LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu ở Nhà trường kết hợp
với sự nỗ lực cố gắng của bản thân. Đạt được kết quả này, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn chân thành đến:
Quý Thầy, Cô giáo Trường Đại học Kinh tế Huế đã truyền đạt kiến thức, nhiệt tình
giúp đỡ cho tôi trong 2 năm học vừa qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất
đến thầy giáo, TS. Nguyễn Ngọc Châu - người hướng dẫn khoa học - đã dành nhiều thời
gian quý báu để giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn.
Dự án “Quản lý tổng hợp nước, đất và dinh dưỡng cho các hệ thống canh tác bền
vững ở vùng Duyên hải Nam trung bộ Việt Nam và Australia” của Đại học Flinden
Australia thực hiện tại các tỉnh vùng Duyên hải Nam trung bộ tại Việt Nam đã giúp tôi
hoàn thành các số liệu thực tế tại vùng điều tra.
Ban lãnh đạo, cán bộ, viên chức Viện khoa học kĩ thuật nông nghiệp Duyên hải
Nam Trung Bộ, Trung tâm giống cây trồng lâu năm Huyện Phù Cát , UBND Huyện
Phù Cát – tỉnh Bình Định đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ
tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin gửi lời chúc sức khỏe và chân thành cảm ơn!
Huế, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ HOÀI LY
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan mọi
sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Huế, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ HOÀI LY
ii
TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
Niên khóa: 2013 - 2015
Họ và tên học viên: NGUYỄN THỊ HOÀI LY Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC CHÂU Tên đề tài: HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT LẠC THEO MÔ HÌNH TƯỚI TIÊU CỦA CÁC NÔNG HỘ HUYỆN PHÙ CÁT TỈNH BÌNH ĐỊNH 1. Tính cấp thiết của đề tài
Phù Cát là một trong số huyện của tỉnh Binh Định có diện tích đất sản xuất nông nghiệp lớn, trong đó phần lớn vùng đồng bằng ven biển chủ yếu là đất cát pha rất thích hợp cho việc trồng các loại cây ngắn ngày như đậu đỗ, lạc, vừng…Trong đó, sản xuất lạc đang được đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế cao, cơ cấu diện tích lạc theo mô hình tưới tiêu tương đối lớn, trên 60 % tổng diện tích gieo trồng lạc. Tuy nhiên để các mô hình tưới tiêu của nông hộ đi vào thực tế đời sống của người dân và phổ biến hơn nữa thì cần xác định chính xác tính hiệu quả của mô hình, từ đó có những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế và mở rộng diện tích sử dụng các mô hình tưới tiêu cho lạc mang lại hiệu quả cao ở địa phương.Chính vì vậy “Hiệu quả kinh tế sản xuất lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định” là một yếu cầu cần thiết. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
-Số liệu thứ cấp: Những thông tin, số liệu thống kê được thu thập từ sách báo tạp chí, internet, các phòng nông nghiệp, tài nguyên môi trường, thống kê, lao động,…thuộc UBND huyện, Niên giám thống kê của tỉnh và huyện từ năm 2011 - 2014, báo cáo của UBND các xã điều tra... trên các trang thông tin điện tử của huyện, tỉnh và cả nước. - Thu thập số liệu sơ cấp: Số liệu sơ cấp được thu thập được từ việc điều tra
phỏng vấn trực tiếp 120 hộ ở 3 xã Cát Trinh, Cát Hanh , Cát Hiệp. - Phương pháp điều tra phỏng vấn trực tiếp chủ hộ theo bảng hỏi 2.2. Phương pháp tổng hợp, xử lý và phân tích số liệu
+ Phương pháp thống kê mô tả. + Phương pháp so sánh. + Phương pháp kiểm định ANOVA
3. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp của luận văn - Luận giải cơ sở lý luận cho việc đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ trên địa bàn huyện Phù Cát tỉnh Bình Định.
-Đánh giá một cách khách quan thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả kinh tế của các hộ sản xuất lạc theo mô hình tưới tiêu ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp giúp chính quyền địa phương phổ biến các mô hình phù hợp và giúp người dân nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất lạc trên địa bàn huyện Phú Cát tỉnh Bình Định. - Là tài liệu tham khảo cho các học viên và sinh viên chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp.
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVTV Bảo vệ thực vật
BQ Bình Quân
BQC Bình quân chung
CC Cơ cấu
DT Diện tích
ĐX Đông xuân
ĐT Đông tây
ĐVT Đơn vị tính
FAOSTAT Tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới
GS. TS Giáo sư – tiến sĩ
HT Hè thu
KTCT Kĩ thuật canh tác
KTTN Kĩ thuật tưới nước
KHKT Khoa học kĩ thuật
LĐ Lao động
NN Nông nghiệp
NN Nguồn nước
NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NTTS Nuôi trồng thủy sản
NH Ngân hàng
NGO Tổ chức phi chính phủ
CSXH Chính sách xã hội
PPCT Phương pháp canh tác
SL Số lượng
SX Sản xuất
TL Tỉ lệ
UBND Ủy ban nhân dân
iv
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... ii
TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ ................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iv
MỤC LỤC...................................................................................................................v
DANH MỤC CÁC BẢNG........................................................................................ ix
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ .............................................................................................1
1. Lý do nghiên cứu đề tài...........................................................................................1
2. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước: ..........................................................2
3.Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................................3
4.Đối tượng phạm vi và địa điểm nghiên cứu:............................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................4
6. Kết quả và những đóng góp mới kỳ vọng đạt được của nghiên cứu: .....................5
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ......................................................................6
Chương 1: Cơ sở khoa học..........................................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu .....................................................................6
1.1.1 Hiệu quả kinh tế .................................................................................................6
1.1.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế ........................................................................6
1.1.1.2 Bản chất hiệu quả kinh tế ................................................................................7
1.1.1.3 Các phương pháp xác định hiệu quả ...............................................................7
1.1.1.4 . Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu ........................................................................8
1.1.2 Cơ sở lý luận về cây lạc .....................................................................................9
1.1.2.1 Nguồn gốc xuất xứ và lịch sử phát triển cây Lạc ở Việt Nam ........................9
1.1.2.2 Đặc điểm sinh thái, sinh trưởng của cây lạc .................................................11
1.1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển cây Lạc ................12
1.1.2.4 Một số giá trị của cây Lạc .............................................................................14
1.1.3 Các mô hình tưới tiêu cho cây công nghiệp ngắn ngày ...................................16
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................19
v
1.2.1 Tình hình sản xuất lạc trên thế giới..................................................................19
1.2.2 Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam ..................................................................21
1.2.3 Tình hình sản xuất lạc ở Bình Định .................................................................22
Chương 2. Đánh giá Hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của nông
hộ ở huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định .........................................................................23
2.1. Tình hình cơ bản của địa bàn nghiên cứu ..........................................................23
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ...........................................................................................23
2.1.1.1 Vị trí địa lý ....................................................................................................23
2.1.1.2 Đặc điểm địa hình và nguồn nước: ..............................................................24
2.1.1.3 Thổ nhưỡng: ..................................................................................................25
2.1.1.4 Điều kiện khí hậu: .........................................................................................26
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội .................................................................................27
2.1.2.1 Thực trạng phát triển kinh tế huyện ..............................................................27
2.1.2.2 Tình hình sử dụng đất đai huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định ...........................28
2.1.2.3 Tình hình dân số và lao động của huyện.......................................................30
2.1.3 Đánh giá chung về đặc điểm của Huyện Phù Cát tỉnh Bình Định ...................31
2.1.3.1. Những thuận lợi ...........................................................................................31
2.1.3.2. Những khó khăn, thách thức cho sự phát triển ............................................32
2.2 Thực trạng kết quả sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ trên địa
bàn Huyện Phú Cát tỉnh Bình Định ..........................................................................33
2.2.1. Tình hình sản xuất Lạc trên địa bàn huyện Phú Cát .......................................33
2.2.2 Tình hình cơ bản của các hộ điều tra ...............................................................37
2.2.2.1. Thông tin chung của các hộ điều tra ............................................................37
2.2.2.2. Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra:.................................40
2.2.2.3 Cơ cấu đất đai của các hộ điều tra.................................................................41
2.2.2.4 Tình hình vay vốn của các hộ điều tra ..........................................................43
2.2.2.5 Tư liệu sản xuất của các hộ điều tra ..............................................................44
2.2.2.6 Tình hình sử dụng giống lạc của các nông hộ...............................................47
2.2.2.7 Kỹ thuật canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra .................................53
vi
2.2.2.8 Phương pháp canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra..........................57
2.2.2.8 Kỹ thuật tưới nước cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ........................58
2.2.2.9 Kỹ thuật tưới nước cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ........................61
2.2.3 Đánh giá chi phí sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ trên địa
bàn Huyện Phú Cát tỉnh Bình Định ..........................................................................62
2.2.3.1. Đánh giá chi phí sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ tính
bình quân trên một sào ruộng....................................................................................63
2.2.3.2. Đánh giá chi phí sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ tính
bình quân trên hộ.......................................................................................................65
2.2.4 Kết quả sản xuất Lạc theo các mô hình tưới tiêu của hộ .................................67
2.2.4.1 Kết quả sản xuất Lạc theo các mô hình tưới tiêu của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên một sào ruộng ........................68
2.2.4.2 Kết quả sản xuất Lạc theo các mô hình tưới tiêu của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên một hộ ....................................70
2.2.5 Đánh giá tình hình sử dụng các phương pháp tưới tiêu của các nông hộ trên
địa bàn Huyện Phù Cát tỉnh Bình Định.....................................................................73
2.4 Cơ cấu thu nhập của hộ .......................................................................................77
2.5 Tình hình tiêu thụ và sử dụng lạc........................................................................79
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu
của nông hộ ở huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định .........................................................85
3.1. Khó khăn và thuận lợi đối với các hộ ................................................................85
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của
nông hộ ở huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định ................................................................87
3.2.1. Giải pháp qui hoạch và mở rộng vùng sản xuất..............................................87
3.2.2 Giải pháp về hệ thống thủy lợi:........................................................................89
3.2.3. Giải pháp về giống, khoa học kĩ thuật và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ
thuật và kinh tế ..........................................................................................................90
3.2.4. Giải pháp về thị trường tiêu thụ ......................................................................90
3.2.5. Giải pháp về vốn .............................................................................................91
vii
3.2.6. Giải pháp về khuyến nông và đổi mới khoa học – công nghệ ........................92
3.2.7. Giải pháp về kĩ thuật cho người sản xuất........................................................95
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................97
3.1. Kết luận ..............................................................................................................97
3.2. Kiến nghị ............................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................99
BIÊN BẢN HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN
NHẬN XÉT CỦA PHẢN BIỆN 1 VÀ 2
BẢN GIẢI TRÌNH CHỈNH SỬA LUẬN VĂN
XÁC NHẬN HOÀN THIỆN LUẬN VĂN
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Tỷ lệ một số chất dinh dưỡng trong thân lá lạc và phân chuồng ......16
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất, sản lượng lạc trên thế giới (2010 – 2012) .......19
Bảng 1.3: Sản lượng lạc của Việt Nam .............................................................21
Bảng 1.4: Diện tích, năng suất , sản lượng lạc ở tỉnh Bình Định (2008-2012) .22
Bảng 2.1: Tình hình đất đai trên địa bàn huyện Phù Cát...................................29
Bảng 2.2: Tình hình dân số và lao động của huyện Phù Cát giai đoạn 2011-2013.30
Bảng 2.3: Diện tích năng suất sản lượng một số cây hằng năm........................33
Bảng 2.4 : Diện tích lạc của huyện Phù Cát so với toàn tỉnh Bình Định ...........34
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất Lạc trên địa bàn Huyện Phú Cát qua hai năm....34
Bảng 2.6: Diện tích lạc của huyện Phù Cát phân theo xã..................................36
Bảng 2.7: Thông tin chung của đối tượng được điều tra ...................................37
Bảng 2.8.1: Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra.......................40
Bảng 2.8.2: Kiểm định phương sai giữa các xã về tình hình nhân khẩu và lao
động của các hộ điều tra....................Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.9.1: Cơ cấu đất đai của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát,........................41
tỉnh Bình Định...................................................................................41
Bảng 2.9.2: Kiểm định phương sai giữa các xã về tình hình đất đai............ Error!
Bookmark not defined.
Bảng 2.10.1: Tình hình vay vốn của các hộ điều tra
(Nghìn đồng/hộ) ................................................................................43
Bảng 2.10.2: Kiểm định phương sai giữa các xã về tình hình vay vốn.......... Error!
Bookmark not defined.
Bảng 2.11.1: Tư liệu sản xuất của các hộ điều tra..................................................44
Bảng 2.11.2: Kiểm định phương sai giữa các xã về số lượng tư liệu sản xuất của
các hộ ................................................Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.11.3: Kiểm định phương sai giữa các xã về giá trị tư liệu sản xuất của
các hộ ................................................Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.12: Cơ cấu diện tích gieo trồng lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở
huyện Phù Cát ...................................................................................48
ix
Bảng 2.13: Tình hình sử dụng các giống lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở
huyện Phù Cát ...................................................................................49
Bảng 2.14: Kỹ thuật canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát53
Bảng 2.15: Phương pháp canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát ..............................................................................................57
Bảng 2.16: Kỹ thuật tưới nước cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát ..............................................................................................58
Bảng 2.17: Nguồn nước tưới cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát ..............................................................................................61
Bảng 2.18: Diện tích, năng suất và sản lượng lạc của các hộ điều tra phân theo
phương thức tưới ...............................................................................62
Bảng 2.19: Tổng hợp mức đầu tư cho sản xuất lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên một sào ruộng 63
Bảng 2.20: Tổng hợp mức đầu tư cho sản xuất lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên hộ ...................65
Bảng 2.21: So sánh kết quả và hiệu quả canh tác lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên một
sào ruộng ...........................................................................................68
Bảng 2.22: So sánh kết quả và hiệu quả canh tác lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên một hộ ...........70
Bảng 2.23: Ưu và nhược điểm các phương pháp tưới tiêu của nông hộ điều tra 73
Bảng 2.24: Tỷ trọng thu nhập từ lạc trong tổng thu nhập của hộ gia đình..........77
Bảng 2.25: Hình thức tiêu thụ, địa điểm và đối tượng thu mua lạc.....................80
Bảng 2.26: Cam kết khi thu mua sản phẩm lạc ...................................................82
Bảng 2.27: Thứ tự tác nhân quyết định giá bán lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát ..............................................................................................83
Bảng 3.1: Tình hình nghe đến các phương pháp tưới tiêu của hộ điều tra ở
huyện Phù Cát phân theo phương pháp tưới nước............................86
Bảng 3.2: Các phương pháp tưới phù hợp với các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát ..............................................................................................94
x
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, cơ cấu kinh tế của nước ta hiện nay
có những chuyển biến đáng kể song ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao
và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Để đáp ứng mục tiêu phát triển nền
nông nghiệp đa dạng và bền vững, cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội
cũng như nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu, trong những năm
gần đây nước ta chú trọng phát triển các cây công nghiệp có giá trị cao, đáp ứng
nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp ngày càng
chuyển dịch theo hướng tích cực, sản xuất nông nghiệp đang dần phát triển theo
hướng sản xuất hàng hóa với quy mô lớn. Chính vì vậy, cây công nghiệp ngắn
ngày ngày càng phát triển và có giá trị kinh tế cao được nhiều hộ nông dân quan
tâm. Hướng đi đó đã giúp cho nông nghiệp Việt Nam tiến tới khẳng định mình
trên trường quốc tế.
Hiện nay, Lạc là một trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng
của nước ta. Lạc là cây trồng nhiệt đới có nguồn gốc từ vùng Nam Bolivia cho
đến Bắc Achentina, là cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm và cây có dầu
quan trọng. Trong số các loại cây có dầu ngắn ngày, lạc xếp thứ 2 sau đậu tương
về diện tích và sản lượng, xếp thứ 13 trong các loại cây thực phẩm, xếp thứ 4 về
nguồn dầu thực vật và thứ 3 về các loại cây trông cung cấp protein. (Hồ Huy
Cường, 2013) [1]. Trong những năm gần đây diện tích, năng suất, sản lượng lạc ở
nước ta có sự thay đổi đáng kể. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam,
sản lượng lạc năm 2014 của Việt Nam đã tăng 7,8 % đạt 530 nghìn tấn. Sự gia
tăng này có được nhờ việc nâng cao năng suất và tăng diện tích canh tác cho cây
lạc. Cùng với sự thay đổi về diện tích, sản lượng lạc trong những năm gần đây,
nhiều mô hình tưới tiêu và biện pháp canh tác mới được áp dụng phù hợp với điều
kiện tự nhiên từng vùng để nâng cao chất lượng và năng suất Lạc, cải thiện thu
nhập cho bà con nông dân.
1
Bình Định thuộc vùng sinh thái Duyên hải Nam Trung Bộ và lạc được trồng
ở tất cả 11 huyện, thị trực thuộc tỉnh Bình Định trong vụ Đông Xuân, Hè Thu và
Vụ Mùa trên đất cát trắng, phù sa ven sông, xám và xám bạc màu với nhiều mô
hình tưới tiêu như tưới phun, tưới nhỏ giọt .. đã mang lại năng suất cao. Phù Cát là
một trong số huyện của tỉnh có diện tích đất sản xuất nông nghiệp lớn, trong đó
phần lớn vùng đồng bằng ven biển chủ yếu là đất cát pha rất thích hợp cho việc
trồng các loại cây ngắn ngày như đậu đỗ, lạc, vừng…Trong đó, sản xuất lạc đang
được đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế cao, cơ cấu diện tích lạc theo mô hình tưới
tiêu tương đối lớn, trên 60 % tổng diện tích gieo trồng lạc. Tuy nhiên để các mô
hình tưới tiêu của nông hộ đi vào thực tế đời sống của người dân và phổ biến hơn
nữa thì cần xác định chính xác tính hiệu quả của mô hình, từ đó có những giải pháp
nâng cao hiệu quả kinh tế và mở rộng diện tích sử dụng các mô hình tưới tiêu cho
lạc mang lại hiệu quả cao ở địa phương.
Xuất phát từ thực tế đó tôi đã chọn đề tài: “Hiệu quả kinh tế sản xuất lạc
theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định” làm
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước:
Luận án tiến sĩ “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhằm tăng hiệu quả sản xuất
lạc (Arachis hypogaea L.) tại Bình Định, 2013” của tác giả Hồ Huy Cường (2013)
đi sâu vào vấn đề biện pháp kĩ thuật để tăng hiệu quả sản xuất lạc trên địa bàn Tỉnh
Bình Định. Đánh giá hiện trạng sản xuất lạc ở tỉnh Bình định và xác định giống lạc
mới và giải pháp kĩ thuật hợp lý nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
sản xuất tại những vùng trồng lạc chủ yếu của tỉnh Bình Định. Các giống lạc triển
vọng mang lại năng suất cao để áp dụng cho các hộ nông dân trên địa bàn.
Luận văn thạc sĩ “Hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc của các nông hộ Huyện
Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Thanh Hà (2013) đã đánh giá
phân tích hiệu quả kinh tế của cây Lạc cho các nông hộ trên địa bàn Huyện Minh
Hóa Tỉnh Quảng Bình, giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế và mở rộng sản xuất
giống Lạc cho năng suất cao tại Huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình.
2
Luận văn thạc sĩ “ Thâm canh và hiệu quả sản xuất cây Lạc ở huyện Hương
Trà tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Nguyễn Văn Cường (2004) hệ thống hóa
những vấn đề lý luận về thâm canh và hiệu quả sản xuất nói chung và sản xuất lạc
nói riêng; đánh giá thực trạng đầu tư, thâm canh và hiệu quả sản xuất lạc ở huyện
Hương Trà; phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả sản xuất lạc của
các nông hộ và nghiên cứu đề xuất định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao trình độ thâm canh và hiệu quả sản xuất lạc trên địa bàn huyện Hương Trà năm
2010. Luận văn của tác giả đi sâu vào đầu tư thâm canh cho cây lạc và hiệu quả
kinh tế của cây lạc.
Luận văn thạc sĩ “Hiệu quả sản xuất Lạc ở huyện Hương Trà - Thừa Thiên
Huế” của tác giả Huỳnh Tấn Nguyên, 2011 đi sâu vào đánh giá hiệu quả sản xuất
Lạc của các nông hộ ở huyện Hương Trà - Thừa Thiên Huế và nêu ra một số giải
pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc ở huyện.
Một số đề tài nêu trên đi sâu nghiên cứu hiệu quả sản xuất lạc, giống lạc cho
năng suất cao và các biện pháp kĩ thuật, chưa một đề tài nào đề cập đến các mô hình
tưới tiêu của các nông hộ đầu tư cho sản xuất lạc và hiệu quả kinh tế của các mô
hình tưới tiêu đó cho cây lạc như thế nào. Nên đề tài “Hiệu quả kinh tế sản xuất lạc
theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định” của tác giả
có tính cấp thiết, phù hợp và không trùng lặp với bất cứ luận văn nào trước đây.
3.Mục tiêu nghiên cứu
3.1.Mục tiêu chung:
Phân tích thực trạng và đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất lạc theo mô
hình tưới tiêu của các nông hộ từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế
sản xuất lạc phù hợp với mỗi mô hình tưới tiêu góp phần nâng cao thu nhập cho
người dân trên địa bàn huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
3.2.Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa vấn đề lí luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế sản xuất lạc và
các mô hình tưới tiêu được ứng dụng cho sản xuất Lạc.
3
- Phân tích hiệu quả kinh tế canh tác lạc của các hộ sản xuất theo mô hình
tưới tiêu ở huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất lạc theo
các mô hình tưới tiêu trên địa bàn nghiên cứu.
4.Đối tượng phạm vi và địa điểm nghiên cứu:
4.1.Đối tượng nghiên cứu:
Các hộ nông dân sản xuất lạc theo mô hình tưới tiêu tại huyện Phù Cát, tỉnh
Bình Định
4.2: Phạm vi nghiên cứu:
-Về không gian: Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc của nông hộ theo
mô hình tưới tiêu trên địa bàn Huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định .
-Về thời gian: Số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập từ giai đoạn 2011 –
2013 và số liệu điều tra sản xuất lạc của nông hộ năm 2014.
Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 11/2014 đến 5/2015
4.3 Địa điểm nghiên cứu:
Đề tài thực hiện tại 3 xã Cát Trinh, Cát Hanh, Cát Hiệp của huyện Phù Cát,
tỉnh Bình Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thu thập số liệu
-Số liệu thứ cấp: Những thông tin, số liệu thống kê về điều kiện tự nhiên, địa
lý, khí hậu, đất đai, dân số, cơ sở hạ tầng, tình hình phát triển kinh tế … được thu
thập từ sách báo tạp chí, internet, các phòng nông nghiệp, tài nguyên môi trường,
thống kê, lao động,…thuộc UBND huyện, Niên giám thống kê của tỉnh và huyện từ
năm 2011 - 2014, báo cáo của UBND các xã điều tra... trên các trang thông tin điện
tử của huyện, tỉnh và cả nước.
- Thu thập số liệu sơ cấp: Số liệu sơ cấp được thu thập được từ việc điều tra
phỏng vấn trực tiếp 120 hộ ở 3 xã Cát Trinh, Cát Hanh , Cát Hiệp.
- Phương pháp điều tra phỏng vấn trực tiếp chủ hộ theo bảng hỏi có sẵn.
- Xác định số mẫu điều tra từng xã:
Chọn mẫu ở từng xã theo phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo
4
tỷ lệ (120 hộ x tỷ lệ diện tích lạc của mỗi xã điều tra trong tổng diện tích lạc của 3
xã cộng lại) để đảm bảo các xã được chọn có các đặc điểm về đất đai, địa hình khác
nhau để từ đó đánh giá cách thức áp dụng các mô hình tưới tiêu.Chọn 120 hộ từ 3
xã sản xuất lạc trên địa bàn là xã Cát Trinh, Cát Hanh , Cát Hiệp.
5.2 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
- Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thứ cấp được tổng hợp và xử lý bằng
MS. Excel 2007, số liệu sơ cấp được xử lý bằng SPSS 16.0
- Phương pháp phân tích số liệu:
+ Phương pháp thống kê mô tả.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp kiểm định ANOVA
6. Kết quả và những đóng góp mới kỳ vọng đạt được của nghiên cứu:
- Luận giải cơ sở lý luận cho việc đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lạc theo
mô hình tưới tiêu của các nông hộ trên địa bàn huyện Phù Cát tỉnh Bình Định.
-Đánh giá một cách khách quan thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến kết
quả, hiệu quả kinh tế của các hộ sản xuất lạc theo mô hình tưới tiêu ở huyện Phù
Cát, tỉnh Bình Định.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp giúp chính quyền địa phương phổ biến
các mô hình phù hợp và giúp người dân nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất lạc trên
địa bàn huyện Phú Cát tỉnh Bình Định.
- Là tài liệu tham khảo cho các học viên và sinh viên chuyên ngành Kinh tế
nông nghiệp.
5
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Cơ sở khoa học
1.1. Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Hiệu quả kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là một phạm trù đặc biệt quan trọng, nó thể hiện kết quả sản xuất
trông mỗi đơn vị chi phí của các ngành sản xuất. Về mặt hình thức, hiệu quả kinh tế
là một đại lượng so sánh giữa kết quả sản xuất và chi phí bỏ ra.
Từ trước đến nay các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm khác nhau về hiệu quả
kinh tế. Theo GS. TS. Ngô Đình Giao ‘Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của
mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước”.
Về mặt khái quát: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập
trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ khái thác các nguồn
lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện
mục tiêu đề ra.[9].
Để đánh giá hiệu quả kinh tế chúng ta phải đứng trên quan điểm toàn diện,
phải biểu hiện trên nhiều góc độ khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau theo
không gian – thời gian – số lượng – chất lượng.
+ Về mặt không gian : Cần xét hiệu quả kinh tế trong tổng thể chung với mối
quan hệ hữu cơ hợp lý chứ không nên xét một mặt, một lĩnh vực riêng biệt.
+Về mặt thời gian : Sự toàn diện của hiệu quả kinh tế đạt được không chỉ xét
ở từng giai đoạn mà trong toàn bộ chu kỳ sản xuất.
+Về mặt số lượng: Hiệu quả kinh tế phải thể hiện mối tương quan thu và chi
theo hướng giảm đi hoặc tăng thêm.
+Về mặt chất lượng : Hiệu quả kinh tế phải bảo đảm sự cân bằng hợp lý giữa
cá mặt kinh tế, chính trị, xã hội....
6
Đối với sản xuất nông nghiệp, khi xác định hiệu quả kinh tế phải tính đến
việc sử dụng đất đai, các nguồn dữ trữ vật chất lao động trong nông nghiệp. Tức là
phải sử dụng đến các nguồn tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp. Các tiềm năng
này bao gồm : Vốn sản xuất, vốn lao động và đất đai...
1.1.1.2 Bản chất hiệu quả kinh tế
Bản chất hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm
hao phí sức lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu
quả kinh tế, gắn liền với quy luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời
gian. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh tế là tối đa hóa kết quả và tối thiểu
hóa chi phí và ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.[9].
1.1.1.3 Các phương pháp xác định hiệu quả
* Phương pháp thứ nhất:
Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí
H Q C
/
1
bỏ ra.
1H là chỉ tiêu biểu hiện kết quả kinh tế (tính theo thước đo hiệu số)
Trong đó:
Q là kết quả thu được
C là chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó
* Phương pháp thứ hai: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa kết quả
2H Q C
đạt được với lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó
2H là chỉ tiêu biểu hiện kết quả kinh tế
Trong đó:
Q là kết quả thu được
C là chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó
* Phương pháp thứ ba : Hiệu quả kinh tế được đo bằng tỷ số giữa kết quả tăng
H
Q C /
3
thêm với lượng chi phí tăng thêm để đạt kết quả tăng thêm đó
7
3H là chỉ tiêu biểu hiện kết quả kinh tế
Trong đó:
Q
là phần tăng thêm của kết quả thu được
C
là phần chi phí tăng thêm
Đây là phương pháp mà chúng ta có thể xác định được hiệu quả mà một
đồng chi phí đầu tư thêm mang lại, từ đó có thể xác định được hiệu quả trong đầu tư
sản xuất và xác định được khối lượng tối đa hóa kết quả sản xuất đạt được.
1.1.1.4 . Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
* Các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế:
- Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ của
GO
q p .i
i
doanh nghiệp được tạo ra trong một thời kỳ nhất định ( thường là 1 năm).[7].
iq là số lượng sản phẩm Lạc bán lần i
ip là giá bán sản phẩm Lạc lần i
Trong đó :
- Chi phí trung gian (IC): là một bộ phận cấu thành giá trị sản xuất bao gồm
những chi phí vật chất và dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong một thời kỳ nhất định.[7].
- Giá trị gia tăng (VA): Là giá trị tăng thêm so với chi phí sản xuất bỏ ra.
VA=GO – IC
* Các chỉ tiêu hiệu quả
- Giá trị sản xuất tính trên một đồng chi phí trung gian (GO/IC): Chỉ tiêu này
được tính bằng cách lấy giá trị sản xuất chia cho chi phí trung gian. nó cho biết cứ một
đồng chi phí trung gian bỏ ra đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất.
- Giá trị gia tăng trên một đồng chi phí trung gian(VA/IC):Chỉ tiêu này cho
biết cứ một đồng chi phí trung gian bỏ ra đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng giá trị
gia tăng.
- Giá trị gia tăng trên một đồng giá trị sản xuất (VA/GO): Chỉ tiêu này cho biết
trong 1 đồng giá trị sản xuất ta tích lũy được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng, đây là
nguồn thu thực tế trong quá trình đầu tư sản xuất.
8
* Phương pháp phân tích phương sai ANOVA:
Điều kiện:
– Các nhóm so sánh phải độc lập và được chọn một cách ngẫu nhiên.
– Các nhóm so sánh phải có phân phối chuẩn hoặc cỡ mẫu phải đủ lớn để
được xem như tiệm cận phân phối chuẩn.
– Phương sai của các nhóm so sánh phải đồng nhất.
Kiểm định:
* Levene test: H0 = “Phương sai bằng nhau”
– Sig < 0.05: bác bỏ H0
– Sig >=0.05: chấp nhận H0 -> đủ điều kiện để phân tích tiếp ANOVA
* ANOVA test: H0: “Trung bình bằng nhau”
– Sig >0.05: chấp nhận H0 -> chưa đủ điều kiện để khẳng định có sự khác biệt.
– Sig <=0.05: bác bỏ H0 -> đủ điều kiện để khẳng định có sự khác biệt.
1.1.2 Cơ sở lý luận về cây lạc
1.1.2.1 Nguồn gốc xuất xứ và lịch sử phát triển cây Lạc ở Việt Nam
Lạc là cây hoa màu có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới. Cây lạc hay còn gọi là
cây đậu phộng, hay đậu phụng, là cây công nghiệp, cây thực phẩm có giá trị dinh
dưỡng và giá trị kinh tế cao. Nó được trồng ở hàng trăm năm trước và được coi là
một trong những cây công nghiệp chủ yếu của nhiều nước trên thế giới.
Qua nhiều thập kỷ, dựa trên các lĩnh vực khoa học khác nhau như khảo cổ học,
thực vật học, dân tộc học đã ghi nhận cây lạc có nguồn gốc từ Nam Mỹ cách đây
khoảng 1500 – 1200 năm trước Công nguyên, sau đó phổ biến ở châu Âu tới vùng bờ
lạc có nguồn gốc lịch sử ở Nam Mỹ. Vào thời kỳ phát hiện Châu Mỹ, cùng với
sự thâm nhập của Châu Âu vào lục địa mới, người ta mới biết cây lạc.
biển ở châu Phi, châu Á, tới vùng biển Thái Bình Dương và Đông Nam Hoa Kỳ. Cây
Nguồn gốc cây lạc ở Nam Mỹ được khẳng định khi SKiê (E.G.1877) tìm
thấy lạc trong ngôi mộ cổ An Côn ở bờ biển gần LiMa, thủ đô PêRu. Người ta đã
phát hiện ở đây nhiều ngôi mộ có chứa những xác ướp đặt ngồi, xung quanh là
những vại bằng đất nung đựng nhiều loại thực phẩm khác nhau, còn được bảo vệ
9
tốt. Trong đó có nhiều vại dựng quả lạc. Những mẫu vật về lạc phát hiện ở AnCôn
có liên quan với văn hoá trước AnCôn được xác định vào khoảng 750-500 năm
trước công nguyên. Theo tài liệu của Engen thì lạc tìm thấy ở (Las Haldas) thuộc
thời kỳ trước đồ gốm cách đây khoảng 3800 năm.[17]
Ngoài ra người ta còn thấy cây lạc trồng nhiều ở Mexico, ở Braxin, Bolivia.
Theo Karapovikat (1986) thì cây lạc bắt nguồn từ Bolivia và giả thiết này được cho
là có cơ sở nhất so với các giả thiết khác trước đó.
Ở châu Á người ta cho rằng lạc từ bờ biển Pereru, theo các đoàn thuyền buôn
tới Manila và Châu Á cuối thế kỷ XVI.
Ở Việt Nam, cây Lạc du nhập vào nước ta muộn hơn so với các nước châu Á
khác và vào thời điểm nào thì vẫn chưa được xác minh rõ nhưng lạc đóng vai trò
ngày một to lớn đối với nền kinh tế quốc dân nên diện tích trồng lạc liên tục được
mở rộng. Lạc được trồng ở tất cả các tỉnh trong nước. Trong thời gian qua được sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
chuyển giao các giống mới, cũng như chuyển giao các tiến bộ khoa học – kỹ thuật
cho nông dân đã được thực hiện ở nhiều địa phương trong cả nước, và đã mang lại
những thành tựu đáng kể. Chính vì vậy, diện tích canh tác một số cây trồng không
ngừng tăng lên, trong đó có cây lạc.
Khi tìm hiểu về các lĩnh vực như vị trí địa lý, thương mại, tôn giáo thì người
ta cho rằng cây lạc vào Việt Nam có thể là được du nhập từ Trung Quốc, Indonexia
và cũng có thể là do những người buôn bán, truyền đạo đến từ Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Hà Lan đem đến.
