ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM THỊ DUNG TIỂU THUYẾT VỀ ĐỀ TÀI THỔ PHỈ CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN VIẾT VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. CAO THỊ HẢO THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

XÁC NHẬN

XÁC NHẬN

CỦA KHOA CHUYÊN MÔN

CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN

TS. Cao Thị Hảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung

nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Phạm Thị Dung

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết về đề tài thổ phỉ của một số nhà văn

viết về dân tộc và miền núi phía Bắc, đến nay chúng tôi đã hoàn thành và được phép

bảo vệ luận văn.

Với tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa

Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại

trường.

Với sự biết ơn chân thành tôi bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Cao Thị Hảo -

người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá tình thực hiện đề tài.

Xin gửi lời cảm ơn tới Trung tâm GDTX thành phố Thái Nguyên đã tạo điều

kiện giúp đỡ và động viên trong trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè cùng gia đình và

những người thân đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn

thành tốt khóa học này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Phạm Thị Dung

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................... iii

PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 7

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................ 8

5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 8

6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................. 9

7. Bố cục của luận văn .............................................................................................. 9

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 10

Chƣơng 1: ĐỀ TÀI THỔ PHỈ TRONG DÒNG VĂN HỌC VIẾT VỀ DÂN

TỘC VÀ MIỀN NÚI ................................................................................................. 10

1.1. Đề tài là gì? ..................................................................................................... 10

1.1.1. Khái niệm đề tài ........................................................................................ 10

1.1.2. Các phương diện biểu hiện của đề tài ....................................................... 11

1.2. Những đề tài tiêu biểu trong văn học dân tộc và miền núi .............................. 14

1.2.1. Đề tài “truyện đường rừng” ....................................................................... 14

1.2.2. Đề tài về chiến tranh, cách mạng .............................................................. 15

1.2.3. Đề tài xây dựng cuộc sống mới của đồng bào miền núi ........................... 17

1.3. Đề tài thổ phỉ trong dòng văn học viết về dân tộc và miền núi ....................... 20

Chƣơng 2: HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI MIỀN NÚI

TRONG CUỘC ĐẤU TRANH TIỄU PHỈ ............................................................. 25

2.1. Hiện thực cuộc sống cay đắng, tủi nhục của đồng bào miền núi phía Bắc

và tội ác man rợ của thổ phỉ trong những năm loạn phỉ .................................. 25

2.1.1. Hiện thực cuộc sống cay đắng, tủi nhục của đồng bào dân tộc thiểu số

phía Bắc ...................................................................................................... 25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

2.1.2. Hiện thực tội ác của thổ phỉ ....................................................................... 33

2.2. Những con người lương thiện, thức tỉnh, đấu tranh bảo vệ cuộc sống yên bình ....... 43

2.2.1. Những cán bộ cách mạng kiên cường bám dân, chống phỉ ...................... 43

2.2.2. Những người con của núi rừng giác ngộ và đi theo cách mạng ................ 50

2.2.2.1. Những người đứng đầu thôn bản, dòng họ, có uy tín ............................. 50

2.2.2.2. Những thanh niên có nhiệt huyết, giác ngộ và đi theo cách mạng

xây dựng cuộc đời mới ......................................................................... 54

Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU .................. 61

3.1. Cốt truyện và yếu tố ngoài cốt truyện .............................................................. 61

3.1.1. Cốt truyện ...................................................................................................... 61

3.1.1.1. Kiểu cốt truyện lịch sử ........................................................................... 62

3.1.1.2. Kiểu cốt truyện đời tư ............................................................................. 66

3.1.2. Yếu tố ngoài cốt truyện ............................................................................. 70

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ...................................................................... 76

3.2.1. Khắc họa nhân vật qua miêu tả ngoại hình ............................................... 76

3.2.3. Khắc họa nhân vật qua miêu tả nội tâm .................................................... 83

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật .................................................................................... 90

3.3.1. Sử dụng phổ biến nghệ thuật so sánh ........................................................ 90

3.3.2. Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian của các dân tộc thiểu số ....... 93

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 100

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Đề tài miền núi là một trong những mảng đề tài lớn trong văn học Việt

Nam. Hiện thực miền núi đã được nhiều cây bút quan tâm, nhận thức, thể hiện và đạt

được nhiều thành tựu. Mỗi nhà văn khơi sâu vào một “mạch nguồn riêng” về số phận

và bản sắc của mỗi dân tộc để góp phần tạo nên tầm vóc riêng cho văn xuôi hiện đại.

Có thể thấy “mảnh đất bình dị này” là nơi duy nhất có sự hiện diện đầy đủ của văn

hóa các dân tộc anh em. Nhiều thế hệ nhà văn bao gồm cả những tài năng từ miền

xuôi lên gắn bó máu thịt với miền núi như Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Mạc Phi, Ma Văn

Kháng, Trung Trung Đỉnh... Cùng những nhà văn vốn là người dân tộc thiểu số đã

không ngừng lao động nghệ thuật để hình thành nên một “bộ phận đẹp đẽ” của văn

học viết về dân tộc và miền núi. Văn học viết về dân tộc và miền núi có vị trí rất quan

trọng trong nền văn học dân tộc. Với khả năng khơi gợi cái riêng, sự đặc sắc của mỗi

dân tộc, vùng miền, nó đã đem lại sự phong phú, đa dạng và tầm vóc riêng cho nền

văn học hiện đại Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phong Lê đã từng nhận xét rất chính xác:

“Văn xuôi miền núi chiếm lĩnh được một vẻ riêng, không thay thế được, không ai bắt

chước được”. Có thể nói, văn học dân tộc và miền núi vừa thể hiện được đặc trưng

riêng của mỗi dân tộc, vừa góp phần làm phong phú, giàu có cho đời sống văn học

Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu về văn học dân tộc và miền núi hứa hẹn nhiều khám

phá thú vị, góp phần hoàn chỉnh diện mạo nền văn học dân tộc.

1.2. Nhắc đến văn học viết về chiến tranh của đồng bào dân tộc miền núi,

chúng ta đều không thể không nhắc đến Bức thư làng mục của Nguyễn Chí Trung,

Em đợi bộ đội Awa Hồ của Y Điêng, Đất nước đứng lên, Rừng xà nu của Nguyễn

Trung Thành, Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn và đặc biệt là Đồng bạc trắng hoa

xòe, Vùng biên ải của Ma Văn Kháng, Rừng động của Mạc Phi, Hoa hậu xứ

Mường của Phượng Vũ, Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam... Các tác phẩm này đã thể hiện

tấm lòng yêu nước mãnh liệt của đồng bào dân tộc như sông, như suối với không khí

cách mạng hừng hực, phản ánh sinh động những tháng năm lịch sử đau thương và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

anh dũng của những người con dân tộc miền núi. Mỗi nhà văn với phong cách và bút

pháp khác nhau, đã phần nào phản ánh được cái hồn của đồng bào dân tộc qua những

năm tháng mưa bom bão đạn. Tác phẩm của các nhà văn dường như đều hướng tới

cái nhìn hiện thực. Văn học trở về với bản chất đích thực của nó, đó là cuộc sống, đó

là những mất mát, đớn đau có thực nhưng cũng là sự trưởng thành của mỗi dân tộc từ

tự phát đến tự giác đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù, giải phóng quê hương đem lại

cuộc sống tự do và hạnh phúc.

1.3. Nghiên cứu về tiểu thuyết của các giả Phượng Vũ, Mạc Phi, Đoàn Hữu

Nam, Ma Văn Kháng đã có khá nhiều bài viết, bình luận, đánh giá, nhận xét về nội

dung và phong cách nghệ thuật,... Tuy nhiên, đi sâu vào tìm hiểu đề tài thổ phỉ trong

tiểu thuyết của các nhà văn này để thấy được đời sống hiện thực, thấy được một giai

đoạn lịch sử của đồng bào các dân tộc miền núi thì vẫn là một khoảng trống. Hi vọng,

đề tài này sẽ giúp cho chúng ta có thêm những hiểu biết về một thời kì lịch sử của các

đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc nói riêng và lịch sử dân tộc Việt nói chung. Đồng

thời, qua đó góp phần khẳng định những đóng góp của các nhà văn cho văn học nước

nhà. Những tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ như Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên

ải của Ma Văn Kháng, Rừng động của Mạc Phi, Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ,

Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam,… tiếp tục mở rộng và hoàn thiện bức tranh hiện thực

miền núi với sự tái hiện trên quy mô lớn của quá trình cách mạng, những giai đoạn lịch

sử hào hùng của các dân tộc ít người vùng địa đầu của tổ quốc.

2. Lịch sử vấn đề

Có thể nói, các tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải của Ma Văn

Kháng, Rừng động của Mạc Phi, Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ, Thổ phỉ của

Đoàn Hữu Nam đã tái hiện những giai đoạn lịch sử cách mạng sôi động, dữ dội mà bi

tráng, oai hùng của các dân tộc Thái, H‟mông, Mường, Dao. Ngay từ khi ra đời, các

tiểu thuyết về đề tài miền núi này đã nhận được sự quan tâm của giới phê bình và bạn

đọc. Mặc dù còn có nhiều ý kiến khen chê khác nhau nhưng không thể phủ nhận

những đóng góp của các nhà văn cho nền văn học nước nhà với mảng đề tài về dân

tộc và miền núi. Cho đến nay, đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về các tác

giả và các tác phẩm này.

Trong lời giới thiệu Tiểu thuyết về đề tài dân tộc và miền núi của Ma Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Kháng, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện viết: Bộ ba tiểu thuyết của ông làm “sống lại

bức tranh đời sống hiện thực mang tính chất sử thi về con đường của các dân tộc

miền núi phía Bắc làm cuộc đổi đời, đi theo cách mạng mà vẫn giữ gìn và phát huy

được phẩm cách của mình” [39, tr. 11]. Cũng trong bài viết này, Nguyễn Ngọc Thiện

đã khẳng định rằng thế giới nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết (Đồng bạc trắng hoa

xòe, Vùng biên ải, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn) của Ma Văn Kháng mang nét đặc sắc hơn

cả: “Tác giả đã xây dựng được những chân dung chân thực, đầy chất biếm họa về

loại hình nhân vật địch, nhân vật tiêu cực,... Rực rỡ, bừng sáng lên là số lượng đông

đảo các nhân vật đáng kính, đáng yêu hoặc đáng được thông cảm về những vấp váp,

không may mắn trong số phận của họ,... Nổi bật lên, trở thành hình tượng văn học

sống động trong lòng người đọc là những người con yêu quý của dân tộc Hmông:

Pao, Seo Ly, Seo Cả, Giàng A Pùa. Đó là những Paven Coocxaghin, Đavưđốp,

Đankô của Việt Nam” [39, tr. 12].

Để khẳng định thành công của tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe cả về nội

dung và nghệ thuật, Trần Đăng Xuyền cho rằng: “Đồng bạc trắng hoa xòe tái hiện

thực tế lịch sử của Lào Cai từ 1945 đến 1947... Có những cảnh viết sinh động... Có

những nhân vật được Ma Văn Kháng xây dựng rất công phu... Bằng hình tượng nghệ

thuật, Ma Văn Kháng đã chứng minh rằng đồng bào các dân tộc ít người, mặc dù bị

chìm đắm trong đau khổ, tăm tối nhưng đều có mầm mống, khả năng cách mạng”.

Tác giả cũng chỉ ra một số hạn chế như “nhiều nhân vật trong “Đồng bạc trắng hoa

xòe” có hiện tượng hành động lấn át tâm lí” [42].

Trong bài viết Chiều sâu một vùng đất biên giới của Nghiêm Đa Văn. Tác giả

cho rằng: “Ma Văn Kháng đã dựng lại trong “Đồng bạc trắng hoa xòe” bức tranh

toàn cảnh xã hội và phong tục đặc biệt bằng những hình tượng sinh động cụ thể... Ma

Văn Kháng đã huy động đến hàng trăm nhân vật thuộc các dân tộc khác nhau...

Nhiều nhân vật được khắc họa có số phận đầy đặn, có diện mạo rõ ràng. Đồng bạc

trắng hoa xòe là một cái mốc bên đường đánh dấu sự vươn lên của anh từ thể loại

nhỏ đến tiểu thuyết quy mô có tầm sử thi” [41].

Cũng trong khoảng thời gian này, bài viết Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe của nhà

văn Hoàng Tiến đã đưa ra những ý kiến xác đáng rằng, Ma Văn Kháng đã “tái hiện

một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi nhưng rắc rối vào bậc nhất của Cách mạng Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu”.

Hoàng Tiến còn chú ý đến những thủ pháp nghệ thuật như “uống rượu sớm mai", “vẽ

long trong mây” để tạo nên cái duyên ngầm trong tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe.

Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra một nhược điểm lớn: “Nhiều nhân vật xử lí chưa hết

mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút... Tác giả giống như một

phù thủy non tay quyết gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng

làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi” [29].

Cùng với đánh giá chung về bộ ba tiểu thuyết về dân tộc và miền núi của Ma

Văn Kháng, còn có nhiều bài phê bình, nhiều bài nghiên cứu tập trung viết về tiểu

thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe. Bài viết Đọc các sáng tác miền núi của Ma Văn

Kháng, nghĩ về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn, nhà phê bình Nguyễn

Văn Toại đã quan tâm đánh giá về nội dung phản ánh cuộc sống mới, con người mới

ở đề tài miền núi của nhà văn: “Ma Văn Kháng đã phát hiện và biểu dương kịp thời

những nhân tố tích cực, dù mới chỉ manh nha trong cuộc sống và con người các dân

tộc, hi vọng góp thêm một tiếng nói riêng vào việc đổi mới cách nhìn hiện thực miền

núi” [35].

Nhà nghiên cứu Trần Bảo Hưng trong bài Đồng bạc trắng hoa xòe của Ma Văn

Kháng đã thể hiện sự đánh giá khách quan, công bằng về thành công cũng như hạn

chế của tác phẩm. Tác giả khẳng định “Khó nhất đối với Ma Văn Kháng khi viết

“Đồng bạc trắng hoa xòe” vẫn là vấn đề xây dựng nhân vật, vì kinh nghiệm chưa có

là bao... Bản thân sự kiện đã rất hấp dẫn, nhiều khi tác giả cũng bị lôi cuốn theo

không cưỡng lại được. Nhân vật trong tác phẩm do đó chưa thật nổi, còn chìm vào sự

kiện, tác giả chưa làm chủ được sự kiện”. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra thành công

mà tiểu thuyết đã đạt được trong việc xây dựng nhân vật: “Ma Văn Kháng chú ý xây

dựng các tuyến nhân vật đan kẽ nhau, các nhân vật cứ tầng tầng, lớp lớp xuất hiện và

hoạt động, tạo cho tác phẩm ít nhiều có không khí sử thi. Tính ra “Đồng bạc trắng

hoa xòe” có tới hơn sáu chục nhân vật,... Nhân vật nào ra, mở đầu ở đâu, cắt ở đâu,

anh ấy rất lưu ý, nên người đọc thấy không rối, mà người viết thì đỡ vất vả” [8, tr. 4].

Từ những chi tiết về phong tục tập quán, ngôn ngữ hàng ngày của nhân vật,...

Nhà phê bình Nguyễn Văn Toại đã từng có nhận xét về Mạc Phi qua bộ tiểu thuyết

“Rừng động” và vấn đề thể hiện con người miền núi trong sáng tác văn học: “Nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

văn thông thuộc ngôn ngữ của nhân vật khó có thể đem tiếng nói của người này đặt

vào cửa miệng của người kia. Sẽ càng thô thiển, thậm chí buồn cười nếu lấy thành

phần của một dân tộc nào gán cho nhân vật có dòng họ Thái”. Sức hấp dẫn trong tiểu

thuyết của Mạc Phi đối với người đọc không chỉ ở cách viết độc đáo, người đọc còn

nhận ra ông có trái tim nhân hậu, giàu lòng yêu thương con người, nhất là khi ông

miêu tả các nhân vật phụ nữ có cuộc sống bất hạnh: “Mạc Phi đặc biệt trân trọng và

nhiệt tình đề cập đến những nhân vật phụ nữ. Đó là những con người hầu hết đều trẻ

về tuổi đời, tính cách có nhiều nét đáng yêu. Nhà văn nhìn họ chủ yếu dưới góc độ

của cái đẹp, về lí tưởng, về sức vươn lên” [33]. Lời nhận xét của nhà phê bình

Nguyễn Văn Toại cũng là lời khẳng định cách viết độc đáo, sự am hiểu của Mạc Phi

về đồng bào dân tộc Thái Tây Bắc. Nhà phê bình Lại Giang trong bài Rừng động -

một đóng góp mới vào nền văn học xã hội chủ nghĩa cũng khẳng định: “Mạc Phi

sống lâu năm ở Tây Bắc thành “người Tây Bắc”. Điều này giúp tác giả có điều kiện

thâm nhập vào các vùng dân tộc Thái. Suy nghĩ phát hiện, tóm tắt cái thực tế phong

phú, đa dạng của mảng núi rừng này. Truyện của anh vì thế có được cái chất “Tây

Bắc”, tức là sự mộc mạc trong suy nghĩ, giàu hình ảnh trong ngôn ngữ, dữ dội trong

hành động” [4].

Trong bài viết: “Thổ phỉ” và hiện thực văn chương, tác giả Văn Công Hùng

đã khẳng định giá trị hiện thực, giá trị tiểu thuyết của Thổ phỉ. Hiện thực từ sự kiện

lịch sử đến sự hiểu biết sâu sắc, nắm vững phong tục của vùng đất nơi các nhân vật

tung hoành. Hiện thực nhưng lại rất tiểu thuyết trong việc tìm tòi và thái độ lao động

nghiêm túc, cẩn trọng. Cuối bài viết, tác giả đã kết luận rằng “đây là một tiểu thuyết

hay, kì công, kĩ lưỡng về một đề tài... là cái cớ để tác giả trình bày hiểu biết và tình

yêu của mình về đời sống của một vùng đất cao nguyên với đậm đặc bản sắc văn hóa,

với trầm tích nhân văn mà ở xuôi không dễ gì có được...”. Bài viết cũng chỉ ra điểm

đáng tiếc trong tiểu thuyết này: “Có những đoạn anh gần như lướt, trong khi đáng lẽ

đấy là những điểm nhấn cho tiểu thuyết xum xuê rậm rạp thêm”.

Góp phần khẳng định giá trị nghệ thuật cũng như tài năng của Đoàn Hữu Nam,

Sương Nguyệt Minh trong bài Thế giới nghệ thuật Đoàn Hữu Nam trong tiểu

thuyết Thổ phỉ đã đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan về nghệ thuật đặc sắc

của Thổ phỉ. Đó là thế giới thổ phỉ tối tăm, quỷ ác, thế giới nhân vật và không gian

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nghệ thuật đặc sắc, sinh động: “Một thế giới nhân vật lạ, có đời sống lạ... Nhà văn

Đoàn Hữu Nam là một người giàu tưởng tượng và có khả năng hư cấu nghệ thuật

khá cao, trong khi vẫn giữ được cảm xúc chân thực dào dạt chảy cùng ngòi bút” [21].

Có thể thấy, tác giả Sương Nguyệt Minh đã khẳng định những giá trị của tác phẩm và

đi đến kết luận rằng: “Thổ phỉ - một tiểu thuyết rất đáng đọc”.

Bên cạnh Văn Công Hùng, Sương Nguyệt Minh, tác giả Đoàn Minh Tâm

trong bài Tiểu thuyết Thổ phỉ - Vài cảm nhận trên Tạp chí Văn nghệ quân đội đã chỉ

ra những điểm thành công của tiểu thuyết Thổ phỉ. Trước hết, đó là một tác phẩm rất

thành công và thu hút được độc giả. Đó là “cuốn tiểu thuyết đủ hấp dẫn để bạn đọc

theo dõi từ trang đầu tiên cho đến dòng cuối cùng”. Sự hấp dẫn đó trước nhất đến từ

việc lựa chọn bối cảnh lịch sử cho đến việc chọn lọc và bút pháp nghệ thuật trong

việc xây dựng các nhân vật. Đoàn Minh Tâm khẳng định tài năng của Đoàn Hữu

Nam: “Chúng ta thấy tác giả đi vào hai mảng đề tài quan trọng của văn học Việt

Nam hiện đại đó là miền núi và chiến tranh cách mạng. Bản thân mỗi lĩnh vực trên

đã là một “siêu đề tài”, khiến cho nhiều người cầm bút xưa nay miệt mài sáng tác

hàng chục năm, thậm chí cả cuộc đời mà vẫn thấy “càng đi xa càng thấy rộng, chưa

thấy đâu là bờ bến”.

Bên cạnh đó còn có các đề tài nghiên cứu, các luận văn thạc sĩ đi sâu vào

nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về các tác giả và các tiểu thuyết này. Có thể kể

tới luận văn thạc sĩ Giá trị tiểu thuyết Rừng động của Mạc Phi trong văn xuôi về đề

tài miền núi của Cầm Thị Lệ Hương. Trong luận văn, tác giả chỉ rõ những giá trị cơ

bản của Rừng động với tư cách một tiểu thuyết tiêu biểu về đề tài miền núi trong văn

học Việt Nam hiện đại. Đồng thời luận văn cũng khẳng định vị trí của tiểu thuyết

Rừng động trong văn học về đề tài miền núi. Tác giả đã viết: “Đọc Rừng động của

Mạc Phi ai là người sống trên địa bàn Tây Bắc cũng đều có cảm giác như được trở

về với làng bản của mình sau những ngày đi xa, với tất cả những cảnh vật quen

thuộc,...” [11, tr. 20].

Luận văn Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam của Ngô Quốc Tuấn (năm 2013) tập

trung khảo sát, nghiên cứu một số phương diện tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật

biểu hiện nổi bật trong các tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam. Trong đó, tác giả cũng có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đề cập đến hiện thực về thổ phỉ và cuộc đấu tranh tiễu phỉ của đồng bào miền núi

nhưng chỉ giới hạn trong tiểu thuyết Thổ phỉ. Qua đó, tác giả chỉ ra quan điểm nghệ

thuật, vùng thẩm mĩ riêng, nhân sinh quan và thế giới quan của nhà văn Đoàn Hữu

Nam khi viết về đề tài thổ phỉ [32].

Ngoài ra, cũng có thể kể đến các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan ít

nhiều đến đề tài thổ phỉ như: Thổ phỉ - tiểu thuyết đậm nét đặc trưng thể loại - của

Lộc Bích Kiệm.

Qua các ý kiến đánh giá, các công trình nghiên cứu nói trên, chúng tôi nhận thấy

các nhà phê bình, nghiên cứu và các tác giả luận văn đều đánh giá cao giá trị của các

tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải của Ma Văn Kháng, Rừng động

của Mạc Phi, Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ, Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam

trong mảng đề tài viết về dân tộc và miền núi. Phần lớn các ý kiến đánh giá, các công

trình nghiên cứu xoay quanh giá trị nội dung, nghệ thuật, đặc sắc của bút pháp tự sự,

phong cách nhà văn, nghệ thuật trần thuật, dấu ấn văn hóa và phong cách của mỗi nhà

văn. Vấn đề thổ phỉ cũng được các nhà nghiên cứu và các tác giả nói tới nhưng chỉ

dừng lại ở những bài báo nhỏ lẻ, hoặc một tác phẩm của một tác giả cụ thể mà chưa

có sự so sánh, khái quát giữa các tác giả, tác phẩm. Chưa có một công trình chuyên

biệt nào nghiên cứu về đề tài thổ phỉ của các nhà văn này. Trên cơ sở những ý kiến có

tính chất gợi mở của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi mạnh dạn tiến hành

nghiên cứu đề tài: “Tiểu thuyết về đề tài thổ phỉ của một số nhà văn viết về dân tộc

và miền núi phía Bắc”.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Lựa chọn luận văn “Tiểu thuyết về đề tài thổ phỉ của một số nhà văn viết về

dân tộc và miền núi phía Bắc”, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu chính của

luận văn là đề tài thổ phỉ trong tiểu thuyết của một số nhà văn viết về dân tộc và miền

núi phía Bắc.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn của chúng tôi tập trung nghiên cứu các tác phẩm chính sau đây:

Tiểu thuyết Rừng động, tập 1 của Mạc Phi, NXB Hội nhà văn, năm 1983 (in lần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đầu năm 1975).

Tiểu thuyết Rừng động, tập 2 của Mạc Phi, NXB Hội nhà văn, năm 1983 (in lần

đầu năm 1977).

Tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe của Ma Văn Kháng, NXB Công an nhân

dân, năm 1996 (in lần đầu năm 1978).

Tiểu thuyết Vùng biên ải của Ma Văn Kháng, NXB Quân đội nhân dân, năm

2001 (in lần đầu năm 1983).

Tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ, NXB Hội nhà văn, năm 2002

(in lần đầu năm 1984).

Tiểu thuyết Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam, NXB Hội nhà văn, năm 2010.

Ngoài ra chúng tôi cũng tham khảo một số tác phẩm văn học đương thời có liên

quan để đối chiếu, so sánh khi cần thiết.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn thể hiện một cái nhìn khái quát, toàn diện về đề tài thổ phỉ trong dòng

văn học viết về dân tộc và miền núi. Luận văn đi sâu khảo sát, nghiên cứu, phân tích,

lí giải các tiểu thuyết để thấy được hiện thực lịch sử về cuộc sống đau thương, nghèo

đói, lạc hậu và u mê của đồng bào miền núi phía B¾c dưới chế độ thống trị của phìa

tạo, lang đạo, thổ ty cùng sự oanh tạc của bọn thổ phỉ, bọn phản động dã man, độc ác.

Đồng thời chỉ ra sự kiên cường, anh dũng, không ngại khó khăn gian khổ của những

cán bộ cách mạng miền xuôi tận tình bám dân bám bản, lãnh đạo cuộc kháng chiến

chống thổ phỉ, xóa bỏ ách thống trị miền núi cho đồng bào các dân tộc thiểu số miền

núi phía Bắc và những người con tiên phong của núi rừng, giác ngộ, đi theo cách

mạng, chống lại cái ác, góp phần đem lại bình yên cho quê hương, làng bản. Bên

cạnh đó, luận văn cũng khảo sát những phương diện nghệ thuật cơ bản của các tiểu

thuyết này như cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật và ngôn ngữ nghệ thuật

nhằm làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm. Từ đó góp phần khẳng định những đóng góp

của các nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam cho nền văn

học nước nhà.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi lựa chọn một số phương pháp nghiên cứu chủ

yếu sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

5. 1. Phương pháp khảo sát tác phẩm

Tác phẩm là căn cứ chính để tiến hành nghiên cứu, vì thế chúng tôi tập trung

đọc và phân tích kĩ chủ yếu ở sáu tiểu thuyết: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải,

Rừng động, Hoa hậu xứ Mường, Thổ phỉ.

5. 2. Phương pháp thống kê phân loại

Việc thống kê phân loại là công việc quan trọng giúp cho việc phân tích, lí giải

đạt hiệu quả cao. Đồng thời, tần số xuất hiện tín hiệu nghệ thuật góp phần khẳng định

kết quả nghiên cứu.

5. 3. Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại

Tiểu thuyết là một thể loại có đặc trưng riêng. Vì vậy, sử dụng phương pháp này

nhằm đảm bảo cho việc khai thác tác phẩm một cách khoa học, chính xác, không áp đặt.

5. 4. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích các tiểu thuyết ở nhiều khía cạnh khác

nhau. Sau đó khái quát, tổng hợp nhằm tìm ra giá trị nội dung và nghệ thuật trong các tiểu

thuyết. Đồng thời khẳng định giá trị tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác của các tác giả.

5. 5. Phương pháp đối chiếu, so sánh

Sử dụng phương pháp này để thấy được nét chung và riêng của các tác giả Ma

Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam trong đề tài viết về thổ phỉ. Đồng

thời, khẳng định phong cách riêng của mỗi nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện

đại nói chung và trong mảng sáng tác về đề tài miền núi, đề tài thổ phỉ nói riêng.

6. Đóng góp mới của luận văn

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về đề tài thổ phỉ trong

tiểu thuyết của một số nhà văn viết về dân tộc và miền núi ở phía Bắc nước ta. Qua

đó chỉ ra một hiện thực đau thương mà anh dũng của những người dân miền núi trong

những năm tháng đen tối dưới sự thống trị của thực dân Pháp và sự tàn bạo, độc ác

của bọn thổ phỉ. Đồng thời cũng góp phần khẳng định những đóng góp to lớn của các

nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam khi viết về dân tộc

và miền núi. Khẳng định vị trí của họ trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn

chúng tôi triển khai thành ba chương:

Chương 1: Đề tài thổ phỉ trong dòng văn học viết về dân tộc và miền núi.

Chương 2: Hiện thực cuộc sống và con người miền núi trong cuộc đấu tranh tiễu phỉ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu.

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1

ĐỀ TÀI THỔ PHỈ TRONG DÒNG VĂN HỌC

VIẾT VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI

1.1. Đề tài là gì?

1.1.1. Khái niệm đề tài

Trong việc phản ánh cuộc sống, khả năng của văn học là hết sức to lớn và phong

phú. Đối tượng của nó bao gồm toàn bộ thế giới thiên nhiên, đời sống xã hội và cuộc

sống của từng con người. Đó là chân trời vô tận cho sáng tạo nghệ thuật. Nhưng trước

hiện thực vô hạn ấy, khả năng của một nhà văn là hữu hạn. Trong hoàn cảnh sống của

riêng mình, với một khoảng không gian và thời gian nhất định, với những yêu cầu cụ

thể của thời đại, với vốn sống, vốn văn hóa, vốn chính trị và tài năng nghệ thuật chỉ

có một mức độ, một giới hạn nhất định, khi viết một tác phẩm nào đó, nhà văn chỉ có

thể chú ý tới một lĩnh vực, một phạm vi cụ thể, xác định của hiện thực khách quan để

sáng tác. Phạm vi hiện thực đó có thể là tình yêu lứa đôi như trong bài thơ Đợi anh về

của C.Ximônốp, bài thơ Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn. Hoặc có thể là

chiến tranh như trong Chiến tranh và hòa bình của L.Tônxtôi, Dấu chân người lính

của Nguyễn Minh Châu,... Viết về tình yêu, về chiến tranh chính là phạm vi hiện thực

mà các tác phẩm trên đề cập đến.

Các tác giả trong cuốn Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên đã nêu: “Đề

tài là một phương diện của nội dung tác phẩm, nó chỉ phạm vi hiện thực cụ thể đã

được nhà văn nhận thức, lựa chọn và phản ánh trong tác phẩm”. Các tác giả cũng

khẳng định: “Bất kì một tác phẩm văn học nào cũng có một đề tài nhất định, nó được

xem như một nhân tố tương ứng với đối tượng phản ánh riêng của tác phẩm”. Thực

chất đề tài là một khái niệm về loại của hiện thực được miêu tả. “Có bao nhiêu loại

hiện tượng đời sống thì có bấy nhiêu đề tài. Tuy nhiên, cần thấy rằng, đề tài mang

dấu ấn rõ rệt của đời sống khách quan nhưng nó cũng là sự ghi nhận dấu ấn chủ

quan của nhà văn” [3, tr. 116].

Cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên đã nêu: “Đề tài là khái niệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chủ yếu thể hiện phương diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học” [18, tr.

259]. Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cũng định nghĩa, đề tài là:

“Khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong

sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm”. [5, tr.

110]. Đọc bất cứ tác phẩm nào chúng ta cũng bắt gặp những người, những cảnh và

tâm tình cụ thể sinh động. Đó là phạm vi miêu tả trực tiếp của tác phẩm. Tính chất

của phạm vi miêu tả trực tiếp trong tác phẩm có thể hết sức đa dạng: chuyện con

người, chuyện con thú, cây cỏ, chim muông, đồ vật, hoặc chuyện thần tiên, ma quái,

chuyện quá khứ và chuyện tương lai,... Nhưng mục đích của văn học không bao giờ

chỉ là giới thiệu những hiện tượng cụ thể cá biệt của đời sống hay tưởng tượng. Từ

những tác phẩm thần thoại xa xưa cho đến những tác phẩm cận đại, hiện đại, tác

phẩm văn học bao giờ cũng xuyên qua một phạm vi miêu tả trực tiếp trong tác phẩm

để khái quát lên một phạm vi hiện thực đời sống nhất định có ý nghĩa rộng hơn. Các

tác giả cũng khẳng định “đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát những chủ đề và xây

dựng những hình tượng, những tính cách điển hình. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp

đề tài, chủ đề hòa quyện với nhau không tách được”, như một số tác phẩm ngụ ngôn,

truyện đồng thoại, một số thơ trữ tình,... Căn cứ vào đó “Người tiếp nhận có thể đi

thẳng từ đề tài bên ngoài vào chủ đề, tư tưởng của tác phẩm” [18, tr. 262].

Tóm lại, đề tài là lĩnh vực đời sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái

quát, bình giá và thể hiện trong tác phẩm của mình. Tầm quan trọng của đề tài ở chỗ,

nếu chưa nhận ra đề tài, thì chưa bước vào tiếp nhận hình tượng. Tuy nhiên, “từ hiện

tượng nghệ thuật sinh động nhận ra loại con người và cuộc sống được phản ánh

trong tác phẩm không phải là một việc giản đơn” [18, tr. 259].

1.1.2. Các phương diện biểu hiện của đề tài

Có thể thấy rằng: “Giới hạn của phạm vi đề tài được xác định rộng hẹp khác

nhau” [18, tr. 259]. Đó có thể là một giới hạn bề ngoài như đề tài loài vật, đề tài sản

xuất, đề tài cải cách ruộng đất, đề tài kháng chiến chống Mĩ, đề tài bộ đội Trường

Sơn, đề tài tiểu tư sản, đề tài công nhân,... Ở giới hạn bề ngoài của đề tài này, các

phạm trù xã hội, lịch sử đóng vai trò rất quan trọng. Ví dụ như, người ta có thể nói đề

tài nông dân và đề tài tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao, Lỗ Tấn. Tuy nhiên, đối

tượng nhận thức của văn học là cuộc sống, con người xã hội với tính cách và số phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

của nó, với nhiều mối quan hệ quan hệ nhân sinh phức tạp của nó. Vì vậy, “cần đi sâu

vào phương diện bên trong của đề tài” [18, tr. 260] để tìm hiểu, nghiên cứu. Đó là

cuộc sống nào, con người nào được miêu tả trong tác phẩm. Chẳng hạn Tắt đèn thể

hiện cuộc sống bế tắc, không lối thoát của người nông dân trước Cách mạng tháng

Tám. Sống mòn của Nam Cao thể hiện cuộc sống quẫn bách, mòn đi, rỉ ra, không lối

thoát của tầng lớp trí thức nghèo. Bất cứ tác phẩm văn học nào ta cũng có thể nhận ra

ở trong đó những mảnh đời, những con người với những số phận cụ thể được phản

ánh trong đó. Việc xác định đề tài cho phép liên hệ nội dung tác phẩm với một mảnh

đời sống nhất định của thực tại. Tuy nhiên, không nên đồng nhất đề tài với đối tượng

nhận thức, chất liệu đời sống hay nguyên mẫu thực tế của tác phẩm, bởi đối tượng là

một cái gì nằm ngoài tác phẩm, đặt đối diện với tác phẩm. Đề tài của tác phẩm là một

phương diện nội dung tác phẩm, là đối tượng đã được nhận thức, kết quả lựa chọn

của nhà văn. Đó là sự khái quát về phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống được phản

ánh trong tác phẩm. Lẫn lộn hai mặt này sẽ dẫn đến việc biến phân tích tác phẩm

thành phân tích đối tượng được miêu tả trong tác phẩm. Con đường nhận thức đề tài

tác phẩm là đi từ nội dung trực tiếp của tác phẩm, xác định những đường nét lịch sử

xã hội của nó. Mỗi nhân vật của tác phẩm đều có thể tiêu biểu cho một tầng lớp xã

hội, mang một tính cách xã hội, hoạt động trong một lĩnh vực đời sống, đều có thể

tiêu biểu cho một đề tài. Ví dụ như hoàn cảnh gia đình chị Dậu, là một gia đình nông

dân, vì xuất sưu của chồng và người em chồng mà chồng bị đánh, bị trói, con bị bán,

bản thân đi làm vú em lại còn phải chịu bao nỗi tủi nhục, đến cuối tác phẩm, tiền đồ

vẫn “tối đen như mực”... thì đề tài tác phẩm không xa rời cuộc sống đó và các thế lực

liên quan đến nó. Cả nhà Dậu cùng chung một số phận bi thảm thì đề tài tác phẩm là

số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.

Tuy nhiên, tác phẩm Tắt đèn không phải chỉ miêu tả có một gia đình chị Dậu.

Theo bước chân và quan hệ của chị Dậu, đề tài tác phẩm còn được mở rộng: với Nghị

Quế, tác phẩm mở ra mảng đề tài quan nghị, một “đặc sản” lố bịch của xã hội thực

dân thuộc địa; với lí trưởng, chánh tổng, tuần đinh, lính lệ, tác phẩm mở ra mảng đề

tài bộ máy cai trị địa phương tham lam, tàn bạo. Hình tượng quan phủ, quan cụ nới

rộng diện phản ánh tới cuộc sống bỉ ổi xấu xa của bọn quan lại. Như vậy, khi nói đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đề tài tác phẩm ta không chỉ nói tới một đề tài, mà thực chất là một hệ thống đề tài

liên quan nhau, bổ sung cho nhau tạo thành hệ đề tài của tác phẩm. Đề tài Truyện

Kiều cũng là một hệ thống như vậy. Ở đó có tình yêu lứa đôi, vợ chồng, hoạt động

nhà chứa, có đời sống quý tộc, có sự nổi loạn chống lại triều đình, có việc quan lại xử

oan, có đề tài báo ân báo oán,... Tất cả xoay quanh đề tài về cuộc đời bất hạnh của

người phụ nữ tài hoa.

Như vậy, chúng ta thấy, “Thực chất đề tài là một khái niệm về loại của hiện

tượng đời sống được miêu tả”. Có bao nhiêu loại hiện tượng đời sống, có bấy nhiêu

đề tài. Việc nhận thức đề tài phải chỉ ra bản chất xã hội của hiện tượng. Nhưng tác

phẩm văn học thường thấy sự không trùng khít giữa hiện tượng miêu tả và nội dung ở

lại bên trong” [18, tr. 261]. Chẳng hạn, Lời kĩ nữ của Xuân Diệu trước Cách mạng

đúng là bài thơ làm theo “lời kĩ nữ”, nhưng không thể nói bài thơ chỉ viết về đề tài kĩ

nữ, vì ở đây, với tư cách là nhà thơ trữ tình, Xuân Diệu muốn mượn lời kĩ nữ để biểu

hiện cái tôi cô đơn lạnh lẽo trước cuộc sống đương thời, một đề tài được nhà thơ thể

hiện trong tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Trong khi đó Tiếng hát sông Hương

của Tố Hữu là bài thơ về đề tài kĩ nữ, nhưng lại nằm trong mảng đề tài viết về những

người nghèo khổ, bất hạnh, bị hắt hủi, áp bức trước Cách mạng, như Vú em, Lão đầy

tớ, Hai đứa em, Đi đi em,...

Bên cạnh đó, cũng có thể thấy rằng: “Khái niệm loại của đề tài không chỉ bắt

nguồn từ bản chất xã hội của tính cách, mà còn gắn liền với loại hiện tượng lịch sử

xuất hiện trong đời sống và có âm vang đời sống tinh thần một thời, hoặc trong một

giới nào đó” [18, tr. 161]. Chẳng hạn, ta có thể gặp đề tài số phận người chinh phụ,

người cung nữ, đề tài người tài hoa trong sáng tác của Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia

Thiều, Nguyễn Du khoảng cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Hoặc trong thơ văn

Nguyễn Đình Chiểu nổi lên đề tài những người trung nghĩa. Văn học Nga thế kỉ XIX

hình thành đề tài gọi là “con người thừa” từ môi trường quý tộc, đề tài những người

tháng Chạp, đề tài những người “hư vô chủ nghĩa”, đề tài “con người nhỏ bé”, đề tài

“phàm tục tiểu tư sản”,... Trong văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945 - 1975 nổi

lên hàng đầu đề tài chiến tranh, đề tài người lính và hiện thực cách mạng.

