NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI

MẤY ĐIỀU QUANH KHÁI NIỆM “DÂN GIAN?”
NGUYÊN THUY LOAN?)
(fk quá trình giảng dạy về Âm nhạc dân gian, Lịch sử âm nhạc Việt Nam và Âm nhạc cổ truyền Việt Nam tôi thường phải dụng tới những vấn để liên quan đến khái niệm “đân gian". Nhưng thế nào là “dân gian” trong sự đối sánh với “bác học” và một số khái niệm khác liên quan tới chúng thì cho tới nay chưa có một cách giải thích nào có tính chất chính thống hoặc chí ít là tương đối thống nhất mà tuỳ thuộc từng người, ai hiểu thế nào thì nó là thế ấy.
Lai nữa, càng đi vào nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Việt Nam nói riêng và văn hoá cổ truyền Việt Nam nói chung chính trong tôi cũng thường nảy ra những nghi vấn về một số hiện tượng, đặc biệt là một số hiện tượng nằm trong những lễ hội ở các làng quê Việt — hiện tượng lâu nay vân thường được xem là “thời điểm mạnh” của các hoạt động văn hoá "dân gian”. Theo cách đánh giá mà đến nay tôi vẫn cho là đúng đắn thì không ít người, trong đó có ca tôi trước đây, thường nghĩ một cách giản đơn là mọi hiện tượng, yếu tế văn hoá trong các lễ hội đó đều thuộc phạm trù “dân gian” — với nghĩa là chúng do nhân dân lao động sáng tạo a và tồn tại trong môi trường sinh hoạt văn hoá dân gian.
?PGS, TS, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
17
Tuy nhiên, theo thời gian, dần dần chúng tôi nhận ra rằng chính trong những lễ hội này, trong môi trường sinh hoạt văn hoá dân gian lại có đan xen cä những loại hình văn hoá cung đình, bác học hoặc có nguồn gốc cung đình bác học. Phường nhạc bát âm, các hình thức xướng tế với đội ngũ các chủ tế, bồi tế, các đội nữ quan và hình thức xây chầu đại bội trong trong nghĩ lễ cung đình, những điệu múa bài bông, tứ linh trong các lễ hội... là những ví dụ. Bởi vì, theo cách hiểu của chúng tôi thì đó là những nghì thức do Nhà nước phong kiến xây dựng nên và cho ấp dụng vào môi trường dân dã trong những thời điểm nhất định dành cho việc tôn vinh và tưởng nhớ các thần linh đã được Nhà nước sắc phong. Đó là hệ thống thần quyền mà Nhà nước phong kiến xây dựng trên cơ sở các tín ngưỡng dân gian để tạo nên một bộ máy cai trị vô hình thay mặt Nhà nước phong kiến giám sát và cai quản dân chúng ở từng điạ phương. Vì vậy, một số nghi thức tiến hành trong những dịp nói trên cũng được thực hiện theo các qui chế phù hợp với phẩm trật các hàng quan tước mà Nhà nước phong kiến ban cho từng vị thần ở các địa phương và đó là các nghi thức của dòng cung đình bác học. Nhiều hoạt động văn hoá gắn với những hiện tượng vừa nói vì vậy là sản phẩm của tư duy phong kiến quí tộc. Qua nhiều thế kỉ tồn tại chúng được lưu giữ trong đời sống dân dã của các cộng đồng làng xã song chúng không phải hoặc không hoàn toàn là sản phẩm của tư duy dân gian mặc dầu ở một số loại hình hoặc ở một số khía cạnh, yếu tố có thể đã bị dân gian hoá phần nào.
Vậy, với tư cách là một tổng thể nguyên hợp, những lễ hội đó có phải là 18
NGUYỄN THUY LOAN


hiện tượng văn hoá dân gian hay không? Và cũng chính do vậy, bên cạnh câu hỏi “thế nào là âm nhạc dân gian”, câu hỏi “thế nào là văn hoá dân gian” cũng luôn đeo đẳng trong tôi như một nhu cầu cần được làm sáng tỏ cho chính mình cũng như cho các học viên và sinh viên - đối tượng tiếp xúc thường xuyên của chúng tôi.
Lần hồi trong quá trình suy nghĩ, chúng tôi chợt nảy ra một phương thức để giải quyết những mắc mớ khi nhận định hoặc đánh giá các hiện tượng văn hoá cổ truyền trong các lễ hội ở các làng quê mà ta vẫn thường coi là lễ hội dân gian cũng như những câu hỏi cần giải đáp chung quanh vấn đề “dân gian” và “bác học”: phải chăng nên phân biệt hai phạm trù liên quan tới khái niệm “dân gian”: văn hoá dân gian theo nghĩa hẹp và văn hoá dân gian theo nghĩa rộng?
