nguyên ý nghĩa đối với Phật giáo.

Hai mươi bốn nguyên tắc của Patthana có thể được tìm thấy trong các giới luật đối với

các Tỳ kheo, trên lịch và trên các áp phích. Trong một số tu viện, các tu sĩ được đánh

thức mỗi buổi sáng bằng hai mươi bốn tiếng chuông trên một thân cây rỗng, trong khi

các Tỳ - kheo đáng kính phải đọc thuộc lòng hai mươi bốn nguyên tắc trong Patthana.

Ngay cả các em nhỏ cũng học cách đọc hai mươi bốn nguyên tắc cùng với các bài kinh

được xem như một sự bảo vệ. Patthana được xem là lời giáo huấn cao nhất và khó

nhất của Đức Phật, nên người ta tin rằng Patthana sẽ là giáo lý đầu tiên bị thất truyền.

Để làm chậm sự suy giảm của lời dạy của Đức Phật, nhiều người Myanmar, Tỳ kheo

và giáo dân cùng nhau ghi nhớ Patthana và đọc nó hàng ngày [26, tr. 103].

Ở Pagan, những câu chuyện về tiền thân (Jataka) và lịch sử cuộc đời của Đức

Phật là đối tượng chính của nghiên cứu tôn giáo. Trong thế kỷ sau đó, ngữ pháp Pali

và nghiên cứu về Vinaya (Tuệ và giác ngộ) là quan trọng nhất trong các vấn đề nghiên

cứu. Phong trào cải cách của vua Dhammazedi, sự quan trọng và đóng góp của Vi

Diệu Pháp – những lời giáo huấn của Đức Phật; đã làm cho ngôn ngữ Miến phát triển

song hành cùng ngôn ngữ Pali, nền văn minh quốc gia được nâng cao với sự đóng góp

23

của giáo dục tu viện; Myanmar đã có một sự chuyển mình quan trọng không chỉ về

mặt Phật pháp mà bao gồm cả xã hội Myanmar. Do đó, thế kỷ XVII được xem là một

khúc quanh quan trọng trong sự phát triển Phật giáo ở Myanmar, tạo nền tảng vững

chắc cho sự phát triển cao hơn trong các thế kỷ kế tiếp.

Trong số các nhà lãnh đạo của thế kỷ XVIII, một số rất có quyền lực và chuyên

chế, trong khi những người khác không có hoặc bị tước mất quyền lực. Nhà vua cố

gắng mở rộng quyền lực của mình bằng chiến tranh, trong khi những người khác lại

hài lòng với cảnh bị mất nước. Có nhiều cuộc xung đột với Thái Lan và người dân

Myanmar phải chịu cảnh thiếu thốn vì chiến tranh luôn đòi hỏi người dân không chỉ ở

nước đi chinh phục mà còn ở nước bị chinh phục tham gia vào quân đội.

Cũng như Bayin Naung, Alaungpaya (1752 – 1760) thành lập một đế chế

Myanmar bao gồm vương quốc Môn, Pegu, Toungoo Henzada, Myaungmya, Bassein,

Sandoway, thống nhất Thượng Miến, Hạ Miến, thành lập triều đại Konbaung, đã cùng

dân Môn hợp tác phát triển xứ sở, kiện toàn tổ chức Phật giáo. Vua là một phật tử

ngoan đạo, thường tổ chức trai tăng vào ngày Bố Tát để cúng dường chư tăng.

Bodawpaya (1782 – 1819), con trai thứ năm của Alaungpaya lên ngôi, là một vị

vua thông minh, đảm lược, giúp Phật giáo giải quyết sự tranh chấp giữa hai phái

Parupana và Ekamsika đã kéo dài trên 100 năm (từ năm 1698). Sự phân hóa xuất phát

từ quan điểm và hành trì giới luật. Số là Gunabhilamkara, một nhà sư người Tunna,

khi đi khuất thực trong làng, tay cầm quạt lá, đầu che kín, không choàng y cả hai vai.

Một số tăng ủng hộ hành động này gọi là phái Ekamsika, trong khi chư tăng theo

truyền thống, khi đi khuất thực phải choàng y cả hai vai, không được để hở vai, gọi là

phái Parupana.

Với các vua tiền nhiệm sự mâu thuẫn này vẫn không được làm rõ, khi

Bodawpaya tại vị đã cho thành lập một ủy ban đi khắp các chùa Miến Điện, thu thập ý

kiến, sưu tập tài liệu, so sánh kinh, luật Phật từ trước đến thời bấy giờ. Phái Ekamsika

cho biết phương thức hành trì của họ không dựa vào giới luật truyền thống. Sau thời

gian nghiên cứu, phân tích vấn đề và dựa vào những dữ kiện thu thập được, vua ban

hành đạo dụ công bố phương thức hành trì của phái Parupana hoàn toàn đúng theo giới

luật Phật, chấm dứt sự tranh chấp giữa hai phái. Mâu thuẫn đã được giải quyết, tạo ra

24

một sự thống nhất trong Tăng già dưới sự lãnh đạo của một hội đồng Tỳ kheo cao cấp

do vua bổ nhiệm và bảo vệ sự thuần khiết về phẩm cách của Tỳ kheo, do đó các

Sangha thịnh vượng và phát triển mạnh mẽ dưới triều đại của Bodawpaya [18, tr. 117].

Ngoài công năng giải quyết tranh chấp trên, vua Bodawpaya còn tiếp tay giúp

đỡ tổ chức đại giới đàn thu nhận những Sadi không được Sri Lanka cho phép thọ Đại

giới. Số là vua Sri Lanka là Kiti Sri Rajasinha tuy là một ông vua hộ đạo, nhưng chính

sách của ông đối với Tăng già có phần kỳ thị đối với hàng bình dân, không phù hợp

với lối hành xử của Phật và truyền thống Phật giáo. Vua chỉ cho chư tăng Sri Lanka

thuộc giai cấp thượng lưu được thọ Tỳ kheo giới, còn các Sadi thuộc cấp hạ lưu không

được thọ Cụ Túc Giới. Một vị Sa di hiệu là Ambagahapitiya Nanavimalatissa cùng

một số Sa di khác đến Amarapura gần Ava năm 1799, thỉnh cầu chư tăng Miến Điện

truyền giới cho hàng Sa di Sri Lanka, khi đó năm vị tăng Miến Điện đã cùng các Sa di

này và mang theo kinh sách về Sri Lanka tổ chức đại giới đàn, truyền đại giới cho Sa

di Sri Lanka không phân biệt giai cấp, thành lập hệ phái Tăng già Miến Điện tại Sri

Lanka.

Triều đại Bodawpaya đã đánh dấu một bước ngoặt trong mối quan hệ giữa Phật

giáo Myanmar và Sri Lanka: từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII, Sri Lanka đóng vai trò

trọng yếu trong việc thiết lập hệ thống Phật giáo Nam Tông và hệ phái Sihala Sangha

trên nhiều quốc gia Đông Nam Á; nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, Myanmar đã giúp Sri

Lanka giải quyết vấn đề thọ giới, thành lập hệ phái Tăng già Miến Điện, tạo sự hòa

hợp giữa hàng tăng sĩ Sri Lanka trước chính sách kỳ thị của vương triều Sri Lanka.

Mặc dù vua Bodawpaya là một vị vua đạo đức và sùng đạo, nhưng mối quan

hệ của ông với Sangha phần nào cũng có vấn đề. Ông ủng hộ họ và thậm chí sử dụng

họ để mở rộng quyền lực cho mình nhưng dường như ông đã ghen tị với sự tôn trọng

mà các tu sĩ nhận được từ người dân. Lòng đố kỵ trở nên rõ ràng và ở mức độ khác

nhau. Nhà vua tuyên bố danh hiệu “Hpoungyi - người của Vườn Công đức” chỉ dành

riêng cho vua chứ không phải cho các chư tăng; ra lệnh thu hồi đất đai và các phẩm vật

ban tặng cho chùa và Sangha; buộc các Sangha xác nhận chính thức rằng ông là vị Bồ

Tát nhưng không thành công. Để tăng thêm danh tiếng cho mình, vua Bodawpaya áp

đặt đạo đức năm giới theo quy định của nhà vua và người phạm tội bị xử lý ngay lập

25

tức. Án tử hình cho những người bán và uống rượu, giết chết động vật lớn như trâu,

lan truyền quan điểm dị giáo, và hút thuốc phiện. Bodawpaya đã cai trị đất nước bằng

một bàn tay thép. Người kế nhiệm ông là người nhân từ, nhưng có thể họ có thể được

như vậy chỉ vì nỗi sợ hãi cai trị của ông đã thấm nhuần trong dân chúng [26, tr. 116].

Kế vị vua Bodawpaya là vua Bagyidaw (1819-1837), là người đầu tiên trong

các vị vua Myanmar để mất lãnh thổ cho quân xâm lược đến từ phương Tây. Tuy

nhiên, Bagyidaw đã đóng góp rất quan trọng đến sự phát triển của Sangha và văn học

của Myanmar nói chung. Cha ông - Bodawpaya, đã đoàn kết Sangha bằng cách giải

quyết các tranh chấp liên quan đến việc xếp nếp của chiếc áo choàng trên một hoặc hai

vai. Bagyidaw thấy sự cần thiết của việc tạo ra sự ổn định cho các Sangha. Nhà vua

cảm thấy rằng điều này có thể đạt đến một mức độ nào đó bởi nó có một ý nghĩa lịch

sử và lịch sử của Phật giáo bắt đầu từ thời Đức Phật, đã được để hiển thị một cách

không gián đoạn về truyền thống tinh khiết thông qua con người, từ trẻ con cho đến

người trưởng thành. Bagyidaw cho biên dịch sách Hman-nan-ya-za-win, Biên niên sử

về Cung điện thủy tinh, đây là một công trình lịch sử thế tục của Myanmar. Và nhà vua

cảm thấy rằng việc thiếu một tác phẩm ghi chép về lịch sử của Phật giáo nguyên thủy

sẽ phát sinh những quan điểm sai lầm trong nhân dân cũng như trong hệ thống Sangha,

nhưng đây không phải là công việc dễ dàng và hoàn thành trong một thời gian nhất

định [26, tr. 120].

Trải qua các triều vua Tharawaddy - Min (1837 - 1846), Pagan - Min (1846-

1852) và Mindon (1852 - 1877) với sự sáp nhập hoàn toàn Myanmar bởi người Anh,

một thời đại lịch sử đã kết thúc: Phật Giáo Nguyên Thủy được phát triển tại Myanmar

trong hơn hai thiên niên kỷ phải đứng trước nguy cơ bị đe dọa và tấn công bởi một tôn

giáo mới – Thiên Chúa giáo.

26

Tiểu kết chương 1

Myanmar được biết đến là một quốc gia đa sắc tộc, với hơn 135 sắc tộc cùng tồn

tại với nhiều ngôn ngữ và tập quán khác nhau, kết hợp với sự chia cắt về mặt lãnh thổ,

đã khiến cho vấn đề sắc tộc ở Myanmar trở thành một vấn đề nan giải.

Tuy nhiên, sự thống nhất trong một tôn giáo chung – Phật giáo đã góp phần mang

những cá nhân trong cộng đồng dân tộc Miến xích lại gần nhau. Với hơn 90% dân số

theo Phật giáo Tiểu thừa, Myanmar được mệnh danh là thiên đường của những chùa

tháp nổi tiếng uy nghi trầm mặc. Và Pagan là một thành phố bất tử.

Phật giáo đã du nhập vào Myanmar từ thế kỷ III TCN. Trải qua quá trình tồn tại

và phát triển (TK V – X ở vương quốc Môn – Pyu), Phật giáo Tiểu thừa chính thức trở

thành tôn giáo dân tộc dưới thời trị vì của Anawrahta. Anawrahta đã mở đầu một giai

đoạn mới trong lịch sử Miến Điện – lịch sử khai quốc Miến Điện; Pagan trở thành

ngọn nguồn của đất nước, để từ đây bắt đầu hình thành tinh thần và văn hóa dân tôc

Miến. Muôn đời các thế hệ người Miến vẫn coi Pagan là một cõi đi về cội nguồn dân

tộc.

Thế kỷ XIII – XVII, Myanmar trở thành đế quốc dưới triều đại Toungoo và Phật

giáo Tiểu thừa bành trướng một cách mạnh mẽ ở Hạ Miến. Từ quốc vương

Dhammazedi cho đến Bayin Naung, nguyên lý Phật giáo trở thành tiêu chuẩn cho toàn

bộ vương quốc. Thế kỷ XVII, là khúc quanh quan trọng trong Phật giáo Myanmar.

Đây là giai đoạn bùng nổ với vô số kinh điển Phật giáo từ tiếng Pali được dịch và biên

soạn sang tiếng Miến, ngày nay Myanmar nổi tiếng về việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp

là do đóng góp rất lớn của những con người tài giỏi trong giai đoạn này (nhà vua, các

bậc chân sư, tăng đoàn Sangha). Trong hệ thống kinh điển, Patthana – 24 nguyên tắc

về giới luật được cả nhân dân và chư tăng tụng đọc và thực hành hằng ngày.

Nửa sau thế kỷ XIX, các nhà truyền giáo đã đến Myanmar. Phật giáo đang bị đe

dọa bởi một tôn giáo mới – Thiên chúa giáo. Cả đất nước Myanmar và Phật giáo đang

đứng trước một sự đổi thay lớn trong các thế kỷ tiếp theo: thực dân Anh xâm lược

Myanmar.

27

Chương 2.

PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948

Vào thế kỷ XVI, các quốc gia châu Âu bắt đầu nô dịch các nước ở châu Á, châu

Mỹ, châu Phi và những vùng khác của thế giới. Các quốc gia châu Âu đã đưa người

của đến những vùng đất mới để thiết lập chính phủ và cai trị cư dân địa phương sống ở

đó. Trong khu vực Đông Nam Á, người Bồ Đào Nha đến đầu tiên và sau đó là Anh –

Hà Lan – Pháp và những tên thực dân khác. Người Anh đã thành lập một đế chế ở Ấn

Độ vào thế kỷ XVII, trong thế kỷ XIX đế chế của họ bao gồm cả Myanmar [34, tr. 13].

Trước khi thực dân Anh đến, vào thế kỷ XVIII, Myanmar là một quốc gia thống

nhất hùng mạnh nhất Đông Nam Á. Quân Mông – Nguyên mang quân xâm chiếm

Myanmar nhưng cả bốn lần đều thất bại.

Vua Alaungpaya (1752 – 1760) là người đặt nền móng đầu tiên cho triều đại

Konbaung – triều đại hoàng gia Miến Điện cuối cùng. Cũng giống như các vua

Toungoo, các nhà cầm quyền Konbaung đã đẩy mạnh chiến tranh và chinh phục vùng

đất của người Môn - Arakan và Xiêm. Đặc biệt khi Bodawpaya lên ngôi vua thì các

cuộc chiến tranh xâm lược Xiêm và Arakan diễn ra càng quyết liệt hơn. Những cuộc

chiến tranh này đã tàn phá nặng nề nhà cửa, ruộng đồng của nhân dân gây thiệt hại lớn

về vật chất và sinh lực. Vì thế mâu thuẫn nội bộ giai cấp phong kiến cầm quyền ngày

càng gay gắt, các cuộc nội chiến và chính biến cung đình xảy ra thường xuyên. Điều

này làm cho mâu thuẫn xã hội lên cao, đẩy Miến Điện lâm vào tình trạng khủng hoảng

nặng nề và không còn đủ sức đối phó với các cuộc tấn công xâm lược của Anh. Nền

quân chủ độc lập của Hoàng gia Miến thật sự kết thúc khi phát súng xâm lược của thực

dân Anh bùng nổ ở Miến Điện vào năm 1824.

2.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar và những chính sách đối với Phật giáo

2.1.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar

Thực dân Anh đánh chiếm Myanmar với mục đích củng cố vai trò đế quốc của

mình tại Ấn Độ, tách các nước Arakan, Assam, Manipur thần phục Miến Điện dưới

thời vua Bodawpaya ra khỏi nước này và muốn củng cố vị trí của mình ở Đông Nam

Á, loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp tại Ấn Độ và Miến Điện. Về kinh tế, chính

quyền Anh sau khi chiếm Miến Điện làm thuộc địa đã tiến hành khai thác triệt để

28

nguồn tài nguyên dồi dào nhất là gỗ, đá quý (hồng ngọc) và làm bàn đạp để mở rộng

thương mại với Trung Hoa, qua trung gian Miến Điện – quốc vương Myanmar được

xem là nhà buôn lớn nhất, giao thương với Trung Hoa đóng vai trò vô vùng quan

trọng, nhất là nghành xuất khẩu bông gòn từ Myanmar sang. Đối với tôn giáo, họ

muốn biến đổi tôn giáo truyền thống ở Miến Điện là Phật giáo bằng cách yểm trợ cho

những nhà truyền giáo thuộc giáo hội Baptist và Baptist hóa Miến Điện.

Vào năm 1819, Anh đã chiếm xong Singapore và đầu những năm 1820 chấm

dứt các cuộc chiến tranh chống Nepal và người Marath. Nếu như quan điểm ban đầu

của người Anh về Myanmar chỉ là một phần mở rộng của Ấn Độ cả về kinh tế – chính

trị và văn hóa, thì cho đến khi nền móng cai trị được gây dựng từ giữa thế kỷ XVIII đã

trở nên vững chắc ở miền Đông Ấn Độ và nhu cầu cấp thiết cho việc phòng thủ biên

giới phía Đông khiến người Anh chú ý đến vùng đất này. Myanmar trở thành đối

tượng quan trọng trong sự toan tính thực dân trực tiếp [17, tr. 235]

Cho đến những năm đầu của thế kỷ XIX, Vương triều Konbaung Miến Điện

vẫn tiếp tục mở rộng ảnh hưởng ra xung quanh bằng các cuộc chinh phục. Vương quốc

Miến Điện đã mở rộng quyền kiểm soát của mình qua vùng Arakan tiếp giáp với

Bengal. Những người tị nạn bỏ chạy qua biên giới và từ đó tổ chức các cuộc đấu tranh

chống lại người Miến. Tháng 07/1822, Miến Điện gửi đến Calcutta bức thư đòi Anh

phải trao trả những người tị nạn nhưng không được quân Anh chấp nhận, người Anh

càng đẩy mạnh công cuộc thôn tính Miến Điện. Quan hệ Anh - Miến Điện ngày càng

căng thẳng và những cuộc xung đột biên giới giữa Anh - Miến Điện diễn ra thường

xuyên. Phía Anh đòi Miến Điện rút quân khỏi công quốc Ấn Độ như Atsam, Kasa,

Manipua… mà Miến Điện chiếm trước đây. Phía Miến Điện đã chiếm được Bengal và

nhất quyết đòi trao trả những người tị nạn chính trị, nếu không họ sẽ tiến đến

Chittagon.

