intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tác giả Đạm Phương nữ sử trong bối cảnh hiện đại hóa đầu thế kỷ XX

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:148

33
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ về cuộc đời, sự nghiệp, vị trí, vai trò cùng những đóng góp về lĩnh vực văn hóa, văn học của nữ sĩ Đạm Phương trong giai đoạn chuyển đổi từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta vào đầu thế kỷ XX.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tác giả Đạm Phương nữ sử trong bối cảnh hiện đại hóa đầu thế kỷ XX

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ NGUYỄN THỊ DUNG TÁC GIẢ ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60220121 Hà Nội - 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ NGUYỄN THỊ DUNG TÁC GIẢ ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60220121 Hà Nội - 2012 1
  3. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN BẢNG CHỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................... 3 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu......................................................... 8 4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 9 5. Cấu trúc của luận văn ........................................................................ 10 CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP CỦA ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ ............................................................................................................... 12 1.1. Cuộc đời Đạm Phương nữ sử.......................................................... 12 1.2. Văn nghiệp Đạm Phương nữ sử...................................................... 17 1.2.1 Thơ và từ ..................................................................................... 17 1.2.2 Tiểu Thuyết.................................................................................. 51 CHƯƠNG 2: ĐẠM PHƯƠNG VÀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ ĐẦU THẾ KỶ XX .................................................................................................................... 69 2.1. Sơ lược về phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới ................................................................................................................. 69 2.2. Tình hình phụ nữ Việt Nam và “vấn đề phụ nữ” trong xã hội ..... 74 2.3. Tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ trong mối tương quan với các học giả đương thời. ........................................................... 77 2.3.1. Vấn đề công - dung - ngôn - hạnh ............................................. 77 2.3.2. Vấn đề về trinh tiết ..................................................................... 82 2.3.3. Vấn đề tự do kết hôn................................................................... 86 2.3.4. Vấn đề nữ học............................................................................. 89
  4. CHƯƠNG 3: HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG KHẢO CỨU .................................................................................................................. 106 3.1. Hoạt động xã hội: .......................................................................... 106 3.1.1. NCHH ....................................................................................... 106 3.1.2. Các hoạt động xã hội khác ....................................................... 113 3.2. Hoạt động khảo cứu ...................................................................... 115 3.2.1. Công trình Giáo dục nhi đồng.................................................. 115 3.2.2. Công trình khảo cứu về Tuồng hát An Nam ............................ 121 KẾT LUẬN .............................................................................................. 128 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 130 PHỤ LỤC................................................................................................. 141