Các tác giả cũng chỉ ra “Đề tài tác phẩm văn học chẳng những gắn liền với hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thực khách quan mà còn do lập trường tư tưởng và vốn sống nhà văn quy định” [18,

tr. 262]. Chẳng hạn, trong khi phần lớn các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn viết về đề

tài xung đột trong các gia đình phong kiến địa chủ, khẳng định quyền tự do luyến ái

của lớp thanh niên tân thời, thì các nhà văn gần gũi với đời sống nhân dân chọn đề tài

về số phận bi thảm của các tầng lớp nhân dân lao động, sự tham lam thối nát của bọn

quan lại, địa chủ. Cùng viết về đề tài tiểu tư sản nhưng tác phẩm của Đỗ Đức Thu

thiên về phơi bày sự tầm thường của lối sống viên chức, còn Nam Cao xoáy vào

những cảnh đời xám xịt của tầng lớp tri thức nghèo, sống dở chết dở, mòn mỏi,

không ánh sáng tương lai của xã hội cũ.

Tóm lại, đề tài thể hiện phạm vi rộng hẹp khác nhau của hiện thực đời sống xã

hội xung quanh, gắn liền với một giai đoạn lịch sử xã hội cụ thể, gắn liền với hiện

thực khách quan và chịu sự chi phối bởi vốn sống của nhà văn. Việc lựa chọn đề tài

đã bắt đầu bộc lộ khuynh hướng và ý đồ sáng tác của tác giả.

1.2. Những đề tài tiêu biểu trong văn học dân tộc và miền núi

Văn học viết về dân tộc và miền núi có vị trí quan trọng trong dòng chảy và là

nơi lưu giữ những trữ lượng văn hóa tinh thần phong phú của nhiều dân tộc anh em.

Nó đã tạo dựng được bức tranh hiện thực lớn lao về cuộc sống, con người miền núi

trong cách mạng, kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước. Trong suốt quá trình

hình thành và phát triển theo dòng thời gian, mảng văn học này đã đề cập đến rất

nhiều đề tài khác nhau.

1.2.1. Đề tài “truyện đường rừng”

Ngay từ đầu thế kỉ XX, khi quá trình hiện đại hóa văn học diễn ra mạnh mẽ trên

mọi phương diện, văn học mở rộng đề tài từ nông thôn đến thành thị, hầm mỏ và rừng

núi. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, bên cạnh hiện thực phản ánh chủ yếu là cuộc

sống con người vùng đồng bằng Bắc Bộ thì một số tác phẩm văn xuôi về dân tộc và

miền núi đã ra đời và được gọi là “truyện đường rừng”. Các cây bút viết “truyện

đường rừng” chủ yếu giai đoạn này là Lan Khai, Thế Lữ, Đái Đức Tuấn,... thiên về

yếu tố kì ảo, lãng mạn. Trong đó, Lan Khai là cây bút có đóng góp đáng kể vào đề tài

miền núi trước Cách mạng tháng Tám với các tập truyện Tiếng gọi của rừng thẳm,

Truyện đường rừng, Suối đàn gồm nhiều truyện về phong tục, lịch sử và truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

truyền kì. Thế Lữ không chỉ là người “phất lá cờ tiên phong trong phong trào thơ

Mới” [24, tr. 35] mà còn nổi danh với các truyện trinh thám và “truyện đường rừng”

trong các tập Một chuyện báo thù ghê gớm, Vàng và máu, Gió trăng ngàn,... Hoặc

Đái Đức Tuấn với Thần hổ và Ai hát giữa rừng khuya, đều là những truyện kinh dị

đường rừng mang nặng các tình tiết hoang đường, ma quái. Một số truyện khác lấy

miền núi làm đề tài xuất hiện rải rác trong khoảng thời gian 1930 - 1945 như Ngọn

gió rừng của Trần Thanh Mại; Người sơn nhân và Khói lam chiều của Lưu Trọng

Lư; Đi săn khỉ của Vũ Trọng Phụng; Lan rừng của Nhất Linh; Ngậm ngải tìm trầm

của Thanh Tịnh; Cô thổ quàng khăn đỏ của Vũ Bằng,... Miền núi trong các truyện

này hiện lên như một thế giới bí ẩn, linh thiêng, đầy nguy hiểm và bất trắc, vừa gợi trí

tò mò khám phá vừa tạo cảm giác ghê sợ. Không gian thường xuất hiện bóng tối và

những hình ảnh, âm thanh có sức tác động, kích thích mạnh vào cảm giác người đọc,

khơi gợi tính hiếu kì và rùng rợn trong một thế giới nửa hư nửa thực. Đối với các nhà

văn thời kì này, rừng là một thế giới thiên nhiên hoang dã đầy bí ẩn, là nơi diễn ra

những xung đột quyết liệt giữa con người và con người để tranh giành sự sống, là nơi

rừng thiêng nước độc lắm hiểm nguy. Hoặc thiên nhiên là một thế giới ghê rợn của

ma quỷ và các loài mãnh thú, là một xứ sở xa xôi, tăm tối mà trong môi trường đó

con người dường như hoàn toàn chìm khuất giữa hoang vu.

Bên cạnh đó, viết về cuộc đời vất vả của người lao động miền núi trong cuộc

mưu sinh, những người ở vị trí thấp hèn bị bóc lột, áp bức và chìm đắm trong u mê

lạc hậu có các tác phẩm như Dưới miệng hùm, Lô Hnồ của Lan Khai, Tiếng khèn

của Khái Hưng, Đi săn khỉ của Vũ Trọng Phụng. Văn xuôi miền núi trước Cách

mạng tháng Tám giống như “những bước dò dẫm tìm đường của các nhà thám hiểm

lần đầu tiếp cận địa bàn rừng núi” [24, tr. 43]. Tuy nhiên, công lao khai vỡ một

mảng đề tài hoàn toàn mới mẻ của các nhà văn là điều thực sự đáng trân trọng. Đây là

một thành tựu trong lịch sử văn học, góp phần hoàn chỉnh diện mạo của văn học Việt

Nam hiện đại nửa đầu thế kỉ XX.

1.2.2. Đề tài về chiến tranh, cách mạng

Sau cách mạng, hai cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước diễn ra

trên địa bàn miền núi đã tạo cơ hội cho văn học mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Theo các nẻo đường cách mạng, các nhà văn có điều kiện thâm nhập thực tế lao

động, chiến đấu của các dân tộc, từ đó có được vốn sống và nguồn cảm hứng sáng tạo

về miền núi phong phú hơn nhiều so với những cây bút “truyện đường rừng” trước

cách mạng. Văn xuôi về miền núi phát triển mạnh và đạt đỉnh cao với tác phẩm của

những người Kinh.

Đề tài mà các nhà văn quan tâm đầu tiên là phản ánh chân thực hình ảnh nhân

dân các dân tộc ở Việt Bắc, Tây Bắc trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng

chiến. Trong Nhật kí ở rừng (1948) và bút kí Truyện biên giới (1951) của Nam Cao

gương mặt chân thực của những người Thổ, người Dao trong kháng chiến ở Việt Bắc

là sự nhìn lại, nhận thức lại hình ảnh miền núi từng bị thêu dệt trong tâm thức người

đọc một thời. Nam Cao viết: “Người Mán chẳng có gì đáng sợ (...). Họ chẳng giết ai,

và cũng chẳng có gì là quái gở”. Những trang Ở rừng được viết với bao cảm thông,

yêu mến, xót xa trước tình cảm chất phác và cuộc sống còn quá lạc hậu của đồng bào.

Các tập truyện Núi cứu quốc (1948) và Truyện Tây Bắc (1953) của Tô Hoài làm ấm

lên tình người, tình núi. Trong đó, Vợ chồng A Phủ là “tác phẩm thành công xuất sắc

đầu tiên về đề tài miền núi trong nền văn xuôi cách mạng hiện đại” [24, tr. 247]. Tác

phẩm Núi cứu quốc là hình ảnh chân thực về con người miền núi với bản chất thật

thà, chất phác, trung thành với cách mạng. Bên cạnh đó, Truyện Tây Bắc phản ánh sự

vùng dậy của nhân dân các dân tộc Tây Bắc chống chế độ áp bức của phong kiến,

thực dân, ca ngợi cách mạng đã giải phóng cho nhân dân thoát khỏi cuộc đời tăm tối.

Cả ba truyện Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ là sự đồng

cảm, sự sẻ chia thật tha thiết với con người. Tình cảm của người viết đã hòa quyện

với tình cảm nhân vật một cách tự nhiên, sâu lắng. Tập Truyện Tây Bắc phản ánh sâu

sắc những cảnh ngộ bất hạnh của người phụ nữ vùng cao cùng sự lí giải căn nguyên

nỗi khổ nhiều khía cạnh. Trong đêm dài nô lệ ở miền núi, hầu hết những người phụ

nữ là những người có nhan sắc bị đầy đọa bởi cường quyền, thần quyền. Thần quyền

trở thành công cụ hữu hiệu để tầng lớp thống trị giam hãm người phụ nữ trong nô lệ.

Thân phận cô Ảng, cô Mát trong Cứu đất cứu mường, một thời đẹp nức tiếng đất

Mường Cơi phải hầu hạ quan châu, quan lang các mường, có con với lang nhưng bị

làng phạt vạ vì “nhà quan không nhận thì nó chỉ bằng trứng con quạ, con cú”. Cô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Mát trong Mường Giơn vừa qua những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với chồng, bị quan

bang Kỳ cướp đi mất tích. Cô Mỵ trong Vợ chồng A Phủ bị nhà thống lí bắt về làm

con dâu gạt nợ, quen với cái khổ nghĩ mình không bằng con trâu, con ngựa. Mỵ tin

rằng đã bị “trình ma” nhà thống lí thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đó.

Tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành thể hiện sức sống mãnh liệt

của con người Tây Nguyên được biểu tượng hóa trong hình ảnh thiên nhiên bất tử:

“Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn,

hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời... Đạn đại bác không giết nổi chúng, những

vết thương của chúng chóng lành như những vết thương trên một thân thể cường

tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã...”. Có thể nói, cây xà nu

của Nguyên Ngọc là biểu tượng đặc sắc nhất trong văn xuôi miền núi tượng trưng cho

sức sống bất diệt của con người vùng cao. Từ biểu tượng ấy mở ra lịch sử buôn làng

Tây Nguyên với các thế hệ tiếp nối nhau cầm giáo chống Mĩ - Ngụy, bảo vệ cán bộ

và gìn giữ buôn làng. Thế hệ cha anh nằm xuống đã có những mầm non sung sức

mọc lên. Cùng đề tài chiến tranh còn có Kí sự Cao Lạng (1951) của Nguyễn Huy

Tưởng phản ánh chiến dịch chống Pháp và tiểu thuyết Kan Lịch (1968) của Hồ

Phương viết về sự mưu trí, lòng dũng cảm của du kích dân tộc Pa Kô trong chiến đấu

chống Mĩ. Từ khi miền Bắc được giải phóng, bên cạnh các nhà văn tiêu biểu, đề tài

miền núi còn có sự đóng góp của một số cây bút với những sáng tác như Những

người côn hướn (1957) của Lê Tuấn Việt, Xuân về trên rẻo cao (1959) của Hoàng

Thao, Đường sáng của Bàng Thúc Long,... Tất cả đều hướng tới khai thác hiện thực

đời sống đồng bào các dân tộc vùng cao trong cách mạng dân tộc - dân chủ.

1.2.3. Đề tài xây dựng cuộc sống mới của đồng bào miền núi

Bên cạnh đề tài chiến tranh cách mạng, đề tài xây dựng cuộc sống mới của đồng

bào miền núi cũng được khai phá. Tiêu biểu là tập truyện ngắn Rẻo cao (1962) của

Nguyên Ngọc và tiểu thuyết Miền Tây (1965) của Tô Hoài. Nhà nghiên cứu Phong

Lê đã nhận xét: “Đọc Rẻo cao ta lại được gặp Nguyên Ngọc trong giọng điệu đằm

thắm, sôi nổi, những cảm xúc tinh tế, ngọt ngào, cái nhìn lành khỏe, trong trẻo. Ở

đây, sau Đất nước đứng lên, lại một lần nữa, ta thấy thiên nhiên và con người miền

núi quả có một sức hấp dẫn, một sức tác động trở lại đối với Nguyên Ngọc làm cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ngòi bút của anh trở nên phơi phới, tha thiết, lắng sâu". Họ là những người dân bản

xứ còn thiếu chữ nhưng thừa nhiệt huyết, như người bí thư xã kiêm phát hành viên

báo chí: “Cắm đi ngày đi đêm, vai đeo súng, báo cuộn tròn trong ống nứa đeo lưng.

Mưa hay nắng, hay gió bão, báo Đảng cũng không dừng lại một ngày nào, một giờ

nào trên những sườn núi Mèo cheo leo, hiểm trở và ẩn hiện trong mây này...”. Miền

Tây của Tô Hoài đã cho thấy những thay đổi lớn lao về kinh tế - xã hội ở Tây Bắc,

đồng thời cũng chỉ ra được những khó khăn riêng trong công cuộc xây dựng ở vùng

cao như mê tín dị đoan nặng nề, sự phá phách của bọn phản động. Phản ánh nét đẹp

cuộc sống, con người mới còn có tùy bút Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân, truyện

ngắn Mùa lạc (1960) của Nguyễn Khải, các truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (1970) và

Núi đỗ quyên (1971) của Nguyễn Thành Long là những truyện ngắn đẹp, trong trẻo

như những bông tuyết đầu mùa nhưng mang sức nặng tình đời sâu lắng của những vẻ

đẹp nhân văn, sống giữa cô đơn băng giá và sương mù, ngày đêm quên mình hoạt

động vì khoa học kĩ thuật. Một chàng thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí

địa cầu ở Sa Pa “thèm” gặp người đến mức phải đẩy khúc cây chắn ngang đường xe

khách, thấm thía nỗi cô độc hàng đêm khi cái im lặng “như bị chặt ra từng khúc” vẫn

sẵn sàng lên làm việc trên đỉnh Phan Xi Păng (Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long).

Một người trai từ miền Nam ra dạy học ở rẻo cao tỉnh Lào Cai, quan niệm “nhiều cái,

người bình thường cho là gian khổ, ta thấy là hạnh phúc” (Núi Đỗ Quyên - Nguyễn

Thành Long). Có thể nói Mùa lạc là mùa vui, là mùa hồi sinh sự sống, mùa của những

cuộc đổi đời. Tác phẩm là bài ca ca ngợi sức sống vĩnh hằng của con người, vượt qua

những mặc cảm, những khó khăn của cuộc đời để đi tới bến bờ của tình yêu và hạnh

phúc. Góp phần phản ánh bước chuyển mình của đời sống miền núi còn có các tiểu

thuyết Làng cao (1972) của Sao Mai, Vùng cao (1975) của Đỗ Quang Tiến,...

Không chỉ dừng lại ở những đề tài nói trên, văn xuôi về dân tộc và miền núi sau

chiến tranh còn hướng tới phản ánh nét đẹp cuộc sống, con người mới. Đặc biệt là

việc khai phá, tạo dựng hình ảnh cuộc sống, con người mới ở vùng cao, tiêu biểu như

truyện ngắn của Bùi Nguyên Khiết với các tập Dáng núi (1977), Mùa hoa ban nở

(1979), Mưa tuyết (1980) và các tiểu thuyết như Gió rừng (1976), Trăng non (1984)

của Ma Văn Kháng. Tất cả đều là những đóng góp không nhỏ vào mảng đề tài này.

Đến thời kì đổi mới, văn xuôi về miền núi vẫn tiếp tục phát triển với những đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

điểm mới. Đời sống văn nghệ cởi mở, dân chủ cùng cơ chế xuất bản, in ấn rộng rãi

khiến số lượng tác phẩm gia tăng, đề tài cùng được mở rộng. Công cuộc đổi mới với

kinh tế thị trường từng bước đem lại những chuyển biến ở địa bàn miền núi đã thu hút

sự quan tâm của các cây bút. Nét mới đầu tiên của văn xuôi miền núi thời kì này là

mở rộng đề tài, chủ đề. Một số tiểu thuyết trở lại khai thác hiện thực miền núi những

năm đầu cách mạng với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân các dân tộc như Nhớ

Mai Châu (1987) của Tô Hoài, Trên đỉnh đèo giông bão (2004) của Đoàn Hữu

Nam,... Hay đi vào hiện thực những năm chống Mĩ như Lạc rừng (1999) của Trung

Trung Đỉnh. Nhìn chung, những tác phẩm tìm cảm hứng từ quá khứ này đều xoay

quanh những vấn đề phổ quát của chiến tranh, của cách mạng, sức sống và bản lĩnh

của dân tộc, tình đoàn kết và tinh thần cộng đồng, con đường thu phục lòng dân và

cảm hóa tầng lớp lang đạo ở miền núi.

Bên cạnh đề tài chiến tranh cách mạng, nhiều tác phẩm hướng về công cuộc xây

dựng đời sống, phát triển kinh tế ở vùng núi và phạm vi hiện thực được mở rộng hơn.

Những mảng tối văn học trước đây từng né tránh nay được phơi bày. Cùng sự hiện

hữu của cái nghèo, cái ác, tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với vùng cao là

vấn đề được nhiều tác phẩm quan tâm. Sự thâm nhập của thương trường phá vỡ trật

tự của rừng xanh, lối sống thực dụng làm rạn nứt nếp nghĩ truyền thống, cái xấu xa

phi pháp khuấy đảo sự thanh bình của làng bản, được thể hiện trong một số tác phẩm

như Lửa cháy trong rừng hoang của Sương Nguyệt Minh, Ngoài cửa trời chưa

sáng cùng các truyện ngắn khác của Đỗ Bích Thúy. Bên cạnh những vấn đề mang

tính xã hội, một số tác phẩm đã đi vào các khía cạnh của đời tư con người như tập

truyện Số phận đàn bà (1990) của Hoàng Thị Cành với những thân phận đàn bà nhỏ

nhoi, yếm thế hoặc trắc trở, bất hạnh trong hôn nhân. Tập truyện ngắn Tiếng chim kỉ

giàng (2004) của Bùi Thị Như Lan với những mảnh đời bị trói buộc bởi lương tâm và

bổn phận, hi sinh hạnh phúc riêng vì người khác. Việc khai thác vấn đề số phận cá

nhân đã làm giàu thêm chất văn xuôi, chất tiểu thuyết cho các tác phẩm và nêu cao

tinh thần nhân văn, nhân bản chính là xu thế chung của văn học đổi mới.

Như vậy, có thể thấy xuôi về đề tài dân tộc và miền núi hướng tới nhiều khía

cạnh, nhiều đề tài khác nhau, làm nên bản hòa ca đa sắc màu cùng nền văn học Việt

Nam. Viết về cuộc đời vất vả của người lao động miền núi trong cuộc mưu sinh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

những người ở vị trí thấp hèn bị bóc lột, áp bức và chìm đắm trong u mê, lạc hậu.

Phản ánh chân thực hình ảnh nhân dân các dân tộc ở Việt Bắc, Tây Bắc trong cách

mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Bên cạnh đề tài chiến

tranh cách mạng, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, hướng tới phản ánh nét đẹp cuộc

sống, con người mới công cuộc xây dựng đời sống, phát triển kinh tế ở vùng núi và

phạm vi hiện thực được mở rộng và khai phá, góp phần hoàn thiện bức tranh văn học

về dân tộc và miền núi.

1.3. Đề tài thổ phỉ trong dòng văn học viết về dân tộc và miền núi

Viết về thổ phỉ là một trong những vấn đề thu hút được nhiều tác giả quan tâm.

Và đây là một đề tài khá tiêu biểu của dòng văn học dân tộc và miền núi. Đề tài thổ

phỉ đã tái hiện một thời kì lịch sử đau thương, nhiều mất mát nhưng cũng rất tự hào

của Đảng, bộ đội và nhân dân các dân tộc thiểu số phía Bắc trong công cuộc đấu

tranh chống lại các thế lực phản động, chống lại các thế lực cường quyền phong kiến

miền núi, đem lại hạnh phúc, bình yên cho làng bản, thôn xóm.

Một trong những nguyên nhân tạo nên sự xuất hiện của phỉ là do âm mưu muốn

phản công phục thù của bọn thổ ty phong kiến thế tập kiêm kinh doanh mại bản uất

ức vì bị mất quyền lợi, kết cấu lại với nhau đã tạo nên “hình hài” của thổ phỉ. Bên

cạnh đó, cái “hồn cốt” của thổ phỉ còn được bồi đắp bởi sự chỉ đạo của bọn phòng

nhì, các cơ quan phản gián chiến thuật của Pháp, bọn Tưởng Giới Thạch và đế quốc

Mĩ ở những giai đoạn khác nhau. Đây chính là một bộ phận của chiến tranh xâm lược

của thực dân, đế quốc khi đã ở thế thua. Bọn cầm đầu phỉ và đám tay chân tâm phúc

của nó chính là đầu sỏ ngụy quân, ngụy quyền, tay sai của đế quốc. Ngoài ra có pha

thêm chất lục lâm, côn đồ. Chúng tập hợp nhau lại trong sự hung hăng cuồng dại với

nghị lực tăng lên hàng chục lần. Chúng được huấn luyện, tiếp tế, thông hiểu địa

phương, có kinh nghiệm cai trị. Chúng đạt được yêu cầu của GCMA (chữ viết tắt của

cụm từ Groupement de Commandó Mixtes Aeroprtes, có nghĩa là Binh đoàn Biệt kích

Hỗn hợp nhảy dù, thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư lệnh quân đội Pháp).

Mục đích chính của chúng là xâm nhập toàn bộ khu vực Việt Minh kiểm soát và gây

nên thế thường xuyên bất ổn ở hậu phương đối thủ, đặc biệt là ở địa bàn sắc tộc ít

người như Thổ, Thái, Nùng, Mông, Mường… hướng tới mục tiêu: Chống cộng sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ngay trong lòng cộng sản, dùng người Việt trị người Việt.

Như vậy, có thể thấy đế quốc là cha đẻ của thổ phỉ. Chúng đề ra, nuôi dưỡng,

kích động phỉ. Máy bay Pháp đã trực tiếp tham gia các cuộc khởi loạn. Vũ khí, đạn

dược, lương thực, tiền của, lon, mề đay, quần áo,... Tất cả được trang bị, bồi đắp,

cung cấp để tạo nên phỉ. Pháp đã trở thành liều thuốc hồi sinh, tái tạo của bọn này và

chúng lợi dụng những khía cạnh tiêu cực của đồng bào dân tộc để tận dụng.

Và thổ phỉ không phải ai xa lạ, chính là một bộ phận nhỏ người Mông, người

Dao, người Tày, người Nùng,.. sinh sống trên những vùng núi hoang sơ ở phía Bắc

trên đất nước ta, nghe những lời xúi giục, kích động của bọn phản động đã theo nhau

vào trong rừng cơ cấu thành một tổ chức chống lại cách mạng. Ngoại trừ một số kẻ

cầm đầu ranh mãnh, khôn ngoan, còn phần lớn là những kẻ lì lợm, tối tăm, dốt nát, a

dua. Họ vào rừng, cầm súng chống lại chính sách của Đảng, của cách mạng và chống

lại bộ đội, chống lại nhân dân do u tối, nhẹ dạ cả tin, bị kích động, tham lam, do hiểu

lầm hoặc do bị ép buộc. Chúng chiến đấu có tổ chức, có thứ bậc và đứng đằng sau

nuôi dưỡng, trụ đỡ là người Pháp, người Mỹ và bọn Tàu Tưởng. Bọn này đã cung cấp

vũ khí, lương thực thực phẩm và cổ vũ tinh thần để phỉ có thể tồn tại và hoạt động.

Điều đáng nói nữa là ngoài các lực lượng phản động hỗ trợ thì đằng sau phỉ còn

có bộ tộc, dòng họ, gia đình. Đó là những con người hàng nghìn năm sống trong tăm

tối, bị quá khứ đè nặng và sùng kính quá khứ với tâm lí dân tộc cố hữu, vững bền.

Đối với phỉ, việc mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo, dọa nạt và những thủ đoạn tàn bạo luôn

có thừa. Điều đó khiến chúng liên kết được các thành viên của đại đa số dân chúng và

trở thành đại biểu của họ. Và cuộc nổi loạn thực tế đã trở thành một phản ứng có tính

chất quần chúng rộng rãi.

Nếu như lịch sử các dân tộc thiểu số phía Bắc trải qua cuộc đấu tranh chống thổ

phỉ nhiều gian nan và mất mát đớn đau thì lịch sử các dân tộc thiểu số miền Nam phải

trải qua đấu tranh quyết liệt với bọn Funlro hung ác, tàn bạo.

“Funlro” (chữ viết tắt của cụm từ tiếng Pháp Front Unifié pour la Libération des

Races Opprimées, có nghĩa là Mặt trận Thống nhất giải phóng các sắc tộc bị áp bức).

Mặt trận bao gồm Mặt trận Giải phóng Champa (Funlro Chăm), Mặt trận Giải phóng

Campuchia Krom (Funlro Khmer), Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên (Funlro

Thượng). Funlro có ba cơ quan lãnh đạo là Hội đồng Tối cao, Hội đồng Bảo trợ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Ủy ban Chấp hành Trung ương.

Đây là một tổ chức chính trị, quân sự do một số người dân tộc thiểu số ở Tây

Nguyên, người Chăm, người Khmer Khom thành lập năm 1964 với sự hà hơi, tiếp

sức của bọn ngoại bang để chống lại chính quyền Việt Nam cộng hòa đến năm 1975

và chống lại chính quyền Việt Nam đến năm 1992. thời điểm kết thúc được tính là

khi 407 binh sĩ cuối cùng giao nộp vũ khí cho quân Liên hợp quốc tại Campuchia.

Mục đích của mặt trận này là đấu tranh, yêu cầu chấm dứt mọi chính sách phân biệt

đối xử với các sắc tộc thiểu số nhưng nó bị các thế lực chống phá Việt Nam lợi dụng,

lèo lái nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân với các luận điệu chia rẽ, kích động, gây

rối... Tổ chức này có quốc kì, có lãnh tụ, có chủ tịch lãnh đạo theo mỗi thời kì lịch sử

cụ thể.

Địa bàn hoạt động của Funlro rộng lớn, bao gồm các tỉnh Quảng Ngãi, Bình

Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Quảng Đức, Lâm Đồng, Phan Rang,

Ninh Thuận và xuyên qua biên giới sang Campuchia, kết hợp với quân Khme Đỏ.

Với sự lớn mạnh không ngừng, Fulro trở thành một tổ chức chính trị vũ trang

hoạt động có tổ chức, phản động, gây ra hàng loạt các cuộc khủng bố đẫm máu, đau

thương cho các dân tộc ở Tây Nguyên. Chúng xuất hiện ở nhiều buôn làng Tây

Nguyên, rải truyền đơn, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng, Chính phủ; kích

động, lôi kéo quần chúng, đồng thời đẩy mạnh hoạt động khủng bố, tấn công vào các

đơn vị bộ đội, tổ công tác của ta ở một số thị trấn, thị xã và ám sát, phục kích, giết hại

nhiều dân thường và cán bộ, bộ đội. Không chỉ thế, chúng còn cướp súng đạn, hàng

hóa, phục kích, tập kích đường giao thông, đốt phá trụ sở, nhà dân nhằm mục đích

vừa phá hoại vừa gây thanh thế. Hoạt động của chúng diễn ra hết sức phức tạp, gây

cho ta nhiều khó khăn trong xây dựng, củng cố chính quyền mới ở vùng đồng bào

dân tộc. Hàng ngàn thanh niên dân tộc Chăm, Ê Đê, Ja Rai, K,Ho bị Fulro lôi kéo,

cưỡng bức vào rừng theo Fulro. Chính sự ngoan cố chống phá cách mạng, chia rẽ

khối đại đoàn kết dân tộc của lực lượng Fulro đã đẩy hàng vạn gia đình (nhất là đồng

bào các dân tộc thiểu số) vào cảnh ly tán, chết chóc, đau thương kéo dài suốt nhiều

năm tháng.

Như vậy, về bản chất thổ phỉ và Funlro giống nhau ở sự hà hơi tiếp sức của bọn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ngoại bang và các thế lực phản động với mục đích chống phá cách mạng, chia rẽ, li

khai dân tộc, những thủ đoạn hèn hạ và tội ác man rợ, tàn độc, dã man, vô nhân tính.

Tuy nhiên, chúng cũng có những điểm khác nhau: về quy mô tổ chức, về thời điểm

lịch sử và địa bàn hoạt động.

Tóm lại, phỉ và Funlro là một nhóm người ở núi cao, chủ yếu là dân tộc thiểu

số nổi loạn, chống phá cách mạng, chống phá chủ trương của Đảng, Nhà nước, khuấy

đảo sự yên bình của dân lành. Chúng được hình thành do điều kiện thực tế ở địa

phương và sự tác động của thế lực bên ngoài. Nền kinh tế - xã hội, trình độ văn hóa

chung thấp kém từ bao đời đã dìm hàng triệu con người vào vùng u tối, mê muội. Và

những thế lực phản động đã lợi dụng những khía cạnh tiêu cực của đồng bào dân tộc

nhằm tận dụng cho ý đồ đen tối của chúng.

Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về ®Ò tµi thổ

phỉ trong tiểu thuyết của các nhà văn tiêu biểu ở miền núi phía Bắc. Thổ phỉ là một

trong những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc của một thời kì lịch sử của dân tộc. Đây là thời

kì tiễu phỉ - thể hiện một thời kì lịch sử đặc biệt của cách mạng và kháng chiến ở

vùng cao. So với cuộc cuộc chiến đấu giành quyền độc lập, tự do với kẻ thù xâm lược

từ bên ngoài thì dường như cuộc đấu tranh tiễu phỉ, diệt phỉ đã có phần phức tạp hơn.

Đây là đề tài được nhiều nhà văn đề cập đến, trong đó ở miền Bắc tiêu biểu có nhà

văn Ma Văn Kháng với Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Phượng Vũ với Hoa

hậu xứ Mường, Mạc Phi với Rừng động, Đoàn Hữu Nam với Thổ phỉ. Các tác

phẩm tái hiện những giai đoạn cách mạng sôi động, dữ dội của các vùng dân tộc Thái,

Hmông, Mường và Dao.

Các tác giả đã tái hiện lại một thời kì lịch sử của đồng bào dân tộc thiểu số miền

núi phía Bắc trong công cuộc đấu tranh chống lại tội ác của bọn chúa đất, thổ ty, phìa

tạo, lang đạo và thổ phỉ. Cùng với ánh sáng của cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số

đã nhận thức đúng đắn, đi theo ánh sáng của Đảng và Bác Hồ, đứng lên đấu tranh,

mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và sự yên bình cho quê hương. Đó là những

bức tranh hiện thực lớn về những đổi thay của đồng bào dân tộc thiểu số trong cuộc

kháng chiến chuyển mình của dân tộc.

Tiểu thuyết Rừng động của Mạc Phi đi vào các mặt hiện thực phức tạp của xã

hội người Thái trước chiến thắng Điện Biên Phủ, tái hiện cuộc đấu tranh giải phóng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

khỏi ách thống trị của phìa tạo, đế quốc và bọn thổ phỉ phản động cùng công cuộc

xây dựng cuộc sống mới của đồng bào dân tộc Thái. Tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa

xòe và Vùng biên ải của Ma Văn Kháng lại dựng lên bức tranh đậm chất bi tráng về

cuộc đối đầu của cách mạng non trẻ với thế lực thổ ty già cỗi, độc ác, tham lam cố

hữu và cuộc tiễu phỉ phản loạn ở vùng biên ải trên mảnh đất Lào Cai anh dũng, kiên

cường. Vùng biên ải đã làm sáng tỏ nguồn gốc phát sinh, sự phát triển cùng đường

hướng, bản chất của đối tượng thổ phỉ, đồng thời giải quyết hai vấn đề trung tâm của

khu vực miền núi là vấn đề thổ phỉ và vấn đề dân tộc trong thời kì lịch sử có nhiều

biến động lớn lao. Hoa hậu xứ Mường viết về cuộc chiến của Việt Minh chống lang

đạo phản động; Thổ phỉ viết về thời kì nhiều biến động diễn ra ở các tỉnh miền núi

phía Bắc nước ta, nơi có đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống những năm 50

- 60. Đây là những tác phẩm kết tinh thành tựu của các nhà văn về đề tài miền núi,

mang dung lượng của những cuốn bách khoa toàn thư cung cấp lượng tri thức bộn bề

về lịch sử, xã hội, kinh tế, phong tục, tâm lí, ngôn ngữ, đặc biệt là tái hiện một thời kì

lịch sử oai hùng của đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc trên mặt trận tiễu phỉ.

Tiểu kết chƣơng 1

Như vậy ta có thể nói rằng, nằm trong hệ thống đề tài phong phú, đa dạng của

dòng văn học viết về dân tộc và miền núi thì thổ phỉ là một trong những đề tài được

nhiều nhà văn khai phá, tiếp cận. Trong số đó, các tác giả Ma Văn Kháng, Mạc Phi,

Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam đã rất thành công trong mảng đề tài này khi tái hiện

một thời kì lịch sử đau thương nhưng cũng vô cùng anh dũng, kiên cường trong công

cuộc đấu tranh tiễu phỉ của đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc. Các nhà văn đã

không ngừng nỗ lực, tìm tòi, khám phá và là những cây bút xuất sắc có những đóng

góp cho sự phát triển của dòng văn học dân tộc và miền núi nói riêng và văn học Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Nam nói chung.

Chƣơng 2

HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI MIỀN NÚI

TRONG CUỘC ĐẤU TRANH TIỄU PHỈ

2.1. Hiện thực cuộc sống cay đắng, tủi nhục của đồng bào miền núi phía Bắc và

tội ác man rợ của thổ phỉ trong những năm loạn phỉ

2.1.1. Hiện thực cuộc sống cay đắng, tủi nhục của đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc

Ở miền núi phía Bắc, đại diện cho tầng lớp thống trị, cho giai cấp phong kiến là

những lang đạo, phìa tạo, thổ ty và các chức dịch cũ. Dưới sự câu kết giữa các thế lực

phong kiến với bọn phản động và thực dân Pháp xâm lược, cuộc sống của người dân

nơi rẻo cao ngày càng bị chìm sâu vào tình trạng nghèo nàn lạc hậu, bị bóc lột, áp bức

tận cùng. Những làng bản nghèo đói xác xơ, bị hủy diệt sự sống, những người dân

lương thiện bị lôi kéo, dụ dỗ theo thổ phỉ chống lại chính quyền, chống lại đồng loại

với các thủ đoạn tàn độc khiến làng bản luôn phải sống trong tình trạng lo âu, hãi hùng.

Đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc sống trong chế độ cai trị tập quyền, mất

quyền tự do, không có quyền sống của mình. Rừng động của Mạc Phi đã dựng lên

bức tranh lớn, sinh động về đời sống của đồng bào dân tộc Thái Tây Bắc trong cuộc

kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc dưới chế độ phìa, tạo cố hữu từ bao

đời nay. Đó là một xã hội người Thái với những phân hóa bên trong các dòng họ, các

gia đình, những bi kịch trong cơn “loạn rừng” mà mỗi người phải trải qua khi đang

hình thành xác lập quanh họ một thời thế mới. Tác giả đã tái hiện sinh động trước mắt

người đọc chế độ phìa, tạo, chúa đất và các chức dịch dưới quyền có quyền uy tối cao

đối với nhân dân trong vùng cai quản của mình. Xã hội Mường Vai - Suối Nàng phải

sống trong sự kìm kẹp của phìa Sân. Phìa dùng quyền lực bắt những người dân không

có ruộng phải di cư đến đất phìa để tạo thành bản “cuông nhuôốc” (bản nông nô),

suốt đời chỉ biết phục vụ gia chủ, phục vụ phìa. Họ phải chịu hết đời này sang đời

khác cái tiếng oan ức “bản ăn nhờ” [27, tr. 184]. Sống phải giữ phép, làm ăn phải

đúng lệ kiêng. Những người cuông nhuôốc “vừa là thân ốc vừa là thân ngựa chạy

khắp mường, khi đứng im dệ đường thì như thân rau giền, ai dẫm cũng xong” [28, tr.

58]. Trong lúc “loạn rừng” nhà phìa lập sổ trâu: “Trâu thả trên núi phải dồn về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ruộng, từ con nghé mới đẻ phải đeo mõ tuốt, nó phải vẽ bùa, khắc dấu cho khỏi lẫn.

Đếm bao nhiêu con đực, bao nhiêu con cái, bao nhiêu con nghé trình lên nhà phìa.

Từ nay, nhà phìa phải trông nom trâu cho các dân bản” [27, tr. 50]. Thực chất đấy là

việc làm che dấu cho hành động tước đoạt của nhà phìa. Dưới chế độ phìa tạo như

thế, người dân vừa bị tước đoạt quyền công dân vừa bị bưng bít bởi sự nhẫn nhục và

ngu muội.

Phìa, tạo lập ra luật lệ, quy định riêng cho nhân dân trong vùng. Chúng có

quyền bắt nhân dân đi lính trong sự cấu kết với thực dân Pháp, bắt nhân dân phục

dịch, nộp thuế lễ, làm kẻ ăn người ở trong nhà, là côn hướn (gia nô) từ đời này sang

đời khác. Phìa tạo được phép lập ban gái xòe, chuyên việc mua vui cho quan Tây. Tất

cả gái mường đủ mười sáu tuổi trở lên đều có tên trong danh sách chọn gái xòe của

nhà phìa. Nhà phìa chỉ ngồi không, ăn chơi hưởng lạc, mọi thứ của cải trong nhà đều

do dân các mường cống nạp, từ việc cống nộp một phần con thú khi săn bắn được đến

việc chạy phu trạm vất vả trên các nẻo đường dài. Nhà phìa trả công cho người dân

không phải là những giá trị vật chất có thể nuôi sống bản thân họ mà là “được lĩnh sổ

thuốc lào, được xóa án, được nhận suất ruộng gánh vác” (ruộng công, người được

chia ruộng phải nộp các khoản thóc thuế, các khoản lệ mường và phải đi phu, đi lính)

[27, tr. 154]. Thân phận mỗi người dân chỉ là “con gà trong chuồng” [27, tr. 154] của

nhà phìa thôi.

Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ, viết về dân tộc Mường ở Hòa Bình dưới

chế độ lang đạo và sự hỗ trợ đắc lực của bọn Quốc dân đảng Tàu Tưởng phản động.

Chế độ lang đạo theo hình thức cha truyền con nối, từ đời này sang đời khác. Mỗi

người con trong gia đình nhà lang làm lang đạo một vùng, nhân dân vùng nào thì

phục dịch lang đạo vùng đó. Dưới lang đạo là các ậu, ậu được chia ra nhiều thứ bậc,

nhiều loại khác nhau (ậu cả, ậu nhì, ậu lam mường), cùng cai quản, chăm lo mọi công

việc nhà lang. Dưới sự hà hơi tiếp sức của bọn Tàu Tưởng, tổ chức Quốc dân đảng và

bọn lang đạo làm nhiều điều bạo ngược, độc ác, phản động khiến cuộc sống của nhân

dân vô cùng cực khổ, nghèo khó, lạc hậu. Cuộc sống đồng bào dân tộc H‟mông

(Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải) lại bị đè nặng bởi chế độ thổ ty từ bao đời.