Năm 1823, Anh và Myanmar tranh chấp với nhau về đảo Xapuri giữa sông

Naaf – biên giới tự nhiên giữa Rakhain và Bengal. Miến Điện bắt giữ thuyền từ Bengal

vào Rakhain do không chịu nộp thuế và một số người của công ty Đông Ấn vượt sông

sang đất Rakhain. Toàn quyền Anh Amherst cho tăng cường phòng thủ, yêu cầu Miến

Điện vạch đường biên giới cụ thể. Hai sĩ quan Anh sau đó tới điều tra tình hình bị

29

quân Miến bắt giữ. Một đơn vị Anh liền đổ bộ lên chiếm đảo Xapuri. Tổng đốc

Rakhain gửi thư cho toàn quyền Anh và thủ hiến Chittagon phản đối, yêu cầu rút đơn

vị Anh khỏi đảo. Đêm 23 rạng sang 24 tháng 9, quân Miến Điện quét sạch đơn vị này

[17, tr. 236].

Tháng 01/1824, trong cuộc đàm phán tại Maundo, phía Anh đòi sở hữu hòn

đảo, phía Miến Điện yêu cầu trung lập. Năm 1824, quân Miến Điện chia hai cánh tiến

đánh Calcutta. Theo kế hoạch, một cánh qua Cachar vào, còn cánh kia từ Rakhain tiến

sang. Ngày 17/01, cánh Cachar bị đánh bại ở làng Bokrampua. Sau vài giao tranh nhỏ,

viên chỉ huy cho rút quân. Cánh Rakhain do tổng tư lệnh Maha Bandula chỉ huy thì

đánh thắng đơn vị Anh do một đại úy chỉ huy ở Rama, gây không khí hoảng loạn ở

Calcutta. Nhưng Pandula không thừa thế tiến thêm mà dừng lại chờ cánh quân Cachar,

vì thế bỏ lỡ cơ hội chiếm Chittagon.

Ngày 05/03/1824, Anh tuyên bố tình trạng chiến tranh với Miến Điện. Trong

cuộc chiến tranh Anh – Myanmar lần thứ nhất (1824 – 1826), do lúc này thế lực của

Miến Điện còn mạnh nên Anh gặp khó khăn trong việc chinh phục, cả Anh và Miến

Điện đều chịu nhiều tổn thất. Phía Anh đã bị thiệt hại đến 15.000 người; trong đó phần

nhiều là quân sĩ Ấn Độ dưới quyền điều khiển của Anh và 3.586 quân sĩ Anh. Về phía

Myanmar, tướng Maha Bandula tử trận vào tháng 4 năm 1825 cùng với 3.115 binh sĩ.

Hòa ước Yandabo được ký kết giữa Anh và Miến năm 1926. Miến phải nhường

hai tỉnh Arakan và Tenasserim cho hãng Đông Ấn, bồi thường 1.000.000 bảng Anh,

trả bốn kỳ trong hai năm đồng thời chấp nhận sự có mặt Quan Khâm Sai Anh trong

cung đình Miến [18, tr. 50].

Vào cuối triều vua Bagiyidaw (1819 - 1837), người dân Miến không có gì thiện

cảm với người Anh vì họ cho rằng người Anh không giữ cam kết khi ký hòa ước

Yandabo. Quan Khâm Sứ Anh lạm quyền. Tuy nhiên, vua Bagiyidaw vẫn giữ thái độ

ôn hòa để lấy lại hai tỉnh đã mất nhưng không có kết quả, làm cho nhiều thành phần

yêu nước của Miến Điện bấy giờ bất mãn.

Nhân cơ hội này, Hoàng tử Tharawaddy em của vua nổi dậy làm cuộc đảo

chính, lên làm vua vào năm 1837 và quyết định chấm dứt mọi liên hệ với Anh quốc,

30

bãi bỏ hòa ước Yandabo. Năm 1840, Quan Khâm Sứ của Anh rút lui khỏi Miến Điện,

vì không được tiếp đãi theo nghi lễ. Mọi liên hệ giữa Anh và Miến xem như kết thúc.

Chiến tranh kết thúc nhưng mối quan giữa chính quyền Anh và Miến không có

phần giảm nhiệt vì bất đồng về quyền lực và kinh tế. Vào thập niên 1840, Yangon trở

thành trung tâm thương mại quan trọng giữa Anh và Trung Hoa; bông gòn, gỗ lim và

đồ gia vị là những sản phẩm trao đổi chính yếu giữa hai nước. Năm 1841, vua

Tharawaddy tuyên bố gỗ lim là độc quyền của hoàng gia Miến cho nên các thương gia

Anh bất mãn.

Anh lấy cớ triều đình Miến gây khó khăn cho thương gia Anh tại Yangon,

muốn biến Hạ Miến trực thuộc chính quyền Anh. Triều đình Miến chỉ định Maung Ok

làm Tổng đốc năm 1850. Để tái thiết Yangon sau khi bị hỏa hoạn, Maung Ok quyết

định tăng thuế, gây khó khăn và phạt các thuyền trưởng người Anh. Toàn quyền Anh

ra lệnh Đề Đốc Hải quân Anh là George Robert Lambert đến Miến Điện điều tra. Khi

đến Miến Điện, George Robert Lambert ra phán quyết cho Tổng đốc Maung Ok rằng,

ông không xứng đáng để giao tài sản và sinh mệnh người Anh, sau đó gởi tối hậu thư

đến triều đình Miến Điện và đưa chiến hạm đến Yangon tạo cớ để chiến tranh bùng nổ

vào năm 1852. Quân đội Anh trang bị vũ khí hiện đại, nên không bao lâu đã đánh

chiếm Yangon, rồi Hạ Miến và đến Toungoo. Toàn quyền Dalhousie tuyên bố sáp

nhập Pegu với thượng Miến, mọi vấn đề đều do chính quyền Anh định đoạt, triều đình

Miến Điện hoàn toàn mất chủ quyền ở vùng này. Việc mất Pegu là một thảm họa đối

với Miến Điện vì nước này sẽ không có cửa ngõ đi ra biển, không thể liên hệ với thế

giới bên ngoài ngoại trừ với Trung Hoa thông qua đường bộ. Tại thủ đô Miến Điện

bấy giờ là Mandalay diễn ra cuộc đảo chính, vua Pagan bị truất phế. Vua Mindon Min

lên thay thế thi hành chống lại chính sách xâm lăng của Anh, đồng thời đức vua cũng

cố gắng hòa hoãn và có thái độ thân thiện với Anh hy vọng Anh sẽ trả lại Pegu, nhưng

kết quả không như mong muốn vì người Anh đã tìm cách chiếm đoạt những phần còn

lại của lãnh thổ Miến Điện.

Vua Mindon Min cũng chịu nhiều áp lực từ chính quyền Anh, trong hai năm

1866 - 1867 có nhiều vụ nổi loạn của dân tộc Shan ở Thượng Miến, con trai vua nổi

lên làm loạn giết em trai của vua, tình hình chính trị rối rắm, vua phải yêu cầu chính

31

quyền Anh giúp đỡ. Chính quyền Anh đặt điều kiện là triều đình Miến Điện không

được giữ quyền xuất cảng, ngoại trừ đá quý - dầu hỏa - cây rừng, phải giảm thuế cho

thương gia Anh và cho phép công dân Anh sử dụng luật lệ Anh; công dân Anh - Ấn

được xét xử tại tòa án gồm đại diện chính quyền Anh và đại diện cấp cao của chính

phủ Miến Điện. Vua đồng ý cho Quan Công Sứ cư trú tại Bhamo và thương thuyền

thuộc hãng Irawaddy Flotilla Company được phép đi lên thượng nguồn một tuần một

lần [18, tr. 56].

Năm 1873, vua Mindon đã gởi phái đoàn ngoại giao đến London để điều đình

trực tiếp với chính phủ Anh, sau đó viếng thăm Pháp và Ý. Chính quyền Pháp và Ý đã

tiếp phái đoàn ngoại giao của Miến một cách trang trọng với đầy đủ lễ nghi của bộ

ngoại giao, phái đoàn ngoại giao của Miến Điện đã ký hiệp ước thương mại và xây

dựng đường xe lửa với hai chính phủ này; trong khi nữ hoàng Anh tiếp phái đoàn của

triều đình như là một bộ phận của Ấn Độ thuộc Anh.

Sau vụ thảm sát một viên chức người Anh từ Thượng Hải đến Miến Điện là

Augustus Margary, tình hình quan hệ giữa Anh và triều đình của vua Mindon càng lúc

càng xấu đi. Chính quyền Anh ra chỉ thị đối với vua Mindon là trong tương lai, đại

diện của Anh ở Mandalay sẽ không cởi giày dép khi tiếp kiến nhà vua. Toàn quyền

Lord Northbrook ra lệnh cho các nhân viên đại diện chính phủ Anh đến gặp hoàng gia

Miến không cởi giày dép trước khi bước vào cung điện. Kết quả điều đình giữa Anh và

Miến không thành. Trong tình thế ấy, vua Mindon băng hà.

Vua Mindon băng hà năm 1878, con trai Thibaw kế vương vị, nội bộ triều đình

Miến Điện bấy giờ lộn xộn, lực lượng chống Anh tại Miến Điện ngày càng gia tăng

thế lực. Cuộc hội đàm giữa hai chính phủ Anh - Miến tại Simla bị đình hoãn, lực

lượng chống Anh đòi hủy bỏ hiệp ước Yandabo giữa Anh và Miến năm 1826, xác định

sự độc quyền của nhà vua về các sản phẩm ở Miến và hạn chế sự tự do đi lại của nhân

viên Anh trên đất Miến. Triều đình Miến gởi một phái bộ ngoại giao đi châu Âu để

yêu cầu viện trợ, học hỏi kỹ thuật để áp dụng và canh tân đất nước.

Thỏa ước Pháp Miến được ký kết tại Paris ngày 15 - 1 - 1885, trong đó chấp

nhận Pháp được quyền buôn bán, thiết lập tòa lãnh sự tại Miến và được thừa hưởng ân

huệ kinh tế đặc biệt. Sau khi thỏa ước đã được ký kết khoảng mười ngày, Jules Ferry

32

lên làm Thủ tướng Pháp, nói với bá tước Anh là Lyons đang làm đại sứ Anh tại Pháp

rằng: Miến Điện là nước láng giềng của các quốc gia thuộc địa Pháp, nên cần phải có

thỏa ước về biên giới. Qua sự kiện vừa nêu, người Anh tạo ra những tin tức thiếu

chuẩn xác về quan hệ giữa Pháp và Miến để kiếm cớ can thiệp sâu vào nội tình triều

đình Miến.

Vào tháng 11 năm 1885 (chiến tranh Anh – Myanmar lần ba), quân đội Anh

tiến chiếm Mandalay, trong vòng 15 ngày, thiệt hại 10 binh sĩ. Quân đội Anh hống

hách, đi giày vào trong cung điện, ra lệnh hoàng gia phải rời khỏi hoàng cung trong

vòng 45 phút, không được cưỡi voi ra cửa thành, chỉ đi xe bò đến hải cảng để đi đến

Ấn Độ. Họ đã phế truất vị vua cuối cùng – Thibaw một cách dễ dàng, lừa dối triều

đình và nhân dân là đang đưa một hoàng tử sống lưu vong lên ngôi thay thế vua

Thibaw. Người Anh do nhầm lẫn về tên gọi của tộc người lớn nhất Barma nên đã gọi

đất nước này là Burma và người dân ở đây là Burmese.

Có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan để biến Myanmar từ một quốc

gia phong kiến độc lập trở thành thuộc địa của đế quốc Anh.

Thứ nhất, năm 1784 Miến Điện sau khi sáp nhập được Arakan, vô hình chung

đã hình thành một đường ranh giới chung giữa Bengal của Công ty Đông Ấn Anh

(công ty này lúc đó đã trở thành một lực lượng chính trị quyết định ở Ấn Độ) với Miến

Điện. Chính sách che chở những người Arakan di cư là khát vọng của nhà cầm quyền

Anh muốn dùng áp lực và tìm cách len lỏi vào Miến Điện.

Thứ hai, người Anh quan tâm đến Miến Điện với ý đồ muốn mở rộng hoạt động

của công ty Đông Ấn với mục đích làm cho đại diện của họ được công nhận ở Miến

Điện.

Thứ ba, Miến Điện là là đối tượng cạnh tranh trực tiếp giữa Anh và Pháp – hai

con hổ phương Tây tranh giành nhau những cơ hội thương mại với Trung Quốc qua

thành phố Bhamaw.

Thứ tư, thắng lợi của thực dân Anh trong cuộc chinh phục Miến Điện là do sự

suy yếu về các mặt kinh tế – chính trị – quốc phòng của triều đình phong kiến

Konbaung. Nguyên nhân chính yếu của tình trạng này là do các đời vua Miến luôn có

tham vọng chinh phục con người và mở rộng đất đai, các cuộc chiến tranh liên miên đã

33

làm cho đất nước Miến Điện rơi vào tình trạng kiệt quệ về kinh tế và bất ổn về chính

trị.

Thứ năm, Miến Điện nhanh chóng trở thành thuộc địa của Anh bởi thực dân

Anh hơn hẳn Miến Điện về trình độ phát triển. Đây là một sự thật lịch sử mà không ai

có thể chối cãi được. Phải đối đầu với một tên đế quốc thực dân được xem là công

xưởng của thế giới với những vũ khí tối tân hiện đại thì những mũi tên thô sơ và sự

thất bại của Miến Điện vào thời điểm bấy giờ là điều không thể tránh khỏi. Việt Nam –

Lào – Campuchia – Indonesia… và hàng loạt các quốc gia Đông Nam Á khác cũng

cùng chung số phận với Myanmar.

Như vậy, cho đến 1885, nền độc lập của hoàng gia Miến Điện chấm dứt, người

Anh đã hoàn thành việc kiểm soát Miến Điện. Hệ quả đưa đến là xã hội truyền thống

Miến Điện bị thay đổi nhanh chóng bởi sự sụp đổ của chế độ quân chủ và sự tách rời

giữa tôn giáo và nhà nước, khi đó bản chất kinh tế xã hội cũng bị thay đổi một cách

đáng kể [35, tr. 1].

2.1.2. Những chính sách đối với Phật giáo

Trải qua các triều đại phong kiến độc lập, dưới sự bảo trợ của nhà vua và sự

cúng kính của nhân dân, Phật giáo được truyền bá rộng rãi và phát triển thịnh vượng ở

Myanmar.

Ở Miến Điện, vua Miến là người có quyền hành và có trách nhiệm giữ gìn cho

đạo Phật được “tinh khiết”, là người bảo vệ đạo Phật. Mỗi vị vua khi xây dựng cung

điện cũng luôn quan tâm đến việc tạo dựng những ngôi chùa - thiền viện nhằm thể

hiện sự thành tâm và công đức của họ đối với đạo Phật. Kể từ thời vua Anwrahta trị vì,

và trong thời gian trị vì, trong vương quốc đã có hàng ngàn đền, chùa được xây dựng.

Theo một bài dân ca địa phương “tiếng cót két của những bánh xe bò”, đếm số những

ngôi đền chùa cho thấy ở Pagan có hơn 4000 - chính ước vọng tôn giáo cao đẹp là một

nhân tố giúp con người lao động quên mình. Chùa chiền thi nhau mọc lên khắp quê

hương Miến Điện và nơi đây được mệnh danh là “vùng đất chùa tháp - vùng đất của

Phật”.

Dưới sự bảo trợ của đức vua, các nhà sư không phải lao động, không phải phu

phen tạp dịch mà sống nhờ vào tặng vật của nhà nước và nhân dân. Vua cấp cho nhà

34

chùa rất nhiều ruộng đất hoặc cho hưởng thuế cả một vùng. Không những thế, chính

quyền còn ban phẩm trật, bảo trợ tổ chức đại giới đàn, tổ chức những kỳ thi Phật hoc,

tổ chức tang lễ đại qui mô cho những bậc cao tăng khi viên tịch, chư tăng chỉ được xử

trong tòa án Giáo Hội, nhà chùa có thể dung chứa những người phạm pháp biết quy y

hối cải, chư tăng và thân quyến khỏi đóng thuế… Ngoài ra chính quyền còn cho thiết

lập Hội Đồng Giáo phẩm, dưới sự điều khiển của vị Tăng Thống do nhà vua tuyển

thỉnh [18, tr. 319].

Để đáp lại sự ưu ái của chính quyền trong vai trò hộ đạo, Phật giáo dấn thân ở

Myanmar, giáo Pháp của Đức Phật từ trong kinh điển bước vào đời sống con người,

uốn nắn và nuôi dưỡng nhân dân Miến, tạo nên một tập thể con người từ vua – quan

đến thường dân đều cung kính và tin theo Phật giáo. Phật giáo chính là cuộc sống -

cách sống của người Myanmar. Nhà chùa chính là trường học, trẻ con đều học tập ở

chùa, được học tính và kinh kệ, văn học. Các bài thơ mà nhà sư dạy cho các em học

được lấy cảm hứng chủ đề từ Phật giáo. Trong đó có bài ca ngợi vua, có bài ca ngợi

Phật và có bài kêu gọi con người làm điều thiện. Chư tăng hành hoạt như người trung

gian giữa chính quyền và dân chúng. Họ giúp dân chúng tránh sự cai trị hà khắc, bất

công, họ giúp chính quyền bằng cách khuyên nhủ dân chúng tuân thủ pháp luật. Họ

còn thường can thiệp xin nhà vua miễn án tử hình, bảo vệ người nghèo khó, yếu hèn bị

quan chức hiếp đáp, bóc lột, đề nghị biện pháp giúp đỡ nạn nhân thiên tai, thiên

chuyển những viên chức chính quyền không được lòng dân, ngay cả can thiệp việc

chính quyền sung công bất động sản của dân.

Rõ ràng có một sự quan hệ tương liên mật thiết giữa chính quyền và Giáo Hội.

Đó là mối liên hệ tương duyên, tương trợ. Nhà vua một mặt hộ trì chánh pháp, mặt

khác thanh tịnh hóa thiền môn, loại trừ những phần tử không nghiêm túc trong tổ chức

Tăng Già – Sangha, mặt khác không để cho Giáo Hội trở thành một thế lực chính trị

độc lập làm thương tổn an ninh, trật tự quốc gia. Về phía Giáo Hội, ủng hộ vương

quyền đồng thời bảo vệ quần chúng khỏi ách độc tài, bóc lột qua ảnh hưởng đạo đức

và trí tuệ của hàng ngũ Tăng Già.

Nói như vậy không có nghĩa là vào thời quân chủ, Phật giáo luôn luôn được hậu

đãi, không gặp tai kiếp. Vua Thahanbwa, thế kỷ XVI, không những tịch thu tất cả bảo

35

vật trong chùa mà còn triệt hạ chư tăng. Ông tổ chức trai tăng, mời chư tăng đến kinh

thành Ava rồi ra lệnh tàn sát tập thể, 360 vị tăng bị sát hại cùng nhiều kinh sách bị tiêu

hủy. Vào thế kỷ XVIII, Alaungpaya ra lệnh quăng 3000 nhà sư người Môn dưới chân

voi vì cho những người này đã giúp dân Môn chống lại triều đình. Chùa chiền bị phá

hoại, bình bát và các vật dụng khác của chư tăng cũng bị hủy hoại [18, tr. 220].

