
LUẬN VĂN:
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản
chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta
hiện nay

Phần mở đầu
Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Đặc điểm kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay đang cố gắng không ngừng
để tìm kiếm xây dựng những mô hình thể chế kinh tế thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế xã
hội cao trong đó mô hình có sự kết hợp kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần là cốt lõi.
ở nước ta sau một thời gian duy trì nền kinh tế tập trung cao đã thấy xuất hiện những
mặt không phù hợp của nó. Sau Đại hội VI (1986), Đảng và nhà nước ta mở ra con đường
XHCN của đất nước bằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Sau khi có chính sách đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu và bước đầu có
ý nghĩa rất lớn nhưng hiện nay chúng ta đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn,
cái cũ và cái mới đan xen nhau triệt tiêu lẫn nhau. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao
cho cái mới cái tiến bộ thay thế cái cũ nhưng không có nghĩa là phủ định hoàn toàn cái cũ,
nhận thức được điều này em đã chọn đề tài “ Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn ở nước ta hiện nay” làm đề tài cho tiểu luận của mình để qua việc tìm tài liệu nghiên
cứu đề tài nâng cao hiểu biết của mình về kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, giúp cho
em trong quá trình học tập tại trường và hiểu biết thêm về hiện trạng của đất nước để sau
khi ra trường có thể góp một phần công sức của mình xây dựng đất nước giàu đẹp.

Nội dung
I. Cơ sở lí luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ lên CNXH nói chung.
1/ Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự phát sinh phát triển của sản xuất hàng
hoá:
a/ Sự ra đời của sản xuất hàng hoá:
Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh
tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải quyết vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào, sản xuất cho ai.
Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ sản xuất mà trong đó sản phẩm của người lao động
làm ra được dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho nội bộ gia đình, từng công xã hay
từng cá thể riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp còn được gọi là sản xuất tự cấp tự túc hoặc
kinh tế tự nhiên.
Đây là kiểu tổ chức sản xuất khép kín nên nó thường gắn với bảo thủ trì trệ, nhu cầu thấp,
kỹ thuật thô sơ, lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại ở các giai đoạn phát triển thấp của xã
hội( công xã nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến )
ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tự nhiên vẫn còn tồn tại ở vùng sâu vùng xa vùng núi
phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bào dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động xã hội được mở
rộng thì dần xuất hiện trao đổi hàng hoá khi trao đổi hàng hoá trở thành mục đích thường
xuyên của sản xuất hàng hoá thì lúc đó sản xuất hàng hoá ra đời.
Sản xuất hàng hoá : là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi để bán trên thị trường, sản
phẩm ở đây không phải là sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu nội bộ của người sản xuất mà
sản xuất ra để trao đổi.
Cơ sở kinh tế- xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao
động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này và người sản xuất khác do
các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.

Phân công lao động là việc phân chia người sản xuất vào các ngành nghề khác nhau
của xã hội hoặc nói cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất.
Do chuyên môn hoá nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm nhất
định.Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mọi người đều có nhiều loại sản phẩm vì vậy
họ đòi hỏi phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau, phân
công lao động là điều kiện của sản xuất hàng hoá. Điều kiện thứ hai của sản xuất hàng
hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do các quan hệ khác nhau về tư
liệu sản xuất quy định.
Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng
tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất làm họ tách biệt nhau về mặt kinh tế. Trong
điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải
trao đổi sản phẩm lao động cho nhau, sản phẩm lao động đây trở thành hàng hoá.
Khi sản phẩm lao động xã hội trở thành hàng hoá thì người sản xuất trở thành người
sản xuất hàng hoá, lao động của người sản xuất hàng hoá vùa có tính chất xã hội vừa có
tính chất tư nhân cá biệt.
Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá thể hiện ở chỗ do phân công lao động
xã hội nên sản phẩm lao động của người này trở nên cần thiết cho người khác, cần cho xã
hội.
Tinh chất tư nhân cá biệt thể hiện ở chỗ sản xuất ra cái gì bằng công cụ nào, phân phối
cho ai là công việc cá nhân của chủ sở hữu tư liệu sản xuất, do họ định đoạt. Tính chất xã
hội của lao động sản xuất hàng hoá chỉ được thưà nhận khi họ tìm được người mua trên
thị trường và bán đưọc hàng hoá do họ sản xuất ra.
Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sở hữu thống nhất giữa hai mặt
đối lập là tính chất xã hội và tính chất cá biệt của lao động.
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất cá biệt của lao động sản xuất hàng hoá là
mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Những mâu thuẫn này được giải quyết trên thị
trường , đồng thời nó được tạo ra một cách liên tục thường xuyên với tư cách là mâu

thuẫn của nền kinh tế hàng hoá nói chung. Chính mâu thuẫn này là nguyên nhân kinh tế
của khủng hoảng sản xuất thừa.
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử sở hữu lâu dài. Đầu tiên
là sản xuất hàng hoá giản đơn dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Nhưng khi lực lượng
sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá
quy mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến
sang xã hội tư bản.
b/ Hàng hoá:
+ Hàng hoá là vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và được sản
xuất ra để bán
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.Trong đó giá trị sử dụng là thuộc
tính tự nhiên, còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Hai thuộc tính này là 2 mặt đối
lập cùng tồn tại trong hàng hoá, cũng từ hai thuộc tính này mà lao động sản xuất hàng hoá
mang tính hai mặt lao động cụ thể là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Giá trị và giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là những công dụng khác nhau của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên
của nó mang lại.
Giá trị sử dụng của vật phẩm được thể hiện ra khi ta mang tiêu dùng chúng. Khoa học
kỹ thuật và công nghệ ngày càng phát triển dần dần người ta tìm thấy thêm được nhiều
thuộc tính có ích. Giá trị sử dụng của hàng hoá rất phong phú, vừa thả mãn nhu cầu về vất
chất vừa thoả mãn nhu cầu về mặt tinh thần. Nó là một phạm trù vĩnh viễn, nhưng trong
nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.
Giá trị hàng hoá là một phạm trù rất trừu tượng vì nó là thuộc tính xã hội của hàng hoá và
muốn tìm hiểu được giá trị hàng hoá ta phải xuất phát từ việc nghiên cứu giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà một giá trị sử dụng này trao đổi với một
giá trị sử dụng khác
Ví dụ : 1 rìu = 20 kg thóc

