intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY

Chia sẻ: Le Dang Hai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

267
lượt xem
82
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bức tranh nông thôn và người nông dân Việt Nam hiện nay sẽ ra sao khi nước ta hội nhập sâu rộng hơn và khi nước ta trở thành nước cơ bản công nghiệp hóa? Đây là vấn đề mà nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, nhà văn hóa đang tập trung nghiên cứu. Đảng ta dự kiến sẽ tổ chức Hội nghị Trung ương 7 (6/2008) để bàn sâu rộng và căn bản về vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam (tam nông)....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: MỘT SỐ VẤN ĐỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. Trang chủ » Thông tin báo chí » Tin chuyên đề » MỘT SỐ VẤN ĐỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY Bức tranh nông thôn và người nông dân Việt Nam hiện nay s ẽ ra sao khi nước ta hội nh ập sâu r ộng h ơn và khi nước ta trở thành nước cơ bản công nghiệp hóa? Đây là vấn đề mà nhiều nhà khoa h ọc, nhà qu ản lý, nhà văn hóa đang tập trung nghiên cứu. Đảng ta dự kiến s ẽ t ổ ch ức Hội ngh ị Trung ương 7 (6/2008) để bàn sâu rộng và căn bản về vấn đề nông dân, nông nghi ệp và nông thôn ở Vi ệt Nam (tam nông). Dựa trên Báo cáo Phát triển Thế giới 2008 của Ngân hàng Thế giới (WB) ngày 11/12/2007 v ới t ựa đ ề “Tăng cường nông nghiệp cho phát triển” và thông tin t ừ hai cuộc h ội th ảo liên quan t ới nông thôn Vi ệt Nam tổ chức trong tháng 12 vừa qua, Vụ Báo chí xin tổng hợp lại một số thông tin đ ể các đ ồng chí tham khảo. 1- Nông nghiệp đối với sự phát triển của các nước chuyển đổi Báo cáo của WB cho rằng Đông Á và ĐNA, đặc biệt là các nước có nền kinh t ế đang chuy ển đ ổi t ừ nông nghiệp sang đô thị hóa như Việt Nam, thì nông nghi ệp vẫn được coi là yếu t ố quan trọng trong vi ệc xóa đói nghèo, tăng thu nhập cho nông dân. Hay nói cách khác, nông dân muốn thoát nghèo v ẫn ph ải g ắn với nông nghiệp. Các số liệu thống kê cho thấy, đã có 200 triệu người thoát nghèo nh ờ nghề nông; vi ệc di dân ra thành th ị cũng là nguyên nhân chiếm 20% trong việc giảm s ố người nghèo có thu nh ập 1 USD/ngày ở khu v ực Đông Á và Đông Nam Á; tới năm 2040 vẫn còn 75% người nghèo và đa số h ọ v ẫn s ống ở nông thôn. Ở Việt Nam, nông nghiệp còn mở đường cho các chính sách đổi mới. Thực tiễn trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế tại Vi ệt Nam đã đem l ại l ợi ích cho c ả vùng đô th ị và nông thôn. Năm 1993 có tới 2/3 số dân nông thôn được coi là nghèo thì ngày nay con s ố này ch ỉ còn 1/5. Nhưng khi Việt Nam chuẩn bị bước vào vị thế là nước có mức thu nhập trung bình và cao h ơn, v ấn đ ề là liệu sự phát triển có lợi cho tất cả mọi người còn tồn tại được nữa không? Cải thi ện năng suất nông nghiệp và tạo cơ hội cho người nghèo ở nông thôn và các dân tộc thiểu số v ẫn là v ấn đề l ớn c ần ph ải quan tâm đúng mức. Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam đã làm t ốt việc t ạo đi ều kiện cho s ản xuất tiếp cận t ốt nh ất v ới tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nước... giao đất cho nông dân s ản xuất cùng v ới t ự do hoá th ương m ại và đầu tư mạnh về thuỷ lợi. 2- Nông thôn Việt Nam hiện nay: một số tồn tại Tại cuộc hội thảo "Công nghiệp hóa nông thôn và phát triển nông thôn Vi ệt Nam - Đài Loan", do Vi ện Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan t ổ ch ức ngày 17/12/2007, và cu ộc hội thảo “Nông dân Việt Nam trong quá trình hội nhập” do Vi ện Chính sách và Chi ến l ược phát tri ển Nông nghiệp nông thôn tổ chức ngày 18/12/2007, các chuyên gia đã liệt kê ra nh ững v ấn đ ề xã h ội b ức xúc, nan giải trong 20 năm qua. Đó là vấn đề khoảng cách giàu - nghèo và b ất bình đ ẳng xã h ội; tình trạng thiếu việc làm, di dân tự phát; xung đột xã hội gia tăng; dân trí và quan trí th ấp; d ịch v ụ y t ế, chăm sóc sức khỏe yếu kém; đời sống văn hóa có nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp; năng l ực qu ản lý xã hội, kết cấu hạ tầng thấp kém; môi trường bị ô nhiễm và suy thoái ở m ức báo đ ộng.
  2. Mức độ giảm nghèo chung của Việt Nam tiến bộ liên tục. Tuy nhiên, xu h ướng phân hóa giàu nghèo gia tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, đặc biệt là giữa nông thôn với đô th ị. Nhi ều chuyên gia còn đ ưa ra con số về chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn - thành thị lên t ới trên 6,9 l ần (2004) ch ứ không ph ải con số 3,5 lần như vẫn nhắc đến. Một vấn đề nữa là người nông dân thiếu việc làm do bị mất đất do xu th ế tích t ụ ruộng đ ất ngay t ại nông thôn và quá trình đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp hiện nay (20 năm qua, 300.000 héc-ta đ ất nông nghiệp bị mất đi do quá trình này). Điều này đã làm cho vấn đề thi ếu vi ệc làm t ại nông thôn và xu hướng di dân ra thành phố để mưu sinh là không thể tránh khỏi. Đây là xu thế c ủa m ột xã h ội phát tri ển là giảm tương đối cơ cấu của nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng t ỷ trọng công nghi ệp và d ịch v ụ. Thiếu hụt nhất ở khu vực này là tri thức và thông tin khoa học hi ện đại không đ ược chuy ển giao m ột cách có hệ thống. Người nông dân thiếu kiến thức, nên khó chuyển giao được khoa học công nghệ để họ th ực sự làm chủ. Điều này tiếp tục đặt họ và thế bất lợi hơn nữa. Một thách thức to lớn nữa của khu vực nông thôn là sức ép trong chi tiêu cho giáo d ục, áp l ực c ủa tình trạng gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường đến mức báo động. Làng nghề và các khu công nghi ệp nông thôn gây ô nhiễm đất, nước và không khí rất nặng, làm suy thoái tài nguyên môi tr ường do khai thác tự phát, không theo quan điểm phát triển kinh tế - xã h ội bền vững. Khu v ực đô th ị - công nghi ệp là nguồn gây ô nhiễm và suy thoái môi trường nặng nề hơn và cư dân ven đô l ại là nh ững ng ười tr ực ti ếp chịu hậu quả. 3- Một số giải pháp - Phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách. Một là đ ưa lao đ ộng ra kh ỏi khu vực nông thôn về các khu công nghiệp, đưa đi xuất khẩu lao động, đưa về thành ph ố. Hai là đ ưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn, phát triển làng nghề... Mặc dù đây là v ấn đ ề rất l ớn để gi ảm thi ểu s ự b ất bình đẳng hiện nay, nhưng Việt Nam chưa quan tâm nhiều t ới vấn đề này, trong khi đây là xu th ế t ất y ếu. - Tăng đầu tư của Nhà nước về nông thôn. Hiện nay, đầu t ư của Nhà nước về nông thôn còn h ạn ch ế (chiếm 14% tổng đầu tư) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này không đáng k ể (3% t ổng đầu tư FDI cả nước). Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần đẩy mạnh đ ầu t ư cho khoa h ọc công ngh ệ (hiện chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi các nước tương t ự là 4%). Tất nhiên, v ấn đ ề này cũng không dễ dàng bởi nông dân rất khó tiếp cận và làm chủ KHCN. - Thiết lập hệ thống khuyến nông tốt. Có thể thuê khuyến nông tư nhân làm mà không c ần ph ải d ựa hoàn toàn vào Nhà nước. Ngoài ra, phải có các cơ chế tài chính phù hợp thu hút các t ổ ch ức qu ốc t ế, phi chính phủ làm việc này và tăng cường các mô hình giáo dục, đào t ạo ở đ ịa ph ương để ng ười dân có th ể tiếp cận được". Song song đó là đầu tư cho các dịch vụ công khác và đ ẩy mạnh c ải cách th ể ch ế. - Nhà nước cần đầu tư đào tạo nghề cho nông dân để đối phó với s ự d ịch chuy ển trong nông nghi ệp. - Tận dụng nhiều hơn những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập WTO, ph ải xóa b ỏ chính sách tr ợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (khoảng 10% GDP của nông nghi ệp) nh ư th ủy l ợi, hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên cứu áp dụng khoa h ọc - công nghệ vào nông nghi ệp. - Có chính sách hỗ trợ cho an ninh lương thực. Nhà nước cần có chính sách h ỗ tr ợ cho lĩnh v ực này. Muốn đảm bảo an ninh lương thực, duy trì diện tích và s ản lượng lúa ở đồng b ằng Sông C ửu Long thì phải có chính sách để bảo đảm thu nhập cho người dân và cho phát tri ển vùng này. Hi ện nay, nh ững t ỉnh có tỉ trọng nông nghiệp cao trong GDP là những t ỉnh nghèo, kém phát triển. Nên xem v ấn đ ề an ninh lương thực dưới góc độ cung cấp dịch vụ cơ bản. 4- Kết luận
  3. Bằng nội lực, người dân nông thôn chỉ đủ đảm bảo mưu sinh. Muốn phát triển bền v ững, ng ười dân nông thôn cần rất nhiều sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cụ thể, khu vực tam nông cần khung khổ pháp lý c ủa nhà nước và những cam kết quốc tế; đào tạo, nâng cao năng l ực toàn di ện; quy hoạch và t ổ ch ức th ực hi ện các chương trình, dự án phát triển; chú trọng nâng cao năng l ực đánh giá, đi ều ch ỉnh ho ặc thay đ ổi các dự án và chương trình này. Quan điểm hỗ trợ tam nông phải được hiểu và thao tác theo lý thuyết t ương tác, t ương h ỗ, t ức là phát triển theo mô hình hợp tác giữa tam nông với các khu vực khác của xã h ội. Lý thuyết h ợp tác 4 nhà (nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học) theo nguyên t ắc các bên cùng có l ợi c ần ph ải b ổ sung thêm nhà công tác xã hội để trở thành lý thuyết 5 nhà cho chi ến lược phát tri ển b ền v ững tam nông.... Hậu WTO đối với nông nghiệp và đói nghèo ở Việt Nam Cùng với việc gia nhập WTO, làm sao Việt Nam có thể tối đa hoá lợi ích và giảm thiểu rủi ro; đảm bảo rằng người nghèo cũng được tiếp cận với các cơ hội mới. Vấn đề đói nghèo Từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã tiến hành các cuộc cải cách về luật pháp, thiết chế và kinh tế song song với việc tự do hóa thương mại quốc tế một cách có chọn lọc. Tiến trình này đã mang lại sự ổn định kinh tế vĩ mô, một mức tăng trưởng bình quân hàng năm trên đầu người là 6 phần trăm trong giai đoạn 1990-2001, giảm một nửa số người nghèo từ 58 phần trăm năm 1993 xuống còn 29 phần trăm năm 2002. Mặc dù đã thu được những thắng lợi to lớn trong việc giảm đói nghèo, Việt Nam vẫn là một quốc gia có thu nhập thấp với GDP trên đầu người đạt 550 USD (năm 2004). Một số đáng kể người Việt Nam vẫn còn phải sống chật vật và có tới một phần tư trẻ em dưới năm tuổi bị suy dinh dưỡng. Đại bộ phận nhân dân có mức thu nhập chỉ trên ngưỡng nghèo chút ít nên rất dễ bị tái nghèo nếu có những chấn động kinh tế từ bên ngoài. Nghèo khổ đặc biệt phổ biến ở các vùng nông thôn, nơi hơn 90 phần trăm người nghèo của đất nước sống và làm việc. Nông nghiệp là một khu vực đặc biệt nhậy cảm. Nông nghiệp sử dụng 69 phần trăm lực lượng lao động của Việt Nam, và 45 phần trăm dân nông thôn sống dưới mức nghèo. [i] Bình quân một đơn vị canh tác hộ gia đình chỉ có 0,7 hécta. Các nhân tố như mất mùa hoặc giá nông sản bị tụt giảm do sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu là những mối đe dọa tiềm tàng đến thu nhập của hàng triệu người dân rất dễ bị tổn thương. Lợi ích tiềm năng Động lực chính để các nước đang phát triển tìm cách gia nhập WTO là hy vọng tư cách thành viên sẽ thúc đẩy xuất khẩu của họ, nhờ cải thiện được khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Việt Nam cũng hy vọng như thế, nhất là mở rộng được việc bán nông sản và thuỷ sản cũng như hàng dệt may. Tư cách thành viên WTO làm tăng sức hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam cũng trông đợi tận dụng lợi thế của cơ chế xử lý tranh chấp của WTO, một cơ chế áp dụng các luật lệ thương mại quốc tế. Là thành viên WTO, Việt Nam sẽ có tiếng nói trong việc xây dựng các luật lệ này. Hơn nữa, nhiều chuyên gia trong nước tin tưởng rằng việc Việt Nam trở thành thành viên WTO và thực thi các cam kết mở cửa sẽ là động lực tiếp tục thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước.