Dù thế nào đi chăng nữa, nhà vua ở Myanmar vẫn là những vị “hộ pháp” đáng

kính và quan trọng bậc nhất đối với Phật giáo. Họ có nhiệm vụ bảo vệ Phật Pháp, duy

trì tính chất thuần khiết của Tăng Già, họ được mời tham dự hội bàn nội bộ Tăng Già,

nhất là khi có những tranh luận hay bất đồng ý kiến về giáo lý và giới luật. Thật vậy từ

khi nền quân chủ tại Miến Điện bắt đầu cho đến ngày cáo chung, nhà vua đã tích cực

tham gia, cung cấp phương tiện, cải cách giáo hội. Sau khi phái Sinhala (Sri Lanka)

được thành lập tại Miến Điện, được Tăng Già Miến Điện xem như mô hình gương

mẫu là nhờ sự can thiệp của vua Narapatisithu vào thế kỷ XII. Cũng như vậy, chính

vua Dhammazeti là người có công làm cho giáo phái này được ở vị trí độc tôn vào thế

kỷ XV bằng cách thanh lọc hàng ngũ Tăng Già, thanh lọc những phần tử không

nghiêm trì giới luật theo quan điểm của giáo phái Sri Lanka, loại trừ những vị sư làm

nghề phù phép, bói toán, tích lũy tài sản, những kẻ thiếu thành tín. Tất cả những biện

pháp dùng để thanh tịnh hóa Tăng Già đều do vua chủ xướng, chứ không phải do chư

tăng và chư tăng hoan hỷ hợp tác, theo gương nhà vua [18, tr. 221].

Cụ thể như sự xung khắc giữa hai phái Ekamsika và Parupana suốt hàng thế kỷ,

suốt bốn triều đại, phái nào cũng muốn được sự ủng hộ của triều đình cho đến thời vua

Bodipaya, nhờ sự quyết tâm của nhà vua mới giải quyết được. Nhà vua xen vào nội

tình của Phật giáo cho đến ngày tàn của chế độ, khi vua Mindon nhận thấy một số nhà

sư không nghiêm trì giới luật – ăn trầu sau giờ ngọ, hút thuốc, đi vào làng mang dù, đi

giày dép… vua dùng biện pháp mạnh bắt những nhà sư ấy tuân thủ giới luật.

Như vậy, cho đến thế kỷ XVIII, Phật giáo được xem là linh hồn của dân tộc –

quốc gia Myanmar, là thành trì vững chắc cho thế giới Phật giáo Tiểu thừa đã tồn tại

và phát triển một các rực rỡ dưới sự bảo trợ của chế độ quân chủ. Phật giáo giữ vai trò

trung gian là mối dây gắn kết các thành phần, các sắc tộc trong xã hội Miến Điện, và

vai trò ấy vẫn còn phát huy một cách hiệu quả cho đến ngày nay. Giáo lý Phật giáo

36

chính là nền tảng tư tưởng cho sự phát triển về đạo đức, tâm linh, ngôn ngữ, văn học

và nghệ thuật. Có lẽ, nền nghệ thuật Myanmar dường như chỉ dành riêng cho những

công trình tôn giáo hoặc xoay quanh đề tài tôn giáo. Nghệ thuật chủ yếu là một cách

để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Phật và những lời dạy của Ngài về hòa bình, thiện ý

và tình yêu. Từ buổi đầu của những nền văn minh và kéo dài cho đến ngày nay, khái

niệm nghệ thuật được hiểu gần như là một hình thức của sự thờ phụng trí tuệ Đức Phật

và nó gần như chẳng thay đổi gì mấy theo thời gian [23, tr. 26]. Cũng như các nền

nghệ thuật sơ khai khác, nghệ thuật Myanmar có nguồn gốc từ tín ngưỡng – Phật giáo.

Có rất nhiều sáng tác của các họa sĩ tài hoa đã hiến dâng tình yêu không chỉ của bản

thân họ cho Đức Phật. Những bức tranh tường thời trung đại có thể nhìn thấy ở những

ngôi chùa hang Po Win Taung của quận Monywa và chùa Ratna Theingu gần làng

Myauk Myay thuộc thành phố nhỏ Paleik. Còn những bức tranh tường thời kỳ Pinya

ngắn ngủi thì có thể nhìn thấy ở chùa Aung Myay Lawka thuộc làng Chaung Oo;

những ngôi chùa Yoke Son và Lawka Aung Myay của làng Kin Bun đều ở quận

Monywa; chùa Shinpin Sakyo ở Salay và trong nhiều ngôi chùa nhỏ khác rải rác khắp

vùng Thượng và vùng trung tâm Myanmar [23, tr. 21].

Mặc dù Miến Điện dưới sự cai trị của người Anh không phải là nước bị đàn áp

về tôn giáo như Sri Lanka. Việc Âu hóa ở Miến không diễn ra quá mạnh đến nỗi ảnh

hưởng nhiều đến đời sống văn hóa của người Miến, bởi vì Miến Điện do Anh cai trị

chỉ như một phần của Ấn Độ và thời kỳ thuộc Anh cũng ngắn hơn nhiều so với Sri

Lanka. Tuy nhiên, nhân tố quan trọng duy nhất phá vỡ xã hội truyền thống Miến Điện

chính là sự thờ ơ của người Anh đối với tăng đoàn Phật giáo. Nền văn hóa – lịch sử

của Myanmar luôn hướng đến Phật giáo, đây là nét đặc trưng riêng biệt của Myanmar

nhưng những kẻ đi chinh phục thực dân Anh đã cố tình làm ngược lại. Đây là một sai

lầm mà lịch sử đã thừa nhận trong chính sách cai trị của thực dân Anh.

Việc xóa bỏ chế độ quân chủ đã làm nảy sinh một vấn đề quan trọng về địa vị

của tổ chức Phật giáo dưới chế độ mới. Sau khi hoàn thành quá trình xâm lược và đặt

ách cai trị, nhà cai trị Anh đã có thái độ tiêu cực với Phật giáo. Những người đã từng

phục vụ lâu năm ở Miến Điện, nhất là đại tá (sau này là ngài Edward) Sladen – người

đã biết rõ vua Mindon, đã đề nghị chính phủ mới nên ủng hộ quyền lực Phật giáo

37

giống như các vị vua Miến Điện đã làm. Những nhà lãnh đạo Miến Điện có trách

nhiệm cũng góp phần gây sức ép và vị Thathanabaing - người có quyền lực và kiểm

soát tất cả những gì thuộc về tôn giáo, được vinh danh với danh hiệu cao quý dưới thời

vua Thibaw, đã dẫn đầu một phái đoàn tới gặp Frederick Roberts, viên Tổng tư lệnh

Anh, đề nghị đứng ra thuyết giảng để nhân dân thuần phục chế độ thống trị của Anh

nếu pháp quyền của Hội đồng tôn giáo (Thudhamma), như đã được thực hiện dưới thời

các vua, được khẳng định. Chính quyền Anh ở Miến Điện đã không thể thực thi những

yêu cầu đó do bị ràng buộc bởi tuyên bố của nữ hoàng Anh vào năm 1858, sau vụ binh

biến ở Ấn Độ, ra lệnh cho tất cả các quan chức Anh “không can thiệp vào đức tin hoặc

sự tôn thờ tôn giáo của bất cứ thần dân nào của ta, bằng không ta sẽ rất không bằng

lòng” [25, tr. 1050]. Lập trường của nhà cầm quyền Anh đã xóa bỏ quyền lực của các

tòa án tôn giáo không được đứng trên bộ luật hình sự và dân sự đã được thiết lập.

Chức năng pháp quyền của Hội đồng tôn giáo hầu như không còn gì.

Như chúng ta đã biết dân Miến cũng như dân các nước theo Phật giáo khác

trong vùng, có truyền thống cởi giày dép trước khi bước vào điện Phật ở chùa - nơi rất

linh thiêng, nhưng thực dân Anh đã từ chối làm điều đó. Thực dân Anh đã không thừa

nhận Phật giáo là quốc giáo như trước đây, làm suy yếu vai trò và địa vị của tăng lữ,

mối liên hệ giữa chính quyền và Giáo hội không còn được duy trì; đồng thời tước bỏ

nhiều đặc quyền đặc lợi như xoá bỏ quyền xét xử, không trợ cấp vật chất, hạn chế việc

dạy dỗ của tăng viện. Mặc dù vấn đề tôn giáo không quá đề cao trong mục đích xâm

lược của đế quốc Anh, khác với đế quốc Pháp; nhưng những nhà truyền giáo người

Anh đã hoạt động một cách tích cực trong suốt thời gian Anh cai trị Myanmar. Thiên

chúa giáo lần đầu tiên gia nhập Myanmar khoảng đầu thế kỷ XVII và có ảnh hưởng

nhất định đối với xã hội Myanmar thuộc Anh. Hiện nay có khoảng 5,6% dân số theo

Thiên chúa giáo. Phần lớn tín đồ Thiên chúa giáo là người Karen, Chin, Kachin và

người Miến theo Thiên chúa giáo dòng Baptis. Những thừa sai Thiên chúa giáo hoạt

động rất tích cực từ thời thuộc địa cho đến giữa những năm 1960, họ thành lập các

trường học, bệnh viện và các trung tâm cứu trợ xã hội. Sau năm 1962, những cơ sở này

bị chính quyền Myanmar quốc hữu hóa.

38

Giáo dục là một trong những lĩnh vực được thực dân Anh quan tâm và muốn

thay đổi cho phù hợp với các chính sách thống trị của chính quyền mới ở Miến Điện

đồng thời cũng là một phát pháo bắn trực tiếp vào Phật giáo. Theo truyền thống, giới

tăng sĩ giữ vai trò chủ chốt trong giáo dục và văn hóa nhằm thúc đẩy sự cố kết về mặt

xã hội. Việc mở các trường công và trường dòng là sự cạnh tranh trực tiếp với các

trường Phật giáo. Sự giảm sút ảnh hưởng của Phật giáo đối với nền giáo dục đã khiến

cho các nhà sư tăng cường hoạt động, họ muốn khôi phục ảnh hưởng của họ với tư

cách là những người thầy của nhân dân. Khi xưa, các hoàng tử – công chúa, ngay từ

nhỏ đã được dạy đọc các văn bản đơn giản và cuối cùng là những câu chuyện tôn giáo,

mục đích không chỉ để hiểu biết về Đức Phật, mà còn học cách đối nhân xử thế. Thỉnh

thoảng những ni sư cũng dạy cho những công chúa lớn, hoặc thậm chí cả những cung

phi và cung tần nếu nhà vua quyết định người đó cần học thêm về tôn giáo hay văn

học. Bổn kinh Jakata về Mahaw Thada, người sẽ trở thành Phật trong tương lai, là một

trong những văn bản được sử dụng để dạy trong hoàng cung, minh họa cho sức mạnh

hơn hẳn của trí tuệ, trên cả địa vị và sự giàu có. Trong nhiều thế kỷ, các trường học

của nhà chùa đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ dân trí của nhân

dân, đây cũng chính là một cách thức có hiệu quả để củng cố vai trò “quốc đạo” của

Phật giáo. Giáo dục cho cả nam và nữ luôn được ủng hộ và những người phụ nữ có

học thức luôn rất được kính trọng trong xã hội Myanmar - đây là một đặc điểm rất

khác biệt, đáng trân trọng và ca ngợi giữa Myanmar với các quốc gia trong khu vực

trong cùng thời gian. Việc đọc và viết được giảng dạy ở những tăng viện không chỉ

cho con vua mà còn cho trẻ con của những gia đình nông dân. Do nỗ lực của trường -

chùa, tỷ lệ biết chữ trong dân chúng rất cao. Cho nên, để làm suy yếu và đẩy lùi sức

ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội Miến Điện mà Anh đang cai trị, họ phải đối phó

một cách gián tiếp thông qua giáo dục.

Thế cho nên, Arthur Phayre - chánh cao uỷ đầu tiên của Miến Điện thuộc Anh

đã chủ tâm xây dựng chùa làm cơ sở cho cơ cấu giáo dục của các trường học được

chính phủ giúp đỡ bắt đầu xây dựng vào năm 1866. Kế hoạch của ông là đưa các môn

học thế tục vào các trường - chùa, nhà nước cung cấp sách, thiết bị và tiền để xây dựng

trường sở. Chương trình này bị thất bại vì rất ít nhà chùa chấp nhận sự trợ giúp của

39

chính phủ hoặc chấp nhận việc đưa các môn học thế tục vào chương trình giảng dạy.

Albert Fytche, người kế nhiệm Phayre; đã khuyến khích việc mở trường dạy tiếng

Miến cho thường dân. Nhưng các nhà sư vẫn không sẵn lòng hợp tác. Chính thái độ

không hợp tác của các nhà sư đã khiến cho kế hoạch làm suy giảm vai trò của giáo dục

tự viên không dễ gì thực hiện [25, tr. 1052].

Sau khi vùng Thượng Miến Điện bị Anh thôn tính, người đứng đầu Hội đồng

tôn giáo (Thathanabaing) đã cấm giáo dục thế tục trong các trường của tăng viện. Bên

cạnh đó, chính quyền Anh còn khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho sự thành lập và

hoạt động của các trường của chính phủ dạy song ngữ Anh - Miến cũng đã khiến cho

hệ thống giáo dục tăng viện bị sa sút. Sự sa sút của hệ thống giáo dục tăng viện có thể

được coi là kết quả của chế độ thống trị của Anh bởi sự phá hủy các yếu tố tôn giáo

trong giáo dục.

Như vậy, đối với các vùng đất mới chiếm thì người Anh luôn sử dụng thật tinh

vi và khéo léo công cụ tín ngưỡng để cai trị. Thay vì kỳ thị và đàn áp trực tiếp Phật

Giáo thì một mặt người Anh tìm cách cải đạo các dân tộc thiểu số và khuyến dụ họ

theo đạo Thiên chúa, còn một mặt thì ào ạt đưa người Ấn theo Ấn Giáo và Hồi Giáo

vào Miến Điện. Chính sách này thật hết sức thâm độc vì sẽ làm mất đi tính cách thuần

nhất của Miến Điện trên cả hai phương diện tín ngưỡng và nguồn gốc sắc tộc, nói một

cách khác là nếu muốn chiếm đất thì cũng phải phá tan bản sắc dân tộc của những

người sinh sống trên mảnh đất ấy. Mặc dù thực dân Anh không hoàn toàn thành công

trong cách cai trị này nhưng chính sự thờ ơ với Tăng Già cùng với sự tấn công trực

tiếp vào nền giáo dục tăng viện, thực dân Anh đã phá vỡ tính chất truyền thống của xã

hội Miến Điện, gây ra một sự tổn thất to lớn trong thế giới Phật giáo Myanmar.

2.2. Sự phát triển của Phật giáo giai đoạn 1824 – 1948

Kế nhiệm Bagyidaw là Tharrawaddy (1837 – 1846), trong cai trị đất nước,

Tharrawaddy đã có công lớn trong việc tu chỉnh và dịch công trình biên soạn của Đại

lão Hòa thượng Saddhammapajjoti sang tiếng Myanmar. Đây là một đóng góp rất lớn

trong việc hình thành Tạng Diệu pháp. Pagan Min (1846 – 1852), đã tiến hành lật đổ

và xoán ngôi vua cha là Tharrawaddy lên cầm quyền cai trị Myanmar. Kế tục sự

nghiệp của vua cha trong vấn đề Phật giáo, Pagan Min đã có môt sự ưu ái và đầu tư rất

40

lớn cho các học giả người Myanmar trong việc chuyển tải tất cả các công trình nghiên

cứu và văn bản từ tiếng Pali sang tiếng địa phương. Nửa đầu thế kỷ XIX, lịch sử đã ghi

nhận sự nở rộ các bản dịch từ tiếng Pali sang tiếng Miến, đáng kể nhất là Suttanta –

Trường Bộ kinh đã được tìm hiểu và nghiên cứu bằng tiếng bản xứ. Điều này có một ý

nghĩa rất lớn không chỉ cho giới Tỳ kheo mà ngay cả những người dân trong việc

nghiên cứu kinh tạng và Phật học. Các văn bản Phật học đầu tiên đã được biên soạn và

in ấn đẹp mắt với một chi phí rất thấp so với việc người dân phải thuê một người viết

các đoạn kinh phật trên lá cọ.

Về mặt chính trị, khi Pathein và Yangon bị mất vào tay người Anh, vương quốc

Ava bị mất quyền kiểm soát trên biển và ngày càng bị chi phối bởi sức mạnh phương

Tây. Vua Pagan Min bị phế truất, vua Mindon – anh trai Pagan lên thay thế và cai

quản đất nước.

Ngày nay, triều đại của vua Mindon (1852 - 1877) được biết đến như một sự

thần bí về một kỷ nguyên vàng trong tâm trí của người dân Myanmar. Không có chiến

tranh, bạo lực trong suốt 20 năm cai trị của đức vua, thậm chí nhà vua còn tuyên bố

không thích việc xử phạt bằng cách tử hình như đã làm trước đây. Đại tướng Fytche đã

ca ngợi vua Mindon là: “Không có gì nghi ngờ khi nói rằng ông là một vị vua giác ngộ

nhất trong các nhà vua đã ngồi trên ngai vàng Miến Điện” [26, tr. 128]. Nhà vua được

biết đến là một người có kiến thức uyên bác về lịch sử quốc gia - dân tộc, có khả năng

trong việc cai trị đất nước, là một con người tốt bụng và đáng nói nhất ông là một Phật

tử thuần hành, một đứa con ngoan của Đức Phật.

Vua Mindon đã chuyển kinh đô từ Ava về Mandalay – thủ đô hoàng gia Miến

Điện cuối cùng trước khi Anh sát nhập hoàn toàn vào năm 1886, nhà vua đã cải cách

và nâng cao kỷ luật tu viện, lập lại trật tự của tổ chức Sangha vì nhà vua nhận thấy một

bộ phận Tỳ kheo thực hiện các giới luật không nghiêm túc, có phần lỏng lẻo. Do vậy,

đức vua đã triệu tập một Hội đồng tôn giáo - Thudhama để thảo luận về đạo pháp và

giới luật nhằm nâng cao trật tự kỷ cương trong giới tu sĩ.

Thách thức lớn nhất vua Mindon phải đối mặt không chỉ là một vị vua Phật giáo

có nhiệm vụ chăm sóc đời sống tinh thần của thần dân trong lãnh địa riêng của mình,

mà còn trong các vùng lãnh thổ Myanmar bị người Anh chiếm đóng. Hơn nữa, ông và

41

nhiều vị Hòa thượng hàng đầu ngày càng nhận thức được rằng người Anh đã chỉ chờ

đợi một cơ hội để thôn tính toàn bộ của Myanmar. Quân đội của vua Mindon một cách

rõ ràng là không thể đứng lên để chống lại sức mạnh của thực dân Anh, nhưng một

khía cạnh nào đó nó là một công cụ quan trọng hỗ trợ cho các hoạt động tôn giáo trong

nước và cho các việc làm của một nhà vua ủng hộ Phật giáo như vua Mindon.