  5. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT CKV : Chung Kỳ Vinh HPTT : Hồng phấn tương tri NCHH : Nữ công Hoc Hội KTC : Kim Tú Cầu
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Những năm đầu thế kỷ XX, chương trình khai thác thuộc địa của Pháp đã làm thay đổi xã hội và nền kinh tế Việt Nam. Các tầng lớp, các giai cấp mới đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là giai cấp công nhân, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị đã xuất hiện. Đây chính là điều kiện xã hội cần thiết cho việc tiếp thu tư tưởng mới, tư tưởng tự do, dân chủ và xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một phần trong tư tưởng tự do, dân chủ, bình đẳng phương Tây là vấn đề bình đẳng nam nữ, nữ quyền và giải phóng phụ nữ cũng đã được các tri thức phong kiến Việt Nam biết đến. Thời gian này, đã có một số phụ nữ không chỉ giới hạn mình nơi cung cấm, chốn phòng the hay quanh quẩn công việc bếp núc mà đã vươn tới hòa nhập với sự thay đổi của xã hội bằng cách tham gia vào những công việc mà trước đó chỉ nam giới mới làm được như: viết văn, dịch thuật, làm báo, diễn thuyết, hoạt động cách mạng,…Trong đội ngũ nữ trí thức đầu thế kỷ XX, nổi bật lên một Đồng Canh công nương năng nổ, tháo vát của hoàng tộc nhà Nguyễn, một Đạm Phương nữ sĩ giàu lòng yêu nước với bút lực dồi dào, tư tưởng tiến bộ, khả năng tổ chức và hoạt động xã hội xuất sắc. Đặt Đạm Phương nữ sử trong hoàn cảnh lịch sử, thời đại mà bà sinh sống, ta càng thêm khâm phục tư tưởng và hành trạng của bà. Đạm Phương sinh ra trong lòng xã hội phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, sự phân công trong xã hội nông nghiệp lạc hậu: đàn ông lo việc bên ngoài, đàn bà lo việc nhỏ mọn trong nhà. Thêm vào đó là cảnh nước mất nhà tan, Pháp đẩy mạnh âm mưu thôn tính nước ta, biến loạn triều đình rối ren, lần lượt các vua Dục Đức, Hiệp Hoa, Kiến Phúc bị lật đổ,…văn hóa nghìn năm của dân tộc dần suy thoái. Tâm lý đắng cay, tủi nhục, bất mãn trĩu nặng trong giới tri thức, đặc biệt là trong 1
  7. hoàng tộc vì họ là những người phải chịu trách nhiệm về cảnh đó. Nhưng trong cảnh thế ấy, Đạm Phương đã bất chấp trở lực, vượt lên số phận, viết văn, lập báo, tạo dựng một tổ chức xã hội nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh cho nữ học. Trong khoảng mười năm (1918 – 1929) bà viết gần hai trăm bài đăng các báo xuất bản trên toàn quốc, trong đó ba phần tư số bài mang tính chuyên đề về phụ nữ, nhi đồng, giáo dục. Về văn chương, bà viết nhiều thể loại: Thơ, từ, câu đối, tiểu thuyết. Bà thông thạo Hán văn, Pháp văn,…do đó bà cũng là người sớm có tầm nhìn ra thế giới tiếp thu tinh hoa nhân loại như hệ lí luận tiến bộ về quy trình dưỡng dục trẻ thơ, hệ tư tưởng tiến bộ về nhân quyền: dân chủ, tự do, bình đẳng. Đạm Phương nữ sử cũng là người tổ chức Hội Nữ công đầu tiên ở nước ta để mở mang giới chí. Tuy nhiên, cho đến nay những hoạt động và cống hiến của bà vẫn chưa được nhiều người biết đến. Thế hệ hiện nay dường như chỉ biết về bà - Công Nữ Đồng Canh với tư cách là cháu nội của vua Minh Mạng, là người đã sinh ra và nuôi dưỡng nhà lý luận văn nghệ mác-xít nổi tiếng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn và là