  4. Thách thức trước mắt và lâu dài Một phần lý do Việt Nam gần đây có mức tăng trưởng cao và giảm nghèo đầy ấn tượng là nhờ những thành công trong xuất khẩu được kết hợp với sự tiếp cận thận trọng tự do hóa nhập khẩu và đầu tư nước ngoài, không nhất nhất theo những đơn thuốc đang thịnh hành của Washington. Một trong những thách thức lớn lao đối với Việt Nam là tiến trình gia nhập WTO có thể buộc Việt Nam phải mở cửa nền kinh tế rộng hơn và nhanh hơn mức mong muốn, có thể dẫn đến tác động không lường trước đối với sản xuất trong nước, và thu hẹp sự linh hoạt của nhà nước trong việc đính hướng chiến lược phát triển quốc gia – limit policy space Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng trong thập kỷ qua về tăng trưởng và giảm nghèo, vấn đề bất bình đẳng giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng lên. Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004 cảnh báo tăng trưởng đang trở nên kém hữu ích cho những người sống trong cảnh nghèo. Đảo ngược chiều hướng đó là một trong những thách thức gay cấn nhất cho Việt Nam trong những năm tới. Điều quan trọng cần nhận biết là thu nhập của một bộ phận lớn trong nhân dân chỉ chớm trên ngưỡng nghèo, [ii] và một hệ quả là nhiều gia đình về mặt “kỹ thuật” không phải là nghèo, lại rất dễ bị tổn thương trước những chấn động ngoại lai có thể đưa họ trở lại cảnh đói nghèo. Một số thách thức cụ thể bao gồm: Cuộc cạnh tranh đối với những nông dân tham gia xuất khẩu nông sản và những nông dân sản xuất phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước sẽ gia tăng trên mọi phương diện, có thể dẫn đến hạ giá sản phẩm. Điều đó có hại cho nông dân và có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại bộ phận dân nghèo đang sống ở vùng nông thôn, hoặc là hộ sản xuất nhỏ hoặc là người dân không đất làm thuê. Nền kinh tế nông thôn và kế sinh nhai của họ phụ thuộc vào việc họ có bán được sản phẩm làm ra với một giá cả hợp lý hay không. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, việc mở cửa thị trường không nhất thiết mang lại giá rẻ cho người nghèo thành thị; lợi nhuận dường như rơi vào túi các công ty nhập khẩu hay chế biến lớn. Hơn nữa, giá lương thực rẻ của ngày hôm nay có thể gây tác động lâu dài đến khả năng tự chủ lương thực của một quốc gia trong tương lai. Nông dân Việt Nam có thế mạnh về một số sản phẩm xuất khẩu mà có thể tiếp tục duy trì hoặc mở rộng trong tương lai (như gạo, hạt tiêu, điều). Song, một số sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước sẽ gặp khó khăn vì Việt Nam chưa có khả năng cạnh tranh về những sản phẩm này (như đường, ngô, sản phẩm sữa và thịt). Hơn nữa, nhiều sản phẩm mà Việt Nam đang cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu (như gạo) hay sẽ nhập khẩu ngày càng nhiều (như ngô) được Chính phủ các nước giàu trợ cấp ở mức
  5. độ cao cũng như được bảo hộ thông qua hàng rào thuế quan. Chính phủ Mỹ hang năm trợ cấp 10 tỷ USD cho các chủ trang trại trồng ngô, hay 3.6 tỷ USD cho trang trại sản xuất gạo. Hay một con bò EU được trợ cấp 2.62 USD mỗi ngày, nhiều hơn thu nhập của nông dân nghèo Việt Nam. Thách thức đối với việc thực hiện cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vất (SPS) ngay sau khi Việt Nam trở thành thanh viên WTO là rất lớn. Hiệp định này đòi hỏi sự hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia trong nông nghiệp và thuỷ hải sản. Đây là mốt thách thức lớn đặc biệt cho những người sản xuất nghèo, qui mô nhỏ, nhất là vùng sâu vùng xa, và chắc chắn phải mất một thời gian để hoàn thành. Ngân hàng Thế giới ước tính chi phí thực thi một hiệp định là 100 triệu USD, trong khi nguồn lực của Chính phu còn hạn chế trong việc tăng cường nguồn lực cho việc xoá đói giảm nghèo. Hơn nữa, việc dựa vào nguồn lao động rẻ tiền để cạnh tranh xuất khẩu các mặt hang nông lâm thuỷ hải sản sẽ không khả thi và không bền vững trong giai đoạn tới khi nền kinh tế tiếp tục phát triển ở Việt Nam. Do đó vấn đề nâng cao giá trị gia tăng của các mặt hang xuất khẩu là vấn đề ưu tiên chiến lược cho phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo. Định hướng tương lai Vai trò hỗ trợ và điều tiết của Chính phủ là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong việc phân bổ nguồn lực, đầu tư cho nông nghiệp, phát triển nông thôn, tiếp tục nỗ lực giảm nghèo và cải thiện vấn đề bất bình đẳng trong xã hội. Cần tăng cường nỗ lực theo dõi chặt chẽ tác đông đối với nhóm người nghèo và dẽ bị tổn thương để có biện pháp hỗ trợ kịp thời nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực. Hiện tại hiểu quả sản xuất và thương mại một số mặt hang nông nghiệp còn thấp. Song nếu được hỗ trợ đầu tư ở mức độ nhất định, thì có thể nâng cao hiểu quả để đảm bảo duy trì tính hấp dẫn đối với thu nhập của người nông dân ngay cả khi thị trường bị giảm sút và vẫn có ý nghĩa quan trong để đảm bảo an ninh lương thực. Trong nhiều trường hợp chính phủ có thể giúp đỡ nông dân đa dạng hoá sản phẩm hay chuyển sang các loại cây trồng khác do khả năng cạnh tranh hay tiềm năng về sinh thái nông nghiệp của Việt Nam có giới hạn. Các loại cây trồng vật nuôi ưu tiên cần được lựa chọn trên cơ sở nhu cầu của thị trường thay vì dựa vào tiềm năng cung cấp. Đồng thời, cần xem xét áp dụng cơ chế chuyên hoá ở mức độ nhất định tại từng vùng, miền căn cứ vào các điều kiện sinh thái nông nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của địa phương để cho các hoạt động thương mại và chế biến ở địa phương đó có thể tranh thủ được lợi thế về quy mô. Đối với những nông dân nghèo, đặc biệt là ở các hệ sinh thái bất ổn định ở vùng cao thì nên áp dụng chủ trương đa dạng hoá cây trồng và thiết lập các hệ thống sản xuất hỗn hợp (trồng trọt sử dụng các giống cây phù hợp; chăn nuôi gia súc; nuôi cá; trồng rừng, kể cả các loại lâm sản ngoài gỗ). Đặc biệt là Chính phủ có thể hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng về tiếp thị và thương mại, kể cả các chợ bán buôn nơi mà giá cả được quy định theo từng ngày. Cần tập trung hỗ trợ cho những địa phương gặp khó khăn để tránh tác động tiêu cực về công bằng xã hội.
  6. Chính phủ cần tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu, đặc biệt về cây trồng (như tạo ra các giống cây trồng năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp cụ thể và các vật tư cho sản xuất); nghiên cứu về các hệ thống sản xuất tổng hợp; và các giống gia súc. Ngoai ra, Chính phủ cần đầu tư vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ thú y và vệ sinh chuồng trại (để phòng ngừa bệnh cúm gia cầm), và cơ chế quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữa vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo). Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo. Tổng bí thư Đỗ Mười khi đó rất quan tâm đến chương trình này, ông lo lắng thế hệ con cháu mai sau bị ảnh hưởng do đói nghèo hôm nay. Nghị quyết Quốc hội Việt Nam về nhiệm vụ năm 1993 đã đánh giá cao tinh thần cộng đồng, tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa..." Sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 là "Ngày vì người nghèo", đó cũng là ngày Liên hợp quốc chọn là ngày "Thế giới chống đói nghèo". Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của chuyên gia các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như IMF, UNDP, WB,.. tổng hợp thành các mục tiêu phát triển Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hoá chiến lược bằng các chương trình, dự án được triển khai, được giám sát và đánh giá thường xuyên. Các nghiên cứu đã lập được bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8 mục tiêu: 1. Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói. 2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học. 3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ. 4. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. 5. Tăng cường sức khỏe bà mẹ. 6. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác.