Thực dân Anh ngay từ đầu tỏ ra là một nhà cai trị không tiếp nối truyền thống

của vua Miến Điện trọng việc ủng hộ và bảo vệ Phật giáo. Tôn giáo mới – Thiên chúa

giáo, nhanh chóng xác lập sự ảnh hưởng thông qua các trường học hoạt động truyền

giáo. Sau khi Hạ Myanmar bị chinh phục, nhiều Tỳ kheo đã bỏ về Thượng Myanmar

để có thể sống và hoạt động dưới sự bảo trợ của nhà vua. Vua Mindon đã nhận thấy

đều này và khuyên nhủ các Tỳ kheo quay về để tiếp tục công việc và giúp đỡ nhân

dân, nhưng Hạ Miến lúc bấy giờ không có một tổ chức Sangha quản lý thì khi đó các

tu sĩ sẽ sống và hoạt động ngoài kỷ cương và giới luật. Nhà vua cố gắng nâng cao kỷ

luật của tu viện – trái tim của Phật giáo và nhà vua cũng cảm nhận được rằng các lễ

nghi tôn giáo chỉ còn là một hình thức cần thực hiện, đây là một bước sụt lùi của Phật

giáo. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của các vị hòa thượng cấp cao trong tổ chức Tăng đoàn,

nhà vua đã hoàn thành việc cải cách tu viện và giới luật.

Lúc bấy giờ xuất hiện một bậc cao tăng với tên gọi là Ngettwin Sayadaw, ngài

đã phát hiện ra việc thiền định là rất cần thiết cho tất cả các Tỳ kheo và những người

học Phật. Ngettwin Sayadaw không có ý định thành lập một giáo phái mới mà chỉ

thích tu ẩn dật với một pháp môn mới mà ông khám phá, ông khuyến cáo nhân dân

nên hạn chế việc cúng dường cũng như hoa trái trong các đền thờ mà cố gắng dành

nhiều thời gian để thực hành thiền định. Ngettwin Sayadaw thường xuyên được vua

Mindon tham khảo ý kiến và được xem như một vị quốc sư của quốc gia [26, tr. 132].

Ngày nay, Myanamar được biết đến là đất nước của các thiền viện nổi tiếng như:

Trung tâm thiền minh sát tuệ Dhamma Joti Wingaba Yele Kyaung, Trung tâm thiền

Chanmyay Yeiktha, Trung tâm thiền HMAWBI - Chanmyay Yeiktha, Trung tâm thiền

Mahasi Sasana Yeiktha Buddha Sasana Nuggaha Organisation… Hai vị Hòa thượng

nổi tiếng khác của triều đại vua Mindon xứng đáng được đề cập đến là Shwegyin

Sayadaw và Thingazar Sayadaw. Họ đã cố gắng cải cách Sangha và phong trào của

42

các ngài vẫn có giá trị và có uy tín cao ở Myanmar cho đến hôm nay. Đó là việc quy

định các nhà sư không được nhai trầu và hút thuốc sau buổi tối (Myanmar là nơi mà

người dân ăn trầu rất nhiều, có thể nhiều nhất thế giới, nam giới là những người ăn

trầu thường xuyên), tổ chức Sangha phải tự nổ lực cải cách để phù hợp với tình hình

mới mà không cần sự hỗ trợ của nhà vua.

Một việc làm đáng được ghi nhận của vua Mindon trong thời gian tại vị đó là

ông đã tổ chức thành công Đại Hội kiết tập Phật giáo lần V. Năm 1871, vua Mindon

đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ V, tại

thủ đô Mandalay, chính quốc vương làm người hộ pháp. Lần kết tập này lấy Luật tạng

làm trung tâm, khảo đính đối chiếu những điểm dị đồng của thánh điển, rồi đại chúng

cùng đọc tụng, trải qua 5 tháng mới hoàn thành. Sau đó nhà vua truyền lệnh đem văn

tự của 3 tạng đã được kết tập sắp xếp theo thể loại, rồi cho khắc trên 729 khối đá hình

vuông và đem cất vào trong chùa tháp Kuthodaw, dưới chân núi Mandalay và cho xây

45 tòa tháp Phật bao quanh ở bên ngoài. Thành quả kết tập này vẫn còn được bảo quản

tại cố đô Mandalay cho đến ngày nay. Bên cạnh đó, vua Mindon còn cho xây dựng

một cái lọng - hti trên nóc chùa Shwedagon nhằm đánh dấu sự thành công của Đại hội

kiết tập Phật giáo lần V. Sự thiêng liêng và sức hấp dẫn lớn lao của ngôi chùa vàng

Shwedagon có thể được ví với Angkor hùng vĩ của Campuchia hay cung điện Potala

Place Lhasa kỳ bí ở Tây Tạng.

Sự thắng lợi của Đại hội đồng Phật giáo thứ V và hình ảnh của chùa

Shwedagon nhắc nhở tất cả người dân Myanmar về tầm quan trọng của tôn giáo mà họ

theo đuổi, và nhấn mạnh một thực tế là vua và Hội đồng Thudhamma tu sĩ cao cấp vẫn

là người giám hộ của Phật giáo. Thẩm quyền của Hội đồng Thudhamma đã được tăng

cường rất nhiều ở Hạ Myanmar. Chùa Shwedagon được xem là một biểu tượng của sự

thống nhất tôn giáo ở Myanmar bất chấp sự chiếm đóng của Anh. Và Phật giáo sau

này trở thành điểm tập hợp cho sức mạnh của các dân tộc Myanmar đứng lên chiến

đấu cho độc lập dân tộc.

Sau cái chết của Mindon của năm 1877, con trai ông Thibaw lên ngôi. Là một

vị vua yếu đuối và không lỗi lạc như cha mình, Thibaw đã cai trị Miến Điện trong thời

gian rất ngắn (1878 – 1885). Năm 1886, ông bị mất vương quốc của mình cho đế quốc

43

Anh và bị lưu đày đến Ấn Độ. Sự vàng son của các triều đại phong kiến Miến Điện kết

thúc đánh dấu giai đoạn khó khăn của Phật giáo Myanmar: tôn giáo và chính quyền là

hai tổ chức độc lập, một sự khác biệt rất lớn trong truyền thống Miến Điện.

Có người cho rằng bản chất của cuộc khủng hoảng mà nhân dân Miến Điện trải

qua năm 1885 là khó khăn, chủ quyền quốc gia và tinh thần dân tộc hơn là tôn giáo.

Các bằng chứng cho thấy niềm tin tôn giáo, thói quen và các tổ chức từ thiện tiếp tục

phát triển rất nhiều bên ngoài thành phố của thủ đô. Tuy nhiên các nhà sư Miến Điện

không còn ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề quốc gia như họ đã từng làm trước năm

1885 mặc dù uy tín của các nhà sư trong nhân dân vẫn không thay đổi [42].

Một sự thay đổi và là một tổn thất to lớn cho Phật giáo Miến Điện sau khi

người Anh làm chủ quyền cai quản đất nước, đó là sự suy giảm quyền lực và vai trò

của Thathanabaing – người đứng đầu Hội đồng tôn giáo – Thudhamma. Những bản

báo cáo về vai trò của các Thathabaning từ thế kỷ XIX so với các thế kỷ trước cho

thấy họ chỉ còn là danh nghĩa và ảnh hưởng của các đạo luật về tôn giáo chỉ có tác

dụng trong một phạm vi hẹp.

Nếu như trước đây, việc bổ nhiệm một Thathanabaing mới là một sự kiện trọng

đại của quốc gia, do nhà vua chỉ trì, người được đưa ra bầu chọn phải được chọn lựa

rất kỹ và được sự tín nhiệm của cả nước; thì từ năm 1885 trở đi, thực dân Anh sẵn

sàng sắp đặt một vị Thathanabaing mới mà họ tự cho là thích hợp. Họ sẽ cung cấp và

đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của vị Thathanabaing mới, miễn sao ông làm tốt việc

vận hành tổ chức giáo hội tuân thủ theo những quy chế và sự cai trị của chính phủ

thuộc địa. Do đó, Thathabaing rất khó trong việc điều phối một tổ chức Sangha to lớn,

cho nên kỷ cương và kỷ luật bị xáo trộn và xem thường. Quyền lực và sức mạnh tôn

giáo đã suy giảm ở Myanmar.

Có một yếu tố quan trọng duy nhất trong sự thay đổi, xảy ra trong tình trạng

chính trị và ảnh hưởng đến Phật giáo trong suốt thời gian người Anh cai trị, không

phải là sự suy giảm quyền lực của Thathanabaing mà là sự vắng mặt của nhà vua.

Giáo hội Phật giáo truyền thống vào trước thời kỳ năm 1885 dựa vào sự hiện diện và

quyền lực của nhà vua; đó được xem là máu, là dinh dưỡng, là nguồn sống của Phật

giáo ở Myanamr. Cuộc xâm lược của người Anh, trục xuất nhà vua và loại bỏ ngai

44

vàng từ cung điện Madalay đánh dấu sự sụp đổ của các hệ thống đạo đức liên kết với

Phật giáo. Đó là cuộc khủng hoảng tâm lý quốc gia, một trong những nguyên nhân

mạnh nhất của biến động xã hội và đạo đức trong giai đoạn sau năm 1885 [42].

Một nhân tố nữa đánh dấu sự suy giảm vai trò chức năng của Phật giáo trong xã

hội Myanmar; đó là việc xuất hiện các trường thế tục của người Anh. Ở đó, họ dạy cho

trẻ con biết đọc, viết, tính toán và các môn khoa học khác, phục vụ hiệu quả cho cuộc

sống tương lai. Với chương trình đào tạo chuyên nghiệp mới và mang tính thực tiễn

cao, nền giáo dục tự viện của các tu sĩ bị đe dọa và tấn công, số lượng giờ dạy về tôn

giáo và đạo đức giảm hẳn, sự ảnh hưởng của giáo dục tự viện chỉ còn thấy phổ biến ở

nông thôn.

Như vậy, trong những năm tháng người Anh làm chủ Miến Điện, Phật giáo đã

chịu những tổn thất lớn lao, đây được xem là giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử

Phật giáo Myanmar. Phật giáo Myanmar cần phải làm một cuộc cách mạng để cứu vãn

thực trạng này. Các nhà sư Myanmar đã nhanh chóng hành động để bảo vệ tôn giáo

mà họ theo đuổi. Từ tư tưởng bảo vệ giáo lý cao đẹp của nhà Phật đã phát triển thành

một tư tưởng lớn trong việc giành lại độc lập dân tộc.

45

Tiểu kết chương 2

Kể từ khi người Anh đến và cai quản vùng đất Miến Điện (1886) cùng với sự ra

đi của các nhà vua Miến Điện đã làm cho Phật giáo mất đi một chỗ dựa vững chắc.

Từ năm 1824 đến 1948, Phật giáo Myanmar trải qua hai giai đoạn phát triển,

thịnh vượng trong giai đoạn đầu khi Phật giáo còn nhận được sự nâng đỡ của chính

quyền phong kiến; nhưng về sau khi người Anh có mặt ở Myanmar thì tôn giáo này

bắt đầu bị phân hóa, chia rẽ và không còn sự liên kết với chính quyền mới. Vai trò của

Phật giáo bị suy giảm nghiêm trọng trên bình diện xã hội ở Myanmar về tất cả các khía

cạnh mà nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Chức năng và vai trò của giáo dục tự viện bị

tụt dốc một cách đáng kể khi các trường thế tục được thành lập và thu hút lôi kéo trẻ

con đến trường vì tính thực dụng cao. Vai trò của tu sĩ như là những người thầy khả

kính của quần chúng cũng bị suy giảm một cách báo động. Mặc dù việc đầu tư cho

giáo dục là cần thiết trong một xã hội hiện đại, nhưng nó đã tạo ra một khoảng trống

cho hệ thống Phật giáo, nơi mà cả dân tộc Miến Điện gởi cả linh hồn và thể xác vì một

niềm tin mãnh liệt.

Vì thế các nhà sư đã tiến hành các hoạt động chống đối nhằm thiết lập lại các

trật tự cũ trong truyền thống Myanmar. Họ tiếp thu những tư tưởng mới từ Ấn Độ,

thành lập những tổ chức để phục hồi chức năng của giáo hội, kêu gọi và làm cảnh tỉnh

nhân dân đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa. Họ là những chiến sĩ tiên phong trên

chính trường Miến Điện, đã quyết tử vì đạo nghĩa và nền hòa bình dân tộc. Phật giáo

Myanmar đang chuyển mình trong dòng chảy lịch sử dân tộc.

46

Chương 3.

VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC

CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

Cũng như tất cả các nước thực dân khác, đế quốc Anh sau khi thôn tính và làm

chủ đất đai Miến Điện; họ đã tiến hành khai thác vơ vét triệt để tất cả nguồn tài nguyên

dồi dào về nhân lực và vật lực. Về chính sách cai trị của Anh có thể chia ra làm hai

thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất, bắt đầu từ sau khi kết thúc chiến tranh xâm lược Miến Điện

cho đến năm 1937 là năm mà thực dân Anh chủ trương Miến – Ấn phân trị; thời kỳ thứ

hai, từ năm 1937 trở đi. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ thứ nhất là thực dân Anh dùng

thủ đoạn lấy người Ấn trị người Miến, biến Miến Điện thành thuộc địa của thuộc địa

[13, tr. 334].

Trên lĩnh vực kinh tế, Miến Điện từng là nơi sản xuất gạo nhiều nhất ở châu Á

với sản lượng 350 vạn tấn/ năm. Mỗi năm thực dân Anh khai thác 100.000 cara ngọc

ruby, 500.000 tấn gỗ tếch và các loại gỗ quý khác, 27 triệu gallon dầu mỏ, 71.000 tấn

chì, 76.000 tấn thiếc, 7.500 tấn đồng, 43.000 tấn niken, 5,92 triệu ounce bạc 1,29 triệu

ounce vàng. Việc vơ vét tài nguyên, lũng đoạn và nắm mọi yết hầu kinh tế của nhân

dân Miến, đế quốc Anh đã biến Miến Điện thành một nơi cung cấp nguyên liệu và tiêu

thụ hàng hóa của chính quốc. Nông dân rơi vào cảnh phá sản bần cùng, công nhân thì

bị bóc lột một cách tàn khốc. Chính chính sách áp bức về chính trị và kinh tế của đế

quốc Anh đã làm cho mọi tầng lớp nhân dân Miến Điện hết sức bất mãn và căm phẫn.

Người dân Myanmar hầu như chẳng được lợi lộc gì từ những thay đổi về kinh tế

do chính quyền Anh đưa ra. Rất nhiều đất đai được chuyển thành đất canh tác với

lượng xuất khẩu đáng kể, song chúng chỉ có lợi cho giới cho vay lãi người Ấn và các

công ty Anh tham gia vào việc chế biến, vận chuyển và xuất khẩu thóc gạo. Nông dân

Miến cầm cố cây trồng và ruộng đất để mượn tiền giới cho vay lãi người Nam Ấn là

các Chettya, với lãi suất cắt cổ thời kỳ chiến tranh thế giới II là 50%, bằng không họ sẽ

bị tịch thu ¼ số đất canh tác để thế nợ. Việc chuyển nhượng đất vốn không được

truyền thống Miện Điện chấp thuận, nên người dân Miến lại càng lên án tính nguy hại

của việc chuyển nhượng này. Sự bất an và căng thẳng khủng khiếp cứ thế gặm nhấm

47

những người nông dân. Họ đi từ làng này sang làng khác; lắng nghe lời các lãnh tụ

chính trị, những người gắn làn sóng bọn cho vay lãi và công nhân người Ấn với chủ

nghĩa đế quốc Anh. Và chính tại vùng đồng bằng lúa gạo Hạ Myanmar này, chủ nghĩa

dân tộc đã nở rộ hơn cả [24, tr. 225].

Những gì xảy ra với lúa gạo thì cũng xảy ra với dầu, kẽm, chì, thiếc. Người Miến

chẳng được chút lợi ích nào từ việc khai thác mỏ hay rừng tếch. Tuyến đường sắt vòng

quanh đất nước còn tàu thuyền thì ngập tràn các hải cảng. Trong khi phần lớn vốn

cũng như công nhân đều từ bên ngoài, chủ yếu là của người Anh và Ấn, mà những kẻ

này đâu có chịu chia sẻ lợi nhuận với các cư dân Miến bản địa.

Cơ cấu hành chính Anh đã phá vỡ cơ chế cũ. Nó xóa bỏ các thủ lĩnh truyền thống

do họ cầm đầu các cuộc nổi dậy sau năm 1885, thay thế họ bằng những công chức làm

việc cho chính quyền Anh. Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XX, việc gộp nhiều

làng làm một và chịu sự cai quản của một thủ lĩnh đã làm giảm đáng kể số lượng

trưởng làng. Bên cạnh hạn chế về số lượng, các trưởng làng mới còn không gây được

lòng tin và sự trung thành ở lực lượng nông dân như hệ thống cai trị dựa vào giới

myothugyi – huyện trưởng đã từng đạt được trước thời thuộc Anh. Người Miến còn bất

bình trước sự nghi ngại cùng chính sách cách ly người Miến khỏi một số vị trí quan

trọng trong bộ máy hành chính. Các quốc gia Karen ở miền Tây Miến Điện được thực

dân Anh cho hưởng quyền độc lập theo Hiệp ước 1875 dưới sự bảo hộ của Anh. Thủ

lĩnh các quốc gia Shan ở miền Bắc được toàn quyền Anh tấn phong tước hiệu và ban

cho nhiều đặc quyền riêng dưới sự giám sát của người Anh. Ở khu vực người Kachin,

các thủ lĩnh địa phương được giao nhiều quyền lực hơn so với quốc gia Shan. Ở các

vùng dân tộc thiểu số thưa dân giáp Trung Quốc như tộc người Wa, Naga, Chin... thực

dân Anh cai trị gián tiếp bằng chế độ quan lại địa phương. Thực dân Anh đặc biệt nâng

đỡ người Karen, kích động mâu thuẫn giữa người Karen với người Miến. Tỷ lệ người

Karen được học hành, tuyển dụng làm việc trong cơ quan hành chính, bệnh viện... cao

hơn hơn hẳn người Miến. Người Miến không được tham gia quân đội hoàng gia.

Chính sách “chia để trị” của thực dân Anh nhìn bề ngoài là nhằm bảo vệ các dân tộc

nghèo kém phát triển, nhưng thực chất là nhấn mạnh sự khác biệt, duy trì và kéo dài sự

trì trệ ở các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là nhằm ngăn cản quá trình hòa trộn tự

48

nhiên về văn hóa giữa các sắc tộc. Hơn nữa, bộ máy tuyên truyền của thực dân Anh

không ngừng thổi phồng, xuyên tạc “tội ác” của các triều đại phong kiến Miến Điện

trước kia, vẽ ra hình ảnh sai lệch, xấu xa về người Miến trong con mắt của các sắc tộc

khác. Họ còn dùng Thiên chúa giáo mê hoặc dân tộc Karen, biến họ thành những tín

đồ ngoan đạo, vì tôn giáo mà hiềm khích với dân tộc Miến theo đạo Phật. Vì thế giữa

dân tộc Miến và Karen luôn xảy ra những cuộc xung đột đẫm máu mà người Anh

ngấm ngầm sắp đặt. Những sự thật đó là những bằng chứng rõ rệt nhất của thủ đoạn

phân hóa và ly gián một cách có kế hoạch của đế quốc Anh nhằm chống lại nhân dân

Miến và làm suy yếu phong trào đấu tranh của họ.