bà nội của nhà thơ - Bộ trưởng Nguyễn Khoa Điềm, chứ chưa được tường tận về bà trong vị trí một nữ trí thức quý tộc có tinh thần can đảm và yêu nước nồng nàn, có uy tín lớn trong xã hội, có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng, đặc biệt trong giới nữ lưu suốt nửa đầu thế kỷ XX. Chính vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài : "Tác giả Đạm Phương nữ sử trong bối cảnh hiện đại hóa đầu thế kỷ XX” với mong muốn ghi nhận những đóng góp của tác giả trong sự phát triển của văn hóa, văn học nước nhà đầu thế kỷ XX. 2
  8. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Về sưu tầm, xuất bản Tại Thư viện Quốc gia Hà Nội có lưu 5 đầu sách của Đạm Phương nữ sử xuất bản trước năm 1945. Đó là: 1. Gia đình giáo dục thường đàm, in lần thứ nhất, S. : lmpr. Bảo tồn, 1928 2. KTC, Nơi xuất bản: S. :lmpr. Bảo Tồn, 1928 3. Phụ nữ dự gia đình, Nơi xuất bản :Gò Công: Nữ lưu thư quán, 1929 4. Phụ nữ dự gia đình, in lần thứ 1, Nơi xuất bản: Huế: lmpr. Bảo tồn, 1929 5. Giáo dục nhi đồng, Nơi xuất bản : H. : Lê Cường, 1942 Riêng Công trình Giáo dục nhi đồng của Đạm Phương nữ sử được xuất bản năm 1942 tại nhà in Lê Cường, Hà Nội, đến năm 1996 Nhà xuất bản Thanh Hóa tái bản 1000 cuốn. Sau 1945 có sách Đạm Phương nữ sử của Cửu Thọ và Nguyễn Khoa Diệu Biên, Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1994 dày 344 trang khái quát giới thiệu gia phong, cuộc đời, sự nghiệp và dẫn 29 bài thơ và từ, 24 bài báo và một chương trong sách Giáo dục nhi đồng của bà. Người có nhiều đóng góp trong quá trình sưu tầm trước tác của Đạm Phương là học giả Lê Thanh Hiền. Từ năm 1983 trong quá trình khảo sát lại văn bản học nghệ thuật chèo quá khứ tại các thư viện lớn trên đia bàn toàn quốc, ông khảo sát các báo và tạp chí trước 1945 và thường thấy bút danh Đạm Phương nữ sử ở một số bài. Từ đó, ông đã chú ý và mỗi khi gặp bút danh Đạm Phương nữ sử ông thường ghi chép vào sổ tư liệu cá nhân. Đến năm 1997, là năm ông hoàn thành ba công trình văn bản học nghệ thuật chèo quá khứ, ông mới dành thời gian thống kê lại những tư liệu đã ghi chép về bút danh Đạm Phương nữ sử. Bản thân Lê Thanh Hiền cũng thấy bất ngờ khi tính sơ qua đã có ngót hai trăm bài báo của Đạm Phương viết về các vấn đề xã hội. 3
  9. Năm 1999, Nhà xuất bản Văn học cho xuất bản Tuyển tập Đạm Phương nữ sử do Lê Thanh Hiền sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu. Sự ra đời của cuốn sách là cố gắng đáng trân trọng của tác giả Lê Thanh Hiền cũng như nhà xuất bản Văn học. Nhưng do phương tiện kỹ thuật lúc đó còn hạn chế, phần lớn việc sưu tầm tác phẩm in trên báo, phải qua bản chụp microfilm trên bản gốc đã mờ, cũ, nhiều câu nhiều đoạn bị mất,…và còn hàng trăm bài báo chưa tìm ra. Từ đó đến nay, công tác sưu tầm trước tác của Đạm Phương nữ sử đã được hậu duệ của bà cùng bạn bè và giới nghiên cứu thực hiện, bổ sung. Gần đây, tháng 8 năm 2010 với những nỗ lực tìm kiếm, sưu tầm, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có bổ sung hàng trăm trang với chú thích rất công phu, sửa chữa phục hồi những đoạn văn bị sai, bị thiếu trong lần in năm 1999. Tháng 12 năm 2010, Tuyển tập Đạm Phương nữ sử do Lê Thanh Hiền sưu tầm, biên soạn, giới thiệu và Nguyễn Khoa Điềm bổ sung, sửa chữa được nhà xuất bản Văn học xuất bản 1000 cuốn. Gần đây nhất, tháng 1 năm 2011, Nguyễn Khoa Điềm lại sưu tập được thêm rất nhiều bài viết của Đạm Phương trên tờ “Lục Tỉnh tân văn” (183 trang). Trong Hội thảo khoa học kỷ niệm 130 năm ngày sinh Đạm Phương nữ sử được tổ chức tại Huế ngày 18 tháng 06 năm 2011, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm công bố kết quả tìm kiếm tư liệu về Đạm Phương như sau: “Cho đến nay con số các tác phẩm của Đạm Phương nữ sử đã sưu tầm được (tính cả phần đã xuất bản và phần hiện lưu giữ trong tư liệu gia đình) như sau: - 42 bài thơ kể cả từ khúc, câu đối - 181 bài báo, gồm cả một số truyện ngắn, bài sưu tầm, dịch thuật - 3 tiểu thuyết: “Kim Tú Cầu” (Xuất bản thành sách năm 1928); 4