Hiện nay Lạc được trồng khá phổ biến ở Việt Nam và cho năng suất và hiệu
quả kinh tế cao. Lạc thích hợp với những loại đất có thành phần cơ giới nhẹ và hút
nước tốt, như đất cát pha, đất thịt nhẹ … và được trồng ở đồng bằng Bắc Bộ, Trung
Bộ, Tây Nguyên và Nam bộ. Ngoài việc tạo năng suất và hiệu quả kinh tế cao thì
cây lạc cũng là một loại cây trồng có khả năng cải tạo đất tốt (đó là nhờ sự cộng
sinh của nhóm vi khuẩn công sinh với lạc ở rễ, chúng có khả năng cố định đạm từ
nguồn N2 từ không khí làm tăng lượng đạm trong đất đồng thời nó làm tăng độ phì
10
của đất). Cây lạc cũng là một cây phân xanh có thể sử dụng trực tiếp toàn bộ rễ thân
lá của cây lạc để làm phân bón cho đất.
Ngoài ra cây lạc còn có nhiều ứng dụng trong đời sống như dùng để sản xuất
dầu thực vật, thực phẩm … trong y học vỏ lạc và lụa lạc dùng để làm thuốc …
1.1.2.2 Đặc điểm sinh thái, sinh trưởng của cây lạc
Tên khoa học là Arachis hypogaea
Giới (regnum): Plantae
Bộ (ordo): Fabales
Họ (Familia): Fabaceae
Phân họ (Subfamilia): Faboideae
Tông (Tribus): Aeschynomeneae
Chi (genus): Arachis
Loài (Species): A. hypogaea
Lạc là cây hai lá có hệ rễ cọc, thân được chia ra làm nhiều đốt, lá và hoa của
lạc được mọc ra ở những mắt của đốt. Lạc có cấu tạo lá kép và gân lá lạc theo hình
lông chim kích thước lá chét dài 1-7cm và rộng 1-3 cm. Hoa dạng hoa đậu điển hình
màu vàng có điểm gân đỏ, cuống hoa dài 2-4cm. Sau khi thụ phấn, quả phát triển
thành một dạng quả đậu dài 3-7cm. Lạc ra hoa ở trên mặt đất (hoa lạc là hoa lưỡng
tính, có nhụy và nhị trong một bông) nhưng sau khi thụ phấn thì hợp tử tạo thành lại
phát triển trong lòng đất (thường gọi là củ lạc). Củ lạc thì có cấu tạo bao gồm có 3
lớp, đó là một lớp vỏ cứng bên ngoài có bản chất là xenlulose, một lớp màng mỏng
bên trong bao quan hạt lạc có màu hổng nhạt và cuối cùng là nhân lạc. Nhân lạc có
cấu tạo chia làm 2 manh. Khi mới gieo trồng thì 2 manh này là nơi dự trữ và cung
cấp chất dinh dưỡng ban đầu cho cây lạc. Khi cây non phát triển và nảy mầm thì hai
manh phát triển thành 2 lá cứng, sau đó bị teo nhỏ đi trong quá trình phát triển của
cây. Chính giữa 2 manh có 1 đinh nhỏ là phôi, nó sẽ phát triển thành cây lạc.
Cây lạc có một đặc điểm cấu tạo nổi bật ở rễ (và đây là đặc điểm phổ biến ở
các cây thuộc bộ đậu) là khả năng cộng sinh của rễ cây lạc với một khóm vi khuẩn
cố định đạm có tên khoa học là Rhizobium vigna (hay còn gọi là vi khuẩn nốt sần)
11
nó cộng sinh và phát triển trong rễ cây lạc và tạo nên những nốt sần trên rễ cây lạc.
Và khi dùng dao cắt những nốt sần này thì ta thấy màu hồng nhạt bên trong nốt sần
đang hoạt động[3].
Ban đầu khi cây lạc mới mọc thì lúc đó nốt sần chưa được hình thành, nốt
sần được hình thành trong quá trình bộ rễ của cây lạc phát triển và Rhizobium xâm
nhập vào rễ thông qua những nhu mô nơi chóp rễ hoặc là những nhu mô hình thành
ở lông hút của rễ hay là những tế bào biểu bì bị thương. Đó là nơi tập trung nhiều
chất dinh dưỡng và những đường đơn cần thiết cho các hoạt động khởi đầu của cây
như sinh trưởng và sinh sản.
Khả năng hình thành nốt sần ở cây đậu không những phụ thuộc vào vi khuẩn
có trong đất mà còn phụ thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Về độ ẩm
40 – 80%, trong đó độ ẩm tối thích là 60 – 70%. Tuy nhiên, cũng có những trường
hợp ngoại lệ, ví dụ như cây có thể hình thành nốt sần trong điều kiện ngập nước.
Độ thoáng khí của đất cũng ảnh hưởng đến sự hình thành và chất lượng nốt
sần. Thông thường, nốt sần chỉ hình thành ở phần rễ nông, phần rễ sâu rất ít nốt sần.
Nguyên nhân là do tính hiếu khí của vi khuẩn nốt sần, thiếu oxy sẽ làm giảm cường
độ trao đổi năng lượng và khả năng xâm nhập vào rễ cây. Đối với cây, thiếu oxy
cũng làm giảm sự hình thành sắc tố leghemoglobin. Những nốt sần hữu hiệu có màu
hồng chính là màu của sắc tố này.
Nhiệt độ thích hợp nhất với hoạt động của vi khuẩn nốt sần là 240C, dưới 100C nốt sần vẫn có thể hình thành nhưng hiệu quả cố định nitơ giảm. Ở nhiệt độ 360C cây đậu phát triển tốt nhưng cường độ cố định nitơ lại kém.
Vì những đặc điểm kĩ thuật của cây lạc, cho nên cần có phương pháp tưới nước
phù hợp như tưới đều, hạt nước nhỏ, và thấm nước liên tục vào mùa khô hạn để các nốt
sần ở rễ lạc phát triển mạnh kích thích sự sinh trưởng và sinh sản của cây lạc.
1.1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển cây Lạc
Vì lý do lạc là một loại cây vùng nhiệt đới nên nhiệt độ thích hợp cho Lạc là khoảng từ 22-260C và tổng tích ôn/năm là khoảng 970000C. Lạc thích hợp với các
loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, và có độ pH từ 5,5 – 7, nhằm mục đích tạo điều
12
kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn nốt sần, và đất phải tơi xốp, thoát nước
tốt nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của củ lạc.
*Điều kiện đất đai:
-Lạc không yêu cầu khắt khe về độ phì của đất nhưng phải thỏa mãn các yêu cầu
sau của cây: Rễ phát triển mạnh cả về chiều sâu lẫn chiều ngang, đủ oxy cho vi sinh vật
nốt sần hoạt động cố định đạm, tỉa quả đâm xuống đất dễ dàng và dễ thu hoạch.
Do đặc điểm sinh lý của lạc, đất trồng lạc phải đảm bảo cao ráo, thoát nước
nhanh khi có mưa to. Thành phần cơ giới của đất trồng lạc tốt nhất là loại thịt nhẹ,
cát pha.
*Nhiệt độ:
Nhiệt độ là yếu tố ngoại cảnh chủ yếu có ảnh hưởng đến thời gian sinh
trưởng của Lạc. Nhiệt độ trung bình thích hợp cho suốt đời sống cây lạc là khoảng 25-300C, thời kì ra hoa là 24-33oC, thời kì chín là 25-280C. Tích ôn hữu hiệu của lạc 2600-48000C thay đổi tùy theo giống.
*Độ ẩm và lượng mưa:
Nước là yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất lạc. Tuy lạc
được coi là cây trồng chịu hạn, song thực ra lạc chỉ chịu hạn ở một giai đoạn nhất
định. Độ ẩm đất trong suốt thời gian sinh trưởng của Lạc yêu cầu khoảng 70-80%
độ ẩm giới hạn đồng ruộng. Yêu cầu này có cao hơn một chút ở thời kì ra hoa, kết
quả(80-85%) và giảm ở thời kì chín của hạt.
Tổng nhu cầu về nước trong suốt thời gian sinh trưởng của cây lạc từ khi
mọc đến thu hoạch (không kể thời kì nảy mẩm) là 450-700mm.
*Ánh sáng:
Lạc là cây ngắn ngày song phản ứng với quang chu kì của lạc rất yếu và đối
với nhiều trường hợp là phản ứng trung tính với quang chu kì. Số giờ nắng/ngày có
ảnh hưởng rõ rệt tới sự sinh trưởng và phát dục của lạc. Quá trình nở hoa thuận lợi
khi số giờ nắng đạt khoảng 200 giờ/ tháng.
13
1.1.2.4 Một số giá trị của cây Lạc
* Giá trị xuất khẩu
Hiện nay trên thị trường thương mại thế giới, lạc là mặt hàng nông sản xuất
khẩu đem lại kim ngạch cao cho nhiều nước . Theo nguồn sơ sở dữ liệu FAO năm
2003, trên toàn thế giới có 108 nước trồng và xuất khẩu lạc. Sản lượng hàng năm về
lạc đạt từ 26,23 triệu tấn đến 29,66 triệu tấn. Trên thế giới, hơn 2/3 tổng sản lượng
lạc được dùng làm nguyên liệu chế biến dầu ăn, 1/3 còn lại để sản xuất bánh, mứt ,
kẹo. Giá trị xuất khẩu lạc không những phụ thuộc vào chất lượng hạt mà còn phụ
thuộc vào thời điểm xuất khẩu. Từ tháng 1 đến tháng 7 là những tháng có giá trị
xuất khẩu cao.
Ở nước ta , sản lượng lạc sản xuất ra hằng năm chủ yếu dành cho việc xuất
khẩu, có năm đã xuất khẩu đến 70% sản lượng. Xuất khẩu lạc những năm qua đã
đóng góp khoảng trên 15% trong nguồn hàng xuất khẩu và đem lại nguồn thu ngoại
tệ cho nước ta với tỷ lệ lợi nhuận đạt 31,86%.
* Giá trị dinh dưỡng
Trong cây lạc, tất cả các bộ phận đều có giá trị sử dụng, từ củ lạc đến thân
cây lạc. Tuy nhiên, khi phân tích giá trị dinh dưỡng người ta thường quan tâm chủ
yếu đến nhân lạc. Theo một nghiên cứu của tác giả Hồ Huy Cường [1], thì lạc nhân
chứa một lượng lớn các chất dinh dưỡng quan trọng như:
Vitamin E (25%), chất béo (21%),đạm (14%), niacin(19%), magie (12%) và
những nguyên tố vi lượng quan trọng khác.
Cũng như nghiên cứu này, các nhà khoa học thuộc nhóm nghiên cứu còn tìm
thấy rằng, trong dầu lạc có chứa Vitamin E, cephalin và acid béo không bão hòa.
Những chất này có tác dụng làm cho lượng cholesterol trong gan phát phân giải thành
acid clolic, tăng cường chức năng bài tiết của cơ thể, giảm cholesterol, phòng ngừa
chứng xơ vữa động mạch ở người lớn tuổi và có tác dụng ngăn ngừa sự lão hóa của làn
da. Loại acid béo không bảo hòa đơn này có trong dầu ô-liu rất cao từ 70 – 75% và
trong dầu lạc là 60 – 65%. Được biết, vỏ mỏng màu hồng nhạt bao bọc bên trong hạt
lạc có tác dụng thúc đẩy sự tăng sinh máu, tăng cường sự co bóp của huyết quản, khiến
14
máu trong cơ thể lưu thông tốt, tạo vẻ đẹp hồng hào cho làn da. Nước sắc vỏ cứng
ngoài cùng của củ lạc có tác dụng hạ huyết áp và lưu thông máu.
Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy, bộ não
của con người cần có chất Lecinthin và Photpholipid để duy trì sự hoạt động bình
thường. Hai nguyên tố vi lượng này có nhiều trong hạt lạc. Ngoài việc giúp duy trì
hoạt động của não bộ, hai chất này còn có tác dụng kéo dài tuổi thọ các tế bào thần
kinh và phòng tránh tình trạng ngưng kết tiểu cầu trong cơ thể. Khảo sát thực tế cho
thấy, những người thường xuyên sử dụng lạc làm thức ăn thì tuần hoàn máu trong
cơ thể họ được lưu thông tốt, đồng thời trí nhớ được cải thiện hơn.
* Giá trị công nghiệp
Sản phẩm chính của cây lạc được dùng trong công nghiệp ép dầu. Hiện tại,
một số ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu từ lạc: công nghiệp chế biến dầu lạc
dùng trong thực phẩm và dầu lạc dùng trong công nghiệp, ngành công nghiệp sản
xuất bơ lạc, bánh kẹo, nước chấm, mì ăn liền, sữa hộp, làm nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến xà phòng, chất tẩy rửa. Ngoài ra, dầu lạc tinh luyện còn dùng trong
y học.
* Giá trị nông nghiệp
Sản phẩm phụ của lạc được sử dụng nhiều trong nông nghiệp nên đã nâng
cao giá trị về nhiều mặt cho sản xuất lạc. Sau khi ép 100 kg lạc sẽ thu được 30 – 35
kg dầu các loại, 65 – 70 kg khô dầu. Hàm lượng các chất dinh dưỡng còn lại trong
khô dầu khá cao nên có thể dùng làm thức ăn trong chăn nuôi rất tốt. Các nghiên
cứu cho thấy, việc bổ sung khô dầu trong khẩu phần thức ăn của gia súc, gia cầm
đều làm tăng nhanh trọng lượng của chúng, cũng như sản lượng trứng ở gia cầm.
Hàm lượng các chất khô dầu gồm: Lipid (7-11%), chất có bột (12-15%), cellulose
(5-8%), chất hữu cơ có đạm (41,3-50,4%), muối khoáng (3-4%), nước (10,2-
13%).[3]
15
Bảng 1.1: Tỷ lệ một số chất dinh dưỡng trong thân lá lạc và phân chuồng
Chỉ tiêu Thân lá lạc Phân chuồng
Nước 4-7 -
N (%) 0,78-1,33 0,35
0,19-0,38 0,15 P2O5
0,08 0,50 K2O
(Nguồn: Bài giảng cây lạc, Th.s Nguyễn Thị Đào, ĐHNL, Huế)
Qua bảng trên cho thấy các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng khi bón
phân bằng thân lạc có tỷ lệ lớn hơn so với bón phân chuồng. Vậy nên sau khi thu
hoạch, người nông dân thường tận dụng thân lạc để bón phân, cho gia súc ăn, hoặc
phơi khô để dự trữ dùng dần.
1.1.3 Các mô hình tưới tiêu cho cây công nghiệp ngắn ngày
Ngày nay, công nghệ tưới tiên tiến tiết kiệm nước đang được áp dụng rộng
rãi. Đây là một giải pháp hữu hiệu, tối ưu có tính đột phá cho vùng khô hạn, thiếu
nguồn nước và trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Công nghệ này được áp
dụng nhằm gia tăng chuỗi giá trị nông sản, cải thiện đời sống người dân. Tiềm năng
phát triển công nghệ tưới tiên tiến tiết kiệm nước ở nước ta còn rất lớn cả về phạm
vi và quy mô, vậy nên cần nhân rộng các mô hình tưới tiêu, ứng dụng vào đời sống
sản xuất của các nông hộ để mang lại lợi nhuận và giá trị kinh tế lớn hơn cho người
nông dân. Ở các địa phương khác nhau có những đặc tính khí hậu, thổ nhưỡng khác
nhau thì có các cách tưới nước khác nhau phù hợp với mỗi loại cây trồng.
Phương pháp 1: Tưới Bec phun:
Đây là phương pháp tưới bằng cách đưa nước từ dưới mặt đất lên tán cây qua
hệ thống máy bơm, ống dẫn nước với các vòi phun cố định, tự động xoay được với góc 3600, được đặt cao khỏi mặt đất 0,5- 1,0m, Có các cánh đập để nước phun đều
vào diện tích gốc Bec. Phương pháp này thường áp dụng tưới cho cây con hoặc các
cây trồng có chiều cao vừa phải và những cây ăn quả vào những ngày nắng nóng oi
bức (phun vào 16-18giờ chiều) để tăng ẩm độ không khí, giảm độ nóng cho quả,
cho cây, chống hiện tượng rụng quả do thời tiết khắc nghiệt. [16]
16
Ưu điểm: Khắc phục được hiện tượng thời tiết không thuận lợi (nắng nóng,
độ ẩm không khí thấp) đảm bảo năng suất, chất lượng quả và đảm bảo yêu cầu kỹ
thuật cao trong việc nhân giống cây con (ươm, giâm cây giống).
Nhược điểm: Đầu tư ban đầu tương đối lớn, nơi có điều kiện kinh tế mới áp
dụng được. Nếu tưới nhiều hoặc cánh đập của Bec không quay hay không đập liên
tục thì hạt nước phủ xuống vào một diện tích cố định lâu dài sẽ khiến mặt đất bị ghí
chặt, phá vỡ kết cấu mặt đất, chất dinh dưỡng bị rửa trôi theo dòng nước chảy trên
mặt đất.
Phương pháp 2:. Tưới nhỏ giọt:
Đây là sáng chế của người Israel và là phương pháp tưới hiện đại, cực kỳ tiết
kiệm nước tưới và có thể cho vận hành suốt ngày đêm nhưng vẫn không làm ngập
úng, ảnh hưởng đến hô hấp của bộ rễ. Thường được áp dụng đối với những vườn
cây ăn trái đặc sản có hiệu quả kinh tế cao ở những vùng thiếu nước tưới.[16]
Ưu điểm: Tiết kiệm lượng nước tưới tối đa. Đất không bị dí chặt, giữ nguyên
hiện trạng kết cấu đất, đất không bị bào mòn, phân bón không bị rửa trôi. Cung cấp
đủ lượng nước cho cây theo tỉ lệ cần thiết.
Nhược điểm: Đây là phương pháp yêu cầu đầu tư lớn nhất, khó áp dụng
trong sản xuất đại trà.
Phương pháp 3: Tưới ngầm:
Tưới ngầm là phương pháp tưới nước cho cây qua hệ thống thiết bị máy bơm
kèm theo hệ thống các ống dẫn nước đặc biệt nằm dưới lòng đất hoặc có sự chệnh
lệch mực nước của nguồn cung cấp nước.
Ưu điểm: Tiết kiệm nước. Đất không bị dí chặt, giữ nguyên hiện trạng kết
cấu đất, đất không bị bào mòn, phân bón không bị rửa trôi.
Nhược điểm: Chi phí đầu tư ban đầu lớn. Chỉ áp dụng được đối với các loại
đất có độ xốp cần thiết cho nước thấm qua dễ dàng (như các loại đất có độ xốp lớn,
đất than bùn).
17
Phương pháp 4: Tưới rãnh:
Là phương pháp tưới để nước chảy theo các rãnh được thiết kế giữa các hàng
cây. Nước được thấm dần vào đất và cung cấp cho cây trồng.
Ưu điểm: Tiết kiệm và chủ động được nước tưới cho vườn cây, lớp đất mặt
vẫn tơi xốp, không bị dí chặt, kết cấu đất vẫn giữ vững, đất không bị bào mòn, chất
dinh dưỡng không bị rửa trôi. Đây là phương pháp tưới thông dụng thường được bà
con tưới cho nhiều vườn cây ăn quả trong cả nước.
Nhược điểm: Chỉ áp dụng được với nơi có địa hình tương đối bằng phẳng
(độ dốc<50). Lãng phí một phần nước ở cuối rãnh tưới. Gặp khó khăn trong việc
vận chuyển công cụ sản xuất qua rãnh. Phải chi phí khá lớn nhân công và thời gian
cho việc cải tạo các rãnh nước.
Phương pháp 5: Tưới ngập:
Tưới ngập là phương pháp cho nước vào vườn cây một lớp nước nhất định,
trong một thời gian xác định để cung cấp nước cho cây.
Ưu điểm: Kết hợp được việc tưới nước với tiêu diệt một số loài sâu hại cư trú
trong lòng đất (dế cắn rễ cây; nhộng các loài ruồi, sâu đục hạt quả xoài và quả các
loại cây khác).
Nhược điểm: Tốn nhiều nước, chỉ áp dụng được với nơi có địa hình tương
đối bằng phẳng, thoát nước tốt. Đất bị ghí chặt, dinh dưỡng bị rửa trôi theo dòng
nước tiêu, kết cấu đất bị phá vỡ.
Phương pháp 6: Tưới phun mưa
+ Tưới phun mưa từ mặt đất lên: là cách tưới bằng loại dây phun đặc trưng
có sẵn lỗ để nước thoát ra ngoài. Dây phun được đặt giữa 2 luống cây và nước thoát
ra thành tia phun sương hoặc phun mù hướng ra hai phía luống cây phủ đều lên các
tán cây.
+ Tưới phun từ trên xuống: Sử dụng máy bơm nước cột áp cao kèm theo
ống dẫn và mũi phun tạo mưa. Dây phun được đặt phía trên mặt ruộng Đây là
phương pháp tưới hiện đại có tác dụng nhiều mặt cả về tạo độ ẩm cho đất và làm
mát cho cây, kích thích sinh trưởng cho cây và đặc biệt có thể tiết kiệm được 30-
50% khối lượng nước so với phương pháp tưới tràn theo rãnh.
18
Mỗi phương pháp tưới nước đều có ưu nhược điểm riêng, và tùy vào điều
kiện kinh tế, trình độ kĩ thuật mà có mỗi phương pháp phù hợp áp dụng cho vùng
trồng trọt.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Trong các loại cây trồng làm thực phẩm cho con người, lạc có vị trí quan trọng.
Mặc dù lạc đã có từ lâu đời, nhưng tầm quan trọng kinh tế của lạc chỉ mới được xác
định trong khoảng 125 năm trở lại đây. Khi công nghiệp ép dầu lạc được phát triển ở
Pháp (xưởng ép dầu ở Max xây) bắt đầu nhập cảng lạc từ Tây Phi để ép dầu, mở đầu
thời kỳ dùng lạc đầu tiên trên quy mô lớn. Công nghiệp ép dầu được xây dựng với tốc
độ nhanh ở các nước Châu Âu và trên toàn thế giới.
Trong các cây bộ đậu của thế giới, lạc có diện tích và sản lượng đứng thứ 2
sau cây đậu tương. Theo số liệu của FAOSTAT (2014)[21], tình hình sản xuất lạc
trên thế giới trong 3 năm gần đây (2011 – 2013) ở bảng như sau:
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất, sản lượng lạc trên thế giới (2010 – 2012)
TT Tên nước Diện tích (Triệu ha) Năng suất Sản lượng (Triệu
(Tấn/ha) tấn)
2011 2012 2013 2011 2012 2013 2011 2012 2013
5,94 4,39 4,74 1,39 1,65 1,59 8,26 6.93 7,58 1 Ấn Độ
4,55 4,67 4.84 3,454 3,45 3.45 15,71 16,11 16.7 2 Trung Quốc
2,79 2,34 2,44 1,36 1,26 1,27 3,79 2.96 3,1 3 Nigeria
7 0,62 0,54 0,98 1,256 1,28 1,22 0,78 0,7 1,2 Indonexia
0,23 0,22 0,21 2,1 2,09 2,14 0,49 0,46 0,46 10 Việt Nam
25,3 21,78 24,7 1,66 1,77 1,62 41,89 38,61 40,1 11 Thế giới
(Nguồn: FAOSTAT,2014)
Diện tích trồng lạc trên thế giới năm 2013 đạt 24,7 Triệu ha, có trên 112
nước trồng lạc. Trong đó diện tích trồng lạc ở các nước Châu Á chiếm 47,84%,
Châu Phi 47,83%, Châu Mĩ 4,2%, Châu Âu 0,45% so với tổng diện tích. Các nước
có diện tích lớn gồm 10 nước, trong đó Ấn Độ có diện tích lớn nhất đạt 474 000 ha.
19
Diện tích trồng lạc trên thế giới trong 3 năm 2011- 2013 biến động từ 25,3 triệu ha
đến 24,7 triệu ha.
Năng suất lạc bình quân trên thế giới năm 2011 là 1,66 tấn/ha đến năm 2013
là 1.62 tấn/ha.Qua ba năm, năng suất lạc trên thế giới hầu như không tăng, điều này
chứng tỏ trong giai đoạn gần đây không có biến động nào lớn trong sản xuất nông
nghiệp làm thay đổi năng suất lạc. Năng suất lạc của các nước trên thế giới chênh
lệch nhau khá lớn và không ổn định qua các năm. Năng suất bình quân năm 2013 ,
đứng đầu là Trung Quốc, với 3,45 tấn/ha.
Sản lượng lạc bình quân thế giới năm 2011 đạt 41,89 triệu tấn đến năm
2013 giảm xuống còn 40,1 triệu tấn, giảm 1,79 triệu tấn so với năm 2011. Các
nước có sản lượng lớn đứng đầu là Trung Quốc đạt từ 15,71triệu tấn vào năm
2010, đến năm 2013 là 16,7 triệu tấn, tăng 0,99 triệu tấn so với năm 2011. Ấn
Độ đạt 8,26 triệu tấn vào năm 2011 và năm 2013 đạt 7,58 triệu tấn, giảm 0,68
triệu tấn. Hầu hết các nước đều có sản lượng giảm, không phải do năng suất
giảm mà do diện tích gieo trồng lạc giảm. Trung Quốc là nước có sản lượng lạc
lớn và luốn chiếm vị trí đứng đầu trên thế giới 16,7 triệu tấn trong khi đó sản
lượng lạc của Việt Nam chỉ đạt 0,46 triệu tấn.
Theo nhận định của các nhà khoa học, tiềm năng nâng cao năng suất và sản
lượng Lạc ở các nước còn rất lớn cần được khai thác. Tại Viện nghiên cứu cây trồng
vùng nhiệt đới bán khô hạn quốc tế (ICRISAT) đã thông báo sự khác biệt giữa năng
suất lạc trong trạm nghiên cứu và năng suất trên đồng ruộng của người nông dân là
từ 4-5 tấn/ha. Trong khi các loại cây như lúa mì và lúa nước đã gần đạt tới năng suất
trần và có xu hướng giảm dần. Ở nhiều nước trên thế giới thì năng suất lạc trong sản
xuất vẫn còn khác xa năng xuất tiềm tàng. Thực tế này đã gợi mở khả năng nâng
cao năng suất và hiệu quả sản xuất lạc trên cơ sở áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ
thuật vào sản xuất để khai thác tiềm năng. Chiến lược này đã được áp dụng thành
công ở nhiều nước và đã trở thành bài học kinh nghiệm trong phát triển sản xuất lạc
của các nước trên thế giới [21].
20
1.2.2 Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, sản lượng lạc năm 2013 của
Việt Nam đã tăng 5% đạt 493,16 nghìn tấn. Sự gia tăng này có được nhờ việc nâng
cao năng suất, tăng 6,5% so với cùng kì năm ngoái mặc dù diện tích canh tác có
giảm 1,4% so với năm 2012.
Tới năm 2014, tổ chức USDA (Bộ nông nghiệp Mỹ) dự kiến diện tích gieo
trồng sẽ tăng lên 230 nghìn héc-ta và sản lượng cũng tăng 7,8% ở mức 530 nghìn
tấn. Điều kiện thời tiết thuận lợi và những cải thiện về giống sẽ góp phần thúc đẩy
năng suất và sản lượng lạc. Năm 2015, sản lượng lạc được dự báo tăng lên 550
nghìn tấn cùng với sự mở rộng về diện tích gieo trồng. Khu vực trồng lạc chủ yếu
tập trung ở bờ biển Bắc Trung Bộ, khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ, và Duyên
hải Nam Trung Bộ [18]
Bảng 1.3: Sản lượng lạc của Việt Nam
Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014* 2015*
231,4 223,8 219,2 216,3 230 240 Diện tích trồng trọt (nghìn ha)
2,11 2,09 2,14 2,28 2,3 2,29 Năng suất (tấn/ha)
488,25 467,74 469,08 493,16 530 550 Sản lượng (nghìn tấn)
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, *số liệu dự báo của USDA
Theo thống kê của Bộ NN& PTNT [17], hiện nay 5 vùng sinh thái có diện tích
trồng lạc lớn nhất của Việt Nam là đồng bằng Sông Hồng (30500ha), Đông Bắc
(40.350 ha), Bắc Trung bộ (75.300 ha), Duyên hải Nam Trung bộ (33.100 ha) và Đông
Nam bộ (29.575 ha). Diện tích còn lại phân bố nhiều nơi trong cả nước và cây lạc được
trồng ở 62/64 tỉnh thành, chỉ có hai 2 tỉnh không trồng lạc là Hậu Giang và Cà Mau.
Trong đó 10 tỉnh có diện tích trồng lạc lớn là Nghệ An (23.675 ha), Tây Ninh (21.400
ha), Hà Tĩnh (20.325 ha), Thanh Hóa (16.175 ha), Bắc Giang (11700 ha), Quảng Nam
(10.800 ha), Đắk Lắk (9.425 ha), Bình Định (10200 ha), Đắk Nông (8.125 ha) và Long
An (8100 ha). Tuy nhiên, trong giai đoạn này năng suất vẫn tiếp tục có xu hướng tăng
21
lên và cao hơn so với năng suất bình quân của thế giới 0,5 – 0,6 tấn/ha (năng suất lạc
của thế giới năm 2010 đạt 1,66 tấn/ha). Năng suất lạc giữa các tỉnh/thành trong cả nước
có sự chênh lệch đáng kể. Năng suất bình quân giai đoạn 2010 - 2013 của tỉnh Ninh
Thuận là 0,71 tấn/ha đạt thấp nhất và của Trà Vinh là 4,08 tấn/ha đạt cao nhất. Các tỉnh
có năng suất lạc cao là Trà Vinh (4,08 tấn/ha), Nam Định (3,6 tấn/ha), Tây Ninh (3,28
tấn/ha) và Hưng Yên (3,1 tấn/ha). Đặc biệt là Tây Ninh, tỉnh có diện tích trồng lạc lớn
thứ 2 và năng suất đứng thứ 3 trong cả nước.
1.2.3 Tình hình sản xuất lạc ở Bình Định
Bảng 1.4: Diện tích, năng suất , sản lượng lạc ở tỉnh Bình Định (2008-2012)
Chỉ tiêu Năm
2008 2009 2010 2011 2012 2013
9,2 8,9 8,3 8,8 9,0 10,2 Diện tích (nghìn ha)
2,545 2,674 2,795 2,772 2,855 2,941 Năng suất (Tấn/ha)
23,4 23,8 23,2 24,4 25,7 30,0 Sản lượng (nghìn tấn)
(Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Bình Định,2013)
Qua số liệu ở bảng trên cho thấy diện tích, năng suất và sản lượng lạc không
ngừng tăng lên từ năng suất chỉ đạt 2,54 – 2,67 tấn/ha vào những năm 2008-2009,
đến những năm 2012 - 2013 năng suất tăng lên 2,8-2,9 tấn/ha. Diện tích gieo trồng
lạc diễn biến có xu hướng ngày càng tăng do là đối tượng cây trồng truyền thống, có
thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, thị trường tiêu thụ lớn, giá cả khá ổn định,
mặt khác thời gian qua nhờ công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật gieo trồng lạc
được quan tâm nên sản xuất lạc ngày càng có hiệu quả. Việc mở rộng diện tích
trồng lạc nhờ trồng luân canh, xen canh, gối vụ với các đối tượng cây trồng khác
như Ngô, Sắn, Xoài thời kỳ kiến thiết cơ bản... được người dân thực hiện khá tốt.
Ngoài ra, lạc là đối tượng cây trồng cạn được tỉnh quan tâm chú trọng đầu tư phát
triển nên trong những năm qua hàng năm tỉnh trích một phần ngân sách đáng kể cho
trợ giá giống lạc tiến bộ kỹ thuật và vôi bón cho lạc nên tạo điều kiện cho người dân
mở rộng diện tích và tăng đầu tư thâm canh.
22
Chương 2. Đánh giá Hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc theo mô
hình tưới tiêu của nông hộ ở huyện Phú Cát,
tỉnh Bình Định
2.1. Tình hình cơ bản của địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1 Vị trí địa lý
Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài
110 km theo hướng Bắc - Nam, diện tích tự nhiên: 6.025 km², diện tích vùng lãnh
hải: 36.000 km². Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, điểm cực Bắc có tọa độ: 14°42'10
Bắc, 108°55'4 Đông. Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, điểm cực Nam có tọa
độ: 13°39'10 Bắc, 108°54'00 Đông. Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, điểm cực Tây có tọa
độ: 14°27' Bắc, 108°27' Đông. Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134 km,
điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố Qui Nhơn, có tọa
độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông. Bình Định được đánh giá là có vị trí chiến lược
hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên
và vùng nam Lào, đông bắc Campuchia.
Phù Cát là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định, có diện tích tự nhiên của Phù Cát là 680,49 km2, xếp thứ 6/11 huyện thành phố trong tỉnh, , nằm trên tọa độ 13054’ – 14032’ vĩ Bắc và 108 055’ – 109 005’ kinh Đông.
- Phía Bắc giáp huyện Phù Mỹ
- Phía Tây giáp Vĩnh Thạnh và Tây Sơn.
- Phía Nam giáp An Nhơn và Tuy Phước
- Phía Đông giáp biển đông.
Phù Cát cách TP. Quy Nhơn 35km về phía Bắc. Dân số 191 063 người (tính đến năm 2013); trong đó nữ chiếm 97.000 người; mật độ dân số 279 người/Km2.
Huyện có 18 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 17 xã và 1 thị trấn. Phù Cát có lợi
23
thế nhiều mặt để phát triển kinh tế. Đó là nền nông nghiệp tương đối đa dạng; nông
lâm, thủy hải sản, cây trồng vật nuôi được phân bố thích nghi với sinh thái miền
núi, trung du, đồng bằng ven biển. Huyện có Quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt
chạy qua. Có 4 tỉnh lộ nối trung tâm huyện đến các xã và hệ thống giao thông nông
thôn được mở rộng đều khắp đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của người dân nông thôn. Phù Cát có cửa biển Đề Gi tạo thuận lợi cho giao thông
đường thủy. Đặc biệt, sân bay quốc gia nằm trên địa bàn huyện Phù Cát là điều kiện
tốt cho giao lưu trong nước và quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế trong tương lai.