  7. 7. Đảm bảo bền vững môi trường. 8. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển. Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp xóa đói giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển. Một quốc gia khi không giải quyết dứt điểm xóa đói giảm nghèo thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát triển không bền vững dẫn đến những hậu quả bất ổn định kinh tế - xã hội. Những mục tiêu đó cũng gợi mở những phương thức tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, chuẩn nghèo của thế giới quy định quốc gia có thu nhập bình quân người hàng năm là 735 USD. Thu nhập bình quân của Việt Nam khoảng 400 USD, dù có quy đổi về giá trị so sánh tương đương (PPP) vẫn chưa qua chuẩn nghèo. Ngày 29 tháng 3 năm 2005, tại Hội thảo "Hợp tác giữa các nhà tài trợ và các Tổ chức phi Chính phủ trong xóa đói giảm nghèo" theo định hướng giảm nghèo toàn diện hơn, bền vững hơn, công bằng hơn và hội nhập hơn, Việt Nam sẽ nâng chuẩn đói nghèo lên gấp hai lần. (Chuẩn đói nghèo trước đây theo mức thu nhập bình quân người /tháng theo khu vực miền núi, nông thôn, thành thị: trước năm 2000 là 45.000 đồng, 70 000 đồng và 100 000 đồng; sau năm 2000 là 80000 - 100 000 – 150 000 đồng). Theo chuẩn đói nghèo mới có hai mức: thu nhập bình quân tháng 200 000 đồng ở nông thôn và 260 000 đồng ở thành thị. Tuy nhiên một số thành phố chuẩn đó có thay đổi do yếu tố giá sinh hoạt. Ví dụ, Sở Lao động Thương binh và xã hội Hà Nội đã đệ trình UBND thành phố mức chuẩn nghèo mới: 350.000 và 270.000 đồng/người/tháng tương ứng với khu vực thành thị và nông thôn. Kết quả dưới đây đây được TCTK tính toán dựa vào số liệu thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình và chỉ số giá tiêu dùng của từng khu vực thành thị/nông thôn qua các năm để loại từ yếu tố biến động giá. Số liệu căn cứ kết quả chính thức Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002 và kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, Tổng cục Thống kê tính toán tỷ lệ (%) hộ nghèo cho năm 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo được Thủ tướng Chính phủ ban hành áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 (200 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực nông thôn, 260 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực thành thị) như sau: Năm 2002 Năm 2004 Cả nước 23,0 18,1 Chia theo khu vực Thành thị 10,6 8,6 Nông thôn 26,9 21,2 Chia theo vùng Đồng bằng sông Hồng 18,2 12,9 Đông Bắc 28,5 23,2 Tây Bắc 54,5 46,1 Bắc Trung Bộ 37,1 29,4 Duyên hải Nam Trung Bộ 23,3 21,3 Tây Nguyên 43,7 29,2 Đông Nam Bộ 8,9 6,1 Đồng bằng sông Cửu Long 17,5 15,3
  8. Nguồn: Tổng cục Thống kê tháng 7 năm 2005 “Thông cáo báo chí về tỷ lệ hộ nghèo 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010” Bản chất nghèo đói tại Việt Nam đang thay đổi Bản chất nghèo đói đang thay đổi đòi hỏi sự linh hoạt trong chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo. Kinh tế khác, đói nghèo khác Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Thanh Hòa cho biết: “Trong giai đoạn sau đổi mới 1986 đến trước năm 2006, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung được thay bằng nền kinh tế thị trường. Việt Nam nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế mở toàn cầu”. “Sự chuyển đổi này khiến đói nghèo giảm từ mức gần 58% dân số xuống còn 16%. Các chỉ số phúc lợi như tiếp cận dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng cơ bản cũng tăng tích cực. Chính phủ đầu tư nguồn lực đáng kể cho các chương trình giảm nghèo quốc gia với mục tiêu thúc đẩy phát triển trên diện rộng và cân đối về mặt xã hội”, ông Hòa nói. Ông Đặng Kim Chung, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) đánh giá sự thay đổi bối cảnh kinh tế-xã hội của đất nước dẫn đến bản chất nghèo đói cũng thay đổi. Phân tích của Trung tâm Phân tích Dự báo (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) đã chỉ ra rằng “Nghèo đói về vật chất đã chuyển từ một hiện tượng số đông thành một vấn đề cụ thể của các cộng đồng. Cộng đồng đó là những nhóm như trẻ em đường phố, người thất nghiệp và người sống ở vùng nông thôn, hẻo lánh”. “Ngoài ra, tiến trình kinh tế mới, đô thị hóa cũng dẫn đến những thách thức lớn với đời sống xã hội. Bất bình đẳng ngày càng gia tăng. Các cá nhân dễ tổn thương trước những cú sốc kinh tế-xã hội và môi trường. Xói mòn các mạng lưới an sinh cộng đồng”, phân tích nêu rõ. Thêm vào đó, khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO,) mỗi "cú sốc" của kinh tế thế giới cũng có những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam. "Ví dụ gần nhất là hiện tượng mất việc hàng loạt đầu năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới", ông Hòa phân tích. Chính vì thế, ông Đặng Kim Chung cho rằng, công cuộc xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam đang đối diện với bối cảnh nghèo đói thay đổi nhanh chóng. Khuyến nghị mở rộng bảo trợ xã hội
  9. Trên nền tảng nhận thức về hiện tượng nghèo trong giai đoạn hiện nay, nhóm nghiên cứu của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội khuyến nghị mở rộng bảo trợ xã hội cho các nhóm người nghèo. Cụ thể là: Sau năm 2010 chương trình mục tiêu quốc gia cần tiến tới mở rộng và thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội bao phủ toàn bộ các đối tượng dễ bị tổn thương. “Điều này phù hợp với những nước có thu nhập trung bình và đã thoát khỏi diện nghèo đói phổ biến, nhưng vẫn có một số nhóm người dễ bị tổn thương trước những cú sốc. Bên cạnh đó, chi phí thực hiện các chính sách này thấp hơn nhiều so với các chương trình mục tiêu”, ông Chung phân tích. Ông Ngô Trường Thi, Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) khẳng định, Bộ đang cùng với Chính phủ xây dựng một chiến lược an sinh xã hội tổng thể, dài hạn nhằm bảo vệ người dân trước những rủi ro về kinh tế-xã hội để bổ sung cho các hỗ trợ về giảm nghèo. Ngoài ra, sẽ có những phương pháp mới trong hỗ trợ giảm nghèo có mục tiêu như: Hỗ trợ trọn gói cho các huyện và quỹ phát triển cộng đồng; chi trả trực tiếp có điều kiện hoặc gói hỗ trợ thu nhập cơ bản. Địa phương hóa các chương trình Về phía địa phương, theo nhóm nghiên cứu, cần đảm bảo các chương trình hỗ trợ đến được với người nghèo và có sự phối kết hợp giữa các chính sách thông qua tiến trình tăng cường kinh tế xã hội tại địa phương. Điều này sẽ giúp giải quyết nghèo đói theo cách tiếp cận đa chiều và đặc thù địa phương. Các địa phương sẽ tự xem xét để tập trung nguồn lực vào các vùng nghèo nhất. Ngoài ra, chỉ cơ sở mới có thể xây dựng các gói hỗ trợ gắn với nhu cầu của mình. “Trên thực tế, lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là yếu tố quyết định cho các hoạt động giảm nghèo trong tương lai. Nên kết hợp nó với cơ chế hỗ trợ tài chính linh hoạt từ trung ương. Việc xây dựng kế hoạch nên được thực hiện có hệ thống. Điều này giúp tránh trùng lắp các chương trình. Đồng thời cũng giúp có được một chương trình tổng thế tốt hơn”, ông Chung nói. Các chương trình mục tiêu được khuyến cáo nên tập trung vào những nơi có tỷ lệ nghèo cao. Nghèo đói ngày càng phức hợp, nên cần phải có những giải pháp hỗ trợ tổng hợp, vừa nhằm cải thiện môi trường, vừa hỗ trợ có mục tiêu cho các hộ gia đình và cá nhân có nhu cầu cao nhất. Một điểm quan trọng cũng được nhắc tới là hệ thống phân loại và xác định hộ nghèo cần phải được điều chỉnh đơn giản, minh bạch và khách quan. Mức độ nghèo đói phải là điểm mấu chốt trong quyết định phân bổ nguồn lực, và hỗ trợ tài chính trọn gói./. Các mục tiêu của chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo đến năm 2010: - Cung cấp đầy đủ cơ sở hạ tầng cơ bản cho các xã đặc biệt khó khăn thuộc các vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. - 6 triệu lượt hộ nghèo được cấp tín dụng ưu đãi.