  10. “Hồng phấn tương tri” (Xuất bản thành sách năm 1929) tìm được từ một thư viện Paris; “Chung Kỳ Vinh”, đăng trên “Lục Tỉnh tân văn” từ đầu tháng 07 năm 1924 đến 19 tháng 01 năm 1925 (kết thúc). Rất tiếc, có 1- 2 số đầu tiên chúng tôi chưa tìm được. - 3 tập khảo cứu: “Bàn về vấn đề giáo dục con gái”, “Phụ nữ dự gia đình”, “Giáo dục nhi đồng”. [103; tr 25] Sưu tầm được khối lượng tác phẩm như vậy quả là một nỗ lực rất lớn của gia đình tác giả cũng như các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, đó chưa phải là toàn bộ những trước tác mà Đạm Phương để lại, vì thế công tác sưu tầm, xuất bản vẫn sẽ được đẩy mạnh trong thời gian sắp tới. 2.2 Về nghiên cứu Nhìn chung hoạt động nghiên cứu về tác giả Đạm Phương mới được tập trung và nở rộ trong khoảng thời gian gần đây, trước đó các bài nghiên cứu về Đạm Phương rất ít, chưa sâu và chưa hệ thống. Giải thích về điều này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và cũng là cháu nội của Đạm Phương cho rằng việc tiếp cận tư liệu, trước tác của bà gặp khó khăn nên các nhà nghiên cứu chưa chú ý tới được: “Sở dĩ các nhà làm tư liệu gặp khó khăn vì Đạm Phương nữ sĩ mặc dầu là tác giả của thế kỷ thứ XX nhưng bà mất sớm – từ ngay đầu kháng chiến chống Pháp (1947), sách vở thất lạc; phần lớn các trước tác của bà lại là các bài báo ra đời trước năm 1930 nên ít người có điều kiện tiếp cận” [103; tr 22] Từ những năm 70 của thế kỷ XX, độc giả được biết đến Đạm Phương nữ sử qua sách Lược truyện các tác giả Việt Nam, do Trần Văn Giáp chủ biên. Như tên sách, sách ghi chép sơ lược lai lịch các tác giả, tác phẩm xuất hiện từ thế kỷ thứ XI đến nửa đầu thế kỷ XX. Tác giả Đạm Phương là một trong 851 tác giả được thống kê trong cuốn sách này. Bà được liệt kê cùng 13 5
  11. tác giả nữ nổi tiếng khác là: Ỷ Lan phu nhân, Ngô Chi Lan, Đoàn Thị Điểm, Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Huệ Phố (Nguyễn Tĩnh Hòa), Mai Am (Nguyễn Trinh Thận), Nguyệt Đình (Nguyễn Vĩnh Trinh), Nguyễn Nhược Thị Bích, Vân Đài, Sương Nguyệt Anh. Do tính chất “lược truyện” tổng quát của cuốn sách nên tiểu sử của bà được nhắc đến khá sơ sài chỉ có hai cuốn sách, hai bài báo được nhắc đến. Như đã nói ở trên, năm 1995, nhà xuất bản Trẻ phát hành cuốn sách Đạm Phương nữ sử của hai tác giả Nguyễn Khoa Diệu Biên – Nguyễn Cửu Thọ. Là cháu nội và cháu ngoại, đã từng có thời gian gần gũi với bà Đạm Phương nên phần viết của hai tác giả khá cụ thể và sinh động. “Các tác giả có cái nhìn bao quát những hoạt động phong phú của bà gắn với bức tranh chính trị xã hội đầy biến động của nước ta và của kinh đô Huế những năm đầu thế kỷ XX” [103, tr 22] Trong những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, cũng đã có những học giả quan tâm đến trước tác và hoạt động xã hội của bà nhưng sự quan tâm đó mới chỉ dừng lại ở dạng những bài viết tiểu luận về một vài khía cạnh tiêu biểu trong sự nghiệp của bà với những đánh giá chung chung. Những bài viết nghiên cứu về Đạm Phương nữ sử còn tản mạn và nằm rải rác ở các báo như:  Bài “Với Nữ sĩ Đạm Phương” của tác giả Trần Thị Như Mân in trên Tạp chí Sông Hương, số 12 tháng 4 năm 1985,  Bài “Đạm Phương Nhà báo nữ đầu thế kỷ” của tác giả Cửu Thọ in trên Báo Phụ nữ Thủ đô số 22 năm 1996,  Bài “Nhớ Nữ sĩ Đạm Phương” của tác giả Lê Xuân Kỳ in trên báo Văn hóa, số ra ngày 21 tháng 08 năm 1994,  Bài “Đạm Phương, Người rung tiếng chuông đòi quyền sống của phụ nữ từ hồi đầu thế kỷ” của tác giả Thế Thanh, trên báo Đại đoàn kết, số xuân 6