Nghiêm trọng hơn, thực dân Anh đã xúc phạm nền truyền thống của văn hóa

Miến Điện, ngang nhiên chà đạp lên những quy định, nguyên tắc truyền thống thiêng

liêng của đạo Phật, mang về Anh các tượng Phật quý, chuông quý của Miến Điện; tự

tiện đi giày, dép vào các đền, chùa của Miến Điện hoặc có những hành động khiếm

nhã đối với các sư sãi, đồng thời thẳng tay trấn áp mọi hoạt động phản kháng của nhân

dân Miến Điện.

Với lịch sử oai hùng hàng ngàn năm chinh phục, mở mang bờ cõi, người Miến

Điện chưa từng khuất phục bất kỳ kẻ thù nào đến xâm phạm, với họ thật khó khăn để

chấp nhận thực tế: đất nước bị biến thành một bang của Ấn Độ thuộc Anh. Ngay cả

tầng lớp trên của xã hội cũng coi việc đặt ngang hàng Myanmar với một tỉnh của Ấn

Độ là điều sỉ nhục đối với lòng tự hào của họ về Myanmar, một vương quốc cổ đại với

bao truyền thống vẻ vang, rực rỡ [24, tr. 226].

Nhìn chung dưới ách cai trị thực dân, những giá trị truyền thống lâu đời trong xã

Miến Điện bị phá vỡ một cách nhanh chóng. Bức tranh xã hội Myanmar bị xé toạc và

trở nên nham nhở bởi những mảng màu sáng tối, khi đậm khi nhạt mà thực dân Anh đã

cố tình tô điểm. Việc thực thi chính sách chia rẽ dân tộc và tôn giáo được xem là một

gam màu đậm nhất trong chính sách cai trị mà người họa sĩ thực dân đã cố tình tạo

nên. Đây được xem là một biện pháp vô cùng hữu hiệu và cực kỳ thâm độc trong

chính sách cai trị thực dân. Có lẽ ở đâu đó trên thế giới, không có nơi nào mà bức

tranh chính trị sắc tộc lại phức tạp và chồng chéo như ở Myanmar. Việc khoét sâu mâu

49

thuẫn dân tộc sẽ làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc chiến chống mục

tiêu chung là chủ nghĩa đế quốc Anh đang cai trị.

Tất cả những nhân tố vừa nêu đã thôi thúc ý chí và tinh thần dân tộc của nhân

dân Miến Điện nổi dậy chống lại thực dân Anh, giành độc lập dân tộc. Sứ mạng lịch

sử quan trọng này đã được lựa chọn và đặt trên vai những nhà sư – những con người

có một vị thế và sức ảnh hưởng lớn lao trong xã hội Myanmar. Thật là một điều lý thú

khi mà sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc ở Myanmar lại được châm ngòi

ở nơi mà sự ganh ghét – thù hằn – đố kỵ và nhất là chiến tranh bị lên án hơn bao giờ

hết. Nhưng trong thời điểm này, Phật giáo – tự viện chính là linh hồn, là quả tim của

cả dân tộc Myanmar, họ chỉ có thể thống nhất lực lượng và tìm được tiếng nói chung

dưới ánh sáng Phật pháp. Cho nên, các tăng đoàn Phật giáo đã trở thành nơi chặn bước

xâm nhập của văn hóa phương Tây cũng như là trung tâm phản kháng phương Tây nói

chung.

3.1. Phật giáo trong đấu tranh chống thực dân Anh

Năm 1897, tổ chức bảo vệ Phật giáo đầu tiên ra đời ở Mandalay, với tên gọi

“Buddha Sasana Noggaha – Hội Phật giáo”. Không lâu sau đó những tổ chức tương

tụ xuất hiện ở các thành phố khác như: Hội Ashoka ở Bassein năm 1902, Hiệp hội

pháp giáo ở trường Đại học Yangon 1904, Tổ chức Toàn Miến đầu tiên – Hiệp hội

Thanh niên Phật giáo – Young Men’s Buddhist Assocation” đã được thành lập 1906

tại Yangon. Với sự ra đời của các Hội này, Tăng Đoàn và các cơ sở tự viện trở thành

những trung tâm bảo vệ truyền thống tâm linh và văn hóa, chống lại sự xâm nhập Tôn

giáo và văn hóa Tây phương vào Miến Điện. Từ năm 1885 đến 1897, khắp lãnh thổ

Miến Điện nổi dậy phong trào chống Anh, phần nhiều do các vị sư lãnh đạo, khiến

Toàn quyền Anh tại Miến Điện viết lời nhận định tình thế: “Nếu có dấu hiệu tổ chức

chống đối nào, chư Tăng là những người đầu não. Không có một phong trào kháng

Anh nào có tầm cỡ, nếu không có nhà sư lãnh đạo” [5, tr. 93].

Hội Thanh Niên Phật Giáo Miến Điện được thành lập vào năm 1906 và thiết lập

các trường học Phật giáo, dạy cho giới trẻ ý thức về quốc gia và sự công bằng lẽ phải ở

trong Phật giáo đối với nhân sinh và xã hội. Đây là một việc làm có ý nghĩa rất lớn

trong việc thức tỉnh tinh thần dân tộc. Nhiều nhà trí thức và lãnh đạo quốc gia Miến

50

Điện xuất thân từ hội này và sau đó hội đổi tên thành Tổng Hội Phật Giáo Miến Điện,

do những thanh niên tân học lãnh đạo phát động phong trào chống Anh với tinh thần

bất bạo động của Thánh Gandhi ở Ấn Độ. Charles Crothwaite, phụ trách chương trình

bình định của chính quyền Anh tại Miến Điện nhận xét: “…Rất khó phân biệt thành

phần có ảnh hưởng lớn với tình hình chính sự và sự tích cực tham gia phong trào

chống lại chúng ta của những phần tử làm cách mạng. Khi một nhà sư trở thành một

lãnh tụ yêu nước, đó cũng chính là nhà yêu nước khoác áo ca sa. Rất nhiều kế hoạch chống đối chính quyền xuất phát từ trong chùa bởi những Pongyis” [5, tr. 94].

Từ mô hình ban đầu của Hiệp hội Thanh niên Thiên chúa giáo – YMBC, tổ chức

YMBA mở trường dạy theo giáo trình quy định của chính phủ, đồng thời đưa thêm bài

giảng Kinh Phật nhằm đối lập với các trường Thiên chúa giáo qua bài giảng về Kinh

Thánh. Các trường YMBA sớm trở thành điểm quy tụ cộng đồng xã hội và thức tỉnh

dân tộc. Họ đưa các tổ chức tôn giáo trở thành một giải pháp lá chắn chính trị an toàn

để phát huy tình cảm dân tộc. Đạo Phật trang bị một cương lĩnh chung cho những con

người đang bất bình trước sự thờ ơ và xâm hại của chính quyền thuộc địa đối với niềm

tin của họ. Hàng loạt đảng phái chính trị thời kỳ sau này đều do các cựu thành viên

YMBA đứng đầu.

Hội Phật giáo Thanh niên đánh dấu bước thế tục hóa của phong trào Phật giáo, là

sự dấn thân của Phật giáo vào trong chính trị và công cuộc đấu tranh giải phóng dân

tộc ở Myanamr. Hội Phật giáo Thanh niên ban đầu là sự phát triển kế thừa các hội Phật

giáo trong nước trước đó, nhưng đồng thời cũng mang nội dung hàm ý chống lại tổ

chức Kitô giáo do chính quyền thuộc địa lập nên.

Người sáng lập Hội là U May Aung – luật sư tốt nghiệp tại Cambridge và luật sư

U Kin xuất thân trong một gia đình khá giả, từng du học ở châu Âu. Các hội Phật giáo

được giới kinh doanh dân tộc ủng hộ, nhiều công chức Myanamar cũng tham gia. Hội

Phật giáo Thanh niên tuyên bố mục tiêu truyền bá Phật giáo nên ngay cả chính quyền

thuộc địa cũng tỏ ý quan tâm, giúp 50% ngân sách hoạt động cũng như giúp lập các cơ

sở giáo dục của Hội. Trong các cơ sở này, ngoài Phật học, học sinh còn được học các

môn khoa học mới.

51

Năm 1911, Hội Phật giáo Thanh niên cho ra đời tờ nhật báo in bằng chữ Miến

Thuriah – nghĩa là Mặt trời, do U Ba Pe làm chủ bút, tờ báo góp phần đáng kể trong

việc thức tỉnh tinh thần dân tộc Myanamar.

Năm 1916, YMBA họp ở Hendada thông qua nghị quyết yêu cầu tất cả mọi

người, dù là người Âu hay người Á, đều phải đi chân đất trong các khu vực đền chùa.

Phong tục được tôn trọng lâu đời này đã bị người Anh xâm phạm, làm tổn thương tình

cảm tôn giáo, dân tộc thiêng liêng nhất của người Myanmar. Nghị quyết thổi bùng lên

phong trào hưởng ứng mạnh mẽ, và “vấn đề đôi giày” trở thành tiêu điểm của tình cảm

chống Anh bởi vì người Anh vẫn sẽ không muốn tháo bỏ đôi giày của họ khi đi vào

một ngôi chùa Phật giáo [17, tr. 312]. Nghị quyết cũng nâng cao uy tín của YMBA và

là cuộc đối mặt công khai đầu tiên với chính quyền thuộc địa. Nhưng đó là giới hạn xa

nhất mà Hội đạt tới khi đó. Trong đại hội, nhiều thanh niên trẻ muốn đẩy phong trào

lên mạnh hơn nhưng các người già muốn dừng lại. Họ hô hào nói tiếng Anh và thưởng

thức lối sống Tây và họ tự hào rằng họ là những người thượng lưu.

Mặc dù Myanmar là một tỉnh thuộc Ấn Độ nhưng vẫn bị đối xử khác biệt trong

những cải cách về chính trị. Do vậy, cải cách Mongtagu – Chelmsford năm 1919, cho

phép bầu cử để lựa chọn đa số của cơ quan lập pháp trung ương và một phần của bộ

máy hành pháp cấp tỉnh ở Ấn Độ, không được áp dụng ở Myanmar. Cùng thời kỳ,

chính phủ cho thông qua Đạo luật Đại học Yangon, song không giống với các trường ở

Ấn Độ, trường đại học mới này chưa có vị thế tự chủ. Nỗi nhục nhân đôi càng làm gia

tăng sự phẫn nộ [24, tr. 227]. Năm 1917, tại Đại Hội Phật giáo Thanh niên ở

Pyinmana, nổi lên là các lãnh tụ trẻ như U Ba Pe, U Chit Hliang. Trong khi tiếp tục

nhấn mạnh “vấn đề đôi giày”, Đại hội còn quyết định cử đoàn đại diện sang Calcutta

gặp Quốc vụ khanh về cải cách Mongtagu – Chelmsford, nêu nguyện vọng thành lập

chính phủ Myanamar tách khỏi Ấn Độ và áp dụng cải cách như nhau giữa hai nước.

YMBA đã phá tung cái vỏ tôn giáo, công khai bước vào con đường chính trị. Báo cáo

của Mongtagu – Chelmsford tháng 4/1918 đặt Myanmar ra ngoài phạm vi cải cách và

ghi rõ sẽ dành xem xét trong tương lai.

Năm 1918, một ủy ban đặc biệt đã đưa ra đề nghị tạo lập một thể chế cho riêng

Myanamar dựa trên tính khác biệt và trình độ phát triển cụ thể của đất nước. Thống

52

đốc Reginal Craddock bác bỏ đề nghị này, lấy lý do Myanmar thiếu kinh nghiệm trong

điều hành công việc quốc gia. YMBA quyết định trình bày yêu cầu với chính phủ

London. Ở London, phái đoàn YMBA tích cực hoạt động, gặp gỡ đại diện các giới và

tranh thủ được mối thiện cảm của một số chính khách cùng bộ phận công chúng Anh.

Tờ báo “Những người bạn Myanmar” ra đời cung cấp cho người Anh những hiểu biết

về Myanmar. Qua đó, nhiều người Anh mới vỡ ra rằng ngoài Ấn Độ, còn có một nước

Myanamar với lịch sử văn hóa văn minh riêng biệt. Tuy nhiên, chính phủ Anh thì vẫn

làm ngơ. Chuyến đi vừa thành công lại vừa thất bại [17, tr. 315].

Năm 1920 tại đại hội ở Prome, YMBA lúc này đã đổi tên thành Tổng Hội các

Liên đoàn Phật giáo – GCBA, do đa số trí thức trẻ Tây học lãnh đạo, đã đấu tranh theo

đường lối Gandhi chống lại nạn phân biệt, đồng thời đòi hỏi những cải cách tương tự

như ở Ấn Độ. Đại hội thông qua nghị quyết lên án kế hoạch Craddock, đòi thu hồi

ruộng đất chia lại cho nông dân, phát động phong trào tẩy chay hàng ngoại, dùng hàng

nội. Phong trào hưởng ứng diễn ra sôi nổi: khắp các nơi là khẩu hiệu “Craddock cút

đi”; nhiều nhà sư già chống gậy đi giữa các trung tâm buôn bán vận động nhân dân

dùng hàng nội. Phong trào mới mang tên Unthanu, nghĩa là Giống nòi riêng, in dấu vai

trò của giai cấp tư sản dân tộc [17, tr. 316].

Đỉnh cao của Unthanu là cuộc đấu tranh của sinh viên đại học Yangon. Ngày

20/10/1920, Đại học Tổng hợp Yangon chính thức được thành lập và đưa ra luật riêng

cho trường nhằm ngăn chặn ảnh hưởng cách mạng từ Ấn Độ. Luật quy định quyền

hành chính thuộc về một hội đồng do chính phủ bổ nhiệm, quyền học thuật thuộc về

ban giám đốc gồm các giáo sư Anh và các nhân viên cao cấp của cơ quan dân sự đại

học, không có đại diện Myanmar nào trong các ban này. Cho nên ngày 15/12, sinh

viên bãi khóa phản đối luật mà họ coi là phản dân tộc. Vượt quá giới hạn ban đầu của

cuộc bãi khóa thông thường, cuộc đấu tranh của sinh viên đã trở thành tiêu điểm của

một phong trào dân tộc mạnh mẽ và là thách thức công khai đầu tiên đối với chính

quyền Anh. Chính quyền Anh nhượng bộ sửa luật. Về sau, chính phủ Myanmar đã

quyết định lấy ngày 15/12 là ngày lễ dân tộc [17, tr. 317].

Năm 1921, vào lúc phía Anh có những phản hồi bằng việc mở rộng chính phủ

lưỡng quyền ở Myanmar, GCBA đã tăng cường các yêu sách của mình. Điều quan

53

trọng là họ đòi quyền kiểm soát cơ quan đảm trách về ruộng đất và nhập cư. Họ tẩy

chay các cuộc bầu cử hội đồng mới, đồng thời từ chối các vị trí điều hành trong nội

các mới, nơi đã chật cứng người Karen – Ấn Độ – Trung Quốc và người Anh, khiến

cho cải cách Mongtagu – Chelmsford trở thành trò lố bịch.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, một thế hệ nhà sư trẻ đã có đầu óc chính trị,

đã tiếp thu những tư tưởng của Đảng Quốc Đại cánh tả trong thời gian lưu trú tại Ấn

Độ. Năm 1921, đã bắt đầu lãnh đạo phong trào chống sự thống trị của Anh. Năm 1922,

chủ nghĩa dân tộc trong hệ thống Phật giáo đã đưa đến việc thành lập ra tổ chức

Sangha Sametggi với mục tiêu được tuyên bố là thúc đẩy sự tiến bộ của tôn giáo và

giáo dục theo đường lối dân tộc. Thành viên của Sangha Samettgi có mặt ở khắp nơi

để rao giảng việc bất hợp tác, không đóng thuế và tẩy chay. Các vị sư bắt đầu sử dụng

bộ áo cà sa màu vàng để che đậy các hoạt động chính trị. Nhưng các vị sư già lên án

hành động đó, đến năm 1921, Thathanabaing đã cấm các nhà sư tham gia chính trị

nhưng kết quả không thành công. Do đó, chính phủ Miến Điện thuộc Anh áp dụng

biện pháp mới để củng cố quyền lực của Thathabaing, và đặc biệt lập lại các chức

quan phụ trách về mặt tôn giáo để thi hành các quyết định của Thathabaing về vấn đề

kỷ luật. Nhưng khác với Thái Lan, ở Miến Điện không có việc đăng ký của các sư sãi,

và do đó trên thực tế không có quyền tước áo tu hành của các nhà sư. Các nhà lãnh đạo

bao gồm U Chit Hlaing và U Ba Pe, U Ottama - một nhà sư người Arakan, và U

Wisara cũng là một nhà sư đã tham gia vào chính trị để bảo vệ Phật giáo.

U Ottama đã từng tham gia cánh tả Đảng Quốc Đại Ấn, phong trào cải cách Phật

giáo ở Ấn Độ, từng sang Nhật và Sri Lanka. Năm 1918, ông về nước và từ đầu những

năm 1920 hiến cuộc đời cho sự nghiệp dân tộc. Ông viết bài, nói chuyện lên án chế độ

thực dân Anh, tuyên truyền cho mục tiêu tự trị và kêu gọi các nhà sư hòa mình cho

phong trào dân tộc. Ông cho rằng vì Niết bàn là giải thoát khỏi cảnh nô lệ sau khi con

người từ giã cõi đời, là thoát khỏi vòng luân hồi và vì người nô lệ không thể lên được

cõi Niết bàn, nên các nhà sư trước tiên phải tụng cầu cho sự giải phóng con người khỏi

sự nô lệ ngay trần thế, trên đất nước Myanamar. U Ottama tích cực góp phần thành lập

Hội liên hiệp các nhà sư, cũng như Hiệp hội Myanmar, lên tiếng chống chế độ thuế

cao, kêu gọi các phật tử đoàn kết với các tín đồ Islam và Hindu. Chính quyền thực dân

54

gán cho ông tội danh kích động bạo loạn và kết án ông 12 tháng tù giam vào năm

1921. Năm sau ra tù, ông lại lao vào đấu tranh. Năm 1924, ông lại vào tù. Năm 1927,

tự do, ông tiếp tục kiên cường đấu tranh. Năm 1938, ông hy sinh trong tù. U Ottama là

tấm gương sáng về tinh thần xả thân vì độc lập tự do của dân tộc [17, tr. 324].

