Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Bằng Việt
lượt xem 4
download
Luận văn đi sâu nghiên cứu đặc điểm thơ Bằng Việt với những biểu hiện trên sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Cụ thể, tác giả sẽ tìm hiểu những cảm hứng chính của thơ Bằng Việt và các yếu tố nghệ thuật cơ bản làm nên sự độc đáo, sức cuốn hút của thơ Bằng Việt.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Bằng Việt
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 3 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 8 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 9 5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn .................................................... 9 6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 10 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 10 Chương 1: Thế hệ thơ chống Mỹ và những chặng đường thơ Bằng Việt ... 10 1. Khái quát về thế hệ thơ chống Mỹ ........................................................... 10 1.1. Hoàn cảnh lịch sử và đội ngũ sáng tác ..................................................... 10 1.2. Những thành tựu thơ chống Mỹ ............................................................... 14 1.2.1. Thành tựu về nội dung .......................................................................... 15 1.2.2. Thành tựu về nghệ thuật ........................................................................ 20 2. Những chặng đường thơ Bằng Việt ............................................................ 25 2.1. “Người của một thời – Thơ của một thời” ............................................... 25 2.2. Quan niệm về nghệ thuật ......................................................................... 34 Chương 2: Đặc điểm thơ Bằng Việt nhìn từ phương diện nội dung ........ 39 2.1. Cảm hứng về đất nước và con người Việt Nam ........................................ 39 2.1.1. Cảm hứng về đất nước và con người trong chiến tranh ........................ 39 2.1.1.1. Đất nước trong chiến tranh................................................................. 39 2.1.1.2. Con người trong chiến tranh .............................................................. 50 2.1.2. Cảm hứng về đất nước và con người trong hòa bình ............................ 60 2.1.2.1. Đất nước trong hòa bình..................................................................... 61 2.1.2.2. Con người trong cuộc sống đời thường ............................................. 65 2.2. Cảm hứng thế sự ...................................................................................... 70 2.2.1. Vẻ đẹp của con người và nhân loại trong thế kỷ XX ............................ 70 1
- 2.2.2. Những suy tư chiêm nghiệm về một thế giới đầy biến động ................ 73 2.3. Cảm hứng về tình yêu .............................................................................. 79 2.3.1. “Tình yêu và báo động”....................................................................... 79 2.3.2. “Gợi dậy tâm hồn và thức dậy tình yêu” .............................................. 84 Chương ba: Đặc điểm thơ Bằng Việt nhìn từ phương diện nghệ thuật .. 89 3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 89 3.1.1 Thể thơ tự do .......................................................................................... 90 3.1.2. Các thể thơ khác .................................................................................... 94 3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 99 3.2.1. Sự gia tăng các yếu tố văn xuôi vào thơ ............................................. 100 3.2.2. Ngôn ngữ giàu sắc màu gợi hình, gợi cảm ......................................... 102 3.2.3. Một số biện pháp tu từ ........................................................................ 103 3.3. Biểu tượng thơ ........................................................................................ 105 3.3.1. Đất và mẹ ............................................................................................ 106 3.3.2. Ngọn lửa .............................................................................................. 107 3.3.3. Ngọn gió .............................................................................................. 109 3.3.4. Hoa ...................................................................................................... 111 3.4. Giọng điệu .............................................................................................. 114 3.4.1. Giọng trữ tình sâu lắng ........................................................................ 114 3.4.2. Giọng suy tư, triết lý ........................................................................... 116 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 119 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 122 2