  12. năm 1998  Và những bài viết của tác giả Lê Thanh Hiền in trong các tạp chí: Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 2 năm 1998, Tạp chí Người làm báo Xứ Đông số 3 năm 1998, Tạp chí Cánh Buồm số 4 năm 1998, Báo Văn hóa ra ngày 21 tháng 06 năm 1998 Những bài viết này đều đề cao tư tưởng tiến bộ trong trước tác của Đạm Phương nữ sử, các tác giả trên cũng khẳng định vai trò xã hội quan trọng của bà ở giai đoạn lịch sử đương thời. Đạm Phương là một danh sĩ kinh đô Huế hồi đầu thế kỷ XX, yêu nước, trọng thị dân tộc. Bà ý thức sâu sắc về việc dùng báo chí truyền bá những kiến thức văn hóa – xã hội, kiến thức dưỡng dục thế hệ trẻ Việt Nam, đặc biệt là nỗ lực vận động phát triển chị em phụ nữ, hướng nghiệp cho họ và phân tích về cách thức tổ chức gia đình, nuôi dạy con cái để chị em có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Thành tựu nghiên cứu về Đạm Phương đạt đến độ chín muồi, rực rỡ và thành công nhất chính là dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh của bà với một hội thảo khoa học cấp quốc gia được chuẩn bị hơn một năm, hội tụ hơn 200 nhà khoa học đầu ngành thuộc các lĩnh vực lịch sử, văn học, giáo dục, sân khấu, báo chí, Phật học, gia phả, giới,… Ban tổ chức đã lựa chọn được 42 bản báo cáo khoa học để in kỷ yếu. Hội thảo được chia làm hai tiểu ban: Tiểu ban gia thế, văn hóa, giáo dục và tiểu ban văn học, báo chí, di sản. Hội thảo công bố kết quả sưu tầm tài liệu về Đạm Phương, những lưu ý trong gia thế và tiểu sử của bà. Về hoạt động văn hóa, các nhà nghiên cứu chú ý đến các vấn đề sau: Đấu tranh nữ quyền và sự tiến bộ của phụ nữ, xây dựng con người mới, gia đình mới, xã hội mới, thành lập và điều hành NCHH, người khai sinh ra ngành nghiên cứu tuồng Việt Nam, nghiên cứu Phật học, văn hóa tâm linh, thông thạo nhiều ngoại ngữ, giao tiếp với nhiều chính khách đương thời, hoạt động yêu nước và cách mạng,…Về giáo dục, các nhà giáo dục học như 7
  13. PGS.TS Trần Tuấn Lộ, tác giả Hoàng Thị Ái Nhiên khẳng định công lao và những đóng góp của Đạm Phương về giáo dục phụ nữ, giáo dục nhi đồng. Về thơ, từ, tiểu thuyết, tuy không tiêu biểu bằng những hoạt động xã hội của bà, nhưng các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra những nét đặc sắc trong mảng sáng tác văn chương này. Về báo chí, các nhà nghiên cứu, nhà báo như: PGS- TS Nguyễn Đăng Điệp, TS. Nguyễn Thu Linh, TS. Tôn Phương Lan, TS. Hoàng Diệu Minh, Phan Quang, Phạm Phong Phú… đều khẳng định tính chất tiên phong, bút lực dồi dào và ảnh hưởng sâu rộng của Đạm Phương trong nền báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong hội thảo rất nhiều vấn đề xoay quanh cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Đạm Phương đã được đặt ra bàn bạc, thảo luận. Có nhiều vấn đề có ý kiến khác nhau, mức độ đánh giá không giống nhau, có vấn đề cần phân tích rõ hơn, sâu hơn. Chính vì thế quá trình nghiên cứu về Đạm Phương chắc chắn còn phát triển trong tương lai. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Như tên luận văn : Tác giả Đạm Phương nữ sử trong bối cảnh hiện đại hóa đầu thế kỷ XX, mục đích của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là làm sáng tỏ về cuộc đời, sự nghiệp, vị trí, vai trò cùng những đóng góp về lĩnh vực văn hóa, văn học của nữ sĩ Đạm Phương trong giai đoạn chuyển đổi từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta vào đầu thế kỷ XX. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Với khối lượng trước tác đồ sộ đã sưu tầm được về Đạm Phương, giới nghiên cứu khẳng định bà là một nhân vật lịch sử đa tài. Bà là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà giáo dục, nhà biên khảo, dịch thuật, nhà hoạt động xã hội 8