2.1.1.2 Đặc điểm địa hình và nguồn nước:
Địa hình Phù Cát đa dạng và phức tạp, vì trung tâm huyện có dãy núi Bà
chia cắt huyện thành 4 tiểu vùng sinh thái. Phù Cát có 2 sông chính: Sông La Tinh
dài 54 km, diện tích lưu vực 80 km2, lưu vực bình quân 1,44m3/s, tổng dòng chảy
trong năm 45,6 triệu m3. Sông Địa Lưu (Sông Côn) dài 28 km, diện tích lưu vực
2.233 km2, lưu lượng bình quân 68,8m3/s, lưu lượng mưa tháng khô
kiệt 12,6m3/s. Chế độ thủy triều: mực nước thủy triều tương đối ổn định, tuy nhiên
vẫn gây nhiễm mặn 5 xã ven biển.
Huyện gồm có đồng bằng chuyên trồng lúa nước, tập trung ở các xã ven
sông; vùng núi thấp – gò đồi trồng các loại cây trồng cạn, cây lâm nghiệp; ngoài ra
còn có các vùng đầm ven biển thuộc Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành.. Về núi
non, có các dãy núi Trường Sơn đâm xuống nửa phần phía Tây huyện và dãy núi Bà
vươn ra sát biển. Huyện Phù Cát có quỹ đất tự nhiên khá rộng, nhưng diện tích
trồng trọt chỉ chiếm 19,8% trong khi tỷ lệ này ở các huyện An Nhơn 50%, Tuy
Phước 51%. Đất gò ở Phù Cát có tới 38.532 ha chiếm 57,9% quỹ đất tự nhiên.
Vùng bán sơn địa này gồm các xã phía tây Quốc lộ 1A cùng cả dải đất ven 2 phía
núi Bà từ Cát Hanh và Cát Trinh xuống sát biển. Đất rừng Phù Cát tuy rộng nhưng
nghèo kiệt …
Do địa hình bằng phẳng, đất đai chủ yếu cát pha, lượng mưa tương đối ít
thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, lũ quét vào mùa mưa… thời tiết khá khắc
nghiệt nên ảnh hưởng lớn đến sẳn xuất và đời sống của nhân dân trong huyện.
24
2.1.1.3 Thổ nhưỡng:
Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỉnh Bình Định [20], huyện Phù
Cát có những nhóm đất chính sau:
- Nhóm đất cát: Đây là nhóm đất có thành phần cơ giới thô hơn thịt pha cát ở
độ sâu ít nhất 0-100cm, có ít hơn 35% các mảnh vỡ của đá ở tất cả các tầng đất 0-
100cm, không mang tính chất phù sa hay đá bọt và không có tầng chẩn đoán nào
khác ngoài tầng A sáng màu và tầng tại chỗ E. Nhóm đất cát trong tỉnh được hình
thành ven biển, ven các sông chính do sự bồi lắng chủ yếu từ sản phẩm thô (granit)
của dải Trường Sơn Nam với sự hoạt động của các hệ thống sông và biển.
-Nhóm đất mặn: Đất mặn hình thành từ những sản phẩm phù sa sông, biển
được lắng đọng trong môi trường nước biển.
+ Đất mặn sú vẹt đước (Gleyi Salic Fluvisols): Hiện nay trên đất này, dưới
những thảm rừng bảo vệ vùng biển, chắn sóng, chắn gió có những mô hình sử dụng
kết hợp ngư lâm dưới các dạng:
Nuôi tôm chuyên canh có phòng hộ của cây rừng ngập mặn, trên đất trũng
bùn mềm. Tôm và rừng trên dạng đất thấp bùn chặt. Trồng rừng đước kết hợp nuôi
tôm; Rừng đước, sú, vẹt, cua...
Rừng đăng, trang, vẹt bảo vệ bờ biển lắng đọng phù sa, phát triển thủy sản
ven bờ.
Để sử dụng có hiệu quả cao và bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, cần giữ
thảm rừng, sử dụng kết hợp dưới rừng, phát triển đất trồng trọt.
+ Đất mặn nhiều (Mn) Hapli Salic Fluvisols (FLs-h): Đất mặn nhiều hiện
được trồng 1 vụ lúa hoặc nơi được rửa mặn đã trồng 2 vụ lúa, 1 vụ rau, màu. Năng
suất cây trồng trung bình đến thấp. Bảo vệ vùng đất mặn để sử dụng đa dạng trồng
lúa, nuôi trồng thủy sản là giải pháp có hiệu quả kinh tế và sinh thái.
+ Đất mặn trung bình và ít (M) Molli Salic Fluvisols (FLs-m): Đất mặn trung
bình và ít ở Bình Định có phản ứng chua vừa đến ít chua (pHKCl = 4,0 - 5,2). Tổng
cation kiềm trao đổi trong đất thấp. Tổng số muối tan dao động từ 0,20 - 0,30%.
25
- Nhóm đất phèn: Đất phèn được hình thành do sản phẩm bồi tụ phù sa với
vật liệu sinh phèn (xác thực vật chứa lưu hùynh), phát triển mạnh ở môi trường đầm
mặn, khó thoát nước. Đất phèn được xác định do sự có mặt trong phẫu diện đất 2
loại tầng chẩn đoán chính là tầng sinh phèn và tầng phèn.
- Nhóm đất phù sa: Nhóm đất phù sa mang đặc tính xếp lớp (Fluvic
properties). Đất phù sa không có tầng chẩn đoán nào khác ngoài các tầng A sáng
màu (Ochric), tơi mềm (Mollic), tối màu (Umbric) hay tầng H tích hữu cơ (Histic).
Đất phù sa ở Phù Cát hình thành do sự bồi đắp của các sông chính. Nhóm đất
này phân hoá theo mẫu chất, điều kiện hình thành và hệ thống sử dụng.
- Đất gờ lây( Gleysols): Đất gờ lây hình thành từ các vật liệu không gắn kết,
từ các vật liệu có thành phần cơ giới thô và trầm tích phù sa có các đặc tính phù sa.
Chúng biểu hiện đặc tính gờ lây mạnh ở độ sâu 0-50cm. Đất hình thành ở những nơi
thấp trũng ứ đọng nước và nơi có mực nước ngầm gần mặt đất.
- Nhóm đất xám (Acrisols): Đất có tầng B tích sét với khả năng trao đổi
cation dưới 24 me/ 100g sét và có độ no bazơ dưới 50%, tối thiểu là ở một phần của
tầng B của lớp đất 0 - 125 cm, không có tầng E nằm đột ngột ngay ở trên một tầng
có tính thấm chậm.
Hầu hết đất xám bạc màu, phần lớn đất đỏ vàng phát triển trên các đá mẹ
khác nhau và một phần đất phù sa cổ đạt tiêu chuẩn của đất chua, độ no bazơ thấp,
hoạt tính thấp (Acrisols) đều nằm vào nhóm đất này.
Đất xám chia ra các đơn vị: xám điển hình, xám gờ lây, xám loang lổ, xám
feralit, xám kết von và xám nhiều đá.
2.1.1.4 Điều kiện khí hậu:
Phù Cát mang tính khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt:
mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 hằng năm. Có
nhiệt độ không khí cao, nhiệt độ trung bình năm 26,7 nên thuận lợi cho các loại cây
trồng phát triển tốt.
-Lượng mưa: 725mm/năm. Lượng mưa phân bố không đều giữa các tháng trong
năm. Mưa lớn tập trung vào tháng 9- tháng 12, chiếm 70-75% lượng mưa cả năm.
26
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1 Thực trạng phát triển kinh tế huyện
Trong những năm vừa qua, kinh tế - xã hội huyện Phù Cát có những thay
đổi, điều đó làm cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch đáng kể.
Về trồng trọt, Huyện Phù Cát đã thực hiện nhiều biện pháp tăng năng lực
tưới tiêu chủ động; đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng các tiến bộ
KHKT vào sản xuất. Nhiều giống lúa, bắp, đậu phụng mới có năng suất cao, thích
hợp với điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết được đưa vào khảo nghiệm. Các biện pháp
phòng trừ dịch hại tổng hợp, biện pháp canh tác mới đã được áp dụng rộng khắp và
mang lại hiệu quả thiết thực. Mức độ cơ giới hóa trong khâu làm đất, thu hoạch hiện
nay khoảng 99%. 10 cánh đồng mẫu lớn với diện tích 463 ha được triển khai thực
hiện ở 10 xã, đem lại lợi nhuận cao hơn 1,4 lần với so ruộng đối chứng. Nhờ đó, giá
trị sản xuất đạt 104,4 triệu đồng/ha/năm.
Ngành chăn nuôi phát triển theo hướng tập trung, thâm canh, cơ cấu ngành chăn
nuôi trong tổng giá trị ngành nông nghiệp tăng từ 34,3% năm 2010 lên 38,3% năm
2013. Ngành thủy sản phát triển cả về nuôi trồng và đánh bắt. Toàn huyện hiện có
1.200 tàu cá, tổng công suất trên 90.000 CV. Diện tích nuôi trồng thủy sản hàng năm
635 ha, tăng 64 ha so với năm 2010. Công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ và kinh doanh
rừng đạt khá, tỉ lệ che phủ rừng từ 31,2% năm 2010 tăng lên 34% năm 2013 [10]
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện giai đoạn 2011- 2013 là
13%. Trong cơ cấu kinh tế, tỉ trọng nông, lâm, thủy sản chiếm 35,3%; công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ 64,7%. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn được đầu tư xây dựng, 100% số thôn có điện lưới, 100% số hộ sử
dụng điện, gần 86% số hộ sử dụng nước sạch. Tỉ lệ hộ nghèo giảm hàng năm 2%.
Thu nhập bình quân toàn huyện năm 2013 ước đạt 24,2 triệu đồng/người, tăng 8,3
triệu đồng so với năm 2010.
Ngành thủy sản phát triển cả về nuôi trồng và đánh bắt; tổng số tàu thuyền
toàn huyện là 1.200 chiếc, với công suất trên 90.000 CV; diện tích nuôi trồng thủy
sản đạt 635ha, tăng 64 ha so với năm 2010, trong đó diện tích nuôi tôm sú ổn định
27
70 ha, năng suất bình quân đạt 3,3 tấn/ha/vụ. Các nguồn lợi thủy sản từng bước
được quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả hơn.
Công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ và kinh doanh nghề rừng phát triển khá; tỉ
lệ độ che phủ rừng từ 31,2% năm 2010 tăng lên 34% năm 2013. Phong trào toàn
dân chung sức xây dựng nông thôn mới có sự chuyển biến, nhất là phong trào nhân
dân hiến đất mở đường giao thông nông thôn. Để tiếp tục thúc đẩy phát triển nền
nông nghiệp toàn diện, bền vững, cần tích cực đầu tư có chiều sâu gắn với giải
quyết các vấn đề nông dân, nông thôn; theo Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị
Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. [10]
2.1.2.2 Tình hình sử dụng đất đai huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định
Huyện Phù Cát là huyện nông nghiệp của tỉnh Bình Định nên huyện rất chú
trọng đến việc đầu tư về “Nông nghiệp, nông thôn, nông dân”, phát triển ổn định và
toàn diện. Do vậy, nông nghiệp và kinh tế nông thôn đang có những chuyển biến
tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Huyện đang chú trọng đầu tư
các “cánh đồng mẫu lớn” khiến cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng tăng.
Huyện xây dựng 10 cánh đồng mẫu lớn với diện tích 463 ha ở 10 xã, các cánh đồng
mẫu lớn đã đem lại lợi nhuận cao hơn 1,4 lần so ruộng đối chứng.
28
Bảng 2.1: Tình hình đất đai trên địa bàn huyện Phù Cát
(ĐVT: Ha)
So sánh 2013/2011 Chỉ tiêu 2011 2012 2013 (+/-) %
Tổng diện tích 68048,83 68048.82 68048,83
I. Đất sản xuất nông nghiệp 19728,3 38722,2 44 494,01 24765.71 55.66
1.Đất trồng cây hằng năm 10987 13 234,1 14 346,6 3449,6 24,044
2.Đất trồng cây lâu năm 1561,45 2435,6 5 333,45 3772 70,723
3. Đất nuôi trồng thủy sản 112,21 114,87 286,46 174,25 60,82
4. Đất làm muối 35,88 59,87 64,94 29,06 44,74
5. Đất nông nghiệp khác 99.24 96,45 104,27 5,03 4,82
II. Đất lâm nghiệp 24349,38 17158,68 24358,29 8.91 0.03
III. Đất chuyên dùng 3704,77 1105,57 3776,58 71.81 1.90
IV. Đất ở 1161,72 3422,53 1198,95 37.23 3.10
V. Đất chưa sử dụng 19014,8 16538.81 14068,75 -4946,05 -35,16
(Nguồn: Niên giám thống kê Huyện Phú Cát)
Do những chính sách khuyến khích phát triển nông thôn của huyện mà thời
gian vừa qua diện tích đất sản xuất nông nghiệp tăng lên với tốc độ nhanh tăng
55,66% so với năm 2011. Diện tích đất chưa sử dụng ngày càng giảm, từ 2011-2013
diện tích đất chưa sử dụng giảm 4.946,05 ha, giảm 35,16% so với năm 2011. Nhờ
sự nỗ lực và có nhiều chính sách khuyến khích mà trong thời gian qua những diện
tích đất chưa sử dụng này được đưa vào sử dụng với nhiều mục đích khác nhau.
Dây là dấu hiệu đáng mừng cho chính sách quy hoạch và phát triển của huyện trong
năm tới.
Diện tích đất Lâm nghiệp năm 2013 tăng 8,91 ha, tăng 0,03% so với năm
2011 vì trong thời gian này Huyện thực hiện nhiều dự án trồng rừng, khuyến
khích nông dân trồng Bạch đàn phù hợp với điều kiện sinh thái và thổ nhưỡng tại
địa phương.
29
Nhìn chung, tình hình sử dụng đất của huyện trong giai đoạn 2011-2013 có
sự biến động. Diện tích đất nông nghiệp tăng lên nhiều đáng lể làm thay đổi đời
sống của bà con nông dân và bộ mặt kinh tế của huyện có những thay đổi đáng kể.
Điều này chứng tỏ chính quyền địa phương rất quan tâm đến đời sống của bà con
nông dân, khuyến khích các nông hộ phát triển nuôi trồng và tham gia nông nghiệp
với quy mô lớn, có quy hoạch và phương pháp trồng hiện đại mang lại năng suất
cao cho hộ nông dân.
2.1.2.3 Tình hình dân số và lao động của huyện
Lao động là một trong các yếu tố quan trong quyết định hiệu quả sản xuất
nông nghiệp. Đây là một nhân tố đầu vào ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất
và sử dụng các yếu tố đầu vào khác.
Theo số liệu điều tra của phòng Thống kê huyện Phù Cát, năm 2013 tổng dân
số cả huyện là 191 063 người, với mật độ trung bình là 280,8 người/km2.
Bảng 2.2: Tình hình dân số và lao động của huyện Phù Cát giai đoạn 2011-2013
Chỉ tiêu 2011 2013 2013/2011
Người % Người % +/- %
189407 100 191063 100 1656 0.87 1.Tổng dân số
1.1 Phân theo giới tính
-Nam 92665 93483 48.93 818 0.88 48.9
- Nữ 96742 97580 51.07 838 0.86 51.1
1.2 Phân theo khu vực
-Thành thị 11066 11157 5.839 91 0.82 5.81
-Nông thôn 178341 179906 94.16 1565 0.87 94.2
21862 24353 100 2491 10.2 100 2.Lao động
14.3 - Lao động nông nghiệp 15345 17906 92.52 2561 70.2
- LĐ CN 5624 0.09 5629 29.09 5 25.7
- LĐ DV 664 538 2.78 -126 -23.4 3.04
- LĐ Khác 229 280 1.447 51 18.2 1.05
(Nguồn: Niên giám thống kê Huyện Phù Cát,2013)
30
Từ bảng số liệu trên ta thấy trong giai đoạn 2011-2013 dân số tăng lên với
mức độ vừa phải. Năm 2013 dân số tăng lên1656 người, tương ứng với 0,87% so
với năm 2011. Xét về giới tính thì giới tính nữ có xu hướng nhiều hơn giới tính
Nam, dân số là nữ là 97 580 người trong khi đó dân số nam là 93 483 người. Dân
số nam ít hơn dân số nữ 4.177 người, điều này tạo ra áp lực việc làm, lao động cũng
như các vấn đề xã hội trong tương lai gần của huyện. Dân số là nam hầu hết đổ xô
vào thành phố kiếm việc làm hoặc di cư sang vùng khác, còn lao động nữ chủ yếu là
người lớn tuổi và trẻ em thì ở lại quê hương, làm nông hoặc các ngành nghề dịch vụ
khác khiến cho tỉ lệ nam nữ trong tổng số dân chênh lệch đáng kể.
Tỉ lệ dân thành thị tăng lên không đáng kể, năm 2011 tỉ lệ dân số thành thị là
5,81%, tăng lên mức 5,839% ở năm 2013. Mức tăng tuyệt đối là 91 người, tương
ứng với mức tăng 0,92 so với năm 2011.
Cùng với sự gia tăng dân số kéo theo tổng số lao động trong huyện cũng tăng
lên đáng kể. Năm 2011, tổng lao động trong toàn huyện là 21862 người thì đến năm
2013 là 23353 người, tức là tăng 2491 lao động, tương ứng với mức tăng 10,2% so
với năm 2011. Xét về cơ cấu lao động thì lao động nông nghiệp trong thời gian vừa
qua tăng lên do những chính sách khuyến khích của chính quyền địa phương khi
xây dựng các “Cánh đồng mẫu lớn” và áp dụng các phương pháp khoa học vào
trồng trọt và chăn nuôi để cải thiện đời sống cho bà con nông dân.
Nói chung, chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng trên là hợp lý với
tiến trình và chính sách của địa phương khi đầu tư chính cho nông nghiệp, phát triển
nông nghiệp và khuyến khích bà con nông dân làm giàu từ chính cây trồng vật nuôi
tại địa phương.
2.1.3 Đánh giá chung về đặc điểm của Huyện Phù Cát tỉnh Bình Định
2.1.3.1. Những thuận lợi
- Phù Cát hội tụ nhiều điều kiện để phát triển. Trước hết là phát triển nền sản
xuất nông nghiệp đa dạng từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác thủy – hải
sản, trồng rừng; phát triển sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp với mặt
bằng rộng rãi, nguyên vật liệu phong phú; phát triển về thương mại, du lịch, các loại
31
dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp, hệ thống giao thông thuận tiện; phát triển mạnh
về nguồn nhân lực vì nơi đây sản sinh ra nhiều người học hành giỏi giang, thành
đạt, nổi tiếng. Bên cạnh đó, tài nguyên đất đai thổ nhưỡng của huyện rất đa dạng,
phong phú với đầy đủ các loại hình, nhóm đất, đây là tiềm năng hình thành các
vùng trọng điểm sản xuất: cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, cây ăn quả, phát
- Hệ thống giao thông Phù Cát đa dạng, rải khắp toàn huyện, bao gồm:
triển trồng rừng kinh tế.
đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Về đường bộ, có Quốc lộ 1
đi ngang qua trung tâm huyện; các tuyến đường Tây tỉnh, tuyến ven biển ĐT 639,
các tuyến ĐT 633, 634 và 635 nối thông các xã từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang
Đông, kết nối hệ thống đường liên xã, liên thôn. Tuyến đường sắt với 2 ga chính là
ga Phù Cát và Khánh Phước. Đường hàng hải, với cảng biển neo đậu tàu thuyền Đề
Gi, đây chính là nơi giao thương trong và ngoài nước của huyện. Đường hàng
không có sân bay Phù Cát, cách huyện lỵ 6 km, là một trong những sân bay lớn của
cả nước với Cảng Hàng không dân dụng phục vụ các lượt khách đến và đi.
- Ngoài trừ 3 xã Cát Tiên, Cát Chánh, Cát Thăng không có diện tích trồng lạc
thì hầu hết tất cả các xã của huyện Phù Cát đều có diện tích trồng lạc rộng lớn và
đồng cỏ để phát triển chăn nuôi đàn gia súc.
- Nguồn nhân lực dồi dào là lực lượng lao động có sẵn để khai thác tiềm
năng nông lâm nghiệp và các ngành khác.
Với những tiềm năng đó huyện Phù Cát có điều kiện cơ sở để phát triển cây lạc với
hiệu quả cao theo hướng sản xuất hàng hóa.
2.1.3.2. Những khó khăn, thách thức cho sự phát triển
- Hạn chế khách quan: Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, mùa khô nóng và hạn,
mùa mưa hay có bão lũ. Đất cát chiếm toàn bộ diện tích ảnh hưởng nhiều trồng trọt
và chăn nuôi.
- Hạn chế chủ quan: Hệ thống cơ sở hạ tầng dù được quan tâm đầu tư nhưng
vẫn còn thiếu nhiều về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát
triển kinh tế huyện. Hệ thống giao thông nội đồng, thủy lợi chưa được phát triển.
32
- Công nghiệp chế biến ở địa phương chưa được đầu tư phát triển. Sản phẩm
của người dân chủ yếu được thu mua đưa đi các thị trường khác để chế biến và tiêu
thụ. Điều này ảnh hưởng lớn đến giá đầu ra cũng như lợi ích của người nông dân.
- Các thành tựu khoa học kĩ thuật chưa được tiếp thu và sử dụng có hiệu quả
do chi phí cao và trình độ dân trí còn hạn chế. Do đó, năng suất của một số cây
trồng chính, trong đó có lạc, vẫn còn ở mức thấp so với tiềm năng.
2.2 Thực trạng kết quả sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ
trên địa bàn Huyện Phú Cát tỉnh Bình Định
2.2.1. Tình hình sản xuất Lạc trên địa bàn huyện Phú Cát
Huyện Phù Cát là huyện nông nghiệp của tỉnh Bình Định có thu nhập từ
nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của địa phương. Trong những
năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương mà nền kinh tế
trên địa bàn huyện đã những những chuyển biến rất khởi sắc, tình hình sản xuất
nông nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao, cơ cấu cây trồng, vật nuôi đang có sự
chuyển biến tích cực, việc tiếp thu tiến bộ khoa học – kĩ thuật vào sản xuất nông
nghiệp đã được thực hiện có hiệu quả hơn trước. Kinh tế nông nghiệp nông thôn
đang từng bước phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Hiện nay, trong cơ
cấu sản xuất nông nghiệp thì ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao, chủ yếu với
các loại cây trồng: Lúa, Lạc, Ngô, Mè, Dưa hấu…
Bảng 2.3: Diện tích năng suất sản lượng một số cây hằng năm
Chỉ tiêu Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
16433 59,1 96855 Lúa
3700 34,5 12765 Lạc
2552 285 68400 Sắn
800 60,6 4706 Ngô
452 9 4068 Mè
(Nguồn: Báo cáo tổng kết nông nghiệp Huyện Phù Cát,2013)
Từ bảng số liệu trên ta thấy rằng dù kinh tế nông nghiệp ở huyện có sự
chuyển dịch tích cực từ canh tác lúa sang cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao
33
hơn, song lúa nước vẫn là cây trồng được canh tác chủ yếu ở huyện, với diện tích
canh tác cao nhất là 16.433 ha, ứng với sản lượng đạt được là 96.855 tấn; tiếp theo
là Lạc, lạc chiếm diện tích khá lớn tại địa phương là 3700 ha, năng suất khá cao là
34,5 tạ/ha. Do điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp cho sự tăng trưởng và phát
triển cây lạc ở địa phương nên diện tích và năng suất lạc vẫn không ngừng tăng lên
theo các năm ở Phù Cát. Và đối với một số hộ thì nguồn thu nhập từ lạc chính là
nguồn thu chính trong gia đình. Ngô, sắn và mè được trồng xen canh với cây lạc
hoặc các vụ khác sau khi kết thúc mùa vụ chính là trồng lạc trong năm.
Bảng 2.4 : Diện tích lạc của huyện Phù Cát so với toàn tỉnh Bình Định
Chỉ tiêu 2011 2013 2013/2011
Ha % Ha % +/- %
8800 100 10200 100 1400 13,72 Tỉnh Bình Định
3169 36,011 3762 36,88 593 15,76 Huyện Phù Cát
(Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Bình Định,2013)
Tỉnh Bình Định gồm có 11 huyện thị và lạc được trồng ở tất cả các huyện thị
của tỉnh Bình Định. Trong bảng trên, Huyện Phù Cát có 3169 ha trồng lạc chiếm
36,011% tổng diện tích toàn tỉnh, đây là một con số khá lớn trong toàn tỉnh. Tương
tự, năm 2013 lạc của huyện Phù Cát chiếm 36,88% tổng diện tích trồng lạc toàn
tỉnh. So với năm 2011,thì diện tích lạc của Huyện năm 2013 tăng 593 ha , tương
ứng với 15,76%. Sự gia tăng này là kết quả của sự quan tâm của chính quyền địa
phương khi áp dụng nhiều phương thức tưới tiêu tiết kiệm nước và ứng dụng khoa
học kĩ thuật, giống cây trồng cho năng suất cao vào trồng trọt cũng như chăm sóc
cây lạc.
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất Lạc trên địa bàn Huyện Phú Cát qua hai năm
ĐVT 2012 2013 2014
Ha 3187 3762 3349 2013/2012 % +/- 15,2 575 2014/2013 % +/- -12,3 -413 Chỉ tiêu/ Năm Diện tích
35,9 Tạ/ha 34,5 34,6 0,1 0,29 1,3 3,62 Năng suất
Tấn 10995 130165 120229 119170 91,55 -9936 -8,26 Sản lượng
(Nguồn: Phòng NN&PTNT Huyện Phú Cát)
34
Diện tích trồng lạc năm 2014 của huyện Phù Cát là 3.349 ha, giảm 413 ha
tương ứng với 12,3% so với năm 2013. Với điều kiện tự nhiên của huyện thì sản
xuất lạc ở địa phương được thực hiện 1 năm 2 vụ: Đông xuân và Hè Thu, tuy nhiên,
vụ Đông Xuân vẫn là vụ chính vì các điều kiện tự nhiên phù hợp. Ngoài ra, trên địa
bàn huyện, một số hộ vẫn trồng thêm vụ thu Đông để giữ giống lạc cho mùa sau,
diện tích này không lớn, không đáng kể.
Đất đai ở huyện chủ yếu là đất cát pha thịt nên khá thuận lợi cho việc sản
xuất lạc. Vì vậy địa phương dễ dàng mở rộng quy mô sản xuất và trở thành vùng
chuyên canh quy mô lớn. Nhưng điểm hạn chế lớn đối với sản xuất lạc là cơ sở hạ
tầng thủy lợi chưa hoàn thiện đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tưới tiêu cho mùa
vụ, thiếu nguồn nước sản xuất vào mùa khô hạn. Bên cạnh đó sự phát triển mạnh
của sâu bệnh cũng như diễn biến bất thường của thời tiết trong những năm gần đây
cũng là những điều kiện làm cản trở sản xuất lạc ở địa phương.
Do đó một vấn đề đặt ra cho sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lạc
nói riêng ở huyện là không ngừng áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật vào sản
xuất để nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt
là cần đảm bảo công tác thủy lợi, cải tạo hệ thống đê điều, xây dựng tu bổ kenh
mương, hồ chứa nước, trạm bơm để đảm bảo tốt nguồn nước cho các vụ sản xuất.
Nếu được đảm bảo hệ thống thủy lợi và áp dụng các mô hình tưới tiêu tiết kiệm
nước thì năng suất chất lượng lạc sẽ không ngừng tăng lên.
Hiện nay, sản xuất lạc ở huyện Phù Cát đang tồn tại dưới dạng quy mô hộ
gia đình. Cho nên, để đánh giá tình hình phát triển sản xuất và thực tế thu nhập của
các nông hộ, tôi tiến hành điều tra một số nông hộ trồng lạc trên địa bàn huyện. Từ
đó đề ra một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống
của người dân. Dựa vào tổng số hộ có diện tích trồng lạc trên 0,1 ha của toàn huyện,
tôi đã lựa chọn 120 hộ sản xuất, trong đó có 44 hộ ở xã Cát Trinh, 51 hộ ở xã Cát
Hanh, và 25 hộ ở xã Cát Hiệp.
Bằng việc sử dụng bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp các hộ sản xuất lạc, tôi
đã thu nhập, tổng hợp, và xử lý các số liệu để phục vụ cho nghiên cứu để tài này.
35
Bảng 2.6: Diện tích lạc của huyện Phù Cát phân theo xã
Đơn vị tính: Ha
2005 2010 2011 2012 2013 Cơ cấu (%)
-2013-
2088 2856 3169 3187 3762 100 Toàn huyện
210 100 150 360 250 6,645 Xã Cát Trinh
240 280 280 250 320 8,51 Xã Cát Hanh
337 650 750 560 850 22,59 Xã Cát Hiệp
226 350 350 360 450 11,961 Xá Cát Hải
55 25 38 40 68 1,81 Xã Cát Tân
122 350 450 450 500 13,298 Xã Cát Lâm
150 450 450 380 473 12,573 Xá Cát Sơn
340 250 250 640 350 9,3 Xã Cát Tài
119 50 100 80 100 2,658 Xã Cát Tường
50 36 36 35 86 2,286 Xã Cát Nhơn
85 40 40 0 40 1,063 Xã Cát Hưng
14 0 0 0 0 0 Xã Cát Thắng
0 0 0 0 0 0 Xã Cát Chánh
0 0 0 0 0 0 Xã Cát Tiến
15 0 180 180 180 4,785 Xã Cát Minh
40 25 25 17 25 0,664 Xã Cát Khánh
30 30 30 10 30 0,798 Xã Cát Thành
55 40 40 5 40 1,063 Thị trấn Ngô Mây
(Nguồn: Niên giám thống kê Huyện Phù Cát,2013)
Hầu hết các xã thuộc Huyện Phù Cát đều sản xuất lạc với diện tích khác
nhau. Tuy chỉ có 3 xã Cát Thăng, Cát Chanh, Cát Tiên có diện tích đất hẹp, sát biển,
đất trồng và một số yếu tố khác không phù hợp để trồng lạc nên các xã này không
có diện tích gieo trồng Lạc. Xã có diện tích gieo trồng lớn nhất là xã Cát Hiệp,
chiếm 22,59% diện tích gieo trồng toàn huyện. Xã Cát Khánh là xã có diện tích gieo
36
trồng lạc thấp nhất, chiếm 0,664% so với diện tích gieo trồng toàn huyện. Các xã
được chọn điều tra là Cát Hanh, Cát Trinh, Cát Hiệp theo phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên có chọn lọc, đây là các xã có các điều kiện đại diện cho toàn Huyện như
vị trí địa lý, địa hình, phương thức và kĩ thuật trồng lạc… Đặc biệt, đây là các xã có
các hộ sử dụng các phương pháp tưới tiêu cho cây Lạc như tưới phun sương, phun
mưa, tưới Bec… phù hợp với yêu cầu đề ra trong phạm vi đề tài này của tác giả.
2.2.2 Tình hình cơ bản của các hộ điều tra
2.2.2.1. Thông tin chung của các hộ điều tra
Các yếu tố đầu vào của người nông dân khi tiến hành sản xuất là : giống,
phân bón, lao động, đất đai… trong đó lao động và đất đai là hai yếu tố đầu vào
quan trọng nhất không thể thiếu. Không có lao động và đất đai thì không thể tiến
hành sản xuất nông nghiệp nói chung hay sản xuất lạc nói riêng. Mặt khác, quy mô
thu nhập của hộ nông dân phụ thuộc rất lớn đến đến quy mô và diện tích đất đai,
cũng như số lượng lao động trong từng hộ. Qua thực tế điều tra, tôi đã thu thập
thông tin về các đối tượng điều tra như sau:
Bảng 2.7: Thông tin chung của đối tượng được điều tra
Cát Hanh Cát Hiệp Cát Trinh Tổng/BQC
Chỉ tiêu ĐVT CC CC CC CC SL SL SL SL (%) (%) (%) (%)
Người 51 100,00 25 100,00 44 100,00 120 100,00 Tổng số
Người 1. Giới tính
- Nam 46 90,20 22 88,00 36 81,82 104 86,67
- Nữ 5 9,80 3 12,00 8 18,18 16 13,33
Tuổi 49,80 50,40 48,52 49,46 2. Tuổi
Lớp 9,59 7,88 8,36 8,78 3. Trình độ VH
Phân theo cấp học Người
- Mù chữ 2 3,92 1 4,00 5 11,36 8 6,67
- Cấp 1 2 3,92 5 20,00 5 11,36 12 10,00
37
23 45,10 14 56,00 15 34,09 52 43,33 - Cấp 2
24 47,06 5 20,00 19 43,18 48 40,00 - Cấp 3
4. Trình độ chuyên môn Người
- Không qua đào tạo 19 37,25 19 76,00 39 88,64 77 64,17
25 49,02 4 16,00 30 25,00 1 2,27 - Sơ cấp
7 13,73 11 9,17 2 8,00 2 4,55 - Trung cấp
0 0,00 1 2,27 1 0,83 0 0,00 - Cao đẳng
0 0,00 1 2,27 1 0,83 0 0,00 - Đại học
0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00 - Sau Đại học
Người 5. Nghề chính
0 0,00 1 2,27 1 0,83 0 0,00 - Cán bộ
0 0,00 1 2,27 1 0,83 0 0,00 - Kế toán
- Nông nghiệp 51 100,00 25 100,00 40 90,91 116 96,67
0 0,00 1 2,27 1 0,83 0 0,00 - Thợ hồ
0 0,00 1 2,27 1 0,83 0 0,00 - Y sĩ
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Qua bảng số liệu trên ta thấy trong tổng số 120 hộ điều tra thì tỉ lệ nam nữ có
sự chênh lệch đáng kể trong cơ cấu giới tính chủ hộ của các hộ điều tra. Số Nam
chiếm 86,67% tương ứng với 104 người trong tổng số các chủ hộ điều tra. Số nữ
chiếm 13,33% tương ứng với 16 người trong tổng số các chủ hộ điều tra. Xã Cát
Hanh với số hộ điều tra là 51 người thì số nam chiếm 90,2% trong tổng số các hộ
điều tra tại xã tươg ứng với 46 người. Trong khi đó số nữ là 5, chiếm 9,8% trong
tổng số hộ điều tra. Xã Cát Hiệp với số hộ điều tra là 25 người thì số nam chiếm 88
% trong tổng số các hộ điều tra tại xã tương ứng với 22 người. Trong khi đó số nữ
là 3, chiếm 12 % trong tổng số hộ điều tra tại xã. Xã Cát Trinh với số hộ điều tra là
44 người thì số nam chiếm 81,82% trong tổng số các hộ điều tra tại xã tươg ứng với
36 người. Trong khi đó số nữ là 8, chiếm 18,18% trong tổng số hộ điều tra. Sự
chênh lệch này thể hiện tính chất nặng nhọc, vất vả và yêu cầu sự bền bỉ của nông
38
nghiệp, nên nam giới luôn là trụ cột và là lao động chính trong gia đình. Hầu hết các
chủ hộ đều có độ tuổi trung bình từ 45-55 tuổi. Đây là độ tuổi trung bình tại vùng
nông thôn, vì thanh niên đều đi học xa, làm công nhân tại địa phương hoặc ở thành
phố nên làm nông nghiệp tại gia đình chỉ có các lao động lớn tuổi.