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nền thơ hiện đại Việt Nam được tạo nên bởi rất nhiều tiếng thơ, gương mặt thơ độc đáo. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đến nay, chúng ta đã có nhiều tác giả, tác phẩm thơ tiêu biểu, làm phong phú cho hương sắc vườn thơ đất nước. Đặc biệt, thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã đóng góp cho thơ ca dân tộc nhiều nhà thơ tài năng và tâm huyết. Chỉ trong vòng 10 năm 1964 - 1975, chúng ta đã có một thế hệ nhà thơ xuất hiện và trưởng thành để viết tiếp bài thơ trên báng súng với những gương mặt trẻ tiêu biểu như: Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa,... Xuất hiện từ khoảng giữa những năm 60 của cuộc kháng chiến chống Mỹ với “Hương cây – Bếp lửa” (tập thơ in chung cùng Lưu Quang Vũ), Bằng Việt đã tạo được một tiếng thơ đầy cuốn hút mang “tiếng nói sâu lắng và trong sáng của lớp thanh niên trí thức mới” [33, tr.4] “rạo rực mà tươi mát, giản dị, hồn nhiên mà không dễ dãi. Mỗi bài thơ của Bằng Việt đều có nét bút riêng,…” [17, tr. 8]. Kể từ bài thơ đầu tiên Qua Trường Sa viết năm 1961 đến nay, Bằng Việt đã trải qua một chặng đường thơ hơn 50 năm. Những bài thơ của Bằng Việt giản dị, chân thành, giàu chất suy tư, triết lý về cuộc đời và nghệ thuật. Đó là tiếng lòng của một nhà thơ có sự trải nghiệm sâu sắc và tinh tế với cuộc sống. Không chỉ có một vị trí quan trọng trong nền thơ chống Mỹ, trong “thế hệ sáu mươi”, “thế hệ Trường Sơn” mà Bằng Việt còn là một trong những nhà thơ “có vị trí khá ổn định và vững chắc” [15, tr.36] với hơn 300 bài thơ và 10 tập thơ được nhiều độc giả yêu mến, được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình dành những lời đánh giá, khẳng định vị trí và những đóng góp về nhiều mặt cho văn học nghệ thuật Việt Nam. Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng văn học ASEAN năm 2003 và "Giải 3
- thành tựu trọn đời" 2005 đã thêm một lần nữa chứng minh cho chúng ta thấy giá trị các sáng tác của Bằng Việt với nền thơ hiện đại Việt Nam. Nghiên cứu đặc điểm thơ Bằng Việt sẽ góp phần khám phá các giá trị của thơ ca Bằng Việt một cách đầy đủ và hệ thống. 1.2. Là một tác giả tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam, thơ Bằng Việt được dịch in ở Nga, ở Pháp và trên báo của một số tổ chức quốc tế, đồng thời được đưa vào chương trình ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Hai tác phẩm: Mẹ và Bếp lửa được đưa vào giảng dạy trong phần văn bản của ngữ văn Trung học cơ sở. Tiến hành nghiên cứu thơ Bằng Việt sẽ rất thiết thực và hữu ích đối với việc giảng dạy thơ Bằng Việt ở trường Trung học cơ sở, nơi người viết luận văn này đang công tác. 1.3. Qua nhiều biến cố lớn lao của lịch sử dân tộc, qua sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, thơ Bằng Việt vẫn đứng vững và gần gũi với bạn đọc đương đại. Hành trình 50 năm của đời thơ Bằng Việt đã được tổng kết khá trọn vẹn trong tập thơ Bằng Việt tác phẩm chọn lọc. Với những lý do trên và nhân dịp tập thơ ra mắt bạn đọc, chúng tôi hy vọng đề tài Đặc điểm thơ Bằng Việt sẽ một phần nhỏ vào việc nghiên cứu tương đối toàn diện một gương mặt tiêu biểu và quen thuộc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề Bằng Việt là nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào. Các tập thơ của Bằng Việt luôn được bạn đọc đón nhận và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm, chú ý. Kể từ tập thơ đầu tay “Hương cây – Bếp lửa” (1968) đến nay, tác giả đã có 10 tập thơ xuất bản. Số lượng các bài bình luận, nhận xét, các ý kiến đánh giá thơ Bằng Việt có thể tập hợp lên đến hàng nghìn trang theo hướng nhìn nhận về nhiều phương diện: từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật, từ chất liệu thi ca đến giọng điệu và tâm hồn nghệ sỹ,… Với sự sưu tầm, tập hợp trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phân chia các tư liệu trên thành hai nhóm cơ bản. Nhóm thứ nhất là các bài giới thiệu, phê bình, đánh giá khái 4
- quát về nội dung, nghệ thuật các tập thơ của Bằng Việt. Các tác giả Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Nam, Thiếu Mai, Văn Tâm, Hồng Thọ, Nguyễn Trọng Hoàn, Hà Minh Đức… đều có những bài viết nhận định chung về thơ ca Bằng Việt. Nhóm thứ hai là các bài bình giảng, phân tích về các tác phẩm cụ thể của Bằng Việt. Có thể thấy một số lượng không nhỏ các bài viết đi theo hướng này của các tác giả Vũ Dương Quỹ, Vũ Quần Phương, Lê Quốc Hán, Chu Văn Sơn, Nguyễn Thị Nhàn,… Mỗi nhà thơ có một phong cách riêng với nét đặc trưng trong chất thơ. Ở Bằng Việt, chất thơ ấy chính là chất suy tưởng giàu tính trí tuệ và rất hào hoa. Các nhà nghiên cứu đều cho đây chính là điểm độc đáo làm nên gương mặt thơ Bằng Việt. Trong bài phê bình tập thơ đầu tay của Bằng Việt, tác giả Lê Đình Kỵ đã nhận xét: Ở Bằng Việt, cái sôi nổi, rạo rực của tuổi trẻ vừa như được nén lại, đồng thời lại nêu lên bởi suy nghĩ…Một tâm hồn nhiều suy nghĩ, rung động tinh tế, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi hồi, khi đậm đà, duyên dáng, khi âm vang, sâu thẳm,… [17, tr.5]. Tác giả Nguyễn Xuân Nam cũng nhận định: “Lời thơ như những nét chấm phá tươi mát nhưng không thiếu chiều sâu suy tưởng”, “một khuynh hướng chính luận kín đáo thể hiện trong thơ”, thơ Bằng Việt “thường nghiêng về suy nghĩ, có dáng một lời tâm sự” [33, tr. 47]. Hồng Thọ cho rằng: “Ở Bằng Việt, sự suy nghĩ có tình có nghĩa được bộc lộ một cách nhất quán trong thơ anh” [42, tr.9]. Nhà thơ Phạm Khải nhận xét một cách đầy hình ảnh: “Vào những năm đầu thập kỷ 60, Bằng Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa ánh sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh. Với những câu thơ xúc cảm tinh tế, chữ nghĩa lóng lánh, độc giả ấn tượng về anh như một nhà thơ trẻ lịch lãm, tài hoa” [19, tr.23]. Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng: Trong lớp các nhà thơ trẻ, Bằng Việt là một hồn thơ lắng đọng nhiều suy nghĩ [7, tr.18]. Nhà thơ Nguyễn Thanh Kim khẳng định: “Thơ Bằng Việt đậm chất hào hoa phong nhã, có giọng điệu tinh tế, giàu tư duy trí 5
- tuệ [18, tr.6]. Nhà phê bình văn học Trịnh Thanh Sơn đã khái quát: “Chất suy tưởng vốn là một điểm mạnh trong thơ Bằng Việt và góp phần làm nên thi pháp và phong cách độc đáo” [36, tr. 49]. Góp thêm tiếng nói cho xu hướng này có thể kể thêm các tác giả như Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo,Trần Đăng Suyền, Trần Đăng Khoa, … Các tác giả đều khẳng định trong thơ Bằng Việt có“những suy nghĩ già dặn, sâu sắc”, “giàu suy tư”, một lối viết “đầy ưu tư, trí tuệ” với “cách nhìn lấp lánh trí tuệ”, “được chiếu rọi qua lăng kính văn hóa”. Nhà thơ Vũ Quần Phương lý giải chất suy tư, trí tuệ trong thơ Bằng Việt là do tác giả “Bếp lửa” có “một quá trình vươn lên rất mạnh mẽ về mặt nhận thức”. [35, tr.21]. Còn tác giả Trần Quang Quý trong bài viết Bằng Việt – nhiệt năng tỏa sáng từ bếp lửa trên báo Người Hà Nội thì nhận xét: “chất thơ hào hoa mà đằm thắm, tinh tế mà hồn nhiên, hào sảng mà trẻ trung, tươi mới và gợi cảm, ấm áp và trí tuệ” chính là nguồn nhiệt năng tỏa sáng từ “Bếp lửa”đến những trang thơ ngày nay của Bằng Việt. Nhà nghiên cứu Văn Tâm từng nhận xét: “Nhà thơ Bằng Việt quê “xứ Đoài mây trắng lắm”là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca hiện đại Viêt Nam” [40, tr. 17]. Người thi sĩ ấy ngay từ những bài thơ đầu tay đã gây ấn tượng mạnh mẽ bởi một giọng thơ riêng, mới mẻ, độc đáo trong số các tác giả cùng thời. Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh khi “Đọc thơ Bằng Việt ” đã khẳng định: “Phong cách thơ Bằng Việt hình thành từ rất sớm, nhiều nét bút khá kiên định, nhất là ở giọng thơ, vốn là biểu hiện rất sâu của bản lĩnh sáng tác” [13, tr. 7]. “Riêng với Bằng Việt, giọng thơ “có học ”, sang trọng của anh đã nhanh chóng thu hút được sự chú ý của đông đảo công chúng yêu thơ” [34, tr.12]. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo “Đọc lại “Hương cây – Bếp lửa”” tháng 9 năm 2004 cho rằng: “Bằng Việt mang tới một giọng thơ giàu suy tư, ngẫm ngợi – giọng thơ của người trí thức mới”. Các tác giả Nguyễn Xuân Nam, Nguyễn Hoàng Sơn khi nói về chất trí tuệ trong thơ Bằng Việt cùng có chung nhận xét về “giọng thơ hơi dàn trải”, “có một kiểu dàn trải rất “Bằng Việt”, 6
- ở người khác thì rõ ràng là một nhược điểm nhưng ở anh thì lại tạo ra một cái duyên riêng”. [14, tr.45]. Bởi vậy, trong “thế hệ sáu mươi”, “thế hệ Trường Sơn”, Bằng Việt đã “đem đến cho người đọc một tiếng nói thơ tâm tình tế nhị, ấm áp” [13, tr. 46] và “cảm giác gần gũi, thân thiết ấy là một nét hấp dẫn trong thơ Bằng Việt”. Nhà thơ, nhà phê bình văn học Vũ Quần Phương cảm thấy “giọng thơ Bằng Việt thường êm dịu cất lên từ một lời tâm sự”. Còn tác giả Hồng Thọ thì so sánh: “Thơ Bằng Việt … như một khúc nhạc trầm tư, sâu lắng”. Các tác giả Phạm Khải, Phạm Thanh Kim ,… đều công nhận ở Bằng Việt một giọng thơ “xúc cảm, tinh tế”. Và đến hôm nay, giọng thơ ấy vẫn góp phần giữ cho thơ Bằng Việt được “tươi nguyên, vẫn “nhìn tôi bằng ánh mắt xanh ngăn ngắt”, vẫn “làm say”, “làm duyên” như sắc phượng năm xưa, cánh bướm hôm nào, khơi gợi vẻ trong trắng một thời” [19, tr.6]. Nét nổi bật lên qua các tập thơ Bằng Việt là tấm lòng thiết tha, đôn hậu của nhà thơ với đất nước và con người Việt Nam. Đó chính là cội rễ, chiều sâu, là nét đáng yêu, đáng quý trong tâm hồn thơ Bằng Việt. Nhà nghiên cứu văn học Thiếu Mai khẳng định: “Điểm dễ nhận thấy qua mấy tập thơ của Bằng Việt là tấm lòng chung thủy, trung hậu của anh đối với con người, với đất nước” [32, tr.39]. Hồng Thọ nhận xét rất tinh tế: “Với cách nhìn cuộc sống bằng con mắt “thấm đượm tình yêu”, thơ anh đã nói lên được điều sâu nặng, đầy âm vang về đất nước, con người của dân tộc…” [42, tr. 11]. Giáo sư Nguyễn Xuân Nam cũng cho rằng: “Nghĩ về đất nước mình sinh ra và lớn lên, anh luôn có những vần thơ ấm áp, tin yêu”. [33, tr. 36]. Có lẽ vì vậy nên dù tác giả có sự thay đổi về cách diễn đạt, mở rộng đề tài, chuyển biến về cách cảm nhận thì “Đọc thơ Bằng Việt”, chúng ta vẫn nhận thấy “ở chiều sâu vẫn là tấm lòng ấy đối với đất nước và cuộc đời, đôn hậu, tin yêu” [13, tr.23] và cảm thấy “như gặp lại một người bạn thân, một người anh em trong gia đình hoặc gặp lại thời hoa niên của chính mình” [38, tr.21]. 7