Mỗi thổ ty hùng bá một vùng, thổ ty Hoàng Văn Chao ở châu Pa Kha, thổ ty La Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Đờ ở châu Pha Linh, anh em thổ ty Nông Vĩnh Yêng ở châu Mường Cang. Đó là chế

độ bóc lột tàn bạo với những luật lệ vô lí, hà khắc. Người dân phải đến làm không

công cho các thổ ty, từ “cỏ ngựa, quét dọn, đập đậu, xấy đậu, đóng bao”. Ông Châu

chở đậu tương đi bán rồi “mua vải, muối về bán lại cho dân” nếu ai không đi, không

làm thì “không được mua muối, mua vải” [13, tr. 263] và những đồ dùng thiết yếu do

những ông thổ ty buôn bán. Có thể thấy, đó là sự độc quyền cố hữu của các viên thổ

ty. Dân không được nuôi lợn đực, muốn nuôi lợn nái phải đưa đến nhà thổ ty lấy

giống, người nào dám to gan nuôi lợn đực sẽ phải chịu hình phạt đến mức trở thành

điên loạn như “Một ông già cổ thòng lọng một sợi thừng, áo chàm tơi tả, từ đâu tới

đang chạy quanh ngoài sân, miệng lặp lại tiếng kêu kinh hoàng…” [13, tr. 169]. Đó

là hình ảnh ông lão Pâu, từ châu khác chuyển đến, không nắm được lệ của tri châu

Hoàng Văn Chao tại Pa Kha, trót nuôi một con lợn đực, bị Chao cho người thắt cổ,

suýt chết. Không chỉ thế, người dân nơi đây phải nộp thuế nặng nề và chịu sự o ép,

quản thúc của các thổ ty khiến cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu, chìm sâu trong tăm tối

và những hủ tục lạc hậu. Các thổ ty tranh giành quyền lợi, xưng bá đồ vương, gây nên

cảnh nồi da nấu thịt, cuộc sống nhân dân rơi vào bế tắc, không lối thoát.

Chế độ cai trị tập quyền lang đạo, phìa tạo và các thổ ty với cuộc sống vương

giả như bậc vua chúa cùng những hành động độc ác, hống hách khiến cuộc sống nhân

dân càng trở nên nghèo nàn, lạc hậu. Trong nhà lang (Hoa hậu xứ Mường) được chia

ra nhiều khu, mỗi khu “lúc nào cũng có mấy chục gia nhân phục dịch” [44, tr. 43] từ

việc lấy củi, nấu ăn, gánh nước, vót đũa đến chăn ngựa, cắt cỏ, giã gạo. Chỉ riêng việc

ăn của lang đạo Quách Lân cũng thể hiện một cuộc sống xa hoa, vương giả đến mức

nào: “Ngày ba bữa ăn ba kiểu khác nhau. Một bữa theo lối Tây, một bữa theo lối dân

mường, một bữa ăn theo kiểu Tầu”. Rượu uống thì “toàn rượu Tây, từ Mác-xây,

Boóc-đô gửi sang, có thứ đã để mấy chục năm”. Lang đạo lấy rất nhiều vợ, không

ưng ý thì đuổi đi lấy vợ khác. Lang đạo quan hệ bừa bãi, hiếp đáp dân lành, con rơi

con vãi khắp nơi. Ngoài ra, còn bao cô gái con nhà lành phải hầu hạ, làm người trải

chăn đệm cho lang, “chán con mái này lại có con mái khác, chẳng kém gì ở trong

cung vua” [44, tr. 77]. Trên sàn bếp nhà lang lúc nào cũng “đầy rượu ngon, thịt quý”.

Trong phòng ngủ “chăn đệm, gấm lụa trải cả xuống sàn”. Bà nàng Quỳ, vợ lang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Quách Lân quanh năm “dong dóng trên sàn, bụi không bám gót chân, mỗi ngày tắm

nước thơm mấy lần cho mát da mát thịt, đi đến đâu kẻ lạy đằng trước, người hầu

đằng sau, một bước lên xe, hai bước lên ngựa…” [44, tr. 13]. Không chỉ mình lang có

quyền sinh, quyền sát mà con trai, con gái trong nhà lang cũng có quyền tối cao,

muốn gì được nấy, buộc nhân dân phải phục vụ khi họ có nhu cầu. Bến tắm, giếng

tắm của các bà nàng, các nàng ả người dân không được đi qua, không được đến gần.

Đó là nơi được xây cất cẩn thận với “nền giếng được lát bằng đá tảng xanh đục

phẳng lì. Thành giếng được ốp bằng đá. Nước trong giếng đầy đến tận miệng và

trong suốt nhìn xuống tận đáy". Mỗi khi các nàng ả, bà nàng tắm, chỉ cần “cầm gáo

múc nước, nhẹ nhàng như múc nước trong cái chậu bằng đá…” [44, tr. 362]. Dân

thường dám yêu con cái nhà lang sẽ phạm tội chết. Quách Lữ, lang mường Rậm đã

đánh chết một người con trai Mường khi anh này dám yêu nàng ả Xiêm em gái hắn.

Hắn bắt trói người con trai xong “treo lên cây đa dưới bãi bằng rồi đánh đến chết”,

xác “bị vứt ra ngoài rừng để đêm đến hổ đói ra tìm ăn” [44, tr. 363]. Những người

dân thường dám yêu con nhà lang phải chết khổ chết cực, chết không còn xác để cha

mẹ dựng hòn mồ.

Thổ ty, lang đạo, phìa tạo là cây cổ thụ sâu rễ bền gốc, cắm rễ đâm ngọn từ

trong lịch sử xa xưa, mỗi năm một nhiều cành lá. Bóng nó tỏa ra bốn phương tám

hướng, che rợp cả một khoảng đất rộng, làm còm cõi tất cả các sinh vật và đất đai.

Chỉ nhìn vào thu nhập và những lợi ích được hưởng hàng của một tri châu trong một

năm cũng thấy được phần lớn nguyên nhân dẫn đến cuộc sống của người dân nghèo

khổ và lạc hậu: “Thổ ty Hoàng Văn Chao được lương mỗi năm ba trăm tạ thóc...

ngoài ra chính thức được cấp công điền mười mẫu, số ruộng này quy định rõ: do dân

cấy cày không cho quan châu. Chao còn được cấp ba mươi trai đinh phục dịch trong

nhà, được quyền lập đội gái xòe ba mươi cô.”. [13, tr. 160]. Cuộc sống của thổ ty

vương giả như bậc vua chúa, trong dinh cơ của mỗi viên thổ ty như một quốc gia thu

nhỏ, với đầy đủ các “cơ quan”, “tổ chức” và “luật pháp”: “Trong dinh cơ của Chao

có nhà tù, phòng xử án, nơi tra vấn. Luật pháp trong tay Chao, được văn bản hóa,

với các điều luật chi tiết như: chó cắn seo phải chủ chó bị phạt một đồng, cắn binh

thần tăng lên hai đồng. Ngựa vào ruộng nhà quan, bất kể đã vặt ngọn thuốc phiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nào chưa, cứ theo lệ, phạt hai lạng thuốc và năm đồng bạc [13, tr. 160]. Việc làm nhà

cho Chao huy động đông đảo nhân dân các vùng phục dịch: “Người Mán ở làng

Nhuần ven sông Chẩy thì cứ mỗi suất đinh đóng nạp một cây gỗ quý như đinh, lim,

sến, táu, hoàng đàn, ngọc am” [13, tr. 155]. Người Xã thì lên núi, “mỗi trai tráng

mức mỗi ngày một phiến đá rộng hai gang, dài bốn gang tay” [13, tr. 155, 156].

Người Mèo vùng Can Chu Sử, châu Pa Kha, “trừ trẻ con dưới mười ba tuổi còn thì

đồng loạt hai tháng phục dịch việc xây cất: thồ đá, đào móng, cuốc đất, san nền…”

[13, tr. 156]. Sinh hoạt hàng ngày của giai cấp thống trị cũng thể hiện rõ lối sống cầu

kì, trưởng giả. Chỉ riêng việc khiêng niễng trên có quan tài người nhà lang (Hoa hậu

xứ Mường) cũng phải lựa chọn kĩ càng dưới sự chỉ đạo của ậu cai nhung. Chọn đủ

hai mươi tư người, bốn góc, mỗi góc sáu người. “Tất cả đều phải khỏe mạnh, cao đều

như nhau. Nếu là người đã có vợ thì phải là người đã có con trai, nếu chưa có vợ thì

phải còn cả bố lẫn mẹ. Hai mươi bốn người khiêng niễng, chia làm bốn góc, mỗi góc

sáu người” [44, tr. 442, 443]. Họ phải tập đi tập lại với những nghi thức cầu kì, dưới

những chiếc roi song của ậu cai nhung và ậu cai xã. Khi khiêng “cả bốn góc phải đều

vai, không chỗ nào cao, không chỗ nào thấp, sao cho bốn bát nước lúc nào cũng lặng

như để trên sàn không trào, không đổ” [44, tr. 443]. Nếu góc nào lệch, các ậu cai sẵn

sàng cầm roi song quật vào đầu, vào người khiêng niễng cho tới khi nào bát nước

không sóng sánh mới thôi, thậm chí đánh tới chết. Có thể thấy, người dân không chỉ

bị đầy đọa, bóc lột về mặt vật chất mà cả về thể xác và tâm hồn.

Tri châu các vùng tranh giành quyền lợi, lãnh thổ, khu vực làm ăn dẫn đến tình

trạng luôn luôn mâu thuẫn. Họ sẵn sàng dùng tay chân của kẻ dưới quyền để xử kẻ

thù của mình một cách tàn bạo, dã man, không ghê tay. Có nhiều hình thức xử tử, có

thể “thắt cổ”, có thể “cắt lột da trán trên đầu tội phạm, lột xuống che mắt rồi bắn”

hoặc “cho ngựa kéo dọc đường” [13, tr. 232]. Nông Vĩnh Yêng, tri châu Mường

Cang, để trả thù cho bố đã bắt oan người dân lương thiện về làm ma tươi trong đám

ma bố mình. “Y trói ông cụ cạnh quan tài bố, đặt một cái đĩa đèn lên đầu ông cụ, lửa

cứ cháy trên đầu, dầu cứ chảy nhầy nhụa xuống trán, vào mắt vào mồm ông cụ…”

[13, tr. 262]. Hành động điên cuồng, vô nhân tính đó đã khiến cho ông cụ người

Nùng mãi mãi rơi vào tình trạng mù lòa, không nhìn thấy ánh sáng. Tri châu là trụ đỡ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đắc lực cho phỉ, là đồng đảng cùng phỉ, xúi phỉ đi cướp phá làm hại dân lành, mượn

tay kẻ bất lương đào mồ, giật mìn hài cốt của gia đình những người không cùng phe

cánh làm ăn dưới quyền.

Sống dưới chế độ phìa tạo, lang đạo, thổ ty, nhân dân các dân tộc thiểu số phía

Bắc bị bóc lột nặng nề về vật chất, bị áp bức về tinh thần và bị bó buộc bởi những

luật lệ vô lí, hà khắc khiến cuộc sống nhân dân vất vả, thiếu thốn với những hủ tục

nặng nề, lạc hậu. Hàng năm, vào vụ cày cấy, dân mường trong (Hoa hậu xứ Mường)

phải thay nhau đi làm không công cho nhà lang, vào vụ thu hoạch lại đi gặt, gánh

thóc về cho nhà lang. Họ bị coi rẻ, gọi là người “xín mán cán giày” (người làm lá,

làm củi) cho nhà lang. Mỗi năm, quan lang và quan công sứ đều đi săn trên các

mường trên cao vài ba lần. Có lần đi vài người, có lần đi vài chục người. Nếu lang và

các quan công sứ bắn không trúng thì đã có người dân “bắn cho rồi khiêng con thú

đặt dưới chân quan để mọi người thấy rõ tài bắn của ngài”. Để thỏa mãn các nhu cầu

ăn chơi của quan lang và quan công sứ, người dân các mường còn phải “làm cáng

khiêng quan đi chơi trong rừng, đi tắm ngoài mỏ nước”. Gái đẹp các mường phải lên

tận nơi “hầu chăn đệm cho quan” [44, tr. 239]. Săn được một con vật đều phải cống

nộp một phần cho thổ ty, lang phìa: “Con gấu bắn được trong rừng, cái mật và hai

chân trước là của quan. Bắn được con hổ, thì tất nhiên phải nộp bộ xương và bộ da.

Cố tình lờ đi là phạm trọng tội” [13, tr. 160]. Hoặc là “phải biếu lang một vai liền

xương bả”. Nếu dân thường vô tình săn bắn phạm vào vùng đất cai quản của lang thì

phải mất “một bò hoặc một lợn tạ lỗi với lang”. Lệ nhà lang định như thế hàng nghìn

năm, nếu “không tuân theo lệ ấy chỉ có chết”, nếu không cũng bị lang “đuổi ra khỏi

mường, sống ăn mày nơi mường lạ” [44, tr. 85]. Những bằng chứng ấy cho thấy

“thượng ngọn cây hạ ngọn cỏ” trong nhân gian đều thuộc quản lí của thổ ty, lang,

phìa. Điều đó có thể lí giải vì sao đời sống nhân dân khổ cực, vì sao dân Mường lại sợ

lang hơn cả vua trời. Khi gặp đoàn người, ngựa nhà lang dọc đường, người dân “sợ

hãi, nép vào bụi rậm không dám ló mặt”, vì “người nhà quan, ngựa nhà quan, ai dám

đứng xem” [44, tr. 8]. Khi Tết đến, dân mường phải đi lấy lá, lấy củi phục dịch nhà

lang gói bánh Tết. Khi lang cho về thì “Tết đã qua rồi, chẳng biết chén rượu ngay Tết

nồng hay đắng”. Nhà lang ăn Tết xong, dân mường lại phải đến “dọn lá bánh, dọn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

xương cho nhà lang sạch đẹp”. Nếu không lấy lá, lấy củi thì phải làm cỗ biếu lang.

Nhà giàu thì “một mâm hàng trăm đĩa chất đầy năm tầng đủ các món ăn ngày Tết”,

nghèo cũng phải “một mâm năm chục đĩa” [44, tr. 232] những thức ăn ngon nhất.

Nhưng người dân nghèo, quanh năm chủ yếu ăn củ nâu, củ vớn, mâm cơm cúng tổ

tiên còn không có đành chấp nhận thân phận tôi tớ, hầu hạ phục dịch.

Lang đạo có quyền đề ra những luật lệ rất vô lí, tốn kém, buộc nhân dân phải

tuân theo. Nếu không tuân theo là phạm trọng tội. Khi nhà lang có việc tang, dân các

khuê bản, mỗi nhà phải đóng góp “trâu một con, lụa mười thước, vải trắng hai mươi

thước, gạo một nồi, hương mười thẻ, rượu một chum để cúng ma và tiếp đãi tân

khách. Nếu không có trâu thì thay bằng một bò cùng với hai đôi gà thiến, không có

bò thì thay bằng hai lợn năm mươi chít và một đôi gà [44, tr. 475, 476]. Nhà nào

cũng phải cắt tóc để tang lang ba năm y như để tang bố mẹ đẻ. Trong ba năm đó,

“dân các khuê bản không được dựng vợ gả chồng, không được vui chơi hội hè, không

được hát thường, hát rang, không được xắc bùa và làm nhà mới” [44, tr. 476]. Thổ ty

Hoàng Văn Chao (Đồng bạc trắng hoa xòe) còn đưa ra quy định: “Mỗi năm, mỗi nhà

dân trong châu phải góp cho nhà quan một cân thóc, một cân gà, gọi là gà thóc, gà

khách, ai không nộp, phạt gấp đôi… Cố tình lờ đi là phạm trọng tội. Phạm trọng tội

là những kẻ dám nuôi lợn đực trong nhà.” [13, tr. 160]. Hoàng Văn Chao có quyền

cấm tất cả dân chúng trong vùng, không ai được phép nuôi lợn đực. Nghĩa rằng là lợn

cái của bàn dân thiên hạ muốn sinh đẻ thì chỉ còn có cách đưa đến nhà quan châu với

điều kiện trả công sức con lợn đực “một đồng bạc và nửa số lợn con mới đẻ cho nhà

quan” [13, tr. 160]. Có thể nói các thế lực cai trị tập quyền bóc lột người dân đến kiệt

cùng. Điều đó khiến cuộc sống của họ ngày càng rơi vào lạc hậu, thiếu thốn, nghèo

đói và bế tắc.

Cuộc sống của nhân dân các dân tộc thiểu số phía Bắc không chỉ chịu sự đàn

áp, bạo hành và sự bóc lột tận cùng về vật chất, thể xác và tinh thần mà bản thân họ

còn mất quyền tự do, không có quyền quyết định cuộc sống của mình, bắt buộc đi

lính phục dịch cho những âm mưu đen tối của nhà phìa.

Sống trong chế độ phìa tạo, Tòng Thị Lả (Rừng động) sinh ra đã là côn hướn

(gia nô) kế nghiệp cha mẹ cho nhà phìa, một loại người hoàn toàn không có quyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

công dân. Cô không có quyền được sống cho mình, cho gia đình mình. Người côn

hướn khi bố mẹ mất “không được khóc bố mẹ. Côn hướn không được có bố mẹ, trên

vai trên lưng côn hướn chỉ có chủ nhà thôi” [27, tr. 128]. Lớn lên “Lả đẹp như một

bông hoa rúc trong bụi” [27, tr. 117]. Chính vì đẹp nên phìa đã cướp đi đời con gái

của cô. Để thỏa mãn lòng ghen tuông, mụ chủ phìa bắt Lả làm trò tiêu khiển cho bọn

lính. Đối với cô, đó là những ngày đau đớn, khủng khiếp, bị hành hạ cả về thể xác và

tâm hồn, không bao giờ có thể quên được: “Quan lính chồm lên chồm xuống như cả

đàn chó. Không có đêm ngày. Không có giấc ngủ”. Lả cảm thấy “không còn đời

người, chỉ còn cái xác nhũn chưa chết không biết tại sao chưa chết” [27, tr. 118]. Khi

trở lại nhà Phìa, Lả chỉ còn là cái xác không hồn “reo rớt như cái rải khoai” [27, tr.

118]. Thế nhưng mụ Phìa vẫn chưa thỏa lòng ghen tức, mụ rắp tâm bán Lả cho thằng

chột vừa mãn lính để vớt vát vài đồng bạc cuối cùng. Chẳng đừng, cô phải bám rừng

chạy trốn, trôi dạt đến tận bản Suối Nàng trên cao - bản cuông nhôốc - bản ăn nhờ

nhà phìa để neo đậu, nương thân.

Bị nhà phìa cướp ruộng công làm ruộng tư, ông Tao Văn Xương (Rừng động) -

một người dân Thái hiền lành, chất phác, ngay thẳng phát kiện nhà phìa. Nhưng việc

làm của ông chỉ như “muỗi đốt ngà voi”. Khi gia sản không còn gì, phải vét đến cả

mái gà nằm ổ, mái tóc ông bạc trắng, nhà phìa liền “gí vào tận mắt tờ văn từ giả mạo

bắt từ nay phải gọi số ruộng nó chiếm láo là Nà Sự (ruộng mua) thì người ta chỉ còn

mong mỏi có mỗi một điều: ông Xương còn lê được thân về!” [27, tr. 144]. Con trai

ông Xương là Ón, là con trai một trong gia đình nhưng “bỗng có lệnh gọi lính, tên Ón

viết ngay trên đầu tờ sức” [27, tr. 147]. Ón yêu một cô gái cùng bản nhưng do mưu ác

nhà phìa, không cho lấy nhau. Ón uất ức giết phìa không thành rồi tự tử. Nhà phìa

không cho làm ma Ón vì “Ón phải tội nặng... Một tội trốn lính, hai tội giết người”.

Muốn chôn cất thì “bố nó phải kí giấy xin đứng tội thay nó, nếu không, phải để xác

nó phơi bãi cỏ mời quan xử án Mường Lay vào xử” [27, tr. 151]. Ông Xương chấp

nhận yêu cầu “chịu án phạt nửa năm tù ngồi thế tội cho đứa con chết” [27, tr. 152].

Ra tù, nhà Phìa bắt ông chạy trạm. Nhà phìa trả công chạy trạm thư cho ông bằng “sổ

thuốc lào, lại được xóa án, được nhận lại suất ruộng gánh vác” (ruộng công, người

được chia ruộng phải nộp các khoản thóc thuế, lệ mường và phải đi phu, đi lính) [27,

tr. 154]. Có thể nói, người dân dưới chế độ phìa tạo bị áp bức đủ đường, không có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

quyền sống cho riêng mình, không có cuộc sống của con người bình thường.

Nậu (Hoa hậu xứ Mường) đẹp rạng rỡ như “hoa bông trăng” nhưng cuộc đời,

số phận khổ cực vô cùng. Tại bố mẹ Nậu “không sinh con trai nên bị lang thu lụt

phải tan tác nhà cửa” (những người không có con trai kế nghiệp bị lang tịch thu tài

sản). Gia đình tan tác, bố chết, mẹ bị bắt về nhà lang làm người ở, Nậu cũng phải vào

đó theo mẹ. Công việc chính của Nậu là “xay lúa giã gạo, đi lấy nước, đi kiếm rau”

[44, tr. 121], khi màn đêm buông xuống thì “ngủ ngay dưới chân cối xay giã”. Ngày

ngày làm việc quần quật từ sáng cho đến tối khuya nhưng nửa đêm “bà nhì, bà ba

muốn tắm, Nậu lại phải ra suối lấy nước mó (nước mạch từ trong lòng đất phun lên)

về cho các bà ngồi trên sạp dội mình cho mát” [44, tr. 122]. Nậu xuống châu làm đọi

ún (trông trẻ) cho bà nàng Quỳ, bị quan tri châu vùi dập ngay trong“đêm thứ hai

bước chân đến dinh tri châu. Năm ấy Nậu mới mười sáu tuổi…” [44, tr. 123]. Từ đó

Nậu vừa là người trông trẻ, vừa là người hầu chăn đệm cho quan châu Quách Lân. Cô

phải chịu sự ghen tuông, bức hại đáng ghê tởm dưới bàn tay sắp xếp của bà nàng Quỳ

- vợ quan châu, “đêm đến bọn kí lục trong dinh tri châu, bọn cai hầu, bọn lính khố

xanh mò đến, năm đứa, mười đứa thi nhau hãm hiếp Nậu” [44, tr. 133]. Đêm nào

cũng vậy, khi “lang đẩy Nậu ra thì đã quá nửa đêm”. Khi Nậu vừa đặt chân xuống

sàn thì “gã cai hầu đã mò vào màn Nậu. Hắn chồm lên người Nậu như chó đói. Hắn

hành hạ Nậu đến canh hai, canh ba, tới khi Nậu thiếp đi như người chết”. Nếu không

phải “gã cai hầu thì gã tài xế lại mò đến” [44, tr. 119]. Bóng đêm hãi hùng trùm lên

đời Nậu bao nhiêu tháng ngày. Cô muốn bỏ chạy, muốn kêu thét lên, muốn thoát khỏi

cuộc sống ô nhục đó nhưng Nậu chỉ như con chim trong lồng, không có quyền sống,

không có quyền tự do.

Như vậy, chúng ta thấy cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc dưới

chế độ cai trị phong kiến có sự câu kết cùng bọn phản động, bọn thổ phỉ và thực dân

Pháp là những chuỗi ngày chìm trong đau đớn, tủi nhục. Họ không chỉ bị bọn thổ ty,

lang đạo, phìa tạo ép buộc phục dịch, bóc lột đến tận xương tủy, phải chịu sưu thuế

nặng nề mà còn phải chịu sự o ép trong những luật lệ hà khắc, vô lí, không có quyền

tự do, không có quyền làm người. Họ bị bóc lột cả về thể xác và tâm hồn.

2.1.2. Hiện thực tội ác của thổ phỉ

Cuộc sống nơi rẻo cao xa xôi với nhiều hủ tục lạc hậu và sự bá chiếm hoành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hành của các thế lực thống trị miền núi ăn sâu bám rễ lâu đời. Các thế lực này được

tiếp sức bởi sự giúp đỡ đắc lực của thực dân Pháp và bọn phản động Quốc dân đảng.

Chúng tương trợ nhau về lực lượng, mưu mô và vũ khí cùng quyền hành nhằm nhiều

mục đích khác nhau trên mỗi mảnh đất nơi miền biên giới địa đầu tổ quốc. Chúng

dùng tiền, quyền hành dụ dỗ, mua chuộc, kích động và điều khiển những người dân

tộc có bản tính hung hăng, kém hiểu biết, u mê, ham tiền bạc, quyền lực cầm vũ khí

chống phá lại cách mạng, tìm mọi cách chống phá nhằm giành chính quyền từ tay

Việt Minh. Dùng mọi hành động đe dọa, trấn át, chém giết và bóc lột nhân dân trong

vùng. Đó chính là bọn thổ phỉ, con đẻ của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và

bọn thống trị miền núi.

Các tác giả Ma Văn Kháng, Phượng Vũ, Mạc Phi và Đoàn Hữu Nam không chỉ

phản ánh hiện thực về cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc, những tội

ác của bọn chúa đất, phìa tạo, lang đạo, thổ ty và bọn phản động quốc dân đảng mà

còn tái hiện sinh động, rõ nét những tội ác của bọn thổ phỉ u mê, mông muội, khát

máu, cuồng vọng nơi núi rừng xa xôi. Đó là một thế giới thổ phỉ tối tăm đầy quỷ ác

và tàn bạo, thú tính và man rợ. Đằng sau là sự trợ giúp đắc lực về lực lượng, vũ khí,

lương thực thực phẩm và sự cổ vũ tinh thần của thực dân Pháp và bọn phản động.

Trong số những tên thổ phỉ độc ác, man rợ, nổi bật là kẻ đứng đầu như thủ lĩnh

Triệu Tá Sắn (Thổ phỉ), Châu Quán Lồ, Giàng A Lử (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng

biên ải).

“Vua” Triệu Tá Sắn nổi tiếng trong việc ăn uống, chơi bời theo kiểu thổ phỉ:

“Sắn tự tay rạch một tảng ba chỉ, tự tay thái mỏng, bóp chanh, gừng, thính rồi cứ thế

nhắm rượu”. Đi săn bắn được thú rừng thì “mổ tại rừng rồi xẻo ngay buồng tim, lá

gan ăn sống… cầm ống nứa non vót nhọn xiên mạnh vào đùi con vật… vừa thổi vừa

ăn, máu chảy ròng ròng trên tay, trên cổ” [21, tr. 71, 72]. Về chơi bời gái gú, hắn còn

hơn cả loài mãnh thú với “hàng chục cuộc giao hoan mỗi ngày”. [21, tr.72]. Y cũng

tự biết đắp lên mình vòng hào quang và màn sương huyền ảo “vua người Dao” để

đánh lừa bàn dân thiên hạ u mê. Y là loại có chí lớn. Một loại kẻ thù ghê gớm của

nhân dân, của cách mạng.

Dưới quyền thủ lĩnh là một tổ chức có hệ thống, có quy mô và nhiệm vụ rõ

ràng: “Tướng Bàn Vần Sing - người hiểu rộng biết nhiều, biết nhiều, đánh trận giỏi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

có uy tín với dân chúng, cử làm Chủ tịch Mặt trận. Thủ lĩnh Lò Văn Chung - Người

rất được lòng dân, lời nói là lời vàng… nhận chức Phó chủ tịch Mặt trận… Ông

Phùng Dùn Thanh… phụ trách tài chính. Ông Giàng Phú Hùng… phụ trách thanh

niên đồng thời chỉ huy đội cận vệ…” [21, tr. 258]. Uy danh của Sắn và đồng bọn vang

xa, chiêu dụ được nhiều quân lính, đặc biệt là đám tàn quân từ bên kia biên giới. Sau

khi đăng quang ngôi vua, Triệu Tá Sắn đưa quân về Tổng hành dinh là một khu rừng

quen thuộc giáp với biên giới Việt Trung. Hôm trước Sắn về thì hôm sau quan ba Đờ-

ri-nhô có mặt. “Theo chân quan ba, từng tốp máy bay thay nhau thả những kiện hàng

xuống khu rừng với súng ống, đạn dược, gạo, ngô, thịt hộp, dầu muối cùng ba tên

lính Pháp mang theo máy bộ đàm để tổng hành dinh a lô với bên ngoài”. Ngoài ra,

“hai trăm tàn binh Tưởng Giới Thạch cũng được tập hợp dưới trướng vua Sắn” [21,

tr. 76]. Chúng đưa ra kế hoạch, mục tiêu cụ thể đối phó với Việt Minh và bộ đội:

“Mục tiêu hàng đầu của chúng ta bây giờ là phá hoại. Phá hoại sự đoàn kết của

chúng. Phá hoại những việc chúng đã và đang làm. Phá hoại sẽ ngăn cản chúng phát

triển, làm chúng hoang mang, nhụt ý chí” [21, tr. 260]. Không chỉ nhằm mục đích là

làm cho Việt Minh hoang mang, nhụt ý chí, bọn chúng còn đưa ra những chiêu dụ dỗ,

dối trá nhằm thu phục và lấy lòng tin của nhân dân, “hứa hẹn có ruộng, có rừng, no

bụng, no chữ, không thuế khóa… đề cao phong tục, đề cao tín ngưỡng” [21, tr. 260].

Bọn chúng không từ, không bỏ qua bất cứ một thủ đoạn đen tối, xảo trá nào để thực

hiện mục đích thống trị của mình.

Châu Quán Lồ (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải), trùm thổ phỉ tại châu

Pha Linh. Cuộc đời hắn vốn phức tạp. Sinh ra trong một gia đình giữ chức dịch nhỏ.

Cá tính hắn kì quặc: “ngây thơ, chân thực, vị tha với đồng loại, nhiều tài hoa thiên

bẩm, nhưng cực kì thô lỗ, cục cằn” [13, tr. 558]. Hắn đã từng theo Việt Minh, phục

cán bộ Lê Chính, nhưng không thể đi theo cách mạng được bởi lẽ lối sống “phóng

túng gần bản năng tự nhiên”, lại được “nuôi dưỡng trong một gia tộc còn nặng nề

thói áp chế” và “gặp nếp sống lính tráng” nên “tổng hòa thành nếp sống liều lĩnh, vô

độ và tàn bạo một cách thản nhiên, vô tư” [13, tr. 281]. Phần tiêu cực trong gia sản

tinh thần của hắn quá nặng nề. Hắn lại ở trong vòng trói buộc của tri châu La Văn

Đờ, mà Đờ thì “vô cùng thâm hiểm”. Đờ “dám dùng cả cô vợ ba của mình để lôi kéo”

Lồ [13, tr. 558]. Lồ là con át bài trong tay tri châu La Văn Đờ và bộ chỉ huy quân sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Pháp tại Pha Linh.

Pha Linh của Lồ cũng có “cả một triều đình văn võ với các kỉ cương thể chế chặt

chẽ và ngày càng hoàn chỉnh với các chỉ thị đánh tới của từ GCMA Hà Nội” (GCMA

là Binh đoàn Biệt kích hỗn hợp nhảy dù trực thuộc Cơ quan tình báo chiến lược Pháp,

chuyên trách gây phỉ phục vụ cho ý đồ “Dùng người Việt trị người Việt”) [14, tr.

293] và trở thành một “ăng ten thu phát trực tiếp với Hà Nội” [14, tr. 294]. Ban tham

mưu được thành lập “gồm Châu Quán Lồ, phó tướng Sùng Seo Lùng và các sảo quán

cũ… Một loạt binh thầu, seo phải trẻ nhảy lên làm sảo quán, chỉ huy các trung đội

độc lập”. Quân lên tới mức trung đoàn, chia thành “tiểu đoàn, đại đội… trang bị toàn

đồ mới và đầy đủ tới mức mỗi tiểu đội có một máy bộ đàm” [14, tr. 294]. Châu Quán

Lồ trở thành quan lớn, thành “người trời, có ngọc trời cho” [14, tr. 293]. Bốn phương

quy tụ về Pha Linh, những “binh thầu mang dòng máu phản nghịch cố hữu”, những

“sảo quán dạn dày kinh nghiệm” và các họ lớn đều “châu tuần dưới chân Châu Quán

Lồ” [14, tr. 294].

Còn Lù Văn Dẹ trong Rừng động là một kẻ sống sót duy nhất khi đội quân biệt

kích của hắn chết hết. Hắn trở về làng làm tay sai cho nhà phìa và nàng Sam, chờ đợi

quân đoàn Ún từ biên giới nước Lào trở về cùng hành động. Hắn đi lính cho thằng ba

Phát, con trai thằng giặc chúa đất Đèo Văn Long. Dẹ là đứa không có trái tim, không

có suy nghĩ, trong dòng máu của nó không có quê hương. Nó trở về Mường Vai, ẩn

nấp trong rừng Quên, núi Quên nhằm thực hiện những âm mưu đê hèn, nhưng đã bị

phường săn Suối Nàng giăng bẫy tóm gọn, giao nộp cho bộ đội.

Mục tiêu của thổ phỉ là lừa dối dân chúng bằng những thủ đoạn, âm mưu đê

hèn, nhằm vào tâm lí cùng thực tế cuộc sống thiếu thốn, đói khổ, lạc hậu của nhân

dân để chiêu dụ người ủng hộ, đồng thời phá hoại tinh thần đoàn kết quân - dân, phá

hoại phong trào cách mạng. Bọn chúng luôn dùng thủ đoạn tuyên truyền xấu về cách

mạng, về Việt Minh nhằm bôi nhọ thanh danh của cán bộ, bộ đội khiến nhân dân xa

lánh, sợ hãi và hiểu sai về Việt Minh, về mục đích của cách mạng. Tên trùm thổ phỉ

Châu Quán Lồ đã cho những kẻ dưới quyền tuyên truyền khẩu hiệu: “Hãy cầm súng

giữ lấy nước H‟mông”, “Trên trời chỉ có một vua là người H‟mông” [14, tr. 293].

“Đất H‟mông của người H‟mông ta” [14, tr. 438]. Chúng bắc loa kêu gọi khắp nơi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thông báo về hành động và phần thưởng: “Ai giết được một Việt Minh áo nâu, thưởng

hai tạ muối. Ai giết được một Việt Minh áo chàm thưởng một tạ muối”. Bọn chúng ra

lệnh: “Bắn tại chỗ kẻ nào dám chống lại” [14, tr. 293]. Trước những khẩu hiệu chiêu

dụ và phần thưởng của bọn phỉ đưa ra như thế, con trai H‟mông mười ba tuổi trở lên

đều cầm súng hết. Các sảo quán cưỡi ngựa đi hô hào các thôn bản, hô hào khẩu hiệu

phản động: “Không đội trời chung với cộng sản Việt Minh! Cộng sản tàn ác bắt được

người H‟mông sẽ chém hết. Việt Minh sẽ bắt người Hmông xuống vùng thấp đi dân

công, đầy đọa người Hmông cho đến chết. Việt Minh sẽ lấy hết thóc, lúa, ngô, đậu

của người Hmông. Phải giết hết Việt Minh.” [14, tr. 294]. Đâu đâu cũng vang lên

những âm thanh điên cuồng: “Đả đảo bọn Kinh áo nâu!”, “Đả đảo bọn Kinh áo

đen!”, “Thóc lúa của chúng ta phải về với chúng ta!”, “Giết hết chúng rồi đi cướp

châu, cướp tỉnh!” [14, tr. 291]. Người dân miền núi bao năm sống trong sự áp chế,

mông muội, lạc hậu, khi nghe những khẩu hiệu phản động đó thì luôn “thận trọng,

cảnh giác, xa lánh cán bộ, bộ đội… gặp người như gặp ma, thấy bộ đội, thấy cán bộ

là như thấy người mang hủi đến nhà” [21, tr. 358, 359].

Điều đó cho thấy, nhân dân các dân tộc thiểu số phía Bắc trong giai đoạn này

hầu như bị phỉ bưng bít đầu độc về tư tưởng, không hiểu biết về cách mạng, bịa đặt

nói xấu Chính phủ và cán bộ Việt Minh, làm nhân dân mờ đi tính chất đấu tranh giai

cấp, cam chịu cuộc đời nô lệ, bị bóc lột, trấn áp trong sự mông muội. Do vậy việc

khơi dậy cho quần chúng ý thức tự giác đứng lên giải phóng mình là một việc làm

công phu có tính chủ đạo trong công tác tiễu phỉ tại các tỉnh phía Bắc.

Bọn chúng không ngừng gây tội ác và buộc người khác làm điều ác theo mình.

Châu Quán Lồ thuyết phục, chiêu dụ người đi theo hắn, kể cả người già. Hắn thuyết

phục họ đi theo sẽ tha hồ có gạo ăn, có nhiều vải mặc. Chúng tuyên truyền “Đánh

kinh lấy tự trị. Đánh Thổ lấy ruộng. Đánh thị trấn lấy muối” [14, tr. 438]. Người dân

nghèo cả đời sống trong tăm tối, cực nhục, lạc hậu tưởng tự trị cũng tương tự như một

mảng ruộng, một tạ muối. Bắn chết được một trăm người kinh sẽ được phong chức

sảo quán. Bọn chúng không từ bất cứ một thủ đoạn nào, không từ đối tượng nào, kể

cả trẻ em. Có lẽ, thủ đoạn độc ác nhất của bọn phỉ chính là động viên, khích lệ, chiêu

dụ những đứa trẻ vô tội và vô cùng trong trắng đi theo phỉ, cầm vũ khí, kể cả thô sơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nhất như gậy, đá chống lại Việt Minh. Chính thằng bé mười ba tuổi đã tham gia cuộc

hành quyết chủ tịch Seng ở trấn Pha Linh:“...cầm một tảng đá nện vào đầu Seng, đầu

Seng vỡ, óc Seng phọt ra bắn vào áo chú đo đỏ trăng trắng”. Thật đau lòng khi đọc

đoạn văn tác giả Ma Văn Kháng tái hiện lại cảnh: “Kìa, một chú bé. Mười ba tuổi,

trán dô, choắt người, đứng chưa tới khẩu súng” khi nghe Châu Quán Lồ hét khẩu

hiệu đã nhảy cỡn lên: “Được bắn thằng Kinh là thích rồi” [14, tr. 438]. Tên Giàng A

Lử, trùm phỉ tại Can Chư Sủ đã từng thề độc trước viên quan tư Phô-rô-pông: “Tôi họ

Giàng A Lử. Tôi chỉ thờ một bố. Bố tôi là người Pháp. Tôi thù Việt Minh” [14, tr. 13].

Chính hắn cũng tuyên truyền khẩu hiệu đó cho đám đồng bọn u mê, đang ở trong cơn

phấn khích cực điểm của những việc cướp, hiếp, giết điên cuồng. Bọn chúng tung tin

đồn nhảm “bộ đội về, nó xẻo hết của quý con giai, đàn ông H‟mông đấy” [14, tr.

351], khiến dân chúng lo sợ, khiếp đảm phải mặc váy giả đàn bà. Dân làng cấm bang,

bỏ nhà lên rừng cắm chốt khiến làng bản tiêu điều, công việc ứ trệ. Cả làng “… nhà

nào cũng gài cửa. Nhiều nhà cắm dấu hiệu cấm người lạ vào nhà: một túm lông gà,

một nắm lá xanh” [14, tr. 352]. Tên thổ phỉ tại Mường Vai Lù Văn Dẹ (Rừng động)

đã ép buộc chính em gái hắn dùng “mĩ nhân kế” trong đối sách với cán bộ cách mạng:

“Mày phải mời thằng Hải về nhà cho bằng được” [28, tr. 228] và “Tao giục mày cho

chính thằng Việt Minh ngủ…” [28, tr. 229]. Đó là những âm mưu của bọn thổ phỉ

nhằm mục đích bôi nhọ thanh danh, hạ thấp uy tín của cán bộ cách mạng trong nhân

dân. Hành động thể hiện rõ bản chất đen tối, bỉ ổi, đê tiện và hèn hạ của bọn phỉ.

Không chỉ có vậy, bọn thổ phỉ còn lôi kéo, ép buộc nhân dân đi theo chúng

chống phá cách mạng. Triệu Tá Sắn tỉnh táo, khôn ngoan, gian manh và giảo quyệt.