Các chủ hộ đều có trình độ văn hóa trung bình từ lớp 7 – lớp 9. Do điều kiện
học tập của gia đình và bản thân có hạn, nên hầu hết các chủ hộ có trình độ văn hóa
trung bình. Tỉ lệ mù chữ chiếm 6,67% trong tổng số các hộ điều tra. Trong đó, Tỉ lệ
mù chữ tại xã Cát Hanh là 3,92%, xã Cát Hiệp là 4%, xã Cát Trinh là 11,36%. Tỉ lệ
các hộ học đến cấp 1 chiếm 10% trong tổng số cấp học của các hộ điều tra. Tỉ lệ các
hộ học đến cấp 2 chiếm 43,33% trong tổng số cấp học của các hộ điều tra. Tỉ lệ các
hộ học cấp 3 chiếm 40% trong tổng số cấp học của các hộ điều tra. Đây là một dấu
hiệu đáng mừng vì Huyện Phù Cát là một huyện hiếu học thuộc tỉnh Bình Định. Các
gia đình đều đầu tư cho con cái họ học hành tại các thành phố lớn để cải thiện cuộc
sống và đảm bảo tương lai cho con cái họ sau này. Vì vậy mà hầu hết các hộ gia
đình làm nông chỉ có những người lớn tuổi là ông bà hoặc bố mẹ.
Trình độ chuyên môn của các chủ hộ chủ yếu là từ kinh nghiệm làm nông lâu
năm hoặc được truyền lại từ các đời trước nên các hộ không có người được đào tạo
sau đại học. Đào tạo đến bậc đại học chỉ chiếm 0,83% tương đương với bậc đào tạo
cao đẳng trong tổng số các hộ điều tra. Bậc đào tạo trung cấp chiếm 9,17% trong
tổng số các hộ điều tra, Bậc đào tạo sơ cấp chiếm 25% trong tổng số các hộ điều tra,
và chưa qua đào tạo chiếm 64,17% trong tổng số các hộ điều tra. Nghề nông chiếm
96,67% trong tổng số các hộ điều tra. Còn các ngành nghề khác chỉ chiếm 3,33%.
Điều này chứng tỏ các hộ chủ yếu làm nông theo kinh nghiệm lâu năm, đúc rút kinh
nghiệm từ đời này sang đời khác. Một số phương pháp kĩ thuật các hộ sẵn sàng áp
dụng nhưng khả năng áp dụng còn thấp và chưa hiểu rõ hết tác dụng của các
phương pháp kĩ thuật tiên tiến hiện đại trong nông nghiệp. Vì vậy, chính quyền địa
phương và các cán bộ nông nghiệp khi áp dụng các phương pháp kĩ thuật mới vào
nông nghiệp tại cần phải hướng dẫn kĩ, làm thực nghiệm trên đồng ruộng và cho bà
con thử nghiệm để tăng độ tin cậy vào hiệu quả sản xuất của các phương pháp mới.
39
2.2.2.2. Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra:
Bảng 2.8.1: Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra
BQC
Chỉ tiêu
Cát Hanh CC SL (%) (Người) Cát Hiệp SL (Người) CC (%) Cát Trinh CC SL (%) (Người) SL (Người) CC (%)
1. Số nhân khẩu 4,43 100,00 4,12 100,00 4,14 100,00 4,26 100,00
- Số nam 2,18 49,21 1,96 47,57 2,50 60,39 2,25 52,82
2. Số LĐ 2,59 100,00 2,52 100,00 2,52 100,00 2,55 100,00
- LĐ chính 2,39 92,28 2,36 93,65 2,41 95,63 2,39 93,73
- LĐ ngoài tuổi 0,80 30,89 0,72 28,57 0,59 23,41 0,71 27,84
- LĐ NN 2,33 89,96 2,20 87,30 2,30 91,27 2,29 89,80
- LĐ phi NN 0,26 10,04 0,32 12,70 0,22 8,73 0,26 10,20
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Dựa vảo bảng trên ta thấy bình quân chung mỗi hộ có 4,26 nhân khẩu, với số
nhân khẩu nam là 2,25 nhân khẩu nữ là 2,01 nhân khẩu. Chỉ tiêu này không có sự khác
biệt giữa các xã, chênh lệch của số nhân khẩu của các xã không lớn. Tương ứng với các
chỉ tiêu trên, đối với chỉ tiêu lao động bình quân đạt cao nhất là xã Cát Hanh với 2,59
người, hai xã Cát Hiệp và Cát Trinh có số lao động bình quân bằng nhau là 2,52 người.
Qua hai chỉ tiêu phân tích trên ta có thể rút ra nhận xét: nhìn chung số nhân khẩu bình
quân từng hộ khá cao, trong khi đó số lao động bình quân chỉ 2,55 lao động, đã làm số
người sống phụ thuộc lên 1,71 người. Điều này gây không ít khó khăn cho việc tăng thu
nhập, tạo nguồn tích lũy để đầu tư cho hoạt động sản xuất, do đó đã ảnh hưởng không
nhỏ đến công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện trong những năm qua. Do vậy,
thách thức lớn đối với địa phương hiện nay là làm sao kiềm chế được tốc độ gia tăng dân
số bằng việc thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, tuyên truyền và nâng cao
nhân thức về sức khỏe sinh sản cho cộng động dân cư. Có thực hiện tốt việc giảm gia
tăng dân số thì địa phương mới hi vọng nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế của hộ
gia đình và tiến tới hoàn thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới.
40
2.2.2.3 Cơ cấu đất đai của các hộ điều tra
Bảng 2.9.1: Cơ cấu đất đai của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát,
tỉnh Bình Định
(Tính BQ/Hộ)
BQC
Chỉ tiêu
Cát Hanh CC SL (%) (Sào) Cát Hiệp CC (%) SL (Sào) Cát Trinh CC SL (%) (Sào) SL (Sào) CC (%)
28.12 100.00 15.48 100.00 16.55 100.00 21.24 100.00
Lạc
1. Diện tích đang sử dụng 0.35 a. Đất ở 25.50 b. Đất SXNN b1. Đất hàng năm 15.34 10.73 10.16 9.90 2.27 0.00 1.23 90.69 60.16 69.92 39.84 97.46 8.07 0.00 0.48 14.70 11.88 9.16 2.82 2.50 0.30 0.00 3.10 94.94 68.28 77.10 19.17 88.65 1.94 0.00 0.31 15.61 14.03 11.77 1.58 1.06 0.63 0.00 0.36 19.62 14.00 10.78 5.62 5.37 1.25 0.00 b2. Đất lâu năm Xoài c. Đất lâm nghiệp d. Đất NTTS
1.70 1.90 92.39 94.31 71.36 89.88 77.02 83.91 28.63 10.11 95.57 67.09 5.89 3.81 0.00 0.00 (Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Cùng với lao động thì diện tích canh tác cũng là nhân tố quan trọng giúp
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, tạo ra thu nhập cho các hộ nông dân. Đất đai
là tư liệu sản xuất đặc biệt chưa thể thay thế được, đất đai vừa là tư liệu lao động
vừa là đối tượng lao động [11]. Đối với chỉ tiêu tổng diện tích canh tác bình quân, ta
thấy mỗi hộ sở hữu 21,24 sào đất. Nếu so sánh chỉ tiêu này với chỉ tiêu nhân khẩu
bình quân hộ là 4,26 ta thấy bình quân mỗi nhân khẩu có 4,98 sào đất, đây là một tỷ
lệ khá cao so với nhiều vùng địa phương khác.
Ta thấy xã Cát Hanh có diện tích đất đang sử dụng cao nhất, với bình quân
là 28,12 sào /hộ, tiếp theo là các hộ thuộc xã Cát Trinh với bình quân là 16,55
sào/hộ. Với quy mô đất đai có sự chênh lệch như vậy thì ắt hẳn sẽ có sự chênh lệch
trong quy mô thu nhập của các hộ trong từng khu vực.
Với chỉ tiêu đất ở, nhìn vào bảng thống kê mô tả ngay trên ta thấy xã Cát
Hiệp có diện tích đất ở cao nhất, với bình quân là 0,48 sào /hộ, tiếp theo là các hộ
thuộc xã Cát Hanh với bình quân là 0,35 sào/hộ. Cuối cùng là các hộ thuộc xã Cát
Trinh với bình quân đất ở là 0,31 sào/hộ.
41
Về chỉ tiêu đất sản xuất nông nghiệp, ta thấy xã Cát Hanh có diện tích đất
sản xuất nông nghiệp cao nhất, với bình quân là 25.5 sào /hộ, tiếp theo là các hộ
thuộc xã Cát Trinh với bình quân là 15,61 sào/hộ. Cuối cùng là các hộ thuộc xã Cát
Hiệp với bình quân đất sản xuất nông nghiệp là 14,7 sào/hộ. Có sự chênh lệch này
là do thổ nhưỡng thích hợp cho trồng nông nghiệp của mỗi xã khác nhau.
Về chỉ tiêu đất sản xuất nông nghiệp trồng cây hằng năm, bình quân chung
đất trồng cây hằng năm là 14 sào/hộ chiếm 71,36% trong tổng diện tích đất đang sử
dụng của các xã.
Về chỉ tiêu đất trồng lạc, bình quân chung đất trồng lạc là 10,78 sào/hộ
chiếm 77,02% trong tổng diện tích đất đang sử dụng của các xã. Dù tổng diện tích
đất đang sử dụng của các hộ điều tra của mỗi xã khác nhau, nhưng hầu hết các hộ
đều giành diện tích gieo trồng lạc tương đương nhau, vì đây là cây trồng mang lại
hiệu quả kinh tế cao cho các hộ.
Về chỉ tiêu đất sản xuất nông nghiệp trồng cây lâu năm, ta thấy xã Cát Hanh có
diện tích đất trồng cây lâu năm cao nhất, với bình quân là 10,16 sào /hộ, tiếp theo là các
hộ thuộc xã Cát Hiệp với bình quân là 2,82 sào/hộ. Cuối cùng là các hộ thuộc xã Cát
Trinh với bình quân đất trồng cây lâu năm là 1,58 sào/hộ. Có sự chênh lệch này là do
điều kiện thổ nhưỡng thời tiết thích hợp cho trồng cây lâu năm của mỗi xã khác nhau.
Về chỉ tiêu đất sản xuất nông nghiệp trồng cây Xoài, ta thấy xã Cát Hanh có
diện tích đất trồng xoài cao nhất, với bình quân là 9,9 sào /hộ, tiếp theo là các hộ
thuộc xã Cát Hiệp với bình quân là 2,5 sào/hộ. Cuối cùng là các hộ thuộc xã Cát
Trinh với bình quân đất trồng xoài là 1,06 sào/hộ.
Về chỉ tiêu đất lâm nghiệp, ta thấy xã Cát Hanh có diện tích đất lâm nghiệp
cao nhất, với bình quân là 2,27 sào /hộ, tiếp theo là các hộ thuộc xã Cát Trinh với
bình quân 0,63 sào/hộ. Cuối cùng là các hộ thuộc xã Cát Hiệp với bình quân đất lâm
nghiệp là 0,3 sào/hộ.
Các xã điều tra đều không có diện tích đất nuôi trồng thủy sản, các hộ đều sử
dụng phần lớn diện tích đất để trồng trọt và chăn nuôi gia súc gia cầm. Một số hộ có
diện tích đất lâm nghiệp để trồng bạch đàn, keo… nhưng chiếm tỉ lệ rất thấp.
42
2.2.2.4 Tình hình vay vốn của các hộ điều tra
Bảng 2.10.1: Tình hình vay vốn của các hộ điều tra
(Nghìn đồng/hộ)
Chỉ tiêu Cát Hanh Cát Hiệp Cát Trinh Tổng
1290.32 6818.18 942.19 2590.00 NH NN&PTNT
0.00 0.00 0.00 0.00 NH CSXH
0.00 0.00 0.37 0.13 Qũy tín dụng
0.00 0.00 0.00 0.00 NGO
0.00 0.00 0.00 0.00 Bà con
0.00 0.00 0.00 0.00 Tư nhân
0.00 0.00 0.00 0.00 Khác
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Nhìn vào bảng thống kê mô tả ta thấy xã Cát Hiệp có số hộ vay vốn Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cao nhất, với bình quân là 6818.18 nghìn
đồng/hộ, tiếp theo là các hộ thuộc xã Cát Hanh với bình quân là 1290.32 nghìn
đồng/hộ. Cuối cùng là các hộ thuộc xã Cát Trinh vay vốn NHNN&PTNT bình quân
là 942.19 nghìn đồng/hộ.
Chỉ có duy nhất tại xã Cát Trinh mới có hộ vay vốn của Quỹ tín dụng trung bình
là 0,37 nghìn đồng/hộ. Còn lại các hộ được điều tra ở xã khác không có vay vốn của
Quỹ tín dụng.
Các hộ điều tra tại 3 xã đều không vay vốn ở các ngân hàng hay quỹ tín dụng
khác, cũng không vay mượn của người thân, hầu hết các hộ làm nông tự cũng tự
cấp, tích tiểu thành đại rồi bán ra thị trường, sau đó xoay vòng vốn để mở rộng kinh
doanh chứ không phụ thuộc vào các khoản vay ngoài. Các hộ điều tra hầu hết đều
chưa dám mở rộng thành trang trại lớn và áp dụng các phương pháp khoa học kĩ
thuật tiên tiến vào kinh doanh do nguồn vốn nhỏ hẹp, chỉ sử dụng công lao động
của bản thân và gia đình để sản xuất nên hiệu quả sản xuất chưa cao.
43
2.2.2.5 Tư liệu sản xuất của các hộ điều tra
Bảng 2.11.1: Tư liệu sản xuất của các hộ điều tra
ĐVT Cát Hanh
Cát Hiệp
Cát Trinh
BQC
Chỉ tiêu
SL
GT
SL
GT
SL
GT
SL
GT
Trâu bò cày kéo
Con 0.27 4303.03 0,38
5500.00 0,44
9368.7 0.36 6447.19
Trâu bò sinh sản
Con 3.29 53784.31 2.76 35140.00 2.40 31832.56 2.86 41935.29
Lợn nái sinh sản
3217.39 1.71 5696.77 1.21 3177.27
Chuồng trại
Con 0.88 852.94 1.00 M2 33.58 9014.00 44.25
7570.83 39.04 9873.28 37.75 9019.17
Ao Cá
Ao 0.00
0.00 0.00
0.00 0.00
0.00 0.00
0.00
Cày bừa tay
Cái 0.56
246.67 0.22
226.09 0.33
634.48 0.39
378.05
Máy cày
Cái 0.45 26490.32 0.18
2954.55 0.19 16780.00 0.29 16742.17
Máy tuốt
Cái 0.77 2523.28 0.36
2940.91 0.52 5937.50 0.59 3744.34
Xe kéo
Cái 0.23
667.74 0.05
181.82 0.00
0.00 0.10
312.66
Xe công nông
Cái 0.00
0.00 0.00
0.00 0.08 1640.00 0.03
539.47
Máy bơm nước
Cái 1.92 3382.35 1.80
2236.00 1.41 3003.41 1.71 3004.58
Máy xay xát
Cái 0.00
0.00 0.00
0.00 0.04 1115.38 0.01
371.79
Bình phun thuốc
Cái 1.57 1390.02 1.44
1034.00 1.21
861.35 1.42 1124.19
Cuốc cào
Cái 2.78
166.88 2.83
170.00 2.88
176.91 2.83
171.12
Công cụ khác
Cái 0.20
283.33 0.00
0.00 0.00
0.00
0.08
110.39
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Tư liệu sản xuất là vật không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp, tất cả các
hộ gia đình đều có những vật dụng cơ bản nhất phục vụ cho các hoạt động trồng trọt
hoặc chăn nuôi như: cuốc cào, bình phun thuốc… và đối với vùng đất cát pha khô
hạn như huyện Phù Cát thì máy bơm nước là công cụ không thể không có trong mỗi
hộ gia đình. Nên đối với các chỉ tiêu trâu bò cày kéo, trâu bò sinh sản, lớn nái sinh
sản, chuồng trại, cày bừa tay, máy bơm nước, cuốc cào giữa các xã về các tư liệu
sản xuất trên không khác nhau. Riêng đối với chỉ tiêu máy bơm nước thì có sự khác
biệt trong việc đánh giá giữa các xã. Tuy nhiên sự chênh lệch này không lớn, các hộ
44
điều tra trung bình đều dùng 1,71 máy bơm nước cho các hoạt động sản xuất và
sinh hoạt trong gia đình. Đặc biệt là vào mùa khô hạn, máy bơm nước được sử dụng
hết công suất để phục vụ cho hoạt động tưới tiêu nhưng vẫn không cung cấp đủ cho
các hoạt động nông nghiệp do nguồn nước ngầm có hạn, nguồn nước tự nhiên
(nước mưa) lại khan hiếm vì mưa rất ít vào mùa khô. Do vậy, vấn đề đặt ra cho
chính quyền địa phương là phải tìm cách khắc phục cung cấp đủ nước cho bà con
nông dân, đưa dẫn nước từ thượng nguồn, sông hồ về vùng sản xuất để bà con yên
tâm sản xuất nông nghiệp. Phối hợp với các cán bộ nông nghiệp để khuyến khích bà
con nông dân sử dụng các phương pháp tưới tiêu tiết kiệm nước mà mang lại hiệu
quả cao.
Đối với chỉ tiêu máy cày, máy tuốt, xe kéo, xe công nông, đây là những tư
liệu sản xuất có giá trị đầu tư lớn nên có sự khác biệt giữa các xã điều tra. Các hộ sử
dụng máy cày tại xã Cát Hanh chiếm nhiều nhất trong 3 xã điều tra, là 0.45 máy/hộ.
Xã sử dụng máy tuốt nhiều nhất cũng là xã Cát Hanh, 0.77 máy/hộ. Xã Cát Hanh
cũng là xã sử dụng xe kéo nhiều nhất trong 3 xã điều tra là 0.23 máy/hộ. Riêng đối
với xe công nông thì chỉ có xã Cát Trinh là xã có các hộ điều tra sử dụng xe công
nông 0,08 máy/hộ. Điều này chứng tỏ tình hình kinh tế của xã Cát Hanh có phần
khá hơn các xã khác, các hộ chịu khó đầu tư vào sản xuất nông nghiệp để gia giảm
bớt sức lao động của hộ gia đình và nâng cao hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp.
Đối với chỉ tiêu bình phun thuốc, xã Cát Hanh là xã có nhiều hộ sử dụng
bình phun thuốc nhất, do diện tích đất nông nghiệp rộng lớn nên trung bình mỗi hộ
sử dụng 1.57 bình phun thuốc.
Đối với các công cụ khác cũng có sự khác biệt giữa các xã, xã Cát Hanh có
diện tích trồng xoài lớn hơn các xã khác, có hộ đầu tư trang trại lớn có các dự án
vào để thử nghiệm nên các hộ điều tra đã có sự đầu tư xứng đáng với tiềm năng của
hộ gia đình, như kéo cắt cành cao, kéo tỉa cành, bình phun thuốc lớn, dụng cụ tách
hạt, ép quả… Và giá trị của các công cụ khác theo đó cũng có sự khác biệt rõ rệt, ,
chỉ có duy nhất xã Cát Hanh có chi phí cho các công cụ khác này là 283 nghìn
đồng/hộ.
45
Mặc dù số lượng về trâu bò cày kéo giữa các xã điều tra không có sự khác
biệt nhưng giá trị mua thì có sự khác biệt giữa các xã. Trung bình mỗi hộ chi mua
trâu bò cày kéo tại xã Cát Trinh là lớn nhất, 9 368,75 nghìn đồng/hộ. Các hộ điều
tra ở xã Cát Hiệp chi mua trâu bò cáy kéo là hơn 5 triệu đồng/hộ. Trong khi đó ở xã
Cát Hanh chỉ có hơn 4 triệu đồng/hộ.
Tương tự đối với chỉ tiêu trâu bò sinh sản, trung bình mỗi hộ chi mua trâu bò
sinh sản tại xã Cát Hanh là lớn nhất, 53 784 nghìn đồng/hộ. Các hộ điều tra ở xã Cát
Hiệp chi mua trâu bò sinh sản là hơn 35 triệu đồng. Trong khi đó ở xã Cát Trinh chỉ
có hơn 30 triệu đồng/hộ.
Đối với chỉ tiêu lợn nái sinh sản, trung bình mỗi hộ chi mua lợn nái sinh sản
tại xã Cát Trinh là lớn nhất, 5 696 nghìn đồng/hộ. Các hộ điều tra ở xã Cát Hiệp chi
mua lợn nái sinh sản là hơn 3 triệu đồng. Trong khi đó ở xã Cát Hanh chỉ có 852
nghìn đồng/hộ.
Đối với chỉ tiêu chuồng trại thì không có sự khác biệt trong đánh giá về giá
trị chuồng trại chăn nuôi giữa các xã điều tra. Trung bình mỗi hộ đều chi phí 9 019
nghìn đồng cho chuồng trại. Hầu hết các gia đình đều chăn nuôi gia súc gia cầm với
số lượng khác nhau, nhưng đều bỏ ra một khoản chi phí tương đương nhau để xây
dựng chuồng trại vì đây là tài sản cố định sử dụng lâu dài, khấu hao thấp nên các hộ
đều có sự đầu tư nhất định cho tư liệu sản xuất này.
Đối với chỉ tiêu cày bừa cũng không có sự khác biệt trong đánh giá về giá trị
cày bừa tay giữa các xã điều tra. Trung bình mỗi hộ đều chi phí 378 nghìn đồng để
sử dụng cày bừa tay trong gia đình. Đây là tư liệu sản xuất dễ sử dụng, tuy tốn công
lao động nhưng là vật dụng truyền thống lâu đời của mỗi hộ gia đình nên hầu hết
gia đình nào cũng có. Tư liệu này sử dụng phần lớn sức cày kéo của trâu bò và công
lao động trong gia đình để sản xuất nông nghiệp.
Đối với chỉ tiêu máy cày trung bình mỗi hộ chi mua lợn nái sinh sản tại xã Cát
Trinh là lớn nhất, 5 696 nghìn đồng/hộ. Các hộ điều tra ở xã Cát Hiệp chi mua lợn nái
sinh sản là hơn 3 triệu đồng. Trong khi đó ở xã Cát Hanh chỉ có 852 nghìn đồng/hộ.
46
Đối với chỉ tiêu máy tuốt trung bình mỗi hộ đều bỏ ra một khoản chi phí là 3
744 nghìn đồng để mua máy tuốt hoặc tu sửa máy tuốt cũ thêm nhiều chức năng
hơn như tuốt lạc, lọc sạch hạt lạc với rác lá sau khi tuốt, lưới chắn để hạt lạc tuốt
không văng ra xung quanh…
Đối với chỉ tiêu xe công nông chỉ có duy nhất xã Cát Trinh có chi phí cho xe
công nông là 1 640 nghìn đồng/hộ
Đối với chỉ tiêu máy bơm nước thì không có sự khác biệt trong đánh giá về
giá trị máy bơm nước giữa các xã điều tra.
Đối với chỉ tiêu máy xay xát chỉ có duy nhất xã Cát Trinh có chi phí cho máy
xay xát sử dụng cho hộ gia đình là 1 115 nghìn đồng/hộ.
Đối với chỉ tiêu bình phun cũng không có sự khác biệt trong đánh giá về giá
trị bình phun thuốc giữa các xã điều tra.
Đối với chỉ tiêu cuốc cào đều không có sự khác biệt trong đánh giá về giá trị
cuốc cào giữa các xã điều tra. Đây là những công cụ không thể thiếu khi làm nông
nghiệp nên hầu hết các hộ gia đình đều phải bỏ ra chi phí mua các dụng cụ này phục
vụ cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
2.2.2.6 Tình hình sử dụng giống lạc của các nông hộ
Tại huyện Phù Cát, do điều kiện tự nhiên thích hợp với cây lạc nên cây lạc
được trồng hầu như quanh năm. Đặc biệt vào vụ Đông Xuân, diện tích và năng suất
cây lạc cao nhất so với các vụ khác. Vụ Hè Thu và vụ Mùa thì diện tích trồng lạc ít
hơn, do điều kiện bão lũ, thời tiết khắc nghiệp hơn nên diện tích trồng lạc ít lại.
Giống lạc sử dụng cho 2 vụ còn lại cũng chọn lọc những giống tốt, phù hợp với với
điều kiện thời tiết của những mùa này. Bà con cũng tập trung trồng lạc vào vụ Đông
Xuân còn các vụ khác chủ yếu để tận dụng đất trống và lao động dư thừa trong gia
đình khi không đi làm việc khác, cải tạo đất, giữ giống lạc. Dưới đây là cơ cấu diện
tích gieo trồng lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra như sau:
47
Bảng 2.12: Cơ cấu diện tích gieo trồng lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra
ở huyện Phù Cát
(Tính BQ/hộ)
BQC
Mùa vụ
Cát Hanh CC DT (%) (Sào) 81,52 Đông - Xuân 10,55 Cát Trinh Cát Hiệp DT CC DT CC (%) (%) (Sào) (Sào) 87,76 10,09 73,23 12,55 DT (Sào) 9,08 CC (%) 82,36
Hè - Thu 2,29 17,73 3,32 26,77 1,68 11,76 2,28 17,14
Vụ Mùa 0,10 0,76 0,00 0,00 0,07 0,48 0,07 0,50
Tổng số 12,94 100,00 12,40 100,00 14,30 100,00 13,33 100,00
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Bình quân chung các hộ có diện tích gieo trồng lạc theo các mùa của huyện
Phù Cát là 13,33 sào/hộ. Trong đó xã Cát Trinh có các hộ điều tra có diện tích gieo
trồng lớn nhất trong 3 xã điều tra là 14,3 sào/hộ. Xã Cát Hanh có diện tích gieo
trồng là 12,94 sào/hộ. Xã Cát Hiệp có diện tích gieo trồng là 12,4 sào/hộ. Đây là
diện tích gieo trồng khá lớn trong địa bàn toàn tỉnh. Nhìn chung, lạc là cây trồng
chính mang lại giá trị kinh tế cao cho các nông hộ. Các hộ gia đình có thể tận dụng
tất cả các sản phẩm từ lạc để sử dụng như củ lạc để bán – đây là sản phẩm chính
mang lại nguồn thu cho gia đình, ngoài ra củ lạc được ép dầu để sử dụng cho gia
đình, thân lá lạc là thức ăn cho trâu bò, hoặc bón phân để trồng vụ sau hay trồng các
loại cây khác.
Vụ Đông Xuân là vụ sản xuất chính của các hộ gia đình. Vụ này bắt đầu từ
tháng 12 hoặc tháng 1 và kết thúc vào tháng 3, tháng 4. Thời gian trồng lạc từ 3 – 4
tháng. Đây là khoảng thời gian phù hợp nhất để trồng lạc, thời tiết không qua nóng,
không mưa nhiều, độ ẩm thích hợp để cây lạc phát triển nên hầu hết các gia đình
đều trồng vụ Đông Xuân là vụ chính trong năm. Các vụ khác có thể trồng thêm để
giữ giống lạc không bị ẩm mốc, nảy mầm, hoặc gia tăng sản xuất cho gia đình chứ
không dùng để kinh doanh. Trung bình mỗi hộ ở xã Cát Trinh có diện tích gieo
trồng vụ Đông Xuân lớn nhất so với các xã điều tra còn lại, là 12,55 sào/hộ tương
ứng với 87,76% so với tổng diện tích gieo trồng mùa vụ của xã. Xã Cát Hanh có
48
diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân là 10,55 sào/hộ tương ứng với 81,52% tổng diện
tích gieo trồng toàn xã. Xã Cát Hiệp có diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân là 9,08
sào/hộ tương ứng với 73,23% tổng diện tích gieo trồng toàn xã.
Vụ Hè Thu thường bắt đầu từ tháng 5 tháng 6 và kết thúc vào tháng 8 tháng
9. Trung bình mỗi hộ ở xã Cát Hiệp có diện tích gieo trồng vụ Hè Thu lớn nhất so
với các xã điều tra còn lại, là 3.32 sào/hộ tương ứng với 26,77% so với tổng diện
tích gieo trồng mùa vụ của xã. Xã Cát Hanh có diện tích gieo trồng vụ Hè Thu là
2,29 sào/hộ tương ứng với 17,73% tổng diện tích gieo trồng toàn xã. Xã Cát Trinh
có diện tích gieo trồng vụ Hè Thu là 1,68 sào/hộ tương ứng với 11,76% tổng diện
tích gieo trồng toàn xã.
Vụ Mùa thường bắt đầu vào tháng 9 tháng 10 và kết thúc vào tháng 1
tháng 2. Vụ này thời gian trồng ngắn do mưa phùn nhiều và thông thường phải
trồng trên các thửa đất cao để tránh ngập úng cho nên chỉ một số hộ mới trồng vụ
Mùa. Diện tích gieo trồng vụ Mùa tại các xã rất ít. Xã Cát Hanh có diện tích gieo
trồng vụ Mùa là 0,1 sào/hộ tương ứng với 0,76% tổng diện tích gieo trồng toàn
xã. Các hộ điều tra ở xã Cát Hanh không có diện tích gieo trồng vụ Mùa. Xã Cát
Trinh có các hộ điều tra gieo trồng vụ Mùa là 0,07 sào/hộ tương ứng với 0,48%
diện tích gieo trồng toàn xã.
Bảng 2.13: Tình hình sử dụng các giống lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra
ở huyện Phù Cát
Cat Hanh Cat Hiep Cat Trinh Tổng
Chỉ tiêu SL CC SL CC SL CC SL CC
(Hộ) (%) (Hộ) (%) (Hộ) (%) (Hộ) (%)
L14 3 5,88 4 16,00 4,55 9 7,50 2 Thửa 1
Vụ Đông Lỳ Tây
Xuân Nguyên 24 47,06 0 0,00 4,55 26 21,67 2
49
Cat Hanh Cat Hiep Cat Trinh Tổng
Chỉ tiêu SL CC SL CC SL CC SL CC
(Hộ) (%) (Hộ) (%) (Hộ) (%) (Hộ) (%)
Rằng Cù 0 0,00 2 8,00 1 2,27 3 2,50
Sẻ địa
24 47,06 19 76,00 39 88,64 82 68,33 phương
51 100,00 25 100,00 44 100,00 120 100,00 Tổng
5 25,00 3 27,27 2 16,67 10 23,26 L14 Thửa 1
Vụ Hè Thu Lỳ Tây 8 0 0 Nguyên 40,00 0,00 0,00 8 18,60
Sẻ địa 7 10 8 phương 35,00 72,73 83,33 25 58,14
Tổng 20 100,00 11 100,00 12 100,00 43 100,00
L14 . 0 1 100,00 0 0,00 1 50,00 Thửa 1
Vụ Mùa Sẻ địa
phương 0 . 0 0,00 1 100,00 1 50,00
Tổng 1 100,00 0 100,00 1 100,00 2 100,00
L14 0 0 0,00 0,00 1 16,67 1 7,69 Thửa 2
Vụ Đông Lỳ Tây
Xuân Nguyên 3 75,00 1 33,33 0 0,00 4 30,77
Rằng Cù 0 0,00 1 33,33 1 16,67 2 15,38
Sẻ địa
phương 1 25,00 1 33,33 4 66,67 6 46,15
Tổng 4 100,00 3 100,00 6 100,00 13 100,00
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lạc nói riêng thì giống có
vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất. Giống tốt có khả năng thích
50
nghi tốt với điều kiện thời tiết và có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh nên cho
năng suất và sản lượng cao, ngược lại giống xấu sẽ cho năng xuất thấp. Tại huyện
Phù Cát, nông dân vẫn quen với các loại giống địa phương như: lạc Rằng Cù, lạc Sẻ
địa phương, Lỳ tây nguyên. sau khi thu hoạch thì để lại một phần cho sản xuất vụ
sau. Các giống lạc địa phương có lợi thế về khả năng thích nghi với điều kiện thời
tiết, chất lượng hạt cao hơn các giống khác. Từ năm 2000, các giống lạc mới chất
lượng cao được đưa vào thử nghiệm và được trồng đại trà: L14, L23... Đây là loại
giống có thời gian sinh trưởng ngắn (từ 90 – 130 ngày), cho năng suất cao và phù
hợp với điều kiện đất đai ở địa phương.