- Thơ Bằng Việt còn là đối tượng nghiên cứu trong luận văn của các tác giả Đỗ Thuận An, Nguyễn Thu Cúc, Nguyễn Bạch Linh… Các tác giả đều đã chú ý đi vào khám phá các vẻ đẹp trên nhiều phương diện của thơ Bằng Việt với những phát hiện cụ thể. Luận án “Thế giới nghệ thuật thơ Bằng Việt” của Đỗ Thuận An xem xét thơ Bằng Việt như một chỉnh thể, một thế giới nghệ thuật với những quy luật vận động nội tại dưới góc độ thi pháp: từ quan niệm nghệ thuật về con người, không gian, thời gian nghệ thuật, giọng điệu và biểu tượng. Tác giả Đỗ Thuận An nhận xét khái quát: “Thế giới nghệ thuật thơ Bằng Việt là một thế giới mới mẻ, phong phú và đa dạng”, “đặc biệt sự có mặt của chân dung tinh thần tự họa của tác giả với những nét tư tưởng độc đáo, sâu sắc về con người và cuộc đời đã thực sự góp phần tạo nên diện mạo đầy cá tính cho thơ Bằng Việt”. [2, tr.91]. Tác giả Nguyễn Thu Cúc trong “Đặc sắc thơ Bằng Việt” “bước đầu dựng lại chân dung tinh thần của Bằng Việt” và nhận thấy thơ ca Bằng Việt chính là những lời tự bạch đầy trải nghiệm, là “chứng tích một thời” với những đặc sắc trong thể thơ, hình ảnh thơ, ngôn ngữ và giọng điệu của chặng đường thơ 40 năm đầy sáng tạo. Tác giả Nguyễn Bạch Linh nghiên cứu “Phong cách thơ Bằng Việt” từ tư tưởng đến thế giới hình tượng thơ và nhấn mạnh đến chất trí tuệ trong nghệ thuật thơ Bằng Việt. Trên đây là những phương diện tiêu biểu, tập trung nhất của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, các tác giả về thơ Bằng Việt. Bên cạnh đó còn rải rác một số ý kiến khác bàn về thơ Bằng Việt tùy theo góc độ soi chiếu của từng tác giả. Đó là những ý kiến rất đáng trân trọng, những gợi mở có giá trị to lớn, hết sức quý báu cho hướng khai thác và xây dựng luận văn Đặc điểm thơ Bằng Việt. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu đặc điểm thơ Bằng Việt với những biểu hiện trên sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Cụ thể, chúng tôi sẽ tìm hiểu những cảm hứng chính của thơ Bằng Việt và các yếu tố nghệ thuật cơ bản làm nên sự độc đáo, sức cuốn hút của thơ Bằng Việt. 8
- Đến nay, Bằng Việt đã xuất bản 10 tập thơ. Chúng tôi đi sâu khảo sát tập thơ mới nhất Bằng Việt – tác phẩm chọn lọc (NXB Hội nhà văn, 2010). Tuyển tập này “tuy chưa phải là tất cả nhưng cũng đủ tái hiện từng giai đoạn đáng ghi nhớ của một đời thơ, từ lúc chập chững cho đến khi trưởng thành. Nó cũng có thể được coi là chứng tích và trải nghiệm cho cả một thời đối với một người sáng tác và cũng là lời tự bạch của một con người đặt trong mối quan hệ gắn bó tương hỗ với mọi người xung quanh”. [56, tr.15] Có thể coi đây là một tập thơ tổng kết 50 năm sáng tác thơ của Bằng Việt – người của một thời, thơ của một người ( Lời tựa mở đầu cuốn sách). Hy vọng với hướng đi này, chúng tôi có thể khám phá đầy đủ thêm về đặc sắc thơ Bằng Việt theo cái nhìn tịnh tiến của thời gian sau một chặng đường thơ khá dài của tác giả “Bếp lửa”. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng đồng thời các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp thống kê - phân loại - Phương pháp so sánh - Phương pháp lịch sử - Phương pháp thi pháp học 5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn Chúng tôi hy vọng luận văn sẽ đem đến một cái nhìn khái quát xuyên suốt chặng đường thơ 50 năm của tác giả, từ thời kỳ thơ chống Mỹ tiếp nối đến thời kỳ đương đại. Luận văn sẽ tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc về đặc điểm thơ Bằng Việt từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Từ đó thấy được sự vận động của thơ Bằng Việt trong chặng đường thơ 50 năm của tác giả, những nét độc đáo của thơ ca Bằng Việt trong “dàn đồng ca cùng thế hệ”. Đồng thời, luận văn cũng góp thêm một tiếng nói khẳng định những đóng góp giàu giá trị của tiếng thơ Bằng Việt đối với nền thơ hiện đại Việt Nam. 9
- Chúng tôi tin hy vọng luận văn sẽ giúp ích phần nào cho việc giảng dạy và học tập về tác giả Bằng Việt và tác phẩm của ông trong nhà trường phổ thông. Chúng tôi cũng muốn qua luận văn sẽ giới thiệu thêm với độc giả và các nhà nghiên cứu những tác phẩm, những câu thơ hay mà mình tâm đắc. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương: Chương 1: Thế hệ thơ chống Mỹ và những chặng đường thơ Bằng Việt. 1. Khái quát về thế hệ thơ chống Mỹ. 2. Những chặng đường thơ Bằng Việt. Chương 2: Đặc điểm thơ Bằng Việt nhìn từ phương diện nội dung. 1. Cảm hứng về đất nước và con người Việt Nam. 2. Cảm hứng thế sự. 3. Cảm hứng về tình yêu. Chương 3: Đặc điểm thơ Bằng Việt nhìn từ nghệ thuật biểu hiện. 1. Thể thơ. 2. Ngôn ngữ. 3. Biểu tượng thơ. 4. Giọng điệu. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Thế hệ thơ chống Mỹ và những chặng đường thơ Bằng Việt 1. Khái quát về thế hệ thơ chống Mỹ 1.1. Hoàn cảnh lịch sử và đội ngũ sáng tác Trong hai mươi năm chiến tranh, thơ Việt Nam giai đoạn chống Mỹ cứu nước 1964-1975 nở rộ những tài năng độc đáo, góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng đất nước và làm giàu đẹp thêm nền thơ ca dân tộc. 10