Hắn biết dựa vào những người có uy tín trong làng, biết dựa vào điểm yếu của người

khác để đe dọa, uy hiếp, bắt buộc họ theo mình. Hắn sẵn sàng cho thuộc hạ giết, moi

gan kẻ không quy thuận theo hắn làm loạn ngay tại nhà cụ giáo Choong- người có uy

tín nhất trong dòng họ, trong làng và cũng là thầy giáo của hắn để uy hiếp cụ và đám

con cháu trong nhà cụ, buộc cụ giáo phải động viên, huy động con cháu theo phỉ. Bọn

phỉ ép buộc chủ tịch xã Triệu Tá Dùn, cháu trai cụ giáo Choong theo chúng phản

động, yêu cầu Dùn phải cầm đầu một đội quân đi cướp châu. Khi Dùn tỏ thái độ

không đồng ý, bọn chúng khôn ngần ngại lôi một cán bộ làm ở phòng nông nghiệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tên Lùng ra giữa nhà cụ giáo với hình ảnh “…bị bọn phỉ đánh cho mặt mày thâm tím,

quẩn áo tả tơi, mồm bị nhét giẻ…”. Rồi “Con dao nhọn… quét nửa vòng rồi xiên

thẳng vào ngực Lùng. Lùng rú lên đau đớn rồi gục xuống, giãy như trâu giãy chết,

máu từ ngực anh chảy ra ồng ộc, lênh láng trên nền đất nhẵn như mài” [21, tr. 285].

Vừa chỉ xác chết, tên cầm đầu vừa gầm lên với cả gia đình nhà cụ giáo đang tập trung

ở khu nhà lớn: “Già trẻ cả vùng nay đang trong tay chúng tao, theo chúng tao thì

sống, không theo thì sẽ như cái mạng chó này”. Kết thúc câu nói đó là hành động

“lưỡi dao trong tay hắn cắm phập vào ức nạn nhân lách ngược. Sau hai đường lách

thành thạo hắn đã móc được buồng gan nóng rẫy” [21, tr. 285]. Sự uy hiếp, nạt nộ và

chứng kiến toàn cảnh sự dã man, tàn bạo đến mức ghê tởm của bọn phỉ, cụ giáo đã

phải chấp nhận yêu cầu của chúng, cho con cháu theo phỉ.

Bọn phỉ kích động, lôi kéo được cả những con người “thường ngày củ rủ như

con gà rù” [21, tr. 288] vì nghiện thuốc phiện, nghiện rượu như bố chồng Pham,

chồng Pham. Trước sự kích động của bọn phỉ, cộng với sự u mê, ấu trĩ, ngu dốt, hai

con người này bỗng chốc nhanh nhẹn, hoạt bát “khoác cung tên, vác dao quắm, vắt

bao tải lên vai” [21, tr. 228] đi cướp, đi giết không ghê tay theo đám đông hoang

loạn, kích động.

Nói đến phỉ là nói đến những hành động dã man, tàn độc không ghê tay. Chúng

cầm súng, cầm dao, cầm gậy, dắt ngựa, đeo địu: “Bụi rậm, vách đá không ngăn được

chúng. Mìn nổ, ngựa hí sợ hãi, chúng không chùn lại” [14, tr. 222]. Sự quần thảo qua

một đêm của bọn phỉ đã làm cho cả bản “đông vui đã biến thành một bản chết. Cả

bản không một bóng người, không một bóng trâu, ngựa, lợn gà”. Tất cả còn lại chỉ là

những cây cột của những ngôi nhà cháy dở với “mùi lửa, mùi thịt, ngô cháy váng vất”

[21, tr. 296] cùng hình ảnh: “Một con trâu bị lóc hết thịt chỉ còn bộ khung xương nằm

chỏng chơ trên đám cỏ bị quần nát”. Bản Tà Thàng với “với hơn một trăm nóc nhà,

bình thường nhộn nhịp chó kêu, ngựa hí, người khóc, người gọi nhau giờ vắng lặng

như bản hoang. Trên cây cơi, lủng lẳng hai xác chết. Cả hai trần truồng như nhộng.

Một xác bị móc mắt, hai hố mắt sâu hoắm, đen ngòm như đầu lâu của thây ma. Một

xác bị mổ bụng, phanh ngực, toàn thân bết máu, ruột chảy lòng thòng, bụng, ngực

trống hoác” [21, tr. 357]. Có lẽ đôi mắt, buồng tim, lá gan của cả hai đã vào bụng bọn

uống máu người không tanh rồi. Tất cả những hình ảnh đó đã tố cáo tội ác khủng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

khiếp của bọn thổ phỉ.

Sự truy quét, tàn sát của bọn phỉ, tiếng súng dọa kinh hồn bạt vía, xua hết trẻ

con, người già vào rừng. Tất cả mọi người đều ngơ ngác, sợ hãi, hoảng loạn. Những

nhà có người theo phỉ thì chúng không động đến, còn những nhà khác đều bị chúng

triệt hạ, cướp bóc theo kiểu ân oán giang hồ. Chúng hành hình dã man, không ghê tay

tất cả những cán bộ xã không theo phỉ và lấy đó làm gương cho kẻ khác. Chúng bắt

được xã đội trưởng và tiến hành hành quyết anh ngay trong đêm: “… một tên cầm

con dao nhọn nghiến răng xiên mạnh,… phút chốc cái bụng trắng hếu của anh bị

rạch làm đôi, hai bàn tay hung bạo thò vào khoang bụng đang phập phồng móc ra

hai lá gan đưa cho viên chỉ huy. Viên chỉ huy... đưa lá gan lên cắn, xé, nhai, nuốt,

mồm miệng hắn nhoe nhoét máu... ” [21, tr. 295]. Hình ảnh này mãi mãi ám ảnh

người đọc, khó có thể tin rằng, trên lãnh thổ Việt Nam chúng ta, ở một thời điểm lịch

sử đã tồn tại tội ác ghê gớm đến như thế.

Chủ tịch xã đầu tiên ở Pha Linh bị Châu Quán Lồ (Vùng biên ải) hành quyết

bằng một hình phạt chưa từng thấy. Chủ tịch Seng“bị trói ở cái cột đá giữa phố cho

mọi người hành tội bằng cọc tre”. “Một tuần lễ liền, xác Seng còn đó, đầu anh dập

nát chỉ còn một cục thịt bằng nắm tay, thân thể là một đống bầy nhầy, thịt xương

văng ra cả xung quanh, còn dính cả vào nhánh xương rồng dại, ruồi bu đầy.” [14, tr.

292]. Bạn đọc không khỏi rùng mình, khiếp sợ trước tội ác dã man tàn bạo của bọn

thổ phỉ mà thời trung cổ cũng chưa từng xuất hiện.

Không chỉ dừng lại việc tiêu diệt, hành hình dã man những người tham gia

trong bộ máy chính quyền, bọn thổ phỉ sẵn sàng ra tay một cách tàn độc với những ai

không theo phỉ, kể cả người thân trong gia đình. Chúng đánh đập dã man rồi hành

hình tập thể: “Cả thảy mười hai người, người nào người nấy bị trói giật cánh khỉ,

quần áo tả tơi, mặt mày đầy máu, một cuộc hành hình tập thể khởi đầu cho một ngày

mới bắt đầu” [21, tr. 314, 315]. Kẻ nào đã theo bọn chúng rồi mà nhụt ý chí, không

chịu đựng được thiếu thốn, khổ cực, sống chui lủi muốn quay về cùng gia đình, chỉ

cần “định trốn hôm trước, hôm sau lập tức bố mẹ, con cái không bị đánh đập thì nhà

cũng bị thần lửa hỏi thăm. Kẻ nào ra hàng chính quyền lập tức trong nhà có người về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chầu tiên tổ,…” [21, tr. 372]. Đó là cách giữ người mà không giữ, lấy người để áp chế

người của các thủ lĩnh phỉ, chẳng khác gì nắm giữ yết hầu từng người. Thật không gì

khủng khiếp hơn thế!

Châu Quán Lồ (Vùng biên ải) chỉ huy cuộc hành quyết người đàn ông dân tộc

Mèo ngoài năm mươi tuổi vì không chịu nộp thuế cho thổ ty. Hắn hành quyết bằng

cách cho ngựa kéo. Sau những tiếng roi da quất nổ giòn trên không, tiếng vó ngựa

guồng loạn xạ, quay cuồng thì: “Lết trên đường, xác người nọ mỗi lúc một tơi tả. Lũ

chó lại chạy ra, tranh giành nhau những miếng thịt rơi của con người xấu số nọ rớt,

bết trên đường. Đường lết một vệt đỏ máu người” [13, tr. 239]. Tội ác của bọn phỉ

thật man rợ, khủng khiếp và ghê tởm.

Còn Lù Văn Dẹ (Rừng động) không ngần ngại dùng vũ lực để uy hiếp người

thân, buộc họ phải cung cấp đồ ăn thức uống cho hắn khi hắn lẩn trốn trên rừng. Hắn

còn buộc em gái - một ả lẳng lơ, lười nhác gài bẫy cán bộ Việt Minh nhằm mục đích

bôi nhọ thanh danh cán bộ và moi tin tức. Nếu chối từ, hắn sẵn sàng dùng dao gí vào

cổ em gái kèm những lời xỉ vả, thóa mạ không thương tiếc, không tình người : “Con

dao này không biết kiêng tiết người….Từ giờ, mày được sống, hay mày phải chết, là ở

tao” [28, tr. 223]. Chính Dẹ đã từng “cầm dao găm rạch bụng một ông già, một cô

gái, ba người đàn ông. Chính tay nó đã giết người để tế cờ để ra quân giết được

nhiều người, ngay trên cái gộc đá Hòn Ngọc nơi ngã ba sông Đà ấy… ” [27, tr. 291].

Bản chất côn đồ, không nhân tính thể hiện trong hành động giết người của

Giàng A Lử (Đồng bạc trắng hoa xòe), trùm phỉ tại Can Chư Sủ, châu Pa Kha: “Mặc

ông già đã gục xuống, hắn cứ tới tấp xỉa mũi dao vào khắp đầu, mặt ngực, bụng ông”

và cuối cùng hắn “cúi xuống vung dao chặt đầu ông già” [13, tr. 106]. Lử sẵn sàng

bán mình cho các thế lực phản động. Hắn nhận tiền của bọn phản động, “vờ đeo bộ

mặt ăn năn” để ám sát cán bộ, rồi “mạo hiểm làm cuộc vượt rừng, qua biên giới, lén

lút đưa viên quan tư Phô-rô-pông trở về Pa Kha” [13, tr. 501]. Hắn hiếp chị dâu góa

gây nên cái chết thảm thương cho chị. Hắn điên cuồng bắn bộ đội và bắn chính cả cha

ruột khi ông theo cách mạng. Hắn cướp Seo Cả, vợ chưa cưới của em trai về làm vợ.

Hắn đánh Seo Cả khi chị đang mang thai: “... những cái đá tới tấp thục vào hai mạng

sườn chị....hắn nhảy cả hai chân giày lên lưng chị rồi dận xuống....” [14, tr. 349]. Đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

là một kẻ vô cùng độc ác, đồi bại và không có tính người.

Phỉ hoạt động chủ yếu trong điều kiện núi rừng, lúc ẩn lúc hiện. Trong chiến

trận, cái cốt lõi của mạnh, yếu là địa hình, quân hình. Triệu Tá Sắn (Thổ phỉ) thông

thạo địa hình, quân hình thì nhất nhất tuân theo nên hắn không sợ. Hắn hướng dẫn

quân lính làm các loại bẫy: “Bẫy bộ đội, du kích có bẫy đá, bẫy đòn, bẫy cần, các loại

mìn, chông”. Làm cho “thần chết rình rập khắp rừng, khắp núi, kẻ chết bất đắc kì tử

ngày càng nhiều”. Người người đua nhau làm bẫy, đua nhau lùng sục vì: “Mỗi cặp tai

người được thưởng một cái óc khỉ, mười đồng bạc trắng, mười ống muối”. [21, tr.345].

Chúng còn bệnh hoạn coi khỉ như Việt Minh, như những kẻ phản bội. Bọn chúng cho

bắt khỉ trói lại, vẽ lên thân khỉ tên một anh, chị Việt Minh hay tên một kẻ phản bội nào

đó rồi tống vào cũi. Cứ năm ngày, các thủ lĩnh tập trung xử án theo đúng trình tự, thủ

tục một phiên tòa. Sau những cái vẫy tay của “chánh án” là “những cái dùi sắt nhằm

vào hang, vào nách “bị cáo” xiên chọc như xiên chọc kẻ thù”. Khi “chánh án” gật đầu

thì lập tức những nhát dao ghê rợn, sắc lẻm phạt ngang đầu những con khỉ cùng tiếng

rú rùng rợn, máu chảy lênh láng, những tảng óc phòi lên. Những óc khỉ mang tên

Việt Minh, mang tên kẻ phản bội còn đang giẫy giẫy thì “bọn khát rượu, khát thịt

gầm gừ, điên đảo xông vào múc ăn ngon lành. Máu, óc, dớt dãi pha lẫn rượu chảy

ròng ròng kích động, thúc vào trí não khiến bọn đứng ngoài ào vào ăn theo như ăn

cướp” [21, tr.344]. Có thể nói, ngày ngày, tính hiếu sát càng chìm sâu trong máu

mỗi cá thể phỉ, gieo sự sự hãi, khiếp đảm cho nhân dân khắp vùng.

Lịch sử các dân tộc thiểu số trên các miền đất vùng cao phía Bắc đã ghi nhận và

chứng minh rằng những kẻ xấu xa, độc ác, tàn bạo, cầm súng, cầm vũ khí đánh lại

chính người dân tộc mình, anh em mình, phản đối lại các chính sách của Đảng, của

bộ đội và cách mạng, tàn sát mọi sinh vật cỏ cây và làm ảnh hưởng đến những chuẩn

mực đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương bản làng như Triệu Tá Sắn,

Châu Quán Lồ, Giàng A Lử, Lù Văn Dẹ cuối cùng đã phải nhận kết cục cay đắng, trả

giá cho những tội lỗi mà chúng đã gây ra. Cách mạng đã thành công, chính nghĩa

thắng gian tà, bình yên lại trở về trên mọi nẻo đường của từng thôn bản trên khắp các

vùng đất đã từng oằn mình gánh chịu những đau thương, mất mát trong cuộc đấu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tranh chống thổ phỉ của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc.

2.2. Những con người lương thiện, thức tỉnh, đấu tranh bảo vệ cuộc sống

yên bình

2.2.1. Những cán bộ cách mạng kiên cường bám dân, chống phỉ

Những con người trên mặt trận vũ trang là những nhân vật trung tâm của các

tác phẩm văn xuôi kháng chiến. Họ là những con người có mối thù sâu sắc với thực

dân phong kiến, giàu lòng yêu nước, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, biết đặt quyền

lợi dân tộc lên trên quyền lợi cá nhân. Lượng trong Thư nhà của Hồ Phương, Kha,

Sản, Cốc trong Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Lượng trong Dấu chân người lính

của nguyễn Minh Châu,… đều là những con người như thế.

Những cán bộ, chiến sĩ cách mạng luôn là điểm sáng trong mọi phong trào đấu

tranh. “Họ đều là những nhân vật đáng kính, đáng yêu, là những người chiến sĩ cách

mạng tài ba, những con người luôn hết lòng với sự nghiệp quần chúng” (Nguyễn

Ngọc Thiện). Họ chính là các cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần

chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang cách mạng. Những đốm lửa cách mạng

đã được đốt lên trên những vùng hoang vắng trùng điệp núi non này. Mặc những khó

khăn, trắc trở, những người cán bộ cách mạng vẫn “khắc làm lều, khắc sắp xếp chỗ

ăn, ở, ngày ngày tỏa ra lấy củi, dọn dẹp vườn tược, tu sửa nhà cửa cho dân, đêm đêm

tỏa ra tuần tra, canh gác. Bảo vệ, kính già, yêu trẻ, nhường đường, ghé vai gánh vác

việc khó, đạo lí, thực lòng, nghiêm minh...” [21, tr. 359, 360]. Lòng yêu nước đã

được khơi động và quần chúng anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ Quốc, cùng cách mạng

giải phóng quê hương, giải phóng đất nước. Họ có sức chịu đựng, đầy bản lĩnh, vững

vàng, gan dạ, gần gũi quần chúng, không nhụt chí, không ngại khó ngại khổ, kể cả

khi cách mạng, chính quyền rơi vào tình thế bị động nhất, khó khăn nhất. Trong giai

đoạn lịch sử ngắn ngủi nhưng rối ren vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại,

trên những vùng núi cao nghèo nàn, lạc hậu thì Chính, Kiến, Tâm, Châu (Đồng bạc

trắng hoa xòe, Vùng biên ải) Hải, Liễu (Rừng động) Lễ, Cảnh (Hoa hậu xứ

Mường), Long, Bắc (Thổ phỉ)... là những anh hùng, những người con sẵn sàng hi

sinh cho lí tưởng cách mạng.

Hình tượng nhân vật Lê Chính (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải) được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nhà văn Ma Văn Kháng xây dựng khá công phu. Anh là hình tượng đẹp của người

cộng sản Việt Nam, một con người đã cống hiến tất cả đời mình cho lí tưởng của

Đảng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.

Trong cuộc đối đầu, thương thuyết với các thổ ty già cỗi, lạc hậu cố hữu lâu đời

trên mảnh đất biên cương địa đầu tổ quốc anh luôn là người “ôn hòa nhưng kiên

quyết… chủ động sáng suốt nhưng linh hoạt, dịu dàng” [13, tr. 301] trong mọi tình

huống đối phó với nhiều loại người. Xảo quyệt như La Văn Đờ, độc ác như Hoàng

Văn Chao, Nông Vĩnh Yêng, mưu sâu, kế hiểm như Phán Thông cũng đều trở nên bối

rối trước anh. Với tư thế của sức mạnh và chính nghĩa, Chính đã buộc những kẻ từng

nắm quyền bắt bớ, giết hại người dân vô tội phải khuất phục. Bằng năng lực về chính

trị, anh biết rằng mình đang được chứng kiến “những ngày suy tàn cuối cùng” của

tầng lớp thống trị, bóc lột “cuối cùng của xã hội loài người”, và “một thời đại mới

nhất định sẽ ra đời” [13, tr. 308]. Anh hiên ngang, dõng dạc lên án quan châu: “...Tội

ác mà các người gây ra thật quá ghê tởm. Các người chỉ có thể tồn tại nếu các người

kịp thời dừng ngay những tội ác đó lại”. Anh cúi xuống bênh vực, ưu ái những kẻ

khốn cùng: “Sinh mệnh của bất kì người dân Việt Nam lương thiện, cũng phải được

tôn trọng. Kẻ nào xâm phạm tới tính mạng của đồng bào, kẻ đó làm trái hiến pháp, kẻ

đó là có tội” [13, tr. 242]. “Không một kẻ nào, dù kẻ đó là ai, có quyền hành hạ, sát

hại một người dân Việt Nam” [13, tr. 242]. Đứng trước sự ngoan cố của các thổ ty,

Chính đã đưa ra những lập luận sắc bén về sự thờ ơ của bọn chúng với sự nghiệp

đánh Quốc dân đảng, giải phóng nước nhà “...dửng dưng trước tội ác cũng là một tội

ác... Đứng ngoài cuộc đấu tranh để giải phóng đồng bào khỏi ách Quốc dân đảng

cũng vậy, là một tội ác” [13, tr. 257]. Bằng bản lĩnh chính trị vững vàng, Chính khiến

lực lượng thổ ty phải hợp tác, tập hợp vũ khí và lính để đánh Quốc dân đảng, giải tán

đám xòe, bỏ các luật lệ phiền nhiễu cho nhân dân.

Sống hết mình với lí tưởng, sống hết mình cho sự nghiệp cách mạng của quần

chúng, Lê Chính luôn là niềm tin của đồng bào, đồng chí. Bàn chân anh đã đi qua

nhiều nơi, đã đi qua bao vùng đất mới, gặp gỡ bao nếp sống khác, giao cảm với bao

tâm sự khác thường. Anh luôn giữ được sự mực thước trong quan hệ, hiểu biết sâu

sắc và tinh tế. Đi đến đâu, anh cũng thổi vào suy nghĩ của những người dân chịu cảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

áp bức, cùng khổ luồng tư tưởng, nhận thức mới: “Không có ai cứu ta, kể cả vua

Mèo, kể cả các quan lớn Mèo. Chính ta, ta phải cứu ta. Chỉ có những người cùng khổ

giác ngộ, đoàn kết lại không phân biệt dân tộc, mới có thể giúp nhau thoát khỏi cuộc

đời lầm than, đau khổ này” [13, tr. 244]. Anh giảng giải cho nhân dân hiểu về cách

mạng: “Chúng tôi, những người cách mạng đến đây không phải để thống trị dân tộc

Hmông... Còn một người cực khổ, còn một người đói rét, còn một người bị áp bức,

đau đớn, lòng chúng tôi chưa yên” [14, tr. 410]. Anh luôn nhận được sự yêu mến,

khâm phục của mọi người. Cụ đầu tộc họ Tẩn ở làng Nhuần có những đánh giá sâu

sắc về anh: “Cán bộ Chính, con người văn tài lỗi lạc, cơ mưu mà tâm thiện, rõ là

người tay trắng làm nên… thu cái tài vào khuôn phép, nén cái trí vào tâm hồn” [13,

tr. 446]. Chàng thanh niên Pao cũng tìm thấy ở Chính niềm tin và lòng ngưỡng mộ:

“Lần đầu tiên Pao nói hết với một người khác những nỗi khổ của đời người Mèo, từ

nỗi sợ ám ảnh truyền kiếp hóa hổ tới chuyện chị Pàng, chuyện ông lão Pâu vừa ăn thịt

vừa khóc” [13, tr. 224, 225]. Ngay cả kẻ gây bao tội ác, trùm phỉ Châu Quan Lồ cũng

phải thừa nhận và khâm phục tài năng của Chính: “Dà… ông Chính này vừa đẹp người

vừa có dũng tướng… Hày, ta theo người này có khi tốt hơn đấy” [13, tr. 361]. “Ông

Chính làm chủ tịch là phải rồi! Ông Đờ còn phải sợ kia mà. Ai bì được?” [13, tr. 445].

Vẻ đẹp của hình tượng Lê Chính không chỉ được soi chiếu trong mối quan hệ

với cách mạng, với cộng đồng, với nhân dân, mà nó còn được hoàn thiện trong tình

yêu giữa anh và Châu, người nữ đồng chí sát cánh cùng anh trong sự nghiệp giải

phóng Lào Cai. Tình yêu anh dành cho Châu là tình cảm mộc mạc, chân thành, được

nuôi dưỡng trên cơ sở của tình đồng chí. Trước vô vàn khó khăn của chặng đường

cách mạng nhưng tình yêu giữa anh và Châu vẫn luôn vững bền, bởi tình yêu ấy gắn

liền với tình yêu lí tưởng, gắn với tình chung.

Có thể nói, ở Chính là sự tổng hòa của con người trí tuệ và con người tình

cảm. Anh đầy dũng khí trước kẻ thù và cũng vô cùng mộc mạc, chân thành, nồng ấm

trong tình quân dân, tình yêu và tình đồng chí. Lê Chính đã vận dụng sáng suốt, linh

hoạt phương châm tiễu phỉ của Trung ương Đảng chỉ đạo: “Quân sự song song, chính

trị là căn bản, quân sự là áp lực”. Vì thổ phỉ là một lực lượng vũ trang phản động

được các thế lực ngoại bang cung cấp vật chất và phương tiện chiến tranh hiện đại,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

muốn thắng chúng phải dứt khoát dùng lực lượng quân sự mạnh với ưu thế áp đảo.

Tuy nhiên, thổ phỉ có tính chất kích động gây hận thù trong các dân tộc thiểu số, tính

lợi dụng quần chúng. Để thắng chúng, không thể chỉ dùng lực lượng quân sự đơn

thuần. Ngược lại, điều cốt lõi là phải giáo dục quần chúng nhận rõ kẻ thù, phát động

quần chúng đứng lên ủng hộ cán bộ, bộ đội tiễu phỉ thì mới giành thắng lợi.

Bên cạnh hình ảnh Lê Chính, người dân Can Chư Sủ còn quen thuộc với hình

ảnh anh cán bộ Kiến - bí thư châu ủy, có “vóc dáng to bè bè, hai tay chống pa toong,

tính thẳng như đốt trúc, nóng như lửa, nhưng cặm cụi chịu khó lặn lội, nhà người

nghèo nào cũng tới, và nói tiếng Quan hỏa oang oang”. Anh là người chiến sĩ cách

mạng có tâm hồn trong sáng, liêm khiết, “không thủ đoạn, chẳng lừa dối, cũng không

nịnh nọt lấy lòng ai, vững tin chân lý, sức mạnh ở tay mình” [13, tr. 498]. Nhiệm vụ

của anh là đấu tranh cho sự công bằng của những con người bị áp bức nơi đây. Anh

“không cho ông Chao được phép bắt người làm ruộng không công nữa” [13, tr. 498].

Anh đến từng nhà, động viên kêu gọi “đồng bào phải tranh đấu” [13, tr. 500] vì

“người khổ phải được sung sướng” [13, tr. 499]. Đối với người dân Can Chư Sủ xa

xôi, anh là một “hiện tượng kì lạ” bởi lẽ, từ trước đến nay, trong cuộc đời họ: “Đã có

ai dám đường hoàng bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ, kể từ ngày cha

con Hoàng Văn Chao làm chúa đất này?” [13, tr. 522].

Cùng chiến tuyến với Chính, Kiến là Tâm, người đồng đội gang thép và kiên

định. Lí tưởng cách mạng đã đưa anh đến với cuộc đấu tranh giải phóng Lao Cai.

Người chiến sĩ cách mạng kiên cường ấy đã phải chịu đủ những hình thức tra tấn dã

man nhất, cả cổ điển và mới phát minh của bọn phản động Quốc dân đảng với “roi

điện, quả đấm, búa đinh, kìm sắt, gậy xích, nước xà phòng, lò than cháy rực và bọn

đao phủ béo ú, răng trắng ởn, mặt mũi nanh ác như quỷ dưới âm ti địa ngục” [13, tr.

64]. Anh luôn thể hiện bản lĩnh “hòn đá cuội” của người chiến sĩ cách mạng trước

những đòn tra tấn. Không làm gì được anh, bọn chúng nhét anh vào bao tải, đem ra

cầu, xỉa lưỡi lê và ném xuống sông. Sức sống bền bỉ của người cách mạng, của người

cộng sản cùng sự trợ giúp của đồng đội, anh đã thoát khỏi được tội ác man rợ của bọn

quốc dân đảng phản động. Từ cõi chết trở về “Tâm sống trở lại mãnh liệt hơn” [13, tr.

330]. Anh là người đồng vai sát cánh cùng Lê Chính, cống hiến hết mình cho sự

nghiệp cách mạng, nguyện hi sinh cả bản thân. Anh quan niệm rằng: “Ta dùng cả đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ta đập tan xiềng xích nô lệ. Thế là cũng mãn nguyện rồi” [13, tr. 390].

Tâm phải đối mặt với bao nguy hiểm: súng đạn của kẻ thù, những âm mưu,

những thủ đoạn hèn hạ nhằm sát hại anh, bệnh tật do thiếu thốn, do vất vả, do những

vết thương trên thân thể… Nhưng anh vượt qua được tất cả, luôn giữ vững ý chí, sự

kiên định trong lý tưởng của mình. Anh chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, bởi “cuộc

cách mạng này là của chính anh” [13, tr. 539].

Nếu Chính, Kiến, Tâm (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải) phải đương

đầu với những thổ ty nanh nọc, nhiều tham vọng quyền hành cùng bọn phản động

Quốc dân đảng và thổ phỉ dã man, biến hóa khôn lường thì cán bộ Lễ (Hoa hậu xứ

Mường) được phân công nhiệm vụ về mường Vân thuộc châu Lạc Thiện xây dựng

phong trào, thành lập chính quyền cách mạng trong cuộc đấu tranh chống thực dân

Pháp và bọn lang đạo phản động. Mường Vân là nơi xung yếu nhất, khó khăn nhất

trong châu. Ở đấy, thế lực lang đạo lớn, lâu đời, luật lệ hà khắc, dân sống như một

bầy nô lệ, sợ lang hơn cả sợ vua trời. Trung tâm phản động đã tập hợp tại mường

Vân, chúng tìm mọi cách, sử dụng mọi thủ đoạn và âm mưu để chống phá cách mạng.

Lễ đến với dân các mường, anh tận mắt thấy được những cay đắng, tủi cực

của người dân sống dưới chế độ lang đạo. Anh mạnh dạn tổ chức xã bộ Việt Minh

mường Vân để tuyên truyền, giác ngộ đồng bào, kịp thời đối phó với những âm mưu

đen tối của bọn lang đạo. Anh đi vào giác ngộ quần chúng tiên tiến, điển hình làm cốt

cán cách mạng tại xã bộ. Anh bắt nhà lang phải chịu làm ma cho những người đã mất

không theo lệ cũ (phải biếu trâu biếu lợn mới được làm ma cho người chết). Anh đã

nói với dân các mường: “Người mường ta đã có cách mạng rồi. Cách mạng là Việt

Minh đấy. Việt Minh đã đuổi bỏ quan châu để bênh vực người nghèo” [44, tr. 108].

“Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân khắp nơi giành chính quyền từ tay phát xít Nhật.

Nước ta đã độc lập rồi. Không còn Tây, không còn Nhật áp bức ta nữa. Lang đạo

cũng không áp bức đựơc dân ta nữa. Người các mường từ nay không phải làm ruộng

xâu ruộng nõ cho lang nữa… ” [44, tr. 149].

Điều đáng chú ý ở cán bộ Lễ là anh biết gắn bó chặt chẽ với dân, đi sâu vào

quần chúng, xây dựng được đội ngũ cốt cán, tạo dựng cơ sở và thành lập xã bộ Việt

Minh mường Vân. Anh đề xướng chủ trương: “Ai là người khổ, người nghèo, người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tốt hãy theo Việt Minh đánh đổ kẻ ác kẻ xấu để xây dựng cuộc đời có cơm có áo” [44,

tr. 150]. Anh “đi hoạt động là để phá bỏ cuộc đời cũ” [44, tr. 350]. Dân các mường

đã được Lễ thức tỉnh để thấy được ánh sáng cách mạng, đồng tâm ủng hộ cách mạng.

Anh cũng không quản ngại, một mình lên tận các xóm vùng cao, nghèo khổ nhất

mường tuyên truyền, kêu gọi quần chúng ủng hộ cách mạng, cùng nhau diệt giặc đói,

giặc dốt và giặc ngoại xâm. Có thể nói, Lễ đã trở thành linh

Không chỉ là một cán bộ tiên phong, gần gũi, chia sẻ khó khăn với dân mường,

Lễ còn dành tình yêu, sự chia sẻ cho người con gái “đẹp nhất mường Lạt và cũng là

người khổ nhất mường Lạt” [44, tr. 142]. Tình yêu của Lễ đã giúp người cô gái tưởng

như suốt đời chìm trong đau khổ vì bị nhà lang vùi dập tìm lại được niềm tin trong

cuộc sống, lạc quan và tích cực tham gia phong trào cách mạng. Lí tưởng, mục tiêu

cách mạng và tình yêu luôn hài hòa trong mỗi người chiến sĩ. Đây là một hướng nhìn

tích cực, đa diện về con người, đặc biệt là người chiến sĩ cách mạng trong các sáng

tác sau năm 1975.

Trong những chiến sĩ cách mạng kiên cường, không quản ngại khó khăn, vất vả

bám dân bám bản còn phải kể đến chính trị viên Trần Hải (Rừng động). Anh đến

Mường Vai - mảnh đất “cùng khổ, heo hút đến nỗi ngay trên bản đồ của thực dân

Pháp cũng không ghi tên, ghi kí hiệu” [28, tr. 78] với bao bỡ ngỡ ban đầu, nhưng

ngay sau đó đã bắt tay thực sự vào công việc. Anh phát vỡ nương lúa bằng dao quắm

thành thạo cùng nhân dân. Anh băng rừng, vượt suối, thông thạo địa hình một nơi mà

trước đó, đối với anh hoàn toàn xa lạ. Anh luôn nghĩ “sống với nhân dân phải thực sự

hòa hợp, khiến sao cho dân yêu mến và tin tưởng ở bộ đội, cán bộ một cách hoàn

toàn” [28, tr. 120]. Thấm nhuần tư tưởng đó, anh trở thành người trong cuộc của

những cuộc vận động, bầu cử của nhân dân, của những buổi làm nương phát rẫy tóp

thịt, cháy da. Cuộc vận động quần chúng tiễu phỉ đầy tinh thần nhân đạo, đầy những

gian khổ âm thầm đã phát triển mạnh mẽ tại Mường Vai và thu được những kết quả

tốt đẹp.

Vẻ đẹp, nhân cách sáng ngời của người chiến sĩ cách mạng còn được thể hiện

qua nhân vật Bắc và Long (Thổ phỉ). Những con người dũng cảm, kiên cường, đương

đầu với lực lượng thổ phỉ đông đảo, hung tợn. Dù trong hoàn cảnh nào, các anh vẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

bám sát kế hoạch tác chiến phát triển cơ sở, bám dân, bám lấy người đứng đầu trong

dòng họ để phát động quần chúng đứng lên làm chủ đời mình. Anh Bắc - cán bộ khu

vực Phòng Tô “trẻ trung, hừng hực sức sống, yêu cuồng nhiệt, chơi hết mình vẫn bám

dân bám bản” [21, tr. 14]. Bên cạnh đó bạn đọc bắt gặp hình ảnh nhân vật Đoàn Văn

Long - Bí thư châu ủy ẻo dai sức chịu đựng, vững vàng, đầy bản lĩnh, không nhụt chí,

kể cả khi cách mạng, chính quyền rơi vào tình thế bị động, khó khăn nhất, bản thân

thân cũng phải trốn tránh vào rừng. Long là cán bộ Đảng, xông xáo, gần gũi với dân

chúng và gan dạ. Sự việc một mình một ngựa, tay không vào tận hang ổ của bọn thổ

phỉ tiếp nhận sự đầu hàng của chúng không phải là phiêu lưu manh động mà là hành

động can trường, gan dạ. Hành động ấy “vừa thấm đẫm chất can trường của con

người lãnh đạo vừa phảng phất khí phách người anh hùng” [21, tr. 13]. Đứng trước

sự xuất hiện của Long theo đúng yêu cầu trong thư xin hàng, Lùng - Tổng chỉ huy

quân đội “Mặt trận Phòng Tô tự trị” đã xuống ngựa vái Long, nộp súng quy hàng và

thừa nhận: “Bầu trời chỉ có một mặt trời. Bầu trời của Phòng Tô, của Việt Nam bây

giờ chỉ có một mặt trời là cách mạng. Mặt trời ấy đã nhuộm sáng đến cả tàu lau lá

gianh rồi, ta phải đi theo mặt trời đó thôi.” [21, tr. 513].

Bên cạnh những Chính, Kiến, Tâm, Long, Bắc, Cảnh… là Châu (Đồng bạc

trắng hoa xòe), người nữ cán bộ giản dị, hồn hậu, chắc chắn. Cô cũng như bí thư

châu ủy Kiến, hòa mình vào cuộc sống của những người nghèo khổ, giúp họ nhận

thức, định hướng cho họ con đường đấu tranh giải phóng bản thân, giải phóng quê

hương. Châu đã gắn bó tuổi thanh xuân của mình với sự nghiệp cách mạng, đã sống

và đấu tranh hết mình vì nó. Cô hiểu, sẻ chia và đến với những người phụ nữ Mán

nghèo khổ: “Phụ nữ Mán khổ quá. Cái mặt cúi xấp xuống đất nương, xuống mảnh vải

thêu. Khép nép sợ từ người khách lạ”. Châu “mở lớp bình dân học vụ. Châu học tiếng

Mán… Châu nói chuyện về tổ chức Việt Minh, về Bác Hồ…” nhằm tuyên truyền và

giác ngộ cách mạng cho họ. Từ đó, những gương mặt người đã sáng dậy. Châu “yêu

vô cùng, quý vô cùng những người Mán nghèo khổ, ít nói mà tấm lòng thơm thảo”

[13, tr. 344]. Trong tình yêu với Lê Chính, Châu là một người cao thượng, là nguồn

động viên sức mạnh cho anh. Đó là một người phụ nữ đẹp, dịu dàng nhưng chất chứa

sức mạnh ý chí lớn lao trên con đường thực hiện lý tưởng cách mạng.

Cùng là nữ cán bộ cách mạng như Châu còn có chị Liễu (Rừng động) vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Mường Vai làm công tác dân vận. Chị cũng như Châu, cống hiến cả tuổi thanh xuân

cho sự nghiệp cách mạng giải phóng các dân tộc bị áp bức nơi vùng cao xa xôi. Chị

say sưa, đầy nhiệt huyết nói về cuộc đời mới, “giải thích về quyền lợi và nghĩa vụ của

người phụ nữ trong đời cách mạng”, ai nghe cũng phải thấm thía. Chị khẳng định:

“… phong trào cách mạng không thể lên cao, nếu thiếu sự tham gia tích cực, chủ

động của giới phụ nữ… Giới phụ nữ mà ỷ lại, trông chờ, không kêu gọi nhau đứng

dậy, thì chẳng bao giờ có giải phóng thực sự… ”. Người phụ nữ góp phần “giải

phóng đất nước, giải phóng giai cấp, bản thân ta còn phải giải phóng ta ra khỏi sự

giằng buộc bất bình đẳng với nam giới nữa” [28, tr. 40]. Từ đó, chị đi vào quần

chúng nhân dân Thái một cách tự nhiên, gần gũi như người chị, người em, người con

trong gia đình. Với nhân dân Mường Vai, chị không chỉ là một cán bộ cách mạng mà

còn là một người thân trong gia đình.

Tóm lại, xây dựng những nhân vật - những con người mới, những nhân vật lí

tưởng trên mặt trận vũ trang như Chính, Kiến, Tâm, Hải, Lê, Long, Cảnh, Châu,

Liễu,… Nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam đã ghi

nhận hình ảnh những con người đẹp nhất trong một thời điểm lịch sử đặc biệt, ở

những vùng đất có những hoàn cảnh đặc biệt. Họ là những người chiến sĩ cách mạng

mang phẩm chất cao cả, kết tinh cao độ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt

Nam. Qua đó, bày tỏ lòng ngưỡng mộ chân thành, niềm cảm phục lớn lao đối với

những nhân vật anh hùng của một thời đã qua.

2.2.2. Những người con của núi rừng giác ngộ và đi theo cách mạng

2.2.2.1. Những người đứng đầu thôn bản, dòng họ, có uy tín

Thực tế cuộc đấu tranh chống phỉ quá nhiều khó khăn, thử thách với người

chiến sĩ cách mạng vì địa hình phức tạp, ngôn ngữ và những phong tục tập quán khác

lạ của mỗi dân tộc. Đặc biệt là phải đương đầu với lực lượng phỉ lớn mạnh được sự

hậu thuẫn đầy đủ về vũ khí, lương thực và các phương tiện liên lạc từ phía thực dân

Pháp và bọn Tàu Tưởng. Bên cạnh đó, phỉ có tính chất kích động gây hận thù trong

các dân tộc thiểu số, tính lợi dụng quần chúng. Để thắng chúng, không thể chỉ dùng

lực lượng quân sự đơn thuần. Ngược lại, điều cốt lõi là phải giáo dục quần chúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nhận rõ kẻ thù, phát động quần chúng đứng lên ủng hộ cán bộ, bộ đội tiễu phỉ thì mới

mong giành thắng lợi. Phải cho nhân dân hiểu được rằng quần chúng chỉ là nạn nhân,

bị các thế lực bưng bít, đầu độc về tư tưởng, không hiểu biết về cách mạng, tuyên

truyền, bịa đặt nói xấu về cách mạng, về Việt Minh, mờ đi tính đấu tranh giai cấp,

cam chịu cuộc đời nô lệ. Do vậy việc khơi dậy cho quần chúng tự giác đứng lên giải

phóng mình là một việc làm công phu có tính chủ đạo trong công tác tiễu phỉ tại các

tỉnh miền núi phía Bắc. Và người có vai trò “đưa đường chỉ lối”, “cố vấn” cho cán

bộ, bộ đội trong công tác tiễu phỉ nhiều cam go, ác liệt này chính là những người

nhiều tuổi, hiểu biết, được tín nhiệm trong thôn bản, dòng họ, gia đình. Họ chính là

người định hướng cho dân bản, con cháu đi theo con đường sáng, hướng về phía mặt

trời của cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Những người đứng đầu dòng họ, đứng đầu thôn bản hiểu biết, có uy tín cao như

ông Tao Văn Xương (Rừng động), cụ giáo Choong (Thổ phỉ), đầu tộc họ Tẩn người

Mán ở làng Nhuần ven sông Chẩy, hố pẩu Giàng Lầu, người đứng đầu họ Giàng tại

Can Chư Sủ, thuộc châu Pa Kha, (Đồng bạc trắng hoa xòe, vùng biên ải). Đó là

những người thông thạo địa hình, thông thạo lí lối, phong tục tín ngưỡng dòng họ,

làng bản. Họ là đại diện cho tiếng nói chung, là người chủ trì mọi công việc và là

người đưa đường chỉ lối cho gia đình, dòng họ, thôn bản trong mọi vấn đề của cuộc

sống và những biến cố của làng bản, quê hương.