Noi gương ông, nhiều nhà sư khác cũng đã hiến dâng cuộc đời cho cuộc đấu

tranh chung với những quan điểm mới mẻ. Sư U Wisara đã tuyệt thực khi bị bắt giam

vì ông không được mặc áo choàng nhà sư khi ở trong tù, ông cho rằng việc thoát khổ

nhập Niết bàn là đồng nghĩa với giải thoát khỏi vòng nô lệ chính trị, và cuối cùng ông

đã qua đời. Sư Sayado U Nye Ya thì tuyên bố rằng độc lập chính là Niết bàn trên thế

gian này, và chỉ thông qua đấu tranh chính trị, người Myanmar mới mong giành lấy

độc lập [17, tr. 324].

Sự nghiệp đấu tranh và sự ra đi của những nhà sư này đã truyền nguồn cảm hứng

mãnh liệt cho nhiều người Myanamar trong sự nghiệp đấu tranh chống lại sự cai trị

của Anh. Đặc biệt những người trẻ tuổi là những du học sinh đã được tìm hiểu về nền

dân chủ và sự độc lập. Họ đã mang những ý tưởng đó trở lại Miến Điện và bắt đầu tự

tổ chức để chống lại sự cai trị của Anh. Họ muốn vận hành một hệ thống giáo dục cho

riêng mình. Tại các ngôi trường, người Myanmar sẽ được học về lịch sử theo một cách

rất khác mà người Anh đã dạy. Và họ kết luận rằng người Anh không nên có mặt ở

Myanmar.

Năm 1929, khi phái đoàn Anh do Sir John Simon dẫn đầu, sang xem xét đòi hỏi

về hiến pháp của các nhà dân tộc Ấn Độ đưa ra đề xuất chia tách Myanmar. Đề xuất

này được xem như là “âm mưu đế quốc” dùng để cai trị Myanmar vô thời hạn. Bất

chấp sự phản kháng của nhân dân Miến, người Anh vẫn thông qua Đạo luật Cai trị Ấn

Độ năm 1935, chia tách Myanmar khỏi Ấn Độ. Đạo luật trao quyền tự trị cấp tỉnh cho

Myanmar, trong đó, vẫn “bảo tồn” quyền lực của thống đốc Anh. Cuộc khủng hoảng

những năm 1930 tác động khủng khiếp đến nền công nghiệp lúa gạo Myanmar, chất

chồng thêm những bức bối về kinh tế, chính trị trong lòng người dân. Trong khi giá cả

tụt xuống còn 1/3 mức cũ thì việc tịch thu tài sản để thế nợ, nạn thất nghiệp và tỷ lệ tội

phạm ngày càng leo thang. Bên cạnh đó nông dân Miến còn phải trả thuế Thathemada

– một loại thuế thân hàng năm. Chính vì vậy mà chính quyền Anh, giới cho vay nặng

55

lãi người Ấn trở thành tâm điểm đặc biệt để lực lượng nông dân – tá điền và lao động

nông nghiệp trút cơn thịnh nộ [20, tr. 228].

Khi đó nổ ra một cuộc khởi nghĩa nông dân với quy mô lớn tại vùng Hạ

Myanmar. Saya San là một cựu pongyi nổi tiếng lãnh đạo một cuộc đấu tranh của nông

dân kéo dài từ 1930 đến 1932. Từng là cựu lãnh đạo của GCBA, Saya San khai thác

chủ nghĩa tượng trưng truyền thống, mang đậm tính thần bí để khôi phục lại vương

triều Phật giáo và thu hút quần chúng nông dân tham gia một cách đông đảo. Trong

những năm 1920, GCBA có nhiều cơ sở ở vùng nông thôn. Nông dân lập ra các hội

Unthanu Athin đấu tranh chống chế độ thuế nặng nề và vô nguyên tắc, khủng bố bọn

lý trưởng ác độc, cường hào cũng như các nhân viên thu thuế, và tham gia phong trào

tẩy chay, có tới 300 hội. Đội quân nông dân của Saya San đi khắp các vùng quê, giết

hết nhân viên kiểm lâm người Anh và lao động người Ấn. Ngày 28/10/1930, Saya San

đã uống một thứ thuốc ma thuật. Sau khi bận đồ nhà sư vài ngày, ông tiến hành đăng

quang theo nghi lễ cổ xưa, lấy nước Thupannaka Galon Ragia, nhân danh Phật và các

thần linh ra lệnh cho quân đội Galon tiến lên (nông dân được tổ chức thành các

Galon). Các nghĩa sĩ Galon vẽ xăm hình chim Galon và nhiều hình bùa phép trên thân

thể. Nhiều người tin rằng các hình đó giúp họ khỏi bị thương khi xung trận. Ngày

20/12, khởi nghĩa bùng nổ. Hàng ngàn con người trong tay chỉ có giáo mác xông lên

đè bẹp sức cản phá của cảnh sát địa phương. Những người nông dân đã tấn công văn

phòng của người Anh, và người Anh đã đáp trả bằng bạo lực. Mặc dù với tinh thần

chiến đấu rất cao nhưng họ trở thành những tấm bia và bị giết dã man có khoảng

10.000 người chết, 9.000 người bị đày, Saya San bị kết án sau một phiên tòa dài đằng

đẵng năm 1937. Có thể nói, cuộc khởi nghĩa Saya San là nỗ lực cuối cùng nhằm đảo

chiều xu thế hiện đại hóa và phục hồi vương triều Phật giáo cũng như lối sống truyền

thống. Cuộc “trở về với quá khứ” của Saya San không thể thực hiện được trong điều

kiện đất nước đã có nhiều đổi thay. Khởi nghĩa của nhà sư Saya San được xem là bài

ca bi tráng của những người nông dân cùng khổ nhưng chưa tìm được con đường phù

hợp [17, tr. 327].

Sự thất bại của các cuộc đấu tranh tự phát của nhân dân Miến dưới sự lãnh đạo

của các nhà sư cách mạng đã chứng tỏ con đường đấu tranh mà nhân dân Miến đang

56

theo đuổi là không phù hợp; đồng thời kết thúc vai trò của các nhà sư trong công cuộc

đấu tranh của dân tộc, vai trò lãnh đạo cách mạng được đặt lên đôi vai và trí óc của

những nhà trí thức trẻ tuổi. Năm 1935, việc cố gắng nâng cao quyền lực của

Thathabaing bị giáng một đòn chí tử khi Tòa án tối cao Yangon, với phán quyết nhất

trí qua năm quan tòa đã quy định rằng Phật giáo không có một quy chế pháp lý đặc

biệt nào và cũng như các tôn giáo khác mà không do nhà nước lập nên. Trong sự hỗn

độn của cuộc chiến tranh chính trị giữa các phe phái tranh giành quyền lực, năm 1938,

chức vụ Thathabaing xem như không còn trong Hội đồng tôn giáo vì không có người

kế nhiệm [25, tr. 1057].

Vì sự vắng mặt của Thathabaing nên các vị sư sống ngoài vòng cương tỏa, họ

trở thành những người đầu tiên thắp lên ngọn đuốc đấu tranh, là những người đầu tiên

liên kết với cư sĩ, trí thức để tạo thành một mạng lưới chính trị chống đế quốc đầu tiên

trong những năm 1920 – 1930. Việc tham gia cách mạng của những nhà sư Miến Điện

không có gì khác hơn là đem lại độc lập dân tộc, phục hồi các giá trị phồn vinh của

ngày xưa, để người nghèo cũng có thể xây dựng chùa chiền; đó chính là hạnh phúc của

nhân dân. Mặc dù hoạt động của giới tu sĩ chỉ có tác dụng và bùng nổ trong một thời

gian nhất định, về sau thì lắng dịu hẳn do sự đàn áp của thực dân Anh, nhưng đã có

một tác dụng to lớn trong việc thức tỉnh tinh thần dân tộc ở Myanmar, kêu gọi các tầng

lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng vì quê hương đất nước.

3.2. Những cuộc đấu tranh quyết liệt cho nền độc lập và vai trò lãnh đạo của lực

lượng Phật giáo

Từ 1930 trở đi, nhiều thư viện mác xít đã được xây dựng, thu hút nhiều độc giả

trong giới thanh niên học sinh. Một học giả tư sản người Anh – James Ferniwall viết

về Miến Điện ở thời kỳ này như sau: “Thanh niên Miến Điện tìm hiểu rất say mê về

Nga và về chủ nghĩa Mác. Nhiều sách kinh điển mác xít đã được dịch ra tiếng Anh

và những quan niệm mác xít về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc đã ăn sâu vào

hàng ngũ trí thức trẻ tuổi. Chủ nghĩa cộng sản ở Miến Điện bắt đầu xuất hiện và dần

dần trở thành một lực lượng chính trị thực sự” [13, tr. 353].

Những tư tưởng cách mạng được truyền bá rộng rãi dần dần nâng cao trình độ

giác ngộ của quần chúng, càng tăng cường thêm sự đoàn kết của nhân dân lao động.

57

Từ những năm 30 trở đi, những tổ chức công hội đầu tiên của công nhân được bí mật

thành lập và hoạt động ở Miến Điện: công đoàn tài xế ô tô (1933), công đoàn đường

sắt và công đoàn khuân vác thành lập ở Yangon (1934), đến năm 1937 thì đã có 10

công đoàn. Sự thành lập các tổ chức công đoàn chứng tỏ rằng phong trào thợ thuyền ở

Miến Điện đã lên cao. Vladimir Ilych Lenin đã từng nói; sự xuất hiện của tổ chức công

đoàn là một bước tiến lớn lao của giai cấp công nhân ở mỗi một nước và là một bằng

chứng về sự chuyển biến của công nhân từ tình trạng rời rạc lẻ tẻ sang tình trạng đoàn

kết thống nhất giai cấp [13, tr. 354].

Phong trào đình công phát triển lên một mức cao hơn. Tiêu biểu là cuộc bãi công

của công nhân bến tàu Yangon (5/1930), bãi công của công nhân của các nhà máy xay

gạo lớn nhất ở Yangon (1935), bãi công của công nhân ngành dầu hỏa (1936). Giai cấp

vô sản Miến Điện tập hợp lực lượng, siết chặt hàng ngũ, nâng cao ý thức giác ngộ giai

cấp dần dần đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập.

Sự bất ổn về hiến pháp trong những năm 1930 đã tạo tiền đề cho sự ra đời của

một số đảng phái chính trị. Tất cả chính đảng này đều ủng hộ cải cách ruộng đất, đồng

thời phản đối việc người Ấn và giới cho vay lãi nước này nhập cư. Có thể kể đến hai

đảng phái quan trọng nhất là Sinyetha và Thakin. Đảng Sinyetha (Đảng của người

nghèo) do tiến sĩ Ba Maw sáng lập. Ông trở thành Bộ trưởng Bộ giáo dục năm 1932 và

năm 1937 trở thành Thủ tướng đầu tiên theo đạo luật năm 1935. Sinyetha cổ xúy việc

giảm thuế, bảo vệ nông dân trước bọn cho vay lãi và giáo dục bắt buộc [24, tr. 228].

Nhưng quan trọng hơn là Đảng Thakin – người chủ, một nhánh tổ chức do sinh

viên Đại học Yangon khởi xướng năm 1929, có tên gọi là Dohbama Asiayone (Hội

Miến Điện của chúng ta). Đảng thu hút đông đảo sinh viên, giáo viên và các bộ phận

trí thức khác. Đảng Thakin thúc giục người Miến đứng lên làm chủ đất nước mình.

Người Anh trước kia vẫn thường yêu cầu người giúp việc Miến Điện dùng cụm từ

“Thakin” để xưng hô với họ. Giờ đây, sinh viên Đại học Yangon dùng cụm từ này để

nói chuyện với nhau thông qua đó nhấn mạnh sự bình đẳng với người Anh cũng như

khẳng định rằng họ mới là chủ nhân của chính mình. Đảng Thakin ủng hộ việc phục

hồi truyền thống văn hóa Phật giáo Miến Điện. Song, nó lại cứng nhắc phản đối hệ

thống giáo dục Anh, với thiết kế giáo trình chuyên cho những thành viên phục vụ

58

trong bộ máy chính quyền tay sai. Cơ cấu tổ chức Đảng khá chặt chẽ, với ban lãnh đạo

trẻ, phần lớn là trí thức Myanmar, lại là những người có mối quan hệ sâu rộng với tầng

lớp nông dân bị áp bức. Đảng tổ chức nhiều nhóm học tập, đa phần là người phe tả.

Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội mà đa số hướng tới chủ yếu được xuất phát từ giới luật

nhà Phật về công bằng và công lý, hay từ sự phản kháng trước việc người nước ngoài

kiểm soát nền kinh tế Myanmar. Cũng như tất cả các đảng phái khác ở Myanmar,

Thakin không ưa gì cộng đồng người Ấn ở Myanmar, nhưng lại vô cùng tôn trọng

Đảng Quốc Đại Ấn Độ và ban lãnh đạo của nó. Năm 1939, Thakin hợp tác với các

lãnh tụ Ấn Độ trong vấn đề từ chối chung sức tham chiến với người Anh, đồng thời

cùng chia sẻ cảnh tù đày dưới ách thực dân [24, tr. 329].

Trong những năm 1935 – 1936, phong trào thợ thuyền phát triển mạnh, những

nhóm mác xít chân chính ra sức tuyên truyền vận động quần chúng chống lại chế độ

thực dân và gia nhập Đảng Thakin, làm cho Đảng này tăng thêm tính chất cách mạng

của nó. Những phần tử mác xít nằm trong tổ chức đảng bắt đầu làm công tác giáo dục

ý thức xã hội chủ nghĩa trong hàng ngũ thợ thuyền. Đứng trên lập trường của giai cấp

vô sản, Đảng Thakin đã công khai lên án chính sách áp bức bóc lột của đế quốc Anh.

Đảng Thakin là một đảng chính trị xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử Miến Điện, đã

vạch ra cương lĩnh đấu tranh của mình, nội dung đòi thủ tiêu ách thống trị của người

Anh, đòi Miến Điện được độc lập và kêu gọi nhân dân đứng dậy vũ trang chống thực

dân xâm lược.

Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng lên cao đã buộc thực dân Anh phải đi

đến chỗ nhượng bộ. Năm 1935, chính phủ Anh quyết định tách Miến Điện ra khỏi Ấn

Độ, nhưng đến tháng 4/1937 mới được thi hành. Theo đó, Miến Điện hưởng quy chế

của một thuộc địa riêng biệt của đế quốc Anh với chế độ nghị viện dân biểu. Những

năm 1938 – 1939, phong trào phản đế trong quần chúng nhân dân lại phát triển lên một

giai đoạn mới cao hơn. Tình hình đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến tới thành

lập Mặt trận thống nhất phản đế của nhân dân Miến.

Cuối năm 1938 đầu 1939, tại vùng dầu mỏ đã nổ ra một cuộc tổng bãi công chưa

từng thấy của trên hai vạn công nhân làm việc trong các mỏ dầu và các nhà máy lọc

dầu thuộc công ty khai thác dầu hỏa của người Anh (Burma Oil Company). Cuối năm

59

1938, công nhân mỏ dầu bị ép đến bước đường cùng liền tuyên bố đình công rồi rủ

nhau đi bộ, vượt qua một chặng đường dài 500km từ mỏ dầu đến thủ đô Yangon để

phản đối nhà cầm quyền và bọn tư bản độc quyền Anh. Một nghìn rưỡi người đói rách

tham gia cuộc hành trình bi đát này. Họ đã nhận được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân

dân. Tháng Giêng năm 1939, nổ ra cuộc tổng bãi công chính trị lan rộng khắp toàn

quốc, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào cách mạng giải phóng dân

tộc ở Miến Điện.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Thakin, Hội nông dân toàn quốc được thành lập,

thống nhất lại tất cả các nông hội ở Miến Điện trong một tổ chức duy nhất. Tại khóa

họp đầu tiên của Hội năm 1939 đã thông qua chương trình hành động 5 điểm. Tháng

Giêng 1940, Tổng công hội toàn quốc được thành lập, đánh dấu một bước tiến mới của

giai cấp công nhân Miến Điện, lúc này đã trở thành một lực lượng chính trị có tổ chức.

Trong thời kỳ Thế chiến II, Thakin chia làm ba nhóm. Đi theo con đường Chủ

nghĩa cộng sản có Thakin Soe và Thein Pe; Đảng Cộng sản chính thức ra đời năm

1943. Còn đông đảo đảng viên Thakin, trong đó có Aung San thì đi theo chủ nghĩa xã

hội dân chủ. Nhóm thứ ba bao gồm U Ba Swe, U Nu và những người không ưa tư

tưởng bè phái. Mặc dù Thakin là một đảng phái có uy tín và ảnh hưởng lớn lao trong

phong trào đấu tranh của nhân dân Myanmar, nhưng Thakin vẫn chưa đủ nội lực để tự

mình đưa Myanmar đến bến bờ tự do. Họ vẫn phải nhờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài,

Trung Quốc hay Nhật Bản.

Năm 1940, một đại diện của Nhật Bản là Đại tá Suzuki Keiji, đã liên hệ với

Thakin để đưa ra đề nghị trợ giúp quân sự nếu họ đồng ý đứng về phe Nhật trong cuộc

chiến trước mắt. Những người Cộng sản và nhóm Aung San đều phản đối đề nghị.

Aung San đặt hy vọng nhiều vào sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và ông

bí mật rời đến Thượng Hải. Cải trang thành thủy thủ người Hoa, mang theo lá thư giới

thiệu từ Đảng Cộng sản Ấn Độ, ông bị người Nhật mai phục tại Amoy, phía Nhật đề

nghị được huấn luyện “30 anh hùng” nổi tiếng của Aung San trên đảo Hải Nam. Đây

là lực lượng sẽ xâm nhập Myanmar và gây dựng nòng cốt Quân đội Độc lập Miến

Điện, sau này gọi là Quân đội Quốc gia Miến Điện (BNA), do Aung San làm tổng chỉ

60

huy. Mặc dù được Nhật giúp đỡ huấn luyện quân nhưng Aung San vẫn giữ quan điểm

chống chủ nghĩa phát xít Nhật.

Tháng 12/1941, Nhật đổ bộ lên Miến Điện, huênh hoang tuyên bố mình có sứ

mạng giải phóng các dân tộc châu Á khỏi ách người da trắng. Thật ra khi đồng ý giúp

Miến Điện trong việc đánh đuổi Anh thì Nhật Bản đã nuôi ý đồ chiếm Myanmar khi

Anh bị đẩy lùi, qua đó đóng cửa dòng vật liệu tiếp tế vào Trung Quốc để nhanh chóng

kết thúc cuộc xâm lăng Trung Quốc. Lúc này, phát xít Nhật đã lập ra tổ chức tình báo

Mianmi Kikan, gọi theo biệt danh của Suzuki – người đứng đầu tổ chức. Mianmi đảm

trách kế hoạch đóng cửa Con đường Miến Điện, huấn luyện người Myanmar.