- Những vần thơ 1964 -1975 ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt của khói lửa chiến tranh. Đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam hòng chia cắt hai miền đất nước, miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa làm nhiệm vụ của hậu phương lớn tiếp sức cho tiền tuyến lớn miền Nam chiến đấu đánh tan giặc Mỹ, giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Trong những năm tháng cam go đầy thử thách ác liệt, nhân dân Việt Nam đã đi theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ, toàn tâm toàn ý góp sức người và sức của cho cuộc chiến cuối cùng thắng lợi. Đội ngũ văn nghệ sỹ trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước cũng hăm hở lên đường, súng trên tay và bản thảo trên lưng, chắc tay súng, vững tay bút vào chiến trường đánh giặc và làm thơ. “Văn học nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sỹ cũng là chiến sỹ trên mặt trận ấy”. Lời dạy của Bác từ những năm chiến tranh chống thực dân Pháp còn nguyên giá trị, thôi thúc lớp lớp nhà văn, nhà thơ sống, chiến đấu và sáng tác. Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con hôm nay đang viết tiếp theo cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Người hôm nay viết tiếp người hôm qua (Bài thơ trên báng súng - Hoàng Trung Thông) Văn học chống Mỹ đã có một lực lượng sáng tác đông đảo và hùng hậu với sự tiếp nối, tiếp lửa sáng tạo bền bỉ của các thế hệ văn nghệ sỹ Việt Nam. Thơ Việt Nam 1964 -1975 nằm trong mạch nguồn sáng tạo của văn học Cách mạng đã ghi nhận sự góp mặt của nhiều tiếng thơ, nhiều nhà thơ – chiến sỹ thuộc mọi thế hệ. Đầu tiên là thế hệ các nhà thơ đã sáng tác từ trước Cách mạng Tháng Tám, trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp như vàng đã qua thử lửa, “gừng càng già càng cay”, trở thành gạo cội của nền thơ ca chống Mỹ. Đó là các tác giả đã vững vàng tuổi đời và tuổi nghề như: Tố Hữu, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Nguyễn Xuân 11
- Sanh, Vân Đài, …. Tiếp theo là thế hệ các nhà thơ ra đời và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với những tác giả: Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hoàng Cầm, Thanh Hải, Giang Nam, Quang Dũng, Hồng Nguyên, Trần Hữu Thung, Thôi Hữu, Hữu Loan, Trần Mai Ninh, Thanh Hải, Minh Huệ, Nguyễn Viết Lãm, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, … Cuộc kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa – Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) đã tiếp sức cho cuộc kháng chiến hai mươi năm chống Mỹ với bao lớp người trẻ tuổi Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Theo chân Bác – Tố Hữu). Văn học 1964 -1975 được bổ sung với một đội ngũ nhà thơ trẻ - những lớp thanh niên lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, được tiếp nhận trực tiếp vốn văn hóa, lý tưởng sống, lý tưởng thẩm mỹ và lý tưởng của Đảng Cộng sản, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là các tên tuổi rất trẻ, rất mới đầy tự tin làm thơ và đánh giặc khi biết rằng những ngày mình đang sống đây là những ngày đẹp nhất. Thanh Thảo đã bộc lộ rất chân thành nỗi lòng thế hệ các nhà thơ trẻ thời ấy: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình (Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc) Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc? Thế hệ nhà thơ thứ ba như những cây tre non lá xanh ngút ngàn đang vươn lên mạnh mẽ bên cạnh những thân tre - lũy làng vững chắc của hai thế hệ nhà thơ đi trước. Đó là các tác giả: Lê Anh Xuân, Diệp Minh Tuyền, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Mỹ, Thanh Thảo, Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh, Phạm Ngọc Cảnh, Bùi Minh Quốc, Anh Ngọc, Hoàng Nhuận Cầm, Dương Thị Xuân Quý, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Đăng Khoa,… Phạm Tiến Duật đã viết những vần thơ tươi xanh về chính thế hệ các nhà thơ trẻ như mình: Ta đi hôm nay đã không là sớm Đất nước hành quân bốn chục năm rồi 12
- Ta đi hôm nay cũng không là muộn Đất nước còn đánh giặc chưa thôi. Ba thế hệ nhà thơ nói trên đã tạo nên một đội ngũ trùng điệp cho thơ ca 1964 – 1975. Đội ngũ ấy đã tình nguyện đi vào cuộc sống, chiến đấu chống Mỹ với tinh thần trách nhiệm và lòng say mê. Họ tỏa đi, lăn lộn khắp nẻo chiến trường, có mặt ở mọi địa phương, mọi trận địa nóng bỏng, ác liệt. Nhiều người đã hy sinh anh dũng như các nhà thơ Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Trọng Định … Trong suốt chặng đường phát triển của thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ (thế hệ thứ ba) luôn có những phát triển, bổ sung về lực lượng, mở rộng đề tài, cách tiếp cận và thể hiện đời sống kháng chiến; ở thời kỳ nào, thơ trẻ chống Mỹ cũng có những đóng góp đáng ghi nhận. Ở chặng đường thứ nhất là những tác giả tiêu biểu như: Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân,… đã đem đến cho thơ chống Mỹ những tiếng thơ trẻ trung, tươi tắn, sôi nổi. Những vần thơ tràn đầy cảm xúc mê say, chân thành đối với cuộc sống quê hương, đất nước, tuy còn dấu vết sách vở nhưng đã thực sự thổi vào thơ ca giai đoạn này chất men say tuổi trẻ với khát khao được cầm súng chiến đấu, được cống hiến vì Tổ quốc, nhân dân. Chặng đường thứ hai khi thơ trẻ chống Mỹ phát triển đến đỉnh cao có sự góp mặt của nhiều tác giả: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm,… đã khẳng định được tiếng thơ của thế hệ mới: khỏe khoắn, trong sáng và đầy tự tin. Thơ lúc này đã vươn tới khái quát những mảng hiện thực lớn của cuộc chiến tranh chống Mỹ với những chi tiết chân thực được phát hiện, tìm tòi bằng chính cặp mắt quan sát tinh tế sắc sảo của những nhà thơ – người lính. Không khí dữ dội, ác liệt của đời sống chiến trường sinh động, bề bộn ùa vào thơ. Ở chặng cuối cùng, đội ngũ sáng tác trẻ càng trở nên đông đảo hơn với nhiều cây bút mới: Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Trần Mạnh Hảo,... Các nhà thơ đã đi sâu hơn 13