  14. và là nhà văn hóa của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn chuyên ngành văn học, chúng tôi đi sâu nghiên cứu tập trung vào các mảng nội dung chính sau đây: - Những sáng tác văn chương: thơ, từ, tiểu thuyết của Đạm Phương - Những bài báo, bài chuyên khảo thể hiện tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ, giáo dục nhi đồng - Những bài báo, chuyên luận của những tác giả cùng thời về vấn đề phụ nữ 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: 4.1 Phương pháp mô tả Luận văn nghiên cứu về toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Đạm Phương nữ sử, là một tác giả có nhiều đóng góp cho nền văn hóa, văn học nước nhà những năm đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, cuộc đời và sự nghiệp của bà còn ít được biết đến, hay nói cách khác là chưa phổ biến trong giới học sinh, sinh viên cũng như giới nghiên cứu văn chương. Chính vì lí do đó, chúng tôi sử dụng phương pháp mô tả để giới thiệu một cách chân thực và gần gũi nhất hành trạng, cuộc đời của tác giả Đạm Phương đến với người theo dõi. 4.2 Phương pháp so sánh Để thấy được cái chung cũng như nét riêng độc đáo và những đóng góp của Đạm Phương nữ sử so với các tác giả nữ cùng thời, luận văn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu. 4.3 Phương pháp phân loại, thống kê Với một tác giả có khối lượng trước tác lớn và đa dạng như Đạm 9
  15. Phương thì việc sử dụng phương pháp phân loại, thống kê là hết sức cần thiết. Phương pháp này giúp chúng tôi xử lý tư liệu trước tác của tác giả một cách mạch lạc và rõ ràng. Đó là cơ sở, tiền đề để luận văn đưa ra những đánh giá nhận định khách quan về từng sáng tác của Đạm Phương nữ sử. Ngoài ra, phương pháp này giúp chúng tôi phân loại ý kiến, tư tưởng của các học giả cùng thời trong thế so sánh với ý kiến, tư tưởng của Đạm Phương về các vấn đề có liên quan. 4.4 Phương pháp phân tích- tổng hợp Từ việc phân tích, mô tả những hoạt động văn hóa, văn học và những sáng tác của Đạm Phương, chúng tôi đúc kết lại thành một diện mạo mang tính khái quát về cuộc đời và văn nghiệp của một nữ sĩ tiêu biểu đầu thế kỷ XX.. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương với các nội dung như sau: Chương 1 Cuộc đời và văn nghiệp của Đạm Phương nữ sử 1.1 Cuộc đời Đạm Phương nữ sử 1.2 Văn nghiệp Đạm Phương nữ sử 1.2.1 Thơ và từ 1.2.2 Tiểu Thuyết Chương 2: Đạm Phương và vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX 2.1 Sơ lược về phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới 2.2 Tình hình phụ nữ Việt Nam và “vấn đề phụ nữ” trong xã hội 2.3 Tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ trong mối tương quan với các học giả đương thời. 10
  16. 2.3.1 Vấn đề công - dung - ngôn - hạnh 2.3.2 Vấn đề về trinh tiết 2.3.3 Vấn đề tự do kết hôn 2.3.4 Vấn đề nữ học Chương 3 Hoạt động xã hội và hoạt động khảo cứu 3.1 Hoạt động xã hội: 3.1.1 Nữ công Học hội 3.1.2 Các hoạt động xã hội khác 3.2 Hoạt động khảo cứu 3.2.1 Công trình Giáo dục nhi đồng 3.2.2 Công trình khảo cứu về Tuồng hát An Nam 11