Văn hoá dân gian theo nghĩa hẹp là loại hình văn hoá do nhân dân lao động sáng tạo và trình diễn. Văn hoá dân gian theo nghĩa rộng là những loại hình văn hoá tồn tại trong môi trường sinh hoạt dân gian.
Nằm trong mối tương quan đối sánh với uăn hoa đân gian theo nghĩa hẹp là Uăn hoá cung đình và uăn hoá bác học. Nói vắn tắt, ouăn hoá cung đình là những loại hình văn hoá tồn tại trong môi trường sinh hoạt cung đình và chủ yếu dành cho tầng lớp vua chúa. Còn Uuăn hoá bác học là loại hình văn hóa do giới trí thức sáng tạo, nó có quan hệ mật thiết với văn hoá cung đình và đại bộ phận khởi nguồn từ môi trường văn hoá cung đình. Tuy nhiên, mặc dầu có quan hệ mật thiết với văn hoá cung đình như vừa nói song một mặt nó cũng có những mối quan hệ nhất định với
văn hoá dân gian, mặt khác, do nhiều nguyên nhân - trong đó nguyên nhân quan trọng là mối quan hệ tương tác giữa hai dòng văn hoá dân gian và cung đình trong suốt quá trình đồng hành và phát triển - cho nên uăn hoá bác học không chỉ tồn tại trong môi trường sinh hoạt văn hoá cung đình mà còn tồn tại cả trong môi trường sinh hoạt văn hoá dân gian. Đối tượng phục vụ của nó cũng rộng hơn văn hoá cung đình. Điều này lí giải vì sao xưa kia trong môi trường sinh hoạt của người bình dân lại tồn tại những loại hình hoặc những yếu tố bác học tương tự như trong những loại hình “văn nghệ quần chúng” - đặc biệt là tại đô thị - ở thế kỉ XX cũng có sự đan xen của cả những yếu tố dân gian và bác học (bao gồm cả những yếu tố bác học cổ truyền cũng như những yếu tế bác học mới xuất hiện dưới tác động của văn hoá phương Tây).
Như vậy, trong những di sản văn hoá cổ truyền, uốn hoá dân gian theo nghĩa rộng với nội hàm vừa trình bày ở trên chỉ có một đối tượng để so sánh. Đó là uăn hoá cung đình.
Vấn đề còn lại là oăn hoá dân gian theo nghĩa hẹp và những đối tượng so sánh của nó. Đó là uăn hoá cung đình và uăn hoá bác học. Có lẽ không có gì phức tạp lắm trong việc phân biệt uăn hoá dân gian và uăn hoá cung đình. Mắc mớ chủ yếu chính là ở chỗ phân biệt uăn hoá dân gian (theo nghĩa hẹp) và uăn hoú bác học.
Về vấn đề này, như trên đã nói qua, trong giới nhạc đã từng có những cách lí giải và những tiêu chí phân loại khác nhau. Chẳng hạn nhà nghiên cứu âm nhạc Tô Ngọc Thanh từ nhiều năm nay thường đồng nhất âm nhạc chuyên NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
19


nghiệp với âm nhạc bác học và âm nhạc chuyên nghiệp trỏ thành một phạm trù nằm trong mối tương quan đối sánh với âm nhạc dân gian. Ông viết: “Thành phần thứ nhất do nhân dân lao động sáng tạo và trình diễn, thường gọi là âm nhạc dân gian hay âm nhạc truyền miệng. Thành phần thứ hai do các nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn, thường gọi là âm nhạc chuyên nghiệp hay âm nhạc bác học”. (Bài Sơ lược uề âm nhạc dân gian, Tạp chí Âm nhạc, số 3 - 1979, trl2). Cứ theo đó thì ông có xu hướng coi yếu tố chuyên nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng (nếu không phải là yếu tố chính yếu) để phân biệt âm nhạc dân gian và âm nhạc bác học. Cách hiểu và giải thích như vậy có mặt đúng nhưng cũng có những mặt cần xét lại. Theo quan điểm của người viết bài này, trước hết, âm nhạc chuyên nghiệp và âm nhạc bác học là hai phạm trù khác nhau - không phải là một. Thứ hai, âm nhạc chuyên nghiệp không nằm trong mối tương quan đối sánh với âm nhạc dân gian. Sö dĩ như vậy là bởi chúng tôi cho rằng yếu tế chuyên nghiệp chỉ là bước khởi đầu quan trọng có thể dẫn tới quá trình bác học hoá một thể loại ca nhạc nào đó nhưng chưa hắn là yếu tố có giá trị định tính cho một thể loại ea nhạc. Có thể có những thể loại ca nhạc chuyên nghiệp thực sự nhưng qua nhiều thế kỉ phát triển vẫn chưa đủ điều kiện để được xếp vào phạm trù bác học. Hát xẩm là một ví dụ. Ngược lại, có những thể loại mang tính bác học và có nguồn gốc bác học rõ ràng nhưng lại có thể tồn tại dưới hình thức không chuyên nghiệp. Ca nhạc tài tử là một ví dụ. Tương tự như vậy, hát bội (hát tuồng) - một loại hình mang tính bác học cao song không nhất thiết
là loại hình nghệ thuật dành riêng cho những người hành nghề chuyên nghiệp.