Đến cuối tháng 1/1942, quân Anh rút khỏi toàn vùng Tanintharyi. Ngày 7/3,

thành phố Yangon bị chiếm. Quân Anh rút theo hai hướng: sư đoàn Ấn 17 tới Prome,

sư đoàn Myanmar 1 về Tungoo. Tháng 4, Anh rút khỏi Prome và Tungoo. Ngày 1/5,

Mandalay rơi vào tay Nhật, kế đó là Myitkyna vào ngày 17. Trên hướng các quốc gia

Shan, ngày 29/4, Nhật chiếm Lashio, cắt đứt con đường Miến Điện. Cuối tháng 5, hầu

hết lãnh thổ Myanmar được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Anh.

Tuy nhiên, khi người Anh rút đi thì nhân dân Myanmar lại phải đối đầu với một

kẻ thù nguy hiểm hơn đó là phát xít Nhật. Công cuộc tìm kiếm tự do cho dân tộc vẫn

còn phía trước đối với nhân dân Myanmar.

Khi Nhật hất cẳng Anh ra khỏi Myanmar, phần lớn người Miến, bị mê hoặc bởi

khẩu hiệu “Châu Á của người châu Á” của Nhật, đều trông đợi một nền độc lập tức

thời. Ngày 1/8/1943, giải thể hành chính quân sự Nhật, Myanmar tuyên bố độc lập với

người đứng đầu chính phủ là TS Ba Maw. Đổi lại, Myanmar phải tuyên chiến với phe

Đồng minh và cam kết ủng hộ, hợp tác trong việc xây dựng Khu vực Đại Đông Á

Đồng Thịnh Vượng. Tuy nhiên, nhiệt tình mà người Miến dành cho người Nhật sớm

tan thành mây khói do sự thờ ơ đến nhẫn tâm của quân đội Nhật đối với những cảm

xúc của người Miến. Kiểu hành động như vả vào mặt những người có uy tín trong

làng, cưỡng ép lao động, ra lệnh trưng thu gia súc, lúa gạo bắt buộc và không đền bù,

rồi các Phật tử còn tha hồ kinh ngạc khi đền chùa bị biến thành nhà vệ sinh, kinh Phật

bị đốt phá. Đây là điều nghiêm trọng nhất khiến người dân Miến không bao giờ nguôi

nỗi căm phẫn đối với quân Nhật. Cách thức bóc lột của nhà buôn chiến tranh tham lam

61

người Nhật càng làm tăng thêm suy nghĩ trong lòng người Miến rằng có thể trông đợi

gì đây vào Khu vực Đồng Thịnh vượng.

Những gì trải qua với người Nhật để lại nỗi thất vọng tràn đầy trong lòng các nhà

dân tộc Miến. Đầu năm 1944, nhân dân, chính quyền và quân đội đều bị lung lạc tinh

thần rồi đi đến chỗ suy sụp. Một đội quân kháng chiến gồm những người Cộng sản

hoạt động bí mật dưới sự chỉ huy của Thakin Soe, nay nhập thêm các nhóm người theo

chủ nghĩa dân tộc Thakin khác để tiến hành chống Nhật. Họ liên lạc với Quân đoàn

136 của Anh, lực lượng chuyên tổ chức và hỗ trợ các phong trào kháng chiến. Trong

lúc này, Aung San và các đồng chí của ông đã bí mật giao ước với Thakin Soe để tiến

hành hợp tác kháng chiến chống Nhật. Tháng 8/1945, tất cả các tổ chức bao gồm:

Đảng Cộng sản, Đảng Thakin, Đảng Xã hội, Đảng Ái quốc, Đảng Đại Miến, Hội Liên

hiệp thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Phật giáo, Hội những người Karen, Hội

những người Shan, Ủy ban dân tộc Karen; đều về dưới mái nhà chung của một tổ chức

mới thành lập, có tên gọi Liên đoàn Tự do Nhân dân chống Phát xít – AFPFT. Than

Tun, một lãnh tụ Cộng sản lão thành nắm cương vị Tổng bí thư, còn Aung San làm

Chủ tịch.

Bản tuyên ngôn của AFPFT được xuất bản và lưu hành bí mật, trong đó cam kết

xây dựng một “nhà nước của dân” với hiến pháp do toàn dân thông qua, bao gồm tự do

tư tưởng, ngôn luận, báo chí, hội họp, tôn giáo, đồng thời nghiêm cấm nạn phân biệt

chủng tộc, tôn giáo, giới tính hay thiểu số. Kế hoạch tức thời là tiến đánh du kích, cắt

đường cung cấp lương thực để làm suy yếu quân Nhật.

Ngày 27/3/1945, diễn ra cuộc nổi dậy dưới ngọn cờ AFPFT. Trong khi Quân đội

Tự do Miến Điện kiềm chân quân Nhật ở vùng đồng bằng Thượng Miến, gần Meiktila,

để trợ giúp cho quân Anh tái chiếm Myanmar. Lúc này, AFPFT đã thực sự phát triển,

thu hút tất cả mọi lực lượng dân tộc. Tháng 5/1945, nhân dân Miến Điện phối hợp

hành động quân sự với quân Đồng minh, đánh đuổi giặc Nhật ra khỏi đất nước. Ngày

7/3/1945, Nhật bắt đầu rút lui, AFPFL đã mở rộng phạm vi kiểm soát ở khắp

Myanmar.

Sau khi Nhật rút, người Anh khăng khăng đòi thực thi giai đoạn chuyển giao

quyền lực để có thể khôi phục nền kinh tế, các phương tiện liên lạc và bộ máy hành

62

chính đất nước, vốn bị tàn phá trầm trọng trong thời chiến. Trên thực tế, hệ thống giao

thông đường thủy cũng như đường sắt không hề được bảo dưỡng và các bến đậu đều

bị hỏng hóc trầm trọng. Tầng lớp thương gia và đa phần viên chức, luật sư, bác sĩ Ấn

Độ đã tìm về quê hương khi nổ ra các cuộc bạo loạn chống người Ấn năm 1938 hoặc

ngay sau khi nổ ra chiến tranh. Ngày 17/5, chính phủ Anh công bố Sách trắng về

Myanmar, theo đó thì Myanmar sẽ trải qua thời kỳ chính quyền quân sự và chế độ

thống đốc trong ba năm. Thống đốc có các quyền cố vấn, kiểm soát, giám sát một hoạt

động của một Hội đồng hành pháp. Nội dung Sách trắng chứng tỏ chính phủ Anh quá

lạc hậu, không tính tới một Myanmar từng độc lập – dù trên danh nghĩa, trong thời

Nhật chiếm đóng, một phong trào dân tộc từng trải đang phát triển sâu rộng và có thực

lực. Không quản ngại khó khăn, nhân dân Myanmar muốn người Anh biến ngay khỏi

đất nước mình. Với đông đảo đại diện chính trị dân tộc cộng thêm ban lãnh đạo cứng

rắn đứng đầu là Aung San, AFPTF đưa ra yêu cầu độc lập tức thời và trọn vẹn.

Những sự kiện diễn ra tại Ấn Độ đã đẩy nhanh bước tiến độc lập ở Myanmar.

Xem xét tình hình sau chiến tranh và phong trào dân tộc đầy nguy hại ở Ấn Độ, chính

phủ Lao động thời hậu chiến tại Anh quyết định rút chân khỏi tiểu lục địa. Cùng nhịp

với hoạt động rút lui quyền lực ở Ấn, tháng 10 năm 1946, người Anh yêu cầu Aung

San lập Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 1/1947, Anh tuyên bố bầu cử vào Hội đồng Lập

hiến. Hiển nhiên, AFPFT đĩnh đạc trở về vào tháng 4, vượt qua mọi đối thủ, đặc biệt là

phe Cộng sản. Tuy vậy, nhân dân Myanmar hân hoan niềm vui chưa được bao lâu thì

thật cay đắng, ngay tháng 7, Aung San và sáu đồng chí của ông bị ám sát bởi tay U

Saw, một kẻ đào ngũ khỏi AFPFT. Hắn muốn một chương trình cách mạng hơn,

nhưng không được đáp ứng. Định đổ lỗi lên đầu chính quyền Anh và kích động nhân

dân lao vào cuộc nổi dậy mà ở đó hắn là lãnh tụ tối cao. U Saw bị kết án và hành

quyết. AFPFT giờ đây dưới quyền U Nu sùng đạo, đã đưa Miến Điện giành lại độc lập

hoàn toàn từ tay Anh vào ngày 4 tháng 1 năm 1948. Myanmar trở thành nước cộng

hòa, với Thủ tướng đầu tiên là U Nu và Tổng thống Sao Shwe Thaik.

Như vậy, công cuộc đánh đuổi thực dân Anh và phát xít Nhật của nhân dân

Myanmar đã được hoàn thành. Vẫn còn rất nhiều những khó khăn sau ngày độc lập,

nhưng tầng lớp lãnh đạo Myanmar độc lập chủ yếu thuộc số ít người đẳng cấp cao

63

trong xã hội, hầu hết được hưởng nền giáo dục Anh quốc, ưa thích mô hình nhà nước

dân chủ và khuynh hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phản đối các mục tiêu kinh tế – xã

hội Cộng sản chủ nghĩa. Bản hiến pháp cho phép nhà nước có quyền hạn chế, nếu

không sung công tài sản tư (bao gồm cả tài sản của người nước ngoài) và quốc hữu

hóa các nguồn năng lượng tự nhiên, giao thông, các định chế tài chính cũng như các

hoạt động kinh tế khác, kể cả hoạt động chính là xuất khẩu lúa gạo. Bản hiến pháp

phỏng theo mô hình đại nghị Anh quốc, nhưng trên cơ sở hình thức cấu trúc lãnh thổ

liên bang, phân chia theo từng nhóm dân tộc thiểu số. Hội đồng dân tộc gồm 125 thành

viên đại diện cho các thành phần dân cư, phụ thuộc vào quy mô dân số của mỗi nhóm.

Hội đồng đại diện, Hạ viện, bao gồm 250 thành viên được bầu từ các đơn vị bầu cử

không phụ thuộc vào các sắc tộc. Nhánh hành pháp do Thủ tướng đứng đầu. Tổng

thống mang biểu tượng, do cơ quan lập pháp bầu lần lượt trong số các sắc tộc. Như

vậy, nền chính trị được xây dựng trên cơ sở bảo đảm cân bằng quyền lợi giữa các sắc

tộc khác nhau. Vấn đề sắc tộc ở Myanmar luôn là một thách thức cho những nhà cầm

quyền, việc giải quyết tốt vấn đề này sẽ là một sự khắc phục rất lớn những khó khăn

mà Myanmar đang đối mặt sau ngày độc lập. Điều quan trọng đối với quan hệ Anh –

Miến Điện là Liên bang Miến Điện non trẻ quyết định cắt mọi ràng buộc với Anh,

ngoại trừ các quan hệ ngoại giao thông thường, bằng việc không gia nhập Khối Thịnh

vượng Anh [24, tr. 229 – 231].

Như vậy, khi xem xét con đường đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân

Myanmar, nổi bật lên hai vấn đề như sau:

Thứ nhất: vì sao Phật giáo là lực lượng tiên phong trong việc lãnh đạo công

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc?

Thứ hai: vai trò lãnh của Phật giáo đối với cách mạng Myanmar chỉ giới hạn

trong buổi đầu quá trình đấu tranh giữ nước?

Myanmar dưới ách cai trị của chính quyền thực dân Anh không phải là một quốc

gia bị áp đặt nặng về vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, con bài tôn giáo được xem là một

con bài rất lợi hại trong chính sách thống trị của thực dân Anh.

Khi Thiên chúa giáo được nhân dân Myanmar tiếp nhận, người Anh sẽ đạt được

cái họ muốn đó chính là. Những người cùng tín ngưỡng tôn giáo lại có liên kết khá

64

chặt chẽ, họ bị ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật và chịu sự điều khiển của bộ máy tổ

chức giáo hội, họ sẽ trở thành một lực lượng xã hội không thể xem thường. Lực lượng

này có khả năng hỗ trợ chính quyền và trở thành một thế lực đối kháng lại thế lực Phật

giáo đang tồn tại ở Myanmar. Hai thế lực tôn giáo khác nhau về quan điểm - tư tưởng

sẽ tạo thành mâu thuẫn nội bộ, và nhanh chóng chuyển hóa thành mâu thuẫn đối kháng

sâu sắc. Vấn đề tôn giáo vốn là một vấn đề tế nhị và phức tạp. Nếu kết hợp cả vấn đề

tôn giáo và vấn đề dân tộc trong cùng một phạm vi địa lý thì sự phức tạp sẽ nhân lên

gấp bội; sẽ tạo thành “hai gọng kìm” để “bẻ gãy xương sống” của công cuộc cách

mạng, làm suy giảm sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh đuổi kẻ thù

xâm lược của nhân dân Myanmar. Người Anh đã rất khéo léo và khôn ngoan đưa giáo

hội tôn giáo vào cuộc chiến tranh chính trị. Việc tiếp thu một tôn giáo mới và trở thành

một thế lực đối kháng là sự đe dọa đối với địa vị của Phật giáo trong lòng dân tộc

Myanmar; đồng thời sẽ trở thành mối nguy hoại cho sự ổn định an ninh quốc gia dân

tộc. Do đó, những cuộc đấu tranh của Phật Giáo trong giai đoạn này luôn gắn với

phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

Nhưng rõ ràng là vai trò tập hợp và lãnh đạo nhân dân của Phật giáo ở Myanmar

chỉ giới hạn trong buổi bình minh cách mạng. Phong trào Saya San 1937 là phong trào

cuối cùng trước ngày giành độc lập mà quyền lãnh đạo thuộc về các nhà sư. Trong

suốt những năm tháng người Anh làm chủ mảnh đất này, họ đã thi hành chính sách bài

xích Phật giáo. Việc cắt đứt nguồn viện trợ về tài chính, làm suy giảm vai trò của giáo

dục tự viện đã giáng những đòn vô cùng mạnh mẽ vào giáo hội Phật giáo, gây cho

Phật giáo những tổn thất nặng nề. Sự phát triển của thời đại, việc tiếp thu các tư tưởng

dân chủ tiến bộ đã phá vỡ tính chất truyền thống của xã hội Myanmar. Cho nên uy tín

và vai trò thống trị xã hội của thế lực nhà chùa chỉ còn giới hạn ở vùng nông thôn. Bên

cạnh đó, hình thức đấu tranh được các nhà sư sử dụng là đấu tranh một cách tự phát để

đạt được mục tiêu là “khôi phục lại vương triều Phật giáo” đã từng tồn tại ở Myanmar

trong nhiều thế kỷ. Hình thức đấu tranh và mục tiêu đề ra bản thân nó không phù hợp

cho mục tiêu giải phóng dân tộc.

Sau hàng loạt sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa do các nhà sư lãnh đạo như U

Ottama – Saya San – U Wisara – U Thilaxa, Phật giáo quay về với chức năng nguyên

65

thủy của nó là: củng cố và xây dựng một nền đạo đức Phật giáo, tạo ra những con

người Myanmar hiền lành yêu chuộng cái đẹp và hòa bình, tạo nên một sức mạnh tinh

thần trong công cuộc đánh đuổi thực dân Anh và phát xít Nhật.

Kể từ sau ngày độc lập, với công cuộc chấn hưng Phật giáo, đi đầu là Thủ tướng

U Nu, các tăng sĩ lại xuất hiện trên chính trường chính trị. Sự đóng góp to lớn của U

Nu là ông đã tuyên bố Phật giáo là quốc giáo của Myanmar, tổ chức thành công kỳ kết

tập kinh điển Phật giáo lần thứ 6 vào năm 2497 – 2499 (Phật lịch), tức năm 1954 –

1961. Ngôi chùa Hòa Bình thế giới và Đại Thạch động được gọi là Mahaguha được

xem là mô phỏng của Pasana Maha Pasana Guha nơi kỳ kết tập lần thứ nhất diễn ra.

Kỳ kết tập đã khơi dậy nơi Phật tử Miến Điện một lòng nhiệt thành mới để khôi phục

lại vinh quang tôn giáo vốn đã từng tồn tại.

66

Tiểu kết chương 3

Ngày 4 tháng 8 năm 1948, Myanmar tuyên bố độc lập. Nền hòa bình mà nhân

dân Myanmar có được vào năm 1948 là cả một quá trình chiến đấu gian khổ, là sự đồng tâm hiệp sức của cả dân tộc, trong đó có vai trò quan trọng của Phật giáo.

Phong trào thức tỉnh dân tộc trước nạn ngoại xâm được khơi nguồn từ trong

phong trào chấn hưng Phật giáo. Những nhà sư cách mạng với mục tiêu phục hưng

một nền Phật giáo truyền thống ở Myanmar đã làm nên những cuộc đấu tranh mà lịch

sử Myanmar phải ghi nhận. Mặc dù các cuộc đấu tranh của họ chỉ mang tính chất tự

phát và bị dìm trong biển máu, nhưng trong một ý nghĩa nhất định, nó đã dần dần thổi

bùng ngọn lửa đấu tranh giành độc lập dân tộc cho nhân dân Myanmar.

Nhưng rõ ràng là vai trò tập hợp và lãnh đạo nhân dân của Phật giáo ở Myanmar

chỉ giới hạn trong buổi bình minh cách mạng. Phong trào Saya San 1937 là phong trào

cuối cùng trước ngày giành độc lập mà quyền lãnh đạo thuộc về các nhà sư. Trong

suốt những năm tháng người Anh làm chủ mảnh đất này, họ đã thi hành chính sách bài

xích Phật giáo. Việc cắt đứt nguồn viện trợ về tài chính, làm suy giảm vai trò của giáo

dục tự viện đã giáng những đòn vô cùng mạnh mẽ vào giáo hội Phật giáo, gây cho

Phật giáo những tổn thất nặng nề. Sự phát triển của thời đại, việc tiếp thu các tư tưởng

dân chủ tiến bộ đã phá vỡ tính chất truyền thống của xã hội Myanmar. Cho nên uy tín

và vai trò thống trị xã hội của thế lực nhà chùa chỉ còn giới hạn ở vùng nông thôn. Bên

cạnh đó, hình thức đấu tranh được các nhà sư sử dụng là đấu tranh một cách tự phát để

đạt được mục tiêu là “khôi phục lại vương triều Phật giáo” đã từng tồn tại ở Myanmar

trong nhiều thế kỷ. Hình thức đấu tranh và mục tiêu đề ra bản thân nó không phù hợp

cho mục tiêu giải phóng dân tộc.

Sau hàng loạt sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa do các nhà sư lãnh đạo như U

Ottama – Saya San – U Wisara – U Thilaxa, Phật giáo quay về với chức năng nguyên

thủy của nó là: củng cố và xây dựng một nền đạo đức Phật giáo, tạo ra những con

người Myanmar hiền lành yêu chuộng cái đẹp và hòa bình, tạo nên một sức mạnh tinh

thần trong công cuộc đánh đuổi thực dân Anh và phát xít Nhật.