Cụ giáo Choong (Thổ phỉ) trên 90 tuổi, không chỉ đại diện cho trí thức người

Dao, mà còn là đại diện cho người Dao ở Phòng Tô. Nhân vật cụ giáo chinh phục cả

những người đọc khó tính bởi tính hai mặt của tính cách: “Khi thì ẩn nhẫn, giấu mình,

chờ thời, lúc lộ diện xuất thần, đối đầu. Cụ vừa là con trăn đá thâm trầm triết luận

cuộn mình trong hang đá mùa đông, vừa là con hổ mãnh liệt rời khỏi hang lúc kiếm

mồi” [21]. Cụ là người hiểu biết thời thế, biết hành xử mọi việc theo đạo lý của dân tộc

đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, có lý, có lẽ, nên cụ được mọi người dân tin yêu,

kính nể. Nhưng cuộc sống và gia đình cụ giáo Choong cũng chịu đau khổ, mất mát,

tang thương,… như những người dân khác dưới bàn tay ác độc, dã man tàn bạo của

bọn phỉ. Các con trai, cháu chắt đều bị ép đi theo phỉ, gia đình thì phải cung phụng tiền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

của để nuôi phỉ, nên cụ cũng được quần chúng đồng lòng, thương cảm. Sau khi được

cán bộ Long giác ngộ, cụ quyết định hướng con cháu đi theo cách mạng, cụ được quần

chúng ủng hộ và noi theo, góp phần vào việc đánh thắng phỉ, giải phóng hoàn toàn

Phòng Tô. Cụ giáo là thủ lĩnh tinh thần cho cả một vùng cộng đồng người Dao rộng

lớn. Cụ trở thành “linh hồn, là tấm gương sáng về Nhân, Nghĩa, Đức, Trí cho cả vùng

Sín Chải noi theo” [21, tr. 94].

Có thể nói đây là lần đầu tiên văn học viết về dân tộc và miền núi đã đề cập khá rõ

chân dung người trí thức dân tộc. Đó là hình ảnh cụ giáo Choong. Một người có uy tín

trong cộng đồng dân tộc Dao, thông hiểu chữ nho và biết lựa thời thế để sống. Nhân vật

vừa mang tính hiện thực vừa mang tính lí tưởng, là đóng góp riêng, độc đáo của Đoàn

Hữu Nam vào mảng văn xuôi dân tộc và miền núi.

Ông Tao Văn Xương (Rừng động), đại diện cho dân tộc Thái, thuộc dòng họ

chuyên giữ chức Tạo đẳm, là dòng họ có công “đẻ đất để mường” tại Mường Vai. Là

người cương trực, thẳng thắn, hiểu biết, trước những biến động phức tạp của cuộc

sống, những đau khổ của cuộc đời, ông biết phân biệt phải, trái, đúng, sai, biết nhìn

xa trông rộng, đặc biệt là tư tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong cuộc gặp gỡ tại

nhà tù luôn cháy trong ông: “Phải lấy súng dao mà chống lại súng dao tù đầy, không

thể kiện cáo, không thể van xin, cũng không thể ngồi mà than khóc suông được” [27,

tr. 238]. Ông trở thành lớp cốt cán loại một, thuộc lớp người có tuổi, vừa là “cố vấn”

vừa là “tham mưu trưởng”, lại vừa là “phái viên chính trị” của cán bộ, bộ đội. Họ

không chỉ coi ông là người đồng chí đáng kính, nhiều kinh nghiệm thực tế địa

phương mà còn là người cha, người anh trong gia đình. Ông luôn tự nhủ: “Nhiều sức

mới nên, đông người mới thành. Ta phải cùng cán bộ kêu gọi dân mường thương yêu

nhau hơn nữa mới được” [27, tr. 150]. Ông kêu gọi đoàn kết, giục cả vợ con, họ hàng

thân thích đi. Ông quan niệm: “Không cần phải đợi cán bộ gọi mình, bảo mình”, cứ

làm công tác một cách tự giác, tự nhiên. Đi đâu, ông cũng lấy câu khẩu hiệu: “Đoàn

kết, đoàn kết chống Tây, đạp đổ phìa tạo phản bản phản mường, nghe lời cụ Hồ và

chính phủ ta” [28, tr. 151]. Ông đã nói với những kẻ cứng đầu, không ủng hộ cách

mạng những lời chí lí, thấu tình mà đanh thép rằng: “Cũng như tất cả mọi người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nghèo khó sinh ra phải được sống đời mới. Đời con người ngắn ngủi. Mà nỗi ô nhục

lớn nhất của con người - người với người mà lại áp bức lẫn nhau, giết chóc lẫn nhau,

cướp đoạt lẫn nhau, bóc lột lừa dối lẫn nhau - thì đã quá dài. Phải dựng đời mới,

chôn sâu nỗi ô nhục ấy” [28, tr. 250]. Trước sự ngay thẳng, kiên quyết của ông những

kẻ “cứng đầu” nhất cũng phải quy thuận, đóng góp và thành tâm ủng hộ Việt Minh.

Trí tuệ ông sáng láng, ông nhận thức về cuộc đời mới cách mạng đem đến cho ông và

nhân dân Mường Vai quê ông: “Con mắt nhìn, nó quan trọng lắm! Nhìn đúng thì ta

đi trong đời mới của ta - đời mới chính là vì ta, của ta - ta tự do, ung dung, thanh

thản, vui sướng - ta chính là con người của đời mới, đời mới nâng ta lên và đỡ ta đi.”

[28, tr. 252].

Miền củ họ Tẩn (Đồng bạc trắng hoa xòe) của làng Nhuần đại diện cho dân

tộc Mán. Làng Nhuần có địa thế thuận lợi nhiều mặt cho phong trào cách mạng với

mây tỏa suốt ngày, rãnh khe gập ghềnh, suối sâu xanh rêu, rừng thì dày đặc sắc lá

xanh đen: “Rừng chắn tầm mắt. Rừng vây bủa, âm u, dồi dào sức sống hoang dại.

Rừng đã giấu trong lòng nó mấy trăm con người dòng họ Tẩn mấy chục năm nay”

[13, tr. 313]. Không chỉ thiên nhiên tạo điều kiện thuận lợi mà bản thân con người

cũng đồng lòng, quyết tâm ủng hộ cách mạng: “...cứ cho Việt Minh về đây. Về cả

đây. Người Mán có gì ăn, Việt Minh có nấy ăn” [13, tr. 344]. Đó là một người có uy

tín đặc biệt với dân làng. Trong tất cả các công việc, miền củ là người có tiếng nói

quyết định: “Miền củ là làng Nhuần, làng Nhuần là miền củ. Dòng họ và trưởng tộc

xưa nay vốn là một, hòa quyện trong kính trọng và ưu ái lẫn nhau. Làng Nhuần làm

gì cho cách mạng là theo ý miền củ, là miền củ làm cho cách mạng” [13, tr. 351]. Rõ

ràng, vai trò của miền củ rất quan trọng, không chỉ đại diện cho một dòng họ, một

làng bản mà còn là người định hướng cho cả cộng đồng dân tộc đó.

Như vậy, có thể thấy những người đứng đầu thôn bản, dòng họ có vai trò rất

lớn trong cuộc đấu tranh cách mạng. Đó là những người trong đêm tối đã tìm thấy

ánh sáng của cách mạng, thấy giấc mơ tự do để định hướng cho con cháu, gia đình,

dòng họ và làng bản. Họ như hình ảnh một cái cân, đại diện cho đạo lí dân tộc, một

đạo lí công bằng, hợp lẽ. Những con người gạo cội này giúp cách mạng tìm ra chỗ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

mạnh, chỗ yếu của phỉ, làm cơ sở xác định đúng nhiệm vụ chính trị của địa phương,

đề ra phương châm biện pháp sắc bén giải quyết vấn đề phỉ, đồng thời chuyển hóa nó

thành quyết tâm của lãnh đạo, quyết tâm của lực lượng vũ trang và nhân dân các dân

tộc là một yếu tố quyết định thắng lợi của công tác tiễu phỉ ở miền núi phía Bắc.

2.2.2.2. Những thanh niên có nhiệt huyết, giác ngộ và đi theo cách mạng xây dựng

cuộc đời mới

Sức mạnh anh hùng nơi vùng đất biên cương không chỉ được khẳng định qua sự

đóng góp, sự đấu tranh và lòng nhiệt huyết của những cán bộ cách mạng từ miền xuôi

lên, của lớp người có tuổi, nhiều kinh nghiệm nơi rẻo cao mà nó còn được khẳng định

bởi chính sức mạnh của những người con của núi rừng, những lớp thanh niên trẻ

trung, dũng cảm, giác ngộ cách mạng, đi theo con đường sáng của cách mạng, xây

dựng cuộc đời mới. Nhờ ánh sáng của cách mạng, nhờ sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tâm

của các cán bộ, bộ đội, họ nhận ra cái ác, đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa, vươn tới

những điều tốt đẹp trong cuộc đời. Và chính những tủi nhục, đau đớn của những kiếp

sống trâu, ngựa đã cho họ khát vọng vươn tới những giá trị thực sự của cuộc sống. Họ

là những bông hoa đẹp ngát hương, những hạt giống đỏ giữa vùng cao u mê tăm tối.

Lịch sử mỗi vùng đất nơi đây còn ghi mãi những chiến công của những tấm gương

tuổi trẻ tiêu biểu như Pao (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải), của Am, Khỏ

(Rừng động), của Nậu (Hoa hậu xứ Mường), của Pham, của Đàu (Thổ phỉ).

Nhân vật Pao (Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng Biên ải) được biết đến là một

chàng thanh niên Mèo cao to, lực lưỡng, hiền hậu, giàu tình thương yêu với gia đình,

đồng loại. Pao biết thương bà nhiều tuổi lưng còng, thương cha cô đơn, thương em trai

sớm phải gánh vác công việc gia đình, thương người chị dâu góa khốn khổ và biết đau

cùng nỗi đau của đồng loại. Pao là người dẫn đường đưa cán bộ Lê Chính đi các châu

gặp gỡ, thương thuyết cùng các thổ ty đánh Quốc dân đảng. Pao chứng kiến nhiều cảnh

bất công, ngang trái, nhìn thấy những nỗi đau tận cùng của người dân Mèo do tội ác

man rợ của bọn phản động, bọn thổ ty gây ra. Nỗi đau khơi dậy lòng căm thù, anh tìm

đến với cách mạng để giải phóng cho mình, cho quê hương, làng bản.

Xuất phát điểm trong cuộc hành trình đến với cách mạng của Pao chính là tình

thương yêu với con người. Anh không thể dửng dưng, lạnh lùng trước những khổ đau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

của người khác, trước tội ác của bọn cầm quyền. “Những đớn đau, những uất ức mỗi

lúc một căng nhức người Pao. Cái chết của chị Pàng. Tiếng khóc của ông lão Pâu bị

Chao thắt cổ suýt chết. Cảnh ngựa kéo xác hai bố con Seng, Tếnh. Ông bố mù của

Mìn với hai con mắt chết vì thổ ty họ Nông…”. Tất cả “ứ đầy trong Pao, chúng đòi

phá vỡ, bung ra” [13, tr. 512, 513]. Chứng kiến cuộc hành quyết man rợ người dân vô

tội của thổ ty và bọn tay sai: “Pao đã đỏ ứ máu vì tức giận… Nước mắt Pao ứa chảy.

Răng Pao nghiến ken két. Pao sắp nổ tung… Pao liền xông ngay tới” [13, tr. 239,

240]. Pao nhìn rõ sự tha hóa biến chất của người anh trai và chính những bi kịch của

chính mình khiến anh bật khóc: “Nước mắt nhục nhã, nước mắt uất nghẹn dồn lên

vành mi, ào ra hốc mắt, tràn xuống má Pao” [13, tr. 512]. Nhưng sau những giọt

nước mắt là sự biến chuyển trong nhận thức và tư duy: “Những khổ đau của người

khác đã nhức nhối lòng Pao, giờ đây, hòa với nỗi đau đớn, oán giận của chính Pao,

thành nỗi căm uất đang dâng lên đỉnh chót chất ngất, căng đầy lồng ngực Pao, ngực

Pao sắp vỡ tung”. Chính những nỗi đau đớn và lòng căm giận ngút trời đó đã khiến:

“Bật dậy trong từng bắp tay, bắp chân Pao nỗi hờn căm thúc giục Pao phải dứt

khoát. Phải, Pao không thể nấn ná, chần chừ. Cái vạch vôi chia đôi đã rõ ràng hơn”

[13, tr. 512]. Lòng căm thù với cái ác, cái xấu xa, bỉ ổi cùng tình yêu thương của một

trái tim nhân hậu đã giúp Pao lựa chọn con đường đi đúng đắn cho cá nhân anh và

cho cả dân tộc H‟mông lạc hậu, u mê của anh, đi theo tiếng gọi của cách mạng, của

chính nghĩa.

Pao trưởng thành nhờ cách mạng. Pao trở thành chủ tịch xã và là người tiên

phong trong công cuộc đấu tranh chống phỉ tại Can Chư Sủ, châu Pa Kha. Trong cuộc

đối đầu với phỉ, Pao phải chấp nhận một thực tế: “Cách mạng là con đường gian nan.

Nhưng với dân tộc Pao thì con đường còn gian nan gấp bội phần… Dân tộc Pao còn

phải vất vả. Nó phải vượt qua chính nó. Và chặng đường nó đi sẽ đầy máu mê chết

chóc” [14, tr. 183]. Anh đã phải đối mặt với bao khó khăn, trắc trở, nhiều khi rơi vào

bế tắc, ngõ cụt. Khó khăn khi vấp phải những tư tưởng cũ, lạc hậu ăn sâu bám rễ

trong quần chúng nhân dân, làng bản, khó khăn trong việc thu thuế, trong việc vận

động bà con bỏ thuốc phiện và đặc biệt là khó khăn trong chiến đấu chống lại những

âm mưu, sự độc ác của bọn phản động, bọn thổ phỉ. Nhưng anh luôn tin rằng: “Cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

mạng là con đường quanh co. Nhưng rồi ta sẽ đi tới đích”. Anh mang niềm tin đến

với những trí tuệ, trái tim thức tỉnh để họ hiểu rằng: “Thằng phản động nó sống bằng

lừa lọc quen rồi. Còn cách mạng là chân thật. Ai tốt, thương người dễ theo cách

mạng” [14, tr. 287]. Niềm tin của anh được thắp sáng, những khó khăn, trắc trở dần

dần được tháo gỡ. Anh thấy rõ trọng trách to lớn của mình với quê hương làng bản:

“Đời bây giờ phải có Pao. Pao đã xuất hiện giữa dông bão, tròng trành của đời để

thay thế tất cả những kẻ đại diện cho dân tộc Pao từ trước đến nay” [14, tr. 401].

Bọn phỉ mưu mô, độc ác tìm mọi cách giăng bẫy giết hại anh. Pao liều mình

nhảy xuống vực sâu. Sức sống tự bên trong, lòng căm giận và niềm khát khao đã giúp

Pao vượt qua. Pao không chết, bởi anh có “nỗi ước muốn được tiếp tục những công

việc dang dở - là còn sống… Nó giống như cái chấm than hồng trong bếp tro nguội

lạnh, nhưng nó không lụi đi, nó cứ sáng dần, soi tỏ toàn bộ tri giác, cảm giác của

Pao” [14, tr. 286]. Chính “ý nghĩ không chịu chết làm Pao sống”. Pao phải sống bởi:

“Làng Pao lúc nhúc bọn phản loạn. Thị trấn mịt mù khói đạn quân gian ác”. Trọng

trách nặng nề ấy thuộc về Pao. Pao phải tiếp tục chiến đấu, phải mang lại sự bình yên

cho quê hương anh. Sau mưa mù thì nắng dậy, Pao mạnh mẽ, kiên cường hơn. Anh

nhận rõ nhiệm vụ của mình: “Cách mạng giao chức chủ tịch cho Pao, Pao đã không

giữ yên được làng xã, để con thú nổi dậy, phá chuồng xổng ra… Pao vẫn là chủ tịch

Can Chư Sủ” [14, tr. 286].

Bất chấp tất cả, Pao như cây gỗ tốt đứng vững giữa trời, mặc mưa gió, bão táp

và thiên nhiên khắc nghiệt. Anh vững tin vào cách mạng và tin tưởng vào ý chí của

mình. Cha anh và dân làng cũng đã hiểu được những nỗi đau mà anh đã gánh chịu,

hiểu được những công việc mà anh đang làm. Ông đã vượt qua được những thiên

kiến nặng nề, cố hữu và ủng hộ cách mạng, thấy được cách mạng và bộ đội thật tốt

đẹp. Bọn phỉ tại Can Chư Sủ bị tiêu diệt đến tên đầu sỏ cuối cùng, đem đến cuộc sống

bình yên, hạnh phúc cho dân làng, hòa chung không khí hòa bình trong công cuộc

tiễu phỉ thành công trên toàn mảnh đất Lào Cai.

Người thanh niên của núi rừng không chỉ tiên phong trong phong trào cách

mạng mà còn là một người có trái tim nhạy cảm, yêu mãnh liệt và đầy tinh thần trách

nhiệm với người mình yêu. Tác giả Ma Văn Kháng đã có những trang viết rất ấn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tượng về sự thăng hoa của tình yêu giữa Pao và Seo Cả trong đêm trăng tuyệt vời bên

bờ sông Chảy. Qua đó, chúng ta thấy, nhà văn đã nhìn nhận con người như là chính

bản thân nó trong cuộc sống với những điều vốn có và phải có.

Những người phụ nữ miền núi trong trang văn của các tác giả Ma Văn Kháng,

Phượng Vũ, Mạc Phi và Đoàn Hữu Nam đều đẹp đẽ, trong sáng, có trái tim nhân hậu,

dù gặp bao bi kịch đau khổ. Đó là Pham, Đàu (Thổ phỉ), là Nậu (Hoa hậu xứ

Mường), là Am (Rừng động), là Seo Cả,... (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải).

Họ vượt lên số phận, chống lại những nghiệt ngã của cuộc đời một cách quyết liệt để

giành lấy sự sống, lựa chọn con đường đầy ánh sáng cho tương lai của mình.

Cách mạng đã làm thức tỉnh những con người bình thường tưởng như nhút nhát,

e dè, có phần sợ hãi trước cuộc sống mới. Am (Rừng động) xuất thân trong gia đình

họ Tao, biết nhìn xa trông rộng. Bao nhiêu năm sống dưới sự áp bức của nhà phìa với

nhiều cảnh đau xót, tang tóc, lớn lên Am “giống như cây gỗ thẳng thoạt đâm lá đã

không chịu cúi ngọn” [27, tr. 231]. Trong cô luôn thường trực nỗi lo lắng khi tuổi

mười sáu đang đến gần, lúc tên cô treo trên đầu sổ gái xòe Mường Vai cho nhà phìa.

Rồi cách mạng đã đến với Mường Vai xa xôi của Am. Am được gặp chị Liễu,

anh Nhí, cán bộ dân vận và đặc biệt là chính trị viên Trần Hải. Cô được xếp vào danh

sách cốt cán loại một của cách mạng tại đây. Am thuộc lớp thanh niên trẻ, tràn đầy

nhiệt huyết, trong công tác cô là “cái miệng nói, cái chân đi tay làm thứ hai” [28, tr.

52] của cán bộ phụ trách tại Mường Vai. Hai chân Am đi khắp các bản thấp, bản trên

cao của Mường Vai. Đến đâu, cô cũng vận động, tuyên truyền, giúp nhân dân bầu đại

biểu bản, kêu gọi phụ nữ đứng lên đấu tranh giành quyền lợi. Am là “cô giáo” trong

lớp dạy bộ đội tiếng Thái, là người đứng đầu, tổ chức lớp học chữ quốc ngữ cho bà

con dân bản. Cô biết chữ rồi thì đi làm công thay cho các chị em khác, để họ được đi

học. Trong công tác cách mạng Am thông minh, nhanh nhẹn. Am luôn tỉnh táo nhận

ra những âm mưu của bọn phản động, những kẻ chống phá cách mạng. Chính Am đã

phát hiện và phá tan âm mưu phản loạn của bọn phản động và đám tạo cũ trong bữa

liên hoan đại đoàn kết. Am không cho phép bất cứ thế lực nào làm hại cách mạng,

làm hại bộ đội.

Cuộc đời Nậu (Hoa hậu xứ Mường) tưởng “như đóa bông trăng đã tàn” [44,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tr. 334] hoàn toàn thay đổi khi ánh sáng của cách mạng bừng sáng đến mường Vân.

Nậu được một người bạn cùng mường, cũng làm phu trong nhà quan châu, đã được

giác ngộ cách mạng, giúp cô bỏ trốn khỏi nhà lang chu Chiềng, kết thúc kiếp sống bị

dày vò hành hạ, vừa làm người ở, người trông trẻ vừa là người hầu chăn đệm cho

quan. Nậu trở thành người tự do, trở về bản mường bên người mẹ yêu dấu. Nậu giác

ngộ cách mạng, thấy được cuộc đời mới đã đến. Cô trở thành lực lượng tiên phong

của phong trào cách mạng tại mường Vân. Cô tham gia Hội phụ nữ cứu quốc, đi “các

xóm nói chuyện với các máng, các mế, ai cũng bằng lòng vào Hội…” [44, tr. 334]. Cô

là cốt cán của cách mạng tại Mường Vân. Cô đến bên những người làm lá, làm củi để

“nói cho người các mường biết âm mưu của lang đạo, để con mắt của người các

mường thấy rõ hơn tội ác của nhà lang” [44, tr. 505], cùng đứng lên chiến đấu, ủng

hộ Việt Minh tiêu diệt chế độ nhà lang độc ác, tàn bạo. Có thể thấy, sức mạnh của

lòng căm thù đã giúp một người tưởng như không còn hi vọng về cuộc sống như Nậu

đã đứng lên làm chủ cuộc đời, cống hiến tuổi trẻ cho cách mạng, cho quê hương.

Đàu (Thổ phỉ) cũng là một cô gái “người thon nhỏ, tóc dài, mặt trái xoan, đầu

chim ngói, mắt hạt nhãn, thân thể mềm mại như nước suối” [21, tr. 409], vô tư, yêu

đời. Đàu yêu Vương, chắt cụ giáo Choong. Cả hai là điển hình cho tuổi trẻ, sức sống

của núi rừng hoang dã. Đoàn Hữu Nam đã xây dựng một lâu đài tình yêu ngây thơ,

hồn nhiên, hoang sơ để Vương và Đàu trú ngụ, để thổi bừng sức sống, tươi mởn,

xanh non vào vùng đất chết chóc, đói nghèo Phòng Tô luôn sống trong bần cùng,

nơm nớp sợ hãi. Tình yêu tràn đầy lãng mạn của Vương và Đàu là một điểm sáng,

đẹp lung linh trong tác phẩm. Nhưng, sống trong sợ hãi giữa một không gian làng

bản, núi rừng bất ổn bởi nòng súng, lưỡi lê thì số phận Đàu cũng bất hạnh như rất

nhiều cô gái khác nơi đây. Đàu bị ba tên phỉ như “ba hình nhân đói khát như ba con

trâu đói vào được ruộng mạ non” [21, tr. 414] làm nhục. Bọn chúng thay nhau hãm

hiếp Đàu khiến cô phải sống một cuộc sống bẽ bàng, hoảng loạn, lê lết, câm lặng như

“con chuột bị bẻ gẫy bốn chân vớt lên từ vũng nước lạnh” [21, tr. 422]. Một cây non

xanh bị phạt gốc. Một mầm sống bị bầm rập. Một sức sống bị đốn phạt. Nhưng mầm

sống ấy đã không gục ngã khi tiếp cận với cuộc đời mới. Đàu cùng Vương đã cùng

nhau đi theo cách mạng, góp công giải phóng bản làng khỏi nạn thổ phỉ.

Nhân vật văn học mà không có số phận thì hình ảnh rất mờ nhạt, thiếu sức sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

và không ám ảnh. Trong Thổ phỉ nhân vật mang số phận bi đát, thê thảm nhất có lẽ là

Pham. Pham là hiện thân cho nỗi khổ đau tận cùng của người đàn bà miền núi. Vốn là

một cô gái dân tộc Dao xinh đẹp “sinh ra giữa rừng, được ánh trăng nhuộm thỏa

thuê từ lúc chui ra khỏi bụng mẹ nên Pham được thừa hưởng khá nhiều lộc của chị

Hằng Nga‟ [21, tr. 127]. Cô là kết quả của hạnh phúc, niềm ước mong gửi gắm của

cha mẹ. Pham lớn lên „xinh đẹp như người giời. Da dẻ cô mát rượi như da rắn, trắng

như vớt ra từ thùng bột gạo nếp. Đôi mắt cô lúc nào cũng lọc hết bụi bặm, cực nhọc,

trong veo như sương mai. Mái tóc đen mượt thả dài tới khoeo bồng bềnh như dòng

suối chảy giữa rừng thưa” [21, tr. 128]. Cô lấy chồng nhưng chưa một lần biết đến vị

ngọt của tình yêu và hạnh phúc. Chồng và bố chồng suốt ngày u mê, chìm đắm trong

khói thuốc phiện. Hai người đó “coi cô là cái ghẻ rách, chùi chân hay lót nồi” [21, tr.

137]. Đứa con trong bụng, niềm hi vọng về sự kết nối với gia đình cũng bị chính gã

bố chồng bệnh loạn, loạn luân khốn nạn tàn phá ở một nơi đầy rắn rết dưới sự hủy

diệt khủng khiếp của vòi rồng miền núi. Tưởng như sự sống đã chấm dứt ở Pham,

mọi ngả đường đều là ngõ cụt, mọi con đường đều tỏa đầy bóng tối, nhưng sức sống

ở người phụ nữ này vẫn mạnh mẽ biết bao. Sau lần được cứu sống khi tự tử ở dòng

suối, Pham đã yêu anh Bắc, cán bộ phụ trách Phòng Tô bằng tất cả trái tim cuồng

nhiệt của người đàn bà chưa một lần được yêu. Nhưng mối tình vụng trộm đầy khao

khát, được sống đúng mình ấy cũng tan vỡ nhanh chóng và rơi vào bi kịch khi Bắc hi

sinh trong trận đối đầu với thổ phỉ. Pham không còn nơi nương tựa tinh thần, vật vờ

như ngọn gió lang thang… là điển hình cho phụ nữ vùng cao thụ động, bị coi thường,

khinh rẻ như đồ vật, không có quyền làm người. Nhưng cách mạng đã cho cô một con

đường sống. Cô đi theo chân lý để làm lại cuộc đời mình, cứu dân bản thoát khỏi tai

ách thổ phỉ.

Có thể thấy, vượt qua tất cả những nỗi đau để lớn dậy, Pham và Đàu trở thành

thành viên tiên phong trong công cuộc vận động tiễu phỉ tại Nậm Cang. Mặc dù biết

công việc này “là khó, là khổ, thậm chí phải mất mạng”. Nhưng cả hai luôn vững tin

vì “đằng trước, đằng sau hai người là cái thế cách mạng sẽ làm nên nước lũ cuốn

trôi bè mảng” [21, tr. 485]. Sự mềm mỏng, khéo léo của Pham, Đàu như “nước mềm

chảy trên đá cứng, đá cứng phải mòn” đã làm cho dân bản hiểu được, “nếu không lôi

được người ruột thịt ra khỏi miệng thú dữ thì trước sau cũng bị mất người, tan nhà”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

[21, tr. 497]. Nhà văn Đoàn Hữu Nam đã để những người phụ nữ thống khổ không

bằng con giun con dế đi theo cách mạng, làm lại cuộc đời. Đây là một hướng nhìn

truyền thống và tích cực về con người miền núi mà chúng ta đã từng bắt gặp trong

sáng tác của Tô Hoài.

Tiểu kết chƣơng 2

Qua các tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ, ta thấy các nhà văn Ma Văn Kháng,

Mạc Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam đã khắc họa rõ nét hiện thực cuộc sống cay

đắng, tủi cực của đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc dưới chế độ phong kiến phìa

tạo, thổ ty, lang đạo… miền núi. Người đọc kinh hoàng trước hiện thực về tội ác man

rợ, ghê tởm của bọn thổ phỉ dưới sự hà hơi tiếp sức của thống trị và bọn ngoại bang,

nhưng cũng rất tự hào về những con người cách mạng, nhiệt huyết, những người dân

u mê biết thức tỉnh, đấu tranh bảo vệ cuộc sống yên bình. Trong thế giới của những

con người tốt đẹp đó ta bắt gặp hình ảnh những chiến sĩ cách mạng từ miền xuôi dâng

hiến tuổi trẻ, sức lực và lòng nhiệt huyết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng

đất nước và giải phóng cho nhân dân các dân tộc thiểu số phía Bắc khỏi nạn thổ phỉ.

Sát cánh cùng lực lượng vũ trang, ta còn bắt gặp những tấm gương của những người

con dân tộc thiểu số miền núi với những vẻ đẹp mộc mạc, giản dị nhưng vô cùng kiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cường, mạnh mẽ với trái tim yêu quê hương, làng bản tha thiết.

Chƣơng 3

MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU

3.1. Cốt truyện và yếu tố ngoài cốt truyện

3.1.1. Cốt truyện

Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính sự

lôi cuốn, hấp dẫn của cốt truyện sẽ góp phần tạo nên sức mạnh thuyết phục của chủ

đề và tư tưởng tác phẩm. Ngược lại, nếu cốt truyện quá sơ lược, nhạt nhẽo, nhàm

chán thì chủ đề và tư tưởng tác phẩm sẽ trở thành một thứ lí thuyết suông, hoàn toàn

áp đặt với người đọc. Và nếu không có cốt truyện hay, hấp dẫn thì sự hoạt động của

tính cách cũng trở nên buồn tẻ, những đặc điểm bản chất của từng tính cách cũng

không được khẳng định rõ nét và mất đi tính sinh động cần có của nó. Khái niệm “cốt

truyện” không mang ý nghĩa phổ biến cho tất cả các tác phẩm văn học thuộc các thể

loại khác nhau. Nó được dùng chủ yếu cho tác phẩm tự sự hoặc các tác phẩm kịch mà

ít khi dùng cho các tác phẩm thơ ca (có thể dùng cho truyện thơ).

Theo định nghĩa của tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì cốt truyện là

“hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất

định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức của tác phẩm

văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [5, tr. 99]. Theo các tác giả cuốn Lí luận văn

học do Hà Minh Đức chủ biên thì “cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ảnh

những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật,

qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại nhằm

làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm” [3, tr. 136]. Qua các ý kiến trên, có thể

thấy, chất liệu cơ bản, đơn vị cơ bản để tạo thành một cốt truyện chính là các sự kiện,

đó là những việc có tác động và ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính cách của

nhân vật. Các tác giả đã lí giải rằng những sự kiện lớn, có thể tạo thành những bước

ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhân vật thường được gọi là các biến cố, còn những

yếu tố cụ thể tạo thành sự kiện được gọi là các tình tiết. Trong tác phẩm văn học, hệ

thống sự kiện được xây dựng trước hết theo yêu cầu của việc khẳng định rõ nét các

tính cách qua một quá trình diễn biến của cuộc sống. Những diễn biến đó có thể yên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ả, bình lặng hoặc là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập của cuộc sống: cái xấu và cái

tốt, cái cũ và cái mới, sự sống và cái chết, tích cực và tiêu cực,… Cuộc đấu tranh ấy

diễn ra trong từng con người, từng sự vật hiện tượng, có khi giữa các nhóm người,

các giai cấp, các dân tộc… Đó chính là các xung đột xã hội. Miêu tả một cách nghệ

thuật sự vận động của các tính cách qua những xung đột xã hội ấy để nêu bật chủ đề,

tư tưởng của tác phẩm là nhiệm vụ hàng đầu của cốt truyện.

Như vậy, sức hấp dẫn, lôi cuốn của cốt truyện sẽ góp phần tạo nên sức thuyết

phục của chủ đề tư tưởng tác phẩm và thể hiện được cuộc đời, số phận nhân vật. Một

cốt truyện hấp dẫn phải thể hiện rõ kịch tính, tức là nó phải được kết cấu theo một

trình tự kịch như xung đột kịch (có mở đầu, cao trào, giải quyết vấn đề và kết thúc).

Nếu như văn học giai đoạn 1945 - 1975 với lối kết cấu sự kiện đơn tuyến, cốt truyện

có một vị trí quan trọng tạo thành một cái khung cố định, sắp xếp tổ chức xâu chuỗi

mạch lạc và chặt chẽ thì sau 1986 cốt truyện bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nhường chỗ

cho những dòng chảy bất tận của tâm trạng con người. Cốt truyện vẫn còn tồn tại

nhưng bắt đầu bị biến dạng và phân rã. Thay vì duy trì tính thống nhất trong trình tự

thời gian và nhân quả của chuỗi sự kiện gắn với hành động của nhân vật chính, sự tan

vỡ thành một chuỗi lắp ghép các sự kiện gắn với hành động của nhân vật chính.

Truyện không theo trật tự thông thường, từng mảnh đời nhân vật bị chia ra, bị phân

tán vào ký ức lộn xộn, khắp nơi, rời rạc của nhân vật chính. Cốt truyện là một bức

tranh lắp ghép mà các mảng ghép bị đảo lộn, xáo trộn về hình thức lôgic thông

thường. Trong sáng tác của các tác giả miền núi hiện đại, hầu hết đều có cốt truyện

đơn giản hoặc lỏng lẻo, mơ hồ, khó nắm bắt, khó kể lại. Các yếu tố sự kiện, tình tiết

nhân vật chủ yếu triển khai theo mạch cảm xúc, suy nghĩ.

Khảo sát tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải của Ma Văn Kháng,

Rừng động của Mạc Phi, Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ và Thổ phỉ của Đoàn

Hữu Nam, chúng tôi nhận thấy, cốt truyện chủ yếu được viết theo kiểu cốt truyện gắn

với sự kiện lịch sử cụ thể và kiểu cốt truyện gắn với sự kiện đời tư.

3.1.1.1. Kiểu cốt truyện lịch sử

Một quy luật tất yếu của văn học là bao giờ cũng phản ánh hiện thực trong một

giai đoạn nhất định của lịch sử. Vì thế, khi nói đến tính lịch sử, tính cụ thể của cốt

truyện là người ta muốn nói tới mức độ chân thực của hiện thực đời sống được phản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ánh trong đó. Tính lịch sử, cụ thể trước hết được biểu hiện thông qua tính chân thật

của các sự kiện lịch sử - xã hội làm điểm tựa cho sự phát triển của cốt truyện. “Đó

thường là những sự kiện có ý nghĩa tiêu biểu cho sự vận động của lịch sử ở một thời

điểm nhất định” [3, tr. 138]. Ở Chiến tranh và hòa bình là sự xâm lược tàn bạo của

Napôlêông vào nước Nga năm 1812, ở Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh là sự kiện

trung đoàn 16 bị địch bao vây và tiêu diệt gần hết, chỉ còn hơn chục người trở về hậu

cứ. Mặt khác, tính lịch sử, cụ thể của cốt truyện “còn được xác định qua đặc điểm

của tính cách, bởi vì tính cách nào cũng đại diện trong mức độ này hay mức độ khác

cho một hoàn cảnh lịch sử cụ thể” [3, tr. 138]. Như vậy, kiểu cốt truyện lịch sử là

những cốt truyện có liên quan đến các sự kiện lịch sử, lấy yếu tố lịch sử làm căn bản

và sử dụng chi tiết, bối cảnh lịch sử để xây dựng cốt truyện. Thông qua đó nhà văn

truyền tải những thông điệp nghệ thuật của mình một cách thích hợp nhất.

Một số nhà văn đương đại khi xây dựng cốt truyện trong tác phẩm của mình

thường viết kiểu cốt truyện mang tính lịch sử đó là tái hiện về cuộc chiến tranh oanh

liệt hào hùng đã đi qua của dân tộc, cuộc chiến tranh cứu quốc vĩ đại của dân tộc.

Trong các tập tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ nói trên, Ma Văn Kháng, Mạc Phi,

Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam dựa trên sự kiện có thật của lịch sử để xây dựng cốt

truyện mang đậm màu sắc lịch sử, đó là những trang viết dựa trên những sự kiện,

nhân vật có thật để tái hiện về một thời kỳ đấu tranh kiên cường của đồng bào dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc trong công cuộc bảo vệ làng bản, kiên cường chống lại các

thế lực độc ác tàn bạo, giữ gìn cuộc sống bình yên cho dân tộc mình.

Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (Ma Văn Kháng) mở ra trước mắt chúng ta

cái thị xã biên giới Lào Cai bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân đảng

chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở

đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ

sự hà hơi tiếp sức của bọn Tàu Tưởng. Những cán bộ Việt Minh được đảng điều lên

vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân. Vệ quốc đoàn đã

tiến lên Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lào Cai.

Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như

tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các thế lực thổ ty kì

quặc từ bao thế kỉ, những phong tục tập quán thú vị và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

người dân thiểu số anh em đáng thương và đáng quý biết bao. Những đốm lửa cách

mạng đã được đốt lên trên vùng núi non hoang vắng trùng điệp này. Lòng yêu nước

đã khơi gợi được quần chúng tề tựu dưới lá cờ Tổ Quốc cùng Vệ quốc đoàn tiến vào

giải phóng Lào Cai, thành lập chính quyền Dân chủ Nhân dân chậm nhất trong các

tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Tác phẩm đóng lại vào thời điểm cuối năm

1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn. Lúc này, bọn thổ ty đã phản bội lại

cách mạng, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm

đóng Lào Cai. Thị xã được lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường

kì kháng chiến lúc bấy giờ.

Vùng biên ải (Ma Văn Kháng) được coi là tập hai sau Đồng bạc trắng hoa xòe.

Tác phẩm tiếp tục viết về cuộc đấu tranh tiễu phỉ của quân và dân ta ở vùng biên giới

Việt - Trung từ năm 1951 đến năm 1953. Sát cánh cùng đồng bào các dân tộc, lực

lượng vũ trang nhân dân địa phương đã đập tan được ổ phỉ do tên Châu Quán Lồ

(người một mắt) cầm đầu và được thực dân Pháp nuôi dưỡng. Những kẻ mù quáng

theo phỉ được kêu gọi trở về làm ăn lương thiện, còn những kẻ ngoan cố, gian ác bị

trừng trị thích đáng. Trong Vùng biên ải, những số phận của Châu Quán Lồ, của Pao,

Lử, anh em Seng, Tếnh rồi những cán bộ cách mạng tiên phong không quản ngại

băng rừng vượt núi, nhóm bếp lửa hồng cho cuộc cách mạng giải phóng nhân dân

như Lê Chính, Kiến, Nguyễn Đắc và Ngọc, đại diện cho những thế lực hắc ám Việt

Nam Quốc dân đảng như Triệu Đại Lộc, Vũ Khanh, vị quan tư người Pháp Phô-rô-

pông, các viên thổ ty già cỗi, lạc hậu, nhiều tham vọng,... đã có những va chạm nảy

lửa. Biết bao tâm trạng, cảnh ngộ và tính cách, số phận đều được định đoạt rõ ràng.