Tiêu chí giúp ta phân biệt hai phạm trù bác học và dân gian trong âm nhạc bởi vậy sẽ là một loạt yếu tố khác trong đó yếu tố cơ bản, theo thiển nghĩ của chúng tôi, là sự tồn tại hay không tồn tại trong thể loại ea nhạc đó một hệ thống lí luận với những niêm luật, qui chuẩn chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo và thực hành thể loại ca nhạc đó cũng như những khái niệm thể hiện qua những thuật ngữ chỉ những hiện tượng âm nhạc khác biệt hàm chứa trong nó với qui chuẩn rõ ràng, đủ để phân biệt các hiện tượng âm nhạc gắn với những thuật ngữ đó. Việc sáng tạo và thực hành những thể loại ca nhạc bác học vì vậy hoàn toàn không thể thiên về cảm tính và bên cạnh cảm xúc nghệ thuật, sự chi phối của yếu tố lí tính (lí trí) chắc chắn là nhiều hơn hẳn So Với quá trình sáng tạo và thực hành các thể loại ea nhạc dân gian. Ngoài ra, gắn với yếu tố cơ bản nói trên còn là sự khác biệt trong hàng loạt yếu tố liên đới khác như: đối tượng phục vụ và thưởng thức, nội dung đề tài, thể loại văn học và ngôn từ, quan điểm thẩm mĩ, đặc trưng nghệ thuật (bao gồm nghệ thuật biểu diễn và những đặc trưng âm nhạc khác như thể loại, hình thức, cấu trúc âm nhạc, thủ pháp biểu hiện, kể cả một số phương tiện biểu diễn như nhạc khí...). Đó là chưa kể những khác biệt trong khâu đào tạo, rèn luyện tay nghề của người nghệ sĩ cùng với khối lượng tri thức cần có của người sáng tác, biểu diễn và kể cả người thưởng thức v. v... (về những vấn đề này chúng tôi đã có dịp trình bày cụ thể trong các bài giảng về Âm nhạc dân gian cho các khoá Cao học của Viện 20
Nghiên cứu Văn hoá dân gian từ 1896 và ca trong những bài giảng về Lịch sử âm nhạc Việt Nam cho các học viên Cao học khoá I và II của Nhạc viện Hà Nội tháng 1 - 1996).
Xét ra, tất ca những cách suy nghĩ trên vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu - có lẽ là phổ biến, theo đó khái niệm “đân gian” trong “văn hoá dân gian” được gắn với nhân dân lao động. Tìm lại nguồn gốc làm xuất hiện khái niệm "văn hoá dân gian” ở nước ta, chúng ta đều biết từ “folklore” - như nhiều học giả đã từng nói tới, có nghĩa là “trí tuệ của nhân dân”. Tra thử lại trong một cuốn từ nhỏ - arousse Glmentatre tÌÌustre€ (Paris, 1Đỗ1), chúng tôi được lời đáp: folk = peuple, lore = seience và tổng quát thì folklore là “ensemble des traditions, légendes et
điển
usages populaire đun pays”. Tra tiếp những từ peuple, populalre thì tôi chợt hiểu vấn đề gây rắc rối chính là ở từ peuple - nhân dân. Những cách hiểu khác nhau về từ này sẽ dẫn tới những cách giải thích khác nhau về khái niệm “văn hoá dân gian”. Hiểu “nhân dân” là nhân dân lao động thì “văn hoá dân gian” sẽ là văn hoá của nhân dân lao động, do nhân dân lao động sáng tạo, nhưng hiểu từ “peuple” và “nhân dân” theo những nghĩa khác thì cách giải thích có thể sẽ khác đi. Xin dẫn những cách giải thích về từ “peuple” trong cuốn từ điển nhỏ vừa dẫn ở trên:
- Multitude đhomme forment une nation
-Partie la plus nombreuse et la moins notable des habitants dune ville, đun pays ete.