Theo số liệu điều tra 2015 thì các giống lạc được sử dụng thường xuyên tại
Huyện Phù Cát của các hộ điều tra là L14, Lỳ Tây Nguyên, Rằng Cù và Sẻ địa
phương.Hầu hết các hộ đều có 1 đến 2 thửa trồng lạc tùy vào điều kiện đất đai, địa hình
mà các thửa có các chế độ chăm sóc khác nhau. Ví dụ, thửa đất cao thưởng được tưới
nhiều nước hơn thửa đất thấp, thửa đất thấp thường trồng sau thửa đất cao 10 đến 15
ngày để đất rút khô nước. Thửa đất gần nhà thì gieo trồng sớm, tưới nước, bón phân,
làm cỏ đỡ tốn công đi lại hơn thửa đất xa nhà… Nhìn chung, thửa đất thứ 2 của hộ chỉ
trồng vụ chính là vụ Đông Xuân, còn lại không trồng các vụ khác. Vào các vụ khác các
hộ gia đình thường tập trung trồng tại thửa đất thứ nhất để tiện chăm sóc, số lượng
trồng ít nên không trồng dàn trải và tập trung nhân lực làm những công việc khác nên
thửa đất thứ 2 chỉ trồng duy nhất một vụ là Vụ Đông Xuân.
Vào vụ Đông Xuân, giống lạc Sẻ địa phương được người dân ưa chuộng và sử
dụng nhiều hơn các giống khác. Có 82 hộ điều tra sử dụng giống lạc Sẻ chiếm 68,33%
tổng các giống lạc được sử dụng. Theo một số người nông dân lâu năm giàu kinh
nghiệm tại địa phương thì đây là giống lạc được sử dụng lâu đời nhất và do tập quán
cộng đồng của người nông dân nơi đây là “hàng xóm trồng cây gì thì mình dùng cây
đó, chợ bán cây gì thì mua cây đó” nên hầu hết các hộ đều không đổi giống lạc đang sử
dụng. Mặt khác, Lạc Sẻ địa phương có quả hạt to, nhân hạt chắc, cây phát triền mạnh,
thích nghi với mọi điều kiện tự nhiên nên được bà con tin dùng và sử dụng lâu dài.
Trong vụ Hè Thu thì giống lạc này cũng được sử dụng nhiều nhất chiếm 58,14% tổng
51
các giống lạc được sử dụng tương ứng với 25 hộ điều tra. Vụ Mùa chỉ có 1 hộ trồng
giống lạc này chiếm 50% tổng các giống lạc được sử dụng.
Giống lạc Lỳ Tây Nguyên là do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
Duyên hải Nam trung bộ chọn lọc từ quần thể giống lạc Lỳ đang sản xuất đại trà ở
vùng Duyên hải Nam trung bộ và Tây Nguyên. Đây là giống lạc cho năng suất cao,
thời gian trồng từ 90 – 95 ngày, chịu hạn khá. Hiện có 26 hộ điều tra sử dụng giống
lạc Lỳ Tây Nguyên chiếm 21,67% tổng các giống lạc được sử dụng vào vụ Đông
Xuân. Vụ Hè Thu có 8 hộ điều tra sử dụng giống lạc Lỳ Tây Nguyên chiếm 18,6%
tổng các giống lạc được sử dụng. Giống lạc này không được người nông dân trồng
vào vụ Mùa.
Giống lạc L14 không phải là giống mới hiện nay, nhưng trong địa bàn điều
tra thì đây là giống lạc đang được sử dụng một cách hạn hẹp, chỉ một số hộ mạnh
dạn sử dụng giống lạc này dùng làm lạc thương phẩm. Giống L14 là giống rất có
triển vọng, chịu thâm canh, chống đổ tốt, kháng bệnh lá (đốm nâu, đốm đen, gỉ sắt)
khá cao, so với lạc lỳ vỏ dày hơn, hạt căng đều, tỷ lệ nhân/quả đạt 70% -71% (đối
chứng đạt 76%-77%). Năng suất bình quân 35-50tạ/ha (đối chứng đạt từ 17-23
tạ/ha). [19] Vào vụ Đông Xuân thì hiện chỉ có 9 hộ điều tra sử dụng giống lạc L14
chiếm 7,5% tổng các giống lạc được sử dụng. Vào vụ Hè Thu thì hiện chỉ có 10 hộ
điều tra sử dụng giống lạc L14 chiếm 23,26% tổng các giống lạc được sử dụng. Vụ
Mùa chỉ có 1 hộ trồng giống lạc này chiếm 50% tổng các giống lạc được sử dụng.
Giống lạc Rằng Cù là giống lạc địa phương được sử dụng lâu đời, năng suất
thấp hơn so với các giống lạc khác, nhưng vẫn được người dân giữ giống để sử
dụng. Chỉ có 3 hộ điều tra sử dụng giống lạc Rằng Cù chiếm 2,5% tổng các giống
lạc được sử dụng. Và giống lạc này chỉ được bà con trồng vào vụ Đông Xuân chứ
không trồng vào các vụ khác.
Từ đó có thể cho thấy rằng, cần phải phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân sử
dụng các giống lạc mới cho năng suất cao và thích nghi với mọi điều kiện thời tiết như
L14. Tiếp tục nhân rộng và nghiên cứu các biện pháp kĩ thuật nâng cao năng suất tiếp
tục sử dụng giống lạc Sẻ địa phương để không bị mai một giống. Cần hạn chế sử dụng
52
giống lạc Rằng Cù vì đây là giống lạc không mang lại hiệu quả cao, hạt nhỏ, vỏ dày,
thân lạc chống dập kém., năng suất thấp. Nhưng giống lạc Sẻ địa phương và lạc Rằng
Cù vẫn được người dân giữ giống sử dụng lâu dài là vì những ưu điểm của giống lạc
địa phương mà giống mới không có được, đó là khả năng thích nghi với các điều kiện
thời tiết, đất đai ở địa phương, nhân lạc nhiều, tỷ lệ dầu cao và ăn ngon hơn, dùng để ăn
trong gia đình. Chính vì lý do đó mà hầu hết các hộ nông dân đều dành một phần diện
tích đất để gieo trồng giống lạc địa phương. Còn các giống lạc cao sản mới dùng làm
lạc thương phẩm bán ra thị trường.
2.2.2.7 Kỹ thuật canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra
Bảng 2.14: Kỹ thuật canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát
Tổng
Chỉ tiêu
Thửa 1 Vụ Đông Xuân
Độc Canh Xen với sắn Xen với ngô Xen với xoài Xen cây khác Luân canh Cát Hanh CC SL (%) (Hộ) 84,31 43 11,76 6 0,00 0 3,92 2 0,00 0 0,00 0 Cát Hiệp CC (%) 48,00 48,00 0,00 4,00 0,00 0,00 SL (Hộ) 12 12 0 1 0 0 Cát Trinh CC SL (%) (Hộ) 75,00 33 25,00 11 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 SL (Hộ) 88 29 0 3 0 0 CC (%) 73,33 24,17 0,00 2,50 0,00 0,00
Thửa 1 Vụ Hè Thu
Tổng Độc Canh Xen với sắn Xen với ngô Xen với xoài Xen cây khác Luân canh 51 16 3 0 1 0 0 100,00 80,00 15,00 0,00 5,00 0,00 0,00 25 8 2 0 1 0 0 100,00 72,73 18,18 0,00 9,09 0,00 0,00 44 12 0 0 0 0 0 100,00 100,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 120 36 5 0 2 0 0 100,00 83,72 11,63 0,00 4,65 0,00 0,00
Thửa 1 Vụ Mùa
Tổng Độc Canh Xen với sắn Xen với ngô Xen với xoài Xen cây khác Luân canh 20 0 0 0 1 0 0 100,00 0,00 0,00 0,00 100,00 0,00 0,00 11 0 0 0 0 0 0 100,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 12 1 0 0 0 0 0 100,00 100,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 43 1 0 0 1 0 0 100,00 50,00 0,00 0,00 50,00 0,00 0,00
53
Thửa 2 Vụ Đông Xuân
Tổng Độc Canh Xen với sắn Xen với ngô Xen với xoài Xen cây khác Luân canh 1 4 0 0 0 0 0 100,00 100 0 0 0 0 0 0 1 2 0 0 0 0 0,00 33,33 66,67 0 0 0 0 1 6 0 0 0 0 0 100,00 100 0 0 0 0 0 2 11 2 0 0 0 0 100,00 84,62 15,38 0 0 0 0
Tổng 4 100 100 100 100 13 6
3 (Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Theo số liệu điều tra 2015, trồng độc canh cây lạc luôn là cách trồng chiếm
nhiều ưu thế nhất so với các cách trồng khác tại địa phương. Cách trồng này phát
huy hết lợi thế của lạc, cây lạc được phát triển mạnh mà không cạnh tranh thức ăn,
nước tưới và chất dinh dưỡng với các loại cây khác. Người nông dân có thể tập
trung chăm sóc cây lạc từ bón phân, làm cỏ, tưới nước cho đến khi thu hoạch, chất
lượng hạt và năng suất cao hơn so với cách trồng xen với các loại cây khác. Chính
vì vậy mà vào vụ Đông Xuân có đến 88 hộ trồng độc canh cây lạc chiếm 73,33%
tổng số hộ điều tra. Trong đó các hộ thuộc xã Cát Hanh trồng độc canh cây lạc
chiếm 84,31% so với các cách trồng khác tương ứng với 43 hộ. Các hộ thuộc xã Cát
Trinh trồng độc canh cây lạc chiếm 75% so với các cách trồng khác tương ứng với
33 hộ. Các hộ thuộc xã Cát Hiệp trồng độc canh cây lạc chiếm 48% so với các cách
trồng khác trong xã tương ứng với 12 hộ.
Vào vụ Hè Thu có đến 36 hộ trồng độc canh cây lạc chiếm 83,72% tổng số
hộ điều tra. Trong đó các hộ thuộc xã Cát Trinh chỉ trồng độc canh cây lạc chiếm
100% so với các cách trồng khác tương ứng với 12 hộ. Các hộ thuộc xã Cát Hanh
trồng độc canh cây lạc chiếm 80% so với các cách trồng khác tương ứng với 16 hộ.
Các hộ thuộc xã Cát Hiệp trồng độc canh cây lạc chiếm 72,73% so với các cách
trồng khác trong xã tương ứng với 8 hộ.
Vụ Mùa là vụ trồng rất ít cho nên có 50% số hộ trồng độc canh so với tổng
số hộ điều tra tương ứng với 1 hộ. Và 1 hộ này thuộc xã Cát Trinh, chiếm 100% so
với các cách trồng khác tại xã.
54
Tại thửa thứ 2 của các hộ, trồng độc canh cũng chiếm ưu thế hơn cả, chiếm
84,62% tổng số hộ điều tra có thửa thứ 2 tương ứng với 11 hộ. Trong đó các hộ
thuộc xã Cát Trinh chỉ trồng độc canh cây lạc chiếm 100% so với các cách trồng
khác tương ứng với 6 hộ. Các hộ thuộc xã Cát Hanh cũng chỉ trồng độc canh cây lạc
chiếm 100% so với các cách trồng khác tương ứng với 4 hộ. Các hộ thuộc xã Cát
Hiệp trồng độc canh cây lạc chiếm 33,33% so với các cách trồng khác trong xã
tương ứng với 1 hộ.
Ngoài trồng độc canh cây lạc, cây Sắn (Mì) là loại cây rất thích hợp với điều
kiện tự nhiên tại địa phương. Trồng lạc xen với sắn làm tăng hiệu quả kinh tế cho gia
đình, ngoài ra sắn còn được dự trữ lâu dài để làm thức ăn cho gia súc gia cầm nên một
số hộ vẫn trồng lạc xen sắn để nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông hộ. Vụ Đông Xuân
có 29 hộ trồng xen với sắn chiếm 24,17% tổng số hộ điều tra. Trong đó các hộ thuộc xã
Cát Hiệp trồng xen với sắn chiếm 48% so với các cách trồng khác tương ứng với 12
hộ. Các hộ thuộc xã Cát Trinh trồng độc canh cây lạc chiếm 25% so với các cách trồng
khác tương ứng với 11 hộ. Các hộ thuộc xã Cát Hanh trồng độc canh cây lạc chiếm
11,76% so với các cách trồng khác trong xã tương ứng với 6 hộ.
Vào vụ Hè Thu có 5 hộ trồng xen với sắn chiếm 11,63% tổng số hộ điều tra.
Trong đó các hộ thuộc xã Cát Trinh không trồng xen với sắn. Các hộ thuộc xã Cát
Hanh trồng xen với sắn chiếm 15% so với các cách trồng khác tương ứng với 3 hộ.
Các hộ thuộc xã Cát Hiệp trồng độc canh cây lạc chiếm 18,18% so với các cách
trồng khác trong xã tương ứng với 2 hộ.
Các hộ không trồng xen lạc với sắn vào vụ Mùa. Do điều kiện thời tiết, đặc
điểm đất đai địa hình không phù hợp trồng sắn vào vụ Mùa nên vụ này các hộ chỉ trồng
độc canh cây lạc hoặc xen với xoài chứ không trồng xen lạc với các loại cây khác.
Tại thửa thứ 2 của các hộ, trồng lạc xen với sắn chiếm 15,38% tổng số hộ
điều tra có thửa thứ 2 tương ứng với 2 hộ. Các hộ thuộc xã Cát Trinh và Cát Hanh
không trồng xen lạc với sắn ở thửa này. Các hộ thuộc xã Cát Hiệp trồng xen với sắn
chiếm 66,67% so với các cách trồng khác trong xã tương ứng với 2 hộ.
55
Qua điều tra cho thấy, các hộ không trồng xen lạc với Ngô. Ngô được trồng
ở thửa đất riêng với chế độ chăm sóc riêng biệt. nên hầu như không có hộ nào trong
các hộ điều tra trồng lạc xen ngô để tăng hiệu quả kinh tế.
Ở một số hộ có diện tích trồng xoài, do khoảng cách trồng xoài thưa, nên bà
con nông dân thường tận dụng những khoảng đất trống khi xoài chưa ra tán lớn để
trồng lạc. Và thời gian thích hợp để trồng lạc xen xoài là khi xoài từ 1 – 5 năm tuổi.
Khi xoài lớn, tán phủ rộng, trái rụng nhiều sẽ ảnh hưởng đến năng suất lạc nên bà
con tại địa phương thường không trồng xen lạc khi cây xoài đã lớn và đặc biệt là
vào thời vụ thu hoạch. Vụ Đông Xuân có 3 hộ trồng xen lạc với xoài chiếm 2,5%
tổng số hộ điều tra. Trong đó các hộ thuộc xã Cát Hanh trồng xen lạc với xoài
chiếm 3,92% so với các cách trồng khác tương ứng với 2 hộ. Các hộ thuộc xã Cát
Hiệp trồng xen lạc với xoài chiếm 4% so với các cách trồng khác tương ứng với 1
hộ. Các hộ thuộc xã Cát Trinh không trồng xen lạc với xoài, do có rất ít diện tích
đất trồng xoài tại địa phương.
Vào vụ Hè Thu chỉ có 2 hộ trồng xen lạc với xoài chiếm 4,65% tổng số hộ
điều tra. Trong đó các hộ thuộc xã Cát Hanh trồng xen lạc với xoài chiếm 5% so với
các cách trồng khác tương ứng với 1 hộ. Các hộ thuộc xã Cát Hiệp trồng xen lạc với
xoài chiếm 9,09% so với các cách trồng khác trong xã tương ứng với 1 hộ.
Vụ mùa là vụ trồng rất ít nên cho có 50% số hộ trồng xen lạc với xoài so với
tổng số hộ điều tra tương ứng với 1 hộ. Và 1 hộ này thuộc xã Cát Hanh, chiếm
100% so với các cách trồng khác tại xã.
Các hộ điều tra không trồng lạc xen với xoài tại thửa thứ 2.
Tại vùng điều tra, cây lạc được bà con nông dân trồng độc canh, hoặc xen
với sắn, xoài chứ không xen với bất kì loài cây nào khác. Những năm trước đây, các
nông hộ thường trồng luân canh cây trồng. Sau khi kết thúc mùa lạc 1 tháng mới bắt
đầu đào hố trồng sắn (mì). Nhưng cách làm này tốn công lao động, hiệu quả không
cao nên năm nay các hộ chủ yếu trồng độc canh, hoặc trồng xen với Sắn, Xoài để
tiết kiệm công lao động, tưới nước và bón phân cho cây trồng.
56
2.2.2.8 Phương pháp canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra
Dựa vào bảng 2.15 số liệu điều tra, do điều kiện thời tiết thích hợp để phát triển
lạc tự nhiên nên tất cả các hộ điều tra đều sử dụng phương pháp canh tác lạc không
phủ bạt. Đây là phương pháp canh tác lâu đời, mang lại hiệu quả cao nên các hộ
điều tra không sử dụng phương pháp canh tác phủ bạt cho lạc.
Bảng 2.15: Phương pháp canh tác lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát
Cát Hanh Cát Hiệp Cát Trinh Tổng
Chỉ tiêu SL SL SL SL CC (%) CC (%) CC (%) CC (%) (Hộ) (Hộ) (Hộ) (Hộ)
Không phủ bạt 51 100,00 25 100,00 44 100,00 120 100,00 Thửa 1
Vụ Đông Phủ bạt 0 0 0 0 0 0 0 0
Xuân Tổng 100,00 100,00 51 25 44 100,00 120 100,00
Không phủ bạt 100,00 100,00 20 11 12 100,00 43 100,00 Thửa 1
Vụ Hè Phủ bạt 0,00 0,00 0 0 0 0,00 0,00 0
Thu Tổng 20 100,00 11 100,00 12 100,00 43 100,00
Không phủ bạt 100,00 100,00 100,00 0,00 1 0 1 2 Thửa 1
Vụ Mùa Phủ bạt 0,00 0,00 0 0 0 0,00 0,00 0
Tổng 0,00 100,00 1 0 1 100,00 100,00 2
100,00 4 3 6 Không phủ bạt 100,00 100,00 13 100,00 Thửa 2
Vụ Đông Phủ bạt 0,00 0 0 0 0 0 0 0
Xuân Tổng 4 3 6 100,00 100,00 100,00 13 100,00
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
57
2.2.2.8 Kỹ thuật tưới nước cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra
Bảng 2.16: Kỹ thuật tưới nước cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát
Chỉ tiêu Cát Hanh Cát Hiệp Cát Trinh Tổng
SL CC SL SL CC SL CC (%) CC (%) (Hộ) (%) (Hộ) (Hộ) (%) (Hộ)
Tưới bằng dây Thửa 1 6 11,76 4,00 3 6,82 10 8,33 1 phun thường Vụ
Đông Tưới bằng dây 33 64,71 20,00 13 29,55 51 42,50 5 Xuân phun thủng
Tưới bằng 12 23,53 19 76,00 28 63,64 59 49,17 BEC phun
Cách khác 0 0,00 0,00 0 0,00 0,00 0 0
Total 51 100,00 25 100,00 44 100,00 120 100,00
Tưới bằng dây 2 10,00 9,09 8,33 9,30 4 1 1 phun thường
Tưới bằng dây Thửa 1 12 60,00 27,27 25,00 18 41,86 3 3 phun thủng Vụ Hè
Tưới bằng Thu 6 30,00 63,64 66,67 21 48,84 8 7 BEC phun
Cách khác 0 0,00 0,00 0,00 0,00 0 0 0
Total 20 100,00 11 100,00 12 100,00 43 100,00
Tưới bằng 1 100,00 0,00 0,00 50,00 1 0 0 Thửa 1 BEC phun Vụ Mùa Cách khác 0 0,00 0,00 0,00 0,00 0 0 0
Total 1 100,00 0,00 100,00 100,00 2 1 0
Tưới bằng dây Thửa 2 1 25,00 0,00 0,00 7,69 1 0 0 phun thường Vụ
58
Chỉ tiêu Cát Hanh Cát Hiệp Cát Trinh Tổng
SL CC SL SL CC SL CC (%) CC (%) (Hộ) (%) (Hộ) (Hộ) (%) (Hộ)
Tưới bằng dây Đông 1 25,00 0,00 50,00 30,77 3 4 0 phun thủng Xuân
Tưới bằng 2 3 8 50,00 100,00 50,00 61,54 3 BEC phun
Cách khác 0 0 0 0,00 0,00 0,00 0,00 0
Total 4 6 100,00 100,00 100,00 13 100,00 3
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Các phương pháp tưới tiêu chủ yếu của các hộ điều tra tại huyện Phù Cát tỉnh
Bình Định bao gồm: tưới bằng dây phun thường, tưới bằng Bec phun và tưới bằng
dây phun thủng.
Theo bảng điều tra trong tổng số 120 hộ ở vụ Đông Xuân, thửa đất trồng thứ
1 thì trung bình có 49,17% các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng Bec phun tương
ứng với 59 hộ. Có 42,5% các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thủng
tương ứng với 51 hộ. Có 8,33% các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun
thường tương ứng với 10 hộ. Đối với phương pháp tưới Bec phun thì các hộ điều tra
tại xã Cát Trinh chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 28 hộ chiếm 63,63% các hộ sử dụng
phương pháp tưới tiêu tại xã. Xã Cát Hanh chiếm tỉ lệ ít nhất là 12 hộ chiếm
23,53% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Đối với phương pháp tưới dây
phun thủng thì các hộ điều tra tại xã Cát Hanh chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 33 hộ
chiếm 64,71% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Xã Cát Hiệp chiếm tỉ lệ
ít nhất là 5 hộ chiếm 20% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Đối với
phương pháp tưới dây phun thường thì các hộ điều tra tại xã Cát Hanh chiếm tỷ lệ
nhiều nhất với 6 hộ chiếm 11,76% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Xã
Cát Hiệp chiếm tỉ lệ ít nhất là 1 hộ chiếm 4% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu
tại xã.
59
Tại thửa đất thứ 2 vào vụ Đông Xuân thì trung bình có 61,54% các hộ sử
dụng phương pháp tưới bằng Bec phun tương ứng với 8 hộ. Có 30,7% các hộ sử
dụng phương pháp tưới bằng dây phun thủng tương ứng với 4 hộ. Có 7,69% các hộ
sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thường tương ứng với 1 hộ. Đối với
phương pháp tưới Bec phun thì các hộ điều tra tại xã Cát Trinh và Cát Hiệp chiếm
tỷ lệ bằng nhau với số lượng 3 hộ. Trong khi đó tại xã Cát Hanh chiếm tỉ lệ ít nhất
là 2 hộ chiếm 50% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Đối với phương
pháp tưới dây phun thủng thì các hộ điều tra tại xã Cát Trinh chiếm tỷ lệ nhiều nhất
với 3 hộ chiếm 50% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Xã Cát Hiệp
không có các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu bằng dây phun thủng ở thửa thứ 2
tại xã. Đối với phương pháp tưới dây phun thường thì chỉ có các hộ điều tra tại xã
Cát Hanh sử dụng với 1 hộ chiếm 25% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã.
Các số liệu trên cho thấy dù ở thửa đất nào thì phương pháp tưới bằng Bec phun
cũng là phương pháp tưới chiếm nhiều ưu thế hơn các phương pháp khác.
Vào vụ Hè thu, trung bình có 48,84% các hộ sử dụng phương pháp tưới
bằng Bec phun tương ứng với 21 hộ. Có 41,86% các hộ sử dụng phương pháp tưới
bằng dây phun thủng tương ứng với 18 hộ. Có 9,3% các hộ sử dụng phương pháp
tưới bằng dây phun thường tương ứng với 4 hộ. Đối với phương pháp tưới Bec
phun thì các hộ điều tra tại xã Cát Trinh chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 8 hộ chiếm
66,67% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Xã Cát Hanh chiếm tỉ lệ ít
nhất là 6 hộ chiếm 30% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Đối với
phương pháp tưới dây phun thủng thì các hộ điều tra tại xã Cát Hanh chiếm tỷ lệ
nhiều nhất với 12 hộ chiếm 60% các hộ sử dụng phương pháp tưới tiêu tại xã. Xã
Cát Hiệp và Cát Trinh có số lượng sử dụng phương pháp tưới dây phun thủng bằng
nhau là 3 hộ. Đối với phương pháp tưới dây phun thường thì các hộ điều tra tại xã
Cát Hanh chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 2 hộ chiếm 10% các hộ sử dụng phương pháp
tưới tiêu tại xã. Xã Cát Hiệp và Cát Trinh có số lượng sử dụng phương pháp tưới
dây phun thường bằng nhau là 1 hộ
60
Vụ mùa trung bình có 50% các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng Bec phun
tương ứng với 1 hộ thuộc xã Cát Hanh. Có 50% các hộ sử dụng phương pháp tưới
bằng dây phun thủng tương ứng với 1 hộ thuộc xã Cát Trinh. Không có các hộ sử
dụng phương pháp tưới bằng dây phun thường. Điều này chứng tỏ trải qua các mùa
vụ với các điều kiện thời tiết khác nhau thì phương pháp tưới bằng Bec phun luôn
được các hộ nông dân sử dụng nhiều hơn so với các phương pháp khác.
2.2.2.9 Nguồn nước tưới cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra
Bảng 2.17: Nguồn nước tưới cho lạc theo mùa vụ của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát
(Tính BQ/Hộ)
Cát Hanh
Cát Hiệp
Cát Trinh
Tổng
Chỉ tiêu
SL (Hộ)
CC (%)
SL (Hộ)
CC (%)
SL (Hộ)
CC (%)
SL (Hộ)
CC (%)
Nước ngầm
51 100,00
25 100,00
44 100,00
120 100,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
Khác
Thửa 1
Vụ Đông
Xuân
Tổng
51 100,00
25 100,00
44 100,00
120 100,00
Nước ngầm
20 100,00
11 100,00
12 100,00
43 100,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
Khác
Thửa 1
Tổng
Vụ Hè Thu
20 100,00
11 100,00
12 100,00
43 100,00
Nước ngầm
1 100,00
1 100,00
2 100,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
Khác
Thửa 1
Vụ Mùa
1 100,00
0
0,00
1 100,00
2 100,00
Tổng
Nước ngầm
4 100,00
3 100,00
6 100,00
13 100,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
Khác
Thửa 2
Vụ Đông Xuân
4 100,00
3 100,00
6 100,00
13 100,00
Tổng
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
61
Tại địa điểm điều tra thì tất cả các hộ đều sử dụng nguồn nước ngầm bằng
giếng khoan hoặc giếng đào, đây là nguồn dự trữ và cung cấp ổn định lâu dài lượng
nước tưới cho các nông hộ, tỉ lệ này chiếm 100% các nguồn nước được sử dụng cho
nông nghiệp. Tất cả các hộ gia đình đều có 1 – 4 giếng nước phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp. Các giếng này gần với khu sản xuất, nằm trong ruộng hoặc trong vườn
nhà để tiện cho việc cung cấp nước đến cây trồng vật nuôi.
2.2.3 Đánh giá chi phí sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ trên
địa bàn Huyện Phú Cát tỉnh Bình Định
Bảng 2.18: Diện tích, năng suất và sản lượng lạc của các hộ điều tra phân theo
phương thức tưới
(Tính BQ/Hộ)
Chỉ tiêu ĐVT Béc phun Dây phun thủng Dây phun thường BQC
Diện tích Sào 10,90 9,16 10,10 10,09
Năng suất Tạ/Sào 1,99 1,75 1,64 1,87
Sản lượng Tạ 21,68 16,05 16,55 18,86
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Từ bảng số liệu trên ta thấy rằng bình quân mỗi hộ điều tra đối với phương
pháp tưới Bec phun có diện tích là 10,9 sào thì cho sản lượng 21,68 tạ, năng suất
bình quân 1,99 tạ/sào. Đối với phương pháp tưới dây phun thủng có diện tích là
9,16 sào thì cho sản lượng 16,05 tạ, năng suất bình quân 1,76 tạ/sào. Phương pháp
tưới dây phun thường có diện tích là 10,1 sào thì cho sản lượng 16,55 tạ, năng suất
bình quân 1,64 tạ/sào. Điều này cho thấy phương pháp tưới bằng Bec phun mang lại
năng suất cao nhất so với các phương pháp còn lại, chênh lệch với phương pháp
tưới dây phun thủng là 0,24 tạ/sào, chênh lệch với phương pháp tưới dây phun
thường là 0,35 tạ/sào. Đây là phương pháp mang lại hiệu quả nhất cần được nhân
rộng và cần được bà con chú trọng sử dụng tập trung để nâng cao năng suất cây
trồng, tăng hiệu quả kinh tế cho gia đình.
62
2.2.3.1. Đánh giá chi phí sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ
tính bình quân trên một sào ruộng
Bảng 2.19: Tổng hợp mức đầu tư cho sản xuất lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên một sào ruộng
(Tính BQ/Sào)
Béc phun BQC Dây phun thường Dây phun thủng
Khoản mục
Tự có (1000đ) Tự có (1000đ) Tự có (1000đ) Tự có (1000đ)
1. Giống Mua ngoài (1000đ) 276.99 0.00 Mua ngoài (1000đ) 278.34 5.71 Mua Mua ngoài ngoài (1000đ) (1000đ) 284.35 17.14 279.89 7.62
2. Phân bón và vôi 224.02 84.07 223.43 87.33 245.69 89.01 231.05 86.80
3. Thuốc BVTV 183.60 0.00 182.92 0.00 184.11 0.00 183.54 0.00
4. Lao động 154.34 913.54 78.49 849.00 50.09 25.43 94.31 595.99
5. Khác 104.46 0.00 120.19 0.00 122.24 0.00 115.63 0.00
Tổng chi phí 943.41 997.61 883.38 942.03 886.48 131.58 904.42 690.41
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Chi phí giống là một khoản mục chi phí không thể thiếu trong sản xuất nông
nghiệp. Bình quân một sào lạc phải bỏ ra 279,89 nghìn đồng tiền giống mua ngoài và
7,62 nghìn đồng giống dữ trữ từ mùa vụ trước. Chi phí giống giữa các hộ sử dụng các
phương pháp tưới tiêu không có sự khác biệt mà tương đương nhau. Các hộ sử dụng
phương pháp tưới tiêu bằng dây phun thủng và Bec phun thì bình quân một sào lạc có
giống dự trữ để lại từ mùa trước, còn lại phương pháp tưới thủ công bằng dây phun
thường thì không có sửu dụng giống dự trữ của gia đình. Giống thể hiện khả năng có
thể cho năng suất nhưng trên thực tế tại huyện bà con nông dân gieo trồng với mật độ
trên một đơn vị diện tích là gần bằng nhau và coi như bằng nhau. Nếu mức đầu tư phân
bón hợp lý thì khả năng đạt năng suất tối đa cả giống là hoàn toàn có thể, ngược lại sẽ
cho năng suất thấp. Phân bón dùng để sản xuất lạc ở trên địa bàn chủ yếu là: phân
chuồng, lân, đạm, kali, vôi. Bình quân chi phí phân bón và vôi cho một sào lạc là
317,85 nghìn đồng, trong đó chi phí mua ngoài là 231,05 nghìn đồng và tự có là 86,8
nghìn đồng. Chi phí phân bón và vôi bình quân trên một sào lạc đối với phương pháp
63
tưới Bec phun là cao nhất với mức 334,7 nghìn đồng, trong đó chi phí mua ngoài là
245,69 nghìn đồng và tự có là 89,01 nghìn đồng; tiếp đến là phi phí phân bón và vôi
bình quân trên một sào lạc đối với phương pháp tưới dây phun thủng với mức 310,76
nghìn đồng, trong đó chi phí mua ngoài là 223,43 nghìn đồng và tự có là 87,33 nghìn
đồng. Cuối cùng là phi phí phân bón và vôi bình quân trên một sào lạc đối với phương
pháp tưới dây phun thường với mức 308,09 nghìn đồng, trong đó chi phí mua ngoài là
224,02 nghìn đồng và tự có là 84,07 nghìn đồng.
Chi phí thuốc BVTV giữa các hộ sử dụng các phương pháp tưới tiêu không có
sự khác biệt mà tương đương nhau. Bình quân một sào lạc phải bỏ ra 183,54 nghìn
đồng tiền chi cho thuốc BVTV.
Chi phí lao động là khoản mục chi phí khá lớn trong kết cấu chi phí sản xuất cây
lạc của các nông hộ. Bình quân một sào lạc bỏ ra 690,3 nghìn đồng chi phí lao
động. Trong đó chi phí tự có là 595,99 nghìn đồng, còn chi phí thuê ngoài là 94,31
nghìn đồng. Trong đó, mức chi phí lao động bình quân trên sào lạc đối với phương
pháp tưới dây phun thường là cao nhất, 1067,88 nghìn đồng, thuê ngoài là 154,34
nghìn đồng, chi phí lao động gia đình tự có là 913,54 nghìn đồng. Mức chi phí lao
động bình quân trên sào lạc đối với phương pháp tưới dây phun thủng là 927,49
nghìn đồng, thuê ngoài là 78,49 nghìn đồng, chi phí lao động gia đình tự có là 849
nghìn đồng. Mức chi phí lao động bình quân trên sào lạc đối với phương pháp tưới
Bec phun là thấp nhất, 75,52 nghìn đồng, thuê ngoài là 50,09 nghìn đồng, chi phí
lao động gia đình tự có là 25,43 nghìn đồng.
Điều này có thể giải thích như sau: Trong tất cả các phương pháp tưới tiêu thì chi
phí cho lao động mua ngoài luôn ít hơn chi phí tự có trong gia đình. Do các nông hộ
thường sử dụng công lao động của gia đình để trồng và chăm sóc lạc. Có một số hộ
thuê lao động ngoài lúc phun thuốc BVTV, cày bừa bằng máy thuê ngoài. Và đặc biệt
là vào mùa thu hoạch, cần phải thu hoạch lạc cùng lúc trên đồng ruộng để tránh hiện
tượng lạc biến chất và kịp cung cấp cho thương lái nên các hộ gia đình mới thuê lao
động ngoài. Các lao động được thuê ngoài ở đây có đặc điểm là những người hàng
xóm thân quen. Hầu hết các hộ đều liên kết với nhau trồng lệch ngày từ 10-15 ngày so
64
với hộ bên cạnh để tiện lợi cho việc trao đổi công lao động khi thu hoạch. Còn lại tất cả
các hoạt động trên đồng ruộng trồng lạc đều do chính lao động của gia đình thực hiện
nên công lao động tự có của gia đình luôn cao hơn công lao động thuê ngoài.