  10. - 4,2 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn về khuyến nông-lâm-ngư, chuyển giao kỹ thuật và họat động kinh doanh. - 150.000 người nghèo được miễn giảm học phí đào tạo nghề. - 100% người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, khi ốm đau đi khám chữa bệnh được Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán. - 19 triệu lượt học sinh nghèo, trong đó có 9 triệu học sinh tiểu học được miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường. - 170.000 cán bộ làm công tác giảm nghèo, trong đó 95% cán bộ cấp cơ sở được tập huấn nâng cao năng lực. - 500.000 hộ người được hỗ trợ để xóa nhà tạm. - 98% người n Xóa đói, giảm nghèo ở nước ta - thành tựu, thách thức và giải pháp (15/02/2006 08:17) Ở Việt Nam, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh t ế - xã hội b ức xúc. Xóa đói, gi ảm nghèo toàn di ện, b ền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết s ức quan tâm và xác đ ịnh là m ục tiêu xuyên su ốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong nh ững nhi ệm v ụ quan tr ọng góp ph ần phát tri ển đ ất n ước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp v ới th ực ti ễn n ước ta, công cu ộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được thành t ựu đáng kể, có ý nghĩa to l ớn c ả v ề kinh t ế, chính tr ị, xã h ội và an ninh - quốc phòng, phát huy được bản chất t ốt đ ẹp c ủa dân t ộc ta và góp ph ần quan tr ọng trong s ự nghiệp phát triển đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong khoảng th ời gian 5 năm t ừ 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2004 với 1,44 tri ệu h ộ, bình quân m ỗi năm gi ảm 34 v ạn hộ, đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 tri ệu h ộ. "Nh ững thành t ựu gi ảm nghèo c ủa Vi ệt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát tri ển kinh t ế". Đó là đánh giá trong "Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân hàng thế gi ới. Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng v ới định h ướng chung là t ừng b ước ti ếp c ận với trình độ của các nước đang phát triển trong khu vực, nên chuẩn nghèo đã đ ược đi ều ch ỉnh l ại, trong đó có tính đến các nhân tố ảnh hưởng. Chuẩn nghèo m ới áp d ụng cho giai đo ạn 2006 - 2010 quy đ ịnh: Hộ nghèo là những hộ ở khu vực nông thôn có thu nh ập bình quân 200.000 đ ồng/ng ười/tháng tr ở xu ống, đối với những hộ ở khu vực thành thị có thu nhập bình quân t ừ 260.000 đ ồng/ng ười/tháng tr ở xu ống. Theo quy định này, ước tính năm 2005 cả nước ta có khoảng 3,9 tri ệu h ộ nghèo, chi ếm 22% s ố h ộ trong toàn quốc; Các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (44%) và Tây Nguyên (40%); vùng có t ỉ l ệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%). Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong nhi ều năm qua, công cu ộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được một s ố thành t ựu quan trọng, nh ưng phía tr ước v ẫn còn không ít khó khăn và thách thức: Thứ nhất là, về nhận thức, một bộ phận không nhỏ người nghèo và đ ịa ph ương nghèo v ẫn còn t ư t ưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nên chưa chủ động vượt lên để thoát nghèo. Thứ hai là, sự đánh giá tỷ lệ nghèo còn thấp hơn thực t ế ở một vài đ ịa ph ương, nên m ột b ộ ph ận ng ười thực sự nghèo chưa được tiếp cận với các chương trình xóa đói, giảm nghèo. Thứ ba là, nguồn lực huy động cho chương trình xóa đói, gi ảm nghèo còn khiêm t ốn. H ằng năm, ngân sách nhà nước hỗ trợ cho chương trình xóa đói, giảm nghèo m ới chỉ đ ược bình quân kho ảng 60.000 đồng/người. Trong khi đó, một số địa phương chưa chủ động huy đ ộng hoặc huy động ch ưa t ương x ứng với tiềm năng của nguồn lực tại chỗ; chưa lồng ghép hài hòa các loại ngu ồn l ực trên cùng đ ịa bàn và
  11. chưa huy động được sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các tổ ch ức, các cộng đ ồng và các cá nhân có điều kiện vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Vì v ậy, ch ưa đáp ứng đ ược nhu c ầu c ần h ỗ tr ợ của người nghèo để đủ điều kiện thoát nghèo bền vững, d ẫn đến m ục tiêu thoát nghèo khó th ực hi ện được. Thứ tư là, một số cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ xóa đói gi ảm nghèo ch ưa th ật phù h ợp, vi ệc t ổ chức thực hiện còn bất cập, còn mang tính bao cấp, nên không t ạo đ ược đ ộng l ực đ ể ng ười nghèo ch ủ động vượt nghèo. Biện pháp hỗ trợ làm nhà ở cho đồng bào nghèo ch ưa thật phù h ợp v ới nhu c ầu và t ập quán của từng dân tộc, từng địa phương; có địa phương ch ưa chú ý đ ầy đ ủ đ ến quy ho ạch s ản xu ất lâu dài và môi trường sống của nhân dân trong khi xây d ựng các khu dân c ư v ượt lũ; m ức chi phí cho khám, chữa bệnh còn thấp; chính sách trợ cước, trợ giá cũng còn b ất h ợp lý; m ức v ốn vay tín d ụng ưu đãi còn thấp và chưa thật phù hợp với chu kỳ s ản xuất kinh doanh; c ơ ch ế phân b ổ v ốn còn mang tính bình quân, v.v.. Ở một số nơi, nhất là vùng cao, vùng sâu thông tin đến v ới ng ười dân ch ưa đ ầy đ ủ nên nh ận thức về các chính sách của Nhà nước đối với người nghèo còn h ạn ch ế. Nh ững khi ếm khuyết nói trên đã làm cho hiệu quả của chương trình xóa đói, giảm nghèo bị gi ảm bớt một ph ần. Thứ năm là, việc tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo không đ ồng đ ều ở m ột s ố đ ịa phương. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng l ực. Ph ần l ớn cán b ộ th ực thi ch ương trình ở cấp xã đều kiêm nhiệm, chưa được đào t ạo, bồi d ưỡng th ường xuyên. Vi ệc theo dõi, giám sát chương trình chưa có hệ thống và đồng bộ. Công tác sơ kết, t ổng k ết, đánh giá ch ương trình ch ủ y ếu dựa trên các báo cáo với lượng thông tin chưa đầy đủ. Do nhiều yếu tố tác động khách quan trong quá trình phát tri ển kinh t ế - xã h ội c ủa đ ất n ước, tình tr ạng nghèo đói hiện nay đang vận động theo hướng: - Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu h ướng ch ậm l ại, các h ệ s ố tăng tr ưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 - 1998, gi ảm xu ống còn kho ảng 1 - 0,3 giai đo ạn 1998 - 2004. Tốc độ giảm nghèo thể hiện rõ nhất là ở nh ững vùng b ị chia c ắt v ề đ ịa lý, k ết c ấu h ạ t ầng và mặt bằng dân trí còn thấp. Một số chính sách và giải pháp đ ộng l ực cho xóa đói, gi ảm nghèo đã b ộc lộ những hạn chế, không còn tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn đầu, nh ư các chính sách về đ ất đai, v ề giao đất, giao rừng, về khoán trong nông nghiệp,... Vì vậy, c ần ph ải có đ ộng l ực m ới cho t ương lai, đó là chính sách phát triển và chuyển giao công nghệ sinh h ọc, công nghệ sau thu ho ạch đ ể nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị sản xuất trên m ột diện tích gieo tr ồng, chính sách chuy ển đ ổi c ơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh ph ục v ụ cho xu ất kh ẩu và cung c ấp nguyên liệu cho các ngành chế biến (bông, cà phê, cao su, h ạt đi ều, chè, mía, g ỗ, tre, lúa, ngô, khoai, sắn, vừng, lạc, đậu...); chính sách phát triển kinh t ế trang trại, phát tri ển ti ểu, th ủ công nghi ệp, doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; chính sách khuyến khích chuy ển d ịch c ơ c ấu kinh t ế, đ ưa chăn nuôi đ ại gia súc có hiệu quả kinh tế cao thành ngành sản xuất chính,v.v.. - Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp t ừ 1,7 đ ến 2 l ần t ỷ l ệ h ộ nghèo bình quân c ủa c ả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân t ộc thiểu số trong t ổng s ố h ộ nghèo c ủa c ả n ước có chi ều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ l ệ h ộ nghèo t ập trung ch ủ yếu ở nh ững vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, k ết c ấu h ạ t ầng th ấp kém, trình đ ộ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, s ơ khai. Ngoài ra, xuất hi ện m ột s ố đ ối t ượng nghèo m ới ở nh ững vùng đang đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô th ị, h ọ th ường g ặp nhi ều khó khăn h ơn và ph ải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở t ại. Đây là những đi ều kiện cơ b ản làm gia tăng yếu t ố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong t ốc độ giảm nghèo gi ữa các vùng. Các vùng Tây B ắc, B ắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là nh ững vùng có t ỷ l ệ h ộ nghèo cao nhất. - Chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu h ướng gia tăng: Trong nh ững năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo t ừ 4,3 l ần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nh ất t ừ 12,5 l ần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2004; Mức độ nghèo còn khá cao, thu nh ập bình quân c ủa nhóm h ộ nghèo ở nông thôn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo s ẽ làm cho tình tr ạng nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để gi ảm nghèo s ẽ càng khó khăn h ơn.
  12. Mặc dù, trong những năm qua số hộ nghèo trong cả nước đã gi ảm m ạnh, song trên th ực t ế công cu ộc xóa đói, giảm nghèo còn vô cùng gian nan. Nguy cơ tái nghèo có th ể tăng do tác đ ộng c ủa kinh t ế th ị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; do đầu t ư phát tri ển kinh t ế gi ữa các vùng ch ưa đ ồng đ ều; c ơ h ội v ề việc làm của người nghèo ngày càng khó khăn hơn do đổi m ới công ngh ệ trong s ản xu ất, yêu c ầu trình độ của người lao động ngày càng cao. Đói nghèo trở lại là vấn đ ề luôn rình r ập m ột b ộ ph ận khá l ớn s ố hộ nghèo vừa vượt khỏi ngưỡng nghèo. Chỉ cần gặp thiên tai, d ịch bệnh, đau ốm ho ặc bi ến đ ộng giá c ả, thì các hộ này lại dễ rơi vào tình trạng đói nghèo. Để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn m ới t ừ 22% năm 2005 xuống còn 11% năm 2010, cải thiện đời sống người nghèo, hạn chế t ốc độ gia tăng chênh lệch v ề thu nh ập, m ức s ống gi ữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, gi ữa nhóm hộ giàu và nhóm h ộ nghèo, trong th ời gian t ới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau đây: 1 - Dựa trên sự tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm để nâng cao đời sống cho ng ười nghèo Bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững là điều ki ện tiên quyết đ ể gi ảm nghèo. Kinh nghi ệm ở một số nước và thực tế ở nước ta cho thấy trong gần một thập k ỷ v ừa qua, n ước ta đ ạt đ ược thành t ựu tích cực về giảm nghèo là dựa trên sự tăng trưởng kinh t ế cao và liên t ục. Đ ể b ảo đ ảm cho kinh t ế tăng trưởng nhanh và ổn định, vấn đề cải cách cơ cấu kinh t ế và bộ máy quản lý nhà n ước đã tr ở thành m ột đòi hỏi cấp thiết trên tất cả các mặt chủ yếu như thể chế kinh t ế, thúc đ ẩy th ị tr ường phát tri ển, đ ẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện môi trường đầu tư, cải cách m ạnh m ẽ khu v ực kinh t ế nhà n ước, xóa b ỏ bao cấp, hỗ trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nh ỏ, cải cách hành chính và các ho ạt đ ộng ph ục vụ đầu tư, sản xuất kinh doanh,v.v.. Phát triển kinh tế, xã hội đồng bộ t ừ miền xuôi đến mi ền núi, t ừ vùng thuận l ợi đ ến vùng sâu, vùng xa. Chú trọng giúp các địa phương nghèo phát triển kinh t ế thông qua chuy ển d ịch c ơ c ấu kinh t ế, c ơ c ấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hóa, đ ổi m ới c ơ c ấu lao đ ộng theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm d ần t ỷ tr ọng lao đ ộng nông nghi ệp. Có được như vậy, mới tạo thêm nhiều việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Vi ệc gi ảm t ỷ l ệ nghèo đói nghiêm trọng ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đòi h ỏi có s ự đ ầu t ư m ạnh m ẽ, liên t ục c ủa Nhà n ước và s ự chủ động vượt lên của chính địa phương và người nghèo ở những nơi này. 2 - Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, phát tri ển các loại hình d ịch v ụ giáo d ục, y t ế, văn hóa và b ảo vệ môi trường Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, h ệ th ống đi ện, tr ường h ọc, c ơ s ở khám chữa bệnh và các thiết chế văn hóa cho các địa ph ương nghèo để s ớm kh ắc ph ục tình tr ạng thi ếu điện, thiếu nước sạch, thiếu thuốc chữa bệnh, thiết bị y t ế nghèo nàn, l ạc h ậu, đ ồng th ời th ực hi ện đ ồng bộ các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y t ế, đặc bi ệt chú tr ọng đào t ạo, tăng c ường năng l ực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y t ế và cung cấp đ ầy đ ủ thuốc ch ữa bệnh, phù h ợp v ới thu nh ập c ủa người dân. Kết