- lEnsemble des suJets par rapport au souverIm. (tr594)
NGUYÊN THUY LOAN
Tất cả những gì thu nhận được qua những cách giải thích về các từ folklore và peuple của các tác giả cuốn từ điển nói trên dân tôi tới suy nghĩ sau: có lẽ nên hiểu folklore theo hướng là “uăn hoá cộng đồng”, mà văn hoá cộng đồng khi đã được tiếp nối trong lịch sử thì đó chính là “uăn hoá truyền thông”. Nếu vẫn dùng thuật ngữ “văn hoá dân gian” (do đã quá quen với nó) với nghĩa tương đương với từ folklore cũng nên hiểu theo hướng này và đó chính là cái mà chúng tôi tạm gọi là "văn hoá dân gian theo nghĩa rộng” đã nêu ở trên? Với cách hiểu này, /öÌklore là một phạm trù uĩnh hằng trong lịch sử chứ không chỉ là sản phẩm của một thời kì hoặc giai đoạn có giới hạn nào trong lịch sử. Mặt khác, khi đã là uăn hoá cộng đồng, uăn hoá truyền thống, đó sẽ là sdn phẩm của toàn thể cộng đồng bao gồm cả nhân dân lao động, trí thức uà phong hiến quí tộc đã được công đồng thừa nhận, lưu truyền và vượt thời gian để đến với chúng ta ngày nay. Lại nữa, là một phạm trù lịch sử gắn với sự phát triển của con người, “uăn hoá cộng đồng”, “uăn hoá truyền thống” không nhất thành bất biến mà cũng có những thay đổi nhất định theo từng thời đại. Ngay cách hiểu của chúng ta cũng vậy. Nói về “nhân dân lao động” thời phong kiến, tôi thường nghĩ đó là: (có thể cä nông, công, thương trong “tứ dân”, nhưng về “nhân dân lao động” trong xã hội của chúng ta ngày nay thì trí thức (tức “sĩ” trong thời phong kiến) được xem là những người lao động trí óc, thậm chí các nghệ sĩ - xướng ca vô loại trong con mắt của giai cấp phong kiến thời xưa - nay cũng được xem là những người lao động nghệ thuật và họ đều là những hợp phần của “nhân dân lao động”... NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI


Có lẽ bàn về vấn đề này thì còn nhiều điều cần trao đổi và làm rõ, song để tạm thời khép lại bài viết này, chúng tôi nghĩ rằng những ý kiến trình bày trên đây mới chỉ là những suy nghĩ bước đầu nảy sinh trong quá trình giang dạy những vấn đề có liên quan tới âm nhạc dân gian nói riêng, văn hoá dân gian nói chung. Chắc chắn rằng trong các ý tưởng đã nêu còn nhiều điều chưa thấu đáo bởi đây là một vấn đề phức tạp. Để có một quan niệm hoặc cách hiểu thống nhất về một thuật ngữ, một khái niệm nào đó, nhất là thuật ngữ hoặc khái niệm bắt nguồn từ một thuật ngữ, khái niệm nước ngoài, không phải là điều có thể giải quyết một sớm một chiều. Thay đổi nó cũng không đễ khi đã thành thói quen. Tuy nhiên, về mặt khoa học, tình trạng không xác định của những thuật ngữ, nhất là những thuật ngữ cơ bản, là điều không nên để tôn tại lâu dài. Bởi vì chúng không chỉ liên quan đến công tác đào tạo mà còn liên quan cả tới phạm vị, đối tượng nghiên cứu và quản lí của ngành Văn hoá dân gian (bao gồm cả Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian và các eơ sở đào tạo chuyên ngành văn hoá dân gian) cũng như một số ngành khác thuộc khoa học xã hội nhân văn.
Khơi lên vấn đề này, chúng tôi chỉ mong sẽ có nhiều đồng nghiệp cùng suy nghĩ và hy vọng sẽ có những cuộc trao đổi để có thể tiến tới xác định một cách tõ ràng, chính xác nội hàm của một số khái niệm, trước hết là khái niệm “dân gian”.
ĐỊT.