Phương pháp tưới bằng dây phun thường tốn nhiều công sức lao động hơn các
phương pháp khác. Do các nông hộ phải trực tiếp đứng tại đồng ruộng để tưới nước.
Còn phương pháp tưới bằng dây phun thủng thì người nông dân chỉ mất thời gian
kéo ống để trên đồng ruộng sau đó để nước tự phun cố định qua các lỗ phun có sẵn.
Công việc này chỉ mất 30 – 45 phút/sào, và 5 phút để di chuyển đường dây qua dãy
ruộng khác. Còn phương pháp tưới bằng Bec phun thì tiết kiệm công lao động nhiều
nhất. Các hộ chỉ tốn công lao động ban đầu để lắp đặt đường ống ngầm dưới ruộng
mất 0,5 công/ sào, sau đó đến mùa tưới nước chỉ cần bật công tắc tưới nước thì các
hệ thống sẽ tự động phun nước trên ruộng. Do vậy mà công lao động của phương
pháp tưới nước bằng Bec phun luôn ít hơn so với các phương pháp còn lại.
2.2.3.2. Đánh giá chi phí sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu của các nông hộ
tính bình quân trên hộ
Bảng 2.20: Tổng hợp mức đầu tư cho sản xuất lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát phân theo phương thức tưới bình quân trên hộ
(Tính BQ/Hộ)
Dây phun thường Dây phun thủng
Béc phun
BQC
Mua
Mua
Mua
Mua
Khoản mục
Tự có
Tự có
Tự có
Tự có
ngoài
ngoài
ngoài
ngoài
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
1. Giống
2797.60 0.00
2548.72 52.29
3098.93 186.80
2839.98 114.06
2. Phân bón và vôi 2262.60 849.11
2045.92 799.67
2677.60 970.06
2374.55 887.56
3. Thuốc BVTV
1854.36 0.00
1674.97 0.00
2006.49 0.00
1852.92 0.00
4. Lao động
1558.83 9226.75
718.72
7774.18 545.90
277.14
703.76
4209.18
5. Khác
1055.05 0.00
1100.56 0.00
1332.21 0.00
1210.66 0.00
Tổng chi phí
9528.44 10075.86 8088.90 8626.13 9661.13 1434.00 8981.87 5210.81
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
65
Bình quân một hộ phải bỏ ra 2 839.98 nghìn đồng tiền giống mua ngoài và
114.06 nghìn đồng giống dữ trữ từ mùa vụ trước. Chi phí giống giữa các hộ sử dụng
các phương pháp tưới tiêu có sự khác biệt rõ rệt. Các hộ sử dụng phương pháp tưới
tiêu Bec phun có chi phí cao nhất là với mức chi phí mua ngoài là 3 098.93 nghìn
đồng và tự có là 186.8 nghìn đồng; tiếp đến là phi phí phân bón và vôi bình quân
trên một sào lạc đối với phương pháp tưới dây phun thường với mức mua ngoài là 2
797.6 nghìn đồng và không sử dụng giống tự có. Cuối cùng là phi phí phân bón và
vôi bình quân trên một sào lạc đối với phương pháp tưới dây phun thủng với mức
chi phí mua ngoài là 2548.72 nghìn đồng và tự có là 52.29 nghìn đồng.
Bình quân chi phí phân bón và vôi cho một hộ mua ngoài là 2374.55 nghìn
đồng và tự có là 887.56 nghìn đồng. Chi phí phân bón và vôi bình quân trên một hộ
đối với phương pháp tưới Bec phun là cao nhất với mức chi phí mua ngoài là
2677.60 nghìn đồng và tự có là 970.06 nghìn đồng; tiếp đến là chi phí phân bón và
vôi bình quân trên một hộ đối với phương pháp tưới dây phun thường với mức chi
phí mua ngoài là 2262.6 nghìn đồng và tự có là 849.11 nghìn đồng. Cuối cùng là
phi phí phân bón và vôi bình quân trên một hộ đối với phương pháp tưới dây phun
thủng với mức 308,09 nghìn đồng, trong đó chi phí mua ngoài là 2045.92 nghìn
đồng và tự có là 799.67 nghìn đồng.
Chi phí thuốc BVTV bình quân một hộ phải bỏ ra 1852.92 nghìn đồng tiền
chi cho thuốc BVTV. Đối với phương pháp tưới Bec phun là cao nhất với mức chi
phí là 2006.49 nghìn đồng; tiếp đến là chi phí thuốc BVTV bình quân trên một hộ
đối với phương pháp tưới dây phun thường với mức là 1854,36 nghìn đồng. Cuối
cùng là chi phí thuốc BVTV bình quân trên một hộ đối với phương pháp tưới dây
phun thủng với mức 1674.97 nghìn đồng.
Bình quân một hộ bỏ ra chi phí tự có là 4209.18 nghìn đồng, còn chi phí thuê
ngoài là 703.76 nghìn đồng. Trong đó, mức chi phí lao động bình quân trên hộ đối với
phương pháp tưới dây phun thường là cao nhất, thuê ngoài là 9226.75 nghìn đồng, chi
phí lao động gia đình tự có là 1558.83 nghìn đồng. Mức chi phí lao động bình quân
trên hộ đối với phương pháp tưới dây phun thủng thuê ngoài là 7774.18 nghìn đồng,
66
chi phí lao động gia đình tự có là 718.72 nghìn đồng. Mức chi phí lao động bình quân
trên hộ đối với phương pháp tưới Bec phun là thấp nhất với mức thuê ngoài là 277.14
nghìn đồng, chi phí lao động gia đình tự có là 545.90 nghìn đồng.
Đối với các chi phí khác như điện, xăng dầu … thì bình quân một hộ phải bỏ
ra 1210.66 nghìn đồng. Phương pháp tưới Bec phun có chi phí khác cao nhất với
mức chi phí là 1332.21 nghìn đồng; tiếp đến là chi phí khác bình quân trên một hộ
đối với phương pháp tưới dây phun thủng với mức là 1100.56 nghìn đồng. Cuối
cùng là chi phí khác bình quân trên một hộ đối với phương pháp tưới dây phun
thường với mức 1055.05 nghìn đồng.
Tương tự đối với các chi phí bình quân trên một sào lạc, các chi phí đầu tư
cho sản xuất lạc theo các mô hình tưới tiêu của nông hộ bình quân mỗi hộ tại huyện
Phù Cát có chi phí công lao động thấp hơn các phương pháp tưới tiêu còn lại, nhưng
các chi phí khác như giống, phân bón và vôi, thuốc BVTV, chi phí điện, xăng dầu..
lại cao hơn các chi phí còn lại. Điều này dẫn đến sự ngần ngại của các hộ nông dân
khi sử dụng phương pháp tưới Bec phun cho sản xuất nông nghiệp.
2.2.4 Kết quả sản xuất Lạc theo các mô hình tưới tiêu của hộ
Để phản ánh được thực tế sản xuất lạc của các nông hộ trong vùng đạt được kết
quả như thế nào tôi đã sử dụng hệ thống các chỉ tiêu kết quả bao gồm:Tổng chi phí sản
xuất (GO), Chi phí trung gian (IC), Giá trị gia tăng (VA); hiệu suất chi phí trung gian
GO/IC, VA/IC, VA/GO, các hiệu suất này càng lớn thì hiệu quả càng cao.
67
2.2.4.1 Kết quả sản xuất Lạc theo các mô hình tưới tiêu của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát phân theo phương thức
tưới bình quân trên một sào ruộng
Bảng 2.21: So sánh kết quả và hiệu quả canh tác lạc của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát
phân theo phương thức tưới bình quân trên một sào ruộng
(Tính BQ/Sào)
So sánh
Dây phun
Dây phun
C/A
C/B
B/A
Bec phun
B
Chỉ tiêu
ĐVT
thường
thủng
TL
(C)
QC
TL
TL
(A)
(B)
SL
SL
SL
(+-
(+-%)
(+-%)
%)
1. Tổng giá trị sản xuất (GO)
1000đ
3490.35
3640.96
4245.72
3949.51
755.38
604.76
16.61 150.61 4.32
21.64
2. Chi phí trung gian (IC)
1000đ
943.41
883.38
886.48
890.03
-56.93
3.11
0.35
-60.03 -6.36
-6.03
3. Giá trị gia tăng (VA)
1000đ
2546.94
2757.58
3359.24
3059.47
812.30
601.66
21.82 210.65 8.27
31.89
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
68
Tổng giá trị sản xuất lạc bình quân mỗi sào lạc là 3 949,51 nghìn đồng.
Trong đó, các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng Bec phun mang lại giá trị sản xuất
cao nhất là 4245,72 nghìn đồng, lớn hơn so với tưới bằng dây phun thường là
755,38 nghìn đồng tương ứng với 21,64%. Phương pháp tưới bằng dây phun thủng
có tổng giá trị sản xuất trung bình mỗi sào lạc là 3640,96 nghìn đồng, phương pháp
này có tỷ lệ giá trị sản xuất thấp hơn phương pháp Bec phun là 16,61% tương ứng
với 604,76 nghìn đồng, và phương pháp này có tỷ lệ giá trị sản xuất cao hơn
phương pháp tưới tay bằng dây phun thường là là 4,32% tương ứng với 150,61
nghìn đồng.
Chi phí trung gian là khoản mục chi phí có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
và hiệu quả sản xuất lạc của các nông hộ. Bình quân một sào lạc bỏ ra 890.03 nghìn
đồng chi phí trung gian, trong đó những hộ sử dụng phương pháp tưới tay bằng dây
phun thường có bình quân một sào bỏ ra cao nhất 943,41 nghìn đồng chi phí trung
gian; mức đầu tư chi phí trung gian bình quân trên sào của các hộ sử dụng phương
pháp tưới bằng dây phun thủng là thấp nhất 883,38 nghìn đồng. Sở dĩ mức đầu tư
chi phí của những hộ sản xuất lạc sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thủng
thấp hơn so với hai xã còn lại là có thể do sử dụng công cụ lao động trong gia đình
ít hỏng hơn, nguyên vật liệu để tưới bằng dây phun thủng đơn giản, giá cả hợp lý
dẫn tới chi phí trung gian của hộ thấp.
Nhìn chung, phương pháp tưới tiêu Bec phun trung bình trên một sào lạc
mang lại giá trị sản xuất cao, chi phí trung gian thấp hơn so với các phương pháp
còn lại,. Chứng tỏ, đây là phương pháp màn lại hiệu quả kinh tế cao cần được bà
con sự dụng rộng rãi để cải thiện đời sống cho gia đình.
69
2.2.4.2 Kết quả sản xuất Lạc theo các mô hình tưới tiêu của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát phân theo phương thức
tưới bình quân trên một hộ
Bảng 2.22: So sánh kết quả và hiệu quả canh tác lạc của các hộ điều tra ở huyện Phù Cát
phân theo phương thức tưới bình quân trên một hộ
(Tính BQ/Hộ)
So sánh Dây Dây
39857.14 11018.62 31.26
12931.38 38.79
-1912.76 -5.43
phun phun Bec phun C/A C/B B/A Chỉ tiêu ĐVT BQC thường thủng (C) TL TL TL SL SL SL (A) (B) (+-%) (+-%) (+-%)
8,088.90
9,661.13
8,981.87
132.69
1.39
1572.23
19.44
-1439.54 -15.11
1. Tổng giá trị sản xuất (GO) 1000đ 35252.54 33339.77 46271.15
30875.26 10885.93 42.32
11359.15 44.99
-473.22
-1.84
2. Chi phí trung gian (IC) 1000đ 9,528.44
3. Giá trị gia tăng (VA) 1000đ 25724.09 25250.87 36610.02
4. GO/IC Lần 3.70 4.12 4.79 4.44 1.09 29.45 0.67 16.20 0.42 11.40
5. VA/IC Lần 2.70 3.12 3.79 3.44 1.09 40.36 0.67 21.39 0.42 15.63
6. VA/GO Lần 0.73 0.76 0.79 0.77 0.06 8.43 0.03 4.47 0.03 3.79
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
70
Tổng giá trị sản xuất lạc bình quân mỗi hộ gia đình là 39 857.14 nghìn đồng.
Trong đó, các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng Bec phun mang lại giá trị sản xuất
cao nhất là 46271.15 nghìn đồng, lớn hơn so với tưới bằng dây phun thường là 11
018.62 nghìn đồng tương ứng với 31.26%. Phương pháp tưới bằng dây phun thủng
có tổng giá trị sản xuất trung bình mỗi hộ là 33339.77 nghìn đồng, phương pháp này
có tỷ lệ giá trị sản xuất thấp hơn phương pháp Bec phun là 38,79% tương ứng với
12931.38 nghìn đồng, và phương pháp này có tỷ lệ giá trị sản xuất thấp hơn phương
pháp tưới tay bằng dây phun thường là là 5.43% tương ứng với 1912.76 nghìn đồng.
Bình quân một hộ bỏ ra 8,981.87 nghìn đồng chi phí trung gian, trong đó
những hộ sử dụng phương pháp tưới tay bằng Bec phun có bình quân một hộ bỏ ra
cao nhất 9,661.13 nghìn đồng chi phí trung gian; mức đầu tư chi phí trung gian bình
quân một hộ của các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thủng là thấp
nhất 8,088.90 nghìn đồng.
Nếu xem xét ở khía cạnh hiệu suất trên một đồng chi phí, bình quân chung
mỗi hộ bỏ ra một đồng chi phí trung gian để sản xuất lạc vụ thu được 4,44 đồng giá
trị sản xuất; 3,44 đồng giá trị gia tăng. Đối với các hộ sử dụng phương pháp tưới
Bec phun thì cứ một đồng chi phí trung gian bỏ ra để sản xuất lạc vụ thu được 4,79
đồng giá trị sản xuất; 3,79 đồng giá trị gia tăng. Như vậy hiệu quả sản xuất lạc của
các hộ sử dụng phương pháp tưới Bec phun là cao hơn cả. Lớn hơn so với các hộ sử
dụng phương pháp tưới dây phun thủng là 16,2% tương ứng với 0,67 đồng thu
nhập, và so với các hộ sản xuất lạc sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun
thường thì lớn hơn 29,45% tương ứng với 1,09 đồng thu nhập.
Các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thủng bình quân bỏ ra một
đồng chi phí trung gian được 4,12 đồng giá trị sản xuất, 3,12 đồng thu nhập. Chỉ
tiêu này so với các hộ sản xuất lạc sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thường
thì lớn hơn 11,4% tương ứng với 0,42 đồng thu nhập. Các hộ sản xuất lạc sử dụng
phương pháp tưới bằng dây phun thường hiệu quả mang lại là thấp nhất, một đồng
chi phí bỏ ra chỉ thu được 3,7 đồng giá trị sản xuất, 2,7 đồng thu nhập. Hiệu quả sản
71
xuất lạc của các hộ sản xuất lạc sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thường
thấp hơn là do cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Yếu tố khách quan như
trên đã nói do lượng nước tưới trên ruộng bằng dây phun thường hạt phun ra lớn,
lực nước mạnh dẫn đến cây lạc bị ngã, dập và xói mòn đất. Mặt khác, còn do yếu tố
chủ quan của các hộ sản xuất lạc sản xuất lạc sử dụng phương pháp tưới bằng dây
phun thường bao gồm: mức đầu tư của hộ chưa thích đáng, các hộ chủ yếu sử dụng
công lao động của gia đình dẫn đến chi phí cho công lao động tự có cao, hộ nông
dân sẽ có ít thời gian để làm cỏ, bón phân, phun thuốc cho cây lạc dẫn đến hiệu quả
đạt được thấp.
Bình quân chung mỗi hộ thu được một đồng giá trị sản xuất để sản xuất lạc
vụ có được 0,77 đồng giá trị gia tăng. Đối với các hộ sử dụng phương pháp tưới Bec
phun thì cứ một đồng giá trị sản xuất thu được từ sản xuất lạc vụ thì có được 0,79
đồng giá trị gia tăng. Như vậy hiệu quả sản xuất lạc của các hộ sử dụng phương
pháp tưới Bec phun cao nhất. Lớn hơn so với các hộ sử dụng phương pháp tưới dây
phun thủng là 8,43% tương ứng với 0,06 đồng giá trị gia tăng, và so với các hộ sản
xuất lạc sử dụng phương pháp tưới bằng dây phun thường thì lớn hơn 4.47% tương
ứng với 0,03 đồng giá trị gia tăng.
Tóm lại, sản xuất lạc trên địa bàn nghiên cứu tuy còn gặp nhiều khó khăn,
song hiệu quả kinh tế mang lại khá cao, lạc đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu
nhập của các hộ sản xuất. Hiệu quả sản xuất lạc của các nông hộ ở huyện Phù Cát
cao hơn so với các huyện khác trong tỉnh và lạc được đánh giá là cây trồng hàng
năm có giá trị kinh tế cao hơn so với những cây trồng hàng năm khác ở trên địa bàn.
Tuy nhiên, mức đầu tư của người dân cho sản xuất lạc chưa tương xứng, nếu được
đầu tư đúng mức thì khả năng tăng năng suất và nâng cao hiệu quả kinh tế.
72
2.2.5 Đánh giá tình hình sử dụng các phương pháp tưới tiêu của các nông hộ
trên địa bàn Huyện Phù Cát tỉnh Bình Định
Bảng 2.23: Ưu và nhược điểm các phương pháp tưới tiêu của nông hộ điều tra
Tưới bằng dây
Tưới bằng dây
Tưới bằng
phun thường
phun thủng
BEC PHUN
Total
Nguyên nhân
SL
SL
SL
SL
CC
CC
CC
CC
(Lượt
(Lượt
(Lượt
(Lượt
(%)
(%)
(%)
(%)
hộ)
hộ)
hộ)
hộ)
- Dễ dùng, nhanh gọn
6
16,22
10
16,13
15
17,65 31.00
16,85
- Đỡ tốn công
0
0,00
18
29,03
30
35,29 48,00
26.09
- Ít chi phí
13
35,14
10
16,13
0
0,00 23,00
12,50
- Đất lâu khô
1
2,70
3
4,84
5
5,88
9,00
4,89
- Tưới đều ruộng
5
13,51
5
8,06
4
4,71 14,00
7,61
- Tiết kiệm điện
3
8,11
2
3,23
0
0,00
5,00
2,72
- Tiết kiệm nước
4
10,81
5
8,06
1
1,18 10,00
5,43
- Cây không bị ngã
5
13,51
1
1,61
10
11,76 16,00
8,70
- Hiệu quả cao hơn
0
0,00
8
12,90
15
17,65 23,00
12.50
- Thiếu vốn
0
0,00
0
0,00
5
5,88
5,00
2,72
Tổng số
37
100,00
62
100,00
85 100,00
184 100,00
(Nguồn: Số liệu điều tra,2015)
Theo tình hình thực tế điều tra được tại các xã, thì các phương pháp tưới đều có
ưu và nhược điểm riêng biệt. Đối với các hộ điều tra, thì chỉ tiêu dễ sử dụng, nhanh gọn
trong quá trình di chuyển và tưới nước thì phương pháp tưới bằng Bec phun chiếm
nhiều ưu thế nhất so với các phương pháp tưới còn lại, là 17,65% tương ứng với 15
lượt hộ bình chọn chỉ tiêu này cho phương pháp tưới Bec phun. Người nông dân chỉ
cần lắp đặt sẵn ống nước và các van điều chỉnh tại cột ống, khi đến mùa khô hanh hoặc
sắp thu hoạch thì chỉ cần đứng ở cầu dao máy bơm nước bật công tắc, thì các Bec trên
ruộng tự phun, tự quay tưới đều nước xung quanh gốc Bec. Sau một thời gian nhất định
cho một lần tưới, thường là 10 phút – 15 phút thì người nông dân sẽ di chuyển đầu Bec
73
sang cột nước khác để tiếp tục tưới. Đây là cách tưới nhanh gọn, dễ dùng nhất trong
các phương pháp tưới còn lại ở các hộ điều tra.
Trong khi đó, mức độ tiện lợi của phương pháp tưới bằng dây phun thủng
chiếm 16,13% tương ứng với 10 lượt hộ. Dây phun thủng cũng là phương pháp dễ
dùng nhưng không nhanh gọn. Các nông hộ phải sử dụng 2 đường ống nước, ống
nước lớn để dẫn nước ra ruộng và các dây phun thủng được trải đều trên ruộng nối
với các ống nước lớn để nước phun qua các lỗ thủng. Thông thường với 1 sào
ruộng, các nông hộ thường mua 100m dây phun thủng, sau đó cắt ra 4 phần trải
ngang mặt ruộng, mỗi dây cách nhau 1,5m, một đầu nối với ống nước lớn dẫn nước,
một đầu bịt chặt để tạo áp suất phun nước qua các lỗ thủng. Một lần phun 4 dây đã
cắt nhỏ từ cuộn 100m khoảng 30 phút – 45 phút. Sau đó, xả hết nước trong dây
phun rồi di chuyển sang mặt ruộng khác. Đây là phương pháp dễ sử dụng nhưng
không nhanh gọn, trong lúc di chuyển thì làm dập cây trên đường đặt ống phun, kéo
dây rườm rà, phức tạp, mất nhiều thời gian chờ đợi để nước không phun quá nhiều
làm úng cây.
Phương pháp tưới bằng dây phun thường rất dễ dùng và đơn giản. Các ống
nước bình thường được người nông dân kéo ra ruộng và bơm nước vào ống, dùng
tay cần đầu ống xịt đều lên mặt ruộng. Về mặt tiện lợi thì cách làm này chiếm
16,22% tương ứng với 6 lượt hộ bình chọn cho phương pháp này.
Về chỉ tiêu đỡ tốn công sức, thì phương pháp tưới bằng BEC phun chiếm
nhiều ưu thế nhất, 35,29% tương ứng với 30 lượt hộ. Phương pháp tưới bằng dây
phun thủng xếp thứ 2 chiếm 29,03% tương ứng với 18 lượt hộ. Và phương pháp
tưới tay bằng dây phun thường thì tốn nhiều công sức, người nông dân phải đứng
ngoài ruộng hết cả ngày tưới nên ảnh hưởng đến sức khỏe, không thể tận dụng thời
gian để làm công việc khác.
Về chỉ tiêu ít chi phí thì phương pháp tưới tay bằng dây phun thường lại
chiếm ưu thế nhiều hơn, 35,14% tương ứng với 13 lượt hộ. Các nông hộ thường lấy
công làm lãi nên tưới bằng dây phun thường tuy tốn công nhưng chi phí thấp nên
vẫn được các hộ nông dân không có điều kiện kinh tế sử dụng. Về phần ít chi phí thì
74
tưới bằng dây phun thủng chiếm 16,13% tương ứng với 10 lượt hộ, còn tưới bằng
Bec phun tiết kiệm công sức nhưng phải đầu tư vốn lắp đặt ống ngầm dưới mặt đất,
van Bec và đầu Bec tốn nhiều chi phí hơn so với các phương pháp tưới còn lại.
Chính vì vậy mà các nông hộ yêu cầu vốn sản xuất thì phương pháp tưới Bec phun
chiếm 5,88% tương ứng với 5 lượt hộ, trong khi đó các cách tưới còn lại không yêu
cầu vốn đầu tư nhiều.
Do khi tưới bằng BEC phun, nước được tưới đều dưới gốc Bec và cánh đập
theo thiết kế của Bec phun làm đều nước xung quanh gốc Bec, và Bec phun quay
nhiều lần nên đất đặc biệt lâu khô, giữ nước, giữ độ ẩm thích hợp cho lạc. Chỉ tiêu
này chiếm 5,88% tương ứng với 5 lượt hộ. Phương pháp tưới bằng dây phun thủng
chiếm 4,84% tương ứng với 3 lượt hộ. Do hạt nước từ lỗ phun của dây phun thủng
nhỏ, lượng nước ít như mưa phùn nên thời gian tưới lâu, đất ngấm nước lâu nên
mau khô nước khi di chuyển dây phun sang nơi khác. Tưới bằng dây phun thường
chiếm 2,7% tương ứng với 1 lượt hộ trong chỉ tiêu đất lâu khô. Do lượng nước qua
ống xịt tay lớn, nhiều, nhưng không đều, hạt nước to làm dập thân lạc. Người dân
chỉ phun ống nước 1 lượt trên mặt ruộng nên mau khô đất.
Đối với chỉ tiêu tưới đều mặt ruộng thì các phương pháp đều có ưu điểm này.
Tuy nhiên, phương pháp tưới bằng Bec phun lại khó có thể tưới ở gốc ruộng do
vòng quay của Bec hình tròn nên các gốc vuông của ruộng thường bị bỏ quên. Nếu
cánh Bec bị hỏng, hoặc khô dầu không hoạt động được thì nước không đến được
gốc Bec khi tưới. Do vậy mà đối với chỉ tiêu tưới đều ruộng thì phương pháp Bec
phun chỉ chiếm 4,71% tương ứng với 4 lượt hộ, còn dây phun thường có 5 lượt hộ
chiếm 13,51% và dây phun thủng cũng 5 lượt hộ chiếm 8,06%.
Trong các phương pháp thì Bec phun là phương pháp hao tốn nhiều điện hơn
các phương pháp tưới khác. Do tưới tay bằng dây phun thường thì bà con có thể
kiểm soát được lượng nước tưới và công suất điện phục vụ cho công tác tưới tiêu,
nên chỉ tiêu tiết kiệm điện là ưu thế của phương pháp tưới tay, chiếm 8,11% tương
ứng với 3 lượt hộ. Tưới bằng dây phun thủng tiết kiệm điện chiếm 2,32% tương ứng
với 2 lượt hộ.
75
Riêng đối với cây không bị ngã thì đây là ưu điểm tuyệt đối của tưới Bec,
chiếm 11,76% tương ứng với 10 lượt hộ, tưới phun thủng chỉ chiếm 1,61% tương
ứng với 1 lượt hộ, tưới phun thường chỉ chiếm 13,51% tương ứng với 5 lượt hộ.
Trong tất cả các phương pháp tưới, thì tưới Bec mang lại hiệu quả cao hơn so
với các phương pháp khác, chiếm 17,65% tương ứng với 15 lượt hộ bình chọn về
chỉ tiêu hiệu quả cao. Tưới bằng dây phun thủng chiếm 12,9% tương ứng với 8 lượt
hộ bình chọn về chỉ tiêu hiệu quả cao. Trong khi đó tưới bằng dây phun thường
không mang lại hiệu quả cao.
Tóm lại, trong tất cả các phương pháp tưới, thì các phương pháp chủ yếu
được sử dụng tại huyện điều tra la phương pháp tưới bằng dây phun thường, tưới
bằng dây phun thủng, tưới bằng Bec phun. Trong đó, phương pháp tưới bằng Bec
phun dễ dùng nhất, nhanh gọn tiện lợi, đỡ tốn công sức, đảm bảo sức khỏe cho bà
con nông dân vào thời tiết nắng nóng và công lao động dư thừa có thời gian làm các
công việc khác như làm cỏ, bón phân, phun thuốc… Cây lạc khi được tưới bằng
Bec phun thì không bị dập thân, bầm lá và hiệu quả cao hơn các phương pháp khác.
Tuy vậy phương pháp này lại hao tổn nhiều chi phí về tiền, điện, nước nên bà con
nông dân vẫn ngần ngại khi sử dụng đại trà phương pháp này. Phương pháp tưới
bằng dây phun thủng cho hạt nước đều, dễ sử dụng nhưng không đơn giản, tưới đều
mặt ruộng, tiết kiệm điện , tỉ lệ dập thân lạc ít hơn tưới bằng dây thường, tiết kiệm
chi phí nên được bà con tin dùng nhiều hơn. Tưới bằng dâu phun thường là phương
pháp thủ công được sử dụng sớm nhất. Tuy tốn nhiều công sức nhưng các nông hộ
có thể kiểm soát được lượng nước tưới, điện sử dụng do nguồn nước ở vùng điều
tra vào mùa khô hạn rất khan hiếm nên cho dù đây là phương pháp không mang lại
hiệu quả cao nhưng vẫn được bà con sử dụng rộng rãi.
76
2.4 Cơ cấu thu nhập của hộ
Bảng 2.24: Tỷ trọng thu nhập từ lạc trong tổng thu nhập của hộ gia đình
(Tính BQ/hộ)
Cát Hanh
Cát Hiệp
Cát Trinh
Tổng
Chỉ tiêu
SL
CC
SL
CC
SL
CC
SL
CC
(%)
(1000đ)
(%)
(1000đ)
(%)
(1000đ)
(%)
(1000đ)
Tổng thu nhập 164.288,66 100,00 133.274,62 100,00 139.117,53 100,00 148.669,84 100,00
118.545,04 72,16 86.791,52 65,12 87.485,23 62,89 100.541,13 67,63
1. Trồng trọt
48.620,78 41,01 41.291,60 47.57 39.707,19 45.38 39 857.14 39.64
- Lạc
50.037,05 42,21 12.144,76 13,99 11.038,89 12,62 28.040,33 27,89
- Xoài
34.806,76 21,19 29.920,00 22,45 46.903,73 33,72 38.151,30 25,66
2. Chăn nuôi
4.039,03
2,46 12.925,00
9,70
1.728,57
1,24
5.233,04
3,52
3. Ngành nghề
6.897,44
4,20
3.380,95
2,54
3.000,00
2,16
4.684,21
3,15
4. Dịch vụ khác
0,00
0,00
257,14
0,19
0,00
0,00
60,00
0,04
5. Khác
Dựa vào bảng điều tra trên cho thấy, bình quân mỗi nông hộ thu nhập được 148
669,84 nghìn/năm. Đây là một con số rất khả quan cho thấy khả năng làm việc của các hộ
gia đình rất hiệu quả. Trong số đó, trung bình mỗi hộ thu nhập tại xã Cát Hanh là khoảng
164 triệu đồng/năm. Xã Cát Trinh có trung bình mỗi hộ thu nhập khoảng 139 triệu/năm.
Xã Cát Hiệp có trung bình mỗi hộ thu nhập khoảng 133 triệu/năm.
Tỷ trọng thu nhập từ trồng trọt trung bình mỗi hộ chiếm 67,63% tổng thu nhập
tương ứng với khoảng 100 triệu đồng/ năm. Điều này cho thấy thu nhập từ trồng trọt là thu
nhập chính của nông hộ. Trong số đó, trung bình mỗi hộ thu nhập từ trồng trọt tại xã Cát
Hanh là khoảng 118 triệu đồng/năm chiếm 72,16% tổng thu nhập. Xã Cát Trinh có trung
bình mỗi hộ thu nhập khoảng 87 triệu/năm chiếm 62,89% tổng thu nhập. Xã Cát Hiệp có
trung bình mỗi hộ thu nhập khoảng 86 triệu/năm chiếm 65,12% tổng thu nhập. Qua bảng
số liệu trên cho thấy, trung bình mỗi hộ tại xã Cát Hanh có tổng thu nhập lớn nhất so với
các hộ còn lại nên tỷ trọng từ trồng trọt cũng chiếm % lớn hơn so với các hộ còn lại.
Trong đó thu nhập từ lạc chiếm 39.64 % tổng thu nhập từ trồng trọt tương ứng với
khoảng 39 triệu đồng/ năm. Thu nhập từ lạc cũng là nguồn thu chính chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng thu từ trồng trọt của các hộ gia đình. Tại Xã Cát Hanh trung bình mỗi hộ thu
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
77
nhập từ lạc là khoảng 48 triệu đồng/năm chiếm 41,01% tổng thu nhập từ trồng trọt. Xã Cát
Hiệp có trung bình mỗi hộ thu nhập khoảng 41 triệu/năm chiếm 47.57% tổng thu nhập từ
trồng trọt.Xã Cát Trinh có trung bình mỗi hộ thu nhập khoảng 39 triệu/năm chiếm 45.38%
tổng thu nhập từ trồng trọt.
Thu nhập từ xoài chỉ chiếm 27,89% tổng thu nhập từ trồng trọt tương ứng với
khoảng 28 triệu đồng/ năm. Tại Xã Cát Hanh diện tích trồng xoài lớn nhất trong số các hộ
điều tra nên trung bình mỗi hộ thu nhập từ xoài là khoảng 50 triệu đồng/năm chiếm
42,21% tổng thu nhập từ trồng trọt. Xã Cát Hiệp có trung bình mỗi hộ thu nhập từ xoài
khoảng 12 triệu/năm chiếm 13,99% tổng thu nhập từ trồng trọt.Xã Cát Trinh có trung bình
mỗi hộ thu nhập từ xoài khoảng 11 triệu/năm chiếm 12,62% tổng thu nhập từ trồng trọt.
Thu nhập từ trồng xoài đối với một số hộ là thu nhập chính, song vẫn không thể sánh bằng
thu nhập từ trồng lạc. Mặt khác, lạc là cây ngắn ngày, dễ trồng, năng suất cao nên cần
khuyến khích bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ những cây không mang lại hiệu quả
sang trồng lạc.
Thu nhập từ chăn nuôi chiếm 25,66% tổng thu nhập tương ứng với khoảng 38 triệu
đồng/ năm. Tại Xã Cát Hanh trung bình mỗi hộ thu nhập từ chăn nuôi là khoảng 34 triệu
đồng/năm chiếm 21,19% tổng thu nhập. Xã Cát Hiệp có trung bình mỗi hộ thu nhập từ
chăn nuôi khoảng 29 triệu/năm chiếm 22,45% tổng thu nhập.Xã Cát Trinh có trung bình
mỗi hộ thu nhập từ chăn nuôi khoảng 46 triệu/năm chiếm 33,72% tổng thu nhập. Chăn
nuôi đối với hộ gia đình mục đích chính để tận dụng thức ăn dư thừa, lấy phân bón cho
đồng ruộng, sức kéo cho nông nghiệp nên thu nhập từ chăn nuôi không chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập của người nông dân, do không có mức đầu tư tiền bạc và công sức
đúng với tiềm năng của đàn gia súc, gia cầm.