Nhân vật Châu Quán Lồ được lấy nguyên mẫu từ nhân vật có thật là Châu

Quáng Lồ. Hắn nguyên là một tướng cướp hung bạo cầm đầu sắc tộc Mông ở tổng

Pha Long, huyện Mường Khương. Được sự trợ giúp của quan thầy Pháp và các thế

lực phản động, đội quân GCMA của Châu Quáng Lồ đã đẩy mạnh hoạt động, liên

tiếp tổ chức tiến công đánh chiếm, giết hại cán bộ ở Mường Khương, Si Ma Cai, Bắc

Hà. Đội quân GCMA đồng loạt gây bạo loạn ở một số địa bàn thuộc phía Bắc tỉnh

Lai Châu (Phong Thổ, Tam Đường, Sìn Hồ).

Nhìn vào đề tài thì hướng đi của Thổ phỉ cũng theo một vòng tròn đồng tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

với Đồng bạc trắng hoa xoè và Vùng biên ải của Ma Văn Kháng. Nhưng nhà văn lại

triển khai theo mạch cốt truyện riêng, không lặp lại việc thương thuyết với thổ ty như

hai cuốn tiểu thuyết kia. Đoàn Hữu Nam khơi sâu vào vấn đề khác: vấn đề thu phục

lòng dân. Nhiều năm bị buộc chặt với thổ ty bởi luật tục, sự sinh tồn đan xen mông

muội và cả nỗi sợ cố hữu khiến người dân "sống trong nô lệ tự nguyện" và không dễ

gì theo Việt Minh. Muốn giành dân, người cách mạng chỉ có con đường "ba cùng",

hiểu dân và làm cho dân hiểu. Tác phẩm xoay quanh cốt truyện về thời kỳ đấu tranh

gian khổ, cảnh nồi da nấu thịt tại vùng Tây Bắc của đất nước. Đó là sự kiện nổi phỉ

tại vùng Phòng Tô - Phong Thổ - Lai Châu. Vùng đất có vị trí chiến lược đặc biệt

quan trọng trong cục diện kháng chiến chống Pháp, tiễu phỉ của đất nước, phản ánh

một trang sử của cách mạng và kháng chiến kiến quốc ở vùng núi cao. So với cuộc

chiến đấu giành độc lập tự do với kẻ thù xâm lược từ bên ngoài thì dường như cuộc

chiến đấu tiễu phỉ, diệt phỉ đã có phần phức tạp hơn. Nhà văn viết tiểu thuyết Thổ phỉ

từ sự kiện lịch sử xảy ra cách đây đã lâu, là việc nổi phỉ của một nhóm phản động ở

vùng núi phía Bắc, sau đó bọn phỉ bị chính quyền, bộ đội, công an và nhân dân trấn

áp, bị bắt đến tên cuối cùng. Tác phẩm vẽ nên một thế giới thổ phỉ tối tăm, đầy quỷ ác

ở vùng Phong Thổ - Lai Châu. Chúng sống ở những vùng núi hoang sơ, nghe những

lời xúi giục, kích động của bọn phản động đã vào rừng thành lập tổ chức chiến đấu

chống lại chính quyền và cách mạng. Tên thủ lĩnh đứng đầu tổ chức là Triệu Tá Sắn.

Đằng sau tập đoàn thổ phỉ này là bọn Pháp, bọn Mỹ cung cấp vũ khí, lương thực thực

phẩm và cổ vũ tinh thần giúp bọn phỉ có thể tồn tại và hoạt động được.

Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ viết 1986, kể về những sự kiện và nhân vật

ở đất Mường sau những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác giả đã xây dựng

được một số nhân vật sinh động có nội tâm và tính cách riêng về bọn quan lang với

những luật lệ hà khắc đè nặng lên cuộc sống và tâm hồn người nông dân miền núi.

Bản chất bóc lột, ăn bám, phản động và sa đọa của chúng báo hiệu sự sụp đổ tất yếu

của chế độ nhà lang giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ. Tác phẩm cũng đã phản ánh được

sự biến chuyển cách mạng trong các tầng lớp quần chúng cơ bản trong và sau cách

mạng tháng Tám. Những cán bộ Việt Minh, cán bộ Đảng thâm nhập vào quần chúng

nhân dân, những người dân Mường đã trưởng thành, trở thành cốt cán của phong trào,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

có khả năng đương đầu với bọn quan lang âm mưu khôi phục lại "uy quyền" của

chúng ở nơi đây. Hai nhân vật chính trong tác phẩm là Quách Lân và vợ là Quách Thị

Quỳ được lấy nguyên mẫu có thật là quan tri châu Lạc Sơn Quách Hàm và người phụ

nữ được thực dân Pháp phong là hoa hậu xứ Mường Quách Thị Tẻo, em gái nuôi

đồng thời là vợ Quách Hàm.

Nếu như Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ viết về sụp đổ tất yếu của nhà

lang thì Mạc Phi trong hai tập Rừng động đã rất công phu thu thập tài liệu viết về

một giai đoạn cách mạng sôi nổi và dữ dội ở Tây Bắc dưới chế độ phìa tạo. Tác phẩm

đi sâu vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục tập quán, tâm lí con người

Tây Bắc. Đặc biệt là xã hội người Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình

chín năm của dân tộc, trước ngày hoàn thành cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ

với chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại.

Nhìn chung, do xây dựng cốt truyện liên quan đến các vấn đề lịch sử, thậm

chí lấy chi tiết, sự kiện, dấu mốc lịch sử có thật làm tiền đề, các tác giả đã đem đến

cho người đọc một cảm giác chân thực khi tiếp cận với tác phẩm viết về đề tài thổ

phỉ. Và đặc biệt, quan trọng hơn nữa, lịch sử đã trở thành một phương tiện hiệu quả

để nhà văn soi chiếu các vấn đề của xã hội, những góc khuất trong thân phận con

người. Những vấn đề này nếu không được đặt vào bối cảnh lịch sử thì khó có thể

được soi chiếu một cách vừa chân thực và lại vừa sâu sắc như vậy. Với việc sử dụng

yếu tố lịch sử trong xây dựng cốt truyện, các tác phẩm viết về đề tài thổ phỉ của các

nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam đã phản ánh sinh

động một thời kì đau thương mà anh dũng của dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc

trong tiến trình dân tộc với nhiều dấu ấn đặc thù.

3.1.1.2. Kiểu cốt truyện đời tư

Bên cạnh cốt truyện gắn liền với yếu tố lịch sử, các sự kiện lịch sử là xương

sống để nhà văn cấu trúc lên tác phẩm của mình thì cốt truyện gắn với sự kiện đời tư,

gắn với những số phận cụ thể của con người cũng được các nhà văn Ma Văn Kháng,

Mạc Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam quan tâm qua các tác phẩm viết về đề tài thổ

phỉ kể trên. Kiểu cốt truyện đời tư được xây dựng và triển khai bằng những chi tiết, sự

kiện bám sát vào cuộc sống riêng tư của nhân vật, qua thân phận đời tư của nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

mà nhà văn thể hiện cái nhìn về nhân sinh và thế giới.

Trong Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải của Ma Văn Kháng xoay

quanh số phận nhân vật Pao - chàng thanh niên Mèo tiến bộ, sớm giác ngộ cách

mạng, nhận thức rõ được những điều tốt đẹp và cái ác, cái xấu.

Cuộc đời anh liên tiếp rơi vào những bi kịch. Bi kịch gia đình, bi kịch tình yêu.

Qua những thử thách đó Pao dần trưởng thành và nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ

của bản thân với gia đình, quê hương làng bản. Trước sự thay đổi đột ngột của người

anh trai, trước những lời nói thản nhiên và những hành động bất nhân, bất nghĩa của

Lử, trong lòng Pao trào lên nỗi thất vọng vô bờ: “Có cái gì vừa tan nát trong lòng

Pao, Pao buồn xỉu…” [13, tr. 205]. Khi hay tin chị dâu tự tử, Pao rơi vào đấy sâu của

sự đau đớn, xót xa: “Trời! Có một tảng đá nào lăn từ núi cao choang đúng đầu Pao,

Pao loạng choạng. Pao chạy. Chân không thật. Như chạy trong chiêm bao” [13, tr.

215]. Sự tức giận, lòng căm thù lên đến tột cùng khi anh chứng kiến cái ác hành

hoành trên quê hương anh khi người dân vô tội bị hành quyết một cách man rợ: “Mặt

Pao đỏ, ứa máu vì tức giận. Ngực Pao tức nghẹn, nở gồ. Nước mắt Pao ứa chảy…

Pao liền xông ngay tới, nắm dây cương” [14, tr. 239, 240]. Chứng kiến, chịu đựng và

gánh chịu đau khổ nhiều khiến “lòng Pao như có cái gì vỡ ra… Nhìn rõ tất cả” [13,

tr. 252]. Tấm lòng anh nhân hậu, biết yêu thương đồng loại, gia đình. Anh đau đớn,

xót thương ông lão Pâu cùng làng, vừa ăn vừa khóc vì trót nuôi một con lợn đực mà

bị thổ ty thắt cổ suýt chết, nỗi uất ức của ông bố người bạn người Nùng bị thổ ty cướp

mất đôi mắt sáng, hình ảnh cha hai anh em Seng, Tếnh bị Châu Quán Lồ hành quyết

bằng cách cho ngựa kéo xác trên đường, thân thể chỉ còn là một cục thịt đỏ nát. Chính

tình thương đó là con đường gần nhất đưa Pao đến lí tưởng cách mạng: “Pao đã hiểu

ra nguyên nhân của bao cảnh đời bần cùng, khốn khổ và những ước vọng đẹp đẽ của

người chiến sĩ cách mạng đã bắt đầu nảy nở trong Pao” [13, tr. 519].

Pao đã trải qua nhiều thử thách, chứng kiến sự tàn ác, dã man của bọn thổ ty và

bọn thổ phỉ phản động. Pao phải trải qua bao nỗi đau về thể xác cùng tinh thần, vấp

phải sự phản đối quyết liệt của dòng họ, gia đình anh khi anh giữ vai trò là chủ tịch xã,

tiên phong trong phong trào chống thổ phỉ trên quê hương Can Chư Sủ của anh. Anh

phải chứng kiến sự tàn độc, dã man, mất hết tính người của chính anh trai ruột mình.

Nhà văn đã đặt nhân vật Pao vào những tình huống, thử thách để nhân vật tự bộc

lộ khát vọng của chính mình về tình yêu, tự do, hạnh phúc. Từ tình yêu thương đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

loại đến căm thù cái ác, con đường đến với cách mạng của Pao từ tự phát đến tự giác.

Pao mang vẻ đẹp dung dị, chân thực và đầy hấp dẫn. Pao là đại diện cho hàng vạn,

hàng ngàn chàng trai H‟mông yêu quê hương làng bản. Hành động của Pao là hành

động của người anh hùng, thể hiện sức mạnh của cộng đồng, đại diện cho cộng đồng.

Viết về người phụ nữ miền núi, các nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng

Vũ và Đoàn Hữu Nam đã tạo dựng những chân dung đẹp đẽ, nhưng họ lại có cuộc

đời mang số phận bi kịch. Ngòi bút của các nhà văn đã đi sâu vào thế giới tâm hồn

người phụ nữ để yêu thương và đồng cảm với họ. Qua đó, họ lên án xã hội cũ với chế

độ thổ ty, lang, phìa đầy hủ tục, định kiến nặng nề, coi người phụ nữ như công cụ lao

động, nô lệ tình dục, là hàng hóa trao đổi của người đàn ông, không có quyền sống,

không có quyền được yêu thương và hưởng hạnh phúc chính đáng của con người.

Cuộc đời Seo Cả (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải) cũng giống như bao

cảnh đời người phụ nữ H‟mông khác nhưng nhà văn đã đi sâu vào đời sống tâm hồn,

tình cảm, sự vùng lên đấu tranh vì khát vọng hạnh phúc. Seo Cả từng có một đời

chồng nhưng không chịu nổi sự vũ phu, hung tợn, trộm cướp của hắn, chị phải chạy

trốn đến nương nhờ nhà lí trưởng trong làng làm phận gái dong, gái gầu phàng (gái bỏ

chồng đến ở làm công không cho nhà chức dịch trong làng) khi chị mới hai mươi tuổi.

Những tưởng bớt đi cái khổ, nào ngờ, chị tiếp tục kiếp sống nô lệ đến khi nào có người

bỏ bạc trắng ra chuộc mới thôi. Đời gái dong “dằng dặc, không đầu không cuối, mịt

mùng” quên cả nghĩ ngợi “cứ địu nước, xay ngô, giã gạo rồi ăn rồi ngủ thôi” [14, tr. 97].

Từ nhà chồng thoát ra, bước chân vào nhà chức dịch làm phận gái dong không

phải lối thoát cho cuộc đời người phụ nữ H‟mông. Đó thực chất chỉ là một cuộc chạy

trốn từ nhà tù này sang nhà tù khác mà thôi. Cả ngày đi làm nương, cắt cỏ, địu nước,

chịu kiếp sống đơn độc, khổ ải. Những tia hi vọng về một cuộc sống mới lóe lên với

chị rồi lại vụt tắt. Khi chị và Pao yêu nhau với những giờ phút thăng hoa tuyệt vời

cùng tình yêu bên bờ sông Chảy trong đêm trăng thần tiên, Seo Cả mới thấy mình

được sống cuộc đời thực của chính mình. Hạnh phúc khiến chị cảm thấy trẻ lại và

như “bứt ra khỏi cuộc sống chuyên cần cực nhọc, chị bừng dậy như đất đai màu mỡ

vừa mới khai sinh” [14, tr. 167]. Chị thấy như hạnh phúc đang ở trước mặt, có thể

cầm nắm cùng niềm tin tưởng và hi vọng “sắp được giải thoát khỏi kiếp sống gầu

phàng trong cái tù ngục tự nguyện này rồi”, khi người yêu chị đến “nắm tay chị, đưa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chị đi… Anh sẽ dẫn chị về nhà, đi lối cửa chính” [14, tr. 99].

Hạnh phúc với người phụ nữ H‟mông dưới chế độ phong kiến miền núi thật

mong manh, dễ vỡ. “Số phận sao cay nghiệt với chị thế… tưởng tránh được miệng

cọp dữ, giờ lại rơi vào miệng hổ ác” [14, tr. 279] khi người bỏ xấp bạc ra chuộc Seo

Cả lại là Giàng A Lử, anh trai Pao, trùm thổ phỉ tại Can Chư Sủ khi chị đang mang

trong mình giọt máu cùng tình yêu của Pao. Nỗi đau đớn khủng khiếp cùng sự giày

vò khiến chị như người “đã chết rồi, đây là người khác trùng tên Seo Cả với chị

thôi… mệt mỏi yếu đuối… dửng dưng, không thèm muốn, chẳng chối từ. Chân duỗi

song song, chị ngồi tựa lưng vào cây cột cái, tóc tai bơ phờ. Mặt chị dài dại, mắt chị

lạc thần sắc. Chị chẳng hay biết gì xung quanh” [14, tr. 279]. Seo Cả xinh tươi,

mạnh mẽ, tha thiết giờ đây “chập chờn, dật dờ như ngọn cỏ lắt lay trong gió, như

chim chào mào đậu trên ngọn lau non” [14, tr. 281].

Đêm chấn động hôm cưới qua đi. Lử đã bỏ tiền ra cưới chị về, chị là con ma

trong nhà Lử rồi, chị thuộc về nó. Chị trở lại phận đàn bà, là “một người đàn bà lầm

lụi, không nói không cười, chỉ có một việc là làm, làm như con trâu, con ngựa” [14,

tr. 327]. Cái lí người H‟mông từ xưa vẫn thế. Chị vẫn là vợ Lử - kẻ thù của dân làng.

Chị trở thành cái điểm để người ta trút oán hận. Người ta coi chị như là vợ con hổ dữ

rồi. Sự mặc cảm và hoàn cảnh éo le khiến chị đứng ngoài tất cả những phong trào của

dân làng trong phong trào tiễu phỉ. Cả ngày lẫn đêm chị là cái bóng ma câm lặng, chỉ

khi đi qua trụ sở ủy ban, nơi Pao làm việc, chị mới sực trở lại làm người. “Chị khóc

từ đó tới bờ sông Chảy rồi lại khóc từ bờ sông Chảy khóc lên. Nước trong ống xớt ra

cùng nước mắt làm đẫm hai vai áo chị” [14, tr. 327]. Pao đau một thì chị đau mười

mà khoảng cách ngày càng xa, không thể nói thành lời.

Nỗi đau chồng chất nỗi đau, chị bị thằng Lử đánh trụy thai. Ba ngày chị lịm trong

máu nhưng chị không chết. Chị chập chờn giữa địa ngục và trần gian, “cái sống không

muốn nhận mà cái chết cũng chưa muốn thu chị” đi [14, tr. 359]. Mọi người xa lánh chị.

Đau đớn quá. Chị thấy mình bơ vơ đứng giữa hai bên, bên nào cũng khinh miệt, ghét bỏ

chị. Chị cảm giác như chẳng bao giờ mình được sống bình yên nữa. Chị được cứu sống

sau lần bị Lử đánh trụy thai, nhưng “chị lại sống vất vưởng như bóng ma. Thể xác chị

tiều tụy. Lòng chị tả tơi” [14, tr. 416]. Nhưng sức mạnh tinh thần tiềm tàng trong tâm hồn

người phụ nữ vùng cao đã giúp chị vượt qua tất cả. Chị đã mạnh dạn vượt qua nỗi đau,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

sự mặc cảm đứng về phía cách mạng với những hành động thiết thực.

Cách mạng thành công, cuộc đấu tranh tiễu phỉ tại Can Chư Sủ và các nơi khác

trên mảnh đất Lao Kay đã giành thắng lợi. Những kẻ hung hăng cuối cùng như Lử,

Châu Quán Lồ đều bị tiêu diệt. Làng bản, núi đồi, lòng người êm ả. Niềm vui đã trải,

nỗi đau đã từng, với bao nhiêu việc phải làm nhưng mới mẻ và sâu xa khác thường.

Pao và Seo Cả nhận ra nhau sau bao tháng ngày đau khổ, mất mát, tủi hờn. “Nàng

đứng đợi anh, trên cõi trần này, dưới gốc thông, cùng với một con ngựa vàng” [14, tr.

514]. Hình ảnh thật đẹp và yên bình. Cảnh đời thực mà như mơ, bình lặng vô cùng,

cả hai không nói một lời, muốn giữ mãi chiều sâu im lặng của niềm hạnh phúc chỉ có

thể cảm nhận được bằng con tim, bên hương thơm mộc mạc, đậm nồng của cỏ ngải

xanh dưới làn mưa xuân.

Qua khảo sát các tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ, chúng tôi nhận thấy cốt

truyện trong Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải của Ma Văn Kháng, Rừng động

của Mạc Phi, Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ, Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam

không thuần nhất, đơn tuyến mà luôn có sự pha trộn giữa yếu tố đời tư và yếu tố lịch

sử. Việc phân thành hai kiểu loại cốt truyện gắn với sự kiện lịch sử và cốt truyện gắn

với sự kiện đời tư cũng chỉ là tương đối. Bởi trong cốt truyện lịch sử, người đọc vẫn

bắt gặp yếu tố đời tư và trong kiểu cốt truyện đời tư người đọc vẫn cảm nhận những

chi tiết, dấu ấn của lịch sử, dù mờ nhạt. Điều này cho thấy sự hoà nhập của nhà tiểu

thuyết trong dòng chảy của văn học đương đại, cốt truyện mở rộng hơn, không gò bó

hay khuôn mẫu vào một loại hình cụ thể nào. Nó cũng tạo cho nhà văn có thể mở

rộng biên độ phản ánh hiện thực thêm đa dạng, phong phú và đa chiều.

3.1.2. Yếu tố ngoài cốt truyện

Trong tác phẩm tự sự, ngoài cốt truyện - hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức

theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan

trọng nhất trong hình thức của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch, thì yếu

tố ngoài cốt truyện đã góp phần đáng kể vào việc soi sáng thêm chủ đề và tư tưởng

của tác phẩm, bộc lộ những quan điểm, thái độ của tác giả, giúp cho người đọc tiếp

cận sâu hơn hệ thống tính cách, tăng cường sức hấp dẫn của cốt truyện.

Theo định nghĩa của tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì yếu tố ngoài cốt

truyện là “chi tiết, bộ phận thuộc nội dung của tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự,

nằm ngoài hệ thống sự kiện tạo thành cốt truyện” [5, tr. 433]. Theo các tác giả những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

yếu tố ngoài cốt truyện thường gặp trong tác phẩm văn học là “những đoạn kể lại chi

tiết lịch sử, địa lí,... có vị trí tương đối độc lập, ít liên hệ trực tiếp với hệ thống tính

cách của cốt truyện”, “những bức tranh thiên nhiên giàu giá trị tạo hình, giữ vị trí

tương đối độc lập và có sức mạnh hỗ trợ cho cốt truyện”, “những mẩu chuyện bổ sung

cho cốt truyện chính của tác phẩm” [5, tr. 433]. Trong cuốn Lí luận văn học do Hà

Minh Đức chủ biên thì yếu tố ngoài cốt truyện là: “lời nói đầu và lời nói cuối của tác giả,

những đoạn bình luận trữ tình ngoại đề, những đoạn phụ đề, những bức tranh phong

cảnh,…” [3, tr. 144]. Qua các ý kiến ta thấy yếu tố ngoài cốt truyện rất đa dạng, phong

phú nhưng đều hướng tới mục đích làm sáng tỏ cho cốt truyện chính của tác phẩm.

Trong các tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải của Ma Văn

Kháng, Rừng động của Mạc Phi, Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ và Thổ phỉ

của Đoàn Hữu Nam, bên cạnh cốt truyện lịch sử và cốt truyện đời tư thì yếu tố ngoài

cốt truyện cũng được các tác giả sử dụng khá đắc dụng giúp cốt truyện chính được

bộc lộ và chủ đề tư tưởng của tác giả được thể hiện một cách toàn diện. Đó là những

câu chuyện kể đan xen mạch truyện chính như chuyện vua kiến nổi giận, truyền

thuyết về hổ trong mùa sinh nở, miêu tả loài rắn và vòi rồng đầy ma mị… (Thổ phỉ);

những lời hát rang, hát thường (Hoa hậu xứ Mường); những câu hát chào sàn, hạn

khuống trên sàn, những câu chuyện cổ tích của đồng bào dân tộc Thái… (Rừng

động) cùng những đoạn văn tả phong cảnh giàu sức tạo hình, những đoạn kể về lịch

sử, địa lí,… Đều có tác dụng hỗ trợ và làm sáng tỏ cốt truyện chính của các tác phẩm.

Câu chuyện về nàng ả Trắng (Hoa hậu xứ Mường) con nhà lang mường Trắng,

đẹp người đẹp nết, luôn “gần gũi dân mường, biết thương người phiên, người hầu,

thương nhà giá góa nóc trọi. Mùa cấy, mùa gặt nàng thường ra đồng cùng làm lụng

với dân mường” [44, tr. 449]. Nàng yêu chàng Khú, con vua Khú (giống rồng, giống

rắn) dưới sông Trắng nhưng nhà lang không bằng lòng gả, ép buộc nàng lấy con nhà

ông Cun, ông đạo khác. Nhà lang lập mưu chia rẽ tình yêu của nàng và chàng Khú.

Hai người tìm cách chạy trốn lên đỉnh núi. Từ đó, trong dân gian chỉ thấy hình tích

của nàng đọng lại trên đỉnh núi: “Cứ chiều chiều, nhìn lên đỉnh núi, người ta lại thấy

nàng ả Trắng mặc áo trắng, váy trắng, khăn bịt đầu trắng, cưỡi ngựa trắng đang phi

lên đỉnh núi xanh cây” [44, tr. 451]. Câu chuyện truyền thuyết về chùa thờ nàng ả

Trắng giúp chúng ta thấy rõ hơn cuộc sống dưới chế độ nhà lang hà khắc, tàn bạo.

Người dân Mường sợ lang hơn cả sợ vua trời. Nhất cử nhất động đều phải tuân theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

luật lệ nhà lang. Họ không có quyền sống cho riêng mình, đặc biệt là số phận những

người phụ nữ như mế Chởn, mế Ngừi - đều bị lang ép buộc, bức hại có thai, phải tìm

nơi rừng thiêng nước độc, tận cùng của rừng thẳm để sinh con, chấp nhận sự dè bỉu,

chê bai của dòng họ, xóm làng. Không chỉ những người phụ nữ thường dân mà những

nàng ả, con gái nhà lang cũng vậy. Các nàng ả có một cuộc sống vật chất đầy đủ,

được hầu hạ phục dịch nhưng trong chuyện hôn nhân đều phải tuân theo sự sắp đặt,

bố trí của lang. Những cuộc hôn nhân đó có thể vì mục đích kết thân giữa các nhà

lang hoặc vì mục đích kinh tế. Đặc biệt, con gái nhà lang không bao giờ được phép có

tình cảm và kết hôn với dân thường. Nếu dân thường phạm vào quy định đó là phạm

tội chết. Qua câu chuyện, giúp người đọc nhận thấy, dưới chế độ nhà lang, thân phận

người phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi thật đau đớn, tủi nhục, không có quyền quyết

định cuộc sống của mình, không có tình yêu tự do.

Cùng là cảnh rừng núi, nhưng là cảnh “rừng rú” của Đoàn Hữu Nam trong

Thổ phỉ: Vừa âm u, hoang dã, cũ kĩ, mòn mỏi vừa lung linh, sáng rỡ, đẹp huyền hoặc.

Nếu chỉ có thế thì Thổ phỉ sẽ trở thành cuốn sách khảo cứu, hoặc miêu tả phong cảnh

núi rừng, phong tục tập quán, lối sống của người Dao. Những hang đá tối tăm cùng

vòi rồng gây tai họa khủng khiếp và bầy rắn độc ma mị “phía chân trời phía tây cả

một biển mây đen ùn ùn đùn lên che lấp. Từ trong biển mây đó những cái lưỡi thần

sét loằng ngoằng như lưỡi rắn bổ xuống núi, xuống rừng. Một chiếc vòi màu xám

khổng lồ bỗng vốc vọt lên cao để lại một khoảng hẫng rồi bất ngờ chụp xuống. Cây

cối, thú vật, nước, cá, bùn đất từ trong rừng, ruộng, sông, suối được cái vòi cuốn tròn

rồi theo vòng xoáy của nó tạo nên cái vòi rồng khổng lồ”. Trước tai họa khủng khiếp

đó: “Cả rừng, cả bản chết lặng. Hổ gầm ngoài ngõ, chó cụp đuôi chui vào gầm sàn

run rẩy, gà tao tác bay nhả khắp nơi, con người nhanh chân tìm chố thoát thân cho

mình” [21, tr. 129]. Qua ngòi bút miêu tả của nhà văn, chúng ta thấy thiên nhiên miền

núi thật khắc nghiệt, chứa đựng nhiều nỗi hiểm nguy, đe dọa và là nơi đầy thử thách

với con người. Không chỉ có vậy, bất thường của ngoại cảnh thiên nhiên còn là dự

báo tai họa khủng khiếp với cuộc đời nhân vật Pham. Nơi có thể tránh được tai họa

khủng khiếp của thiên nhiên cũng là nơi cô phải trải qua tai họa trong sự tội lỗi ghê

tởm, kinh hoàng.

Không chỉ có vậy, Đoàn Hữu Nam còn rất am hiểu truyền thuyết của người

Dao khi kể về việc cư dân núi Hoàng Liên đã hai lần đánh thức vua kiến. Kiến là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

“thống soái, là ông giời của tất cả các loài sinh sống trong rừng” [21, tr. 66]. Trận

loạn hổ diễn ra khi “một đàn hổ dữ từ phía mặt trời lặn xâm phạm lãnh địa của các

loài ăn thịt dưới chân núi Hoàng Liên”. Cuộc tranh giành sự sống “khắc nghiệt, dai

dẳng hết đời này sang đời khác song chưa hề có sự tuyệt diệt”. Trận loạn hổ diễn ra

ngày càng quyết liệt, không phân thắng bại, ảnh hưởng đến muôn loài trong đó có

cuộc sống của loài kiến. Khi nghe tiếng gầm của hổ dữ “thần núi, thần rừng bạt vía,

kẻ chui sâu vào lòng đất, cứt đùn khắp mặt đất như bãi biển ban sáng, kẻ bay vút lên

giời cao, nước đái phọt ra rơi xuống như giời đang đổ mưa” [21, tr. 67]. Vua kiến

đứng ra dẫn đầu đội quân trừng phạt với kiến tướng, kiến quân, kiến nâu, kiến thợ,

kiến đất, kiến đỏ,… Tất cả tỏ rõ sức mạnh của mình “bằng sự hung tợn, bằng số

đông”, “đi đến đâu, quét đến đó”. Khắp vùng vang động “những âm thanh giết, chết.

Khắp vùng, cây đổ, cây trụi lá; hươu, nai, dê, hoẵng,… vừa kêu la tuyệt vọng, vừa

chạy nhảy như động cỡn” [21, tr. 68]. Sau một buổi “đàn hổ không còn, những con

vật biết cựa quậy không còn, rừng núi rã rời, tan hoang để rồi mãi mãi trở thành

những vùng đất chết” [21, tr. 69].

Sau trận loạn hổ đến loạn người. Chúa bản Nà Lùng mẫu thuẫn đốt nhà giết

người của chúa bản đất Tả Chải. Hai bản tàn sát lẫn nhau “đá chạm đá, lửa chạm lửa,

chết chóc, đau đớn, thù hận làm cho trời rùng mình tối sầm, đất rùng mình đất sụt,

cây cối rùng mình lật gốc, trốc ngọn”, ảnh hưởng đến sự sống của loài kiến. Lại một

lần nữa vua kiến chỉ huy thần dân “xông vào khói lửa đòi lại sự yên ổn” [21, tr. 69].

Trước sự tấn công của vua kiến cùng đàn đàn lũ lũ thần dân thì “những cái đầu u mê

chứa đầy thù hận đang bàn mưu tính kế bên bếp lửa không còn mẩu thịt bám vào

xương… những cây cột cái, cột quân, xà dọc, xà ngang, rui mè, phên vách, mái lợp bị

gặm rỗng. Ngôi nhà đổ sụp đổ xuống, bếp lửa bùng lên, xác kiến, xác người, xác

động vật, cây cối, phân gio bốc lên khét lẹt, gây như nướng cả rừng người, cả hai

bản bị xóa sổ từ vết máu đến ống xương mà vẫn chưa thỏa mãn những hàm răng đói

khát của những đàn kiến” [21, tr. 70].

Phải chăng, trận hỗn chiến tương tàn của loài vật đưa rừng núi trở về thời kì

nguyên thủy hoang tàn, chết chóc như lời tiên tri, như điềm dự báo tương lai của con

người: nếu không hòa thuận với thiên nhiên, tàn phá hủy hoại sinh vật cây cỏ sẽ phải

gánh chịu hậu quả. Tất cả vừa hoang dã, phong phú vừa lãng mạn, sinh động. Nhà văn

Đoàn Hữu Nam đã tạo ra những yếu tố ngoài cốt truyện ấy để xây dựng một không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

gian nghệ thuật đặc sắc cho các nhân vật hoạt động, bộc lộ tính cách. Trong đó, có một

loại nhân vật đặc biệt là thổ phỉ, chỉ có thể bị quăng vào không gian nghệ thuật ấy thì

mới ra hồn thổ phỉ. Một không gian nghệ thuật đặc sắc, không gian khác biệt ấy tất yếu

sẽ sinh ra, nuôi dưỡng tính cách con người và tạo ra các nhân vật khác biệt.

Trong Hoa hậu xứ Mường, bên cạnh những đường hoa văn cạp váy tinh tế,

giàu giá trị văn hóa tinh thần, những áng mo thấm đẫm tình người, tình đời, Phượng

Vũ chú ý miêu tả những lời hát thường, hát rang cất lên say đắm trong đêm đầu lồng

trăng (khoảng từ ngày 11 đến ngay 20 mỗi tháng) của đồng bào dân Mường mỗi khi

có việc vui hay nhân dịp Tết cơm mới hay Tết đầu năm. Thường rang là tên gọi có

tính cặp đôi (có nơi gọi là xường, rang). Đó là một thể loại của dân ca Mường, mang

phong cách tự sự, kể lể, được phổ cập trong quần chúng lao động qua ngôn ngữ trong

sáng, gần gũi với cuộc sống lao động hàng ngày. Là tiếng hát, lời tâm tình của nhân

dân, là hát đối đáp trao duyên giữa hai bên nam nữ. Trong buổi hát đối đáp, những lời

thường của con gái cất lên:

Thương thiết hỡi lại thương nồng

Thương công đồng năm vui tháng tốt

Hôm nay mười cây ngày tốt

Một mọc ngày lành

Ai nát xống áo rách

Đến mường ta sẽ lành.

Đáp lại những lời thường của người con gái là lời thường của người con trai:

Thương thương, thương nồng

Thương công ở đầu dây cúc áo

Ta cầu lúa cho lúa đơm bông

Một gốc bông được chín mười giỏ

Một gốc lúa được chín mười gánh

Một gốc xiên ngang được trăm tổ khoái

Một gốc để xoãi được trăm tổ ong

Một cây long bong nên cột nhà xẻ tám. [44, tr. 152]…..

Những lời hát tập thể trong không gian rộng lớn giúp họ bộc lộ những tâm tư

tình cảm, cùng mơ ước về một tương lai tươi sáng, khi Việt Minh đã lãnh đạo nhân

dân khắp nơi giành chính quyền, không còn thế lực nào áp bức nhân dân nữa. Đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

mới đã đến: “Lang đạo cũng không áp bức được nhân dân ta nữa. Người các mường

từ nay không phải làm ruộng xâu ruộng nõ cho lang nữa” [44, tr. 149]. Điều đó cho

thấy tập quán, lối sống và những giá trị tinh thần của người dân tộc thiểu số luôn

được gìn giữ, bảo tồn, kể cả trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt của cuộc chiến đấu

giành với các thế lực phản động.

Nhà văn Ma Văn Kháng đã có khoảng thời gian dài sinh sống và làm việc trên

mảnh đất Lào Cai. Nhờ vậy, ông có một vốn sống phong phú về mảnh đất rẻo cao

nhiều hấp dẫn này. Tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải nói về cuộc

đấu tranh tiễu phỉ của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi. Tác phẩm là những trang

viết về những số phận, cảnh đời đau khổ, những âm mưu đen tối, những hành động

đồi bại của kẻ phản loạn, những tấm lòng nhân hậu, biết yêu thương, những người

con kiên trung, ưu tú của làng bản vững vàng chiến đấu với kẻ ác, đem lại cuộc sống

yên vui cho mọi người, cho làng bản, quê hương Lào Cai. Bên cạnh đó cũng có

những khoảnh khắc mà ngòi bút tác giả lướt nhẹ, thu lại trên trang giấy những bức

tranh thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt thú vị của nơi núi non trùng điệp này.

Mặc chiến tranh loạn lạc, lòng người phân tán. Mặc tất cả những biến động

đang từng giờ từng phút diễn ra với cuộc sống con người, mùa xuân theo sự tuần

hoàn của tạo hóa, trời đất, với tất cả sức mạnh màu nhiệm và kì lạ của nó, vẫn êm ả

trở về hiện hữu trên làng Mèo Can Chư Sủ và khắp mọi nơi trên mảnh đất Lào Cai.

Tác giả đã miêu tả: “Én lại về tha rác luyện với nước dãi làm những cái tổ xinh xinh

trên vốc hầu đầu hồi mỗi nhà. Ở những đám cỏ sương muối đốt cháy hoen hoen màu

gỉ sắt, mầm cỏ non nhỏ bằng cái đầu tăm đã lấm chấm nảy, xanh rượi, trẻ trung. Mặt

ruộng trống hơ trống hoải, sau ngày gặt mùa, ngày nào còn đóng băng, láng phẳng

như lát kính, nay chỉ còn âm ẩm và những chồi cây khúc đã bật dậy khỏe mạnh như

những cái mầm đá. [13, tr. 480]…. “Mùa xuân hào hứng từng ngọn cây. Lá xanh

chưa mở con mắt, nhưng những cành đào khẳng kheo, xám mốc suốt cả mùa đông,

nhạy cảm với tiết xuân, lại đã bật lên những nụ hoa, thoạt đầu chỉ như cái chấm nhỏ

rồi ngày qua bụ dần, mòng mọng, hồng hồng” [13, tr. 481].

Một bức tranh giản dị nhưng trù phú, yên ả biết bao. Trong chiến tranh loạn lạc

và cuộc sống chìm trong sự lạc hậu cố hữu lâu đời với bao tập tục rườm ra khó bỏ, cái

khoảnh khắc yên bình, tươi trẻ với bao âm thanh, hình ảnh, màu sắc của đất trời khi

xuân sang thật đẹp đẽ. Lòng người hân hoan, dù nghèo cũng đủ những lễ nghi chào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đón. Xuân về tươi đẹp, lòng người tạm gác lại những lo âu, tính toán để sum họp cùng

gia đình, làng bản. Những mầm non đang cựa mình sinh sôi trong lòng đất, vạn vật như

hứa hẹn kết quả tất thắng của cuộc đấu tranh giành cái thiện của những người con trên

quê hương Can Chư Sủ và khắp các nơi trên mảnh đất Lào Cai kiên cường, anh dũng.

Như vậy, chúng ta thấy bên cạnh yếu tố cốt truyện thì những yếu tố ngoài cốt

truyện được các nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Đoàn Hữu Nam và Phượng Vũ sử

dụng trong tác phẩm của mình. Nó giúp cho cốt truyện chính bộc lộ rõ nét và góp

phần thể hiện được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn

khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận

thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào

đó của hiện thực. “Miêu tả con người, đó chính là việc xây dựng nhân vật của nhà

văn” [3, tr. 126]. Nghệ thuật xây dựng nhân vật là những thủ pháp miêu tả, khắc họa

những con người với đầy đủ chân dung, tính cách và số phận. Nhà văn huy động tất

cả những hiểu biết và khả năng từ nắm bắt sinh lí đến tâm lí, tình cảm của con người

và những hiểu biết về những mối quan hệ xã hội để tạo nên những nhân vật sống

động và chân thực. Từ đó, mỗi nhân vật không chỉ dừng lại ở mức độ là hiện tượng

văn học, mà nó còn tạo ra cảm giác của một con người thực.

Qua khảo sát các tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải (Ma Văn

Kháng), hai tập Rừng động (Mạc Phi), Hoa hậu xứ Mường (Phượng Vũ) và Thổ phỉ

(Đoàn Hữu Nam), chúng tôi thấy rằng các tác giả đã rất thành công với nghệ thuật

xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của mình. Thông qua việc khắc họa nhân vật từ

góc độ ngoại hình, tính cách, tâm lí để xây dựng các nhân vật, các tác giả đã tạo nên

một thế giới nhân vật đặc sắc, sinh động và đa dạng, phong phú.