hợp chặt chẽ chương trình xóa đói, gi ảm nghèo v ới các ch ương trình, k ế ho ạch phát tri ển kinh tế - xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Giải pháp nói trên nhằm nâng cao thiết thực m ức s ống và ch ất l ượng cuộc s ống nhân dân ở các xã nghèo, vùng nghèo, giảm dần khoảng cách giữa các vùng, các dân t ộc và các t ầng l ớp dân c ư; b ảo đ ảm cho người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ xã hội, đ ặc bi ệt là v ề chăm sóc y t ế, giáo d ục và k ế hoạch hóa gia đình, sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt và nguồn gốc c ủa nghèo đói. 3 - Xã hội hóa các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là về nguồn l ực Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, nguồn lực của Nhà nước vừa có vai trò ch ủ đ ạo, v ừa mang tính xúc tác, khơi nguồn, nguồn lực của cộng đồng, của quốc t ế cũng có có vai trò r ất quan tr ọng. Xây d ựng và phát triển các chương trình "Những tấm lòng từ thiện"; "Nối vòng tay l ớn"; "M ột th ế gi ới trái tim"; "Qu ỹ tình thương"; "Nhà đại đoàn kết"..., đã thu hút đông đ ảo các cá nhân, c ộng đ ồng, doanh nghi ệp, các t ổ chức xã hội trong nước và quốc tế tham gia hỗ trợ ng ười nghèo. Cuộc v ận đ ộng "Ngày vì ng ười nghèo",
  13. "xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo", đã giúp cho hàng trăm nghìn h ộ nghèo s ửa ch ữa ho ặc xây m ới được nhà ở. Các mô hình tín dụng - tiết kiệm, nông dân s ản xuất gi ỏi, thanh niên làm kinh t ế, v.v. đã góp phần cải thiện điều kiện sống cho nhiều thành viên của các t ổ chức, các đoàn thể xã h ội. Ngoài các nguồn lực trong nước và nguồn hỗ trợ tài chính c ủa c ộng đ ồng qu ốc t ế, đi ều quan tr ọng h ơn là chúng ta đã tiếp thu có hiệu quả sự trợ giúp k ỹ thuật c ủa bè b ạn qu ốc t ế và đã nhân r ộng đ ược nhi ều bài học kinh nghiệm và mô hình t ốt về xóa đói, gi ảm nghèo nh ư: ph ương pháp l ập k ế ho ạch có s ự tham gia của người dân, vấn đề giới trong xóa đói, giảm nghèo, c ơ ch ế tăng c ường phân c ấp cho đ ịa ph ương, đặc biệt là cấp xã,... Những kinh nghiệm và bài học quý báu ấy đã góp ph ần nâng cao ch ất l ượng, hi ệu quả và tính bền vững của công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Trong những năm tới, xã hội hóa các hoạt động xóa đói gi ảm nghèo c ần đ ược các c ấp, các ngành, các tổ chức xã hội và mọi người tiếp tục quan tâm và thúc đẩy lên m ột t ầm cao m ới, nh ằm tăng c ường h ơn nữa trách nhiệm của xã hội và của mọi người dân trong vi ệc giải quyết vấn đ ề nghèo đói ở n ước ta. 4 - Đổi mới công tác tổ chức, bảo đảm tính công khai, minh b ạch và làm rõ trách nhi ệm trong vi ệc l ập k ế hoạch, tạo điều kiện để chính quyền địa phương chủ động, ng ười dân bàn b ạc, th ảo lu ận, nh ằm t ạo ra sự đồng thuận và hợp tác, quyết tâm vượt nghèo, vươn lên làm giàu c ủa các xã nghèo, vùng nghèo và chính bản thân người nghèo trong quá trình triển khai ch ương trình xóa đói, gi ảm nghèo Những năm gầy đây, các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhi ều ti ến b ộ trong công tác ch ỉ đ ạo, đi ều hành bảo đảm thực hiện có chất lượng các chương trình xóa đói, giảm nghèo. C ơ ch ế t ự ch ủ về phân b ổ ngân sách, tổ chức thực hiện và quản lý các chương trình trên c ơ s ở nhu c ầu th ực ti ễn, l ập k ế ho ạch và huy động nguồn lực trên địa bàn đã t ạo điều kiện cho các cấp chính quy ền ch ủ đ ộng, t ự gi ải quy ết và t ự chịu trách nhiệm về hiệu quả của chương trình. Song trên thực t ế, vi ệc thực hi ện quy ền ki ểm tra, giám sát và ra quyết định tại cấp xã vẫn rất hạn chế. Vì vậy, cần t ạo m ọi đi ều ki ện đ ể phát huy tính năng động, chủ động của cơ sở, phát huy sức mạnh về vật chất và tinh thần c ủa c ả c ộng đ ồng đ ể nâng cao hiệu quả của chương trình xóa đói, giảm nghèo. Hai yếu tố quan trọng nhất để thực hiện giảm nghèo là, Nhà nước t ạo đ ộng l ực gi ảm nghèo thông qua các chính sách phát triển kinh t ế - xã hội và ý chí v ượt nghèo c ủa ng ười nghèo. Các ch ương trình gi ảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo b ước đ ầu đ ược nhân dân trong c ộng đồng tham gia, thảo luận và quyết định. Người dân t ừng b ước nh ận thức đ ược vai trò và trách nhi ệm c ủa mình trong việc tham gia thực hiện các chương trình giảm nghèo. Ph ương châm "dân bi ết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" phải được thực hiện xuyên suốt trong các hoạt đ ộng c ủa ch ương trình gi ảm nghèo ở địa phương. Trong thời gian tới, công tác xóa đói, giảm nghèo cần t ập trung vào các đ ịa bàn là các xã khó khăn nh ất ở vùng căn cứ cách mạng, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đ ồng bào dân t ộc ít người và các đối tượng khó khăn nhất, trong đó, đ ặc biệt ưu tiên ph ụ n ữ và tr ẻ em nghèo. Đ ộng viên cộng đồng người nghèo phát huy nội lực, t ự vươn lên thoát nghèo, k ết h ợp v ới s ự h ỗ tr ợ c ủa Nhà n ước và các cộng đồng khác, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn l ực, k ết h ợp s ử d ụng có hi ệu qu ả các nguồn lực quốc tế; có chính sách, cơ chế khuyến khích và các giải pháp có tính đ ột phá, áp d ụng ti ến b ộ khoa học - kỹ thuật, chuyển giao công nghệ thích hợp đến các xã nghèo, ng ười nghèo, khuy ến khích các doanh nghiệp đào tạo nghề và tạo việc làm ổn định và tăng thu nh ập cho ng ười nghèo đ ể xóa đói, gi ảm nghèo bền vững, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Chống đói nghèo là một cuộc chiến đấu lâu dài và quyết liệt. M ặc dù đ ất n ước còn nhi ều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn luôn ưu tiên giành nguồn l ực để xóa đói, gi ảm nghèo; đ ồng th ời th ực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế về việc thực hiện các chỉ tiêu thiên niên k ỷ, trong đó có các ch ỉ tiêu về xóa đói, giảm nghèo. Sắp tới, để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 và Ngh ị quy ết Đ ại h ội l ần th ứ X c ủa Đ ảng, Chính phủ sẽ tiếp tục tạo lập động lực để phát triển mạnh m ẽ kinh t ế - xã h ội, đ ồng th ời ch ủ đ ộng ch ỉ đạo thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo với sự đ ồng tâm hi ệp l ực c ủa các ngành, các c ấp, c ủa c ả cộng đồng, của các tổ chức kinh tế, xã hội và của chính người nghèo.