Thu nhập từ ngành nghề trung bình mỗi hộ chiếm 3,52% tổng thu nhập tương ứng
với khoảng 5,2triệu đồng/ năm. Ngoài thời gian làm nông thì khi không vào mùa vụ, lao
động rãnh rỗi dư thừa lại tận dụng làm công việc khác như phụ thợ hồ, phụ thợ mộc, chạy
xe thồ hàng, tráng bánh đa… mặc dù thu nhập kiếm được không đáng kể nhưng cũng đủ để
trang trải chi phí cho gia đình khi chưa đến mùa thu hoạch. Tại Xã Cát Hanh trung bình
mỗi hộ thu nhập từ ngành nghề là khoảng 4 triệu đồng/năm chiếm 2,46% tổng thu nhập.
Xã Cát Hiệp có trung bình mỗi hộ thu nhập từ ngành nghề khoảng 12 triệu/năm chiếm
9,7% tổng thu nhập.Xã Cát Trinh có trung bình mỗi hộ thu nhập từ ngành nghề khoảng 1
triệu/năm chiếm 1,24% tổng thu nhập.
78
Thu nhập từ dịch vụ khác trung bình mỗi hộ chiếm 3,15% tổng thu nhập tương ứng
với khoảng 5,2triệu đồng/ năm. Tương tự các ngành nghề khác, thu nhập từ dịch vụ chỉ là
khoản thu phụ ngoài thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi của các hộ gia đình, ví dụ như:
cung cấp phân gia súc, gia cầm, thức ăn chế biến từ thân lạc ủ hoai, cung cấp nước ngầm
(nước giếng) từ nơi dư thừa đến nơi khan hiếm …Tại Xã Cát Hanh trung bình mỗi hộ thu
nhập từ dịch vụ khác là khoảng 6 triệu đồng/năm chiếm 4,2% tổng thu nhập. Xã Cát Hiệp
có trung bình mỗi hộ thu nhập từ dịch vụ khác khoảng 3 triệu/năm chiếm 2,54% tổng thu
nhập.Xã Cát Trinh có trung bình mỗi hộ thu nhập từ dịch vụ khác khoảng 3 triệu/năm
chiếm 2,16% tổng thu nhập.
Các khoản thu nhập từ khác như lương hưu trí, lương trợ cấp… trung bình mỗi hộ
chiếm 0,04% tổng thu nhập tương ứng với khoảng 60 nghìn đồng/ năm. Chỉ có duy nhất xã
Cát Hiệp có trung bình mỗi hộ thu nhập khác khoảng 257 nghìn đồng/năm chiếm 0,19%
tổng thu nhập.
2.5 Tình hình tiêu thụ và sử dụng lạc
Thị trường đầu ra là một yếu tố hết sức quan trọng đối với mọi quá trình
sản xuất – kinh doanh. Thị trường là nơi quyết định giá cả, do đó ảnh hưởng lớn
đến lợi nhuận của người sản xuất. Thông qua thị trường, người sản xuất có thể
điều chỉnh quy mô, cơ cấu, chấ lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu thị
trường nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Ở huyện Phù Cát, lạc
làm ra chủ yếu để bán, một phần làm giống và một phần rất nhỏ được sử dụng để
làm thức ăn cho gia đình. Sản phẩm lạc được bán ra vào thời điểm năm 2015 với
mức giá khá cao, bình quân 21.500 đồng/kg, giá lạc cao giúp đem lại thu nhập
đáng kể cho hộ sản xuất.
79
Bảng 2.25: Hình thức tiêu thụ, địa điểm và đối tượng thu mua lạc
Các chỉ tiêu
BQC
1. Hình thức tiêu thụ
Cát Hanh 100,00
Cát Hiệp 100,00
Cát Trinh 100,00
100,00
Tiêu dùng cho gia đình
5,52
3,11
5,46
4,97
Biếu tặng bạn bè hay người thân
0,88
0,42
0,25
0,55
Hàng đổi hàng
0,12
0,00
0,00
0,05
Nộp để bù lại các yếu tố đầu vào đã mua trước
0,82
0,00
0,00
0,24
Bán ra thị trường
92,66
96,48
94,29
94,21
100,00
100,00
100,00 100,00
2. Địa điểm bán
Bán tại ruộng
15,11
4,17
12,68
11,88
Bán tại nhà
73,83
92,00
84,63
80,56
Bán tại đại lý/người thu gom
9,40
3,84
2,44
6,82
Bán tại chợ
1,67
0,00
0,24
0,75
Bán nơi khác
0,00
0,00
0,00
0,00
100,00
100,00
100,00 100,00
3. Đối tượng thu mua
Thu gom nhỏ địa phương
82,05
60,83
68,33
72,18
Thu gom lớn của vùng/tỉnh
15,06
39,17
31,67
26,25
Công ty chế biến
1,27
0,00
0,00
0,92
Bán cho người khác
1,63
0,00
0,00
0,65
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Từ bảng số liệu, có thể thấy sản phẩm chính của lạc là củ lạc được sử dụng
với mục đích chính là bán ra thị trường. Ngoài ra còn có tiêu dùng cho gia đình,
biếu tặng, đổi lấy các hàng hóa khác hoặc nộp để bù lại các yếu tố đầu vào đã mua
trước. Trong tổng sản lượng lạc điều tra thì sản lượng dùng để bán chiếm 94,21%,
sản lượng dùng để tiêu dùng cho gia đình chiếm 4,96%, sản lượng dùng để biếu
tặng chiếm 0,55%, sản lượng dùng làm hàng đổi hàng là 0,05%, sản lượng dùng để
nộp bù lại các yếu tố đầu vào đã mua trước như phân bón, thuốc trừ sâu…
Qua điều tra khảo sát ở địa phương, tôi nhận thấy sản phẩm lạc hàng hóa được
bán các đối tượng: thu gom nhỏ, thu gom lớn, công ty chế biến, hoặc người khác. Sản
80
phẩm lạc bán cho người khác chiếm tỷ trọng rất ít, chiếm khoảng 0,65%, là hàng xóm
người quen dùng để ăn hoặc làm giống khi lạc vào vụ Mùa hoặc vụ Hè Thu.
Có khoảng 72,18% sản lượng lạc bán cho các thu gom nhỏ ở các xã hoặc địa
phương. Đây là đối tượng mua chủ yếu của các hộ nông dân tại địa phương. Vào
thời gian thu hoạch lạc thì các thương lái thường đến đúng vụ để đặt hàng và mua
hàng. Các hộ nông dân thường không dự trữ lạc quá lâu vì không biết giá cả lạc
cuối vụ hoặc vụ khác thay đổi như thế nào, và một phần nữa là vì các thương lái
thường đến đúng vụ để lấy hàng nên các sản phẩm lạc thường bán hết sau khi thu
hoạch. Nông dân chủ yếu bán sản phẩm lạc sau khi đã phơi khô, không bán lạc tươi
cho các thương lái vì giá thấp. Nông dân bán lạc cho những người này dựa vào mối
quan hệ quen biết, hoặc người không có mối quan hệ nhưng thấy được giá chấp
nhận được nên bán. Đối với những hộ trồng lạc có đầy đủ về vốn, thì không có mối
liên hệ gì giữa thu gom nhỏ và người bán; tuy nhiên, đối với những hộ thiếu vốn
tạm thời thì các hộ thường ứng tiền trước của các thu gom nhỏ, khi nào thu hoạch
lạc thì bán sản phẩm cho họ theo giá thị trường để trả nợ.
Sản phẩm lạc hàng hóa được bán cho các thu gom lớn ở xã và ngoài xã chiếm
26,25%. Các hộ gia đình thường bán sản phẩm ngay sau khi thu hoạch để lấy tiền trang
trải cho các khoản chi phí gia đình. Đối với những hộ có diện tích trồng lạc lớn, thì
thường có các thương lái là thu gom lớn của các vùng khác đến mua, thuận mua vừa
bán theo giá cả của thị trường chứ không có thỏa thuận hay giao kèo gì trước.
Một số ít hộ mang đến công ty doanh nghiệp chế biến lạc để bán chỉ chiếm
1.27%. Và sản phẩm lạc khi mang đến cho nơi chế biến phải là lạc nhân đã bóc vỏ,
phơi khô thì giá cả sẽ cao hơn so với lạc khô nguyên vỏ hay lạc tươi.
Về địa điểm bán: Đối với trường hợp bán cho các thu gom ở xã và ngoài xã
thì địa điểm bán là ở nhà chiếm 80,56%. Lạc sau khi thu hoạch, phơi khô thì có các
thu gom tới nhà mua, mặc cả về giá, sau đó các thu gom sẽ thuê xe chở lạc về nhà
mình hoặc đến các bãi thu gom lớn hơn.
Một số thu gom mua sản phẩm lạc khi đang phơi ngoài ruộng chiếm 11,88%.
Người dân đưa đến đại lý, cơ sở chế biến để bán chỉ chiếm 6,82%. Bán tại chợ cho
người khác khi lạc vào vụ Hè Thu hoặc vụ Mùa là 0,75%.
81
Bảng 2.26: Cam kết khi thu mua sản phẩm lạc
Chỉ tiêu
Cát Hanh
Cát Hiệp
Cát Trinh
Tổng
SL
CC
SL
CC
CC
SL
CC
SL
(Hộ)
(%)
(Hộ)
(%)
(%)
(Hộ)
(%)
(Hộ)
Cam kết
Có
0
0,00
0
0,00
6,82
3
2,50
3
thu mua
Không
51 100,00
25 100,00
93,18
117
97,50
41
Tổng
51 100,00
25 100,00
44 100,00
120 100,00
- Đúng
Có
0
0,00
0
0,00
3 100,00
3 100,00
cam kết
Không
0
0,00
0
0,00
0
0,00
0
0,00
Tổng
0
0,00
0
0,00
3 100,00
3 100,00
- Nguyên
Do gia đình
0
0
0
0
0
0
0
0
nhân
Do đối tượng
0
0
0
0
0
0
0
0
không
thu mua
đúng cam
Tổng
kết
0 100,00
0 100,00
0 100,00
0 100,00
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Theo số liệu điều tra thì hầu hết các hộ với thương lái không có bất cứ cam kết
hay giao kèo gì trước. Vụ trước lái buôn này mua nhưng vụ sau thương lái khác đến
mua sớm hơn, giá tốt hơn thì gia đình sẽ bán cho người đó chứ không có bất cứ cam
kết gì. Tỉ lệ này chiếm 97,5% tương ứng với 117 hộ. Chỉ có 2,5% hộ có cam kết
trước với thương lái, tỉ lệ này tương ứng với 3 hộ và các hộ này đều thuộc xã Cát
Trinh. Những thương lái có cam kết trước với các hộ thường là những thu gom nhỏ
có mối quan hệ quen biết lâu năm, làm ăn dựa trên uy tín, thuộc địa phương hoặc
các vùng lân cận, cho các nông hộ ứng trước một khoản tiền để trang trải cuộc sống,
khi đến mùa thu hoạch thì các thương lái này sẽ đến trừ nợ, mua lạc theo giá cả thị
trường vào thời điểm đó.
82
Bảng 2.27: Thứ tự tác nhân quyết định giá bán lạc của các hộ điều tra ở huyện
Phù Cát
1 Thứ tự quyết định 2 3
Tác nhân quyết định
CC (%) CC (%) CC (%) SL (Lượt hộ) SL (Lượt hộ) SL (Lượt hộ)
Nông dân 1 0,83 15 12,71 71 61,21
Thương lái 66 55,00 44 37,29 5 4,31
Cả nông dân và
thương lái 1 0,83 51 43,22 33 28,45
Cơ sở chế biến 0,00 1 0,85 0,00
Khác 52 43,33 7 5,93 6,03 7
Tổng số 120 100,00 118 100,00 116 100,00
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Theo số liệu điều tra ở Huyện Phù Cát, thì các tác nhân tham gia vào quyết
định giá bán lạc là người nông dân, thương lái, chính quyền địa phương, cơ sở chế
biến và tác nhân khác ở đây là giá cả thị trường.
Ở vị trí thứ 1 quyết định giá cả của lạc, tác nhân người nông dân chỉ chiếm
0,83% tương ứng với 1 lượt hộ. Người nông dân là tác nhân đầu tiên quyết định giá
cả của lạc khi đến cuối mùa lạc, hoặc lạc vào vụ Hè Thu, vụ Mùa thì người nông
dân mới có quyền quyết định giá hoặc đàm phán giá với thương lái. Còn lại, tại vị
trí số 1, thương lái chính là tác nhân quyết định đến giá cả, nếu chất lượng lạc cao
thì giá cả sẽ cao, nếu lạc kém chất lượng sẽ bị ép giá xuống thấp, vị trí số 1 của tác
nhân thương lái chiếm 55% tương ứng với 66 lượt hộ. Giá cả thị trường là yếu tố
quan trọng trong việc quyết định giá cả và ảnh hưởng đến giá cả mua bán lạc. Giá
cả thị trường đứng vị trí thứ 1 chiếm 43,33% tương ứng với 52 lượt hộ. Cả nông
dân và thương lái bàn bạc về giá cả bán lạc chỉ chiếm 0,83% tương ứng với 1 hộ
trong số các tác nhân quyết định đến giá ở vị trí số 1.
83
Ở vị trí thứ 2 quyết định giá cả của lạc, tác nhân người nông dân chiếm
12,71% tương ứng với 15 lượt hộ. Ở vị trí này, người nông dân vẫn chưa là tác nhân
chiếm ưu thế so với các tác nhân còn lại. Điều này chứng tỏ người nông dân rất
thiệt thòi khi bán sản phẩm ra thị trường bên ngoài. Thương lái chiếm 37,29%
tương ứng với 44 lượt hộ. Cả nông dân và thương lái cùng bàn bạc về giá cả chiếm
43,22% tương ứng với 51 lượt hộ. Điều này chứng tỏ, tại vị trí thứ 2 thì việc đàm
phán về giá cả giữa người nông dân và thương lái phụ thuộc vào chất lượng lạc.
Nếu lạc hạt to, tròn đều, không lép sâu thì người nông dân có quyền quyết định giá
ở mức cao trong phạm vi giá cả hợp lý. Nếu chất lượng sản phẩm lạc không tốt thì
giá cả sẽ do thương lái quyết định. Giá cả thị trường chiếm 5,93% tương ứng với 7
lượt hộ. Một số hộ đưa lạc đến tận cơ sở chế biến để giao sản phẩm, thì cơ sở chế
biến quyết định giá cả lạc, tác nhân này chiếm 0,85% tương ứng với 1 lượt hộ.
Ở vị trí thứ 3 quyết định giá cả của lạc, tác nhân người nông dân chiếm
61,21% tương ứng với 71 lượt hộ. Thương lái chiếm 4,31% tương ứng với 5 lượt
hộ. Cả nông dân và thương lái cùng bàn bạc về giá cả chiếm 28,45% tương ứng với
33 lượt hộ. Giá cả thị trường chiếm 6,03% tương ứng với 7 lượt hộ. Ngoài ra cơ sở
chế biến không là tác nhân quyết định giá lạc ở vị trí này.
Tóm lại, các thương lái luôn là tác nhân quyết định giá mua lạc tại địa
phương. Thương lái dựa vào giá cả thị trường và chất lượng lạc để quyết định giá
mua lạc và ép giá tại địa điểm mua. Còn người nông dân luôn là tác nhân chịu nhiều
ảnh hưởng và thiệt thòi khi bán lạc cho các thu gom. Vì hầu hết các hộ nông dân
không có điều kiện di chuyển lạc đến trực tiếp các cơ sở chế biến, thiếu kiến thức về
đầu ra và không có sự đầu tư xứng đáng về thời gian và tiền bạc để vận chuyển lạc
nên luôn phụ thuộc vào các tác nhân khác.
84
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc theo
mô hình tưới tiêu của nông hộ ở huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định
3.1. Khó khăn và thuận lợi đối với các hộ
Cũng như các loài cây trồng khác, sản xuất lạc chịu ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan, do đó trong quá trình sản xuất lạc mặc dù có
những thuận lợi nhất định, nhưng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Các khó khăn mà hộ thường gặp phải:
- Giá cả sản phẩm lạc không ổn định, thấp và bị ép giá từ các thương lái. Giá
vật tư đầu vào tương đối cao, như phân, thuốc bảo vệ thực vật…đã làm ảnh hưởng
rất lớn đến thu nhập của hộ.
- Qui mô đất sản xuất nông nghiệp ít, chưa có hộ gia đình nào đầu tư nhân
rộng lạc thành mức trang trại với quy mô lớn, chuyên nghiệp và áp dụng các
phương pháp khoa học kĩ thuật tiên tiến vào sản xuất do thiếu vốn đầu tư thâm canh
và mở rộng SX.
- Thiếu lao động trẻ. Hầu hết các lao động trẻ đều ra thành phố làm việc nên
đây là nguồn lao động còn thiếu hụt ở nông thôn. Chủ yếu là người lớn tuổi và trẻ
em ở lại địa phương làm nông và học tập. Kiến thức về kỹ thuật sản xuất lạc còn
hạn hẹp, chủ yếu sản xuất dựa vào kinh nghiệp lâu năm, truyền từ người này qua
người khác và không mạnh dạn áp dụng các phương thức khoa học mới. Hệ thống
cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đúng với tiềm năng.
- Nguồn nước còn hạn chế, vào mùa khô hạn thì nước chính là vấn đề đáng
quan tâm nhất đối với các hộ làm nông nghiệp. Chính vì vậy cần có các chính sách
hợp lý dẫn nước vào đồng ruộng và khuyến khích người nông dân cần đầu tư sử
dụng các phương pháp tưới tiêu tiết kiệm nước để sử dụng được dài lâu.
- Chất lượng các vật tư đầu vào của các phương pháp tưới tiêu phục vụ cho
nông nghiệp như van Bec phun, đầu phun,, ống nươc dẫn, dây phun thủng.. chất
lượng chưa đảm bảo, giá cả chênh lệch từ vùng này qua vùng khác gây khó khăn
cho người nông dân khi sử dụng.
85
Mặt khác, sự thiếu hụt thống tin và hiểu biết của người dân còn hạn chế, dẫn
đến việc áp dụng các phương pháp tưới tiêu chưa phổ biến và kém hiệu quả. Sau
đây là bảng điều tra về tình hình nghe đến các phương pháp tưới tiêu của hộ điều tra
ở huyện Phù Cát phân theo phương pháp tưới nước:
Bảng 3.1: Tình hình nghe đến các phương pháp tưới tiêu của hộ điều tra ở
huyện Phù Cát phân theo phương pháp tưới nước
Béc phun
Dây phun thủng
Dây phun thường
Tổng
SL
CC
SL
CC
SL
CC
SL
CC
Nghe
(Hộ)
(%)
(Hộ)
(%)
(Hộ)
(%)
(Hộ)
(%)
36
61,02
32
62,75
9
90,00
77
64,17
Có
Không
23
38,98
19
37,25
1
10,00
43
35,83
59
100,00
51
100,00
10
100,00
120
100,00
Tổng
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ, 2015)
Trong tổng số 120 hộ điều tra thì khả năng nghe đến các phương pháp tưới
tiêu trên địa bàn huyện nói riêng thì có 77 hộ 64,17% tổng số hộ điều tra nghe đến
các phương pháp tưới tiêu được áp dụng cho các cây trồng, còn lại 43 hộ chiếm
35,83% tổng số hộ điều tra chưa nghe đến các phương pháp này. Điều này chứng tỏ
khả năng nắm bắt thông tin của người dân còn hạn chế, về phần chính quyền địa
phương thì chưa phổ biến rộng rãi các phương pháp hiệu quả đến tận tay từng hộ
nông dân. Để giải quyết vấn đề này cần sự nỗ lực từ hai phía. Cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữ người nông dân và chính quyền địa phương để các thông tin hữu ích
cho nông nghiệp được bà con nông dân nắm rõ và thực hiện tốt. Đối với phương
pháp tưới bằng BEC phun, thì chỉ có 61,02% số hộ tương ứng với 36 hộ nghe đến
phương pháp tưới tiêu Bec phun, còn 38,98% số hộ tương ứng với 23 hộ không
nghe đến phương pháp này. Có 62,75% số hộ tương ứng với 32 hộ nghe đến
phương pháp tưới tiêu bằng dây phun thủng, còn 37,25% số hộ tương ứng với 19 hộ
không nghe đến phương pháp này. Có 90% số hộ tương ứng với 9 hộ nghe đến và
sử dụng phương pháp tưới tiêu bằng dây phun thường, đây là phương pháp thủ công
86
phổ biến hiện nay tại địa phương nên chỉ có 10% số hộ tương ứng với 1 hộ không
nghe đến phương pháp này.
Ngược với những khó khăn ở trên, hộ sản xuất lạc đã có những thuận lợi lớn
do cơ chế chính sách hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, các cấp các ngành cùng các địa
phương đã làm cho các hộ trồng lạc yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất, một thuận
lợi nữa cho hộ sản xuất lạc là lực lượng lao động khá dồi dào.
Nhu cầu của các hộ nông dân điều tra khi có các phương pháp mới là sẵn
sàng ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nhưng yêu cầu phương
pháp đó phải tiết kiệm nước, phù hợp với điều kiện hiện tại của địa phương vào
mùa khô hạn là khan hiếm nước. Tiết kiệm điện, chi phí đầu vào thấp vì nguồn vốn
của người dân có hạn và sử dụng được bền lâu. Mặc dù sẵn sàng thử nghiệm các
phương pháp tưới tiêu có hiệu quả nhưng người dân phải được tận mắt chứng kiến
mới có thể ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp của gia đình. Người nông dân mong
muốn sẽ nhận được các chính sách hỗ trợ giá đầu vào khi sử dụng các phương pháp
tưới tiêu và giá cả đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản xuất lạc nói
riêng. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thủy lợi để kịp thời cấp nước vào mùa khô
hạn, rút nước vào mùa mưa lũ cho bà con nông dân yên tâm sản xuất.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc theo mô hình tưới tiêu
của nông hộ ở huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định
Quá trình nghiên cứu tình hình kết quả và hiệu quả sản xuất Lạc theo mô
hình tưới tiêu của nông hộ ở huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định tôi mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất lạc của nông hộ theo các mô
hình tưới tiêu.
3.2.1. Giải pháp qui hoạch và mở rộng vùng sản xuất
-Nhà nước cần tiến hành tổng điều tra quy hoạch các vùng lạc tập trung, xây
dựng các cánh đồng mẫu lớn để tiện lợi trong khâu cày bừa, bón phân, phun thuốc,
tưới tiêu, thu hoạch bằng máy tiết kiệm công lao động. Ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ trong các khâu để nâng cao năng suất lạc
87
- Quy hoạch các vùng nguyên liệu gắn với hệ thống chế biến, tiêu thụ và xuất
khẩu, đầu tư một cách đồng bộ nhằm tạo ra vùng sản xuất lớn, tập trung, đảm bảo
cung cấp được các nguyên liệu đầu vào có chất lượng tốt, đồng đều cho người dân
sản xuất.
Có một thực tế đang diễn ra trên cả nước nói chung và trên huyện Phù Cát
nói riêng là tình trạng ruộng đất manh mún, chia nhỏ, và phân tán đã gây không ít
khó khăn khi đưa máy móc vào để cơ giới hóa trong khâu làm đất, tưới nước, cũng
như gây khó khăn trong công tác đầu tư sản xuất , thu hoạch và tiêu thụ nông sản.
Do đó, để khắc phục tình trạng trên, trước tiên địa phương cần thực hiện việc quy
hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai, thành lập nên những vùng chuyên canh quy mô
lớn dựa trên những điều kiện tự nhiên của vùng phù hợp với sinh trưởng và phát
triển cây lạc. Qũy đất trồng lạc của huyện cần được phát huy như sau : (1) tiếp tục
duy trì diện tích đất ổn định hiện có; (2) chuyển đổi một số diện tích canh tác cây
trồng không hiệu quả sang canh tác lạc; (3) tăng cường trồng xen canh với cây màu,
cây lương thực ( sắn, ngô, đậu tương...), cây công nghiệp ngắn ngày, cũng như cây
công nghiệp dài ngày trong thời kì kiến thiết cơ bản và cây lâu năm (Xoài,
Điều…); (4) chuyển một phần diện tích đất lâm nghiệp chưa sử dụng trên địa bàn
sang trồng lạc và các cây hàng năm khác. Trên cơ sở qui hoạch và kế hoạch sử dụng
đất đai, huyện cần chú ý đầu tư nâng cấp, xây dựng mới hệ thống thủy lợi phục vụ
sản xuất nông nghiệp tạo điều kiện tưới tiêu nước đến tận đồng ruộng cho bà con
nông dân.
Tiếp theo là chỉ đạo thực hiện tốt công tác “dồn điền đổi thửa” để mở rộng
qui mô đất đai giúp cho việc đưa các tiến bộ khoa học - kĩ thuật vào sản xuất một
cách có hiệu quả. Hiện nay, ở địa phương công tác dồn điền đổi thửa cần được thực
hiện theo các hướng sau đây: (1) quá trình dồn điền đổi thửa cần thực hiện một cách
khoa học, có tính toán , tránh tình trạng là theo mệnh lệnh hành chính, đặc biệt là
cần có sự tự nguyện của nông dân bằng công tác tuyên truyền, phổ biến để người
dân thấy được những lợi ích thật sự của nó; (2) dồn điền đổi thửa giúp thức đẩy
mạnh áp dụng khoa học kĩ thuật trong khâu làm đất và chăm sóc, tưới nước bằng
88
các phương pháp tưới tiêu hiện đại, đỡ tốn công lao động, do đó sẽ tạo một lượng
lao động dư thừa, vì thế để công tác dồn điền đổi thửa thật sự mang lại những lợi
ích kinh tế xã hội cho người dân thì chính quyền địa phương cũng như người nông
dân cần chủ động tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp trong lúc nông nhàn nhằm
tăng thu nhập, cải thiện đời sống của dân cư trong vùng.
Khuyến khích các mô hình trang trại sản xuất lạc đang sử dụng các phương
pháp tưới tiêu đồng loạt có hiệu quả để người dân tham gia học hỏi kinh nghiệm mở
rộng sản xuất.
3.2.2 Giải pháp về hệ thống thủy lợi:
Tại huyện Phù Cát thì hệ thống thủy lợi đặc biệt quan trong đối với các hộ
sản xuất nông nghiệp nói chung cũng như các hộ sản xuất lạc nói riêng. Vì nước
thiếu nên các phương pháp tưới dù có sử dụng được triệt để hết mọi công suất và
phát huy hết mọi khả năng thì vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu của cây trồng đặc biệt
là cây lạc. Vào vụ thu hoạch, trừ những ngày mưa hiếm hoi thì lạc luôn được tưới
liên tục. Nên vấn đề xây dựng các hệ thống thủy lợi, dẫn nước vào tận đồng ruộng,
từ thượng nguồn hay các con sông, hồ của khu vực là điều cấp bách và cần thiết.
Trong kinh nghiệm sản xuất, ông bà ta có câu : “Nhất nước, nhi phân, tâm cần,
tứ giống”, nên có thể nói rằng hệ thống thủy lợi tốt hay không tốt đều ảnh hưởng đến
hiệu quả sản xuất lạc ở địa phương. Hệ thống thủy lợi ở địa phương mặc dù đã được
chú trọng phát triển nhưng ở một số vùng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hệ thống thủy
lợi đảm bảo nước tưới chủ động cho hơn 19 680,05 ha đất trồng cây nông nghiệp
(chiếm 44,2% diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên toàn huyện). Hiện nay, ở địa
phương còn tồn tại một số hộ nông dân vẫn chưa quan tâm đúng mức đến lượng nước
tưới cho cây lạc. Do đó, những hộ này đã bỏ mất cơ hội nâng cao năng suất lạc. Trong
thời gian tới, địa phương cần huy động nguồn kinh phí để đầu tư mới và nâng cấp các
kênh mương cấp 1,2,3 để phục vụ nhu cầu tưới và tiêu nước của bà con nông dân,
củng cố và phát huy tối đa công suất các hồ đập, các trạm bơm hiện có, cải thiện hệ
thống kênh mương nội đồng, triển khai xây dựng các công trình mới. Việc triển khai
xây đựng các công trình thủy lợi nên Nhà nước và nhân dân cùng làm , có như vậy hiệu
quả sử dụng các công trình này mới được nâng cao.
89
3.2.3. Giải pháp về giống, khoa học kĩ thuật và nâng cao trình độ chuyên môn
kỹ thuật và kinh tế
- Nhà nước cần hỗ trợ về lai tạo giống, phát triển các giống lạc mới, tuyển
chọn lai tạo các giống lạc mới có năng suất cao, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt
và tổ chức chuyển giao nhanh đến hộ nông dân.
- Nhà nước cần mở các lớp tập huấn kiến thức, chuyển giao khoa học kỹ
thuật cho người trồng lạc, chú trọng công tác truyền thông, thông tin thị trường...
đưa các sách báo, tạp chí liên quan đến sản xuất lạc về tận tay các hộ, cần thực hiện
quy trình công nghệ sản xuất ra các loại sản phẩm lạc có chất lượng cao đáp ứng
được với đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường thế giới.
3.2.4. Giải pháp về thị trường tiêu thụ
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại thông qua các hoạt động quảng cáo
, tham gia hội chợ, triển lãm. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, xây dựng
hệ thống cung cấp thông tin về sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm trên thị
trường thế giới. Phát triển thông tin và dự báo thị trường về giá cả hàng hóa và giá
cả vật tư nông nghiệp phục vụ nhu cầu sản xuất thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng đến tận các hộ nông dân, mở rộng các dịch vụ mua bán ở các vùng trọng
điểm và các khu dân cư.
- Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức thu mua. Khuyến khích các cơ sở
chế biến lạc mua trực tiếp từ người nông dân để giảm bớt các khâu trung gian qua
thương lái hay thu gom nhỏ lẻ. Hành động thiết thực này sẽ giảm bớt chi phí cho
các cơ sở chế biến lạc, các cơ sở sẽ mua được sản phẩm trực tiếp từ nhà sản xuất là
người nông dân nên chi phí sẽ thấp hơn là mua qua trung gian, người nông dân cũng
được lợi là giá cả ổn định và cao hơn khi bán cho thương lái, đôi bên cùng có lợi.
Do đó, trong thời gian tới địa phương cần xây dựng một thị trường tiêu thụ lạc ổn
định, thực hiện thu gom đến từng hộ dân, giảm bớt các khâu trung gian trong tiêu
thụ; đồng thời, cần xây dựng chính sách thu mua hợp lí để đảm bảo lợi ích cho cả
người mua lẫn người sản xuất; bên cạnh đó, địa phương cần khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia thu mua, kinh doanh nông sản cũng như khuyến khích xây
dựng các cơ sở chế biến để thu mua lạc ổn định cho nông dân.
90
- Đẩy mạnh liên kết giữa sáu nhà: Nhà nông thực hiện việc thâm canh và
chăm sóc theo đúng quy trình kĩ thuật canh tác, thu hoạch và bán nông sản cho Nhà
doanh nghiệp theo đúng hiệp đồng đã kí; Nhà doanh nghiệp thực hiện bao tiêu sản
phẩm và tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; Nhà khoa học nghiên cứu và
chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ cho nông dân; Nhà nước thực hiện hỗ
trợ bằng cơ chế chính sách phù hợp, cung cấp thông tin cần thiết và thực hiện việc
định hướng sản xuất; Nhà băng cung cấp vốn; Nhà báo thực hiện việc quảng bá và
thông tin về sản phẩm.
3.2.5. Giải pháp về vốn
Huyện Phù Cát là huyện đặc trưng có thời tiết khô nóng quanh năm, việc
cung cấp đủ nước cho sinh hoạt của người dân và đặc biệt là cho các loại cây trồng
nói chung cũng như cây lạc nói riêng là điều cần thiết. Nhưng hiện nay các phương
pháp tưới tiêu càng tiết kiệm nước, tiết kiệm công lao động thì chi phí càng cao, nên
các hộ rất cần vay vốn để hỗ trợ cho việc sản xuất bằng các phương pháp tưới tiêu
trên đồng ruộng của mình. Qua thực tế nghiên cứu, tôi thấy rằng chi phí cho việc
sản xuất một sào lạc là không cao lắm, tuy nhiên để mở rộng quy mô sản xuất, tăng
đầu tư thâm canh để nâng cao năng suất và chất lượng lạc thì vốn trở thành nhu cầu
cần thiết. Vẫn còn một số hộ có nhu cầu về vốn để mở rộng quy mô sản xuất, đặc
biệt là nhu cầu về vốn để đầu tư trang thiết bị hiện đại cần thiết phục vụ sản xuất.
Do đó, để khuyến khích việc sản xuất lạc phát triển thì sự hổ trợ về vốn cho hộ sản
xuất là điều thật sự cần thiết.
Hiện nay, tuy cơ hội vay vốn của nông dân có nhiều hơn trước nhưng do thủ
tục vay vốn rườm rà, phiền hà nên nhiều hộ nông dân vẫn chưa tạo được vốn trong
sản xuất. Một vấn đè đặt ra nữa là làm sao vốn đến được với người nghèo, vì khi
vay vốn ngân hàng yêu cầu phải có tài sản thế chấp.Do vậy, thủ tục vay vốn nên
đơn giản, dễ tiếp cận, không nên yêu cầu phải có tài sản thế chấp mà nên thay bằng
tín chấp, hoặc nhờ các tổ chức: Hội nông dân, hội Cựu chiến binh, hội Phụ nữ bão
lãnh để nông dân có thể dễ dàng vay vốn phục vụ cho việc sản xuất của mình.
91
Thời gian vay vốn là yếu tố rất quan trọng để các hộ nông dân sử dụng đồng
vốn hiệu quả. Thời gian vay vốn nên kéo dài, giảm lãi suất, đặc biệt là khi gặp thời
tiết không thuận lợi. Mặt khác, ngân hàng cần xác định đúng đối tượng được vay
vốn. Qua điều tra nghiên cứu ở địa phương, chúng tôi nhận thấy có nhiều hộ vay
vốn không phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, vì thế hiệu quả sử dụng vốn đối với
sản xuất nông nghiệp chưa thật sự được cải thiện, và làm sai lệch mục đích hoạt
động của tín dụng nông nghiệp. Do đó, ngân hàng chính sách cần rà soát đối tượng
vay vốn, thu hẹp đối tượng vay để tăng mức vay cho từng hộ gia đình. Có như vậy,
vốn vay mới thật sự phát huy đúng hiệu quả như mong muốn của Nhà nước.