3.2.1. Khắc họa nhân vật qua miêu tả ngoại hình

Các tác giả trong cuốn Lí luận văn học cho rằng: “Miêu tả là biện pháp nghệ

thuật giúp nhà văn làm hiện lên một cách cụ thể, dựng lên trước mắt người đọc một

cách sinh động sự việc, cảnh vật, con người trong khung cảnh và thời điểm nhất

định” [18, tr. 133]. Ngoại hình là một trong những phương diện cơ bản để khắc họa

nhân vật. Đó chính là đặc điểm riêng rất ổn định, giúp ta phân biệt người này với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

người khác. Qua việc miêu tả nhân vật, nhà văn có thể khơi gợi cho người đọc những

liên tưởng chính xác về một con người, một thực tế tồn tại giữa cuộc đời. Đối với

người viết, việc miêu tả ngoại hình nhân vật không đơn thuần là vẽ lên trước mắt

người đọc một con người xơ cứng, đơn giản mà dựng lên chân dung một con người

chân thực, một cá thể sinh động, hấp dẫn thể hiện được quan niệm, tư duy nghệ thuật

của tác giả ở trong đó. Trong tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải (Ma

Văn Kháng), Rừng động (Mạc Phi), Hoa hậu xứ Mường (Phượng Vũ) và Thổ phỉ

(Đoàn Hữu Nam) nhân vật trung tâm được miêu tả ở nhiều góc cạnh khác nhau, mối

quan hệ khác nhau, đặc biệt là những chi tiết đặc trưng cho nét bên ngoài của các

nhân vật như vóc dáng, khuôn mặt, dáng đi đến mái tóc và ánh mắt,… Đó là những

phương diện rất dễ nhận biết ở nhân vật. Khi xây dựng nhân vật, các tác giả luôn chú

ý tới việc khắc họa ngoại hình nhân vật. Bởi một lẽ, ngay từ diện mạo ban đầu, nhân

vật đã gây một sự cảm nhận, một sự chú ý và để lại dấu ấn khó phai nhạt trong lòng

người đọc, đặc biệt là các nhân vật chính diện. Điều dễ nhận thấy trong các tiểu

thuyết này là phần lớn các nhân vật đều có nét tính cách thống nhất với ngoại hình.

Miêu tả ngoại hình nhân vật chính diện, các nhà văn thường sử dụng những

hình ảnh đẹp đẽ, những hình ảnh phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của nhân vật. Hình

ảnh nhân vật Lê Chính (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải), một người cán bộ

cách mạng trẻ tuổi, hăng hái, không ngại hiểm nguy, dành toàn tâm toàn trí cho sự

nghiệp giải phóng đồng bào dân tộc thiểu số khỏi ách thống trị của bọn thổ ty, bọn

Quốc dân đảng và thổ phỉ phản động, độc ác được Ma Văn Kháng miêu tả với nét

ngoại hình: “Cái áo vét vải ka ki rất vừa vó người, khép một bộ ngực nở, khuôn hai

bờ vai nở. Mái tóc cắt ngắn, hất cao trai trẻ. Gương mặt anh rám nắng, hơi cháy lên

hơi đồng đỏ và hai con mắt sáng quắc, tự chủ, sắc sảo, nhưng nheo lại thì đôn hậu,

thấu tình…” [13, tr. 163]. Qua lời nhận xét của lão Lìu: “Chà, con người thật là tráng

kiện, quắc thước, hai mắt sáng như hai cái đèn, tinh mà lại hiền” [13, tr. 59]. Qua vài

nét chấm phá về nhân vật, nhà văn Ma Văn Kháng đã vẽ nên bức chân dung khá đầy

đủ về nhân vật Lê Chính. Đó là một cán bộ mực thước, một người cán bộ lãnh đạo

mang đầy đủ phẩm chất về trí tuệ, tài năng và nhân cách.

Nhân vật Lê Chính được xây dựng theo thủ pháp lí tưởng hóa, thể hiện rõ nét

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chất anh hùng của con người cách mạng. Trong bất kì tình huống nào anh vẫn giữ

được vóc dáng của một con người “ung dung tự chủ”, một con người giản dị trong

cuộc sống đời thường: “Vẫn cái mũ nồi, cái áo vét ka - ki, bên trong một cái áo len

xanh giản dị, bên sườn phình một cái túi dết màu cỏ, nhưng trên ngựa, trông Chính

cao hơn, tươi trẻ hơn” [13, tr. 217]. Trong điều bình thường ấy lại ẩn chứa vẻ gang

thép, sức mạnh ghê gớm của người chiến sĩ cách mạng. Người đọc luôn ấn tượng với

hình ảnh và hành động khi anh kết tội La Văn Đờ: “Chính dừng lại, máu như dồn về,

nóng bừng hai con mắt. Tay giơ cao, chém mạnh vào không khí, như đường kiếm xả

đôi một kẻ thù… Mặt Chính đỏ cháy màu đồng thau. Hai con mắt như xói lửa” [13, tr.

242]. Vẻ đẹp kiêu hùng đó của anh khắc sâu mãi trong tiềm thức viên thổ ty độc ác,

“lần đầu Đờ biết sợ” [13, tr. 267]. Có thể thấy, khi miêu tả nhân vật Lê Chính, nhà

văn Ma Văn Kháng hầu như chỉ tập trung chú ý đến khuôn mặt và đôi mắt. Đôi mắt

ấy biểu hiện nhiều sắc thái tình cảm, tâm trạng và thái độ khác nhau: khi“sáng quắc,

tự chủ, sắc sảo”, khi “sáng như hai cái đèn, tinh mà lại hiền” và có lúc “đỏ cháy màu

đồng thau” với cái nhìn “như xói lửa” trực diện vào kẻ thù. Tất cả đủ để người đọc có

ấn tượng về hình ảnh một người cán bộ cách mạng mạnh mẽ, quả quyết, kiên cường,

dũng cảm trên mặt trận đối đầu với bọn thổ phỉ tàn bạo, khát máu và bọn thổ ty cuồng

vọng, uy danh thanh thế lâu đời.

Bên cạnh nhân vật Lê Chính, nhà văn Ma Văn Kháng trong Đồng bạc trắng

hoa xòe và Vùng biên ải còn tập trung khắc họa nhân vật Pao. Pao, đại diện cho lớp

thanh niên thức tỉnh, giác ngộ và đi theo cách mạng được miêu tả với vẻ đẹp ngoại

hình của một chàng trai H‟mông: “Vóc cao lớn, cân đối, bộ ngực nở, cái cổ rám

nắng, rắn chắc nổi trên cái áo cộc tay màu rêu, cổ vuông”. “Bắp tay nổi múi thịt.

Chân to, bàn chân dày, gai góc phải sợ. Vai rộng tưởng vác tảng đá lớn cũng được”

[13, tr. 78]. Dáng hình Pao toát lên vẻ giản dị, chất phác của người con núi rừng khỏe

mạnh, xốc vác. Khi khác họa hình tượng nhân vật này, nhà văn Ma Văn Kháng chú

tâm miêu tả Pao trong cuộc sống đời thường với cử chỉ, hành động, việc làm khiến

nhân vật hiện lên sống động, chân thực. Pao với những đường cày trong lao động:

“Pao giật cái chạc, con trâu nguây nguẩy cái đuôi, cắm cúi bước. Lưỡi cày xục đất,

đổ nghiêng… Cái bắp cày uốn vòng hình cung như ngực Pao nở, to như bắp tay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Pao”. “Pao cởi cái áo vứt trên mô đá, nhổ nước bọt xoa xoa hai nắm tay cày. Đế cày

trượt êm. Ria lưỡi cày vặn nghiêng xén băng băng rễ cây ngầm. Đất nguyên sơ bốc

mùi ngai ngái… Mặt Pao nhoánh ánh mồ hôi”. “Đường cày mở đất dịch lên cao dần.

Sườn đồi mở toang những luống đất hăm hở. Có tay người động tới, đất đã cựa mình

sinh sôi” [13, tr. 505]. Đất nhất định sẽ ngùn ngụt bốc cao cây ngô, cây lúa như chính

đời Pao qua những tháng ngày ươm hạt đã bắt đầu nảy những lá mầm. Tính tình Pao

trung thực, đôn hậu, thật thà, hiền lành, trong sáng. Tình cảm của anh luôn được thể

hiện trực tiếp, không hề giấu giếm, hờn tủi, uất hận, bực tức… đều được bộc lộ trên

từng nét mặt, cử chỉ: “Pao khóc. Nước mắt uất hận trào lên vành mi, ào ra hốc mắt,

tràn xuống má Pao” [13, tr. 512]. Những nỗi đau mà Pao đã tận mắt thấy, những

cuộc giao tiếp với những chiến sĩ cách mạng đã khiến cái mầm khỏe khoắn, tốt đẹp

có sẵn trong con người Pao phá vỡ lớp vỏ cứng, bật dậy.

Trong Rừng động của Mạc Phi, Am, Khỏ là những cô gái dè dặt, kín đáo. Am:

“... đẹp, hát giỏi, tay chân nhanh nhẹn, khéo léo, cư xử đúng mực và chín chắn. Cô có

khuôn mặt trái xoan lặng lẽ, có vầng trán cao mướt như lụa” [27, tr. 79]. Vẻ đẹp tinh

khôi và khéo léo của một “cô gái đẹp, thông minh, đứng đắn” [28, tr. 493] ấy khi gặp

ánh sáng của cuộc cách mạng tràn đến quê hương Mường Vai heo hút, cô đã thuộc

lớp thanh niên, trong công tác là “cái miệng nói, cái chân đi tay làm thứ hai” [27, tr.

52] của cán bộ phụ trách tại Mường Vai. Miêu tả ngoại hình nhân vật Khỏ, tác giả đã

có những ví von: “Khỏ có đôi môi dày vừa vặn đẹp. Đôi môi cô tươi tắn như vừa cười

xong, mà như cô lại sắp cười nữa. Đôi mắt cô rất lạ! Không đẹp đến mê tơi, nhưng

cứ làm cho người ta phải nao lên, rất muốn đáp lại cô một tiếng, nếu ai có thể đoán

được mắt cô đang hỏi gì. Trên rừng, có con nai có cái nhìn giống thế… Khỏ có đôi

mắt của người đẹp với cái nhìn hỏi của con nai ấy” [27, tr. 229]. Bàn chân hai cô gái

đã đi qua khắp các bản vùng thấp, vùng cao tuyên truyền công tác cách mạng, họp

bàn cùng chị em phụ nữ đứng lên đấu tranh giành quyền lợi. Am là “cô giáo” trong

lớp dạy bộ đội tiếng Thái, là người đứng đầu, tổ chức lớp học chữ quốc ngữ cho bà

con dân bản. Họ là đại diện cho những gì tươi đẹp, thuần khiết, trong sáng và cũng

quả cảm, kiên trung nhất của những người phụ nữ, của những người con nơi núi rừng.

Vẻ đẹp của họ như “một đóa hoa ngọc kết tinh từ trong lòng đá chỉ nở một lần sáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

rực trên đỉnh núi trong suốt cả nghìn năm vạn năm” [28, tr. 493].

Cô bé Đàu (Thổ phỉ) khi còn ngây thơ, trong sáng được khắc hoạ „vô tư, trong

sáng, mũm mĩm như bắp ngô căng sữa.... hai chân sáo lúc nào cũng nhảy tâng tâng,

giọng nói lúc nào cũng nhí nhảnh, hồn nhiên…” [21, tr. 184]. Nhưng sau khi gặp

cảnh bị ba tên phỉ hãm hiếp, giờ chỉ còn là hình ảnh:“Cô giơ hai tay ôm lấy mặt, hai

bàn tay bịt không kín khuôn mặt thành ra hình ảnh múa may quay cuồng của ông

thầy cúng già cứ hiện lên mồn một" [21, tr. 184]. Chỉ bằng hành động "giơ hai tay

ôm lấy mặt", người đọc đã cảm nhận được nỗi đau đớn tủi nhục cả về thể xác và tâm

hồn mà một người con gái phải chịu đựng do tội ác ghê tởm của bọn phỉ gây ra.

Như vậy, có thể thấy miêu tả ngoại hình nhân vật cũng là một cách thể hiện thái

độ rõ ràng của các tác giả với mục đích ca ngợi, tôn vinh những người anh hùng và

những người con tiên phong của núi rừng, quê hương.

Ngược lại với cách miêu tả các nhân vật chính diện, những nhân vật phản diện có

ngoại hình và tính cách xấu xa được nhà văn miêu tả rất cụ thể, sinh động. Đặc điểm

tiêu biểu nhất để nhận dạng kiểu nhân vật này là sự lệch lạc về dáng vẻ và mang

những thói tật xấu xa.

Người đọc chắc hẳn sẽ có ấn tượng đặc biệt về bề ngoài xấu xí, dị dạng của nhân

vật Hem (Rừng động) với đôi mắt “dài dại, đờ đẫn như mắt đứa ngu”, cái “chân

ngắn, bắp vế như bắp chĩnh. Bụng hóp bụng báo. Hai cánh tay dài lờn vờn. Cổ thì cổ

trăn đất chui tọt vào giữa đôi vai bè bè, bắt cái cằm bành bạch hấc lên” [27, tr. 155].

Hình ảnh so sánh giúp người đọc cảm nhận rõ ràng bản chất của một kẻ ngu ngốc,

đần độn, ngờ nghệch, thiên về hành động bản năng, ít suy nghĩ của nhân vật Hem, kẻ

chấp nhận bán mình và trở thành con rối trong tay nhà phìa.

Người đọc cũng khó có thể quên được vẻ ngoài xấu xí, dị dạng của viên thổ ty

Hoàng Văn Chao (Đồng bạc trắng hoa xòe): “Lão già ụt ịt, đầy phệ trong lòng ghế.

Tướng ngũ đoản. Cái mặt ngắn ngủn. Tóc như sơn đen, bị ép cứng trong cái khuôn

khăn xếp, mặt xùi mụn cóc, cổ lỗ, bần tiện. Cái mũi lại nở quá to khiến bộ mặt càng

thêm thô lậu, tầm thường”. Lão có “hai bàn chân to như bị phù nề… thả không tới

đất… lé con mắt ti hí…” [13, tr. 163]. Chỉ mấy đặc điểm đó thôi nhưng đủ khắc họa

chân dung về một thổ ty tham lam, ngu dốt, bất nhân bất nghĩa. Còn thổ ty La Văn

Đờ lại mang một diện mạo khác: “To béo, cao lớn, bệ vệ. Hơn bốn mươi, dáng đứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

khỏe như một cây Pơ-mu lão đại. Mặt tròn, cổ rụt, mắt một mí, thâm trầm, bí hiểm.

Cằm béo núc, hơi sệ, nhẵn thín, không một sợi râu… Dáng người Đờ sinh ra như là

để làm việc lớn” [13, tr. 232]. Ở Đờ chứa đựng sự khôn ngoan của một kẻ có học thức

và mang trong mình phong thái của một kẻ tai to mặt lớn, giương oai trước bàn dân

thiên hạ, từ cử chỉ, trang phục đến giáng điệu. Tuy nhiên, hình dáng ấy không che

giấu được bản chất xấu xa. Ánh mắt, nét mặt của một kẻ chứa đầy tham vọng về

quyền hành, địa vị: “Những ý nghĩ lặn rất sâu, chỉ đôi lúc hiện ra ở cái chau mày, ở

cái nhằn môi, ở tiếng thở hắt ra rất khẽ, và ở cặp mắt chốc chốc lại sáng lên, cặp mắt

quả quyết, tinh khôn, biết nhìn ra những việc cần làm” [13, tr. 233]. Đó là một kẻ đặc

quyền, đặc lợi, mang uy danh của một lãnh chúa, một kẻ thâm trầm, độc địa, giàu

lòng tự ái và đố kị. Hắn là nỗi ám ảnh kinh sợ của nhân dân trong vùng.

Trong giới lang đạo, lang cun đông đảo (Hoa hậu xứ Mường) của Phượng Vũ,

chắc hẳn người đọc không thể quên được hình dạng của lang chu Chiềng Quách Lân:

“Cao lớn, bệ vệ… cái cổ to đầy thịt… hai bàn tay to mẫm đỏ ửng. Khuôn mặt vuông

vức bóng mỡ. Đôi lông mày rậm và cái mũi nhọn hơi khum khum chốc chốc lại giật

giật… Đôi mắt tròn nhỏ như mắt gà” lúc thì “giương to”, lúc thì “lồi ra”. Hình dạng

ấy thấy rõ bản chất đê tiện của một kẻ đại diện cho quyền lực tối cao của giới lang

đạo độc ác, tham lam tàn bạo cùng những âm mưu thâm hiểm, dám làm cả những

việc kinh thiên động địa (lấy em gái nuôi làm vợ, đầu độc em trai vì quyền vị), đặc

biệt là sự dâm dục. Lân đã “ngủ với bao nhiêu gái thanh tân ở khắp mường gần,

mường xa” [44, tr. 18], không nhớ xuể, con rơi con vãi khắp các mường.

Tên trùm thổ phỉ Châu Quán Lồ (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải) tại

Pha Linh hiện lên với dáng người “cao to, bắp thịt nình nịch, ngùn ngụt sinh lực. Cái

áo lanh rộng, cái quần Nhật lưng lửng đầu gối càng tôn cái cơ thể cường tráng, săn

chắc của Lồ. Da mặt Lồ đỏ au. Cái mặt sẽ đẹp, nếu như con mắt trái không chột, sâu

hoắm một kẽ nứt đỏ lòm” [13, tr. 237]. Tính tình hắn “nóng nảy, hung hăng, liều và

giản đơn. Hắn chẳng thích, chẳng quan tâm nghĩ sâu nghĩ xa, vằn vèo. Hắn cũng như

ngựa, bị hích là phi liền, dễ hăng, chóng bị kích động” [13, tr. 270]. Lối sống phóng

túng gần với bản năng tự nhiên, lại được nuôi dưỡng trong một gia tộc còn nặng nề

thói áp chế, gặp nếp sống lính tráng tổng hòa thành nếp sống bợm bãi liều lĩnh, vô độ

và tàn bạo một cách rất thản nhiên. Châu Quán Lồ trở thành tay sai đắc lực cho bọn

thổ ty và thực dân Pháp nhiều tham vọng. Bọn chúng luôn ôm giấc mộng “Một na nủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Mèo trong một tê chơ Mèo” (một quan lớn Mèo trong một nước Mèo).

Có thể nói, nhân vật Châu Quán Lồ là hiện tượng đột phá của Ma Văn Kháng

vào bức bức tường nguyên tắc và công thức xây dựng nhân vật điển hình thuộc phía

“địch” trong văn học trước 1975. Hắn không hoàn toàn thú tính như Giàng A Lử,

Triệu Đại Lộc, không nham hiểm như các quan thầy. Hắn có cá tính phức tạp, dễ đổi

thay, xen kẽ tốt xấu, hay dở, thiện ác. Hắn là kẻ địch duy nhất biết thế nào là những

cảm nhận về tình yêu thật sự trong thế giới quân thù chỉ sống bằng tàn nhẫn. Đặt

trong thế giới tĩnh lặng của hai tuyến địch - ta, tương phản đến triệt để, Châu Quán

Lồ trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt. Có thể nói, đây là nhân vật phức tạp vào bậc nhất

của văn xuôi Ma Văn Kháng trước năm 1985, mà phải tới nhân vật Lý trong Mùa lá

rụng trong vườn, nhà văn mới tiếp nối được.

Lão Lồ Pláy - ông nội Châu Quán Lồ đại diện cho tầng lớp seo phải (thôn

trưởng) cố hữu lâu đời trên rẻo cao. Đó là “một lão già tám mươi sáu tuổi, vẫn khỏe

như gấu ngựa”. Lão hiện lên với hình dạng đặc biệt: “Tóc, lông mày thì bạc trắng.

Mà má cằm vẫn căng, cằm vẫn nhẵn. Râu ria cũng sợ lão, không dám chui ra khỏi

làn da bì bì đến muỗi, ruồi vàng cũng chê”. Nhưng điểm đáng sợ nhất trên con người

ấy vẫn là hai con mắt: “Lúc nó tròn đỏ như mắt hổ, quăng quắc như mắt thú nổi cơn

thèm khát máu người. Lúc nó khim khíp, le lé sắc như hai lưỡi dao nhọn nham hiểm”.

[13, tr. 285]. Hai con mắt đã tố cáo rõ bản chất thú dữ của lão. Những chi tiết dị hình

cho thấy bản chất hùm beo, hung thần của lão. Một lão già bảo thủ với những quan

niệm cổ lỗ, cố chấp, hẹp hòi và ngu muội về dân tộc.

Trong số những kẻ đứng đầu bọn phỉ tại mảnh đất Lào Cai còn có Giàng A Lử.

Lử có em trai là Pao theo Việt Minh từ năm 1945 nhưng Lử hoàn toàn khác cha, khác

em trai hắn. Hắn luôn khoác trên mình “bộ quần áo vải xám may kiểu người Hoa”

cùng đôi giày đen. Cái đầu và bộ mặt hắn được miêu tả mới khủng khiếp làm sao

“Cái đầu cắt hết tóc, trắng ởn, méo mó, hóp vào ở giữa, lồi ra ở phía trán và phình

ra ở sau gáy”. Trông hắn như một hòn đá cuội, nhưng cái đầu thì nhẵn mà mặt lại

lờm xờm lông lá. Hắn để “bộ ria mép đen sì như hai con bọ hung châu đầu vào nhau

ở dưới mũi. Cái trán ngắn có một vệt sẹo ngang đỏ hỏn” [13, tr. 495]. Khi hắn nhếch

mép, để hở ra “những chiếc răng nhọn xám khói thuốc phiện và hai chiếc răng nanh

bịt vàng sáng chóe”. Mặt mũi lúc nào cũng hiện lên sự dữ tợn, quái gở với “mũ Nhật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chom chỏm trên cái đầu trọc méo mó, vệt ria mép đen to như cái bàn chải và cái sẹo

nằm ngang trán to như con giun đất” [13, tr. 552]. Bộ mặt ấy đủ nói về Lử rồi. Hắn dữ

tợn, độc ác tới mức trơ tráo, chai lì và cố chấp. Chỉ bằng một chi tiết miêu tả cuộc ăn

thề của Lử cùng quan tư người Pháp Phô-rô-pông cũng đủ thấy được sự man rợ khủng

khiếp và bản chất thú tính trong con người hắn: “Đặt kịch hai bát rượu sóng sánh

xuống bàn, nhanh nhẹn rút con dao nhọn đeo bên sườn, hắn giơ ngón út lên. Xoẹt!

Máu tứa ra trên đầu ngón tay Lử. Lử cười, hàm răng chuột nhỏ, nhọn hoắt, và chúc

ngón tay ứa máu cho máu nhỏ xuống hai bát rượu” [14, tr. 14]. Hình dạng ấy, tính

cách ấy, Lử trở thành niềm lo sợ, nỗi khiếp đảm và sự hãi hùng cho dân chúng cả vùng.

Còn tên trùm thổ phỉ tại Mường Vai Lù Văn Dẹ (Rừng động) là một nhân vật

với hình dạng đặc biệt: “Hắn bé loắt choắt, cổ ngẳng, cằm nhọn. Trán hắn vừa giô ra

khỏi chân tóc đã bị ngay một vệt mày rậm chặn đứng lại. Dưới đôi mày, núp kín một

đôi mắt lờ đờ khi nhìn thẳng, sắc ánh lên khi liếc ngang” [27, tr. 286]. Chỉ đơn giản

vài chi tiết về ngoại hình cũng thấy rõ bản chất của một kẻ chỉ sống theo bản năng,

không có trái tim, không có suy nghĩ. Một ngoại hình luôn gắn cùng những hành

động độc ác, tàn bạo, lúc nào cũng ẩn hiện như ma chơi. Dẹ là kẻ thù của dân làng,

của quê hương và của chính những người thân trong gia đình hắn.

Có thể thấy, khi đọc các tác phẩm, chúng ta thấy rõ sự phân định rất rõ ta - địch,

tốt - xấu trong thế giới nhân vật của Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ, Đoàn Hữu

Nam. Lối miêu tả ngoại hình nhân vật của các tác giả, đặc biệt là Ma Văn Kháng

mang đậm tính truyền thống, đặc biệt chú ý đến khuôn mặt và ánh mắt, ở cả nhân vật

chính diện và phản diện để nói với người đọc về tính cách, con người nhân vật. Bên

cạnh đó, miêu tả bề ngoài nhân vật cũng là một cách để các nhà văn thể hiện thái độ,

mục đích rõ ràng với từng tuyến nhân vật. Hoặc là ca ngợi, tôn vinh, hoặc là lên án, tố

cáo tội ác. Điều này cũng thể hiện hạn chế của các cây bút. Nhân vật nhiều khi mang

tính công thức, đơn giản.

3.2.3. Khắc họa nhân vật qua miêu tả nội tâm

Khắc họa nhân vật qua miêu tả nội tâm là phương thức các nhà văn sử dụng để

sáng tạo nhân vật. Tùy theo phong cách mà mỗi nhà văn có cách nhìn, khám phá nội

tâm nhân vật dưới những góc độ khác nhau. Nội tâm có thể được miêu tả một cách

trực tiếp qua tâm trạng, nỗi lòng nhân vật, song cũng có thể bộc lộ gián tiếp thông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

qua sự cảm nhận của những người xung quanh.

Bằng kinh nghiệm và tài năng của mình, các nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi,

Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam đã khắc họa những chân dung nhân vật có nội tâm sinh

động, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Nhân vật hiện lên khá rõ nét và để lại ấn tượng

trong lòng độc giả nhờ những suy nghĩ, những diễn biến tâm lí của họ. Có khi nội tâm

nhân vật được bộc lộ qua lời kể của tác giả. Tác giả đã hóa thân vào nhân vật, hiểu

những suy nghĩ của nhân vật và thể hiện một cách tinh tế, sâu sắc đời sống nội tâm

ấy. Những khát khao được sống, được yêu của Pham, của Đàu trong Thổ phỉ…

Những trạng thái vui, buồn, tức giận, yêu thương, căm thù… của nhân vật Pao, Lê

Chính, Seo Cả trong Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải, nhân vật Nậu, Lễ,

Cảnh trong Hoa hậu xứ Mường, Long (Thổ phỉ)… Các nhà văn rất tinh tế trong quá

trình miêu tả những trạng thái cảm xúc, những chuyển biến tâm lý của nhân vật. Tùy

thuộc vào từng nhân vật cũng như bộc lộ trạng thái tình cảm khác nhau mà các nhà

văn sử dụng cách miêu tả khác nhau. Có lúc nhà văn sử dụng cách đi sâu vào tâm lý

nhân vật, nhất là những con người có số phận hẩm hiu, không may mắn, đặc biệt là

phụ nữ dân tộc vùng cao. Họ bị chèn ép bởi áp lực của những luật tục cổ hủ của một

số phong tục tập quán lạc hậu. Ở họ luôn luôn khát khao có một cuộc sống tự do,

hạnh phúc, không bị lệ thuộc, không bị áp lực bởi những luật tục và có những ước mơ

của mình… Thông qua ngòi bút của mình, các nhà văn đã miêu tả diễn biến tâm lý

của những con người này một cách chân thực, phù hợp với tâm lí và tính cách của

con người miền núi.

Triệu Tá Sắn xưng "vua" trở thành thủ lĩnh là một tên đầu sỏ thổ phỉ khét tiếng,

tác oai tác quái, vùng vẫy khắp vùng. Sắn là người Dao, được học, được hiểu biết,

khôn ngoan, lọc lõi trong mọi ý nghĩ, hành động ở vị trí người chỉ huy: “Những kẻ

theo hắn, sống chết vì hắn, hắn coi như chân tay, ruột thịt, cùng ăn, cùng ở, cùng

chia sẻ, điều gì không nên làm, hắn không cho làm, nguy hiểm nào thoát được, hắn

cho tìm cách thoát”. Hắn thấy được “sức mạnh của dân chúng… dân chúng ngả về

bên nào bên ấy được. Có dân chúng hắn mới leo được lên đỉnh cao của quyền lực”

[21, tr. 79]. Ý đồ bá chủ luôn thường trực. Là người dân tộc bản xứ, hắn hiểu người

Dao đến tận gốc rễ: nắm phong tục, hiểu sinh hoạt, thạo tiếng nói, thuộc đường đi, rõ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tính người. Hắn đưa ra và thực hiện những chiêu bài, kế sách: “để tránh trộm cướp,

nhũng nhiễu dân chúng, tránh tàn sát lẫn nhau, hắn cho quân, cho tướng tản về mỗi

nhà... Để không dối mình, dối người… hắn cho làm những cuộc ăn thề long trọng, lấy

giời đất đảm bảo cho lời nói của mình… Để nuôi cứng nuôi lực, hắn giao cho các

đầu lĩnh, thổ ty khuấy động dân chúng trồng, buôn bán thuốc phiện, tích trữ tiền

nong, lương thực” [21, tr. 79, 80]. Hắn đau khổ vì chưa thoả mãn vai trò bá chủ. Hắn

lồng lộn tập hợp, lôi kéo, trấn áp ép buộc dân chúng theo hắn: “Không có gì thu hút

con người bằng cách bắt chúng đổ xô vào cái danh, cái lợi.”, “… kẻ ham hố thì hứa

cho quyền lực, tiền bạc, kẻ đói cơm, đói chữ hứa cho cơm áo, học hành, khát tình cho

tự do nam nữ…”. Hắn khôn khéo, lọc lõi và bộc lộ những trăn trở trong việc thu phục

dân chúng: “Ta phải ganh đua độc chiêu dân tộc, tín ngưỡng lên hàng đầu”. Bởi vì

đó là cái “bọn chính quyền đang cố công thực hiện”. Phải học Việt Minh, phải cố

công “giữ lấy những người cùng khổ” [21, tr. 151. Điều cốt yếu trong đường lối của

hắn là: “Lấy nhân nghĩa làm phương tiện, tục lệ làm nền móng, lợi lộc để mua chuộc,

dọa nạt, cảnh báo để lừa lọc” dân chúng, ép buộc họ đứng lên chiến đấu vì tự do, vì

hạnh phúc, vì quyền lợi dân tộc. Trong đầu hắn luôn thường trực suy nghĩ: “Phàm là

người dẫn dắt phải nhớ điều cốt yếu là làm sao cho cả thiên hạ lao theo hướng mình

chỉ” [21, tr. 152].

Hắn không ngừng gây tội ác dã man để đạt được mục đích cá nhân. Hắn là một

con người mà phần con hiện rõ hơn phần người khi cần thoả mãn dục vọng tầm

thường. Hắn cũng là con người gian ngoan biết quên phần con đi để mưu đồ việc lớn.

Triệu Tá Sắn được xây dựng phù hợp với cái nền hiện thực, hoàn cảnh, không gian

nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời rất sát thực với cuộc sống đời thường. Đây là

nhân vật tiêu biểu làm nên sức nặng của tiểu thuyết Thổ phỉ. Sự hiểu biết sâu sắc về

văn hóa - lịch sử - con người cộng với sự kỳ công trong việc xây dựng nhân vật Triệu

Tá Sắn của tác giả chính là yếu tố góp phần quan trọng có tính chất quyết định đối

với tác phẩm và thế giới nhân vật trong Thổ Phỉ.

Dường như bao nhiêu tâm sức của Đoàn Hữu Nam dồn cả vào nhân vật Triệu Tá

Sắn. Con người này được Đoàn Hữu Nam dựng nên bằng hai phương pháp tiểu sử

xen lẫn huyền ảo. Bạn đọc được cung cấp một lai lịch đầy đủ về Triệu Tá Sắn từ khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

còn là giọt máu đỏ hỏn trong bụng mẹ đến khi ra đời, đến tuổi trưởng thành, khi làm

thổ phỉ cho đến những ngày tàn. Bạn đọc cũng được biết đến một Triệu Tá Sắn được

hổ nuôi lớn, luyện được phép thôi miên của loài hổ, có tài hô phong hoán vũ, điều

khiển âm binh... Hai lối viết này hòa quyện vào nhau tạo nên chân dung tên vua phỉ

vừa hư vừa thực, vừa kỳ quái vừa rõ ràng, vừa âm u đáng sợ, vừa có nét dài dại ngây

ngây... Đây là nhân vật với cá tính phức tạp được Đoàn Hữu Nam miêu tả thành công

nhất trong tiểu thuyết Thổ phỉ.

Tuy nhiên, có một điều đáng nói là, tác giả chưa quan tâm đúng mức tới ngôn

ngữ và tính cách của nhân vật, có nghĩa là những yếu tố sự kiện, tình tiết, nhân vật

chưa được triển khai theo mạch cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật, phần độc thoại nội

tâm để nhân vật tự nhận thức về mình và về nhân vật khác còn hạn chế.

Bí thư châu ủy Long (Thổ phỉ) lại được miêu tả bằng bút pháp hiện thực. Long

là người chỉ huy chiến dịch tiễu phỉ tại Phòng Tô, nhưng trước tình thế khó khăn, đặc

biệt là sự nổi loạn, u mê của phần lớn dân chúng theo phỉ, trong anh cũng luôn

thường trực sự lo lắng: “Gây được ngọn lửa thì dễ, nuôi được ngọn lửa, nhất là nuôi

trong lúc gió bão vô cùng khó” [21, tr. 203]. Bao ý nghĩ rộn lên trong đầu khi anh

nhận được thư xin hàng của Hoàng Seo Lùng - Tổng chỉ huy quân đội “Mặt trận

Phòng Tô tự trị”. Thế lực cách mạng lớn mạnh lúc đó thừa sức tiêu diệt những tên phỉ

cuối cùng. Nhưng “với những kẻ bị dồn đến đường cùng, khát vọng tồn tại khiến cho

sức mạnh trong chúng nhân lên gấp nhiều lần có không? Súng chạm súng, lửa chạm

lửa, bắt bọn phỉ gục ngã đến tên cuối cùng và ta cũng phải đổ máu không ít có nên

không?” [21, tr. 506]. Để trả lời cho bao câu hỏi đó, anh đã chọn câu trả lời theo đúng

phương án bọn phỉ yêu cầu - “chỉ một mình ông Long” [21, tr. 502]. Người anh hùng

đó để lại ấn tượng đẹp trong lòng bạn đọc khi một mình một ngựa xuất hiện giữa đại

bản doanh của bọn thổ phỉ giữa rừng sâu. Sự xuất hiện của anh khiến bọn phỉ sau

giây phút ngỡ ngàng đã quỳ xuống vái anh như “cách thức anh hùng hảo hán vái đại

ca” [21, tr. 507]. Có thể thấy, bí thư châu ủy Đoàn Văn Long là một đồng chí thượng

cấp dũng cảm, coi trọng chữ tín và coi trọng việc “thu phục lòng tin” [21, tr. 503]

nhân dân, điều cốt yếu trong cuộc đấu tranh tiễu phỉ.

Người chiến sĩ cách mạng can trường, quả cảm đó khi ở bên cạnh người yêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cũng vô cùng lãng mạn, bay bổng. Điệu chèo Tình thư hạ vị của đồng bào Bắc Bộ

trữ tình, đằm thắm, gửi gắm nỗi lòng và hút hồn người nghe được cất lên qua giọng

hát tha thiết của anh trong đêm trao duyên cùng người cô gái anh yêu giữa những

năm tháng loạn lạc của núi rừng Phòng Tô. Không chỉ có những lời trao duyên,

không chỉ có tiếng hát trao gửi tâm tư tình cảm mà anh còn có những đêm trăng tuyệt

vời của “Cuộc giao hoan đầu đời… dẫu không chiếu hoa ba sải trải, không gối hoa

đặt đầu giường, song mãnh liệt, nồng nàn như nước vào ruộng ải, như than đỏ gặp

gió” [21, tr. 232]. Tất cả làm hiện lên hình ảnh một cán bộ cách mạng nhưng không

công thức, khuôn mẫu mà rất đời thường.

Qua đó, hình ảnh Long hiện lên là con người toàn diện, một chiến sĩ đầy bản

lĩnh, luôn vững vàng trước sóng gió phong ba, là nhân tố then chốt làm nên chiến

thắng của cách mạng. Bên cạnh đó, những chi tiết đời thường gắn kết hài hòa làm nên

con người anh hùng vĩ đại mà bình dị. Một con người không giáo điều khô cứng, mà

sống cuộc sống của một con người bình thường, lãng mạn, hứng khởi. Chỉ đáng tiếc

những mảng miếng này tuy đầy đủ nhưng chưa được tác giả chăm chút nhiều nên sắc

màu còn hơi nhàn nhạt, chưa đậm nét.

Trong Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải với hàng loạt các nhân vật

được xây dựng bằng bút pháp miêu tả nội tâm như Pao, Seo Cả, hố pẩu Giàng Lầu,

cán bộ Lê Chính, họa sĩ Quang Ngọc,… Tất cả hiện lên qua những cung bậc, trạng

thái tình cảm, suy nghĩ khác nhau của mỗi nhân vật.

Nhân vật Lê Chính trong tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải

luôn bộc lộ rõ nét những cung bậc tâm trạng, tình cảm trong những tình huống cụ thể

của cuộc chiến khó khăn, đặc biệt là trước sự lầm đường lạc lối của anh em, đồng chí,

Có lúc Chính đã không kiềm chế được cơn nóng giận. Tác giả đã thể hiện rất rõ nỗi

dằn vặt trong tâm trí anh trước những tình huống ấy: “Chính lặng lẽ đứng bên cửa sổ.

Cơn bàng hoàng chưa tan. Cái tát của anh với Đắc còn lưu mãi dấu vết day dứt trong

anh… Đối với đồng chí xưa nay anh vẫn xử sự đúng đắn… Anh ở thế cấp trên? Hay

sự việc đó chỉ do sự bối rối của anh trước những hiện tượng phức tạp của đời sống”

[13, tr. 346]. Nỗi lòng, tâm tư của anh được bộc lộ qua chiều sâu tâm trạng, giúp

người đọc cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ cách mạng tiên phong,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

kiên cường.

Đứng trên cương vị lãnh đạo, Chính luôn có những băn khoăn về đối sách với

thổ ty: “Tâm trí Chính cuộn lên nao nức những tâm sự, những lo toan. Không ai chọn

hoàn cảnh lịch sử để ra đời. Con người cũng ở trong một khung cảnh, một điều kiện

lịch sử nhất định; Và nó phải chọn lựa, tìm ra một cách sống khôn ngoan thông minh

nhất, trong khi vẫn kiên trì mục đích sống của mình” [13, tr. 449]. Hình ảnh của anh

là hình ảnh của con người mới, đại diện cho giai cấp, cho dân tộc, cho thời đại. Đó là

những con người sống chết cho cộng đồng và kết tinh phẩm chất lao động tốt đẹp,

sáng ngời.

Nhân vật Tao Văn Xương (Rừng động) là người tính tình cương trực, thẳng

thắn, hiểu biết nhiều chuyện đời. Cuộc đời ông gặp nhiều ngang trái: con trai chết,

con gái sắp sửa bị bắt làm thân phận gái xòe, bản thân ông phải ngồi tù thay con, rồi

bắt buộc phải làm người chạy trạm cho nhà phìa. Ông vô cùng đau đớn với bao sự

giằng xé trong sự lựa chọn để cứu con gái mình: “Chao ôi! Việc đời rộng lớn vô

cùng, ngoài việc đời ông ra, còn biết bao việc đời đáng căm giận và đáng sung

sướng… Để cứu con gái, cứu các đời khổ, ông phải nhìn vào đâu mới thấy, phải

mong vào đâu…” [27, tr. 239]. Tâm trạng khổ đau và sự giằng xé trong sự lựa chọn

của ông vẫn tiếp tục dai dẳng: “Giá ông phải chết mà con gái ông thoát được đời gái

xòe? Nhưng ông có chết đến hai lần, chúng nó vẫn cứ bắt con ông đi, và con ông chỉ

càng thêm khổ, cho nên ông phải sống” [27, tr. 229]. Những trang viết thể hiện nội

tâm nhân vật trong Rừng động còn có phần da diết, day dứt hơn hơn trước nỗi đau

của những người phụ nữ bị xã hội cũ chà đạp. Tòng Thị Lả từ khi lọt lòng mẹ đã

mang kiếp “côn hướn” cho nhà phìa. Đời con gái của cô cũng bị phìa cướp mất… Số

phận giúp cô tìm được hạnh phúc, nhưng nỗi ám ảnh trong quá khứ đau đớn luôn

sống lại trong cô. Lả luôn cảm thấy lo sợ ngay cả khi mình hạnh phúc, “không nhớ

đến thì tưởng như đã quên được rồi. Nhưng nhớ đến thì đau đớn tủi nhục lại như núi

đè, lại nhức nhối vết thương đang rỉ máu… Nỗi đau nhường ấy đáng phải thét lên,

chồm dậy, nhớ lại! Mà cứ phải chết im, nhớ lại!...” [27, tr. 131]. Đó là nhịp điệu thời

gian của sự hồi tưởng, của một thân phận con người bị quá nhiều chà đạp, của một

trái tim phải chịu quá nhiều tổn thương, mất mát, đớn đau.