  14. Với quyết tâm cao và tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các gi ải pháp, chúng ta nh ất đ ịnh s ẽ th ực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả và đầy tính nhân văn đã cam k ết v ới c ộng đ ồng qu ốc t ế - m ục tiêu xóa đói, giảm nghèo trên đất nước ta. Nghèo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm Bài này viết về phân biệt giàu - nghèo. Để xem bài viết về Truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, xem Nghèo (truyện ngắn). Đây là một bài viết bách khoa có tên Nghèo. Về nghĩa của từ này, xem Nghèo tại Wiktionary. Sưu tập hình ảnh vùng Oak Ridge, Honduras
  15. Một bé trai khoe búp bê mới tìm được tại nơi đổ rác Đông Cipinang ở Jakarta, Indonesia 2004. Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia. Mục lục [ẩn] • 1 Các định nghĩa o 1.1 Nghèo tuyệt đối o 1.2 Nghèo tương đối o 1.3 Ranh giới nghèo tương đối o 1.4 Định nghĩa theo tình trạng sống • 2 Nguyên nhân • 3 Mức độ o 3.1 Nghèo trên toàn thế giới o 3.2 Nạn nghèo tại Áo o 3.3 Nạn nghèo tại Đức o 3.4 Nạn nghèo ở Mỹ o 3.5 Nạn nghèo ở Việt Nam và chương trình Xóa đói giảm nghèo  3.5.1 Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam  3.5.2 Chính sách xóa đói giảm nghèo  3.5.3 Hỗ trợ quốc tế cho chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam  3.5.4 Đánh giá về chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam  3.5.5 Thành quả xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam • 4 Nghèo và môi trường • 5 Ghi chú • 6 Tham khảo • 7 Đọc thêm • 8 Liên kết ngoài
  16. [sửa] Các định nghĩa [sửa] Nghèo tuyệt đối Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta." Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc 1997). Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001- 2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Tiêu chuẩn nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập bình quân đầu người dưới 330.000 đồng/tháng hoặc 4.000.000 đồng/năm (tương ứng 284USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360 USD/năm của quốc tế). [sửa] Nghèo tương đối Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
  17. Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng. [sửa] Ranh giới nghèo tương đối Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối. Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào cuộc sống xã hội. Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị. [sửa] Định nghĩa theo tình trạng sống Cái gọi là định nghĩa tình trạng sống lưu ý đến những khía cạnh khác ngoài thu nhập khi định nghĩa "nghèo con người", thí dụ như cơ hội đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả năng ảnh hưởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc cũng đã đưa ra chỉ số phát triển con người (tiếng Anh: human development index–HDI). Các chỉ thị cho HDI bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ mù chữ, trình độ học vấn, sức mua thực trên đầu người và nhiều chỉ thị khác. Trong "Báo cáo phát triển thế giới 2000" Ngân hàng Thế giới đã đưa ra bên cạnh các yếu tố quyết định khách quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như phẩm chất và tự trọng. [sửa] Nguyên nhân
  18. Mẹ và những người con trong thời khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Mỹ năm 1936. Ảnh của D. Lange Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê ra là chiến tranh, cơ cấu chính trị (thí dụ như chế độ độc tài, các quy định thương mại quốc tế không công bằng), cơ cấu kinh tế (phân bố thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền được), thất bại quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, thiên tai, dịch bệnh, dân số phát triển quá nhanh và không có bình đẳng nam nữ. Yếu tố nguy hiểm chính cho sự nghèo tương đối là thất nghiệp và thiếu việc làm. Ngoài ra những yếu tố nguy hiểm khác là phân bố thu nhập quá mất cân bằng, thiếu giáo dục và bệnh tật mãn tính. Cho đến thế kỷ 19 sự nghèo nàn phần lớn không được xem như là có nguyên nhân từ xã hội mà là do lỗi lầm cá nhân hay "trời muốn". Cùng với công nghiệp hóa và các tranh cãi chung quanh "câu hỏi xã hội" tại châu Âu, quan điểm cho rằng hiện tượng nghèo nàn phổ biến là kết quả của sự thất bại của thị trường và có thể được làm giảm thiểu bằng các biện pháp quốc gia. Thí dụ như ở Liên hiệp Anh, việc chống nghèo chính là khởi điểm của một chính sách xã hội hiện đại. Thế nhưng trong thời gian gần đây hiệu quả của việc chống nghèo bằng chính sách xã hội tại nhiều nước công nghiệp đã bị đặt câu hỏi vì nhiều hình thức nghèo mới xuất hiện. [sửa] Mức độ
  19. Khu nhà người nghèo tại Soweto, Cộng hòa Nam Phi [sửa] Nghèo trên toàn thế giới Theo số liệu của Ngân hàng Thế Giới thì trong năm 2001 trên toàn thế giới có 1,1 tỉ người (tương ứng với 21% dân số thế giới) có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo. (Năm 1981 là 1,5 tỉ người, vào thời gian đó là 40% dân số thế giới, năm 1987 là 1,227 tỉ người tương ứng 30% và năm 1993 là 1,314 tỉ người tương đương với 29%). Phần lớn những người này sống tại châu Á, thế nhưng thành phần những người nghèo trong dân cư tại châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên của Liên Hiệp Quốc trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã nhất trí với mục tiêu cho đến năm 2015 giảm một nửa số những người có ít hơn 1 đô la Mỹ. (Điểm 1 của những mục đích phát triển thiên niên kỷ). Theo thông tin của Ngân hàng Thế Giới vào tháng 4 năm 2004 thì có thể đạt được mục đích này nhưng không phải ở tất cả các nước. Trong khi nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt (từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á) thì con số những người nghèo nhất lại tăng lên ở châu Phi (gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số. Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân số thế giới.
  20. Một gia đình thuyền nhân năm 1979 Nếu xếp theo thu nhập bình quân đầu người thì các nước sau có tỉ lệ người nghèo cao nhất: Malawi, Tanzania, Guiné-Bissau, Burundi và Yemen Bên cạnh nguyên nhân chính trị, nghèo đói cũng là một nguyên nhân lớn của hiện tượng dân di cư từ vùng núi về đồng bằng, từ nông thôn về thành thị, từ các nước thứ ba về các nước phát triển gây nên hiện tượng thuyền nhân. [sửa] Nạn nghèo tại Áo Theo số liệu của Bộ Xã hội ("Báo cáo về tình trạng xã hội 2003–2004") thì trong năm 2003 có hơn 1 triệu người ở Áo (13,2% dân cư) có nguy cơ nghèo. Trong năm 2002 là 900.000 hay 12%, năm 1999 là 11%. Ranh giới nguy cơ nghèo là 60% của thu nhập trung bình. Theo đó thì cứ mỗi 8 người thì có 1 người là có thu nhập ít hơn 785 Euro/tháng. Phụ nữ có tỷ lệ nguy c ơ nghèo cao hơn (14%). Bên cạnh nghèo về thu nhập như là chỉ số cho tình trạng tài chính của một gia đình, ở Áo còn có „nghèo nguy kịch“ khi ngoài việc thiệt thòi về tài chính còn có thiếu thốn hay hạn chế nhất định trong những lãnh vực sống cơ bản. Trong năm 2003 có 467.000 người (5,9% dân số) nghèo nguy kịch. Trong năm trước còn là 300.000 người hay 4%. Theo một bản báo cáo của hội nghị về nạn nghèo, lần đầu tiên có số liệu về cái gọi là "working poor": tại Áo có 57.000 người nghèo mặc dầu là có việc làm. Ngoài ra mức độ nguy cơ nghèo phụ thuộc vào công việc làm: Những người làm việc cho đến 20 tiếng hằng tuần có nguy cơ nghèo gấp 3 lần, những người làm việc từ 21 đến 30 tiếng có nguy cơ nghèo gấp đôi những người làm việc từ 31 đến 40 tiếng. [sửa] Nạn nghèo tại Đức Thu nhập tương đương sau thuế hằng tháng do Cục Thống kê Liên bang tính toán vào năm 2002 là 1.217 Euro trong các tiểu bang cũ và 1.008 Euro trong các nước tiểu bang mới. Theo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2