Tranh thủ triệt để mọi nguồn vốn ở địa phương, cũng như tranh thủ vốn ngân
sách của các chương trình quốc gia: Chương trình hỗ trợ đầu tư hệ thống thủy lợi
theo tinh thần Nhà nước và nhân dân cùng làm, tranh thủ các nguồn vốn của các tổ
chức trong và ngoài nước (ODA) để tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp nói
riêng và phát triển kinh tế ở địa phương nói chung.
3.2.6. Giải pháp về khuyến nông và đổi mới khoa học – công nghệ
Giải pháp khuyến nông cần tập trung theo các hướng sau đây:
- Mở các lớp đào tạo nông dân sản xuất theo phương pháp hiện đại, đồng
thời động viên nông dân tích cực tham gia , xây dựng các mô hình sản xuất thành
công cho người nông dân học hỏi làm theo, giới thiệu những gương sản xuất giỏi.
Cần quảng bá rộng rãi và so sánh trực tiếp cho người nông dân thấy rõ năng suất lạc
chệnh lệch giữa các hộ sử dụng các phương pháp tưới tiêu hiệu quả (Bec phun,
phun thủng, phun sương..) và các hộ sử dụng các phương pháp tưới tiêu thủ công(
gánh nước tưới, tưới ống thường…) để người nông dân có thể áp dụng vào đồng
ruộng của mình nhằm nâng cao năng suất lạc cho nông hộ. Vì thế nội dung công tác
khuyến nông trong thời gian tới cần tập trung vào việc hướng dẫn cho nông dân
quan tâm nhiều hơn đến các phương pháp tưới hiệu quả, đồng thời hướng dẫn nông
dân biết cách phối hợp về giá của các yếu tố đầu vào khi giá đầu vào thay đổi, mục
đích của việc làm này là giúp nông dân tiết kiệm được chi phí đầu vào.
92
- Xây dựng một số mô hình trồng lạc theo các phương pháp tưới tiêu hiện đại
thành công ở địa phương, việc xây dựng các mô hình này có những lợi ích kĩ thuật
nhất định. Thứ nhất, thông qua việc xây dựng các mô hình trình diễn , kĩ thuật canh
tác cũng như kiến thức của nông dân được cải thiện một cách trực tiếp; thứ hai , kết
quả và hiệu quả các mô hình trình diễn sẽ có tính thuyết phục cao đối với nông dân.
Từ đó, kiến thức kĩ thuật sẽ được nông dân dễ đón nhận và mạnh dạn áp dụng vào
sản xuất.
Công tác đổi mới khoa học – công nghệ cần tập trung vào các hướng sau:
- Đổi mới về giống: Theo Viện khoa học kĩ thuật nông nghiệp Duyên hải
Nam Trung Bộ giống lạc L14 cho năng suất khá cao, đạt từ 30 – 32 tạ/ ha , so với
giống lạc Sẻ, Rằng Cù, lạc Lỳ tây nguyên đang sản xuất đại trà trên địa phương thì
năng suất lạc L14 tăng khoảng 34,5 – 37,5% .[20] Hiện nay, ở tại địa phương các
giống mới L14 đã được nông dân mạnh dạn đưa vào sử dụng sản xuất ; tuy nhiên,
việc sử dụng các giống lạc ở địa phương còn khá phổ biến, chiếm 35% tổng diện
tích đất canh tác lạc. Do đó , trong thời gian tới, bà con nông dân cần tiếp tục đẩy
mạnh sử dụng giống lạc L14 vào sản xuất nhằm mang lại năng suất cao. Mặt khác,
trung tâm khuyến nông khuyến ngư cần có kế hoạch đưa các giống mới và thử
nghiệm và nhân rộng trên địa bàn toàn huyện.
- Đổi mới về kĩ thuật tưới nước, đặc biệt ứng dụng phương pháp tưới bằng
Bec phun. Phương pháp này được thực hiện thí điểm ở nhiều địa phương trên cả
nước và cho năng suất cao và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, các nông dân ở địa
phương hiện nay vẫn chưa dám mạnh dạn áp dụng phương pháp này vào sản xuất vì
chi phí đầu tư ban đầu khá lớn, và hơn nữa nhiều nông dân còn nghi ngờ về tính
hiệu quả của phương pháp này.
93
Bảng 3.2: Các phương pháp tưới phù hợp với các hộ điều tra ở huyện Phù Cát
Béc phun Dây phun thủng Dây phun thường Tổng
PP tưới SL CC SL CC SL CC SL CC
(Hộ) (%) (Hộ) (%) (Hộ) (%) (Hộ) (%)
Béc phun 54 91,53 19,6 5 50,00 69 57,5 10
Dây phun thủng 4 6,78 80,39 1 10,00 46 38,33 41
Dây phun thường 1 1,69 0,00 4 40,00 5 4,17 0
(Nguồn: Số liệu điều tra, 2015)
59 100,00 100,00 10 100,00 120 100,00 51 Tổng số
Qua điều tra cho thấy, các hộ đang sử dụng phương pháp tưới tiêu BEC phun
cảm thấy phương pháp này rất phù hợp với điều kiện của gia đình chiếm 91,53%
tương ứng với 54 hộ. Tuy nhiên, một số hộ trong số các hộ đang sử dụng phương
pháp tưới tiêu BEC phun này cũng có sử dụng đồng thời phương pháp tưới dây
phun thủng, đây là phương pháp kết hợp rất hiệu quả và tiện lợi vì có thể tận dụng
đường ống dẫn nước mà không mất thêm chi phí. Cho nên đối với một số hộ này
vẫn cảm thấy phương pháp dùng dây phun thủng mang lại hiệu quả và cũng phù
hợp với gia đình, chiếm 6,78% tương ứng với 4 hộ. Dây phun thường chỉ dùng để
làm sạch chuồng trại, sân phơi và dùng cho các hoạt động cá nhân của gia đình chứ
đối với các hộ đang sử dụng phương pháp tưới tiêu BEC phun thì cảm thấy tưới tiêu
bằng dây phun thường không phù hợp với gia đình nên phương pháp tưới tiêu bằng
dây phun thương chỉ chiếm 1,69% tương ứng với 1 hộ.
Các hộ đang sử dụng phương pháp dùng dây phun thủng cảm thấy phương
pháp này khá phù hợp với điều kiện của gia đình chiếm 80,39% tương ứng với 41
hộ. Tuy nhiên, một số hộ trong số các hộ đang sử dụng phương pháp dùng Bec
phun cũng phù hợp với gia đình và mức độ phù hợp chiếm 19,6% tương ứng với 10
hộ. Các hộ này cảm thấy dùng phương pháp tưới bằng dây phun thường không phù
hợp với gia đình và họ hạn chế sử dụng phương pháp này.
94
Các hộ đang sử dụng phương pháp dùng dây phun thường cảm thấy phương
pháp này khá phù hợp với điều kiện của gia đình chiếm 40% tương ứng với 4 hộ.
Đây thường là những hộ có thu nhập thấp, chưa đủ điều kiện kinh tế để đầu tư các
yếu tố đầu vào cho lạc về mặt phương pháp tưới tiêu nên vẫn tận dụng công lao
động gia đình là chủ yếu. Các hộ này có tư tưởng sẽ chuyển đối phương pháp tưới
tiêu vào vụ sau để nâng cao năng suất, cho nên, các hộ này cảm thấy sử dụng
phương pháp dùng Bec phun cũng phù hợp với gia đình và mức độ phù hợp chiếm
50% tương ứng với 5 hộ. Các hộ này cảm thấy dùng phương pháp tưới bằng dây
phun thủng có thể kết hợp với phương pháp tưới dây phun thường vì tận dụng
đường ống nên một số hộ cảm thấy phương pháp tưới bằng dây phun thủng có mức
độ phù hợp chiếm 10% tương ứng với 1 hộ.
Đối với các hộ điều tra, thì phương pháp Bec phun có mức độ phù hợp cao
nhất, là 57,5% tương ứng với 69 hộ. Đây là phương pháp mang lại hiệu quả cao, tiết
kiệm nước, đỡ tốn công sức của bà con nông dân nên được ưa chuộng nhiều nhất so
với các phương pháp khác sử dụng cho lạc tin dùng, sử dụng và có mong muốn sẽ
thay đổi theo phương pháp này khi có điều kiện. Tiếp theo là phương pháp tưới
bằng dây phun thủng có tỉ lệ phù hợp là 38,33% tương ứng với 46 hộ. Phương pháp
tưới bằng dây phun thường có mức độ phù hợp là 4,17% tương ứng với 5 hộ.
Thực tế cho thấy mặc dù phương pháp tưới bằng Bec phun được sử dụng
nhiều nhất nhưng vẫn chưa được áp dụng rộng rãi do thiếu vốn sản xuất, thiếu kinh
nghiệm kĩ thuật, tầm hiểu biết còn hạn chế nên nhiệm vụ của khuyến nông là cần
phải tiếp tục nghiên cứu và chứng minh cho người nông dân thấy về tính hiệu quả
của phương pháp này để nâng cao hiệu quả sản xuất cho nông nghiệp.
3.2.7. Giải pháp về kĩ thuật cho người sản xuất
* Về công tác chọn giống: Như đã từng phân tích ở trên, ở địa phương hiện
nay vẫn còn sử dụng phổ biến giống lạc địa phương trong sản xuất vì những ưu
điểm của nó: thời gian sinh trưởng ngắn, vỏ mỏng, hàm lượng dầu cao, thơm, giá
giống thấp, và giá sản phẩm cao hơn. Tuy nhiên, năng suất lạc địa phương đã gần
đạt mức tối đa. Vì vậy, việc lựa chọn giống mới có năng suất cao, phù hợp với điều
95
kiện đất đai thổ nhưỡng ở địa phương là điều hoàn toàn cần thiết nhằm nâng cao
năng suất, cùng hiệu quả kinh tế. Để làm được điều này, địa phương cần qui hoạch
vùng sản xuất giống lạc, tăng cường kiểm tra chất lượng giống và kiểm tra chất
lượng sản phẩm đầu ra ở các khâu sản xuất.
Các giống lạc mới có năng suất cao đã được địa phương đưa vào thử nghiệm
và sản xuất đại trà, đặc biệt là giống lạc L14 đã tỏ ra phù hợp với điều kiện đất đai
thổ nhưỡng ở địa phương. Do đó, trong thời gian tới, bà con nông dân nên tiếp tục
gieo trồng giống lạc L14 nhằm nâng cao năng suất mùa vụ.
* Về công tác tưới tiêu: Ở địa phương hiện nay vẫn còn sử dụng phổ biến các
phương pháp tưới thủ công trong sản xuất vì những ưu điểm của nó: tiết kiệm điện
nước, tiết kiệm chi phí lao động. Tuy nhiên, năng suất lạc của các hoạt động tưới
tiêu thủ công lại không cao. Vì vậy, việc lựa chọn các phương pháp tưới tiên tiến
mang lại hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lạc nói
riêng là điều hoàn toàn cần thiết. Các phương pháp tưới tiêu mới mang lại năng suất
cao cho lạc đã được địa phương đưa vào thử nghiệm và sử dụng đại trà, đặc biệt là
phương pháp tưới Bec phun đã tỏ ra phù hợp với điều kiện của người nông dân ở
địa phương. Do đó, trong thời gian tới, bà con nông dân nên mạnh dạn thay thế các
hoạt động tưới tiêu hiệu quả thấp để đầu tư các phương pháp tưới tiêu mang lại hiệu
quả cao, tiếp tục sử dụng phương pháp tưới Bec phun nhằm nâng cao hiệu quả kinh
tế cho nông hộ. Tăng cường sử dụng cơ giới nhỏ vào canh tác nhằm nâng cao năng
suất lao động, hạ giá thành lạc.
* Sử dụng phân bón cân đối, hợp lí và đúng thời điểm. Phát triển lạc kết hợp
với phát tiển chăn nuôi gia súc, gia cầm, tạo thêm thu nhập và nguồn phân bón cho
lạc. Lạc là cây trồng có khả năng tự tổng hợp đạm trong quá trình sinh trưởng, do
đó cây lạc không yêu cầu cao về độ phì của đất, tuy nhiên nếu đầu tư đúng mức,
hợp lí sẽ có tác dụng cải thiện năng suất.
96
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua nghiên cứu hiệu quả về hiệu quả kinh tế sản xuất Lạc theo các mô hình
tưới tiêu của nông hộ tại huyện Phù Cát, tôi rút ra một số kết luận:
Hiện nay lạc là một trong những loại cây trồng chủ lực trong việc xóa đói
giảm nghèo, nâng cao thu nhập, giải quyết công ăn việc làm ở huyện Phù Cát nói
chung và nông hộ nói riêng.
1. Qua điều tra cho thấy bình quân diện tích đất trồng lạc chiếm hơn ½ tổng
diện tích bình quân nông ngiệp của các nông hộ điều tra.
2. Năng suất lạc bình quân năm 2014 của các hộ điều tra là 1,87 tạ / sào.
Trong đó năng suất lạc bình quân của các hộ sử dụng phương pháp tưới Bec phun
cao nhất là 1,99 tạ/ sào. Thu nhập trung bình mang lại cho hộ là 148 669,84 nghìn
đồng/hộ. Thu nhập do cây lạc mang lại chiếm 52,96.% trong tổng thu nhập từ trồng
trọt của các hộ điều tra.
3. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiệu quả kinh tế do sản xuất lạc tương đối
cao cụ thể: Cứ một đồng chi phí trung gian bỏ ra đầu tư sẽ thu lại 4,37 đồng thu
nhập hỗn hợp. Trong đó một đồng chi phí trung gian bỏ ra của các hộ sử dụng
phương pháp tưới Bec phun sẽ thu lại 4,79 đồng thu nhập hỗn hợp so với các cây
trồng khác ở địa bàn thì lạc mang lại hiệu quả kinh tế cao, trong đó các hộ sử dụng
phương pháp tưới Bec phun mang lại hiệu quả cao nhất .
4. Trong cơ cấu đầu tư chi phí nông hộ, chi phí phân vô cơ, thuốc BVTV
chiếm số lượng lớn là 501,09 nghìn đồng/sào/hộ. Trong đó, các hộ sử dụng phương
pháp tưới bằng tưới dây phun thường có chi phí ít nhất là 493,69 nghìn đồng/sào/hộ,
các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng Bec phun có chi phí ít nhất là 518,81 nghìn
đồng/sào/hộ, các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng tưới dây phun thủng có chi phí
là 493,68 nghìn đồng/sào/hộ,
Qua thực tế cho thấy, tình hình các hộ sử dụng phương pháp tưới bằng Bec
phun mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn các hộ sử dụng các phương pháp tưới tiêu
97
khác. Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu lớn nhưng sử dụng lâu dài, bền vững và lợi
nhuận cao. Vì vậy, bà con nông dân nên sử dụng và nhân rộng mô hình này để tăng
hiệu quả sản xuất cho nông nghiệp.
3.2. Kiến nghị
Nhằm phát huy hơn nữa các tiềm năng về đất đai, lao động, kinh nghiệm sản
xuất...nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế và khẳng định vai trò lớn trong việc xóa
đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm , nâng cao thu nhập cho người nông
dân tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
Nhà nước cần hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến phát triển các
cây công nghiệp ngắn ngày, trong đó có cây lạc như chính sách về đất đai, chính
sách tín dụng ưu đãi, chính sách khuyến nông. Đặc biệt là các chính sách hỗ trợ
phất triển cơ sở hạ tầng về hệ thống thủy lợi để cấp thoát nước kịp thời cho bà con
nông dân.
- Chính quyền địa phương cần cải tạo nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng (giao
thông, thủy lợi, điện...) đến tận đồng ruộng cho người nông dân. Chú trọng hơn nữa
việc cung cấp vật tư đầu vào phục vụ cho công tác tưới tiêu trong sản xuất nông
nghiệp, phổ biến rộng rãi hơn nữa thông tin về giá cả thị trường, tổ chức các điểm
thu mua sản phẩm lạc nhân và lạc vỏ cho hộ nông dân có sự giám sát, quản lý của
chính quyền địa phương.
- Tổ chức các diễn đàn cho nông dân gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau, trao đổi
thông tin, mở rộng các mô hình tưới tiêu, thử nghiệm trực tiếp trên đồng ruộng để
bà con tận mắt chứng kiến và thấy rõ hiệu quả cao từ các phương pháp kĩ thuật tiên
tiến để bà con mạnh dạn đầu tư vốn sản xuất.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Huy Cường (2013) “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhằm tăng hiệu quả sản
xuất lạc (Arachis hypogaea L.) tại Bình Định, 2013”, Luận án tiến sĩ.
2. Ngô Thế Dân và cộng sự (2000), Kỹ thuật đạt năng suất cao ở Việt Nam, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
3. Th.s Nguyễn Thị Đào(2008), Bài giảng cây lạc, Đại học Nông Lâm Huế, Huế
4. PGS.TS Hoàng Hữu Hòa (2004), Phân tích số liệu thống kê, Đại học kinh tế Huế,
Huế
5. Nguyễn Hữu Huân (1993). “Kinh tế nông hộ, khái niệm, vị trí, vai trò và chức
năng”, Tập chí nghiên cứu kinh tế (số 2)
6. Nguyễn Thị Bích Hường, 2008, Phát triển kinh tế nông hộ theo hướng sản xuất
hàng hoá ở huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ khoa học nông
nghiệp
7. PGS.TS Phạm Văn Khôi (2007), Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp,
nông thôn, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
8. Huỳnh Tấn Nguyên, 2011,Hiệu quả sản xuất Lạc ở huyện Hương Trà - Thừa
Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
9. TS. Trịnh Văn Sơn (2006), Giáo trình phân tích kinh doanh, Đại học kinh tế Huế
10. Tổng Cục thống kê Bình Định (2014), Niên giám thống kê Bình Định.
11. Chu Văn Vũ (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội , Hà Nội
12. PGS.TS Mai Văn Xuân (2008), Giáo trình kinh tế nông hộ và trang trại, NXB
Đại học Huế
99
13. Ellis.f (1993), Kinh tế hộ gia đình nông dân và phát triển nông thôn, NXB Nông
nghiệp
14. Ban quản lý khu công nghiệp nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hồ Chí
Minh, Cơ sở dữ liệu, http://ahtp.hochiminhcity.gov.vn/web/hoat-dong-nghien-cuu-
ung-dung/tuoi-nho-giot-giai-phap-cong-nghe-cao-trong-nong-nghiep
15. Cổng thông tin điện tử bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Cở sở dữ liệu
http://www.mard.gov.vn/
16. Các phương pháp tưới trong nông nghiệp, Cở sở dữ liệu ,
http://tuoinongnghiep.net/ong-tuoi-day-tuoi-phun-tuoi-phun-mua-cay-trong-theo-
luong/
17. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn(2014), Cơ sở dữ liệu,
http://www.agroviet.gov.vn
18. Cục xúc tiến thương mại (2015), Cơ sở dữ liệu, http://www.vietrade.gov.vn/
19. Tổng cục thống kê (2014), Cở sở dữ liệu, http://www.gso.gov.vn/
20. Viện khoa học kĩ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung Bộ, Cơ sở dữ liệu,
http://www.asisov.org.vn/
21. Food and Agriculture Organization of the United Nations (2014).
http://faostat.fao.org/
100
PHIẾU ĐIỀU TRA NÔNG HỘ
Người điều tra: …………………..….............Ngày điều tra…….....................Mã số phiếu:…............…
I. THÔNG TIN CHUNG
Họ tên chủ hộ: ………………............……...….
Giới tính: □ 1. Nam □ 2. Nữ;
Tuổi……….........
Dân
Trình độ văn hóa của chủ hộ (lớp):........................................ tộc:...........................................
Trình độ chuyên môn:
□ 2. Trung cấp
□ 3. Cao đẳng
□ 4. Đại học
□
□ 1. Sơ cấp 5. Sau ĐH
2. Trung Bình
3. Khá, Giàu
Địa chỉ: Thôn ………................................Xã ………….................……Huyện Phù Cát,Tỉnh Bình Định Nghề nghiệp chính………….....…………………Nghề phụ…………………………… Phân loại hộ: 1. Nghèo Thời điểm định cư:…………………………………………………………. 1.1. Tình hình nhân khẩu lao động:
1.1.1. Số nhân khẩu đang sống trong gia đình:…..................1.1.2. Số nam:
................
1.1.3 Số lao động: ...................................Trong đó:
a. - Lao động chính:
..............................................................................................người
- Lao động ngoài độ tuổi tham gia lao động:
....................................................người
b.- Lao động nông nghiệp:
...................................................................................người
- Lao động phi nông nghiệp:
..............................................................................người
101
1.2. Đặc điểm và cách sử dụng đất đai của nông hộ (2014)
(ĐVT: Sào)
Loại đất
Tổng số Giao cấp
Đấu thầu
Thuê, mướn Khác
1.2.1. Tổng DT đang sử dụng
1.2.1a. DT đất ở
1.2.1b. DT đất SX NN
1.2.1.b.1. Đất cây hàng năm
Trong đó: Lạc
1.2.1.b.2. Đất cây lâu năm
Trong đó: Xoài
1.2.1c. DT đất lâm nghiệp
1.2.1d. DT đất NTTS
1.3. Vốn và tư liệu sản xuất của hộ
1.3.1 Tình hình vay vốn của các hộ
Nguồn vốn
Năm vay
Số lượng (1.000đ)
Thời hạn vay (tháng)
Lãi suất (%/tháng)
Còn nợ (1.000)
Mục đích (*)
1. Ngân hàng
- NHNN&PTNT
- NH CSXH
2. Quỹ tín dụng
3. Tổ chức NGO
4. Bà con, bạn bè
5. Tư nhân
6. Nguồn khác
Mục đích (*) : (1) Trồng cây ngắn ngày; (2) Trồng cây CN dài ngày; (3) Chăn nuôi đại gia súc; (4) Chăn nuôi khác; (5) Đầu tư buôn bán; (6) Mua tư liệu sản xuất, (7) Mua tư liệu sinh hoạt, (8) Khác…….(ghi rõ)
1.3.2. Tư liệu sản xuất của các hộ
102
Thời gian
Tần suất
GT mua
Loại
ĐVT Số lượng
sử dụng
Ghi chú
(1.000đ)
sử dụng (*)
(năm)
- Trâu bò cày kéo
Con
- Trâu bò sinh sản
Con
- Lợn nái sinh sản
Con
- Chuồng trại chăn nuôi
M2
- Xe máy
Cái
- Cày, bừa tay
Cái
- Máy cày, máy bừa
Cái
- Máy tuốt
Cái
- Xe kéo
Cái
- Xe công nông
Cái
- Máy bơm nước
Cái
- Máy xay xát
Cái
- Bình phun thuốc
Cái
- Cuốc, cào
Cái
- Công cụ khác ……
(*): Hàng tháng hoặc vào tháng mấy trong năm
II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LẠC
2.1. Thông tin chung về các thửa đất canh tác LẠC
Vị trí
thửa đất
So với
So với
THỬA PARCELS
Giống (Variety)
Nguồn nước
Phương pháp canh tác
nhà ở
nhà ở
Diện tích Area (sao)
Kỹ thuật canh tác
Kỹ thuật tưới nước
của hộ
của hộ
PARCEL.........
Đông Xuân - WSp
103
Hè Thu - SA
PARCEL.........
Đông Xuân - WSp
Hè Thu - SA
PARCEL.........
Đông Xuân - WSp
Hè Thu - SA
PARCEL.........
Đông Xuân - WSp
Hè Thu - SA
PARCEL.........
Đông Xuân - WSp
Hè Thu - SA
Trong đó:
Vị trí
Kỹ thuật
Nguồn nước
Kỹ thuật canh tác
Phương pháp
thửa đất
tưới nước
(Planting technologies)
canh tác
1 = < 0,5 km
1= Độc canh - Monocropping
1= Không phủ bạt
1= Tưới tràn
1= Nước của công ty thủy lợi - by water of IMC
2 = 0,5 - 2 km
2= Xen với Sắn - Intercropping
2= Phủ bạt
2= Tưới bằng dây phun thường
2= Nước của HTX - by water of cooperative
3 = 2 - 4 km
3= Xen với Ngô
3 = Tưới bằng dây phun thủng
3= Nước mưa/Tự nhiên - Rainfed
4 = > 4 km
4= Xen với Xoài
4= Tưới bằng Béc phun
4= Nước ngầm - Underground water
5= Xen với cây khác
5= Tưới nhỏ giọt
5= Nguồn khác - other (specify)
6= Luân canh - Rotation
6 = Gánh nước tưới vào gốc/ Tưới thủ công
7= Cách khác - other (specify)
3.2. Các khoản mục chi phí và thu nhập trong canh tác LẠC
THỬA - PARCEL #_________ DIỆN TÍCH (sào) - AREA:________
VỤ - SEASON:_______________ Thời gian trồng: _______________tháng
3.2.1. Đầu tư ban đầu
Khoản mục
ĐVT
Thời gian
Số lượng Đơn giá (1.000đ)
Thành tiền (1.000đ)
Tỷ lệ thời gian
Tự Mua
104
có ngoài
sử dụng (năm)
dùng cho lạc (%)
- Khai hoang
Công
- Thuê đất
Sào
- Đào/Khoan giếng
Công
- Máy bơm nước
Cái
- Đường ống
M
- Dây phun
M
- Bec phun
Cái
- Van điều chỉnh
Cái
- Công lắp đặt
Công
- Xe máy
Cái
- Thiết bị thu hoạch
Cái
- Máy cày
Cái
- Bình phun thuốc
Cái
- Khác.............................…
3.2.2. Chi phí hàng năm
Số lượng Đơn giá (1.000đ)
Thành tiền (1.000đ)
ĐVT
Khoản mục
Thời điểm phát sinh (tháng thứ mấy sau khi trồng)
Tự có
Mua ngoài
a. Giống
- Giống lạc
Kg
- Giống cây trồng xen
Kg (Cây)
b. Phân bón và vôi
- Phân đạm
Kg
- Phân lân
Kg
- Phân kali
Kg
- Phân tổng hợp NPK
Kg
- Phân vi sinh
Kg
- Phân chuồng
Kg
- Vôi
Kg
c. Thuốc BVTV
105
- Thuốc trừ cỏ
Chai
- Thuốc trừ sâu
Chai
- Thuốc trừ bệnh
Chai
Chai
- Thuốc kích thích, dưỡng hạt giống
d. Chi phí lao động
+ Dọn ruộng, phát bờ
Công
+ Cày, bừa
Sào
+ Làm luống, rãnh
Công
+ Bón phân lần 1, gieo hạt, lấp dất
Công
+ Tưới nước
Công
+ Bón phân các lần tiếp theo
Công
+ Làm cỏ các lần
Công
+ Vun gốc
Công
+ Phun thuốc các lần
Công
+ Thu hoạch + Vận chuyển
Công
+ Tách hạt, phơi
Công
e. Chi phí khác (điện, xăng dầu...)
3.2.3. Thu nhập
- Sản phẩm chính
Tạ
- Sản phẩm phụ
Sào
- Cây trồng xen
Tạ
THỬA - PARCEL #_________ DIỆN TÍCH (sào) - AREA:________
VỤ - SEASON:_______________ Thời gian trồng: _______________tháng
3.2.1. Đầu tư ban đầu
Số lượng Đơn giá (1.000đ)
Thành tiền (1.000đ)
Khoản mục
ĐVT
Tự có
Mua ngoài
Thời gian sử dụng (năm)
Tỷ lệ thời gian dùng cho lạc (%)
- Khai hoang
Công
- Thuê đất
Sào
106
- Đào/Khoan giếng
Công
- Máy bơm nước
Cái
- Đường ống
M
- Dây phun
M
- Bec phun
Cái
- Van điều chỉnh
Cái
- Công lắp đặt
Công
- Xe máy
Cái
- Thiết bị thu hoạch
Cái
- Máy cày
Cái
- Bình phun thuốc
Cái
- Khác.............................…
3.2.2. Chi phí hàng năm
Số lượng Đơn giá (1.000đ)
Thành tiền (1.000đ)
ĐVT
Khoản mục
Thời điểm phát sinh (tháng thứ mấy sau khi trồng)
Tự có
Mua ngoài
a. Giống
- Giống lạc
Kg
- Giống cây trồng xen
Kg (Cây)
b. Phân bón và vôi
- Phân đạm
Kg
- Phân lân
Kg
- Phân kali
Kg
- Phân tổng hợp NPK
Kg
- Phân vi sinh
Kg
- Phân chuồng
Kg
- Vôi
Kg
c. Thuốc BVTV
- Thuốc trừ cỏ
Chai
- Thuốc trừ sâu
Chai
- Thuốc trừ bệnh
Chai
Chai
- Thuốc kích thích, dưỡng hạt
107
giống
d. Chi phí lao động
+ Dọn ruộng, phát bờ
Công
+ Cày, bừa
Sào
+ Làm luống, rãnh
Công
+ Bón phân lần 1, gieo hạt, lấp dất
Công
+ Tưới nước
Công
+ Bón phân các lần tiếp theo
Công
+ Làm cỏ các lần
Công
+ Vun gốc
Công
+ Phun thuốc các lần
Công
+ Thu hoạch + Vận chuyển
Công
+ Tách hạt, phơi
Công
e. Chi phí khác (điện, xăng dầu...)
3.2.3. Thu nhập
- Sản phẩm chính
Tạ
- Sản phẩm phụ
Sào
- Cây trồng xen
Tạ
IV. TỶ TRỌNG THU NHẬP TỪ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRONG TỔNG THU CỦA HỘ
Diễn giải
Giá trị (1.000đ)
Cơ cấu (%)
100
Tổng thu nhập
4.1. Thu từ trồng trọt
Trong đó từ SX Lạc
SX XOÀI
4.2. Thu từ chăn nuôi
4.3. Thu từ NTTS
108
4.4. Thu từ ngành nghề
4.5. Thu dịch vụ khác
4.6. Thu khác (Lương trợ cấp)
V. TÌNH HÌNH TIÊU THỤ XOÀI VÀ LẠC TRONG NĂM 2014
5.1. Hình thức, địa điểm và đối tượng tiêu thụ
Xoài
Lạc
Các chỉ tiêu
100%
100%
5.1.1. Hình thức tiêu thụ
Tiêu dùng cho gia đình
Biếu tặng bạn bè hay người thân
Hàng đổi hàng
Nộp để bù lại các yếu tố đầu vào đã mua trước
Bán ra thị trường
100%
100%
5.1.2. Địa điểm bán
Bán tại ruộng
Bán tại nhà
Bán tại đại lý/người thu gom
Bán tại chợ
Bán nơi khác.................................
100%
100%
5.1.3. Đối tượng thu mua
Thu gom nhỏ địa phương
Thu gom lớn của vùng/tỉnh
Công ty chế biến
Bán cho người khác ........................................
5.2. Các đối tượng thu mua có ký cam kết thu mua sản phẩm cho Ông/bà không?
Có
Không
Nếu CÓ, xin Ông/bà cho biết họ có thực hiện đúng cam kết không?
109
Có
Không
Nếu KHÔNG, xin Ông/bà cho biết nguyên nhân là do Ông/bà (Gia đình) hay do đối tượng thu mua?
Do Gia đình
Do đối tượng thu mua
5.3. Theo Ông/bà, giá cả của sản phẩm được quyết định như thế nào?
(Xin Ông/bà chọn tối đa 3 tác nhân, theo thứ tự ưu tiên 1, 2,3)
Tác nhân quyết định
Thứ tự quyết định
Nông dân
Thương lái
Cả nông dân và thương lái
Chính quyền địa phương
Cơ sở chế biến
Khác
VI. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
6.1. Ông/bà có từng nghe nói đến hoạc biết phương pháp tưới tiêu nào khác cho lạc
hay Xoài không?
Có
Không
Nếu CÓ, xin Ông/bà cho biết cụ thể những phương pháp tưới tiêu đó:
..................................................................................................................................................
6.2. Theo Ông/bà, loại hình tưới tiêu nào phù hợp nhất với gia đình ông/bà hiện nay?
...................................................................................................................................................
Vì sao?
..................................................................................................................................................
6.3. Ông/bà gặp những vấn đề khó khăn gì trong quá trình thực hiện công tác tưới
tiêu?
..................................................................................................................................................
110
6.4. Ông/bà mua sắm các thiết bị (máy bơm nước, ống...) cho tưới tiêu ở đâu?
2. Trong huyện
3. Ở huyện khác
4.
1. Trong xã Ngoài tỉnh
6.5. Ông/bà mua sắm các thiết bị (máy bơm nước, ống...) cho tưới tiêu theo phương
thức nào?
2. Cửa hàng/công ty chở đến
3. HTX
1. Tự đi mua cung cấp
6.6. Ông/bà tổ chức mua sắm các thiết bị (máy bơm nước, ống...) cho tưới tiêu như
thế nào?
1. Gia đình tự mua
2. Các gia đình bà con cùng mua
3. Các hộ láng giềng cùng mua
4. Các hộ có ruộng gần nhau cùng mua
6.7. Ông/bà sử dụng các thiết bị (máy bơm nước, ống...) cho tưới tiêu như thế nào?
1. Chỉ tưới cho gia đình 2. Chia sẽ tưới với các hộ khác 3. Có tưới thuê cho hộ khác
6.8. Trong tương lai, Ông/bà có dự định thay đổi phương thức canh tác không?
Có
Không
Nếu CÓ, xin Ông/bà cho biết vì sao?
..................................................................................................................................................
6.9. Trong tương lai, Ông/bà có dự định thay đổi phương thức tưới tiêu không?
Có
Không
Nếu CÓ, xin Ông/bà cho biết vì sao?
..................................................................................................................................................
6.10. Giả sử, giờ có một phương pháp/công nghệ tưới tiêu mới được dự đoán là mang
lại hiệu quả, vậy Ông/bà có chấp nhận thử nghiệm để áp dụng rộng rãi cho đồng
ruộng của mình không?
Có
Không
111
Nếu CÓ, Ông/bà có những kiến nghị, đề xuất gì?
..................................................................................................................................................
Xin cảm ơn sự giúp đỡ của Ông/bà !
112