  17. CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP CỦA ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ 1.1. Cuộc đời Đạm Phương nữ sử Đạm Phương nữ sử sinh năm Tân Tỵ (1881) tại Phủ Tôn Nhơn, kinh đô Huế. Bà có tên thật là Công Nữ Đồng Canh, tự là Quý Lương. Sau khi lấy chồng, có con, bà được vua Thành Thái vời vào cung làm chức nữ sử dạy cung tần, mỹ nữ trong cung. Nữ sử là một chức quan mà bà từng đảm nhiệm nên bà lấy bút hiệu là Đạm Phương nữ sử. Ngoài ra bà còn có các bút hiệu sau: Đạm Phương nữ sĩ, Đạm Phương, Đ.P,… Đạm Phương là con gái của Hoàng Hóa Quận Vương Nguyễn Miên Triện, là Quận chúa (cháu nội vua Minh Mạng). Thân phụ Đạm Phương là hoàng tử thứ 66 của vua Minh Mạng, thụ tước Hoàng Hóa Quận Vương. Năm 1891 ông phụng chỉ vua Thành Thái dẫn sứ bộ triều đình Huế sang công vụ tại nước Cộng hòa Pháp. Trong chuyến đi này, ông có dịp mua được một số sách vở về Lịch sử văn minh văn hóa Pháp, Cách mạng Pháp 1789, các sách của Jean – Jacques Rousseau (1712 – 1778), Voltaire (1694 – 1778) viết về tự do, dân chủ, nhân quyền. Ông cũng là người nổi tiếng hay chữ với hai tập sách: “Ước đình thi sao”,viết bằng chữ Hàn, gồm khoảng 300 bài và một tập thơ Nôm là “Ất Sửu Như Tây Nhật ký”. Ông mất ngày 4 tháng 4 năm Ất Tỵ (7/5/1905), thọ 73 tuổi. Ông chỉ có hai người con gái, trong đó có bà Đạm Phương là thứ nữ, do vậy ông đã dành tình yêu thương và công sức dạy dỗ cho các bà chẳng khác gì con trai. Mẹ của Đạm Phương là Tài Nhân Trần Thị Thanh, cho đến nay vẫn chưa có tư liệu gì về dòng dõi bên ngoại của Đạm Phương nên chưa rõ về thân thế của bà Trần Thị Thanh. Là người thông minh, Đạm Phương được mẹ dạy cho chữ Hán từ rất 12
  18. sớm, sau đó gia đình lại mời thầy đồ Nghệ dạy thêm. Tuy sinh ra trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm chiếm, cai trị nhưng do xuất thân trong hoàng tộc nên Công Nữ Đồng Canh được thừa hưởng đặc quyền, đặc lợi, và được thừa hưởng truyền thống văn học, giáo dục tốt đẹp của hoàng tộc. Vì thế, ngay từ thời ấu thơ, Công Nữ Đông Canh đã được dưỡng dục quy củ và đến thời niên thiếu đã được học hành nghiêm túc cả Hán văn, Pháp văn và quốc ngữ. Bà còn được vào phủ chúa học cầm, kỳ, thi, họa, thêu thùa, cắt may, nấu nướng. Đó là những kiến thức nền tảng cơ bản đã kết tinh thành vốn văn hóa vững chắc mà Đạm Phương có được khi trưởng thành. Năm 1890, bà theo gia đình sống ở “Học bạn tinh xá” (nay ở Phường Thủy Xuân, Huế) và theo học công chúa Quy Đức tại phủ Vĩnh Trinh. Trong thời thiếu nữ, bà đã có hai tập thơ chữ Hán là “Đông quán thi tập” và “Tú dư xích độc”. Năm 1897, Công Nữ Đồng Canh tròn 16 tuổi và lập thân với ông nghè tập ấm Nguyễn Khoa Tùng (Hậu duệ thứ 6 của Nguyễn Khoa Chiêm (1659 - 1736), quê gốc Hải Dương, nay thuộc Xã Lê Lợi, Huyện An Hải, Hải Phòng, tác giả Nam triều công nghiệp diễn chí1 – Tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của nước ta). Bà sinh con gái đầu lòng là Nguyễn Khoa Diệu Nhơn. (Chữ Diệu lót tên con gái trong nhiều gia đình dòng họ Nguyễn Khoa bắt đầu từ bà Diệu Nhơn.). Trong cuộc sống, hai vợ chồng bà Đạm Phương và ông Nguyễn Khoa Tùng rất tâm đầu ý hợp, thường cùng nhau xướng họa thơ văn nên có chung một tập thơ chữ Hán lấy tên là “Hiệp Bích thi cảo”. Năm 1898, bà sinh người con gái thứ hai là Nguyễn Khoa Diệu Duyên, năm 1900 bà sinh người con trai đầu là ông Nguyễn Khoa Tú. Năm 20 tuổi bà được mời vào cung để dạy công chúa và cung nữ học tập. Tên Đạm Phương nữ sử ra đời từ 1 Sách ra đời năm 1720, năm 1984 dịch từ Hán văn sang Việt văn, tới nay tái bản ba lần, 1994 Nxb Hội Nhà văn tái bản sách 632 trang khổ 13 x 19 cm. 13