- vào đề tài chiến tranh, đến với hiện thực đời sống để khám phá, đúc kết chân lý, xây dựng nên những hình tượng thơ giàu ý nghĩa khái quát trong thể loại trường ca phát triển mạnh ở giai đoạn này. Có thể nói, thời đại chống Mỹ với cuộc sống chiến đấu và lao động phong phú, sôi nổi chứa đựng những tư tưởng tình cảm và hành động lớn lao đã đem đến cho thơ nói riêng và văn học nói chung một hiện thực nghệ thuật rộng lớn. Yêu cầu của văn học thời chiến tranh đòi hỏi tính chiến đấu cao. Thơ lại vốn là “một thể loại xung kích, ngắn gọn, phục vụ kịp thời, dễ ghi chép, dễ nhẩm, dễ thuộc” [22, tr.370] cho nên “Có thể nói chưa bao giờ thơ lại phát triển cao rực rỡ như thời kỳ này. Đây là một cao trào phát triển mới về lượng cũng như về chất, có tính quần chúng sâu sắc trong phạm vi cả nước.” [22,tr.276]. Giáo sư Mã Giang Lân cho rằng: mỗi thời kỳ văn học đều có một thể loại của riêng nó và với thực tế văn học dân tộc, có thể coi những năm 1964 -1975 là thời kỳ của thơ ca Việt Nam với một không khí sáng tác và sinh hoạt thơ ca rộng lớn, hào hứng chưa từng thấy. Trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước, chúng ta có thể “ra ngõ gặp anh hùng” và có lẽ ra ngõ cũng có thể gặp nhà thơ. Phong trào sáng tác thơ ca trong bộ đội, thanh niên xung phong, dân công tuyến lửa,… - những nhà thơ không chuyên - bên cạnh những cây bút thơ chủ lực chuyên nghiệp trên khắp mọi ngả đường Tổ quốc đã tạo nên một nền thơ bề thế với nhiều thành tựu đặc sắc. 1.2. Những thành tựu thơ chống Mỹ Thơ kháng chiến chống Mỹ 1964 -1975 cũng như nền văn học chống Mỹ mang tính chất toàn dân, tính chiến đấu và tính chất khát quát, tổng hợp. Sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện của thơ ca thời kỳ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Cùng với lực lượng tác giả đông đảo, hùng hậu luôn bám sát tình hình chiến sự, nhiệt tình chiến đấu và sáng tác, chúng ta luôn nhận được sự chỉ đạo và quan tâm kịp thời đúng đắn của Đảng. Thơ xuất hiện trên mọi tờ báo từ Bắc vào Nam, trên Đài Tiếng nói Việt Nam, trên báo tường, trong chiến hào, 14
- trên mặt trận, trong xưởng sản xuất, nơi đồng ruộng,... Các nhà thơ đảm nhận thêm nhiệm vụ cao quý, là người xây dựng “pháo đài tâm hồn nhân dân”, phải làm sáng tỏ những mục đích cao quý của cuộc chiến đấu, phải tác động vào tình cảm, nâng cao năng lực và ý chí bất khuất giành chiến thắng. Thơ chống Mỹ thực sự trở thành một vũ khí chiến đấu của các nhà thơ – chiến sĩ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trong ngọn lửa của cuộc chiến đấu vĩ đại, đội ngũ các nhà thơ trẻ được tôi luyện và luôn được bổ sung những cây bút mới. Chưa bao giờ nhiệt tình sáng tác lại sôi nổi như lúc này, chưa bao giờ mối liên hệ giữa các nhà thơ với thực tại lại trực tiếp và thiết tha như lúc này. Làn sóng cảm hứng sáng tạo đã lôi cuốn các nhà thơ mọi thế hệ. Những cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức đã góp phần phát hiện và bồi dưỡng lực lượng sáng tác trẻ. Những cuộc thi thơ năm 1965, 1967 và năm 1972 -1973 đã lôi cuốn hàng nghìn cây bút, hàng vạn bài thơ. Qua các cuộc thi, thơ có một không khí mới, trẻ khỏe, tươi thắm của cuộc sống sản xuất và chiến đấu. Những nhà thơ trẻ: Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, ... đã trở thành những gương mặt thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ chống Mỹ. Tập thơ Vầng trăng – Quầng lửa của Phạm Tiến Duật, các bài thơ: Bầu trời vuông của Nguyễn Duy, Hương thầm, của Phan Thị Thanh Nhàn, Dấu chân qua trảng cỏ của Thanh Thảo, Mùa xuân đi đón, Chuyến đò đêm ráp gianh, Sức bền của đất và trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, là các sáng tác được bạn đọc xa gần yêu quý, có giá trị đến ngày nay. 1.2.1. Thành tựu về nội dung Thành tựu thơ chống Mỹ tập trung ở từng mảng đề tài, từng nguồn cảm hứng. Trong những năm chống Mỹ cứu nước, thơ đã phản ánh chân thực, đậm nét cuộc chiến tranh và tâm hồn dân tộc qua những bước phát triển của Cách mạng. “Thơ nhanh nhạy và rất thời sự với nghĩa đẹp của từ này” [22, tr 285]. 15