Sau thất bại của phong trào Phật giáo do Saya San lãnh đạo 1937. Con đường đấu

tranh chống ách thống trị thực dân Anh và sau đó là phát xít Nhật ở Myanmar phát

67

triển dưới nhiều hình thức phong phú hơn: tự phát trong giai đoạn đầu, đấu tranh nghị

trường với hoạt động tích cực của Đảng Thakin – người chủ, đấu tranh vũ trang kết

hợp với “sự giúp đỡ có điều kiện” của phát xít Nhật. Đến cuối năm 1942, thực dân

Anh bị đánh bật khỏi Myanmar, nền độc lập của Myanmar được khôi phục một cách

tạm thời. Tuy nhiên, ngay khi thực dân Anh rời đi, thì phát xít Nhật đã đặt chân đến và

cai trị quốc gia này. Dưới ách thống trị thực dân cũng như họa phát xít, cả dân tộc

Myanmar oằn oại dưới gót giày quân xâm lược. Kinh tế – chính trị – văn hóa, mà nhất

là Phật giáo bị ngược đãi và bị đối xử vô cùng tàn nhẫn. Công cuộc đánh đuổi quân

Nhật lại tiếp tục. Nhờ sự kết hợp sức mạnh của toàn dân vào mặt trận chung chống

phát xít, nhận được sự giúp đỡ của quân đội Đồng minh và thời cơ ngàn năm có một

do sự suy yếu của phát xít Nhật, Myanmar đã giành được độc lập. Mười năm trước

ngày độc lập, trong những cuộc đấu tranh quyết liệt của dân tộc Myanmar, ngọn cờ

lãnh đạo đã không còn trong tay tầng lớp Phật giáo mà lịch sử đã chuyển giao cho tầng

lớp trí thức, tiểu tư sản.

Kể từ sau ngày độc lập, với công cuộc chấn hưng Phật giáo, đi đầu là Thủ tướng

U Nu, các tăng sĩ lại xuất hiện trên chính trường chính trị. Sự đóng góp to lớn của U

Nu là ông đã tuyên bố Phật giáo là quốc giáo của Myanmar, tổ chức thành công kỳ kết

tập kinh điển Phật giáo lần thứ 6 vào năm 2497 – 2499 (Phật lịch), tức năm 1954 –

1961. Ngôi chùa Hòa Bình thế giới và Đại Thạch động được gọi là Mahaguha được

xem là mô phỏng của Pasana Maha Pasana Guha nơi kỳ kết tập lần thứ nhất diễn ra.

Kỳ kết tập đã khơi dậy nơi Phật tử Miến Điện một lòng nhiệt thành mới để khôi phục

lại vinh quang tôn giáo vốn đã từng tồn tại.

68

KẾT LUẬN

Trong cuộc đời mỗi con người, có ít nhất một lần chúng ta chuẩn bị và tiến hành

những chuyến viễn du. Một quốc gia hay một nền văn hóa mới cần được chinh phục.

Việc tìm hiểu “Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar

từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX” cũng là một hành trình cho những ai bị

cuốn hút bởi vấn đề này.

Khi đến Myanmar, nếu chúng ta đặt câu hỏi: Ở Myanmar có bao nhiêu ngôi

chùa?; thì chắc chắn bất kỳ người Myanmar nào cũng sẽ đáp lại rằng: trên bầu trời có

bao nhiêu ngôi sao thì ở Myanmar có bấy nhiêu ngôi chùa. Những lễ hội ở Myanmar

luôn mang đậm màu sắc Phật giáo, tiêu biểu như lễ hội nước – Thingyan, lễ hội trăng

tròn – Kason, lễ hội Wazo tháng 7, lễ thắp đèn Tadugyut. Văn học và hội họa

Myanmar cũng chính là một thế giới Phật giáo thu nhỏ. Đặc biệt nhất là, con người

Myanmar – vừa là những Phật tử vừa là những công dân chất phác thuần lương.

Khi tìm hiểu về vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội Myanmar, chúng

ta càng khẳng định khía cạnh nhập thế của tôn giáo này. Phật giáo du nhập vào Miến

Điện thế kỷ III TCN, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập với nền văn hóa bản địa và

phát triển một cách mạnh mẽ trong các vương quốc Môn – Pyu thế kỷ V – X, sau đó

lan tỏa một cách nhanh chóng từ thế kỷ XI – XIII dưới sự trị vì của vua Anawrahta.

Thành cổ Pagan hiện nay là một minh chứng hùng hồn nhất cho sự hưng thịnh của

triều đại Phật giáo Anawrahta. Sang thế kỷ XIII – XVII, Phật giáo tồn tại một cách

mạnh mẽ ở Hạ Miến trong thời gian cầm quyền của Bayin Naung và có mối quan hệ

mật thiết với Phật giáo Sri Lanka. Thế kỷ XVII – XIX, là giai đoạn phát triển một cách

năng động của Phật giáo Miến Điện, nhiều kinh điển Phật học tiếng Pali được dịch và

biên soạn sang tiếng Myanmar, tạo sự thuận lợi cho việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp

cũng như việc truyền bá giáo lý tôn giáo này trong dân chúng. Dựa vào sự hộ trì chánh

pháp của các vua Miến mà Phật giáo đã có thể tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ

như thế. Nhà vua cung cấp tài chính cho các chùa và tổ chức Sangha để họ yên tâm

trong việc tu tập. Mối quan hệ giữa triều đình phong kiến Miến Điện và tổ chức Tăng

đoàn là mối quan hệ tương hỗ tốt đẹp. Một mặt, nhà vua ủng hộ, bảo vệ và duy trì Phật

pháp, mặt khác, các nhà sư giúp cho triều đình trong vấn đề giáo dục dân chúng sống

69

tuân thủ theo khuôn phép nhà nước, tạo ra sự ổn định xã hội. Đây là đặc điểm rất riêng

của Phật giáo Myanmar so với các nền Phật giáo khác trong khu vực và trên thế giới.

Xét về góc độ xã hội, nhất là trên lĩnh vực giáo dục, sự đóng góp của Phật giáo là

rất lớn. Myanmar là một trong những quốc gia có tỷ lệ học vấn (biết đọc biết viết) cao

nhờ vào giáo dục Phật giáo. Có 3 sự ảnh hưởng lớn trong giáo dục các tự viện (khu

vực sạch sẽ và rộng rãi), giáo thọ sư (hướng dẫn tri thức lẫn tinh thần) và nội dung

giảng dạy (Tạng Pali cùng với bản dịch tiếng Myanmar, số học, thiên văn học, y học

dân tộc, văn học Myanmar, chuyên ngành đạo đức và tôn giáo cùng với những cuốn

sách được viết trên lá bối. Trên thực tế, do sự thành tựu giáo dục Phật giáo, tỉ lệ biết

đọc biết viết tương đối cao (năm 1901 đạt 48.9%, năm 1911 đạt 50.1%). Khi so sánh

với các thuộc địa của Đế quốc phương Tây, tỉ lệ biết đọc viết của Myanamar thì cao

hơn.

Nhưng khi thực dân Anh xâm chiếm và cai trị Myanmar (1885), họ đã làm đảo

lộn tất cả những quy tắc, những giá trị truyền thống trong xã hội. Phật giáo bị xâm

phạm và tổn hại một cách nghiêm trọng. Nhà chùa và giáo dục tự viện không còn là

trung tâm của xã hội. Bên cạnh đó, chính quyền thực dân đã du nhập một tôn giáo mới

– Thiên chúa giáo để làm đối trọng và cạnh tranh với Phật giáo. Họ ngang nhiên xâm

phạm đến những tình cảm và sự tôn trọng tuyệt đối của nhân dân Miến Điện đối với

Phật giáo: mang giày dép vào chánh điện của những ngôi chùa – đây là điều tối cấm

kỵ đối với những quốc gia sùng bá đạo Phật như Myanmar.

Có thể nói, từ thế nửa cuối kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, là một giai đoạn cực

kỳ khó khăn và phức tạp cho sự phát triển của Phật giáo ở Miến Điện. Đó chính là sự

ngược đãi, sự tấn công từ những người cai trị không có cùng nền văn hoá và làm tổn

thương đến Phật Giáo. Sự cùng khổ của nhân dân kết hợp với ước vọng lớn lao của

các nhà sư là mong muốn khôi phục lại vương triều Phật giáo đã tạo nên một sức mạnh

nội lực để họ dấy lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng chống lại thực dân Anh. Tuy chỉ

tham gia trong buổi đầu của quá trình giải phóng dân tộc, nhưng U Wisara – U Ottama

– Sayado U Nye – Saya San đã trở thành những nhà sư bất tử trong lòng nhân dân

Miến. Khi phong trào đấu tranh tự phát của nhân dân do các nhà sư lãnh đạo thất bại,

con đường đấu tranh giải phóng dân tộc ở Miến Điện chuyển sang một giai đoạn mới.

70

Các Đảng phái lần lượt xuất hiện, tiêu biểu nhất là Đảng Thakin – người chủ do giới

trí thức lãnh đạo. Đây là lực lượng hạt nhân và giữ vai trò nồng cốt trong suốt quá

trình đấu ở Myanmar. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng tư tưởng mác xít trong quần chúng

lao động ngày càng rõ rệt, họ ngày càng giác ngộ được sự khổ đau của chính mình là

do thực dân mang lại. Cho nên, nhiều cuộc bãi công với quy mô lớn và có tổ chức chặt

chẽ liên tiếp diễn ra. Năm 1942, người Anh phải rút hoàn toàn khỏi Myanmar. Nền

độc lập của Myanmar được khôi phục một cách tạm thời.

Vừa thoát khỏi ách cai trị thực dân, nhân dân Myanamar lại đối mặt với những

thủ đoạn cai trị độc ác của phát xít Nhật. Phật giáo lại một lần nữa bị tổn hại khi quân

lính Nhật đã biến nhiều nhà chùa, biểu tượng của văn hoá Myanmar thành nhà vệ sinh.

Xúc phạm đến niềm tin, người Myanmar lại cùng các nhà sư và các lực lượng tiến bộ

đứng lên đấu tranh cho hòa bình, cho tự do và cho tôn giáo thiêng liêng mà họ sùng

bái. Sự tập hợp và đoàn kết toàn dân trong măt trận chung Liên đoàn Tự do Nhân dân

chống phát xít – AFPFT (1945). Phát xít Nhật bị đánh lui, thực dân Anh quay lại

nhưng cuối cùng nền độc lập của Myanmar cũng được công nhận vào tháng 1/1948.

I.S.Furnivalt trong “Chính sách và thủ đoạn của thực dân” có viết: Phật giáo là

khuôn thước của đời sống và tư tưởng xã hội của người Miến. Hai danh từ phật tử và

dân Miến trên thực tế vẫn đồng nhất và không thể tách rời. Tất cả đời sống chính trị,

xã hội tại Miến, từ hoàng thành cho tới thôn xã đều xoay quanh Phật giáo và tăng đồ

Phật giáo. Do đó, khi Phật giáo trở thành nguồn sức mạnh mềm thì “vai trò của Phật

giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu

thế kỷ XX” càng được khẳng định.

71

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Mai Ngọc Chừ (1998), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Quốc gia Hà Nội.

2. PGS.TS Nguyễn Duy Dũng (2013), Myanmar: cuộc cải cách vẫn đang tiếp diễn,

Nxb từ điển bách khoa.

3. GS.TS Phạm Đức Dương (2013), Lịch sử văn hóa Đông Nam Á, Nxb văn hóa

thông tin.

4. Trịnh Duy Hòa (2004), Đối thoại các nền văn hóa Myanmar, Nxb Trẻ.

5. Thích Thái Hòa (2012), Miến Điện mặt trời lên, chùa Phước Duyên Huế.

6. Trương Sĩ Hùng (2003) – Cao Xuân Phổ – Huy Thông – Phạm Thị Vinh, Mấy tín

ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á, Nxb Thanh Niên.

7. PGS.TS Nguyễn Văn Kim (2012), Lịch sử Đông Nam Á, tập 4, Nxb KHXH.

8. Nguyễn Đình Lê (1987), Đất nước chùa vàng, Nxb Giáo dục.

9. PGS.TS Ngô Văn Lệ (2003), Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông

Nam Á, Nxb ĐHQG Tp. HCM.

10. Nguyễn Bích Liên (1968), Miến Điện, Nxb Cơ sở Phạm Quang Khai.

11. Phan Ngọc Liên (1998) – Nghiêm Đình Vỹ – Đinh Ngọc Bảo – Trần Thị Vinh,

Lược sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục.

12. Lương Ninh (chủ biên) – Đỗ Thanh Bình – Trần Thi Vinh (2008), Lịch sử Đông

Nam Á, Nxb Giáo dục.

13. Chiêm Tế (1959), Phương Đông từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917 –

1959) miền Đông Á và Đông Nam Á, Nxb Văn sử địa.

14. Phạm Minh Thảo (biên dịch) (2004), Những ngôi chùa thần bí Myanamr, Nxb

Văn hóa thông tin.

15. Vũ Quang Thiện – Vũ Thị Oanh – Ngô Văn Doanh – Phạm Kim Hảo (1988),

Ở xứ chùa vàng (Tìm hiểu văn hóa Miến Điện), Nxb Văn hóa Hà Nội.

16. Vũ Quang Thiện (1997), Quá trình phát triển của Myanmar, Nxb KHXH

Hà Nội.

17. Vũ Quang Thiện (2005), Lịch sử Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội.

18. Trần Quang Thuận (2008), Phật giáo Miến Điện, Nxb Tôn giáo.

19. Trần Quang Thuận (2008), Phật giáo Nam Tông tại Đông Nam Á, Nxb Tôn giáo.

72

20. Lê Quốc Vinh (chủ biên) – Hà Bích Liên (1997), Các nhân vật lịch sử trung đại –

tập 1, Nxb Giáo dục.

21. Các nước Đông Nam Á (1976), Nxb Sự thật Hà Nội.

22. G. E . Coedès (2011), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, Nxb Thế giới.

23. TS Khnim Meung Ngunt – U Sen Myo Mint, người dịch Hoàng Hạc (2006), Hội

họa Myanmar – thế giới tâm linh và khát vọng, Nxb Giáo dục.

24. D.R.Sar Desai (2009), Đông Nam Á quá khứ và hiện tại, người dịch Ths Nguyễn

Thanh Hải – khoa Đông Phương học ĐHKHXHNV, Westview pres.

25. D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á (sách tham khảo), Nxb CTQG HN.

Tiếng Anh

26. Roger Bischoff (1998), Buddhism in Myanmar – A short history, Buddha Dharma

Education Associaion Inc.

27. H.V Bowen – Elizabeth Mancke and John G.Reid (2012), Britian’s Oceanic

Empire Atlantic and Indian Ocean worda 1550 – 1850, Cambridge university

press.

28. Joseph Dautremer (2013), Burma under Bristh rule, published by Forgotten

books.

29. Ian Harris (2007), Buddhism – Power and political order, Routledge Taylor &

Francis Group, London & New York.

30. Lieut – Geneeal Sie Aethur Phayee (1883), History of Burma including Burma

proper, Pegu, Taungu, Tenasserim, and Arakan, London: Teubner & co.,

Ludgate Hill.

31. G.H.Harvey (2000), History of Burma, Asian Educational Services.

32. Jerrold Schecter (1965), The new face of Buddha – Buddhism and political power

in southeast Asia, John Wealtherhill, Tokyo.

Luận văn

33. Luận văn “Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar (từ

năm 1948 đến nay) – Trần Khánh Tâm.

Bài viết của các tác giả nước ngoài

34. History of Burma from a Multi - ethnic perspective – The curculum project.

73

http://curriculumproject.org/wp-

content/uploads/History%20of%20Burma%20Student%20-

%2021%20Aug%2008.pdf

http://curriculumproject.org/wp-

35. History of Burma

content/uploads/History%20of%20Burma%20Student%20-

%2021%20Aug%2008.pdf

http://www.phil.uni-

36. The influence of Theravada in Myanmar society, by Khin Win Thanegiby

passau.de/fileadmin/group_upload/45/pdf/conferences/paper_mathanegi.pdf

37. Politics and religion in contemporary Burma: Buddhist monks as opposition, by

Syed Mohammed Adha Aljunied Nanyang Technological University, S

Rajaratnam School of International

http://yonseijournal.files.wordpress.com/2012/08/politics-and-religion-in-

contemporary-burma.pdf

38. The role of Civil society in Promoting Democracy, Good Governance, Peace and

National Reconciliation in Myanmar, by Peter Sang Lian Thang

http://brage.bibsys.no/hia/retrieve/7187/Sang,%20Lian%20Thang%20Peter%2

0oppgaven.pdf

39. The role of monkhood in contemporary Myanmar society, by Sylwia Gil,

Specialist on South East Asia and Theravada Buddhism, Warsaw, Poland, 2008

http://library.fes.de/pdf-files/iez/05699.pdf

http://assets.cambridge.org/97805217/80216/sample/9780521780216ws.pdf

40. The making of modern Burma – Asset – Cambridge University Press

http://www.sasnet.lu.se/EASASpapers/19SwapnaBhattacharya.pdf

41. A Close View of Encounter between British Burma and British Bengal

42. Buddhist religion in Burma before and after 1885

http://himalaya.socanth.cam.ac.uk/collections/journals/bot/pdf/bot_1978_01_01.p

df

43. http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/013-albert.htm

PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

PHỤ LỤC 1

Đế quốc Toungoo

Nguồn:

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/13/Map_of_Taungoo_Empire_(158

0).png

PHỤ LỤC 2

Đế quốc Konbaung

Nguồn:

http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/01/konbaung.png?w=331&h=

353

PHỤ LỤC 3

Miến Điện (Myanmar)

Nguồn: http://kachinlandnews.com/wp-content/uploads/2014/04/burmesemap.gif

PHỤ LỤC 4

Ba cuộc xâm lược của Anh ở Myanmar

Nguồn: http://donlehmanjr.com/SEA/SEA9%20Chap/SEA9Ch31%20P1.png

PHỤ LỤC 5

Vua Anawrahta (1015 – 1078) Vua Mindon (1853 – 1877)

History of Burma from a Multi - ethnic perspective – The curculum project.

Nguồn:

http://curriculumproject.org/wpcontent/uploads/History%20of%20Burma%20Student

%20-%2021%20Aug%2008.pdf

PHỤ LỤC 6

Nhà sư U Ottama

History of Burma from a Multi - ethnic perspective – The curculum project.

Nguồn:

http://curriculumproject.org/wpcontent/uploads/History%20of%20Burma%

20Student%20-%2021%20Aug%2008.pdf

PHỤ LỤC 7

Thánh địa Pagan

Nguồn: http://infoland.com.vn/KhachHang/TinTuc/print.aspx?id=2014020103

PHỤ LỤC 8

Chùa Shwedagon

Nguồn: http://phonuipleiku.org/forum/viewtopic.php?f=122&t=2700

PHỤ LỤC 9

Chùa Ananda

Nguồn: http://aseanvacation.com/attraction/Images/23/23-Ananda-Temple-Bagan-

Myanmar.jpg

PHỤ LỤC 10

Golden Rock

Nguồn: http://phonuipleiku.org/forum/viewtopic.php?f=122&t=2700