Nhân vật Pao - người con ưu tú trẻ tuổi của núi rừng Can Chư Sủ, thuộc châu Pa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Kha, là một trong số nhân vật chính của hai tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe và

Vùng biên ải. Tác giả đã để cho nhân vật trải qua nhiều thử thách, nhiều cung bậc

tâm trạng khác nhau. Sau mỗi thử thách, nhân vật lại bộc lộ thêm những đức tính tốt

đẹp, để cuối cùng hiện lên hoàn hảo, toàn diện. Pao đã sớm biết chọn con đường đi

đúng đắn cho mình khi bắt gặp ánh sáng cách mạng. Những đau khổ, những oan trái,

mất mát, bị đè nén của đời sống nhân dân quanh mình, ở những nơi anh đã từng đi

qua hay của chính đời mình đã thức tỉnh anh, giúp anh nhận ra, phân biệt cái tốt, cái

xấu, cái ác và quyết định suy nghĩ, hành động. Có thể nói thành công với nhân vật

Pao trong hai tập tiểu thuyết này chính là thành công viết về người Mèo của nhà văn

Ma Văn Kháng.

Pao có đời sống nội tâm phong phú. Quá trình phát triển tâm lí của anh gắn với

bước đường giác ngộ và đến với cách mạng của anh. Pao giàu lòng nhân ái, luôn

mang nỗi buồn day dứt trước những nỗi khổ cực của người thân, dân làng nơi anh

sinh sống, hay chính sự bế tắc trong cuộc đời anh. Nỗi buồn gắn với tâm trạng của

Pao khi anh nhìn về phía ngôi làng thân thuộc của mình: “Làng buồn quá! Mười chín

năm nay, từ lúc bằng quả bí đao tới giờ… sao bỗng thấy làng quen thuộc mà buồn

thế” [13, tr. 189]. Nỗi lòng tự thương của Pao dâng lên khi anh trực tiếp chứng kiến

kiếp nô lệ của những người xung quanh mình: “Chết mất thôi! Đi đâu cũng thấy chết.

Mình đẻ không trúng mùa ông sấm, bố mẹ không đặt trên giường, không đặt bịch

thóc, đi làm thuê, làm mướn khổ đã đành, nhưng người khác sao cũng thế?” [13, tr.

236]. Thương mình rồi thương người, trong anh chất chứa sự dồn nén, cần được giải

tỏa, cần có nhận thức đúng đắn về con đường đi cho mình.

Pao trải qua nhiều thử thách, chứng kiến sự tàn ác, dã man của bọn thổ ty và bọn

thổ phỉ phản động. Pao phải trải qua bao nỗi đau về thể xác cùng tinh thần, vấp phải

sự phản đối quyết liệt của dòng họ, gia đình anh khi anh giữ vai trò là chủ tịch xã,

tiên phong trong phong trào chống thổ phỉ trên quê hương Can Chư Sủ của anh. Anh

phải chứng kiến sự tàn độc, dã man, mất hết tính người của chính anh trai ruột mình.

Con người kiên cường, dũng mãnh, từng nhổ bật gốc cây vông cụt thoát thân, nhảy

xuống vực sâu không chết ấy, có lúc phải chia sẻ nỗi niềm giấu kín với người cán bộ

cách mạng cấp trên: “Pao gục trên hai bàn tay đặt ở bàn. Tóc Pao xõa trên bàn. Bả

vai Pao rung lên từng cơn. Tiếng Pao khóc tức tưởi, xót đau. Bao nhiêu nỗi khổ trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

gan trong ruột theo nước mắt xối ra” [14, tr. 386]. Anh chia sẻ với cán bộ Lê Chính

về nỗi đau thầm kín. Anh không sợ súng, sợ gươm, không sợ chửi, sợ mắng, không

sợ khó khăn, vất vả, hiểm nguy, anh chỉ sợ “… ngày nào cũng như ngày nào, tôi nhìn

thấy cô ấy” [14, tr. 386]. Và Pao được chia sẻ, an ủi. Anh hiểu rằng mình về làng, tận

tụy hết lòng với công việc, không phải vì mối thù riêng, để trả thù riêng. Mối tình với

Seo Cả làm anh tê dại cả cõi lòng nhưng không vì nó mà anh căm uất một cá nhân

nào. Ngược lại, nó giúp anh có thêm nghị lực để sống, để thấy được cái khổ của

những người bị áp bức, để chiến đấu chống lại cái ác để không còn những cái khổ ấy

nữa. Có thể nói, Pao là một trong số “nhân vật được khắc họa có số phận đầy đặn, có

diện mạo rõ ràng” (Nghiêm Đa Văn) trong Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải

của Ma Văn Kháng.

Chúng ta thấy, bên cạnh miêu tả ngoại hình thì thủ pháp miêu tả nội tâm được

các tác giả sử dụng một cách hiệu quả trong việc tái hiện các tính cách khác nhau, các

số phận khác nhau trong mỗi tác phẩm của mình. Thông qua đó, người đọc sẽ hình

dung, cảm nhận một cách đầy đủ, toàn diện về nhân vật.

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ nghệ thuật được hoàn thiện nhờ tài năng lao động của nhà văn. Khác

với ngôn ngữ văn hóa, ngôn ngữ nghệ thuật mang dấu ấn, màu sắc riêng của từng tác

giả, phản ánh nét độc đáo không lặp lại của mỗi nhà văn. Khi các nhà văn sử dụng ngôn

ngữ nghệ thuật, mỗi người lại có khả năng thể hiện một giọng điệu riêng, cách xử lý

riêng tạo nên cá tính sáng tạo, phong cách đặc thù.

Trong các tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ, các tác giả Ma Văn Kháng, Mạc Phi,

Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam đã tạo nên một phong cách riêng khi sử dụng phong phú

nghệ thuật so sánh với ngôn ngữ giàu hình ảnh, chêm xen nhiều thành ngữ, tục ngữ

dân gian theo lối nói của người miền núi trong việc khắc họa chân dung, tính cách các

nhân vật và chuyển tải những ý đồ nghệ thuật trong mỗi tác phẩm.

3.3.1. Sử dụng phổ biến nghệ thuật so sánh

So sánh là thủ pháp nghệ thuật được sử dụng với tần số cao nhất trong sáng tác

của các tác giả là người dân tộc thiểu số như Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Triều Ân, Hlinh

Niê,… Tuy nhiên, thủ pháp so sánh không phải chỉ là sở trường riêng của các tác giả

dân tộc thiểu số mà có thể coi là một thủ pháp đắc dụng của các nhà văn khi viết về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

dân tộc và miền núi.

Mặc dù không phải là người dân tộc thiểu số, nhưng Ma Văn Kháng, Mạc Phi,

Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam đã từng gắn bó nhiều năm ở với đồng bào dân tộc thiểu

số vùng cao. Đồng thời vốn hiểu biết văn hoá, văn học dân gian phong phú đã chắp

cánh cho các sáng tác của các nhà văn thêm bay bổng, lãng mạn, đậm chất miền núi.

Các thủ pháp ví von, so sánh liên tưởng thường được tác giả sử dụng với mật độ lớn.

Tuy nhiên, mỗi tác giả lại có cách sử dụng khác nhau nhằm làm nổi bật ý đồ nghệ

thuật và phong cách riêng của mình.

Trong tiểu thuyết Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam so sánh thường gắn liền với ẩn

dụ và triết lý. Thủ pháp này được nhà văn vận dụng rất triệt để vì nó gần gũi với

ngôn ngữ, lời nói, cách diễn đạt hằng ngày của đồng bào dân tộc, đặc biệt là dân tộc

Dao. So sánh được sử dụng trùng điệp với những hình ảnh độc đáo, tạo ấn tượng sâu

trong lòng người đọc. Ngày Pham được sinh ra, bố Pham lặn lội lên tận đầu con suối

thiêng mang về hai ống bương nước. Từng gáo nước thiêng cùng với lời khẩn cầu của

người cha thấm vào, tan chảy trong da thịt Pham. “Gáo nước này do thần rừng ban

tặng sẽ làm cho da con gái ta như phấn của hoa, như hương của đất” ; “Gáo nước

này là nguồn sữa của thần suối ban cho, nó sẽ làm cho tóc của con gái ta đen như gỗ

mun, chảy dài như dòng chảy của thần.”, “Gáo nước này là ánh trăng soi qua kẽ lá,

nó sẽ làm cho mắt con ta lóng lánh như mắt nai, tinh anh như mắt chồn, trong sáng

như giọt nước mắt sung sướng....”. Lời khẩn cầu của nười cha đã được thỏa nguyện:

“Pham xinh đẹp như người giời. Da dẻ cô mát rượi như da rắn, trắng như vớt ra từ

thùng bột gạo nếp. Đôi mắt cô lúc nào cũng lọc hết bụi bặm, cực nhọc, trong veo như

sương mai. Mái tóc đen mượt thả dài tới khoeo bồng bềnh như dòng suối chảy giữa

rừng thưa. Chạm tuổi mười ba các chàng trai quanh vùng đã bu lấy cô như ong bu

hoa, kiến bu mật.”. [21, tr. 127, 128]

Để khắc hoạ vẻ đẹp rực rỡ trời cho của người con gái miền sơn cước, Đoàn Hữu

Nam đã sử dụng các thủ pháp nghệ thuật so sánh rất độc đáo, gây ấn tượng và mang

đậm bản sắc văn hóa, gần gũi với lối diễn đạt, những tiêu chí về vẻ đẹp của người

Dao. Đó là một vẻ đẹp tự nhiên, ban sơ, phóng khoáng và mạnh mẽ. Để làm toát lên

vẻ đẹp đó, nhà văn đã lựa chọn sử dụng những thủ pháp phù hợp và hiệu quả. Chẳng

hạn, tác giả đã sử dụng trùng điệp giới từ so sánh “như” trong một đoạn văn miêu tả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Đối tượng so sánh rất cũng được chọn lọc rất độc đáo như “phấn của hoa, hương của

đất, gỗ mun, dòng chảy của thần, mắt chồn, giọt nước mắt sung sướng của thần núi

mỗi khi đón ánh bình minh,… người giời, da rắn, sương mai... ”. Trong mắt bạn đọc,

vẻ đẹp của Pham hiện lên rực rỡ, trong sáng như hội tụ khí thiêng đất trời, cỏ cây, hoa

lá, thần sông, thần suối.

Vẻ đẹp của nàng ả Hương (Hoa hậu xứ Mường) cũng được hiện lên qua thủ

pháp so sánh. Một vẻ đẹp kín đáo, tự nhiên mang đậm bản sắc văn hóa và tiêu chí của

người dân tộc Mường: “Khuôn mặt tròn như vầng sáng ngày lồng trăng. Nước da

trắng như nõn chuối và đôi môi đỏ mọng như quả sang chính. Lúc ở trong nhà, nàng

ả thường để vai trần, cái cạp váy con rồng trễ xuống, bộ ngực căng đầy mơn mởn.

Giọng nói của nàng ả cũng dễ ưa, nghe cứ như tiếng chim gâu buổi sớm” [44, tr. 283,

284]. Mạc Phi so sánh ánh mắt của Khỏ “lấp lánh như ánh gương chiều”, vẻ đẹp của

Am với “khuôn mặt trái xoan lặng lẽ, có vầng trán cao mượt như lụa” [27, tr. 353].

Cô bé Đàu (Thổ phỉ) “vô tư, trong sáng, mũm mĩm như bắp ngô căng sữa.... hai chân

sáo lúc nào cũng nhảy tâng tâng, giọng nói lúc nào cũng nhí nhảnh, hồn nhiên…”

[21, tr. 184]. Rõ ràng, để làm nổi bật vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi, các nhà văn

đã sử dụng đắc dụng thủ pháp so sánh, đặc biệt là so sánh với thiên nhiên, đất trời, cỏ

cây hoa lá nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của những thiếu nữ miền sơn cước.

Ngoài ra, còn nhiều so sánh khác mà người đọc dễ dàng nhận thấy trong các

tác phẩm như: “giống như con dao sắc bỏ lẫn trong bụi, không dễ gì nhận ra được”,

“sáng như hòn ngọc, vững yên như hòn đá đánh dấu mường, như tảng núi, như vòm

trời kê vuông bốn góc…”, “thật cứng như súng dao”, “chỉ như hai con người yêu

nhau dặn dò nhau trước khi đi nương”, “thì giờ lúc ấy thật gấp gáp như tia nắng

đang tắt”, “mềm rũ ra như ngọn rau giớn đồ” “chóp núi mờ mờ như người đội nón

chui trong mưa”, “người ta yêu nhau có thể nằm chết bên rừng cỏ lặng xem như sưởi

nắng”… (Rừng động).

Trong các tiểu thuyết Thổ phỉ, Hoa Hậu xứ Mường cũng xuất hiện nhiều hình

ảnh so sánh gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của con người miền núi, như: “Pham sợ

những mùa trăng như cây non sợ lửa” “hơi thở nàng run rẩy như gió sớm mềm mại”,

“như con rùa mượn mai”, “đói khổ làm người ta như con thú hoang” “lúc thức Vương

là con hổ giữa rừng, lúc ngủ Vương như con trăn lười sưởi nắng”, “mạnh mẽ, cứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cáp như cây lim, cây táu… khéo léo mềm mại như con báo tinh khôn… oai hùng như

người anh hùng trong truyện cổ”… (Thổ phỉ). Hay “đôi cánh tay khỏe như cánh

ná”, “bừng lên như nắng tháng năm”, “rạo rực trong người như bị rôm đốt”, “trong

lòng cứ như có tiếng chim hót”, “dệt ra cứ như hoa như gấm”, “đôi mắt nhìn lóng

lánh và sắc như dao bổ mang”, “nụ cười lúc nào cũng tươi như hoa bông giàn nở

trên bờ suối”, “đôi mắt cứ như thương như mến, như hò hẹn những lời mai sau”…

(Hoa hậu xứ Mường).

Hoặc “Tất cả đều như động cỡn, như lên cơn cuồng chấn trước chai rượu đỏ

như tiết…”, “Con lợn rừng to lừng lững, xám như một tảng đá, mép thòi ra hai cái

răng nanh trắng ởn bằng quả chuối”, “cây thuốc phiện non xòe như khóm cải cúc

trên nương”, “dẻo như mây, thoăn thoắt đánh gót đập chân mà thanh thản, thoải mái

như rong chơi”, “xanh lơ núi xếp nếp lớp lớp như phông màn trang trí”… (Đồng

bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải).

Có thể thấy, cách ví von, so sánh, liên tưởng là một trong những thủ pháp được

Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam sử dụng với tần số cao trong

các tiểu thuyết của mình. Đây cũng là một thủ pháp quen thuộc của văn học dân gian,

một cách nói đặc biệt sinh động. Các thủ pháp nghệ thuật này là một thế mạnh của các

nhà văn dân tộc thiểu số và nhà văn viết về đề tài miền núi, nó được chắt lọc từ bề dày

văn hóa dân gian mà họ được thụ hưởng. Các nhà văn đã vận dụng và kế thừa những

nét văn hóa dân gian ấy một cách sáng tạo trong từng trang văn của mình để rồi nó trở

nên sống động, hấp dẫn và mang đậm màu sắc dân gian Dao, Thái, Mường, Mèo,...

3.3.2. Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian của các dân tộc thiểu số

Ngôn ngữ ảnh hưởng của văn học dân tộc dân gian là thứ ngôn ngữ kế thừa một

cách sâu sắc lời ăn tiếng nói của đồng bào các dân tộc thiểu số được kết tinh và

truyền qua nhiều thế hệ. Tất nhiên sự kế thừa đó không phải là sự vay mượn một cách

tuyệt đối, đơn giản, mà là một sự vận dụng có nâng cao sáng tạo. Không chỉ đối với

các nhà văn dân tộc, những tác giả người Kinh đã từng gắn bó cùng đồng bào thiểu

số, đặc biệt là đã từng nghiên cứu văn hóa văn học dân gian dân tộc thiểu số thì vốn

hiểu biết văn hóa, văn học dân gian phong phú đó cũng chắp cánh cho những sáng tác

của họ. Như vậy, tiếp thu văn học dân gian cũng là một đặc trưng quan trọng tạo nên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đặc điểm riêng biệt của bộ phận văn xuôi viết về dân tộc miền núi.

Ma Văn Kháng, Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam và Mạc Phi là các tác giả người

Kinh, nhưng với niềm say mê văn hóa dân gian, các nhà văn đã tiếp cận và nghiên

cứu văn hóa người dân tộc Dao, Mèo, Tày ở Lào Cai, dân tộc Thái Tây Bắc, dân tộc

Mường ở Hòa Bình. Trong số đó có nhà văn từng có những công trình nghiên cứu

văn hóa dân gian. Ví dụ như nhà văn Đoàn Hữu Nam, trước khi viết tiểu thuyết Thổ

phỉ và các kịch bản điện ảnh ông đã hoàn thành 2 công trình nghiên cứu văn hóa dân

gian, đó là công trình Lễ cấp sắc của người Dao đỏ Văn Bàn - Lào Cai, và công

trình Người Phù Lá ở Lùng Phình - Bắc Hà - Lào Cai. Cả hai công trình này đã

được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đánh giá cao, xếp hạng A. Ngoài ra ông còn

có mấy chục bài viết giới thiệu phong tục tập quán các dân tộc Dao, Nùng, Mông,

Phù Lá ở Lào Cai.

Chính vì vậy, người đọc dễ nhận thấy một trong những điểm mạnh ở các tiểu

thuyết viết về đề tài thổ phỉ của nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ và

Đoàn Hữu Nam là các nhà văn đã khai thác triệt để vốn văn hóa văn nghệ dân gian

của các tộc người. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, có rất nhiều thành ngữ

được sử dụng trong tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Rừng động,

Hoa hậu xứ Mường và Thổ phỉ mà không có sự trùng lặp. Rõ ràng đây là một lượng

vốn thành ngữ, tục ngữ rất rộng và quan trọng là các tác giả đã sử dụng nhuần

nhuyễn, thành thạo và có sự sáng tạo nhất định.

Các tác giả đã biết kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa thành ngữ, tục ngữ, triết lý

dân gian và cái lý người dân tộc thiểu số với kiến thức học trong sách vở, học ở trải

nghiệm ngoài đời, đưa vào tiểu thuyết của mình nhiều câu, nhiều đoạn triết lý nhân

sinh với tần suất dầy đặc. Chẳng hạn như, để chỉ sự heo hút, hẻo lánh của một vùng

rừng núi, tác giả Đoàn Hữu Nam viết “Tay vua với tới khó khăn, ngựa quan đi qua

chẳng kịp dừng”. Hoặc khi đề cập đến phong tục tập quán của mỗi vùng đất, tộc

người: “Ở nơi nào có cách thắp hương của nơi ấy”. Khi nói về một con người phản

bội lại dòng họ, bản làng, nhà văn Mạc Phi viết: “Nó ngậm đầy mồm toàn những thứ

chữ nghĩa người ta đánh rơi, còn cái gian dối thì nó đã được nhét đầy một ruột từ lúc

mới đẻ”. Khi nói về sự giàu có của giới lang đạo trong vùng, nhà văn Phượng Vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

viết: “Giàu làng Chèo không bằng nghèo làng Chiềng”. Hoặc nói về cảnh gia đình,

làng mạc li tán, tranh giành, anh em chém giết, làm hại lẫn nhau khi bọn xấu nổi phỉ,

nhà văn Ma Văn Kháng đã viết: “Nỗi khổ này giày vò hơn cả nỗi khổ áo cơm, làm

mòn cả chân tóc, chân râu”. Một trong vài thế mạnh của các nhà văn là khai thác vốn

văn hóa văn nghệ dân gian của các tộc người. Trong lời trần thuật, các thành ngữ

thường xuất hiện khá nhiều. Nó thể hiện kinh nghiệm sống của đồng bào dân tộc

thiểu số. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những thành ngữ, tục ngữ được đề cập đến

nhằm thể hiện nếp sống, nếp nghĩ của người vùng cao. Ví dụ:

Thể hiện đạo đức lối sống, cách đối nhân xử thế trong các mối quan hệ xã hội,

gia đình của dân tộc Thái, Mạc Phi viết: “Người khôn bạc đầu, kẻ hèn bạc gối”, “Chuột

nhà nào khôn bịch thóc nhà ấy”… (Rừng động).

Kinh nghiệm sống của các dân tộc Dao, Thái, Mường lại được đúc kết qua những

bài học bổ ích, quý báu như: “Một người bắc cầu trăm người qua, một người sao sách

trăm người xem”, “Lửa nóng tro nóng, lửa lạnh tro lạnh”, “Ong độc sợ sừng trâu”,

“Khỉ già sợ cành cây khô”… (Thổ phỉ). “Cái may đã vào nhà thì và tất cả các cửa,

cửa nào cũng có cái may vào”, “Ép đá ép đất, chứ đừng ép duyên”, “Muỗi đốt ngà

voi”, “Trêu gấu được sẹo, ghẹo nàng được cùm”, “Gái đẹp hay phải khóc, trai tài hay

phải oan” (Rừng động); “Giàu làng Chèo không bằng nghèo làng Chiềng”… (Hoa

hậu xứ Mường).

Thể hiện tâm lí, tình cảm của con người với con người trong các mối quan hệ và

trong cuộc sống hàng ngày, ví dụ như: “Muôn lời nói ra đều thuận tai, muôn vật làm ra

đều thuận mắt” (Thổ phỉ); “Ngực đắp vỏ chăn sui mới biết thương cái lưng nằm đệm lá

cỏ”, “Vải rách không lành được, da rách thịt rách khác lành”, “Chân đứt tim xót”,

“Đấm ngực thì ngực ho hen, nghiến răng thì sái mất quai hàm”, “Lời nói con người như

nhát gươm chém, gươm dẫu gãy cái sẹo vẫn đấy” (Rừng động); “Vợ chồng đánh nhau

không bỏ được cái giường. Anh em đánh nhau cũng không bỏ được nhau” (Đồng bạc

trắng hoa xòe); “Thà bỏ con bỏ cháu không bỏ phiên sáu chợ Vôi” (Hoa hậu xứ Mường)

Ngoài thành ngữ, tục ngữ, các tác giả còn lồng truyền thuyết vào cốt truyện như

truyền thuyết về nàng Ả Trắng của dân tộc Mường trong tiểu thuyết Hoa hậu xứ

Mường, truyền thuyết về Nàng Han của dân tộc Thái trong Rừng động. Ngoài ra, các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tác giả còn vận dụng văn hóa, văn học dân gian của mỗi dân tộc rất linh hoạt, phù hợp

trong tác phẩm của mình. Những thủ tục nghi lễ và những lời kể mo truyền thống

trong đám tang của người Mường được tác giả Phượng Vũ miêu tả sinh động. Ví dụ

như áng mo “Cơi tếch cơi lìa” (cõi đứt cõi lìa): “Con em để tang bố đủ ba năm ba

tháng/ Con anh, con chị để tang bố đủ ba năm/ Đến tháng bốn mùa hai, ba/ Hết tang

ma làm ăn bên người sống/ Con ta cởi áo trái mặc lại cho lành…/. Những lời hát

thường, hát rang thể hiện những tâm tư, tình cảm kín đáo, sâu nặng của đồng bào dân

tộc Mường thường được tác giả Phượng Vũ vận dụng đạt hiệu quả trong Hoa hậu xứ

Mường. Hoặc hát hạn khuống của dân tộc Thái trong Rừng động của Mạc Phi…

Vận dụng văn hoá, văn học dân gian là việc làm mang tính truyền thống của văn

xuôi miền núi, như truyền thuyết về cô tóc thơm trong Mường Giơn (Tô Hoài),

truyền thuyết về lưỡi gươm ông Tú ở Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), truyện thơ

Sa Dạ, Sa Rồng trong Xứ lạ mường trên (Hoàng Hạc) và vô số thành ngữ, tục ngữ

Tày trong các tiểu thuyết của Vi Hồng... Việc lặn ngụp sâu vào cội nguồn dân tộc

giúp cho tác phẩm có thêm sức nặng tư tưởng, thêm chất trữ tình và đậm đà thêm bản

sắc. Tuy nhiên, nếu những chất liệu ấy không được chuyển hoá thành máu thịt của tác

phẩm mà được cài đặt như một thứ đồ trang sức, phô trương chắc chắn sẽ tạo ra

những hiệu ứng phi thẩm mĩ.

Tiểu kết chƣơng 3

Nghệ thuật trong các tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ của nhà văn Ma Văn

Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam là một trong những phương diện

quan trọng góp phần khẳng định tên tuổi của các nhà văn này. Qua việc khảo sát một

số phương diện nghệ thuật tiêu biểu như cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật,

ngôn ngữ nghệ thuật, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã biết kế thừa di sản của người

đi trước, kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân gian và dân tộc đồng thời có những đóng

góp riêng. Bên cạnh việc sử dụng cốt truyện lịch sử còn có cốt truyện đời tư. Nghệ

thuật xây dựng nhân vật được tác giả nhấn mạnh ở ngoại hình, nội tâm để tạo nên một

thế giới nhân vật phong phú, sinh động, mang đậm những dấu ấn riêng của từng cá

nhân, của từng tuyến nhân vật. Nghệ thuật so sánh, các thành ngữ tục ngữ dân gian

được tác giả kế thừa từ vốn văn hoá dân gian dân tộc thiểu số tạo nên ngôn từ độc

đáo, đầy ấn tượng trong lòng người đọc. Với những phương diện nghệ thuật tiêu biểu

đó, các tác giả đã tạo nên một hiệu ứng hoàn chỉnh cho bức tranh về thổ phỉ ở các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tỉnh miền núi phía Bắc của nước ta.

KẾT LUẬN

1. Trong văn học Việt Nam đương đại có một khoảng riêng của văn học viết

về dân tộc và miền núi. Mặc dù không phải là nhà văn người dân tộc, nhưng với vốn

sống của người từng gắn bó lâu năm với đồng bào dân tộc thiểu số cùng với lòng yêu

mến, trân trọng, mong muốn gìn giữ những giá trị tinh thần của người dân tộc miền

núi, các nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam đã góp vào

khoảng riêng ấy những tác phẩm văn chương với những sắc màu không dễ lẫn. Sắc

màu này tỏa ra không chỉ từ những vấn đề thời sự nóng hổi của miền núi trong cuộc

đấu tranh tiễu phỉ và các thế lực phản cách mạng để bảo vệ cuộc sống hoà bình ấm

no, với thiên nhiên tươi đẹp hay những gam trầm, gam nóng của những phong tục tập

quán độc đáo mà còn từ hệ thống hình tượng nhân vật, cấu trúc ngôn từ, các thủ pháp

nghệ thuật,… Họ là những nhà văn có kinh nghiệm, có tài năng, phản ánh được cuộc

sống và con người các dân tộc thiểu số mang đậm bản sắc văn hóa với ngôn ngữ,

cách xây dựng nhân vật sinh động, đặc sắc và đa dạng. Qua các tiểu thuyết Đồng bạc

trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Rừng động, Hoa hậu xứ Mường, Thổ phỉ chúng ta có

thể thấy tài năng và những đóng góp của các tác giả về đề tài thổ phỉ. Thông qua

những trang tiểu thuyết viết về đề tài này, các tác giả đã tái hiện cuộc sống hiện thực

nhiều đau thương nhưng cũng rất anh dũng, đáng tự hào của cộng đồng các dân tộc

thiểu số phía Bắc như dân tộc Hmông, Thái, Mường, Dao,… Mỗi dân tộc hiện lên với

những con người, nếp nghĩ, phong tục tập quán khác nhau, nhưng họ đều là những

người con yêu quê hương, làng bản, dũng cảm, kiên cường, có lòng căm thù sâu sắc,

nhận thức lí tưởng, giác ngộ cách mạng, đứng lên đấu tranh chống lại cái ác, đem lại

cuộc sống bình yên cho làng bản, quê hương và cho chính mình.

2. Thông qua những tiểu thuyết viết về thổ phỉ của các tác giả Ma Văn Kháng,

Mạc Phi, Phượng Vũ, Đoàn Hữu Nam, người đọc như được tiếp cận với những bản

anh hùng ca chép từ bi kịch lịch sử của mỗi vùng đất, mỗi dân tộc, góp phần làm

phong phú và đa dạng bức tranh văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Tiểu

thuyết viết về đề tài thổ phỉ đã đề cập đến bức tranh hiện thực về cuộc sống và con

người miền núi phía Bắc hết sức sinh động. Đó là một hiện thực lịch sử gắn với một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thời kì đau thương của người dân tộc thiểu số những tỉnh miền núi phía Bắc dưới sự

tàn bạo của bọn thổ ty, phìa tạo, lang đạo và nạn nổi phỉ của những kẻ u tối, ngu dốt,

mê muội dưới sự hà hơi tiếp sức của thực dân Pháp và bọn Tàu Tưởng. Tùy vào mỗi

dân tộc, mỗi vùng đất mà bọn thần quyền, chúa đất có cách cai trị riêng đối với người

dân. Tội ác, những luật lệ hà khắc, những hủ tục, những đặc quyền cố hữu và sự bóc

lột tàn bạo của chế độ phong kiến miền núi trong suốt chiều dài lịch sử đã khiến cuộc

sống nhân dân các dân tộc thiểu số phía Bắc trở nên nghèo đói xơ xác, lạc hậu, chìm

trong tối tăm. Họ luôn sống trong sự sợ hãi, sợ thổ ty, sợ phìa tạo, sợ lang đạo hơn cả

trời, phục dịch bọn chúng quên cả bản thân mình. Sự sống hay chết của người dân tộc

thiểu số phía Bắc trong giai đoạn lịch sử này đều phụ thuộc vào thế lực phong kiến

miền núi. Bên cạnh chế độ cường quyền chúa đất là tội ác của bọn Quốc dân đảng

phản động, chúng ra sức bắt lính, đầy đọa và không ngừng gây thêm thống khổ cho

cuộc sống của người dân vùng núi. Đặc biệt là tội ác của bọn thổ phỉ trong sự cấu kết

với thế lực phong kiến miền núi, dưới sự hà hơi của thực dân Pháp và bọn Tàu Tưởng

được phơi bày đầy tàn khốc, kinh hoàng gây ám ảnh sâu sắc cho người đọc. Những

kẻ ngu muội, u mê, lạc hậu, không hiểu biết, lúc nào cũng mơ tưởng về một thế giới

ảo do bàn tay của bọn phản động vẽ nên đã tập hợp thành tổ chức và cầm vũ khí

chống lại người thân, người cùng dòng tộc trên chính quê hương mình. Cuối cùng,

những kẻ cố hữu, tham vọng, độc ác, đại diện cho một thế lực già nua, cũ kĩ, phản

động và u mê tăm tối đã thất bại. Lịch sử các vùng đất, số phận và cuộc sống của

người dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đã chuyển sang trang mới.

3. Các tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ đưa ta đến với những vùng đất, những

phong tục tập quán thú vị, những vẻ đẹp lấp lánh trong tâm hồn những con người dân

tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong một thời kì đấu tranh kiên cường, oanh liệt. Đọc

các tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ miền núi phía Bắc, không chỉ tìm hiểu những sự

kiện lịch sử, những nhân vật, con người ở mỗi địa danh mà còn đưa chúng ta đến với

những phong tục tập quán của người dân tộc Thái, người Mường, người Hmông và

đặc biệt là người Dao đã để lại một dư vị riêng trong lòng người đọc về ý thức bảo

tồn những giá trị văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Ngòi bút tài hoa của các nhà tiểu

thuyết cũng rất thành công khi tái hiện một thiên nhiên miền núi dữ dội, hoang dại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

với những trận vòi rồng mãnh liệt hay sự nổi giận của những loài vật nhỏ bé tưởng

như rất hiền lành tạo nên những cuộc tương tàn man rợ. Trong nền cảnh ấy, con

người hiện lên với hai đối cực. Một bên là những thổ ty, lang đạo, phìa tạo, bọn Quốc

dân đảng phản động cùng bọn thổ phỉ man rợ, cuồng vọng, khát máu, ngoan cố cùng

nhiều mưu kế thâm hiểm và một bên là những người dân có số phận đau thương

nhưng luôn hướng đến ánh sáng và niềm tin, hướng về cách mạng. Điều mà các nhà

văn trân trọng, ngợi ca chính là ý chí vươn lên số phận, hoàn cảnh và lòng nhân ái

bao dung, biết căm thù cái ác và đấu tranh vì cái thiện của những người con của núi

rừng. Rất nhiều cảm xúc đan xen đối với độc giả khi đọc các thiểu thuyết viết về đề

tài thổ phỉ của các nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam,

nhưng trên hết người đọc vẫn cảm nhận rõ nét niềm yêu mến và tự hào về vùng đất và

con người trên những mảnh đất miền núi mà các tác phẩm đề cập đến.

4. Các tiểu thuyết viết về đề tài thổ phỉ của các nhà văn Ma Văn Kháng, Mạc

Phi, Phượng Vũ và Đoàn Hữu Nam đã có những thành công nhất định trên một số

phương diện nghệ thuật. Cốt truyện của các tiểu thuyết khá truyền thống nhưng

không hề cũ kĩ. Các nhà văn đã sử dụng đan xen cốt truyện gắn với yếu tố lịch sử và

cốt truyện gắn với yếu tố đời tư một cách linh hoạt, khá hấp dẫn. Nghệ thuật xây

dựng nhân vật cũng được nhà văn thể hiện thành công qua những biểu hiện về ngoại

hình và thế giới nội tâm nhân vật. Bên cạnh đó, việc sử dụng phong phú các thành

ngữ, tục ngữ dân gian của các dân tộc thiểu số mang đặc trưng văn hóa, gần gũi với

lời ăn tiếng nói của đồng bào dân tộc cùng lối ví von so sánh đã tạo nên những tác

phẩm riêng biệt, mang đậm cá tính tác giả nhưng cũng thể hiện được điểm chung về

đề tài thổ phỉ. Qua đây, chúng ta có thể khẳng định được vị trí và đóng góp của các

tác giả này cho dòng văn học cách mạng và dòng văn học viết về dân tộc và miền núi.

5. Cũng giống như phần lớn tiểu thuyết viết về đề tài cách mạng, tiểu thuyết viết

về thổ phỉ của nhóm nhà văn “dân tộc hoá” Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Phượng Vũ và

Đoàn Hữu Nam cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong cách kết thúc tác

phẩm theo kiểu ta thắng - địch thua, ở nghệ thuật xây dựng nhân vật đôi khi công thức,

phảng phất màu sắc lí tưởng hoá… nhưng các tác giả đã thực sự thành công. Họ đã biết

“làm mới một đề tài đã cũ”, phản ánh được một hiện thực đặc sắc, riêng biệt trong công

cuộc “giữ nước” của đồng bào miền núi phía Bắc nước ta. Hi vọng chúng tôi sẽ có dịp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trở lại đề tài này ở những góc tiếp cận khác trong những công trình tiếp theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐH Quốc gia.

2. Gia Dũng (2010), Một thế kỷ văn thơ Lào Cai, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

3. Hà Minh Đức (1993), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.

4. Lại Giang (1978), Rừng động - một đóng góp mới vào văn học miền núi, Báo

Văn nghệ, số 16.

5. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Giáo dục.

6. Cao Thị Hảo - Ngô Quốc Tuấn (2013) - Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Đoàn Hữu

Nam, Tạp chí Khoa học & công nghệ, ĐH Thái Nguyên, số 3/2013, Tr. 115 - 119.

7. Trần Bảo Hưng (1984), Ma Văn Kháng với tiểu thuyết „Vùng biên ải”, Báo

Tiền phong, ngày 22 - 25 tháng 8.

8. Trần Bảo Hưng (1995), Thai nghén tác phẩm - Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

9. Tô Hoài (1999), Truyện Tây Bắc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

10. Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ, SGK Ngữ văn lớp 12, tập 2, Nxb Giáo dục.

11. Cầm Thị Lệ Hương (2005), Giá trị tiểu thuyết Rừng động của Mạc Phi trong

văn xuôi về đề tài miền núi,

12. Quý Khanh (1976), “Rừng động”- Một tác phẩm về đồng bào miền núi, vùng

lên trong những ngày Cách mạng tháng Tám, Báo Nhân dân.

13. Ma Văn Kháng (1996), Đồng bạc trắng hoa xòe - Tiểu thuyết - NXB Công an

nhân dân..

14. Ma Văn Kháng (2001), Vùng biên ải - Tiểu thuyết - NXB Quân đội nhân dân.

15. Phong Lê (1998) - Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại - NXB Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

16. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

17. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

18. Phương Lựu chủ biên (2003), Lý luận văn học, NXB GD, Hà Nội

19. Dương Thị Hồng Liên (2008), Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đổi mới, Luận văn Thạc sĩ văn học.

20. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Nxb Giáo dục.

21. Đoàn Hữu Nam (2010), Thổ phỉ - Tiểu thuyết - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

22. Chu Nga (1996) “Rừng xà nu”, một hình ảnh rất đẹp của Tây Nguyên chiến

đấu, Tạp chí Văn học, số 7.

23. Lê Thành Nghị (1984), Đọc “Vùng biên ải”, Báo Văn nghệ, ngày 25 tháng 8.

24. Phạm Duy Nghĩa (2012), Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi,

Nxb Văn hóa dân tộc.

25. Đào Thủy Nguyên (2008), Truyện ngắn Ma Văn Kháng và vấn đề thức tỉnh tinh

thần con người con người, Tạp chí Văn học, số 3.

26. Lã Nguyên (1999), Khi nhà văn “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, Tạp

chí Văn học, số 9.

27. Mạc Phi (1983), Rừng động, Tập 1 - Tiểu thuyết - NXB Hội nhà văn.

28. Mạc Phi (1983), Rừng động, Tập 2 - Tiểu thuyết - NXB Hội nhà văn.

29. Hoàng Tiến (1980), Đọc “Đồng bạc trắng hoa xòe” - Tạp chí Văn học, số 1.

30. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, NXB Văn hóa dân tộc.

31. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số - NXB Văn hóa

32. Ngô Quốc Tuấn (2013), Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam, Luận văn Thạc sĩ ngữ văn,

ĐHSP - ĐH Thái Nguyên.

33. Nguyễn Văn Toại (1979), Tiểu thuyết “Rừng động” và vấn đề thể hiện con

người miền núi trong sáng tác văn học, Tạp chí Văn học, số 1.

34. Nguyễn Văn Toại (1981), Về một vài biểu hiện đặc điểm dân tộc qua một số

tiểu thuyết miền núi - Tạp chí Văn học, số 4.

35. Nguyễn Văn Toại (1983), Đọc các sáng tác miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ

về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn - Tạp chí Văn học, số 5.

36. Đỗ Ngọc Thạch (1985), Đọc “Vùng biên ải” của Ma Văn Kháng, Tạp chí Văn

học, số 2.

37. Dương Thuấn (1999), Nét mới của văn học dân tộc và miền núi, Tạp chí Văn

hóa các dân tộc, số 1+2.

38. Dương Thuấn (2007), Nhìn nhận văn học dân tộc thiểu số như thế nào cho đầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đủ, Báo văn nghệ.

39. Nguyễn Ngọc Thiện (2003), Tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền núi của Ma Văn

Kháng - lời giới thiệu sách Ma Văn Kháng, Tiểu thuyết, tập 1, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội

40. Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam

thời kì hiện đại - Một số đặc điểm, Nxb ĐH Thái Nguyên.

41. Nghiêm Đa Văn (1979), Chiều sâu một vùng đất biên giới, Báo Tiền Phong, số

2687, ngày 17 tháng 9.

42. Trần Đăng Xuyền (1979), Đồng bạc trắng hoa xòe, Báo Văn nghệ, số 49.

43. Trần Đăng Xuyền (1984), Cuộc chiến đấu tiễu phỉ ở “Vùng biên ải”, Tạp chí

Văn nghệ, số 3.

44. Phượng Vũ (2002), Hoa hậu xứ Mường - Tiểu thuyết - NXB Hội nhà văn.

45. Nguyễn Thị Hải Yến (2010), Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn

Kháng thời kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học.

46. Nhiều tác giả (2001), Tô Hoài - Về tác giả và tác phẩm (Phong Lê, Vân Thanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.