- Các nhà thơ đã tỏa rộng diện phản ánh, đi vào nhiều hướng, nhiều ngả của cuộc sống nhưng vẫn tập trung vào đề tài chính, làm nổi bật đề tài chính, biểu hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống, về thắng lợi của hiện tại và tin tưởng vào tương lai. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là nội dung chủ yếu, là cảm hứng chủ đạo được thơ khai thác và biểu hiện với nhiều sắc thái. Các nhà thơ có một cái nhìn mới đối với chiến tranh, đối với những mất mát, hy sinh và sự bất tử, lòng căm thù giặc, tình đồng chí, tình yêu và lòng tin ước mơ chiến thắng, suy nghĩ về số phận của nhân dân, của Tổ quốc. Đề tài Tổ quốc là đề tài bao quát, trung tâm của thơ chống Mỹ cứu nước, được các nhà thơ khai thác và biểu hiện phong phú. Với cảm xúc chân thành, nồng cháy và suy nghĩ chín chắn, các nhà thơ biểu hiện sự nhận thức lại Tổ quốc mình một cách sâu sắc, đầy đủ về nhiều mặt. Từ đó, hình tượng Tổ quốc Việt Nam hiện lên vững chãi bốn ngàn năm với vẻ đẹp muôn màu. Tổ quốc có bề dày lịch sử và chiều cao hiện tại, có những truyền thống vinh quang của nhân dân và sự tích anh hùng cách mạng. Tổ quốc đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng trong thơ ca chống Mỹ. Thế hệ các nhà thơ kháng chiến đã có các bài thơ biểu hiện một đất nước Việt Nam kiên cường, tự hào qua bốn ngàn năm dựng xây và chiến đấu, giữ gìn với những nét đậm đà dân tộc: Tổ quốc (Huy Cận), Hỡi hùng khí nước Việt Nam muôn thuở (Xuân Diệu), Việt Nam ơi, ta hát (Hoàng Trung Thông), Việt Nam Tổ quốc tôi (Trần Hữu Thung), Đất nước, tuổi trẻ và khúc hát (Nguyễn Xuân Sanh)… Tố Hữu ngợi ca Tổ quốc bằng những lời thơ bình bị mà sâu sắc: Việt Nam, ôi Tổ quốc thương yêu Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều Như người mẹ sớm chiều gánh nặng Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời (Chào xuân 67) 16
- Lê Anh Xuân viết Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ với Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. Từ đất nước trong Bài thơ Hắc Hải đến đất nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa của những buổi ngày xưa vọng nói về trong thơ Nguyễn Đình Thi đến Đất nước của Mặt đường khát vọng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta có thêm một biểu tượng đẹp đẽ, thiêng liêng mà gần gũi về Tổ quốc. Nam Hà thay mặt cho thế hệ trẻ Trường Sơn nguyện một lòng Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi! đã viết những vần thơ chứa đựng những nghĩ suy sâu sắc, hùng tráng về Tổ quốc: Đất nước – Bốn ngàn năm không nghỉ Những đoàn quân song song cùng lịch sử Đi suốt thời gian, đi suốt không gian Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang Trong những bài thơ tiêu biểu kể trên, hình tượng Tổ quốc đều được khái quát, tổng hợp từ những biểu hiện đa dạng của đất nước và nhân dân. Các nhà thơ chống Mỹ đã dựng lên một tượng đài Tổ quốc uy nghi tráng lệ và thiêng liêng với tình yêu núi sông say đắm. Lời thơ xúc động, suy tưởng mạnh mẽ, phóng khoáng tràn đầy tinh thần ngợi ca đất nước và nhân dân. Bên cạnh đề tài bao trùm là Tổ quốc, thơ chống Mỹ còn có một đề tài thu hút rất lớn các cây bút, đặc biệt là các cây bút trẻ, đó là đề tài chiến đấu. Hầu hết các nhà thơ đều triển khai đề tài này. Nhiều bài thơ viết về các tiền tuyến lớn, phản ánh trực tiếp những trận đánh xáp mặt quân thù, những miền đất, những vùng trời lấp lánh chiến công. Nhiều bài thơ viết về hậu phương vừa sản xuất vừa chiến đấu, về hạnh phúc gia đình, về tình yêu sắt son thủy chung và cả những hy sinh tổn thất... Trong đề tài này, hình ảnh người chiến sỹ thu hút nhiều bút lực. Từ anh bộ đội áo vải chân không đi lùng giặc đánh trong thơ kháng chiến chống Pháp đến anh giải phóng quân – những Thạch Sanh của thế kỷ XX cùng chiếc mũ tai bèo mang vẻ đẹp anh hùng lãng mạn đậm chất sử thi trong thơ kháng chiến chống Mỹ, thơ đã ghi nhận sự đóng góp 17
- sáng tạo lớn lao của các nhà thơ – người thư ký trung thành của thời đại - qua mỗi chặng đường lịch sử. Anh giải phóng quân mang nhiều vẻ đẹp qua thơ Lê Anh Xuân, Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly,... Nhà thơ Lê Anh Xuân đã hy sinh còn để lại cho văn học một hình ảnh bất tử về anh giải phóng quân Tên anh đã thành tên đất nước - Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất – Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. Tố Hữu dựng lên một bức tượng đồng bằng thơ về anh giải phóng quân – người lính thời đại Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống Pháp, anh lính bộ đội cụ Hồ hiện lên anh dũng, quả cảm, bền gan vững chí trong Cá nước, Lên Tây Bắc, Hoan hô chiến sỹ Điện Biên,... Đến kháng chiến chống Mỹ, anh chiến sỹ hiền lành – Tỳ tay lên mũi súng ấy đã trở nên hoạt bát, oai phong lẫm liệt hơn: Hỡi người anh giải phóng quân Hai mươi năm chẳng dừng chân trên đường Vẫn đôi dép lốp chiến trường Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy Gần gũi, gắn bó nhưng người chiến sỹ hôm nay có thêm chiều cao, có tầm vóc thời đại: Anh đi xuôi ngược tung hoành - Bước chân như gió lay thành chuyển non - Mái chèo một chiếc thuyền con - Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương (Tiếng hát sang xuân) Hình tượng người lính trong thơ chống Mỹ còn được ngợi ca trong những vần thơ viết về những chiến sỹ pháo cao xạ trực diện chiến đấu với quân thù (Cồn Cỏ - Hải Bằng), những chiến sỹ công binh âm thầm dũng cảm (Người gác cầu – Vũ Cao), những người lính lái xe ngang tàng, lạc quan, kiên cường (Bài thơ về Tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật), những cô gái thanh niên xung phong trẻ trung bất khuất (Gửi em, cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật, Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ)... Khi viết về đề tài chiến đấu, bên cạnh hình tượng người lính, các địa danh cũng được nhắc đến nhiều trong thơ như một bằng chứng chân xác của 18