  19. đó. Năm 1906, bà sinh ông Nguyễn Khoa Văn tức Hải Triều. Năm 1914, bà sinh người con thứ năm là ông Nguyễn Khoa Châu (Hải Châu). Năm 1918, bà sinh người con gái út là bà Nguyễn Khoa Diệu Vân. Tháng 4 năm 1918, bà tiếp kiến ông Phạm Quỳnh, chủ bút báo Nam Phong đến thăm. Sau chuyến thăm Huế này, Phạm Quỳnh có bài du ký “Mười ngày ở Huế” có nhắc đến cuộc tiếp xúc đó. Có lẽ Nam Phong là tờ báo đầu tiên thu hút bà vào con đường báo chí. Tháng 7 năm 1918, bà viết những bài báo đầu tiên cho Nam Phong (tạp chí xuất bản tại Hà Nội năm 1917), năm 1919, 1920 bà làm trợ bút cho nhật báo Trung Bắc tân văn (Xuất bản năm 1915 tại Hà Nội), giữ mục “Lời đàn bà” trên tờ Thực nghiệp dân báo (Xuất bản năm 1920, tại Hà Nội). Năm 1922 bà là biên tập viên nữ giữ mục “Văn đàn bà” trên tạp chí Hữu Thanh (Hà Nội). Đây là khoảng thời gian bà thể hiện một bút lực dồi dào với hàng loạt những bài viết trên các báo lớn ở khắp ba miền Bắc – Trung – Nam. Ngày 25/5/1923, tiểu thuyết KTC của bà được đăng nhiều kỳ trên Trung Bắc tân văn. Năm 1923, bà cho đăng trên tạp chí Nam Phong bài viết “Khảo cứu về tuồng hát An Nam”. Ngày 3/2/1926, trên tờ Thực nghiệp dân báo, bà viết bài “Nữ lưu với ông Phan Bội Châu”. Chính vì những đóng góp về văn hóa văn học đó mà năm 1925, bà được chính quyền Nam triều thưởng Kim Tiền (một hình thức khen thưởng vì những đóng góp về văn hóa). Trong khoảng thời gian này, bà cũng tiếp xúc với các nhà chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,…Năm 1926, tại lễ truy điệu Phan Chu Trinh ở Huế, bà được ủy nhiệm đọc bài văn tế do cụ Phan Bội Châu soạn. Năm 1926 đến 1927, cụ Huỳnh Thúc Kháng xúc tiến việc xin ra báo Tiếng Dân, tờ nhật báo đầu tiên ở Trung kỳ, lấy nhà hai ông bà Nguyễn Khoa Tùng – Đạm Phương ở Đập Đá, Vỹ Dạ làm địa chỉ liên lạc với nhà nước bảo hộ. 14
  20. Ngày 15/6/1926, sau nhiều tháng chuẩn bị, NCHH đã ra đời và lễ khánh thành được tổ chức long trọng tại Huế. Sau đó, Đạm Phương đã dành thời gian mở rộng giao lưu tiếp xúc với các bậc nhân sỹ trí thức, các giới nữ lưu ở cả ba miền để tìm hiểu học hỏi. Bà đã đến Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Mỹ Tho, Gò Công, Thanh Hóa… để bàn bạc về giáo dục phụ nữ, liên kết mở rộng hoạt động nữ công và báo chí xuất bản. Năm 1927, NCHH xuất bản quyển “Nữ quốc dân tu tri” của Phan Bội Châu do cụ tặng khi còn ở dạng bản thảo. Năm 1928, bà cho ra mắt công trình khảo cứu “Bàn về giáo dục con gái”. Trong các năm 1928, 1929, 1931 bà cùng các cô giáo của NCHH cho xuất bản ba tập “Nữ công thường thức”, ghi lại những bài giảng về nữ công để phổ biến rông rãi cho nữ giới. Năm 1928, Đạm Phương nữ sử soạn tác phẩm “Phụ nữ dự gia đình” do Nữ lưu Thư quán Gò Công xuất bản. Năm 1929, bà cũng xuất bản tiểu thuyết “Hồng phấn tương tri” tại Nữ lưu thơ quán, Gò Công, số lượng 10.000 bản. Sau 10 năm làm việc rất sôi nổi (1920 – 1930) thì từ năm 1930 đến 1945 hoạt động của bà trầm lắng hơn. Những năm này đã xuất hiện những tình huống chính trị xã hội và hoàn cảnh gia đình khiến bà không sống và làm việc như cũ. Về xã hội, sự có mặt những tổ chức chính trị tiền thân và tiếp đó sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương đã làm cục diện chính trị thay đổi; thế hệ chống thực dân Pháp bây giờ không còn là những người gần gũi về học thức và chí hướng với bà như: Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Khắc Hiếu,… mà là một lớp trẻ hơn như Phan Đăng Lưu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Diểu, Trần Huy Liệu và cả con trai bà là Hải Triều Nguyễn Khoa Văn. Đời sống báo chí vẫn rất sôi nổi nhưng các tờ báo phụ nữ xuất hiện trước và sau năm 1930 đều nhanh chóng chìm lắng. Đặc biệt, sự đàn áp của thực dân cũng trở nên khốc liệt hơn. Gia đình bà là đối tượng bị truy xét. Đầu tháng 8 năm 1929, bà bị bắt, nhà cửa bị lục soát. Mật thám 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2