- thơ ca khi phản ánh cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc. Và địa danh được các nhà thơ nhắc nhiều nhất trong thơ chống Mỹ là Trường Sơn. Nhà thơ Tố Hữu đã khái quát về địa danh này: Trường Sơn, đông nắng tây mưa Ai chưa đến đó như chưa rõ mình (Nước non ngàn dặm) Đã có biết bao thế hệ người lính và nhà thơ đi theo tiếng gọi non sông Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Theo chân Bác– Tố Hữu). Nhà thơ Phạm Tiến Duật – “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, gắn bó nhiều với chiến trường ác liệt đầy mưa bom bão đạn đã viết nên bài thơ có thể coi là hay nhất về Trường Sơn: Trường Sơn đông, Trường Sơn tây với những vần thơ đi cùng năm tháng: Đường ra trận mùa này đẹp lắm - Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây. Hoàng Nhuận Cầm tươi trẻ với Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn. Nguyễn Đức Mậu xôn xao, ngây ngất với Mùa xuân Trường Sơn bên cạnh những khó khăn gian khổ, khắc nghiệt. Nhà thơ Nam Hà mê say: Đường dài đi giữa Trường Sơn – Nghe vọng bài ca đất nước... Cảnh sắc Nam Bộ hiện lên đậm nét trong thơ Lê Anh Xuân, Thanh Thảo trong Em gái đưa đò, Lão du kích, Đêm trên Cồn... Vùng Trung Trung Bộ kiên cường được Thu Bồn khai thác và biểu hiện trong những nét đẹp riêng gân guốc, trần trụi, hào hùng qua Nghĩ riêng về một dải chiến trường. Có thể nói, khi viết về đề tài chiến đấu, các tác giả không chỉ phản ánh sự khốc liệt, gian khổ của chiến tranh với những hy sinh, mất mát mà còn biểu hiện sáng đẹp khí thế hào hùng của dân tộc trong những năm tháng đau thương mà anh dũng; thơ chống Mỹ nghiêng về ngợi ca những chiến công oanh liệt, nhân dân và người lính anh hùng. Đất nước chiến tranh thì nơi đâu cũng là mặt trận. Miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đánh giặc. Đề tài lao động, sản xuất, xây dựng đất 19
- nước gắn liền với chiến đấu là tất nhiên. Nhà thơ Huy Cận có nhiều bài thơ về đề tài này: Cánh đồng sau buổi gặt, Bài ca xây dựng, Bài ca thủy lợi, Đất mát vào thu, Đoàn thuyền đánh cá, Mưa xuân trên biển... Chế Lan Viên góp Tiếng hát con tàu, Ngô Văn Phú có Cày đêm và Trên đồng cỏ, Lê Anh Xuân viết Cấy đêm,... Tất cả các nhà thơ đều viết về những cảnh sản xuất lao động thân thuộc trên quê hương với niềm lạc quan từ trong hy vọng chói lòa tương lai và ngày sáng dần lên bên những người nông dân chắc tay cày tay súng. Cùng những vần thơ viết về đề tài Tổ quốc, chiến đấu, lao động sản xuất, các nhà thơ thời chống Mỹ cũng không quên mang theo trong hành trang thơ của mình những giai điệu tình yêu. Đó là tình yêu đất nước, con người Việt Nam tình nghĩa, kiên trung; là tình yêu lứa đôi mặn nồng, chung thủy hòa quyện, thống nhất trong tình yêu Tổ quốc. Từ các nhà thơ lão thành Cách mạng đến lớp các nhà thơ trẻ đều có những câu thơ hay viết về tình yêu trong chiến tranh. Tố Hữu viết các bài ca xuân, Em ơi, Ba Lan...,.... Chế Lan Viên có Chùm nhỏ thơ yêu với Tiếng hát con tàu, Tình ca ban mai, Hoàng thảo hoa vàng, Rét đầu mùa, nhớ người ra phía biển ... Nguyễn Mỹ nổi tiếng với Cuộc chia ly màu đỏ, Dương Hương Ly có Bài thơ về hạnh phúc, Ý Nhi có Đi qua cuộc đời chúng mình, Phan Thị Thanh Nhàn viết Hương thầm, Xuân Quỳnh viết Sóng, Bằng Việt có Tình yêu và báo động, Lưu Quang Vũ viết Vườn trong phố, Phạm Ngọc Cảnh viết Lý ngựa ô ở hai vùng đất... Những bài thơ tình vút lên như những nốt nhạc hạnh phúc, biểu tượng cho vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn Việt Nam ngay trong những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của cuộc chiến tranh. Những bài thơ tình yêu ấy còn ngân vang mãi, góp phần làm đẹp hơn cho “bài thơ cuộc đời” và làm đầy đủ hơn diện mạo của thơ hiện đại Việt Nam thời chống Mỹ. 1.2.2. Thành tựu về nghệ thuật Không chỉ mở rộng, đa dạng hóa đề tài trong thơ, các tác giả thơ chống Mỹ còn có nhiều tìm tòi nâng cao nghệ thuật biểu hiện cho thơ. Trước hết, 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 257 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 302 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 213 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 153 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 143 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 170 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 143 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 157 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 122 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 62 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn