ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
*****************
NGUYỄN MẠNH TUẤN
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. MAI THỊ THANH XUÂN
Hà Nội – 2009
MỤC LỤC
Trang
1
LỜI MỞ ĐẦU
ch ¬ng 1: Nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ kinh nghiÖm
quèc tÕ vÒ c¹nh tranh vµ n©ng cao n¨ng lùc c¹nh
5
tranh s¶n phÈm
5
1.1. C¹nh tranh, n¨ng lùc c¹nh tranh vµ c¸c nh©n tè ¶nh h ëng ®Õn
n¨ng lùc c¹nh tranh
5
1.1.1. Khái niệm c¹nh tranh, c¸c cÊp ®é c¹nh tranh vµ n¨ng lùc c¹nh tranh
11
1.1.2 C¸c nh©n tè ¶nh h ëng ®Õn n¨ng lùc c¹nh tranh
16
1.2 Vai trò của viÖc n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh s¶n phÈm ®èi víi
17
doanh nghiÖp
17
1.2.1. T¨ng doanh thu, thÞ phÇn vµ lîi nhuËn cho doanh nghiÖp
17
1.2.2. T¹o dùng th ¬ng hiÖu vµ n©ng cao vÞ thÕ cña doanh nghiÖp
18
1.3. Tiªu chÝ ®¸nh gi¸ n¨ng lùc c¹nh tranh cña s¶n phÈm
18
1.3.1. ThÞ tr êng vµ thÞ phÇn
19
1.3.2. Chi phÝ s¶n xuÊt
19
1.3.3. Lîi nhuËn
19
1.3.4. Gi¸ trÞ kim ng¹ch xuÊt khÈu
20
1.4. Kinh nghiệm cña mét sè n íc trong viÖc n©ng cao n¨ng lùc c¹nh
20
tranh cña ngµnh cµ phª
22
1.4.1. Kinh nghiệm cña Braxin
23
1.4.2. Kinh nghiệm cña Colombia
1.4.3. Bµi häc rót ra cho ViÖt Nam
CHƢƠNG 2: Thùc tr¹ng n¨ng lùc c¹nh tranh cña cµ
24
phª ViÖt Nam tõ n¨m 2000 ®Õn nay
87
24
2.1. Kh¸i qu¸t vÒ s¶n xuÊt vµ xuÊt khÈu cµ phª ë ViÖt Nam tõ n¨m
27
2000 ®Õn n¨m 2008
30
2.1.1. T×nh h×nh s¶n xuÊt
32
2.1.2. VÒ xuÊt khÈu
32
2.2. Ph©n tÝch thùc tr¹ng n¨ng lùc c¹nh tranh cña cµ phª ViÖt Nam
39
2.2.1. C¹nh tranh vÒ chÊt l îng vµ chñng lo¹i
42
2.2.2. C¹nh tranh vÒ chi phÝ vµ gi¸ c¶
43
2.2.3. C¹nh tranh thÞ tr êng
43
2.3. Đánh giá chung vÒ n¨ng lùc c¹nh tranh cña cµ phª ViÖt Nam
45
2.3.1. Nh÷ng ®iÓm m¹nh
2.3.2. Nh÷ng h¹n chÕ vµ th¸ch thøc ®Æt ra cho ngµnh cµ phª ViÖt Nam
CHƢƠNG 3: Gi¶i ph¸p n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh
55
55
cña cµ phª ViÖt Nam
55
3.1. Dù b¸o thÞ tr êng cµ phª trong nh÷ng n¨m tíi
57
3.1.1. Bèi c¶nh míi t¸c ®éng ®Õn ho¹t ®éng s¶n xuÊt vµ xuÊt khÈu cµ phª
3.1.2. Dù b¸o thÞ tr êng cµ phª thÕ giíi ®Õn n¨m 2015
59
3.2. Mét sè gi¶i ph¸p chñ yÕu n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña cµ
phª ViÖt Nam
59
3.2.1. T¨ng c êng ®Çu t cho nghiªn cøu khoa häc, ®æi míi c«ng nghÖ
chÕ biÕn
65
3.2.2. Ph¸t triÓn vïng nguyªn liÖu tËp trung, chuyªn canh, c«ng nghÖ cao
67
69
3.2.3. §a d¹ng ho¸ c¸c chñng lo¹i s¶n phÈm cµ phª
3.2.4. X©y dùng th ¬ng hiÖu m¹nh cho cµ phª ViÖt Nam
74
3.2.5. N©ng cao hiÓu biÕt cña ng êi d©n vÒ kinh tÕ thÞ tr êng vµ héi nhËp
75
kinh tÕ quèc tÕ
78
3.2.6. N©ng cao vai trß cña HiÖp héi cµ phª ca cao ViÖt Nam( Vicofa)
80
KẾT LUẬN
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
88
Danh môc c¸c tõ viÕt t¾t
ASEAN: (The Association Of South East Asian Nations): HiÖp héi c¸c quèc
Gia §«ng Nam ¸.
ICO : (The International Coffee Organization): Tæ chøc Cµ phª thÕ giíi.
OECD : (The Organization for Economic Cooperation And Deverlopment):
Tæ chøc hîp t¸c vµ ph¸t triÓn kinh tÕ.
VICOFA: (The Vietnam Cocoa – Coffee Asociation): HiÖp héi Cµ phª Ca
Cao ViÖt Nam
Wto : (The world Trade Organization): Tæ chøc Th ¬ng m¹i ThÕ giíi.
Wef: (The world Economic Forum): DiÔn ®µn Kinh tÕ ThÕ giíi.
ISO: (The International Organization for Standardiration): HiÖp héi
Tiªu chuÈn quèc tÕ.
CECAFE: (The Council of Brazilian Green Coffee Exporters): Hội đồng Các
Nhµ xuÊt khÈu cµ phª Braxin.
FNC: (The Colombian Coffee Federation): Liªn ®oµn cµ phª quèc gia
Colombia.
GCI : (The Growth Competitiveness Index) n¨ng lùc c¹nh tranh t¨ng tr ëng.
WIPO : (The World Intellectual Property Organization): Tæ chøc së h÷u
trÝ tuÖ thÕ giíi.
89
Danh môc b¶ng biÓu
B¶ng 2.1: Thèng kª s¶n l îng cµ phª c¸c n íc trªn thÕ giíi tõ
2002 - 2007
B¶ng 2.2: Sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam (2000 - 2008).
B¶ng 2.3: Khèi l îng nhËp khÈu cµ phª ViÖt Nam cña 10 n íc hµng
®Çu trong c¸c vô cµ phª tõ 2000/01 ®Õn 2006/07
B¶ng 2.4: C¬ cÊu chi phÝ s¶n xuÊt trung b×nh cho 1 tÊn cµ phª.
B¶ng 2.5: Diện tích và đơn giá xuất khẩu của cà phê Việt Nam từ
2000 - 2008
B¶ng 2.6: ThÞ phÇn cµ phª ViÖt Nam trªn thÕ giíi.
90
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Quá trình toàn cầu hóa mang đến nhiều cơ hội phát triển cũng đặt ra
không ít những thách thức cho nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp, trong
đó có cả các doanh nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam. Cạnh tranh không
chỉ diễn ra ở thị trường nước ngoài mà ở ngay cả thị trường trong nước.
Sau mấy chục năm phát triển ngành cà phê nước ta đã đạt được rất nhiều
thành tựu đáng tự hào. Từ một nước không có trên bản đồ cà phê thế giới, nay
đã vươn lên đứng thứ hai trên thế giới, thậm chí năng suất thuộc hàng cao
nhất thế giới. Nếu như những năm 80 của thế kỷ trước cả nước chỉ có khoảng
hơn 22 ngàn ha cà phê, xuất khẩu hàng năm không quá 10.000 tấn thì đến
hiện nay cả nước đã có trên 500 ngàn ha cà phê, với sản lượng hàng năm đạt
khoảng 800 ngàn tấn và trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế
giới. Trong lĩnh vực nông sản thì cà phê đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ
lực, chỉ sau lúa gạo.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới thì những yếu kém của ngành cà phê Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ
ràng hơn. Dù là một nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới, nhưng cà phê
Việt Nam không những không chi phối được giá cả, mà ngược lại, tình trạng
đó là do năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam quá yếu kém, chất lượng
cà phê quá thấp, dẫn đến các nhà nhập khẩu có cớ ép giá.
Vấn đề làm thế nào để nâng vị thế ngành cà phê Việt Nam lên ngang tầm
trên thị trường quốc tế đang là câu hỏi đặt ra cho nhiều cấp, nhiều ngành và
nhiều giới. Để góp phần nhỏ bé và trả lời câu hỏi trên tôi chọn đề tài “Nâng
1
cao năng lực cạnh tranh cho cà phê Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ kinh
tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh luôn là vấn đề nóng
đối với mọi quốc gia và mọi doanh nghiệp. Đã có các cơ quan, các nhà nghiên
cứu, các nhà hoạch định chính sách đề cập đến vấn đề này, trong đó nổi bật là:
- “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010”– Bộ Thương
mại, 2005. Đề án này đã tìm ra các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nói chung
của Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
- “Tiêu thụ nông sản Việt Nam: thực trạng và những vấn đề đặt ra trong
hội nhập kinh tế quốc tế”. Đề tài NCKH, ĐHQG Hà Nội Của Phan Huy
Đường. Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp cho tiêu thụ nông sản ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
- “Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam” - NXB
Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 2006 Của Mai Thị Thanh Xuân, Ngô Đăng
Thành .Đánh giá thực trạng công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam,
định hướng mục tiêu phát triển công nghiệp chế biến nông sản đến năm
2010 và đưa ra một số giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp chế biến
nông sản ở Việt Nam.
- “Một số nguyên nhân làm suy yếu năng lực cạnh tranh của cà phê Việt
Nam”, (2002), tạp chí phát triển kinh tế tháng 9/2002 Của Trần Ngọc Hưng .
Đánh giá những nguyên nhân quan trọng nhất làm suy yếu năng lực cạnh
tranh của cà phê Việt Nam.
- “Cà phê Việt Nam- những vấn đề cần cải thiện”(2006), Tạp chí thương
mại số 32/2006 Của Hoàng Lan . (Tác giả đưa ra những phân tích sâu sắc nhất
về thực trạng của cà phê Việt Nam và một số gợi ý về những giải pháp nên
được áp dụng.
2
- “Cà phê Việt đối mặt với thách thức mới”,(2008), Vneconomy số ngày
13/08/2008 Của Hồ Khánh Thiện. (Thị trường trong nước cũng như thị trường
quốc tế đã có rất nhiều thay đổi và tác giả tập trung nghiên cứu và đưa ra
những thách thức mới đối với cà phê Việt Nam.
Và còn rất nhiều nghiên cứu của các cơ quan, các tác giả khác.
Tuy vậy, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến hoạt động
xuất khẩu nông sản nói chung mà chưa nghiên cứu chuyên sâu vào hoạt động
xuất khẩu cà phê, nhất là trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của WTO. Vì vậy, vấn đề làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh
cho cà phê vẫn luôn cần phải được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích
- Trên cơ sở tìm ra được những nguyên nhân căn bản làm giảm năng lực
cạnh tranh của cà phê Việt Nam để từ đó khuyến nghị một số giải pháp khắc
phục những yếu kém ấy.
Nhiệm vụ
- Xác định các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh và lợi thế cạnh
tranh của sản phẩm cà phê.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của cà phê xuất
khẩu ở Việt Nam thời gian qua.
- Tìm ra nguyên nhân của tình trạng năng lực cạnh tranh thấp kém của
cà phê ở Việt Nam và tìm giải pháp khắc phục.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Nghiên cứu năng lực cạnh tranh sản phẩm.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Sản phẩm cà phê của Việt Nam.
3
+ Về thời giam: Từ năm 2000 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
đặc biệt là phương pháp của kinh tế chính trị.
- Ngoài ra đề tài này cũng sử dụng thêm phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp thống kê, dự báo và một số mô hình minh họa các số liệu
về tình hình sản xuất, xuất khẩu cà phê thời gian qua.
6. Đóng góp của luận văn.
- Đưa ra hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh và các nhân tố
tạo dựng lợi thế cạnh tranh bền vững của cà phê Việt Nam.
- Khuyến nghị các giải pháp thích hợp giúp ngành cà phê Việt Nam đạt
được lợi thế cạnh tranh bền vững trong quấ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia làm 3
chương :
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về cạnh tranh
và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm.
Chƣơng 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam từ năm
2000 đến nay.
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt
Nam.
4
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM
1.1. Cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh hƣởng đến năng
lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh, các cấp độ cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1.1. Cạnh tranh
Cạnh tranh là khái niệm được dùng phổ biến trong các nghiên cứu gần
đây, nhưng thế nào là cạnh tranh thì vẫn còn những cách hiểu khác nhau. Các
học giả thuộc trường phái tư sản cổ điển cho rằng "Cạnh tranh là cuộc đấu
tranh đối kháng giữa các nhà sản xuất hàng hoá nhằm giành điều kiện thuận
lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận tối đa". Theo
cách hiểu này thì cạnh tranh là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất
và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu
nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất. Theo từ
điển Encarta thì, cạnh tranh là hành động ganh đua nhằm chiến thắng hoặc
thực hiện một việc tốt hơn những người khác [34]. Theo cách hiểu này thì
cạnh tranh đơn giản là hoạt động ganh đua của các cá nhân nhằm giành lợi thế
hơn những cá nhân khác. Trong Đại từ điển tiếng Việt, "cạnh tranh được hiểu
là việc tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm
giành phần hơn, phần thắng về mình”và "năng lực cạnh tranh là khả năng
giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên cùng
một thị trường mục tiêu"[6]. Quan điểm này nói rõ hơn về cạnh tranh bình
đẳng giữa những cá nhân hoặc tập thể có cùng điều kiện ganh đua nhằm giành
phần lợi nhất về mình.
5
Cũng đề cập đến “cạnh tranh”một số nhà khoa học Việt Nam cho
rằng, cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá - dịch vụ (mua và
bán) và đó là phương thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Nói
khác đi, mục đích trực tiếp của cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh
tế là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố “đầu vào”của chu trình sản xuất
kinh doanh sao cho mức chi phí thấp nhất. Như vậy, trên quy mô toàn xã hội,
cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó
nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đi
cùng với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là
yếu tố thúc đẩy quá trình tĩch luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các
doanh nghiệp. Như vậy, cạnh tranh cũng là môi trường phát triển mạnh mẽ
cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường, đào
thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng với thị trường, dẫn đến quá trình
tập trung hoá kinh tế trong từng ngành, vùng, quốc gia...
Các khái niệm cạnh tranh kể trên đều đề cập đến nội dung chủ yếu của
cạnh tranh ở các góc độ khác nhau song vẫn chưa thực sự đầy đủ, bởi vì có
nhiều hình thức cạnh tranh không chỉ bằng giá. Ngoài ra, ở mỗi thời kỳ lịch
sử khác nhau thì quan niệm và nhận thức về cạnh tranh là khác nhau và phạm
vi cũng như cấp độ cũng khác nhau. Xét theo hướng tiếp cận của nội dung đề
tài, chúng tôi trình bày khái niệm cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là một quá
trình tranh đấu mà trong đó, các chủ thể kinh tế chủ động ganh đua nhau, tìm
mọi biện pháp (kể cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn kinh doanh) để đạt được mục
tiêu kinh tế chủ yếu của mình như: hướng đến vị thế thống lĩnh thị trường, tạo
dựng lòng trung thành của khách hàng, cũng như đảm bảo tiêu thụ có lợi
nhất, tối đa hóa lợi nhuận. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong
quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích: đối với người kinh doanh là lợi
nhuận, còn đối với người tiêu thụ là tối đa hóa độ thỏa dụng, đối với các quốc
6
gia là người dân được hưởng cuộc sống hạnh phúc, ấm no, an toàn, lâu dài và
khỏe mạnh so với người dân của quốc gia khác.
1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp (HLFIC) của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh là "khả năng của
các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu nhập
tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối
mặt với cạnh tranh quốc tế"{20}. Khái niệm này đã phản ánh đầy đủ nội hàm
của năng lực cạnh tranh ở cả cấp độ doanh nghiệp, ngành và cấp độ quốc gia.
Trong phạm trù quản trị chiến lược, năng lực cạnh tranh hay lợi thế cạnh
tranh của một ngành được hiểu là khả năng của một ngành đạt được tỉ suất lợi
nhuận cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân của ngành. Khái niệm này chỉ rõ
bản chất của lợi thế cạnh tranh là hướng tới mục tiêu lợi nhuận nhưng lại
không giúp nhiều cho việc phân tích các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh
được hiểu là khả năng của một ngành đạt được tỉ suất lợi nhuận cao hơn tỉ
suất lợi nhuận bình quân của ngành.
Có thể thấy, năng lực cạnh tranh là một trong những khái niệm khó có
sự thống nhất vì nó được áp dụng với cả hai cấp độ: cấp vi mô bao gồm năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các ngành kinh doanh và cấp vĩ mô bao
gồm năng lực cạnh tranh của quốc gia và thậm chí là của một khu vực hoặc
đôi lúc chúng ta lại thấy nó được sử dụng theo nghĩa hẹp như quan hệ giữa tỉ
giá với xuất nhập khẩu. Đối với một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh
doanh, năng lực cạnh tranh gắn với mục tiêu duy trì sự tồn tại và thu được lợi
nhuận trên thị trường nội địa hoặc thị trường quốc tế trong khi đối với một
quốc gia, năng lực cạnh tranh lại gắn với mục tiêu cải thiện mức sống và phúc
lợi cho người dân. Hai cấp độ này không tách rời mà thực tế chúng bổ sung
cho nhau.
7
Năng lực cạnh tranh thường được sử dụng đồng nghĩa với sức cạnh
tranh. Sức cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị
phần của đồng nghiệp . Một ngành được coi là có sức cạnh tranh và được đánh
giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế
hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm
cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng
và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh
của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh
doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức
giá phổ biến mà không phải trợ cấp. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công
nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra một khái
niệm vừa phản ánh được cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia là “Sức cạnh
tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc
tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”[20].
Như vậy, có thể thấy các thuật ngữ năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh,
khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có cùng nội hàm và có thể thay
thế lẫn nhau.
Từ khái niệm năng lực cạnh tranh có thể đưa ra khái niệm về năng lực
cạnh tranh của ngành cà phê như sau: năng lực cạnh tranh của cà phê là khả
năng cung ứng các sản phẩm hoặc dịch vụ với giá trị gia tăng cao hơn, hoặc
khác biệt hóa so với đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường mục tiêu trên cơ
sở tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả các nguồn lực của ngành và thực
hiện các tiên đoán tương lai về cơ hội thị trường. Để đạt được giá trị gia tăng
cao hơn, một ngành, một doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có giá thành thấp
hơn giá thành của các đối thủ cạnh tranh, hoặc có sự khác biệt sản phẩm trên
một phương diện nào đó để có thể định giá bán của mình cao hơn so với giá
của đối thủ cạnh tranh, hoặc là phải có được cả hai yếu tố này. Trong trường
8
hợp thứ nhất, chúng ta nói doanh nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh bằng chi phí
thấp và có thể thực hiện các chiến lược hạ chi phí; còn trong trường hợp thứ
hai, doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh bằng sự khác biệt (về chất lượng, dịch
vụ, giao hàng,...) để có thể sử dụng các chiến lược khác biệt hóa.
Như vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh là kết quả của sự nỗ lực có
chủ định của doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh nhằm tạo dựng và khai
thác một cách hiệu quả và hiệu suất các nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu
hoặc có khả năng tiếp cận. Doanh nghiệp kinh doanh có thể tạo dựng được
năng lực cạnh tranh trên cơ sở tiếp cận và khai thác tốt các yếu tố môi trường
kinh doanh thuận lợi của quốc gia khi phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế.
Cần lưu ý rằng, năng lực cạnh tranh cũng bao hàm cả các yếu tố tạo dựng nên
nó như sự khác biệt hóa với đối thủ trên thị trường mục tiêu. Năng lực cạnh
tranh không chỉ đánh giá dựa trên những nguồn lực hiện tại mà nó đánh giá
dựa trên việc tiên đoán đúng về các cơ hội thị trường trong tương lai.
Tùy theo các tiêu chí khác nhau người ta phân chia năng lực cạnh tranh ra
1.1.1.3. Các cấp độ cạnh tranh
thành các cấp độ khác nhau. Dưới đây là các cách phân loại cạnh tranh phổ biến.
(*). Cạnh tranh cấp độ quốc gia
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997, “Năng lực cạnh tranh
của một quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy
trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối
và các đặc trưng kinh tế khác”. Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có
thể được hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm
bảo phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao,
bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc
thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các
doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác,
9
môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định
chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập
ngày càng có hiệu quả, đồng thời có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh cấp độ quốc gia thể hiện ở các khía cạnh về độ mở cửa nền kinh
tế, vai trò của chính phủ, các yếu tố về tài chính, công nghệ, cơ sở hạ tầng, lao động,
thể chế pháp luật và năng lực quản trị.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba
nhóm lớn để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa
học công nghệ, tài chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế,
khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3. Năm 2004 hệ thống tiêu chí
được điều chỉnh và duy trì đến năm 2005 và phân thành nhóm chỉ tiêu cạnh
tranh doanh nghiệp và nhóm chỉ tiêu cạnh tranh tăng trưởng.
(*). Cạnh tranh ngành.
Là khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị
phần của sản phẩm, dịch vụ do ngành đó cung cấp cho thị trường. Cạnh
tranh ngành thể hiện ở việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản
xuất đầu vào nhằm giảm thiểu chi phí và đạt lợi ích kinh tế cao, bền vững.
(*). Cạnh tranh sản phẩm
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng đáp ứng, thoả mãn yêu cầu
của người tiêu dùng, của nhà sản xuát về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, tốt
hơn các sản phẩm khác cùng loại. Bất kỳ một sản phẩm nào đáp ứng tốt nhất
nhu cầu của người tiêu dùng và được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi thì
được coi là sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá được hình thành bởi năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng
10
có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như đã
đề cập (nguồn lực và năng lực bản thân doanh nghiệp). Tuy nhiên, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Trong phân tích có thể thông qua năng lực cạnh tranh
của sản phẩm để đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi đây là các
yếu tố dễ định lượng và nhận biết được. Tuy nhiên để phân tích sâu hơn năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, xét về mặt dài hạn và các nhân tố bền vững
thì phải phân tích các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
1.1.2.1. Các yếu tố đầu vào.
Yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của các ngành cụ thể là các
nhân tố liên quan đến sản xuất cần thiết cho cạnh tranh trong một ngành nhất
định. Các nhân tố này có thể chia thành: nhân tố vốn, nguồn nhân lực, nguồn
nguyên liệu.
- Yếu tố vốn: Là lượng tiền cần có của bất kỳ một doanh nghiệp hay một
ngành nào để tạo dựng những yếu tố cơ bản ban đầu và duy trì hoạt động,
phát triển mở rộng cho các ngành, các doanh nghiệp ấy. Tuỳ vào từng loại
hình doanh nghiệp mà nguồn vốn lớn hay nhỏ. Vốn nhiều hay ít quyết định
chất lượng trang thiết bị, nguyên liệu đầu vào, do đó quyết định chất lượng
sản phẩm của doanh nghiệp. Yếu tố vốn được đánh giá là một trong những
nhân tố quan trọng nhất có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, mọi doanh nghiệp đều không thể phát triển mạnh nếu không
huy động được lượng vốn đủ cho mục tiêu của mình.
11
- Nguồn nhân lực: Là lực lượng lao động cần phải có của mọi doanh
nghiệp dù lớn hay nhỏ. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp, gồm cả các nhà
quản trị doanh nghiệp và người lao động, trong đó trình độ các nhà quản trị có
tác động lớn đến toàn bộ các chỉ số khác nhau của quá trình sản xuất; từ năng
suất lao động đến chiến lược kinh doanh, tổ chức lao động và tiêu thụ sản
phẩm. Đây là nhân tố quan trọng thứ hai quyết định đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, của sản phẩm.
Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng quan trọng, do đó, việc nâng cao
trình độ lao động ở các doanh nghiệp cũng ngày càng được quan tâm hơn.
Chất lượng nguồn nhân lực thường tạo ra những lợi thế ban đầu cho doanh
nghiệp và cần phải được nâng cao thường xuyên.
- Nguồn nguyên liệu: Là những vật liệu thô ban đầu làm đầu vào cho quá
trình sản xuất của các doanh nghiệp.
Chất lượng của nguồn nguyên liệu đầu vào có tác động rất lớn đến chất
lượng của sản phẩm đầu ra. Với những nguồn nguyên liệu đầu vào có chất
lượng tốt, ít tạp chất sẽ làm giảm thời gian và chi phí sơ chế cho doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
- Công nghệ: Là những tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng vào quá
trình sản xuất. Yếu tố công nghệ cũng ngày càng trở lên quan trọng trong
cạnh tranh. Bất cứ một doanh nghiệp nào áp dụng được khoa học công nghệ
cao vào sản xuất đều có lợi thế cạnh tranh rất lớn. Công nghệ giúp các doanh
nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã, giảm thời gian sản
xuất, giảm chi phí...giành nhiều lợi nhuận.
1.1.2.2. Chiến lược kinh doanh
Là cách thức hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong việc đưa sản phẩm
ra thị trường nhằm giành được thị phần cao nhất. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một
chiến lược kinh doanh khác nhau dựa trên cơ sở phân tích lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp so với đối thủ khác(kể cả những doanh nghiệp trong cùng
12
hệ thống ngành nghề), các chiến lược phân tích thị trường tập trung vào sản
phẩm, dịch vụ, hoặc những mảng thị trường nhất định.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi bắt đầu hoạt động cũng phải có chiến lược
kinh doanh của mình, và chiến lược kinh doanh có thể thay đổi trong quá trình
hoạt động tuỳ vào tình hình của mỗi doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh có
ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tới sự thành bại
của một doanh nghiệp. Bởi lẽ, chiến lược kinh doanh là hướng đi của doanh
nghiệp và khi đã đánh giá sai thị trường, đi sai hướng phát triển thì doanh
nghiệp sẽ phải chịu rất nhiều rủi ro.
1.1.2.3. Chất lượng và giá cả hàng hoá
Sản phẩm có chất lượng là những hàng hóa và dịch vụ đáng tin cậy,
thực hiện tốt các chức năng đã được thiết kế. Sản phẩm chất lượng cao sẽ
mang lại uy tín cho doanh nghiệp, do đó tạo ra khả năng cạnh tranh bền vững.
Hơn thế nữa, sản phẩm có chất lượng cũng có tác động nâng cao hiệu suất chi
phí, nhờ vậy giảm chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm. Chất lượng sản
phẩm cao hơn có nghĩa là công nhân sẽ không lãng phí thời gian làm ra các
phế phẩm hay đưa ra những dịch vụ kém chất lượng, thời gian để sửa lỗi sẽ ít
hơn. Điều này sẽ mang lại năng suất lao động cao hơn và giảm chi phí sản
xuất. Nói tóm lại, chất lượng sản phẩm cao không những giúp doanh nghiệp
bán sản phẩm với giá cao hơn mà còn giúp họ giảm chi phí sản xuất. Như vậy,
chất lượng sản phẩm có tác động kép đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Đối với nhiều ngành, chất lượng sản phẩm đang dần thay thế về mặt
chi phí và việc nâng cao chất lượng đã trở thành yếu tố bắt buộc cho sự sống
còn của doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay đối với mặt hàng cà phê nói
riêng thì việc nâng cao chất lượng là việc làm mang tính bắt buộc nếu muốn
nâng cao hình ảnh của một nước sản xuất cà phê lớn nhất nhì thế giới, đồng
thời đem lại nguồn lợi lớn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê,
người trồng cà phê và cả nền kinh tế.
13
Khi sản phẩm được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả thời gian, thiết kế,
dịch vụ hậu mãi, chất lượng sản phẩm cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn
bao hàm cả chất lượng của thiết kế, các quá trình, dịch vụ hậu mãi là những
yếu tố quan trọng tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của doanh nghiệp so với
đối thủ cạnh tranh.
Giá cả hàng hoá cũng là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng
trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp quyết định đến sự thành
bại trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Và tiêu chí quan trọng nhất quyết
định đến yếu tố giá cả đó là hiệu suất sử dụng chi phí đầu vào của mỗi doanh
nghiệp. Doanh nghiệp là nơi biến đổi các đầu vào sản xuất thành đầu ra sản
phẩm. Đầu vào bao gồm các yếu tố sản xuất cơ bản như lao động, vốn, đất
đai, quản lý, bí quyết công nghệ,... Sản phẩm đầu ra bao gồm hàng hóa và
dịch vụ của doanh nghiệp. Tính hiệu suất được đo lường bằng quan hệ giữa
giá trị đầu ra (số lượng sản phẩm được sản xuất) và chi phí cần thiết (đầu
vào). Hiệu suất càng cao thì chi phí sản xuất càng thấp. Chính vì vậy, tính
hiệu suất giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh về mặt chi phí.
Yếu tố quyết định đến hiệu suất của doanh nghiệp là năng suất, trong
đó có năng suất lao động. Năng suất lao động được đo lường bằng giá trị tăng
thêm tính trên mỗi đơn vị nguồn lực. Như vậy, doanh nghiệp nào có năng suất
cao nhất chắc chắn sẽ có chi phí sản xuất thấp nhất. Nói cách khác, doanh
nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh về mặt chi phí.
1.1.2.4. Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là hình ảnh, là tên tuổi của một doanh nghiệp đã
được khẳng định bằng chất lượng, bằng thời gian kiểm định thực tế.
Tất cả các doanh nghiệp khi làm tốt chiến lược sản phẩm sẽ tạo ra được uy tín
nhất định. Trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt như hiện nay cũng như trong
bất cứ hoàn cảnh nào của nền kinh tế thì uy tín của doanh nghiệp luôn là yếu
tố sống còn đối với bất cứ doanh nghiệp nào.Uy tín của doanh nghiệp có được
14
sau khi sản phẩm của doanh nghiệp đã ra thị trường, chính vì vậy uy tín của
doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng sản phẩm cũng như chiến
lược quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp. Và khi đã làm tốt những yếu tố
trên đây thì uy tín doanh nghiệp chính là thước đo sự phát triển của bất cứ
doanh nghiệp nào, nếu giữ được uy tín thì doanh nghiệp sẽ liên tục phát triển
và ngược lại. Chính vì vậy, có thể nói rằng, tất cả những yếu tố trên đây là
một chuỗi mắt xích quan trọng tạo nên sức mạnh nội tại cho mỗi sản phẩm.
Uy tín sẽ tôn vinh giá trị của doanh nghiệp lên những tầm cao mới kéo theo
các lợi ích kinh tế to lớn, do đó, khi một doanh nghiệp bị mất uy tín hay đơn
thuần chỉ là những dấu hiệu làm méo mó hình ảnh, doanh nghiệp sẽ phải gánh
chịu những hậu quả nặng nề không thể đo đếm được. Chúng ta có những ví dụ
hết sức điển hình như:
Thị trường máy văn phòng trên thế giới đã chứng minh sự sụp đổ của
thương hiệu Xerox Hoa Kỳ, khi tập đoàn này bị phanh phui ra trước công
luận những hành động gian lận tài chính của mình. Từ một tập đoàn với
thương hiệu nổi tiếng thế giới, là nơi đã phát minh ra các loại máy in, máy
photocopy công nghệ cao, đã xây dựng nên thương hiệu Xerox nổi tiếng, đã
bị đưa đến bên bờ vực phá sản.
Ví dụ trên đây phần nào cho thấy uy tín có giá trị như thế nào đối với
doanh nghiệp, và những hệ luỵ khôn lường khi doanh nghiệp bị sụt giảm hoặc
đánh mất uy tín của mình.
1.1.2.5. Các đối thủ cạnh tranh
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều có rất
nhiều đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp trong
cùng một ngành, một quốc gia hoặc ở các quốc gia khác sản xuất các sản
phẩm cùng loại, cùng bán ra thị trường.
Các đối thủ cạnh tranh là một nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ
đến các doanh nghiệp. Trong chiến tranh ta có câu “biết mình biết người thì
15
trăm trận trăm thắng”, áp dụng vào chiến lược phát triển sản phẩm của bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng luôn đúng. Mỗi sản phẩm doanh nghiệp làm ra luôn
phải xem xét đến tất cả những doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với mình
xem mình có những điểm mạnh và yếu ở đâu để kịp thời khắc phục. Vì cạnh
tranh là yếu tố luôn luôn tồn tại trong kinh doanh, cạnh tranh là động lực của sự
phát triển, chính vì vậy tất cả mọi doanh nghiệp khi xây dựng chiến lược phát
triển đều phải đặt chiến lược cạnh tranh vào một trong những yếu tố quan trọng
nhất đối với sự sống còn của doanh nghiệp. Xem xét và nghiên cứu cặn kẽ
được đối thủ cạnh tranh của mình thì cơ hội chiến thắng và phát triển của
doanh nghiệp sẽ là rất lớn. Trong kinh doanh, đối với những đối thủ mạnh các
doanh nghiệp yếu hơn cần tránh đối đầu trực tiếp, tránh nguy cơ bị loại khỏi thị
trường, tiến tới liên kết các doanh nghiệp lại với nhau tạo thành những tập đoàn
mạnh.
1.1.2.6. Sự khác biệt của hàng hoá cung ứng cho thị trường
Trong khi chất lượng sản phẩm và hiệu suất chi phí thể hiện khả năng
cạnh tranh hiện tại của doanh nghiệp, khả năng đổi mới thể hiện khả năng duy
trì và phát triển năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp trong tương lai.
Đổi mới bao gồm những tiến bộ về các loại sản phẩm, quá trình sản xuất, hệ
thống quản lý, cơ cấu tổ chức và các chiến lược do doanh nghiệp đưa ra nhằm
mục tiêu cuối cùng là phải đổi mới được kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm.
Ngày nay, đổi mới được coi là một yếu tố quan trọng mang lại lợi thế
cạnh tranh bền vững, tạo ra sự khác biệt riêng có đối với các đối thủ cạnh tranh.
Mặc dù không phải đổi mới nào cũng thành công nhưng khi đã thành công, nó
sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Lý do là đổi mới thành công sẽ
mang lại cho doanh nghiệp yếu tố “duy nhất”mà các doanh nghiệp khác không
có (cho đến khi họ bắt chước được). Yếu tố duy nhất này khiến doanh nghiệp
khác biệt với đối thủ và bán được sản phẩm với giá cao.
16
Tốc độ đổi mới nhanh hơn hay thời gian đổi mới ngắn hơn sẽ tạo ra lợi thế đi
trước của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Tỷ lệ đổi mới thành công cao
hơn đồng nghĩa với hiệu suất chi phí tốt hơn.
Môi trường kinh tế và pháp lý là khuôn khổ, phạm vi hoạt động của
1.1.2.7. Môi trường kinh tế và pháp lý
doanh nghiệp. Môi trường kinh tế có tác động gián tiếp làm tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế thông thoáng, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển kinh doanh và ngược lại. Môi trường
pháp lý là những thể chế pháp luật giúp doanh nghiệp hoạt động trong khuôn
khổ có lợi cho nền kinh tế. Mọi hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý
đều gây hại cho nền kinh tế, làm giảm sức cạnh tranh.
1.2. Vai trò của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là xu thế tất yếu, là động lực
thúc đẩy phát triển. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề mà bất cứ
doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải làm. Việc nâng
cao năng lực cạnh tranh có những vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển
của các doanh nghiệp, thể hiện ở:
1.2.1. Tăng doanh thu, thị phần và lợi nhuận cho doanh nghiệp
Doanh thu và lợi nhuận là hai yếu tố quan trọng nhất mà bất cứ doanh
nghiệp nào cũng cần phải giành lấy phần lớn nhất. Tất cả những việc mà các
doanh nghiệp phải làm để tăng năng lực cạnh tranh cho mình đều nhằm mục
đích tăng doanh thu và thu thật nhiều lợi nhuận. Để tối đa hoá lợi nhuận các
doanh nghiệp luôn phải nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua việc đổi mới
công nghệ, hợp lý sản xuất để đa dạng hoá mẫu mã và nâng cao chất lượng,
hạ giá thành sản phẩm. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh
cao khi được khách hàng đánh giá sản phẩm của họ có chất lượng tốt, giá
thành rẻ hơn so với các mặt hàng cùng chủng loại, khi đó doanh nghiệp sẽ
17
tăng được doanh số bán hàng, doanh thu cũng tăng theo. Bên cạnh đó, việc
nâng cao năng lực cạnh tranh cũng giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị
trường, tăng thị phần. Mỗi loại sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt, giá thành
rẻ sẽ được người tiêu dùng chấp nhận trên phạm vi rộng lớn, do đó, thị phần
của doanh nghiệp sẽ tăng theo khi doanh nghiệp nâng cao chất lượng cũng là
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.2.2. Tạo dựng thương hiệu và nâng cao vị thế của doanh nghiệp
Kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt, vai trò của thương
hiệu ngày càng được đề cao. Thương hiệu là hình ảnh của doanh nghiệp được
tạo nên thông qua chất lượng và uy tín của doanh nghiệp. Hàng hoá của một
doanh nghiệp có chất lượng tốt, doanh nghiệp làm ăn có uy tín sẽ nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường, từ đó dần tạo dựng thương hiệu cho
doanh nghiệp. Ngược lại, khi doanh nghiệp đã có thương hiệu, sản phẩm sản
xuất ra sẽ có thị trường tiêu thụ ngày càng rộng lớn, doanh thu ngày càng tăng
lên giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường.
1.3. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh sản phẩm được đánh giá từ nhiều góc độ khác
nhau .Những tiêu chí cơ bản thường được sử dụng đó là:
Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua thị phần và tốc độ
1.3.1. Thị trường và thị phần
tăng trưởng doanh số của sản phẩm chính của doanh nghiệp.
Thị trường là những địa bàn mà một doanh nghiệp chiếm lĩnh được để phân
phối hàng hoá hoặc các dịch vụ của mình. Qua thị trường người ta cũng có thể
đánh giá được thị phần của một doanh nghiệp bằng phương pháp điều tra số
liệu của các doanh nghiệp cùng cung cấp một loại hàng hoá hoặc dịch vụ trên
thị trường. Doanh nghiệp nào đưa được nhiều sản phẩm đến tay người tiêu
18
dùng hơn thì doanh nghiệp đó chiếm thị phần lớn hơn và ngược lại. Thị phần
là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh.
Thị phần = Doanh số bán hàng của doanh nghiệp/Tổng doanh số của thị trƣờng.
Thị phần nói rõ phần sản phẩm tiêu thụ của riêng doanh nghiệp so với tổng
sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Để giành giật mục tiêu thị phần trước đối
thủ, doanh nghiệp thường phải có chính sách giá phù hợp thông qua mức
giảm giá cần thiết, nhất là khi bắt đầu thâm nhập thị trường mới.
1.3.2. Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là số tiền mà một nhà sản xuất hay doanh nghiệp phải
chi để mua các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất hàng hoá nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Trong nền kinh tế hàng hoá, bất cứ một doanh nghiệp
nào cũng phải quan tâm đến chi phí sản xuất. Việc giảm được chi phí sản xuất
cũng đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, chi phí sản xuất chỉ là
một phần của chi phí sản phẩm. Khi cấu thành giá của một sản phẩm, phải
xem xét toàn bộ chi phí, không thể chỉ nhìn thấy mỗi chi phí sản xuất. Có ba
yếu tố chính cấu thành chi phí sản xuất đó là: nguyên liệu trực tiếp, lao động
trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Trong kinh tế, chi phí sản xuất chiếm một vị
trí cực kỳ quan trọng và có quan hệ với nhiều vấn đề khác nhau của một
doanh nghiệp cũng như của xã hội. Chi phí sản xuất không chỉ là mối quan
tâm của doanh nghiệp, của nhà sản xuất mà còn là mối quan tâm của người
tiêu dùng và của cả xã hội. Giảm chi phí sản xuất làm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, đồng thời cũng làm tăng lợi
ích cho người tiêu dùng.
1.3.3. Lợi nhuận
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nên sau khi bán hàng hoá theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lại
đủ số tiền đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền
lời này gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p. Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được
19
quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả hoạt động của toàn
bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Công thức tính lợi nhuận: p = W - k.
Công thức W = k + m chuyển thành W = k + p, có nghĩa là giá trị hàng hóa tư
bản chủ nghĩa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận. Lợi
nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cái khác nhau giữa bỏ m và p ở chỗ, khi nói
m là hàm ý so sánh nó với v, còn khi nói p lại hàm ý so sánh với (c + v); p và m
thường không bằng nhau, p có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá
cả bán hàng hóa do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn
xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư.
1.3.4. Giá trị kim ngạch xuất khẩu
Giá trị kim ngạch xuất khẩu thể hiện ở giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị
hàng hóa xuất khẩu. Một mặt hàng được coi là có giá trị gia tăng cao khi mỗi
đơn vị số lượng hàng hóa đó xuất đi mà thu về được một khoản lợi nhuận cao
nhất. Đối với một ngành hàng cũng vậy nếu cùng số lượng xuất đi so với các
đối thủ khác mà lại thu về được một khoản lợi nhuận lớn hơn thì người ta nói
rằng ngành hàng của nước đó có giá trị hàng xuất khẩu cao, vị thế cạnh tranh
của ngành hàng đó là lớn nhất. Công thức tính hệ số lợi thế so sánh (RCA) do
nhà kinh tế học Balassa đề xuất vào năm 1965 giúp ta xác định được tương
đối lợi thế cạnh tranh của mối sản phẩm của mỗi nước:
RCA2 = (Xj – Mj)/(Xj + Mj)
Xj là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j và Mj là kim ngạch nhập khẩu
sản phẩm j của một quốc gia.
Hệ số RCA2 có giá trị từ -1(hoàn toàn không có lợi thế so sánh) đến
+1(có lợi thế so sánh rõ rệt). Nếu hệ số RCA2 có giá trị lớn hơn 0 thì nước i
có lợi thế so sánh ở sản phẩm j, còn nếu hệ số RCA2 có giá trị nhỏ hơn 0 thì
20
nước i có bất lợi thế so sánh ở sản phẩm j, giá trị RCA2 gần bằng 0 là tình
trạng không rõ ràng.
1.4. Kinh nghiệm của một số nƣớc về nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành cà phê
1.4.1. Kinh nghiệm của Braxin
Braxin, nước sản xuất và xuất khẩu cà phê số một thế giới, đã xuất khẩu
gần 1,7 triệu tấn trong năm 2008, tăng 4,4% so với năm 2007. Hội đồng xuất
khẩu cà phê Braxin (CeCafe) cho biết, kim ngạch xuất khẩu cà phê của nước
này trong năm 2008 đạt mức kỷ lục 4,7 tỷ USD, tăng 22,1% so với năm trước,
chiếm tới 31,5% thị phần toàn cầu. Đức, Mỹ, Italia và Bỉ là những thị trường
quan trọng của nước này. Có thể khẳng định rằng ngành cà phê của Braxin
trong rất nhiều năm tới vẫn sẽ giữ vị trí số một thế giới về sản xuất và xuất
khẩu cà phê của thế giới. Những nét nổi bật trong sản xuất và xuất khẩu cà
phê ở Braxin là:
Thứ nhất,
Ở Braxin, hầu hết cà phê đều được trồng và sản xuất tại các nông trường
lớn, chuyên canh, được áp dụng những kỹ thuật tiên tiến và công nghệ chế
biến hiện đại, chủng loại cà phê cũng rất đa dạng chủ yếu là cà phê hảo hạng
và cà phê cao cấp…Các chuyên gia của ICO hầu hết đều đánh giá chung
ngành cà phê của Braxin mang tính truyền thống cao, chất lượng tốt, hiện đại.
Điểm nổi bật ở đây chính là ở chỗ khi cà phê của Braxin được trồng hầu hết
tại các nông trường lớn sẽ rất dễ cho việc quản lý khối lượng đầu ra, dễ áp
dụng khoa học kỹ thuật, việc quy hoạch cũng đơn giản hơn rất nhiều.
Thứ hai,
Vì là nước sản xuất, xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới nên khi lượng
cung tăng cao có thể ảnh hưởng tới giá cả trên thị trường, Braxin đã cắt giảm
cung bằng cách chuyển ngay khu vực trồng cà phê năng suất thấp, chất lượng
21
kém sang trồng cây ăn quả hoặc cây công nghiệp khác. Đây được coi là một
biện pháp kiên quyết nhằm ổn định lượng cung và là một cách hữu hiệu để
điều tiết giá cả, giữ cho mức giá luôn ổn định. Bên cạnh đó, việc gia tăng giá
trị cà phê xuất khẩu được Braxin coi là giải pháp cực kỳ quan trọng để thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng cây cà phê hiện nay.
Thứ ba,
Chính phủ Braxin đã có chương trình hỗ trợ tín dụng( cho vay lãi suất
thấp, thời hạn dài) cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cà phê rang sang
cà phê hòa tan, cà phê đặc sản, đồng thời sẽ tài trợ chi phí nghiên cứu và phát
triển cho các nhà sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm cà phê chế biến. Chính
phủ Braxin muốn ngành công nghiệp cà phê của mình đi theo hướng xuất
khẩu cà phê chế biến mới do đó đang có kế hoạch hỗ trợ cho các nhà máy chế
biến mới.
Thứ tư,
Braxin là một nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới, nên Braxin nhận
thức rất rõ tầm quan trọng của tiêu thụ cà phê trong nước và đang rất tích cực
khuyến khích điều này. Để đạt mức tăng trưởng cao trong tiêu dùng trong
nước, các nhà rang xay Braxin thuyết phục người tiêu dùng nghèo và cao tuổi
rằng ca phê là loại thức uống có lợi cho sức khỏe và tăng cường thể lực. Một
cuộc điều tra do ngành cà phê Braxin tiến hành cho thấy hơn 90% số người
được hỏi cho biết có uống cà phê. Trong năm 2008, tiêu thụ cà phê ở thị
trường nội địa Braxin ước đạt 18,1 triệu bao, tương đương 5,6 kg/người – con
số cao kỷ lục và ấn tượng nhất kể từ năm 1997 trong khi thị trường nội địa
Việt Nam tiêu thụ chỉ trong khoảng 70.000 - 100.000 tấn, một con số quá
thấp. Ngành cà phê Braxin vẫn đang đặt mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh tiêu thụ
trong nước bằng các chương trình quảng cáo, khuyến mãi rầm rộ.
1.4.2. Kinh nghiệm của Colombia
22
Ở Colombia có một tổ chức là Liên đoàn nông dân trồng cà phê quốc gia
(FCN) hoạt động rất hiệu quả, góp phần to lớn tạo nên hình ảnh của cà phê
Colombia. FCN bao gồm gần như toàn bộ những người trồng cà phê
Colombia với số lượng gần 500.000 thành viên. Là một tổ chức duy nhất và
lớn nhất nên khi gia nhập tổ chức thì người trồng cà phê Colombia sẽ được
đảm bảo rất nhiều quyền lợi, và tăng thêm sức mạnh cho mình. Những lợi ích
to lớn mà FCN mang lại cho người nông dân Colombia là:
- Đại diện thương mại cho các thành viên, đảm bảo giá giúp nông dân
chống lại những thay đổi thất thường của giá cả thế giới. Những khoản doanh
thu tăng thêm sẽ được để giành cho việc duy trì mức giá tối thiểu đề phòng
lúc giá thế giới sụt giảm.
- Luôn luôn thu mua cà phê cho nông dân với mức giá ổn định và trả tiền
trực tiếp cho người dân
- FCN sử dụng tất cả các phương tiện quảng cáo và marketing hiện đại
nhằm nâng cao tên tuổi cà phê Colombia trên khắp thế giới, tạo điều kiện
thuận lợi để cà phê Colombia thâm nhập thị trường.
- FCN đã thiết kế được một biểu tượng trên đó thể hiệt tất cả các thương
hiệu cà phê có nguồn gốc từ Colombia- hình ảnh Juan Valdez và biểu tượng.
Mặc dù vẫn xếp sau Việt Nam nhưng với những chính sách đúng đắn và
một liên đoàn lâu đời, chuyên nghiệp thì ngành cà phê nước ta cũng cần phải
học hỏi rất nhiều, đặc biệt là cách tạo dựng thương hiệu của FCN Colombia.
1.4.3. Bài học rút ra cho Việt Nam
Có thể khẳng định mỗi quốc gia đều có những chiến lược phát triển kinh
doanh đúng đắn cho mặt hàng cà phê nước mình. Mặc dù vậy, qua những nét
nổi bật của ngành cà phê hai nước Braxin và Colombia chúng ta có thể rút ra
một số kinh nghiệm quý báu cho ngành cà phê nước ta:
23
- Xoá dần các mô hình nhỏ lẻ phân tán của người dân bằng cách vận
động họ tham gia vào hợp tác xã, nông trường lớn mà ở đó quyền lợi của họ
được đảm bảo. Xây dựng các vùng chuyên canh, công nghệ cao về cà phê dựa
trên những nghiên cứu về chất đất, địa hình nhằm nâng cao chất lượng cho cà
phê Việt Nam.
- Xác định kênh tiêu thụ nội địa như một kênh tiêu thụ chính nhằm giành
lại lợi thế sân nhà.Từ lâu nay, thị trường nội địa hầu như không được các
doanh nghiệp cà phê trong nước quan tâm, cà phê sản xuất ra chủ yếu phục vụ
nhu cầu xuất khẩu, do đó, các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược cụ thể
để phát triển mạnh thị trường trong nước.
- Xây dựng thương hiệu mạnh cho cà phê Việt Nam bắt đầu từ việc nâng
cao chất lượng cà phê ở tất cả các khâu từ trồng trọt đến sản xuất.
- Thành lập quỹ bình ổn quốc gia có khả năng sẵn sàng thu mua cà phê
cho người dân với mức giá ổn định, hỗ trợ người dân mỗi khi thị trường có
biến động lớn.
- Chính phủ và ngành cà phê cần hỗ trợ mạnh mẽ để nâng cao hơn nữa
vai trò của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (Vicofa), để hiệp hội phát huy tốt
vai trò của mình là đưa khoa học công nghệ đến với người dân, cập nhật
thông tin thường xuyên cho toàn ngành cà phê, là cầu nối phản ánh thông tin
nhanh nhất từ người trồng cũng như các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cà
phê tới chính phủ......
Một số kinh nghiệm trên đây có thể để ngành cà phê Việt Nam tham
khảo và học hỏi và từ đó chúng ta sẽ rút ra được những giải pháp tốt nhất cho
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê sẽ được phân tích rõ nét ở
chương 3 của luận văn này.
24
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
2.1. Khái quát về sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam từ năm 2000
đến năm 2008
2.1.1. Tình hình sản xuất
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm nằm trong vành
đai nhiệt đới Bắc Bán cầu. Điều kiện khí hậu và địa lý rất thích hợp đã đem
lại cho cà phê Việt Nam một hương vị rất riêng. Miền địa lý khí hậu phía
Nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta (hạt
nhỏ, nhiều cafeine, nồng độ mạnh và đặc biệt là vị rất đắng). Miền khí hậu
phía Bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà phê Arabica
và là vùng quy hoạch chủ yếu phát triển cà phê Arabica của Việt Nam
(Arabica là loại cà phê hạt dài, ít cafeine, đặc biệt hương rất thơm, được
trồng ở độ cao trên 600m, có vị hơi chua đặc trưng).
Cà-phê ở Việt Nam được trồng nhiều tại các tỉnh Tây Nguyên với hơn
600 nghìn ha, đạt sản lượng gần 700 nghìn tấn/năm. Sự phát triển của cây cà-
phê Việt Nam là thành tựu lớn trong thế kỷ 20. Từ chỗ không được ghi vào
bản đồ các nước trồng cà-phê thế giới, đến nay, diện tích cà-phê của Việt
Nam đã đứng vị trí thứ hai chỉ sau Braxin về cà-phê xuất khẩu trên thị trường
thế giới, và là nước duy nhất có năng suất cà-phê vối cao kỷ lục. Ðó cũng là
một trong những nguồn xuất khẩu chính, mang lại cơ hội công ăn việc làm và
thu nhập ngày một cao cho người sản xuất kinh doanh cà-phê. Ngành cà phê
Việt Nam trong một thời gian không dài, kể từ sau năm 1975 đã có những
bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ lục so với nhiều nước trồng cà phê
khác trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có diện tích khoảng 500.000 ha với
lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khoảng 1 triệu tấn. Cà phê Việt Nam đã có
mặt trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
25
Từ năm 1999, cùng với cộng đồng cà phê thế giới ngành cà phê nước ta
trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Giá cà phê liên tục xuống thấp
đến mức kỷ lục trong vòng mấy chục năm lại đây. Thấp nhất là năm 2001 giá
chỉ còn 5000đ/kg sau đó lên lại, năm 2002-2003 được 10.000đ/kg đến cuối
2004 chỉ còn 8500đ/kg. Khủng hoảng đã kéo theo những hậu quả xấu cho sản
xuất và đời sống. Nông dân thu nhập thấp không đủ trang trải cho cuộc sống
hàng ngày và đầu tư cho tái sản xuất. Đã có những vườn cà phê bị bỏ không
chăm sóc. Và cũng có tình hình chặt phá vườn cà phê để trồng cây khác, kể cả
cây lương thực. Từ năm 2004, giá cà phê bắt đầu được cải thiện và giá lên cao
vào các năm 2006, 2007 tuy còn thấp nhiều so với giá cà phê các năm 1995-
1998 nhưng với người trồng cà phê thì mức giá hiện nay đã có sức hấp dẫn
đáng kể. Cà phê được bán với giá từ 25- 30 triệu đồng Việt Nam 1 tấn. Và có
lúc lên trên 30 triệu đồng 1 tấn. Lúc này lại có hiện tượng ngược lại trước đây
là người ta lại trồng mới, mở mang diện tích cà phê.
Cà phê được trồng tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia
Lai, Đồng Nai, Bình Phước. Sản lượng cà phê nhân của 5 tỉnh này đã chiếm
hơn 90% tổng sản lượng cà phê cả nước, trong đó Đắc Lắc chiếm từ 50-60%,
luôn là tỉnh dẫn đầu về diện tích và sản lượng cà phê của cả nước. Do điều
kiện tự nhiên(đất đai, khí hậu, thời tiết) của các tỉnh phía Nam phù hợp với
sinh trưởng và phát triển cây cà phê vối(robusta) nên vừa qua diện tích cà phê
này đã được mở rộng(chiếm 95% sản lượng cà phê cả nước). Cà phê chè
(Arabica) chỉ có thể phát triển ở một số vùng phía Bắc Việt Nam. Miền Bắc là
nơi khai nguyên của cây cà phê Việt Nam kể từ khi nó du nhập vào Việt Nam,
các tỉnh Tuyên Quang, Sơn La là những nơi có diện tích trồng cà phê nhiều
nhất ở miền Bắc.
Riêng tỉnh Lâm Đồng diện tích cà phê vụ 2007/08 đạt 128.272 ha so với
vụ trước 2006/ 07 tăng 8,4% ước tính vụ tới 2008/09 diện tích cà phê tỉnh
Lâm Đồng sẽ đạt 131.590 ha so với vụ trước tăng gần 3%.
26
Tỉnh Sơn La năm 2007 đã trồng mới 250 ha, năm 2008 trồng mới 300 ha,
kế hoạch năm 2010 Sơn La sẽ có 8000 ha cà phê Arabica. Với khoảng hơn
500.000 ha cà phê, sản xuất ra khoảng trên dưới 1 triệu tấn/năm, Việt Nam
đang dẫn đầu thế giới về sản lượng cà phê, cạnh tranh với Braxin vị trí dẫn
đầu thế giới.
Việt Nam cũng đang trở thành nước có vị trí tuyệt đối về sản xuất cà
phê vối (Robusta), với sản lượng hàng năm đạt trên 52 triệu bao nhờ thay đổi
vùng đất trồng loại cà phê này, chuyển từ vùng thấp, nóng ẩm lên vùng đất
cao nguyên.Trên thế giới, Việt Nam chiếm vị trí độc tôn về sản xuất cà phê ở
Bắc bán cầu, trong khi các đối thủ cạnh tranh đều nằm ở phía Nam bán cầu,
đây là một ưu thế cho cà phê Việt Nam. Niên vụ 2007-2008, các nước phía
Nam bán cầu mất mùa cà phê, nhờ vậy Việt Nam có được cơ hội chi phối thị
trường thế giới.
Bảng 2.1 Thống kê sản lƣợng cà phê các nƣớc trên thế giới từ 2002 - 2007
Sản lượng cà phê (nghìn bao).
(R/A) T.4-T.3
48.480
32.944
33740
Braxin
(R/A) T.10-T.9
11.555
11.000
15950
Việt Nam
11.889
11.550
(A) T.10-T.9
12400
Colombia
(R/A) T.4-T.3
6.785
6.750
7000
Indonesia
(A/R) T.10-T.9
4.683
4.630
4850
Ấn §é
(A) T.10-T.9
4.000
4.200
4350
Mexico
(A) T.10-T.9
3.693
4.500
5733
Ethiopia
4.070
3.675
(A/R) T.10-T.9
4000
Guatemala
2.900
2.750
(A) T.4-T.3
3190
Peru
2.900
2.750
(R/A) T.10-T.9
2750
Uganda
20.853
22.102
11758
Các nước khác
121.808
106.851
105721
Niên vụ 2002 2005 Quốc gia 2007
Tổng sản lƣợng
(Nguồn Vicofa)
27
Bảng thống kê trên đây cho thấy những năm trở lại đây Việt Nam luôn
là nước đứng thứ hai thế giới về mức tăng sản lượng cà phê ( trừ một vài năm
do tác động của thế giới).
2.1.2. Về xuất khẩu
Trong vài năm trở lại đây, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ hai thế giới về
xuất khẩu cà phê. Không những thế, với tổng kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 1,5
tỉ USD/năm, cà phê Việt Nam đã trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn.
Về mặt sản lượng,
Ngành cà phê Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về mở rộng diện tích,
thâm canh tăng năng suất và tăng khối lượng cà phê xuất khẩu. Đến nay cà
phê đã trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, chiếm 1 tỷ trọng
khá lớn trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu của cả nước. Cà phê là mặt
hàng nông sản quan trọng thứ hai của Việt Nam sau lúa gạo. Khác với gạo, cà
phê sản xuất ra hầu hết dành cho xuất khẩu, tiêu thụ nội địa chỉ chiếm khoảng
5-7% sản lượng. Năm 2007 lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu trên 1 triệu tấn
cà phê, giá bình quân đạt 1.529 USD/tấn, nâng giá trị xuất khẩu đạt mức kỷ
lục 1,6 tỷ USD.
Trong bối cảnh giá cà phê thế giới tăng cao theo chiều hướng tích cực,
và kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 đạt mức 2,022 tỷ USD, khối lượng xuất
khẩu đạt 1004 tấn, cà phê trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu hàng
đầu, giá trị chỉ sau dầu thô, hàng dệt may, dày dép và thuỷ sản. Sang đến 6
tháng đầu năm 2009, lượng cà phê xuất khẩu đạt 731.856 tấn với kim ngạch
1,09 tỷ USD, mặc dù giảm 11,39% về kim ngạch nhưng lại tăng 23,67% về
lượng [24, ngày 30/08/09].
28
Bảng 2.2
Sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam (2000 - 2008)
Đơn giá bình Sản lượng xuất Kim ngạch xuất quân Năm khẩu (1.000 tấn) khẩu (triệu USD) ( USD/T)
658,36 2000 733,9 501,5
400,37 2001 931,2 391,3
427,81 2002 718,6 322,3
643,57 2003 749,2 504,8
647,53 2004 974,8 641,0
789,20 2005 892,0 735,0
1188,00 2006 648,1 770,0
1529,20 2007 1.046 1600,0
(Nguồn: VICOFA)
2014,4 2008 1.004 2,022
Nếu so với năm 2000 thì kim ngạch xuất khẩu đã tăng gần 4 lần. Đây là
một bước tăng rất đáng kể, hầu như không có nông sản nào có thể đạt được.
Cùng với sự phục hồi của đơn giá, xuất khẩu cà phê Việt Nam đã đứng thứ
nhì thế giới sau Braxin. Bảng thống kê cũng cho thấy từ năm 2000 trở lại đây,
sản lượng, kim ngạch xuất khẩu và đơn giá có sự tăng trưởng khá mạnh và ổn
định theo từng năm.
Về mặt thị trường,
Thị trường xuất khẩu cà phê của nước ta được đánh giá là tương đối ổn
định. Đức tiếp tục là thị trường tiêu thụ số 1 của cà phê Việt Nam, tiếp đến là
Mỹ, Tây Ban Nha và Italia….Xuất khẩu cà phê sang thị trường Đức trong
29
tháng 8/2008 đạt 5.084 tấn với kim ngạch 11,79 triệu USD, giảm 39,53% về
lượng và giảm 38,06% về kim ngạch so với tháng 7/2008. Tính chung 8 tháng
đầu năm xuất khẩu cà phê sang Đức đạt 91.151 tấn với kim ngạch 194,26
triệu USD, giảm 31,89% về lượng và giảm 4,24% về kim ngạch so với cùng
kỳ năm 2007.Tiếp đến xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ trong tháng
8/2008 cũng sụt giảm mạnh đạt 3.909 tấn với kim ngạch 8,57 triệu USD, giảm
48,12% về lượng và giảm 48,13% về kim ngạch so với tháng trước. Tính
chung 8 tháng đầu năm 2008 xuất khẩu sang thị trường này đạt 70.619 tấn với
kim ngạch 148,33 triệu USD giảm 25,71% về lượng nhưng lại tăng 3,8% về
kim ngạch.
Thị trường tiêu thụ cà phê lớn thứ 3 của nước ta là Italia - nước ta cũng là
nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 của Italia, chỉ sau Brazil, nhưng tiềm năng
thương mại giữa 2 nước trong lĩnh vực này vẫn còn rất lớn và cần tiếp tục
được khai thác. Trong tháng 8/2008, xuất khẩu cà phê sang thị trường này
cũng giảm khá mạnh so với tháng trước đạt 5.544 tấn với kim ngạch 12,59
triệu USD, giảm 21,96% về lượng và giảm 21,4% về kim ngạch so với tháng
trước. Tính đến hết tháng 8, xuất khẩu sang thị trường này đạt 57.491 tấn với
kim ngạch 121,14 triệu USD, giảm 19,02% về lượng nhưng lại tăng 11,07%
về kim ngạch. Thống kê trong 8 vụ cà phê gần nhất, trung bình mỗi năm,
Italia nhập của Việt Nam 66.000 tấn cà phê, năm cao nhất lên tới 90.000 tấn,
chiếm 8,13% lượng cà phê xuất khẩu, đưa Italia trở thành bạn hàng lớn thứ 4
của Việt Nam, chỉ sau Đức, Mỹ và Tây Ban Nha. Bỉ cũng nằm trong top đối
tác nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam và là nước nhập khẩu cà phê đặc
biệt quan trọng trong Liên minh châu Âu (EU). Như vậy, Bỉ sẽ là thị trường
đầy tiềm năng để các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam hướng tới…
Trong tháng 8/2008 xuất khẩu cà phê sang thị trường này cũng có xu hướng
sụt giảm so với tháng trước, chỉ đạt 2.887 tấn với kim ngạch 6,5 triệu USD.
Tính đến hết tháng 8 xuất khẩu sang thị trường này đạt 40.953 tấn với kim
30
ngạch đạt 87,32 triệu USD, tăng 55,58% về lượng và tăng 120,21% về kim
ngạch. Bên cạnh đó, xuất khẩu cà phê sang một số thị trường như Trung
Quốc, Philippine, Newzealand, Hy Lạp tuy lượng xuất không nhiều nhưng lại
có mức tăng đột biến so với tháng trước…Ở khu vực châu Á thì Nhật Bản là
nước nhập khẩu lớn nhất với 45 ngàn tấn(năm 2007), Hàn Quốc: gần 40 ngàn
tấn… [25, ngày 03/05/09].
Bảng 2.3
(Nguồn: Báo cáo thường niên, Bộ Nông nghiệp và PTNT)
Những con số trên đây cho chúng ta thấy được những bước phát triển
vượt bậc của ngành cà phê Việt Nam. Mặc dù vậy, chúng ta cũng vẫn phải
nhìn nhận một cách khách quan rằng, cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn
Về mặt giá cả,
chưa tương xứng với tiềm năng của nó.
Đã từ lâu chúng ta có thói quen chào bán và xuất khẩu cà phê sơ chế
theo tiêu chuẩn 13 - 5 - 1 (thuỷ phần, hạt đen vỡ, tạp chất …) với giá thưòng
31
thấp so với thị trường cùng loại, cụ thể so với giá LIFFE (London) bị trừ từ
120 – 240 USD/ tấn, nông dân và nhà xuất khẩu Việt Nam bị thua thiệt lớn.
Sự thua thiệt này có xuất phát điểm là do sân chơi chưa cân sức với các nước
nhập khẩu lớn thường ép các nước sản xuất mà chất lượng hàng hoá chưa
theo tiêu chuẩn quốc tế, mặt khác do sự yếu kém của chúng ta về điều hành,
quản lý chất lượng hàng xuất khẩu, cũng do khó khăn về tài chính và quy mô
của từng doanh nghiệp, sự lạc hậu trong công nghệ chế biến sau thu
hoạch.v.v.v..
Từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng
ta bắt đầu bước vào sân chơi toàn cầu, và các nhà nhập khẩu cũng phải tính
đến sự bình đẳng đối với chúng ta, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã
được cải thiện gần sát hơn với giá thị trường thế giới. Với tổng sản lượng cà
phê xuất khẩu hàng năm từ 900.000 đến 1.000.000 tấn/năm, đạt kim ngạch
1,8 – 2 tỷ USD, ngành cà phê nước ta đang hướng tới xuất khẩu cà phê sạch
chất lượng cao (tạp chất từ 0% đến tối đa là 0,5%, tính lỗi hạt và thuỷ phần
không quá 12,5% để có giá cao hơn từ 50USD đến 100USD/tấn, theo đó, kim
ngạch cũng tăng thêm từ 50 triệu USD đến 100 triệu USD. Con số này không
những nói lên về giá trị mà còn thể hiện rõ chất lượng - thương hiệu cà phê
Việt Nam trên thị trường thế giới.
Về kim ngạch xuất khẩu,
Xét về giá trị, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2001 đến
nay tăng liên tục với mức trung bình gần 31%/năm. Riêng 2 năm sau khi
nước ta gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng tới 53% và đạt
mức 2,022 tỷ USD trong năm 2008. Như vậy, cà phê là một trong không
nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực, với kim ngạch từ 2 tỷ USD trở lên. Hiệp
hội Cà phê – Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong
năm 2009 ước đạt 980 nghìn tấn với giá trung bình khoảng 1.800 USD/T,
32
tương đương với kim ngạch khoảng 1,764 tỉ USD, giảm 8,6% về lượng và
giảm 17,4% về trị giá so với năm 2008.
Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới ngày càng tăng
cao, ngành cà phê Việt Nam đang tự tin hướng đến ngôi vị chi phối thị trường
cà phê thế giới trong những năm tới. Tuy đứng sau Braxin về sản lượng cà
phê nói chung nhưng Việt Nam có lợi thế chính là có sản lượng cà phê
robusta (cà phê vối) lớn nhất và giá thành sản xuất thấp nhất thế giới, phù hợp
hơn với nhu cầu tiêu dùng đại đa số người bình dân trên thế giới. Bên cạnh
đó, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mang lại cho
ngành cà phê Việt Nam một “sân chơi”khổng lồ với hơn 5 tỷ người tiêu thụ
và kim ngạch nhập khẩu trị giá 635 tỷ USD/năm. Đây là cơ hội “vàng”đối với
Việt Nam. Với những thuận lợi sẵn có trên, theo đánh giá của các chuyên gia
thị trường trong và ngoài nước, ngành cà phê Việt Nam hoàn toàn có cơ hội
phát triển mạnh mẽ cả về giá và thị trường trong thời gian tới.
2.2. Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam
2.2.1. Cạnh tranh về chất lượng và chủng loại
Trước hết chúng ta có thể khẳng định, cà phê Robusta Việt Nam có chất
lượng cao, thậm chí cao hơn hẳn cà phê cùng chủng loại của nhiều nước khác,
điều này cũng đã được các nhà nhập khẩu lớn công nhận. Đó là vì cà phê
Robusta vốn có nguồn gốc phát sinh từ những vùng thấp nóng ẩm ở châu Phi,
nay được đưa lên trồng ở các cao nguyên có độ cao trên mặt biển như vậy,
biên độ nhiệt độ ngày đêm lớn nên chất lượng sản phẩm cà phê ở đây hơn hẳn
ở các vùng thấp. Khi người ta ca ngợi cà phê vối Buôn Ma Thuột chính là vì
nó được trồng ở độ cao như thế cộng với đất badan có độ màu mỡ lý tưởng
cho cây cà phê. Chất lượng là khâu then chốt quyết định kết quả xuất khẩu
của tất cả các mặt hàng, đặc biệt cà phê lại là mặt hàng đòi hỏi chất lượng cao.
Sản phẩm cà phê Việt Nam hầu hết được bắt đầu từ những giống đã
được chọn lựa qua nhiều thập kỷ, lại được gieo trồng trên những vùng đất có
33
khí hậu thích hợp, đặc biệt trên những vùng cao từ 500m trở lên, cà phê càng
có ưu thế tạo hương vị thơm ngon, đặc biệt được nhiều người ưa chuộng. Các
nhà nghiên cứu và lai tạo giống của Việt Nam đã hoạt động rất tích cực và
đến nay đã tạo ra được giống cà phê vối lai chất lượng tốt.
Tuy nhiên vấn đề chất lượng đặt ra ở đây là tác động tổng hợp của cả quá
trình trồng trọt, thu hái, chế biến. Đó là lý do cà phê Việt Nam chiếm tới 66%
tổng khối lượng cà phê không đạt tiêu chuẩn theo nghị quyết 420 của ICO
năm 2007. Sự chậm trễ áp dụng tiêu chuẩn chất lượng mới( 4193-2005) của
Việt Nam đã làm tăng lượng cà phê bị loại theo phân loại của LIFFE. Dưới
con mắt của khách hàng nước ngoài cũng như Ủy ban điều hành tổ chức Cà
phê quốc tế (ICO), hình ảnh của cà phê Việt Nam trong thị trường thế giới
đang rất mờ nhạt. Hiện tại, cà phê có xuất xứ từ Việt Nam khi xuất khẩu
thường bị trừ lùi so với giá chuẩn tại các sàn giao dịch cà phê trên thế giới
như Luân - đôn, Niu - Oóc.. Rõ ràng, trên thực tế, cà phê xuất khẩu của Việt
Nam đang bị bắt chẹt về chất lượng, từ đó bị ép giá bán trên thị trường thế
giới; trong khi đó, chúng ta chưa có một hướng đi đúng nhằm thoát khỏi sự ép
giá của các đối tác.
Tháng 5/2008, nhận xét của ICO về tình hình thực hiện chương trình
cải tiến chất lượng cà phê năm 2007 cho thấy rất rõ thái độ chưa nghiêm túc
của Việt Nam trong việc tuân thủ chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế,
đặc biệt về số lỗi và độ ẩm. Theo ông Đoàn Triệu Nhạn - nguyên Chủ tịch
Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, dù cà phê Robusta của Việt Nam có chất
lượng cao, nhưng đa số các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam vẫn áp
dụng bộ tiêu chuẩn cũ 4193:93 trong quan hệ mua bán cà phê với nhà nhập
khẩu. Cụ thể, các chỉ tiêu đó bao gồm: cỡ hạt, tỉ lệ tạp chất, tỉ lệ hạt đen, sâu,
nâu, vỡ tính theo phần trăm khối lượng. Cái lợi từ việc áp dụng tiêu chuẩn cũ
này là đơn giản, chi phí thấp. Tuy nhiên, cách phân loại này là quá sơ sài,
không đánh giá đầy đủ chất lượng sản phẩm (cà phê quả xanh được thu hoạch
34
và chế biến, nếu không bị đen, vỡ, thì không ảnh hưởng đến kết quả phân
hạng theo tiêu chuẩn này, nhưng nếu áp dụng tiêu chuẩn “kỹ tính” hơn thì sẽ
“tụt hạng” trông thấy, (theo ICO, thu hái quả xanh được xem là lỗi rất nặng),
và tình trạng thu hoạch quả xanh vẫn tiếp diễn, làm cho chất lượng cà phê của
Việt Nam không được cải thiện, thua thiệt vì dễ dãi. Để cà phê Việt Nam tạo
dựng được thương hiệu đích thực trên thị trường thế giới và đem về giá trị
xuất khẩu ngày càng cao, chắc chắn Việt Nam còn có nhiều điều cần làm, từ
đầu tư cho sản xuất, đến thu hái, bảo quản, chế biến, tạo dựng thương hiệu...
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia trong ngành, việc cần làm ngay bây giờ
chính là sớm áp dụng Tiêu chuẩn TCVN 4193-2005. Đây là một tiêu chuẩn đã
được xây dựng từ năm 1996 trên cơ sở đúc kết từ nhiều nước trên thế giới.
Tiêu chuẩn này áp dụng phân loại theo cách tính lỗi để phù hợp với cách phân
loại của ICO. Năm 2005, Việt Nam đã ban hành tiêu chuẩn này, tuy nhiên,
đây là tiêu chuẩn có tính chất tự nguyện áp dụng, chưa bắt buộc nên thời gian
qua việc áp dụng còn rất hạn chế. Mặt khác, cũng có nhiều nguyên nhân chủ
quan làm cho việc áp dụng tiêu chuẩn này còn chậm trễ đó là:
Thứ nhất, vẫn chưa có văn bản qui phạm pháp luật hoặc qui chuẩn
kỹ thuật bắt buộc áp dụng TCVN 4193:2005 đối với cà phê nhân. Trong
thực tế, do chưa có sự vào cuộc của nhiều doanh nghiệp và người sản xuất,
nên chưa có những biện pháp khắc phục khó khăn, khó áp dụng trọn vẹn
TCVN 4193:2005.
Thứ hai, lý do làm cho không ít doanh nghiệp còn chần chừ là do phần
lớn các hợp đồng xuất khẩu cà phê hiện nay vẫn theo hình thức thoả thuận
về chất lượng, dựa theo cách phân loại cũ, chủ yếu dựa vào 3 tiêu chí giản
đơn: độ ẩm, tỉ lệ hạt đen, tỉ lệ hạt vỡ vì thế họ lo ngại nếu đồng loạt áp dụng
kiểm tra chất lượng cà phê xuất khẩu trước khi thông quan ngay tại thời
35
điểm này sẽ đảo lộn kế hoạch xuất khẩu cà phê, đặc biệt là các hợp đồng đã
ký kết trước đây.
Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân cực kỳ quan trọng nữa là nếu
chế biến cà phê theo TCVN 4193-2005 thì rõ ràng doanh nghiệp không có
lợi nhuận. Lý do chính là ít có nhà nhập khẩu nào chịu mua cà phê R2A và
R2B theo tiêu chuẩn TCVN 4193-2005, hoặc mua với giá thấp hơn giá thành
sản xuất từ 70 - 90 USD/tấn. Gần như các nhà nhập khẩu chỉ mua sản phẩm
R2 để đưa về chế biến, phân loại lại để bán trên các thị trường kỳ hạn với giá
cao hay thấp tùy chất lượng. Hiện cà phê theo TCVN 4193-2005 xuất khẩu
được chỉ chiếm khoảng 1,5% sản lượng. Sau khi đưa nguyên liệu là cà phê
nhân R2 (độ ẩm 13%, tạp chất 1%, đen vỡ 5%, hạt trên sàng 13 đạt 90%)
tương đương 270 lỗi với số lượng 5.038 kg vào chế biến thì thu hồi được
4.121 kg loại cà phê R2A - 120 lỗi (tương ứng TCVN 4193-2005), tỷ lệ thu
hồi đạt 81,8%. Hao hụt trong quá trình chế biến là 0,6%; còn cà phê thứ
phẩm là 887 kg, tỷ lệ 17,6%. Tổng chi phí cho quá trình chế biến bình quân
129,7 USD/tấn.Tương tự, đưa 5.040 kg cà phê R2 (270 lỗi) vào chế biến
thành loại R2B - 150 lỗi thì thu hồi được 4.348 kg (tỷ lệ 86,27%); cà phê thứ
phẩm là 675 kg (13,39%); chi phí chế biến 101,5 USD/tấn. Như vậy, giá
thành chế biến 1 tấn cà phê R2 - 270 lỗi để cho ra loại R2A - 120 lỗi hoặc
R2B - 150 lỗi mất từ 100 đến 130 USD, trong khi giá bán cao hơn cà phê R2
bình thường chỉ từ 30 - 40 USD/tấn. Nhưng điều quan trọng hơn, là người ta
sẽ làm gì với lượng cà phê thứ phẩm, ước tính khoảng 15%? Sản lượng cà
phê Việt Nam mỗi năm gần 1 triệu tấn, nếu chế biến theo TCVN 4193-2005
thì cà phê thứ phẩm sẽ có khoảng 150.000 tấn. Ở các nước sản xuất cà phê
đồng thời cũng có lượng tiêu thụ nội địa lớn thì cà phê thứ phẩm được tận
dụng vào công nghiệp thực phẩm, bánh kẹo, nước giải khát... Còn ở Việt
Nam các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu cà phê còn chưa phát triển
mạnh nên việc xử lý lượng cà phê thứ phẩm vẫn là bài toán chưa có lời giải.
36
Mặc dù vậy, thời gian gần đây, chất lượng cà phê Việt Nam đã có nhiều
tiến bộ. Thực tế, tình trạng cà phê còn độ ẩm cao như thời kì cuối thập niên 90
đã được khắc phục. Tỷ lệ cà phê Việt Nam vượt qua mức đánh giá khắt khe
của thị trường Luân Đôn ngày càng cao mặc dù trước đây cà phê Việt Nam
thất bại trên thị trường này do độ ẩm của sản phẩm cao gây nấm mốc. Một số
loại cà phê hảo hạng của Việt Nam hạt nhẵn, đều cỡ, không tạp chất đã đạt
được mức giá FOB cao hơn giá của thị trường Luân Đôn (khoảng 2200USD/
tấn). Sở dĩ cà phê Việt Nam đạt được tiêu chuẩn cao hơn một cách nhanh
chóng là do giống cà phê lai cho tỷ lệ hạt lớn hơn so với các nước khác. Khả
năng cà phê Việt Nam cho chất lượng cao là có căn cứ khi chúng ta đảm bảo
được các yêu cầu về tiêu chuẩn trồng, thu hái và chế biến biến cà phê, sử
dụng nhiều phân hữu cơ, chỉ thu hái quả chín, xát tươi ngay không ủ đống.
Nhưng chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, chất lượng cà
phê của chúng ta thấp như hiện nay nguyên nhân lớn nhất vẫn thuộc về người
trồng cà phê, những người trực tiếp sản xuất ra cà phê. Hiện nay việc sản xuất
cà phê đều mang tính tự phát, nhỏ lẻ, phân tán và thiếu sự liên kết giữa bốn
nhà. Thực tế cho thấy chỉ có chưa tới 20% diện tích cà phê của nước ta hiện
đang do các công ty, nông trường hoặc các chủ trang trại lớn quản lý, có đầu
tư quy trình kỹ thuật tiên tiến; còn lại trên 80% diện tích là do người dân quản
lý với diện tích vừa nhỏ, lẻ vừa phân tán và mang tính độc lập. Diện tích canh
tác trung bình của mỗi hộ dân chỉ từ 0,5 đến 1 hécta. Chính vì sự nhỏ lẻ này
đã dẫn đến làm cho chi phí đầu tư tăng cao, sản phẩm làm ra không đều và
kém ổn định, khó tiếp cận với những tiến bộ khoa học, thị trường tiêu thụ và
kể cả các dịch vụ như vay vốn, xây dựng thương hiệu, chứng chỉ chất lượng…
Bên cạnh đó, người trồng cà phê còn thiếu sự tư vấn về kỹ thuật của các nhà
khoa học, thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước và thiếu cả những cam kết, hợp đồng
tiêu thụ sản phẩm của nhà doanh nghiệp…Cũng chính vì quy trình sản xuất
quá manh mún và nhỏ lẻ như vậy, nên chất lượng cà phê sản xuất ra của Việt
37
Nam luôn luôn thấp mặc dù đã có rất nhiều cố gắng. Cà phê Việt Nam xuất
khẩu đi các nước trên thế giới luôn bị ép giá dẫn đến thua thiệt rất nhiều. Đơn
giản nhất, khâu thử nếm trên thị trường thế giới là bắt buộc trước khi xuất
khẩu thì ở Việt Nam khâu này thường bị bỏ qua, tạp chất theo quy định Việt
Nam là 1% trong khi quốc tế là 0,2%. Chất lượng không được nâng cao trong
khi hàng hoá qua các nhà nhập khẩu trung gian vẫn đi thẳng tới thị trường tiêu
thụ. Đến lúc này, các điểm yếu của chất lượng cà phê Việt Nam mới bộc lộ,
gây thiệt hại lớn về kinh tế lẫn uy tín cho ngành cà phê Việt Nam. Bởi thế,
người mua thường mua hàng Việt Nam với giá thấp hơn so với cà phê của
Braxin, Indonesia...Ngoài ra, người nông dân còn chưa có ý thức tạo sản
phẩm tốt. Nguyên nhân chính là sản phẩm tốt hay xấu đều bán được cho các
cơ sở chế biến mà giá cả không chênh lệch nhiều. Hầu hết nông dân trồng cà
phê của nước ta chế biến cà phê theo phương pháp khô (thu hoạch về rồi phơi
khô cả quả dưới trời nắng sau đó xay xát) vì phương pháp chế biến này không
đòi hỏi khắt khe về chất lượng quả thu hoạch. Nếu thu hoạch tỷ lệ quả chín
càng cao thì càng tốt nhưng vẫn chấp nhận các quả xanh già, quả ương, quả khô
trên cây, rụng dưới đất, kể cả những chùm quả. Công tác thu hoạch cà phê của
nông dân gồm các công việc chính là: hái quả, vận chuyển quả về nơi chế biến
và lưu giữ quả trước khi phơi sấy. Trong đó 2 công đoạn gồm thu hái và lưu giữ
quả tươi ảnh hưởng nhiều nhất đến chất lượng sản phẩm cà phê sau cùng.
Trong mỗi vụ thu hoạch, nông dân thường hái chỉ từ 2 đến 3 đợt nên
trong khối lượng quả có 51,6% quả chín, 32,4% quả xanh, 9,2% quả chín nẫu
và 4,5% quả khô. Nguyên nhân dẫn đến việc nông dân thu hoạch cà phê tập
trung từ 2-3 đợt là do sợ mất trộm, tiết kiệm nhân công.Việc lưu giữ quả cà
phê tươi sau thu hoạch hoặc trước khi phơi là rất phổ biến. Trung bình, nông
dân lưu giữ quả tươi trong bao bì hoặc ủ thành đống từ 6 - 7 ngày; cá biệt có
những hộ lưu giữ trên 10 ngày. Lý do lưu giữ cà phê tươi trước khi phơi là do
không có đủ diện tích sân phơi vào thời điểm thu hoạch rộ, thiếu nhân công
38
trong mùa thu hoạch và nhiều người cho rằng việc ủ quả sẽ làm cho vỏ quả bớt
cứng giúp phơi nhanh khô hơn và công việc xát khô tách bỏ vỏ quả sau này sẽ dễ
dàng hơn.Tuy nhiên, nông dân không biết rằng, việc ủ quả lâu đã gây ảnh hưởng
trầm trọng đến chất lượng sản phẩm cà phê, đặc biệt là các quả cà phê xanh hoặc
non được thu hoạch lẫn lộn, sau khi ủ sẽ làm tăng tỷ lệ hạt đen và hạt nâu. Theo
cách tính lỗi của TCVN 4193 thì một hạt xanh non được tính 0,2 điểm lỗi nhưng
một hạt đen lại bị tính 1 điểm lỗi, cao gấp 5 lần hạt xanh non. Từ hạt xanh non
sau quá trình ủ đã chuyển sang đen hoặc đen một phần đã làm tăng 49,4 điểm lỗi
trong mẫu 300g cà phê nhân. Bên cạnh đó, trong quá trình ủ thì có tới 3,4% hạt
chuyển sang màu nâu do lên men đã làm tăng thêm 19 điểm lỗi....
Trong chế biến khô, sân phơi là phương tiện quan trọng nhất. Theo tính
toán thì 1 ha cà phê cần tới 99m2 sân phơi. Hiện tại, tình trạng nông dân phơi
cà phê trên sân đất là rất phổ biến. Hiện nay, có tới 66% số hộ dân phơi cà
phê trên sân đất, trong đó có 16,5% số hộ phơi cà phê hoàn toàn trên sân đất;
số còn lại phơi kết hợp vừa trên sân đất, sân xi măng, sân gạch và bạt. Chỉ có
khoảng 20% số hộ phơi hoàn toàn trên sân xi măng và chỉ có khoảng 0,2% số
hộ sử dụng máy để sấy cà phê.Theo nhiều nông dân cho biết, việc phơi cà phê
trên sân đất có ưu điểm là đối phó tốt với thời tiết bất lợi như trời mưa vì sân
đất không đọng nước. Tuy nhiên, việc phơi cà phê trên sân đất sẽ làm tăng
thêm mùi vị bẩn trong tách cà phê sau này.Trong phương pháp phơi cũng còn
nhiều khác biệt, có khoảng 44% số hộ phơi nguyên cả quả, 40% số hộ kết hợp
vừa phơi nguyên quả và xát dập và có khoảng 4% số hộ là xát dập cà phê
hoàn toàn trước khi phơi. Việc xát dập cà phê trước khi phơi có ưu điểm là rút
ngắn thời gian phơi nhưng lại dễ làm cà phê mất phẩm cấp nếu gặp trời mưa.
Nông dân cũng chưa áp dụng đúng yêu cầu kỹ thuật trong quá trình phơi cà
phê. Yêu cầu kỹ thuật trong khi phơi là phải làm giảm độ ẩm của cà phê càng
nhanh càng tốt bằng cách cào, đảo nhiều lần trong ngày. Tuy nhiên, hiện nay,
nông dân thường ít cào, đảo cà phê trong quá trình phơi, bình quân chỉ khoảng
39
từ 1-2 lần/ngày và khi cà phê gần khô thì tăng số lượng cào, đảo lên 4-5
lần/ngày đây hoàn toàn ngược lại với yêu cầu kỹ thuật là cào, đảo nhiều hơn
lúc cà phê còn ẩm, ướt cao. Việc áp dụng kỹ thuật phơi không đúng cũng đã
làm tăng lượng cà phê bị nhiễm nấm mốc trong giai đoạn phơi đầu tiên.
Đã đến lúc chúng ta cần có một cuộc cách mạng thực sựu trong khâu thu
hoạch và chế biến mà trước hết phải làm ngay từ người nông dân.
2.2.2. Cạnh tranh về chi phí và giá cả
Việt Nam là quốc gia được công nhận có chi phí sản xuất cà phê thấp
nhất nhưng cho sản lượng cao nhất trong số các nước xuất khẩu cà-phê
Robusta. Do có điều kiện thiên nhiên cực kỳ tốt phù hợp với điều kiện sống
của cây cà phê nên với một lượng đầu tư phù hợp giống các nước khác thì cây
cà phê Việt Nam luôn cho năng suất cao hơn hẳn, khoảng trên 2 tấn/ha
Bảng 2.4: Cơ cấu chi phí sản xuất trung bình cho 1 tấn cà phê
Tổng chi Chi phí/Tổng STT Khoản kinh phí phí (đ/tấn) chi phí
1 Phân bón 4.061.508 40,03 %
- Phân hoá học 3.547.294 34,96%
- Phân hữu cơ 514.214 5.07%
2 Thuốc BVTV, thuế, lệ phí 2.500.571 24,64%
3 Chi phí lao động 1.372.283 13,52%
- Chi phí thuê ngoài 1.343.979 13,24%
0.28% - Chi phí lao động tự làm 28.304
4 Chi khác 2.212.960 21,81%
10.147.322 100% Tổng chi
(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT)
Nhìn vào bảng số liệu trên đây chúng ta thấy, những yếu tố chiếm chi phí
cao nhất trong sản xuất cà phê, Việt Nam đều có khả năng tự chủ. Phân bón
40
sản xuất trong nước nên giá thành thấp, mua bán dễ dàng. Thuốc bảo vệ thực
vật chúng ta cũng ít phải nhập, hầu hết đều có trong nước nên giá thành cũng
thấp. Chi phí nhân công lao động của Việt Nam được đánh giá là rẻ nhất trong
hiệp hội cà phê thế giới.
Về mặt giá cả, mặc dù là một cường quốc về cà phê nhưng với vị thế
như của Việt Nam hiện nay thì dường như chúng ta đang bị loại khỏi cuộc
chơi trên sân chơi của xuất khẩu cà phê thế giới.Thông thường trong kinh
doanh, quốc gia nào làm chủ được về sản lượng một mặt hàng nào đó thì sẽ
đóng vai trò quan trọng trong điều tiết giá cả thị trường. Thế nhưng, ngành cà
phê VN thì ngược lại. Người trồng cà phê và các DN xuất khẩu VN bị đẩy ra
khỏi “cuộc chơi”do không kiểm soát được giá, mặc dù VN là một cường quốc
cà phê. Nguyên nhân là do phần lớn người trồng cà phê và DN không đủ tiềm
lực về tài chính, nên phải bán vội cà phê ngay sau thu hoạch để lấy tiền trả nợ
vay và duy trì sản xuất. Đến cuối vụ, khi giá lên cao thì trong kho chỉ còn lại
rất ít. Điển hình là cuối quý III/2005, khi giá cà phê xuất khẩu trên thị trường
tăng đến trên 1.000 USD/tấn và giá DN thu mua cho nông dân cũng đạt con
số 18.000 đồng/kg, cao nhất trong vòng 5 năm kể từ năm 2000 . Thế nhưng
lượng hàng trong dân và trong kho DN cũng chỉ còn lại khoảng 40.000 tấn.
Người trồng và xuất khẩu cà phê VN lại tiếc hùi hụi vì bị mất cơ hội.
41
Bảng 2.5
Diện tích và đơn giá xuất khẩu của cà phê Việt Nam từ 2000 - 2008
Năm DT tăng giảm so với năm trước Diện tích (1000 ha)
Đơn giá xuất khẩu bình quân năm (USD/tấn) 658,36 2000 533 0
2001 400,37 535 2.000
2002 427,81 500 -35.000
2003 643,57 513 13.000
2004 647,53 510 -3.000
2005 788,83 500 -10.000
2006 1188,03 470 -30.000
2007 1548,75 489 19.000
2008 2014,4 500 11.000
( Nguồn: vicofa)
Đơn giá xuất khẩu năm cao nhất đạt 2.393,56 USD/tấn (1995). Giá này
cứ giảm dần đến năm 2005. Năm thấp nhất 2001 giá chỉ còn 400,37 USD/tấn,
chỉ còn bằng 16,73% của 6 năm về trước, (chưa tính tỷ giá USD với đồng nội
tệ). Từ năm 2006 - 2007 giá mới phục hồi nhưng mức cao nhất cũng chỉ bằng
10 năm về trước. Những con số trên đây cho chúng ta thấy rằng, mặc dù có
diện tích trồng tương đối lớn nhưng cà phê Việt Nam chưa thể chi phối thị
trường thế giới. Giá cả của cà phê nước ta phụ thuộc rất nhiều vào các nước
nhập khẩu, do chất lượng không cao nên việc cà phê Việt Nam bị ép giá là
chuyện đương nhiên. Bên cạnh đó, cà phê chúng ta sản xuất ra và xuất khẩu
hầu hết là xuất khẩu thô, chưa qua chế biến sâu nên giá trị không cao, vì vậy,
quyền quyết định giá không thuộc về chúng ta mà thuộc về các nhà nhập khẩu
cà phê để sản xuất cà phê tinh chế phục vụ người tiêu dùng, cà phê Việt Nam
42
sản xuất ra vẫn chỉ là nguyên liệu sản xuất cho các nhà rang xay ở các nước
nhập khẩu. Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa thể định đoạt được giá trên thị
trường thế giới khi chưa có một ngành công nghiệp chế biến hiện đại, sản
xuất ra nhiều loại cà phê cao cấp phục vụ trực tiếp người tiêu dùng.
2.2.3. Cạnh tranh thị trường
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội lớn cho ngành nông
nghiệp nước ta phát huy lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái để phát triển
những sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Cà-phê là một trong những nông sản
điển hình đó. Mặc dù gia nhập thị trường thế giới muộn hơn nhiều so với các
nước sản xuất cà-phê truyền thống, nhưng Việt Nam đã nhanh chóng chiếm
lĩnh thị trường ở nhiều nước, trong đó có những thị trường rất khó tính như
Mỹ, Ðức và các nước châu Âu khác. Hầu hết các thị trường xuất khẩu của
Việt Nam trong những năm gần đây đều có những bước phát triển vững chắc.
Thị phần cà phê xuất khẩu của Việt Nam tại Đức tăng đều từ 13%, lên 15%
và hiện nay ổn định ở mức trên 16%, thị trường Mỹ, Italia…cũng đều tăng ổn
định. Ngoài ra, Cà phê Việt Nam cũng đang ngày càng mở rộng thị trường
sang nhiều thị trường tiềm năng khác như Bỉ, Marốc, Rumani…Xét trên
phương diện thị trường thế giới, thị phần cà phê Việt Nam cũng có những
bước tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định những năm gần đây:
Bảng 2.6: Thị phần cà phê Việt Nam trên thế giới.
Các nước xuất Năm 2000 2005 2008 khẩu cà phê
100% 100% 100% ThÕ giíi
Việt Nam 10% 15% 20%
Braxin 30% 40% 31,5%
Colombia 9% 11% 13,5%
Indonexia 6% 9% 12%
43
Các nước khác 40% 25% 23%
(Nguồn: Vicofa)
Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn giữ vững vị thế là nước có
thị phần cà phê đứng thứ hai thế giới. Nếu xét riêng cà phê Robusta thị
phần cà phê luôn đạt mức rất cao, có năm chiếm tới 40% - 50% thị phần
thế giới, nhưng cà phê Arabica của Việt Nam thì lại phát triển rất kém.
Chính vì lẽ đó, mặc dù là một nước có sản lượng cà phê cao nhất thế giới
nhưng Việt Nam vẫn chưa có được vị thế thống trị, chưa có ảnh hưởng lớn
đối với thị trường thế giới, bởi cà phê xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là
cà phê thô, mới có rất ít lượng cà phê chế biến cao cấp của Việt Nam trên
thị trường thế giới. Đối với mỗi loại hàng hoá, khả năng chiếm lĩnh thị
trường phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, mẫu mã, giá cả….Cà phê cũng
vậy. Do đó, cà phê Việt Nam muốn giành được thị phần ngày càng cao thì
việc cần làm trước tiên là phải tập trung nâng cao chất lượng, sản xuất
nhiều loại cà phê cao cấp, phục vụ trực tiếp người tiêu dùng, có như vậy,
thị phần cà phê Việt Nam trên thế giới mới thực sự ổn định và bền vững
chứ không chỉ chiếm thị phần cao dựa vào sản lượng sản phẩm thô. Như
vậy, tiềm năng cho cà phê Việt Nam là rất lớn, tuy nhiên, thách thức cũng
là không nhỏ trong việc giành thị phần, vị thế trên thương trường. Hướng
đi sắp tới cho cây cà phê là Việt Nam không nên chú trọng vào việc mở
rộng diện tích trồng mà cần phải phát triển theo chiều sâu, đầu tư vào công
nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng của sản phẩm từ khâu thu hoạch cho
đến chế biến. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cần có sự liên kết, hợp tác
với nhau để chủ động về giá cà phê Việt Nam trên thế giới. Có như vậy, cà
phê mang thương hiệu Việt Nam mới thực sự chiếm lĩnh thị trường quốc tế,
góp phần giúp nước ta ngày càng hội nhập một cách tích cực, sâu rộng hơn
so với thị trường thế giới
44
2.3. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam
Thứ nhất, Chất lượng cà phê ngày càng được cải thiện.
2.3.1. Những điểm mạnh
Cà phê Việt Nam vốn được đánh giá là có hương vị rất thơm ngon
nhưng do khâu thu hái và chế biến đã làm giảm rất nhiều chất lượng. Đứng
trước yếu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới và sự cạnh tranh ngày
càng lớn từ các quốc gia trồng cà phê khác, cà phê Việt Nam phải nhanh
chóng cải thiện chất lượng bằng việc sử dụng công nghệ ngày càng hiện đại
để giữ lại được hương vị tự nhiên của nó.
Với những thuận lợi do thiên nhiên mang lại( đất tốt, khí hậu thích
hợp...) cà phê Việt Nam có những hương vị rất đặc trưng. Hiện nay, đã có rất
nhiều công ty sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn của nước ta đầu tư thiết bị
đồng bộ, sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng rất tốt, điển hình như
Vinacafe Biên Hoà, Trung Nguyên....Với hệ thống sân phơi, kho chứa đảm
bảo, máy móc sản xuất hiện đại, các sản phẩm cà phê do các doanh nghiệp
sản xuất ra ngày càng chiếm lĩnh được thị trường, được nhiều người tiêu dùng
chấp nhận.
Thứ hai, Chi phí sản xuất cà phê tương đối thấp.
Với dân số trên 80 triệu người hiện nay, nền kinh tế lại phát triển mạnh
về nông nghiệp do vậy mà lượng nhân công dành cho ngành cà phê của Việt
Nam cũng rất dồi dào. Theo đánh giá của hiệp hội cà phê thế giới thì giá thuê
nhân công trong ngành cà phê của Việt Nam cũng rẻ hơn rất nhiều so với các
nước cùng trong hiệp hội, đây là một yếu tố vô cùng thuận lợi cho ngành cà
phê của nước ta cạnh tranh về giá thành xuất khẩu so với các nước khác. Với
bất cứ ngành sản xuất nào mà có thể sử dụng nhân công tại chỗ, nhân công
nội địa hoàn toàn thì khả năng giành thắng lợi trong cuộc chiến về giá cả là rất
lớn so với các đối thủ khác.
45
Ngoài ra, năng suất cây trồng cao cũng là nhân tố quan trọng làm giảm
giá thành, tăng khả năng cạnh tranh cho cà phê Việt Nam. Năng suất cà phê
Việt Nam hiện nay cao nhất thế giới khoảng trên 2tấn/ ha, và còn có khả năng
tiếp tục tăng cao hơn nữa, trong khi Braxin, nước đứng đầu thế giới về sản
xuất cà phê năng suất hàng năm cũng chỉ khoảng trên dưới 1,5tấn/ ha.
Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng nữa làm cho chi phí sản xuất cà phê
của nước ta thấp đó là do chúng ta tự chủ được nguồn thuốc trừ sâu, thuốc bảo
vệ thực vật trong nước, ít phải nhập khẩu. Những nhân tố trên đây là quan
trọng nhất góp phần làm giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh cho
cà phê Việt Nam.
Thứ ba, thị trường tiêu thụ cà phê ngày càng phát triển cả chiều rộng và
chiều sâu.
Cà phê Việt Nam những năm gần đây được xuất khẩu vào ngày càng
nhiều nước trên thế giới. Số lượng các nước nhập khẩu cà phê của Việt Nam
tăng dần theo từng năm và đến hiện nay thì chúng ta đã xuất khẩu sang đén
trên 70 nước trên thế giới. Với chính sách mở cửa hội nhập ngày càng sâu
rộng của chính phủ, chắc chắn những năm tới thị trường xuất khẩu cà phê
Việt Nam sẽ được mở rộng hơn nữa.
Bên cạnh đó, thị phần nhập khẩu cà phê Việt Nam của các nước trên thế
giới cũng tăng lên theo từng năm. Những thị trường nhập khẩu cà phê lớn đều
tăng như: Đức từ 15% năm 2005 lên 16% năm 2008, Mỹ từ 11% lên 13,2%,
Italia từ 7% lên 8,13%.....Ngoài các thị trường lớn truyền thống thì hiện nay,
thị phần nhập khẩu cà phê Việt Nam tại các thị trường mới cũng ngày càng
tăng lên.
2.3.2. Những hạn chế và thách thức đặt ra cho ngành cà phê Việt Nam.
2.3.2.1. Những hạn chế
(*) Chất lượng thấp
46
Tuy là nước có tiềm năng và thế mạnh trong việc trồng và xuất khẩu
sản phẩm cà phê nhưng giá trị mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam chỉ
đứng thứ 4-5 thế giới do chất lượng cà phê xuất khẩu luôn có sự bất ổn, kỹ
thuật bán hàng và sự phối hợp chưa có hiệu quả giữa các nhà xuất khẩu cà
phê. Nguyên do của tình trạng trên chính là sự phát triển ồ ạt và bột phát của
người nông dân nhằm tăng diện tích và sản lượng cà phê. Sự phát triển thiếu
quy hoạch cùng việc phụ thuộc quá nhiều vào tập quán canh tác, thu hái, bảo
quản và chế biến cà phê của người dân Việt Nam (vốn đã lạc hậu, tuỳ tiện...)
chính là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng và giá trị mặt
hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam.
Theo ICO cho biết, tính từ tháng 3.2007 trở về trước, cà phê có nguồn
gốc từ Việt Nam bị thải loại chiếm tới 88% tổng số cà phê bị loại thải của thế
giới. Như vậy, giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam và uy tín về chất lượng cà
phê của Việt Nam đã bị sụt giảm nghiêm trọng. Bên cạnh những diễn biến bất
thường của thời tiết, sự thoái hoá của nguồn tài nguyên đất, yếu tố nóng vội
của người nông dân trong quá trình canh tác... còn phải kể đến sự lạc hậu và
thiếu đồng bộ trong quy trình khai thác, bảo quản và chế biến các sản phẩm từ
mặt hàng cà phê. Theo đó, mặc dù là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế
giới nhưng số lượng các đơn vị, doanh nghiệp thu mua, chế biến nguồn
nguyên liệu này của Việt Nam được coi là mạnh lại chỉ đến trên đầu ngón tay
(10/140 doanh nghiệp).
Ngoài ra, việc suy giảm chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam còn
do thiếu sự hướng dẫn của các cơ quan quản lý chuyên môn trong việc phổ
biến và áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật cho mặt hàng cà phê xuất khẩu. Đa
phần các doanh nghiệp thu mua và chế biến cà phê Việt Nam đều là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính còn hạn chế, thiết bị công nghệ
còn lạc hậu và thiếu sự gắn kết chặt chẽ với người dân từ khâu trồng đến quá
trình thu mua, bảo quản và chế biến. Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt
47
Nam không ổn định còn là do tâm lý ”ăn sổi ở thì”đã tồn tại từ bao đời nay
của người nông dân Việt Nam. Người dân trồng cà phê bằng mọi giá, bất chấp
các loại giống tốt - xấu (nhất là sử dụng giống cây thực sinh ươm bằng hạt,
dẫn đến cây có năng suất và chất lượng kém). Thống kê cho thấy, 50% số hộ
nông dân trồng cà phê sử dụng phân bón không đúng cách, việc chăm sóc cây
cà phê cũng tiến hành không đúng quy trình kỹ thuật, việc thu hái cà phê
xanh, cà phê non vẫn thường xuyên xảy ra... Cùng với đó là việc phát triển tự
phát các loại cây trồng không theo quy hoạch và phá rừng để trồng cà phê
đang có xu hướng gia tăng tại nhiều địa phương chính là nguyên nhân khách
quan ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm, gây biến động cung -
cầu trên thị trường và tác động xấu đến môi trường sinh thái. Chất lượng cà
phê được quyết định từ những người sản xuất, từ khâu chọn giống đến chăm
sóc thu hái, chế biến, nhưng do hiện nay các doanh nghiệp vẫn còn mua bán
theo kiểu “có gì mua nấy”, mức độ chênh lệch giá giữa chất lượng tốt với xấu
không đủ kích thích người sản xuất đầu tư nâng cao chất lượng. Chính vì vậy
mà hàng chục năm qua mặc dù ngành cà phê đã rất cố gắng để nâng cao chất
lượng cà phê xuất khẩu, nhưng đều không đạt được hiệu quả mong muốn do
thiếu vắng vai trò của các doanh nghiệp.
(*) Đầu tư cho khoa học kỹ thuật còn ít, công nghệ chế biến lạc hậu
Mặc dù là một nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới nhưng công nghệ
chế biến của Việt Nam thì lại quá yếu kém, mới chỉ có Vinacafe Biên Hoà là
có công nghệ tiên tiến nhất ở trong nước, còn hầu hết các nhà máy chế biến
khác đều có công nghệ hết sức lạc hậu cần được thay thế, đổi mới cho phù
hợp với yêu cầu chất lượng sản phẩm của thị trường.
Việc chế biến cà phê chủ yếu thực hiện ở quy mô nhỏ, hộ gia đình là
chủ yếu, sử dụng công nghệ đơn giản, sân phơi không đạt tiêu chuẩn, nhưng
lại đảm nhận chế biến tới 80% tổng sản lượng cà phê của cả nước. Những yếu
kém trong khâu thu hoạch cũng góp phần làm cho chất lượng cà phê xấu và
48
không đồng đều, tỷ lệ hạt vỡ cao, nhiều tạp chất, độ ẩm lớn và tất nhiên để có
thể xuất khẩu được cần phải chế biến lại làm tăng giá thành mà giá bán cũng
không thể cao.
Chế biến quy mô trung bình và quy mô lớn tập trung chủ yếu vào các
nhà máy, nông trường thuộc doanh nghiệp nhà nước và công ty liên doanh,
chưa khai thác được nguồn vốn hết sức to lớn trong dân qua các hình thức
hợp tác liên doanh, công ty cổ phần. Kinh tế quốc doanh chưa đảm đương
được vai trò chủ đạo trong chế biến cà phê. Theo Vinacafe, với năng lực chế
biến hiện nay của doanh nghiệp cũng chỉ có thể chế biến được khoảng 10%
sản lượng cả nước, qua đó cũng cho thấy, công nghệ chế biến không phát
triển kịp với sự gia tăng của sản xuất.
Ngoài thiết bị chế biến không được đầu tư đúng mức, hạ tầng cơ sở,
nhất là sân phơi cũng không được đảm bảo, một lượng lớn cà phê được phơi
ngay trên đường cái, trên sân đất. Các loại thiết bị công nghệ chế biến sản
xuất trong nước hoạt động không ổn định, tỷ lệ hạt lỗi và tạp chất còn cao
cũng là một trong những nguyên nhân làm cho cà phê có chất lượng không
đồng đều.
Một ví dụ điển hình về trường hợp của tỉnh Đắc Lắc, một tỉnh sản xuất
cà phê lớn của cả nước, vậy mà cũng chưa có một nghiên cứu nào chế tạo
được một dây chuyền thiết bị chế biến cà phê đồng bộ, hoàn chỉnh, có quy mô
phù hợp với các mô hình sản xuất của tỉnh. Ngay cả vấn đề xử lý nước thải
khi chế biến cà phê cũng chưa được giải quyết triệt để.
(*) Đầu tư cho xây dựng và quảng bá thương hiệu cà phê còn quá ít
Thực tế cho thấy, có rất ít thương hiệu của các doanh nghiệp cà phê đạt
các giải thưởng về thương hiệu như: Hàng Việt Nam chất lượng cao, giải Sao
vàng đất Việt, giải thương hiệu mạnh. Điển hình như Vinacafe nhiều năm liền
49
là hàng Việt Nam chất lượng cao, trong top 10 sản phẩm được người tiêu
dùng ưa thích nhất, nhãn hiệu uy tín tại Việt Nam, nhãn hiệu xuất khẩu uy tín,
thương hiệu mạnh 2006, giải thưởng WIPO của tổ chức sở hữu trí tuệ thế
giới. Còn cà phê Trung Nguyên được người tiêu dùng bình chọn là sản phẩm
đứng đầu ngành thức uống không cồn trong cuộc bình chọn là hàng Việt Nam
chất lượng cao do báo Sài Gòn Tiếp Thị tổ chức, 8 năm lièn đạt thương hiệu
hàng Việt Nam chất lượng cao (2000- 2007), giải thương hiệu nổi tiếng Việt
Nam năm 2006 do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cấp, giải
thương hiệu mạnh Việt Nam năm 2006 do thời báo kinh tế Việt Nam phối
hợp cục xúc tiến thương mại(Bộ Công Thương) tổ chức…
Quảng cáo mới chỉ xuất hiện trên một số tạp chí chuyên ngành như
Tạp chí cà phê, tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn với tần suất
khiêm tốn, dù nhiều doanh nghiệp đã xuất bản Catalogue giới thiệu về doanh
nghiệp và sản phẩm nhưng nội dung và thiết kế còn quá nhiều hạn chế. Trong
ngành cà phê chi phí dành cho quảng cáo chỉ chiếm 0,03% tổng chi phí giành
cho xúc tiến thương mại. Gần đây, các doanh nghiệp đã nhận thức được tính
tiện ích của thương mại điện tử trong hoạt động xúc tiến thương mại nên một
số doanh nghiệp đã tiến hành lập email, website. Tuy nhiên, đa số các doanh
nghiệp mới chỉ có email, số doanh nghiệp lập website còn rất hạn chế, chỉ
chiếm 31%, thêm vào đó chất lượng các website đã lập còn rất yếu kém do
các doanh nghiệp chưa đầu tư nhiều nên thiết kế đơn điệu, nội dung thông tin
ít và không cập nhật, do đó, hiệu quả của việc xúc tiến thương mại thông qua
website còn thấp. Chỉ có một số ít các doanh nghiệp quảng bá trên truyền hình
vì chi phí quá cao. Công tác xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp cà phê
chủ yếu vãn diễn ra dưới hình thức tham gia hội chợ, triển lãm, chi phí cho
thực hiện hình thức này chiếm hơn 90% chi phí giành cho xúc tiến thương
mại. Đặc biệt, vài năm qua, các doanh nghiệp cà phê còn có thêm cơ hội
50
quảng bá thương hiệu qua các sự kiện như tuần lễ văn hoá cà phê, ly cà phê
lớn nhất Việt Nam, Festival cà phê, công bố thương hiệu cà phê Buôn Ma
Thuột ra thế giới.
Nguyên nhân của tình trạng các doanh nghiệp cà phê Việt Nam có tỷ
lệ đầu tư thấp cho thương hiệu so với các doanh nghiệp cùng ngành trong khu
vực là do:
- Thứ nhất, khái niệm về thương hiệu mới chỉ được đề cập nhiều đến
trong vài năm trở lại đây, do các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn đang rất dè
dặt trong việc đầu tư vào công tác marketing và quảng cáo sản phẩm để xây
dựng thương hiệu. Phần lớn các doanh nghiệp vẫn coi đây là chi phí hơn là
một khoản đầu tư.
- Thứ hai, nền kinh tế nước ta phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
tiềm lực kinh tế còn hạn chế nên việc đầu tư cho xây dựng thương hiệu chưa
thể so sánh với các tập đoàn đa quốc gia lớn mạnh trên thế giới.
- Thứ ba, nhiều doanh nghiệp vẫn xác định mục tiêu về lợi nhuận là ngắn
hạn, trước mắt, thiếu chuyên môn xây dựng thương hiệu, sản phẩm chưa đạt
dược chất lượng nhất quán mà khách hàng yêu cầu, đầu tư là muốn thấy kết
quả ngay không theo dõi thị trường và sự phát triển chung của thương hiệu.
2.3.2.2. Những thách thức
(*) Thiếu quy hoạch trong sản xuất cà phê
Cả nước ta hiện nay có đến hơn 80% diện tích cà phê là do các hộ nông
dân trực tiếp quản lý, số diện tích cà phê còn lại thuộc các doanh nghiệp Nhà
nước quản lý, nhưng sau khi thực hiện cơ chế giao khoán đến từng người lao
động thì số diện tích này thực chất cũng do hộ nông dân quản lý. So với
nhiều nước trồng cà phê trên thế giới thì các hộ nông dân trồng cà phê của
Việt nam đều thuộc dạng nhỏ, lẻ, diện tích hẹp trung bình từ 0,5 – 1ha và
mang tính tương đối độc lập. Số hộ gia đình có diện tích lớn trên 5 ha và sản
51
xuất dưới hình thức trang trại chiếm một tỷ lệ không đang kể. Do hình thức tổ
chức sản xuất dưới dạng hộ gia đình phân tán, nhỏ lẻ và tương đối độc lập
dẫn đến suất đầu tư/ tấn sản phẩm của từng hộ gia đình nói riêng và toàn
ngành cà phê nói chung tăng cao do hộ gia đình nào cũng phải tự mua sắm
máy bơm, phương tiện vận chuyển, máy xay xát v.v… đầu tư xây dựng sân
phơi, kho tàng, v.v… nhưng hiệu quả sử dụng thấp vì chỉ sử dụng trong một
khoảng thời gian ngắn trong năm từ đó làm tăng chí phí sản xuất dẫn đến hiệu
quả kinh tế thấp. Việc tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ cũng
như các dịch vụ khác như vay vốn tín dụng, ngân hàng v.v… cũng hết sức
khó khăn, do diện tích nhỏ, manh mún và khả năng tài chính hạn hẹp. Nguồn
tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, trong đó đặc biệt là nguồn nước ngầm và tài
nguyên rừng. Cũng do hình thức tổ chức theo kiểu sản xuất, nhỏ lẻ, phân tán
và tính độc lập tương đối của các hộ gia đình nên sản phẩm làm ra không
những chất lượng không cao mà còn không ổn định do điều kiện hiểu biết và
mức độ đầu tư cho khâu thu hái chế biến khác nhau, từ đó làm cho chất lượng
cà phê của toàn ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc xây dựng thương
hiệu, chứng chỉ chất lượng hàng hóa khó có thể thực hiện được.
Bên cạnh đó, nhiều diện tích cà phê đã chuyển sang giai đoạn già cỗi,
phát triển không theo quy hoạch.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt nam thì trong
tổng số trên 500.000 ha cà phê của cả nước hiện nay chỉ có khoảng
274.000ha, chiếm 54,8% được trồng ở giai đoạn sau năm 1993, trong độ tuổi
từ 10 - 15 năm. Đây là số diện tích cà phê đang ở giai đoạn sung sức và cho
năng suất cao nhất. Trong những năm tới sản lượng cà phê Việt nam phụ
thuộc chủ yếu vào diện tích này. Trong khi đó số diện tích cà phê còn lại có
139.600 ha , chiếm 27,9% được trồng trong giai đoạn từ 1988 - 1993, đến
nay ở tuổi từ 15 - 20 năm, phần lớn diện tích này đã bắt đầu chuyển sang giai
đoạn già cỗi và khả năng cho năng suất giảm dần. Số diện tích cà phê trồng từ
52
trước năm 1988 đến nay đã trên 20 năm tuổi có tới 86.400ha chiếm 17,3%.
Những diện tích này đã già cỗi và không còn khai thác có hiệu quả cần phải
được thay thế.
Như vậy có thể thấy rằng trong thời gian 5 - 10 năm tới sẽ có trên 50% diện
tích cà phê của Việt nam đã hết thời kỳ kinh doanh có hiệu quả phải cưa đốn
phục hồi hoặc phải trồng lại. Cùng với diện tích cà phê già cỗi tăng lên thì
tổng sản lượng cà phê của cả nước sẽ giảm xuống, không còn khả năng duy trì
ở con số khoảng 1 triệu tấn như hiện nay.
Mặc dù một số năm gần đây do giá cả tăng cao, số diện tích cà phê trồng mới
được tăng lên đáng kể, có năm tới gần 30.000ha. Nhưng hầu hết, những diện
tích trồng mới này không nằm trong vùng quy hoạch, chủ yếu là được trồng
trên những nơi không thích hợp như tầng đất nông, độ dốc lớn, nơi thiếu
nguồn nước tưới v.v… và không ít trong số đó là đất rừng. Do vậy, dù diện
tích trồng mới có tăng lên, nhưng do được trồng ở những vùng không thích
hợp sẽ khó có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao do năng suất thấp và chi phí
sản xuất tăng cao. Số diện tích trồng mới này không những không đủ bù đắp
phần sản lượng thiếu hụt của những diện tích cà phê già cỗi phải thanh lý, mà
còn đe dọa trực tiếp đến tính bền vững của những diện tích cà phê còn lại do
môi trường bị hủy hoại, trong đó đặc biệt là nguồn nước tưới.
Cùng với việc mở rộng diện tích không theo quy hoạch, ngành cà phê Việt
nam trong những năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ 1990 trở đây do có nhiều
năm giá cà phê lên cao người trồng cà phê đã loại bỏ cây che bóng, đồng thời
tăng cường bón phân hóa học, lượng nước tưới v.v… nhằm mục đích đạt
được năng suất tối đa. Những biện pháp thâm canh cao độ này không những
đã làm cho cây cà phê nhanh chóng bị kiệt sức, sớm già cỗi mà còn làm cho
môi trường đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, làm phát sinh nhiều loại sâu, bệnh
hại, trong đó đặc biệt là nấm bệnh và tuyến trùng hại rễ. Thực tế trong những
năm qua đã có hàng chục ngàn ha cà phê bị bệnh không có khả năng phục hồi
53
phải thanh lý và nhiều diện tích cà phê già cỗi sau khi thanh lý cũng không có
khả năng trồng lại được cà phê.
(*) Thiếu hụt lao động, trình độ của người nông dân về kinh tế thị trường
còn nhiều hạn chế, chi phí sản xuất ngày một tăng cao
Quá trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê đòi hỏi rất nhiều
công lao động. Để thực hiện các khâu chăm sóc làm cỏ, bón phân, tưới nước,
phòng trừ sâu bệnh hại v.v… và thu hoạch trong một năm, trung bình 1 ha cà
phê cần từ 300 - 400 công lao động, trong đó riêng công thu hái chiếm tới trên
50%. Trước đây vào thời kỳ thu hoạch cà phê thường có hàng ngàn lao động
từ các tỉnh ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu long đến vùng Tây
nguyên để tham gia thu hái cà phê, nhưng bắt đầu từ một hai năm trở lại đây
số lao động ở các vùng này đến Tây nguyên vào mùa thu hoạch cà phê đã
giảm đi rõ rệt. Do mang tính chất thời vụ rất khắt khe, trong khoảng thời gian
thu hái rất ngắn chỉ khoảng 2 tháng đòi hỏi số công lao động rất lớn chiếm
trên 50% số công trong năm đã làm cho tình trạng thiếu hụt lao động càng trở
nên trầm trọng, từ đó đẩy giá ngày công lên cao. Trước sức ép về thiếu hụt lao
động và chi phí ngày công tăng cao, để giảm chi phí công thu hái người nông
dân có xu hướng giảm số lần thu hái xuống còn một đến 2 lần dẫn đến chất
lượng cà phê bị giảm sút do thu hái quả xanh và thiếu hụt điều kiện phơi xấy.
Quá trình công nghiệp hóa không những không thu hút được lực lượng lao
động đến từ các vùng khác mà ngay cả một bộ phận lực lượng lao động thanh
niên trẻ, khỏe từ các vùng trồng cà phê về các thành phố, khu công nghiệp
làm cho lực lượng lao động trong ngành cà phê ngày càng thiếu hụt trầm
trọng. Như vậy có thể thấy trước rằng trong những năm tới việc thiếu hụt lao
động sẽ là một áp lực nặng nề cho người trồng cà phê và chi phí công lao
động sẽ ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi phí sản xuất. Lợi
thế cạnh tranh về giá ngày công lao động rẻ trong ngành cà phê Việt nam so
với các nước khác sẽ không còn.
54
Cùng với sự thiếu hụt lao động và chi phí nhân công tăng cao, giá cả
vật tư phân bón, xăng dầu v.v… cũng đang có xu hướng ngày càng tăng cao
sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng lên, lợi nhuận thu được từ sản xuất cà phê sẽ
ngày một giảm sút. Thực tế trong năm vụ 2007 – 2008 tuy giá cà phê có tăng
cao nhưng do chí phí công lao động và vật tư phân bón v.v… tăng cao nên
người trồng cà phê vẫn không thu được nhiều lợi nhuận. Cùng với đó, sự hiểu
biết về kinh tế thị trường của người trồng cà phê vẫn còn rất hạn chế. Người
nông dân vẫn chỉ chú trọng đến việc bán ra những gì mình có mà không biết
thị trường thật sự cần gì, có những yêu cầu gì. Chất lượng cà phê làm ra theo
tiêu chuẩn của chính người nông dân, họ chưa nắm được hết yêu cầu chất
lượng của thị trường, dẫn đến bị thải loại và ép giá
(*) Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong nước đang mất dần lợi thế từ
khi gia nhập WTO
Trước đây các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong nước hầu như chiếm
độc quyền trong việc thu mua cà phê trực tiếp từ các hộ gia đình và các doanh
nghiệp sản xuất cà phê để xuất khẩu, do vậy mà các doanh nghiệp này chưa
thực sự quan tâm đến người sản xuất, mối liên kết giữa người sản xuất với các
nhà doanh nghiệp hầu như không tồn tại. Do không có mối liên kết nên một
khi giá cà phê lên cao các doanh nghiệp thường gặp khó khăn là khó có thể
thu mua được số lượng lớn trong một thời gian ngắn để xuất khẩu. Hơn nữa
do nguồn tài chính có hạn, phần lớn phải vay ngân hàng nên dễ gặp phải rủi
ro khi đến hạn giao hàng mà vẫn chưa thu mua đủ số lượng. Ngược lại khi giá
cà phê xuống thấp thì người sản xuất lại gặp rất nhiều khó khăn do chưa bán
được sản phẩm, trong khi đó lại phải cần vốn để đầu tư chăm sóc vườn cây,
phải đi vay ngân hàng làm tăng thêm chi phí sản xuất. Chất lượng cà phê
được quyết định từ những người sản xuất, từ khâu chọn giống đến chăm sóc
thu hái, chế biến, nhưng do hiện nay các doanh nghiệp vẫn còn mua bán theo
kiểu “có gì mua nấy”, mức độ chênh lệch giá giữa chất lượng tốt với xấu
55
không đủ kích thích người sản xuất đầu tư nâng cao chất lượng. Chính vì vậy
mà hàng chục năm qua mặc dù ngành cà phê đã rất cố gắng để nâng cao chất
lượng cà phê xuất khẩu, nhưng đều không đạt được hiệu quả mong muốn do
thiếu vắng vai trò của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau 2 năm Việt Nam gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã
từng bước trực tiếp tham gia thu mua sản phẩm cà phê từ các hộ nông dân và
các doanh nghiệp sản xuất cà phê trong nước. Bằng cách, thông qua các tổ
chức cấp chứng chỉ về chất lượng sản phẩm như UTZ Certified, Rein Fruit
Alliance, Organic Coffee, 4 C v.v…để thiết lập mối liên kết trực tiếp với
người sản xuất. Do được hỗ trợ về mặt kỹ thuật, được đảm bảo cam kết với
giá mua cao hơn, người nông dân rất dễ sẵn sàng chấp thuận tham gia vào các
tổ chức này và từ đó các doanh nghiệp nước ngoài sẽ kiểm soát được sản
lượng, chất lượng cà phê cũng như chi phí sản xuất thực tế của từng vùng.
Với nguồn tài chính dồi dào, đến một lúc nào đó các doanh nghiệp nước ngoài
sẽ là người quyết định giá mua cà phê của người nông dân.
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM
3.1. Dự báo thị trƣờng cà phê thế giới trong những năm tới
Nền kinh tế nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
3.1.1. Bối cảnh mới tác động đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê
thế giới, chính vì vậy chúng ta cũng sẽ phải tuân thủ mọi điều kiện mà sân
chơi thế giới đặt ra. Ngành cà phê cũng là một ngành hàng phải chịu nhiều tác
động cả tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập. Tác động của hội nhập
đến sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành cà phê
Việt Nam nói riêng thể hiện trên hai mặt:
*Tác động tích cực,
56
Thứ nhất, Việt Nam từng bước mở rộng được quan hệ với các đối tác, do
đó mở rộng được thị trường. Đến nay chúng ta đã có quan hệ thương mại với
hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những sản phẩm hàng hoá nông sản, hàng
công nghệ phẩm với số lượng lớn mà nền kinh tế nước ta sản xuất ra đã có thị
trường tiêu thụ rộng lớn. Riêng cà phê, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu gần 1
triệu tấn hạt. Tiếp theo, chúng ta từng bước hoàn thiện thể chế của nền kinh tế
thị trường, thu hút nguồn vốn công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý để
nâng cao năng lực cạnh tranh. Cà phê dần trở thành một ngành hàng xuất
khẩu quan trọng trong nền nông nghiệp hàng hoá. Việc hội nhập sẽ tạo ra thị
trường rộng lớn để tiêu thụ cà phê Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu cà
phê Việt Nam sẽ có thể xuất khẩu trực tiếp vào các nước thuộc WTO.
Thứ hai, quá trình hội nhập buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh
tranh nhiều hơn với các doanh nghiệp nước ngoài, do đó, thúc đẩy các doanh
nghiệp phải đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng cà phê. Hệ thống cơ sở
vật chất chế biến cà phê (sân phơi, kho chứa...) và mạng lưới tiêu thụ cà phê
cũng được phát triển mạnh trong quá trình hội nhập. Quan trọng hơn, qua hội
nhập, đội ngũ các nhà kinh doanh đã có bước tiến lớn trong hiểu biết thị
trường cà phê thế giới, trong buôn bán kinh doanh cà phê trên thương trường.
Thương hiệu cà phê Việt Nam, thương hiệu Trung Nguyên… dần dần được
khẳng định trên thị trường thế giới.
Thứ ba, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được đối
xử bình đẳng hơn với các nước khác trong quan hệ thương mại. Các doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ chịu ít cản trở hơn từ các nước nhập
khẩu, có tiếng nói hơn trong tổ chức.
*Tác động tiêu cực
Bên cạnh đó, hội nhập cũng có không ít những tác động tiêu cực đến
ngành cà phê nước ta, thể hiện ở:
57
Thứ nhất, hàng hoá Việt Nam không những phải cạnh tranh trên thị
trường thế giới mà còn phải cạnh tranh ngay cả trên “ sân nhà”. Tham gia vào
tổ chức là chúng ta được quyền tự do xuất khẩu vào các nước trong tổ chức
nhưng đồng thời các nước đó cũng được quyền tự do xuất khẩu hàng hoá vào
nước ta. Với một nền công nghiệp sản xuất còn yếu kém thì việc phải cạnh
tranh khốc liệt với các nhà sản xuất nước ngoài mạnh về tài chính và công
nghệ sẽ làm cho các doanh nghiệp Việt Nam vô cùng khó khăn. Với các
doanh nghiệp cà phê Việt Nam bắt đầu chú trọng đến thị trường trong nước
thì cũng là lúc phải cạnh tranh với nhiều hãng cà phê lớn trên thế giới đã thâm
nhập vào thị trường nước ta.
Thứ hai, gia nhập WTO, sức ép yêu cầu về chất lượng hàng hoá nhất là
hàng nông sản của thế giới ngày càng khắt khe hơn trong khi công nghệ sản
xuất của Việt Nam vẫn còn rất lạc hậu chưa đáp ứng được. Do vậy, dù được
xếp vào nhóm hàng hoá có khả năng cạnh tranh hiện nay cùng với hạt điều,
lúa gạo, hạt tiêu, một số trái cây đặc sản (vải, bưởi), thuỷ sản, may mặc, giầy
dép,... ngành hàng cà phê cũng phải chịu khá nhiều tác động tiêu cực. Xuất
khẩu cà phê Việt Nam hàng năm tăng dần về số lượng song do công nghệ chế
biến, bảo quản còn lạc hậu, khách hàng thường vin cớ chất lượng thấp để ép
giá vì vậy trị giá kim ngạch tăng không tương xứng. Các doanh nghiệp kinh
doanh cà phê Việt Nam cũng như ở các nước đang phát triển khác thường sử
dụng công nghệ kém hiện đại hơn so với các công ty lớn ở các nước phát triển
và vì vậy còn phải sử dụng nhiều nhân công hơn cho một đơn vị sản phẩm
làm cho giá thành tăng cao, sức cạnh tranh giảm đi.
Thứ ba, đối với mặt hàng cà phê, hiện nay hầu hết các chính sách thuế
của các nước nhập khẩu cà phê đều rất bất lợi đối với nước ta. Bởi vì Việt
Nam không nằm trong số những nước được ưu tiên về thuế quan đối với các
sản phẩm cà phê hòa tan khi tham gia vào các thị trường truyền thống như
58
Mỹ, Nhật Bản và EU…Các nước này áp dụng thuế nhập khẩu gần như bằng
0% đối với hầu hết các nước xuất khẩu cà phê ở Châu Mỹ. Trong khi đó mức
thuế này áp dụng với Việt Nam là từ 2,6% đến 3,1%. Hơn nữa, nhiều nước sử
dụng hàng rào phi thuế quan như là biện pháp bảo hộ ngành công nghiệp cà
phê trong nước như hạn ngạch nhập khẩu và thuế tiêu thụ cao. Đây là một cản
trở rất lớn đối với Việt Nam.
Bên cạnh đó, một thách thức lớn nữa đối với hoạt động kinh doanh cà phê
là các doanh nghiệp sẽ không được hưởng sự bảo trợ của Nhà nước do một trong
những cam kết quan trọng khi VN gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO
là nhà nước sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong tình huống đó, các hiệp hội doanh nghiệp ngành nghề sẽ đóng một vai trò
hết sức quan trọng, vừa đại diện, vừa là định hướng giúp các doanh nghiệp nhỏ
và vừa thực hiện một cách đầy đủ các cam kết WTO.
3.1.2. Dự báo thị trường cà phê thế giới đến 2015
Mức tiêu thụ cà phê toàn cầu dự báo sẽ tăng từ 2-2,5% trong giai đoạn từ
nay đến 2015, từ khoảng 125 triệu bao năm 2008 lên 130,73 triệu bao năm
2010 và có thể đạt 140 triệu bao vào năm 2015.
Mức tiêu thụ của tại các nước đang phát triển dự báo sẽ đạt mức 33,54
triệu bao vào năm 2010, với mức tăng tiêu thụ bình quân là 2,5%/ năm, đưa tỷ
trọng của các nước đang phát triẻn trong tổng mức tiêu thụ cà phê toàn cầu
lên 30% trong năm này. Thu nhập và dân số tăng lên ở các nước đang phát
triển là những yếu tố dẫn đến mức tăng tiêu thụ cao của các nước ở khu vực
này. Tuy nhiên, về cơ cấu sản phẩm tiêu thụ, các nước đang phát triển vẫn tập
trung ở các sản phẩm có mức giá thấp.
Tốc độ tiêu thụ cà phê của các nước phát triển đạt khoảng 1,3%/ năm, dự
báo khoảng 97,19 triệu bao năm 2010. EU vẫn là khu vực tiêu thụ cà phê lớn
nhất thế giới, chiếm 1/3 tổng mức tiêu thụ của các nước phát triển, trong đó
59
nhu cầu dự báo sẽ tăng nhanh ở Hy Lạp, Italia và Bồ Đào Nha trong khi mức
tiêu thụ bình quân đầu người ở Anh vẫn khá thấp. Tiêu thụ cà phê ở khu vực
Bắc Mỹ chiếm khoảng 24% trong tổng nhu cầu tiêu thụ của các nước phát
triển. Tăng trưởng tiêu thụ ở các nước Châu Âu khác dự báo cũng sẽ đạt ở
mức cao, khoảng 1,8%/ năm. Mỹ là thị trường tiêu thụ đồng thời là thị trường
nhập khẩu lớn thứ hai thế giới sau EU, do đó, đây sẽ là một thị trường tiềm
năng, có ý nghĩa chiến lược cả về kinh tế và chính trị đối với Việt Nam trong
quan hệ Việt - Mỹ.
Nhật Bản là thị trường quan trọng của xuất khẩu cà phê Việt Nam. Năm
2008, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Nhật đạt được những thành công
rất đáng mừng và năm 2009 được dự báo sẽ tiếp tục tăng nhẹ. Năm 2008 kim
ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Nhật đạt 127,48triệu đô la, chiếm 6%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước( 2,12 tỉ đô la). Cà phê
Việt Nam xuất khẩu sang Nhật chủ yếu là loại cà phê chưa rang xay chiếm tới
99%. Năm 2008, lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang Nhật tăng 30,84% và
kim ngạch tăng 72,06% so với năm 2007. Với tình hình kinh tế khó khăn của
Nhật, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường này
nhiều khả năng sẽ chậm lại trong một hai năm tới.
Ngoài ra, những thị trường tiềm năng cho xuất khẩu cà phê toàn cầu
được dự báo còn có Bỉ, Rumani, Slovenia, Áo, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Hàn
Quốc.
Trong đó, Bỉ là thị trường tiềm năng nhất với kim ngạch nhập khẩu cà
phê 11 tháng của năm 2008 gần 1,1, tỷ đô la Mỹ, đồng thời cũng là thị trường
có tăng trưởng nhập khẩu cà phê lớn nhất( tăng 99,07% so với năm 2007).
Năm 2009, tăng trưởng kinh tế của Bỉ sẽ đạt khoảng 0,2%, nhu cầu nhập khẩu
cà phê theo đó cũng tăng nhẹ.
60
Rumani là thị trường tiềm năng nhập khẩu cà phê có tốc độ tăng trưởng
kinh tế lớn nhất trong năm 2008 với tốc độ 8,6%. Năm 2009, với tốc độ tăng
trưởng kinh tế khoảng 4,8%, Rumani được kỳ vọng sẽ là một trong những thị
trường có tiềm năng nhập khẩu cà phê rất lớn.
Slovakia là một trong số ít các thị trường có tăng trưởng nhập khẩu cà
phê lớn hơn 50% trong 11 tháng năm 2008. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá ổn định( năm 2008 đạt 7,4%, năm 2009 dự báo đạt 5,6%), Slovakia sẽ
tiếp tục là thị trường có tăng trưởng nhập khẩu cà phê lớn của thế giới.
Các thị trường tiềm năng khác như áo, Thuỵ Sỹ, Thuỵ Điển, Hàn Quốc,
Bồ Đào Nha, được dự báo cũng sẽ tiếp tục tăng kim ngạch nhập khẩu cà phê
trong năm 2009. Đây sẽ là những thị trường xuất khẩu rất tốt cho ngành cà
phê các nước trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm kéo theo nhu cầu tiêu
dùng cà phê ở các thị trường chính giảm đi.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê
Việt Nam
3.2.1. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ chế
biến
Công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam trong đó có cà phê,
hiện nay vẫn còn rất lạc hậu so với thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu của
toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Hầu hết các cơ sở chế biến cà phê
hiện nay đều có quy mô nhỏ, phân tán, phát triển tự phát, sử dụng thiết bị
công nghệ lạc hậu nên cà phê của Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu dưới dạng
sơ chế. Mặc dù cà phê Việt Nam được nhiều khách hàng quốc tế đánh giá là
ngon, nhưng do sử dụng công nghệ chế biến khô lẫn nhiều quả xanh nên đã
làm giảm hương vị tự nhiên, không thu hút được khách hàng, vì vậy, phải bán
với giá thấp hơn cà phê cùng loại của nhiều nước khác. Do đó, việc đầu tư
cho khoa học và đổi mới công nghệ là giải pháp quan trọng nhất và cần làm
thường xuyên bao gồm:
61
- Đầu tư nhiều hơn cho việc nghiên cứu tạo giống cà phê cho năng suất
cao, chất lượng tốt.
Có thể khẳng định, đến thời điểm, này sự đầu tư cho cà phê của nước ta
còn quá ít. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các giống cà phê vẫn chưa cho
ra chất lượng tốt như mong muốn. Mặt khác, chúng ta mới có một viện và
một trung tâm nghiên cứu về cà phê. Khâu nghiên cứu chọn giống đòi hỏi đầu
tư nhiều hơn nữa cho việc nhập nội giống, tăng cường khoa học và trang thiết
bị để theo kịp các nước có ngành cà phê phát triển hơn hàng trăm năm như
Braxin, Colombia, Indonexia. Do đó, cần đầu tư hơn nữa cho viện và trung
tâm nghiên cứu, phát huy vai trò và đẩy lên một cấp độ chuyên nghiệp hơn.
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ chế biến hiện đại để nâng cao chất
lượng cà phê.
Thực trạng công nghiệp chế biến cà phê của nước ta còn rất lạc hậu so
với thế giới, cà phê được chế biến chủ yếu được thực hiện ngay tại các hộ gia
đình(chiếm 80%) với các phương thức chế biến hết sức thô sơ làm giảm chất
lượng cà phê. Do đó, cần xây dựng đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật chế biến
để đáp ứng liên hoàn công nghệ chế biến sản phẩm. Nên xây dựng các cụm
chế biến công nghiệp bao gồm: công nghệ chế biến ướt và khô, hệ thống sấy,
xay xát, đánh bóng, sân phơi, kho….Trong chế biến sản phẩm cà phê nên
chọn dây chuyền có quy mô vừa và nhỏ nhưng thiết bị công nghệ hiện đại.
Kinh nghiệm cho thấy, thị trường tiêu thụ cà phê chính là ở các nước công
nghiệp phát triển do đó nên nhập công nghệ chế biến ở ngay các nước đó.
Việc nhập có thể thông qua các hợp đồng liên doanh do các đối tác đầu tư
thiết bị. Đồng thời cũng thực hiện các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực chế biến cà phê. Bên cạnh đó, Việt Nam nên thành lập các doanh
nghiệp cơ khí thiết bị chế biến cà phê để sản xuất và cung ứng các máy móc
thiết bị chuyên dùng trong công nghiệp chế biến cà phê.
62
Bên cạnh việc xây dựng các cụm chế biến, cũng cần phải nâng cấp công
trình công nghệ chế biến. Công nghệ chế biến cà phê nhân sống xuất khẩu cần
phải trải qua hai giai đoạn là sơ chế và chế biến sâu. Hiện nay, có hai phương
pháp chế biến được sử dụng là phương pháp chế biến khô và chế biến ướt.
* Phương pháp chế biến Khô: trái cà phê được phơi khô dưới nắng trời
trên nền sân xi măng hoặc gạch của các nông trại, và sẽ được đảo trộn liên tục
cho khô đều. Sau khoảng 4 tuần cà phê sẽ đạt độ khô mong muốn. Khi đó
máy bóc vỏ sẽ được sử dụng nhằm loại bỏ lớp vỏ quả.
* Phương pháp chế biến Ướt: Trong khi phương pháp chế biến Khô tách
bỏ lớp vỏ thịt sau khi trái cà phê được phơi khô thì phương pháp chế biến Ướt
lớp vỏ thịt sẽ được làm sạch và làm mềm và tách ra bằng máy xát vỏ. Trái cà
phê sau khi loại bỏ lớp vỏ thịt sẽ được ủ lên men trong 24 - 36 giờ, công đoạn
này sẽ làm mất đi lớp chất nhầy. Tiếp đến, hạt cà phê được phơi trên nền sân
xi măng hoặc được sấy khô bằng máy. Sau đó, máy bóc vỏ sẽ giúp bóc đi lớp
vỏ thóc.
Để thực hiện tốt và có hiệu quả công đoạn sơ chế, chế biến cà phê nhân
cần phải:
- Đầu tư xây dựng đầy đủ hệ thống sân phơi đúng kỹ thuật, không để
đống quả tươi nhằm hạn chế tỷ lệ hạt đen vỡ, hạt bị nấm mốc. Hạn chế phơi
trên sân đất, trên đường giao thông để không bị lẫn cát, đá và mùi đất. Mở
rộng sân phơi để đảm bảo 1ha cà phê có 100m2 sân phơi (theo đúng tiêu
chuẩn của Vinacafe), khuyến khích đầu tư các nhà máy kinh doanh dịch vụ
chế biến cà phê để đảm nhận được sản lượng cà phê trong dân, khu vực có
công nghệ chế biến thô sơ, sân phơi và kho chứa không đúng tiêu chuẩn.
- Đầu tư xây dựng cơ sở chế biến theo phương pháp ướt đảm bảo màu
sắc, hương vị, chất lượng sản phẩm để bán theo tiêu chuẩn thử nếm, nâng cao
chất lượng xuất khẩu.
63
- Nghiên cứu, trang bị hoàn thiện các thiết bị xay xát tươi, xát khô, hệ
thống sấy nhập ngoại hoặc chế tạo trong nước với quy mô nhỏ và vừa cho hộ
gia đình hoặc nhóm hộ gia đình. Đồng thời khuyến khích các đơn vị, cá nhân,
hộ gia đình có điều kiện đầu tư những công nghệ hiện đại hơn để làm vệ tinh
cho các doanh nghiệp lớn.
Trong những năm gần đây công nghệ chế biến cà phê ở Việt Nam đã có
nhiều tiến bộ. Người ta đã trang bị thêm nhiều thiết bị hiện đại, chất lượng tốt
trong chế biến. Tuy nhiên, với cà phê Arabica thì chế biến vẫn còn là một
khâu có nhiều khó khăn, đặc biệt là ở khâu đầu tiên lột vỏ quả, làm sạch nhớt.
Nhiều nơi có khó khăn vì lượng nước sạch dùng cho chế biến quả lớn và nó
cũng dẫn đến khó khăn về xử lý nước thải để không gây ô nhiễm môi trường.
Hiện nay, một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư các trang thiêt bị chế biến
nhập ngoại như máy phân loại chọn màu để sản xuất ra những sản phẩm có
chất lượng cao, dễ tiêu thụ và tất nhiên giá bán cũng cao hơn so với những lô
hàng chỉ khống chế tỷ lệ hạt đen vỡ 3% mà lâu nay các doanh nghiệp đang áp
dụng. Việc đầu tư công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê mang lại hiệu
quả rất khả thi. Tuy nhiên, việc thực hiện đầu tư công nghệ và nâng cấp cơ sở
hạ tầng cũng cần chú ý các điểm sau:
- Đầu tư nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng và công nghệ chế biến phải
được tiến hành trên cơ sở điều tra khảo sát hết sức chi tiết năng lực chế biến
của từng đơn vị, từng địa phương, lượng mưa, phương pháp chế biến…. để có
biện pháp đầu tư thích hợp, tránh lãng phí do sử dụng không hết công suất
thiết kế làm tăng giá thành sản xuất.
- Đầu tư công nghệ chế biến phải được thực hiện tập trung, không đầu tư
khắp các địa phương, xây dựng vùng trọng điểm đầu tư là Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ để có các chính sách ưu đãi đầu tư thích hợp, các doanh nghiệp
nên trang bị máy phân loại chọn màu có nguồn gốc từ nước ngoài nhằm một
mặt nâng cao chất lượng cà phê, mặt khác phân loại chọn màu có thể sử dụng
64
chế biến các loại nông sản khác như đậu, gạo,…. Do đó, doanh nghiệp có thể
khai thác hiệu suất của thiết bị cao hơn.
Chế biến cà phê nhân xuất khẩu: Đây là công đoạn chế biến quan trọng
sau thu hoạch, được thực hiện trong các doanh nghiệp nhà nước và các đại lý
thu mua chế biến xuất khẩu. Với công đoạn này cần được đầu tư dây chuyền
công nghệ tái chế, sàng phân loại, sàng tạp chất, hệ thống sấy khô đảm bảo độ
ẩm, đánh bóng và chọn mặt hạt đen vỡ. Khuyến khích các doanh nghiệp và
các cơ sở chế biến xây dựng nhà kho bảo quản, đổi mới công nghệ các thiết bị
tiên tiến hiện đại đánh bóng, sấy khô và tách màu bằng Laser để nâng cao sức
cạnh tranh của cà phê Việt Nam, đảm bảo trên 80% lượng cà phê xuất khẩu
đạt loại tốt, giá cao.
Thêm vào đó, một khi đứng trước những yêu cầu ngày càng khắt khe về
chất lượng cà phê xuất khẩu thì các doanh nghiệp nên là những người đi đầu
trong việc nâng cao chất lượng của nguyên liệu đầu vào cà phê. Bởi lẽ các
doanh nghiệp giống như những nhà trung gian giúp đưa sản phẩm từ tay
người nông dân ra thị trường. Chính vì lẽ đó nếu doanh nghiệp kiên quyết
nâng cao chất lượng cà phê đầu vào sẽ là một khâu rất quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng của cà phê chế biến. Nhằm thực hiện điều này các bước
mà doanh nghiệp nên làm ngay đó là:
- Cải tiến công tác thu mua, khuyến khích rồi dần dần tiến tới bắt buộc
nâng cao chất lượng cà phê thu mua từ người nông dân bằng việc không thu
mua cà phê có lẫn quá nhiều quả xanh. Bên cạnh đó thì phải xây dựng và phát
triển nhiều hơn hệ thống thu mua, giá thu mua phải hấp dẫn hơn, các dịch vụ
đưa ra phải tiện ích và hiệu quả hơn.
- Luôn tuân thủ một cách nghiêm ngặt các tiêu chuẩn của nhà nước đã
ban hành trên cơ sở cập nhật nhất để tạo dựng thương hiệu và hình ảnh cà phê
Việt Nam trên thị trường thế giới. Tất cả các công ty cùng đồng tình thực hiện
việc kiểm soát cà phê thu mua vào theo TCVN 4193-2005.
65
- Ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với giá cả phù hợp tạo điều kiện cho
nông dân có thể yên tâm thu hoạch quả đúng tầm chín.
Để có thể thực hiện tốt nhất những biện pháp nói trên thì các công ty cà
phê phải liên kết lại được với nhau cùng thống nhất cách thức thu mua và
tuyên truyền đến người nông dân. Và có lẽ ở đây, vai trò của Hiệp hội Vicofa
lại phải là tổ chức trung gian hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết với nông dân
trong quá trình tuyên truyền.
Bên cạnh đó, để tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đổi mới công
nghệ, ngành cà phê rất cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước về mặt tài chính. Vì
hầu hết các doanh nghiệp cà phê nước ta đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
tiềm lực kinh tế yếu, nên việc chính phủ tạo mọi điều kiện cho vay vốn phát
triển sản xuất sẽ tạo động lực hơn để mở rộng sản xuất, tăng sức cạnh tranh.
Do đó, chính phủ nên chỉ đạo các ngân hàng phải có bộ phận chuyên trách,
thẩm định các dự án trồng cà phê của người dân để mở rộng hơn đối tượng
được vay vốn của ngân hàng.
Ngoài chính sách về tín dụng, nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh cho cà phê Việt Nam ở trong và ngoài nước. Chính phủ cần xây
dựng môi trường pháp lý rõ ràng minh bạch, ổn định, nhất quán trong quyết
định và thực thi các chính sách, cơ chế điều hành liên quan đến sản xuất nâng
cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu nhất là với các chính sách về
các chi phí đầu vào bao gồm cơ sở hạ tầng máy móc cồng nghệ vật tư thiết bị
cung cấp dịch vụ... Đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại ở cấp Chính phủ:
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến ở các thị trường ngoài
nước. Nhà nước giao cho các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài có trách
nhiệm thu thập và cung cấp định kỳ về tình hình tiêu thụ cà phê, giá cà phê,
các đối thủ cạnh tranh, các điều kiện thâm nhập thị trường ở nước sở tại... để
giúp các doanh nghiệp trong nước có chiến lược tiếp cận thị trường. Xây dựng
chiến lược đào tạo dài hạn về nhân lực cho ngành cà phê, đào tạo kỹ lưỡng để
66
mỗi cán bộ, công chức, doanh nhân sản xuất kinh doanh cà phê phải là những
người giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và thạo về ngoại ngữ, nhanh nhậy trong
việc cập nhật, phân tích, xử lý thông tin, dự báo được sự vận động của giá cả
thị trường một cách sát thực.
3.2.2. Phát triển vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh, công nghệ cao
Xuất phát từ thực tế là hầu hết diện tích trồng cà phê nước ta đều do các
hộ gia đình nhỏ lẻ quản lý, nên việc đầu tư cho khoa học kỹ thuật rất hạn chế,
tỷ lệ suất đầu tư/ tấn sản phẩm của từng hộ gia đình nói riêng và toàn ngành
cà phê nói chung còn tăng cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó,
trong đó có nguyên nhân từ việc mỗi hộ gia đình đều tự mua sắm máy bơm,
phương tiện vận chuyển, máy xay xát v.v… đầu tư xây dựng sân phơi, kho
tàng, v.v… nhưng có tính thời vụ, chỉ sử dụng trong một khoảng thời gian
ngắn, làm tăng chí phí sản xuất dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Việc tiếp cận
với những tiến bộ khoa học công nghệ cũng như các dịch vụ khác như vay
vốn tín dụng, ngân hàng v.v… cũng hết sức khó khăn, do diện tích nhỏ, manh
mún và khả năng tài chính hạn hẹp. Cũng do hình thức tổ chức theo kiểu sản
xuất, nhỏ lẻ, phân tán và tính độc lập tương đối của các hộ gia đình nên sản
phẩm làm ra không những chất lượng không cao mà còn không ổn định do
điều kiện hiểu biết và mức độ đầu tư cho khâu thu hái chế biến khác nhau, từ
đó làm cho chất lượng cà phê của toàn ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng
Chính vì lẽ đó, đầu tư phát triển những vùng nguyên liệu tập trung,
chuyên canh, công nghệ cao được coi là một giải pháp hiệu quả giúp nâng cao
chất lượng giống cà phê. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ giúp ngành quản lý dễ
dàng hơn các diện tích cà phê hiện có, nâng cao được chất lượng cà phê ngay
từ khâu thu hái và chăm sóc. Để làm được điều này ngành cần đưa ra những
nghiên cứu chính xác các vùng có khả năng phát triển tốt nhất các giống cà
phê sau đó khuyến khích người dân và các công ty đầu tư vào những vùng đã
được quy hoạch.
67
Với những vùng cà phê đã được quy hoạch tập trung cũng sẽ dễ dàng
đưa các loại giống mới có năng suất tốt vào trồng và áp dụng các biện pháp
khoa học kỹ thuật. Các chuyên gia cũng cho rằng, cơ sở của thương hiệu là
vùng nguyên liệu đồng nhất, chất lượng cao và an toàn. Nhưng thực tế hiện
nay, chỉ mỗi vùng nguyên liệu cà phê Đắc Lăk là tương đối lớn còn những
vùng nguyên liệu khác ở Đông Nam Bộ hay ở Bắc Trung Bộ còn rất manh
mún, nhỏ lẻ. Do đó, cần khuyến khích hơn nữa các hộ nông dân xây dựng các
trang trại cà phê tiến tới trở thành các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh cà
phê, xây dựng các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới chuyên sản xuất và kinh
doanh cà phê gắn trực tiếp với hộ nông dân.
Để có được những vùng cà phê tập trung như vậy một mặt cần thực hiện
dồn điền đổi thửa để tạo ra trang trại cà phê có diện tích đủ lớn, đủ điều kiện
áp dụng công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Mặt khác việc xây dựng dự án
đầu tư phát triển cây cà phê gắn với vùng nguyên liệu và các cơ sở chế biến
theo công nghệ tiên tiến hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn và phát
huy thương hiệu cà phê.
Ngoài ra, tại các vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh cần xây dựng
và ban hành quy chuẩn về trồng, chăm sóc, thu hái, chế biến đối với cây cà
phê để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả, đảm bảo tính bền vững
trên cả 3 phương diện: kinh tế, môi trường và xã hội. Một vấn đề quan trọng
là áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, thực hành chế biến tốt (GAP và GMP).
Cà phê Việt Nam được đánh giá là có năng suất cao nhất thế giới. Đó là kết
quả của việc thâm canh cao độ vườn cây với việc tăng cường bón phân tưới
nước cho cà phê. Nước, phân, cần, giống là những yếu tố quyết định năng
suất cà phê. Tuy nhiên, cũng không thể lạm dụng quá mức các yếu tố đó. Bón
nhiều phân hoá học, tưới nước với một lượng quá cao, tưới không đúng
phương pháp đều tác động xấu đến đất trồng và qua đó ảnh hưởng đến độ bền
vững của vườn cây. Chúng ta chủ trương xây dựng hệ thống thực hành nông
68
nghiệp tốt (GAP) trên cơ sở thân thiện với môi trường, thân cận sinh thái.
Vườn cà phê có cây che bóng, có đai rừng, trồng xen theo hướng đa dạng sinh
học, đa dạng sản phẩm.
Để cây cà phê phát triển một cách bền vững, tiếp tục giữ vững là mặt
hàng chiến lược trong những năm tới, Nhà nước mà cụ thể là ngành nông
nghiệp cần có chính sách khuyến khích nông dân chuyển đổi những diện tích
cà phê già cỗi sang cưa ghép bằng các dòng cà phê vối chọn lọc; chuyển
những diện tích cà phê trồng trên những vùng đất không thích hợp sang ca
cao hoặc các loại cây trồng khác có hiệu quả kinh tế hơn.
3.2.3. Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm cà phê
Việt Nam gia nhập WTO đã tạo ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn,
nhưng đồng thời yêu cầu của thị trường cũng ngày càng khắt khe hơn. Do đó,
ngoài việc nâng cao chất lượng cà phê thì cũng cần chú trọng đến đa dạng
hóa các sản phẩm cà phê xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng cà phê sau nhân.
Đối với cà phê nhân cần tăng cường xuất khẩu cà phê không có hạt đen,
cà phê chế biến ướt, cà phê hữu cơ để tăng giá trị xuất khẩu. Cà phê chế biến
ướt không chỉ giữ được hương vị tự nhiên của cà phê mà còn nâng cao chất
lượng sản phẩm vì trong phương pháp chế biến ướt chỉ sử dụng được những
quả đã chín, những quả chưa chín phải được chọn lọc bằng tay rồi cho vào
bao nilon cho chín tiếp, đòi hỏi mất nhiều thời gian và công sức. Trong khi đó
ở nước ta, thu hoạch chủ yếu vẫn là tuốt cả cành nên không thể áp dụng
phương pháp chế biến ướt, phải chế biến khô dẫn đến chất lượng kém. Công
nghệ chế biến cà phê nhân của nước ta còn yếu nên mặt hàng cà phê hết sức
đơn điệu, hầu hết là xuất khẩu cà phê nhân sống, không đa dạng được mặt
hàng, chất lượng hàng hoá chưa bắt kịp nhu cầu của thị trường thế giới. Hiện
cà phê xuất khẩu theo TCVN 4193- 2005 chỉ chiếm khoảng 1,5% sản lượng.
Để nâng cao chất lượng, tiến tới xuất khẩu mạnh hai loại cà phê phổ biến
hiện nay cần:
69
- Đối với cà phê rang xay: Hầu hết các nhãn hiệu cà phê rang xay của
Việt Nam hiện nay (ngoại trừ Vinacafe) đều rất khó xuất khẩu vì pha trộn quá
nhiều phụ gia không có lợi cho sức khoẻ và không hợp “gu” người tiêu dùng
nước ngoài. Cà phê rang xay của Việt Nam đã mất uy tín, do đó, việc mà
ngành cà phê cần làm ngay là thay đổi suy nghĩ của các nhà sản xuất cà phê
rang xay theo hướng làm ra cà phê xay nguyên chất để có cơ hội xuất khẩu
sản phẩm này. Cà phê rang xay vừa phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong
nước, nó cũng như những sản phẩm sạch ở các lĩnh vực khác, vừa phù hợp
với điều kiện tài chính, vừa hướng tới sự hưởng thụ của khách hàng. Trong
tương lai gần chúng ta sẽ đẩy mạnh phát triển loại cà phê này và đưa ra thị
trường quốc tế, mà trước hết là thị trường Trung Quốc và Hoa Kỳ.
- Đối với cà phê hòa tan: Nhu cầu của người tiêu dùng trên thế giới cũng
như thị trường nội địa ngày càng tiêu dùng nhiều hơn sản phẩm cà phê hoà
tan. Ở Việt Nam, tính đến thời điểm này, có 5 đơn vị lớn sản xuất cà phê hoà
tan, trong đó, Vinacafe chiếm thị phần lớn nhất, sau đó là đến Nescafe, Trung
Nguyên, Vinamilk (cà phê Moment) và Max Coffee của Singapore. Trong số
các loại cà phê hoà tan đang cạnh tranh trên thị trường thì cà phê hoà tan
nguyên chất chỉ chiếm 14%, còn lại khoảng 86% là cà phê hoà tan 3 trong 1
(thường gọi là cà phê sữa).
Cà phê hoà tan được xem là sản phẩm cà phê chế biến cao cấp, nó đòi
hỏi nhà sản xuất không những có vốn đầu tư lớn mà phải có kỹ thuật, công
nghệ và cả kinh nghiệm nữa. Nói một cách chính xác, thì cà phê hoà tan thể
hiện năng lực của doanh nghiệp chế biến cả về vốn và khoa học kỹ
thuật.Chính vì lẽ đó, hướng phát triển bền vững của cà phê Việt Nam là phải
tăng sản lượng cà phê hoà tan vì nó là nguyên liệu cơ bản để làm ra những
loại cà phê sữa hoà tan, là sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Có thể có những
doanh nghiệp sản xuất được cà phê 3 trong 1 nhưng chưa thể sản xuất được cà
phê hoà tan, họ vẫn phải nhập cà phê hoà tan.
70
Tuy nhiên, để đầu tư một nhà máy cà phê hoà tan đủ tiêu chuẩn chất
lượng xuất khẩu các doanh nghiệp sẽ phải đầu tư một lượng vốn rất lớn và
đây sẽ là trở ngại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta rất cần hỗ trợ
vốn vay của nhà nước.
Bên cạnh đó, hiện nay, các doanh nghiệp cũng nên tìm hiểu và sản xuất
thêm loại cà phê đóng lon rất phù hợp với nhân viên giới văn phòng ở các
nước phát triển, nhiều nhất là Nhật Bản. Trên thị trường Việt Nam mới xuất
hiện loại cà phê lon Birdy của Thái Lan cũng bắt đầu chiếm được cảm tình
của người tiêu dùng. Việc các doanh nghiệp sản xuất cà phê của Việt Nam
càng đưa được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, chủng loại đa dạng ra thị
trường sẽ là bước đệm rất tốt cho xây dựng thương hiệu cà phê nước ta.
3.2.4. Xây dựng thương hiệu mạnh cho cà phê Việt Nam
Nói đến thương hiệu thì không chỉ có cà phê mà hầu hết ở các lĩnh vực
kinh tế của Việt Nam trong vài năm trở lại đây mới được thực sự quan tâm.
Đặc biệt khi mà các ngành xuất khẩu hạn chế dần xuất nguyên liệu thô thì yếu
tố thương hiệu mới thực sự trở thành mối quan tâm của mọi ngành và của cả
nền kinh tế.
Ưu thế của sản phẩm có thương hiệu là các doanh nghiệp có thể định giá
cao hơn các sản phẩm cùng loại mà người tiêu dùng vẫn chấp nhận. Đối với
cà phê thì từ khi trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, vấn đề xây dựng một
thương hiệu mạnh cho cà phê Việt Nam mới trở nên cực kỳ cấp thiết vì chậm
xây dựng ngày nào thì hình ảnh cà phê càng lu mờ ngày đó, thua thiệt ngày
càng lớn. Theo các chuyên gia kinh tế, việc xây dựng thương hiệu trước tiên
phải được xây dựng từ chất lượng. Chúng ta đều thấy rằng hầu hết các thương
hiệu nổi tiếng toàn cầu đều phải xây dựng nên hình ảnh về một sản phẩm có
chất lượng tốt nhất, đáp ứng thỏa mãn nhất mọi nhu cầu của khách hàng (ví
dụ như Honda, Toyota, Canon). Trong lĩnh vực cà phê, chúng ta mới chỉ biết
đến một vài thương hiệu nổi tiếng toàn cầu của nước ngoài mà trong đó có sử
71
dụng cà phê của Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất như (Starbucks,
Tullys… ) Trong khi đó, nước ta là một nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế
giới lại không có thương hiệu mạnh cho riêng mình quả là một điều đáng để
suy nghĩ.
Cơ sở căn bản nhất để xây dựng nên một thương hiệu mạnh cần có sự
liên kết chặt chẽ vai trò của cả người trồng cà phê, người thu mua và sản xuất
cà phê cùng các cơ quan quản lý nâng cao chất lượng sản phẩm.
Phát triển nhiều hơn nữa các vùng cà phê chuyên canh, chất lượng cao,
đảm bảo chất lượng để đưa vào các thị trường trọng điểm. Bởi lẽ, đây là bước
đệm quan trọng cho việc xây dựng thương hiệu.
Song song với đó là khuyến khích các doanh nghiệp, các tổng công ty lớn
nhanh chóng sản xuất các dạng cà phê cao cấp mà thế giới đang ưa chuộng và
marketing mạnh vào các thị trường tiềm năng. Ngành cà phê nên chú ý tập trung
khuyến khích phát triển từng loại, từng nhãn hiệu cà phê để tránh dàn trải.
Bên cạnh đó, chính phủ cần có một chiến lược lâu dài để hỗ trợ xuất
khẩu cà phê thành phẩm cũng là một khâu quan trọng trong chiến lược tạo
thương hiệu quen thuộc cho cà phê Việt trên thị trường quốc tế. Chúng ta sẽ
phải chấp nhận giảm bớt số lượng cà phê xuất khẩu trong một thời gian để tập
trung mọi nguồn lực cho việc nâng cao chất lượng tạo uy tín cũng như tạo
những thương hiệu cà phê Việt Nam quen thuộc đối với người tiêu dùng quốc
tế.
Để xây dựng thương hiệu mạnh cho cà phê Việt Nam, điều quan trọng nhất là
phải áp dụng bắt buộc TCVN 4193: 2005.
Từ lâu nay cà phê của Việt Nam bị thải loại ở các cảng của Châu Âu với
số lượng rất lớn, có nhiều ý kiến cho rằng cà phê Robusta của Việt Nam có
chất lượng kém nhưng thực ra cà phê Robusta của chúng ta có chất lượng vào
loại cao trên thế giới; các yếu kém là do kết quả của việc thu hái, chế biến
72
chưa thực sự phù hợp, khâu mua bán chưa áp dụng tiêu chuẩn TCVN
4193:2005. Mặc dù TCVN 4193:2005 đối với cà phê nhân xuất khẩu đã ban
hành từ năm 2006, nhưng đến nay mới chỉ có khoảng 10% số doanh nghiệp
xuất khẩu cà phê trong nước áp dụng và chỉ chiếm khoảng 1-2% sản lượng cà
phê xuất khẩu.
Tiêu chuẩn TCVN 4193:2005 là căn cứ để đánh giá, phân loại cà phê
theo số lỗi trong một mẫu 300g. Do cà phê Việt Nam không đạt chuẩn ISO,
nên phần lớn phải bán rẻ cho người nước ngoài rồi sau đó họ chỉ cần sàng sảy,
là thu lời lớn gấp bội. Có thể thấy, đây là những lỗi sơ đẳng nhất mà chúng ta
không khắc phục được. Và khi đã bị thải loại trên sàn giao dịch thì các nhà
rang xay ở nước ngoài tha hồ ép giá cà phê của chúng ta vì không thể mang
về nước được, lợi nhuận đương nhiên rơi hầu hết vào túi những nhà rang xay
đó. Cho nên việc quan trọng nhất lúc này là các nhà sản xuất, các doanh
nghiệp, cả người mua và người bán trong và ngoài nước đều phải thực hiện
đúng TCVN 4193:2005. Làm được điều đó, chắc chắn chỉ trong một thời
gian ngắn sẽ đạt được tiêu chuẩn thuỷ phần không cao hơn 12,5% đo theo
phương pháp ISO 6673; tạp chất thấp hơn 0,5%; hạn chế hạt bị mốc, hạt chưa
chín ở mức thấp nhất.
Để thực hiện tiêu chuẩn mới này, vừa thúc đẩy cải thiện chất lượng cà
phê xuất khẩu, vừa đảm bảo không gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc sản xuất
và xuất khẩu cà phê của nước ta, cục trồng trọt đã đưa ra lộ trình áp dụng
TCVN 4193: 2005, gồm 3 bước:
- Bước đầu cần tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến khích và có
thưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhân cà phê tự nguyện áp dụng toàn
bộ hoặc một số chỉ tiêu chất lượng cà phê nhân theo tiêu chuẩn này ngay từ
niên vụ 2007-2008; hoàn thành việc rà soát, điều chỉnh bổ sung tiêu chuẩn
Việt Nam và tiêu chuẩn ngành đã có, để xây dựng, ban hành quy chuẩn quốc
73
gia về trồng trọt, thu hoạch, sơ chế, bảo quản, vận chuyển cà phê nhân xuất
khẩu; đồng thời hoàn chỉnh việc xây dựng và phê duyệt đề án nâng cao sức
cạnh tranh của cà phê Việt Nam đến năm 2010 và định hướng 2020.
- Bước tiếp theo cần phổ biến quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cà phê
nhân xuất khẩu tới các doanh nghiệp, người sản xuất, thu mua, chế biến cà
phê; tiến hành xây dựng mô hình áp dụng quy chuẩn kỹ thuật này; tổ chức
kiểm tra chất lượng đối với cà phê trước khi thông quan bằng một số chỉ tiêu
chất lượng quan trọng, dễ thực hiện như độ ẩm, các khuyết tật về tạp chất,
hạt mốc.
- Cuối cùng, tiếp tục áp dụng toàn diện các nội dung của quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia đối với cà phê nhân xuất khẩu và thực hiện kiểm tra toàn diện
các chỉ tiêu chất lượng cà phê xuất khẩu theo TCVN 4193: 2005 trước khi
thông quan.
Nếu không áp dụng sớm TCVN 4193-2005 thì chắc chắn rằng Việt Nam
vãn mãi chỉ là cường quốc cà phê “nông dân”, chỉ là quốc gia sản xuất nguyên
liệu thô cho nước ngoài thu lợi nhuận của chính nước mình. Việc áp dụng tiêu
chuẩn mới còn được xem là bước đột phá để hướng dẫn nông dân thay đổi tập
quán, tư duy sản xuất và nâng cao chất lượng cà phê cũng là xu hướng tất yếu
trong quá trình hội nhập. Điều cốt yếu lúc này là chúng ta phải áp dụng đồng
bộ tiêu chuẩn chất lượng từ khâu trồng trọt, thu hái cho đến khâu sản xuất
cuối cùng. Vì là nước có sản lượng cà phê lớn trên thế giới nên dần dần chúng
ta cũng phải tiến tới nắm quyền chủ động trong việc chọn đối tác để xuất khẩu
theo tiêu chuẩn mà chúng ta đã đạt được để tránh bị ép giá quá đáng. . Vì vậy,
những việc cần phải làm ngay đối với những nhà kinh doanh xuất khẩu cà-phê
đó là phải tuân thủ những quy định của Nghị quyết 420 của ICO về chất
lượng cà-phê. Nhà nước cần có quy định bổ sung mặt hàng cà-phê nằm trong
danh mục bắt buộc phải kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi thông quan.
74
Bên cạnh đó, phải lập cơ quan chuyên trách kiểm định chất lượng cà phê
trước để sản phẩm được sản xuất “ sạch” ngay từ khâu đầu đến khâu cuối.
Chúng ta biết rằng từ trước đến nay việc mua bán cà phê của nước ta vẫn
dựa chủ yếu vào sự thỏa thuận giữa người mua và người bán mặc dù việc mua
bán ấy có thể ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh của một quốc gia. Các doanh
nghiệp thu mua vẫn thu mua cả quả xanh lẫn quả chín, sau đó sơ chế đơn giản
rồi xuất khẩu làm giảm chất lượng cà phê Việt Nam. Chính vì lẽ đó, nếu một
khi chúng ta đã xác định cà phê là một ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia
thì nên thành lập ngay một cơ quan chuyên trách kiểm định chất lượng bắt
buộc đối với cà phê xuất khẩu, nếu không, chất lượng cà phê Việt Nam sẽ vẫn
mãi bị thả nổi, làm giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Hệ quả thể hiện rõ nhất là chất lượng cà phê kém bị thải loại ở các cảng
của Châu Âu, do chúng ta vẫn bán cà phê ở dạng “xô “, phân loại theo tiêu
chuẩn cũ TCVN 4193-93 (Bản tiêu chuẩn này không xếp hạng theo số lỗi
trong cà phê mà chỉ đánh giá rất đơn giản với 3 chỉ tiêu: hàm lượng ẩm %, hạt
đen vỡ % và tạp chất %). Trong khi cà phê nhân xuất khẩu phải có chứng
nhận kiểm tra chất lượng theo TCVN 4193: 2005. Cho nên nếu có cơ quan
chuyên trách kiểm định chất lượng cà phê, phân loại từ trong nước thì sẽ tránh
được tình trạng bị thải loại đó. Việc thành lập cơ quan chuyên trách này là để
- Kiểm định chất lượng của tất cả các mặt hàng cà phê xuất khẩu theo TCVN
4193: 2005, khi có giấy chứng nhận của cơ quan này thì mới cho thông quan.
- Cập nhật những yêu cầu về chất lượng tới từng doanh nghiệp xuất khẩu
cà phê.
Theo đó sự tồn tại của cơ quan này sẽ góp phần giảm thiểu những trở ngại
trong xuất khẩu cà phê do chất lượng kém mang lại.
Để có thể hoạt động hiệu quả, cơ quan kiểm định này cũng cần phải được
luật hoá để có thể kiểm soát tốt chất lượng của cà phê xuất khẩu.
75
Bên cạnh đó, cơ quan này cũng sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu
những lượng cà phê đã được xuất khẩu mà bị trả về vì những lỗi đã được kiểm tra.
Chính phủ cần có những biện pháp mạnh nhằm thay đổi và nâng cao tập
quán kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, góp phần nâng tầm cạnh
tranh cho cà phê Việt Nam.
3.2.5. Nâng cao hiểu biết của người dân về kinh tế thị trường và hội nhập
Có thể coi đây là một bước đi mang tính chiến lược, lâu dài nhằm
kinh tế quốc tế
nâng cao chất lượng cà phê ngay từ khâu đầu tiên . Việt Nam từng được các
chuyên gia của ICO đánh giá là có lực lượng nhân công dồi dào và có chi phí
thuê nhân công rẻ nhất trong các nước hiệp hội cà phê. Đây là một thế mạnh
riêng có của ngành cà phê Việt Nam. Nhưng có một thực tế mà ai cũng phải
thừa nhận đó là, chất lượng lao động trong ngành cà phê của Việt Nam nói
chung còn rất thấp. Hầu hết người trồng cà phê của nước ta đều không qua
một trường lớp đào tạo nào một cách bài bản mà chủ yếu lấy kinh nghiệm để
bù đắp cho kiến thức sách vở. Cũng chính bởi lẽ đó mà người nông dân, khi
thu hoạch cà phê cũng không thể lường hết được việc thu hái theo kiểu tuốt
cành có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cà phê, bởi lẽ, khi chế
biến sẽ bị lẫn quả xanh dẫn đến giảm hương vị của cà phê, từ đó ảnh hưởng
rất lớn đến hình ảnh cà phê nước ta trên thị trường thế giới.
Để thực hiện tốt giải pháp này, ngành cà phê nên phối hợp với sở nông
nghiệp các tỉnh mở các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho người trồng cà
phê. Qua đó, cũng tuyên truyền cho bà con nông dân hiểu tác hại của việc thu
hái không theo tiêu chuẩn kỹ thuật ảnh hưởng ra sao đến chất lượng cà phê,
đồng thời cũng phân tích sâu về lợi ích của việc thu hái có chọn lọc. Còn việc
đào tạo nguồn nhân lực cho nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu thì đòi hỏi
phải là sự kết hợp giữa ngành cà phê với các đơn vị kinh doanh cà phê. Nguồn
nhân lực trong kinh doanh luôn đòi hỏi phải là những người giỏi, năng động,
76
sáng tạo và có khả năng dự báo cao, nắm bắt xu thế của thị trường tốt sẽ tránh
được nhiều thua thiệt trên thị trường.
Khuyến khích các doanh nghiệp thu mua chủ động nâng cao nhận thức
cho người dân thông qua việc mua các sản phẩm cà phê đã chọn lọc, có chất
lượng với giá cao hơn hẳn sản phẩm chưa chọn lọc, từ đó người dân sẽ biết
cách làm ra những sản phẩm có chất lượng cao nhất. Đặc biệt hiện nay, khi
mà Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO thì việc nâng cao nhận
thức cho người nông dân phải càng được chú trọng hơn bởi yêu cầu chất
lượng của thị trường ngày càng khắt khe hơn. Các doanh nghiệp thu mua cần
cập nhật thường xuyên tiêu chuẩn chất lượng của thị trường thế giới và phổ
biến ngay cho người dân
Nói tóm lại, việc đào tạo nhân lực ở tất cả các khâu như vậy phải được
tiến hành thường xuyên và đồng bộ sẽ là một nhân tố vô cùng quan trọng để
nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam.
3.2.6. Nâng cao vai trò của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (Vicofa)
Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam ra đời ngày 04/1/1990 đến nay đã được
19 năm. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và có những tiến bộ nhưng vai trò của
Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam còn rất mờ nhạt thể hiện ở chỗ:
Chưa có được một chính sách tốt hỗ trợ cho các doanh nghiệp cà phê
trong lĩnh vực xây dựng và quảng bá thương hiệu.
Chưa tạo được một sàn giao dịch nông sản đúng nghĩa tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp có thể giao dịch tại đó.
Chưa làm tốt công tác dự báo thị trường, việc cung cấp thông tin đến
người trồng cà phê còn chưa được chú trọng.
Do đó, cần tăng cường hoạt động của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam
để Hiệp hội thực sự là tổ chức đại diện cho lợi ích của ngành cà phê, phục vụ
77
sự nghiệp xây dựng một ngành cà phê Việt Nam phát triển bền vững. Trong
xu thế hiện nay, khi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp bị hạn chế thì vai trò của hiệp hội là rất quan trọng.
Hiệp hội sẽ là cầu nối giữa nhà nước và doanh nghiệp. Qua Hiệp hội, hoạt
động của doanh nghiệp sẽ được phản ánh chính xác và nhanh chóng nhất tới
các cơ quan quản lý của nhà nước, đồng thời cũng có thể đề xuất, tham mưu
cho nhà nước trong việc hoạch định và ban hành các chính sách phù hợp.
Điều này sẽ tạo điều kiện phát huy sức mạnh tổng hợp của các doanh nghiệp
để nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở phát triển bền vững.
Hiệp hội nên thiết lập các cơ quan đại diện ở nước ngoài, trước hết là tập
trung ở các thị trường trọng điểm và tổ chức tốt việc nghiên cứu các điều kiện
thâm nhập thị trường nhằm mở rộng thị trường và nâng cao hiệu quả xuất
khẩu cà phê. Và cà phê cũng là một mặt hàng nông sản được chọn trong việc
thí điểm mô hình xây dựng sàn giao dịch nông sản của chính phủ. Vicofa cần
phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong việc phát triển các chức năng của
sàn giao dịch cà phê là thực hiện các giao dịch mua bán cà phê thông qua các
hợp đồng tương lai. Đây là công cụ mà nhờ đó người buôn cà phê có thể giảm
thiểu hoặc quản lý được các rủi ro biến động do thị trường đem lại. Nhưng do
trình độ phát triển thấp và thói quen buôn bán của người Việt Nam nên hình
thức thị trường này sẽ phải phát triển kết hợp với hình thức đấu giá và kinh
doanh thương mại điện tử(B2B).
Bên cạnh đó, dưới sự cho phép của nhà nước, ngành cà phê nên thành lập
quỹ hỗ trợ xuất khẩu ổn định mua cà phê cho người nông dân. Quỹ này có tác
dụng phòng tránh rủi ro cho hoạt động xuất khẩu. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu sẽ do
Vicofa thành lập và quản lý sẽ tránh được những quy định cấm trợ cấp của
WTO mà vẫn ổn định được giá cà phê, tạo điều kiện cho những người sản
xuất kinh doanh cà phê đầu tư nâng cao chất lượng và công nghệ chế biến cà
phê. Hiệp hội phải là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi của hội viên
78
trong các quan hệ trong nước và quốc tế.Tập hợp rộng rãi các tổ chức kinh tế
thuộc các thành phần kinh tế, các cơ quan khoa học kỹ thuật và đào tạo trong
ngành cà phê và các ngành có liên quan, tạo ra mối liên hệ liên kết kinh tế ổn
định. Trên cơ sở hợp tác thực hiện khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của
các thành viên, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn ngành để phát triển sản
xuất cà phê, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Liên kết chặt chẽ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết những
vấn đề kinh tế, kỹ thuật trong sản xuất và chế biến, cùng nhau xây dựng thị
trường xuất khẩu ổn định, bảo vệ lợi ích của các thành viên và của toàn ngành
cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.
Để Hiệp hội làm được tốt hơn chức năng nhiệm vụ của mình cần có sự
quan tâm hỗ trợ, hợp tác của các cơ quan nhà nước, và tổ chức Hiệp hội phải
được thể chế hóa bằng một văn bản luật chính thức của nhà nước. Hiện nay
mọi hoạt động của Hiệp hội mới chỉ dừng ở mức khuyến cáo, khuyến khích
mà chưa có quyền đưa ra một quyết định nào mang tính bắt buộc đối với các
thành viên của hiệp hội.
79
KẾT LUẬN
Qua những phân tích và đánh giá trên đây có thể thấy, mặt hàng cà
phê đang ngày càng trở thành một trong những sản phẩm nông sản xuất khẩu
hết sức quan trọng trong ngành nông nghiệp, trong công cuộc phát triển đất
nước. Xuất khẩu cà phê mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể hàng năm cho đất
nước. Sản xuất cà phê tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người dân các
tỉnh Tây Nguyên và nhiều tỉnh thành khác. Chính vì vậy, việc nâng cao năng
lực cạnh tranh cho cà phê Việt Nam là một chiến lược mang tính quốc gia
nhằm đưa cà phê Việt Nam lên vị trí số một thế giới.
Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, năng lực cạnh tranh của cà phê Việt
Nam vẫn còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như vị thế trên
thị trường quốc tế. Có quá nhiều yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh nhưng
yếu tố quan trọng nhất vẫn là chất lượng kém. Khâu tổ chức sản xuất, xuất
khẩu cà phê Việt Nam vẫn còn quá nhiều tồn tại. Canh tác, thu hoạch, bảo
quản, sơ chế vẫn chưa đúng quy trình, thiếu sự chọn lọc và hướng dẫn kỹ
thuật của các cơ quan chuyên môn. Cơ cấu sản xuất không hợp lý, mất cân
đối trong đầu tư giữa trồng trọt và chế biến, giữa nguồn sản lượng khổng lồ và
sự thiếu thốn máy móc thiết bị. Hệ thống đánh giá tiêu chuẩn chất lượng chưa
được áp dụng triệt để. Các doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm tham gia thương
mại quốc tế, giá cả phụ thuộc giá thế giới, bị động và thiếu ổn định.
Từ những tồn tại trên đây, trong khuôn khổ luận văn đã đề ra một số giải
pháp nhằm cải tiến chất lượng, nâng cao uy tín, tạo dựng thương hiệu với mục
đích cuối cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh cho cà phê Việt Nam. Những
giải pháp nổi bật đó là:
- Tăng cường đầu tư cho khoa học kỹ thuật, máy móc thiết bị phục vụ sản
xuất.
- Xây dựng và phát triển những vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh.
80
- Tập trung sản xuất cà phê chất lượng cao, đa dạng chủng loại.
- Nâng cao nhận thức cho người dân về kinh tế thị trường
- Đặc biệt nâng cao vai trò của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam
Mục tiêu lớn nhất là nâng cao uy tín cho cà phê Việt Nam, tạo dựng
thương hiệu mạnh trên thị trường thế giới.
Nhu cầu thế giới và trong nước ngày càng tăng cao là một yếu tố vô cùng
thuận lợi nhưng đồng thời yêu cầu về chất lượng cũng ngày càng khắt khe
hơn, do đó ngành cà phê cần có những giải pháp quyết liệt để nâng cao chất
lượng, bởi lẽ, chất lượng là nguồn gốc của mọi vấn đề.
Ở Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực cạnh
tranh cho cà phê và vấn đề là chúng ta tận dụng và phát huy những lợi thế ấy
như thế nào.Với lợi thế về sản lượng như ngành cà phê hiện nay, thì vấn đề
còn lại là làm sao đưa được những sản phẩm tốt nhất ra thị trường để chiếm
thị phần lớn, cũng như tạo dựng được thương hiệu nổi tiếng cho cà phê Việt
Nam.
Nói tóm lại, cà phê đang trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ
lực thì nâng cao năng lực cạnh tranh cũng đang là một yếu tố sống còn đối với
ngành cà phê. Yếu tố sống còn ấy cần sự kết hợp của cả chính phủ, bộ ngành
và toàn thể người trồng cà phê.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (12/2004), Tăng cường năng
lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
( SCARDII).
2. “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010”– Bộ Thương mại,
2005.
3. Bạch Thụ Cường (2002), “Bàn về cạnh tranh toàn cầu”, NXB Thông
Tấn, Hà Nội
4. Cục Xúc Tiến Thương Mại (2001), “Báo cáo đánh giá tiềm năng xuất
khẩu Việt Nam”, 2001.
5. Nguyễn Văn Dũng (2008), “Cà phê Việt Nam những cơ hội và thách
thức”, Báo Bình Dương, số ngày 06/08/2008.
6. Đại từ điển Tiếng Việt.
7. Phan Huy Đường. “Tiêu thụ nông sản Việt Nam: thực trạng và
những vấn đề đặt ra trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Đề tài NCKH,
ĐHQG Hà Nội.
8. Thúy Hiền (2006), “Đâu là giải pháp để ngành cà phê phát triển bền
vững”, Thời báo kinh tế Việt Nam, kinh tế Việt nam và thế giới, số
ngày 19/02/2006, tr 18-20.
9. Hiệp hội cà phê - ca cao Việt Nam (2005), “Báo cáo tổng hợp”, Hà
Nội, 2005.
10. Trần Ngọc Hưng (2002), “Một số nguyên nhân làm suy yếu năng lực
cạnh tranh của cà phê Việt Nam”, tạp chí phát triển kinh tế tháng
9/2002, tr 21-23.
82
11. Nguyễn Hữu Khải (2000): “Các giải pháp đẩy mạnh và khuyến khích
sản xuất và xuất khẩu một số sản phẩm cây công nghiệp của Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
12. Đỗ Ngọc Kiên (2008), “Thương mại công bằng trong kỷ nguyên toàn
cầu hoá: Từ lý thuyết tới thực tiễn” Tạp chí kinh tế đối ngoại, số 28,
tháng 01/ 2008.
13. Hoàng Lan (2006), “Cà phê Việt Nam- những vấn đề cần cải thiện”,
Tạp chí thương mại số 32/2006, tr 32-33.
14. Trần Lê, Cần một chương trình cà phê quốc gia, Thời báo kinh tế Việt
Nam số ngày 10/01/2006.
15. Nguyễn Đình Long, Phạm Đức Minh (2003), “Nâng cao khả năng cạnh
tranh hàng nông sản xuất khẩu”, Viện kinh tế Nông Nghiệp, 2003.
16. Công Luận ( 2006), Vào WTO- ngành cà phê đối mặt với nhiều khó
khăn, Tạp chí thương mại 27/06/2006.
17. Bùi Xuân Lưu (2002), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống Kê.
18. Hòa Minh (2009), “Cà phê và thị trường nội địa”, Vneconomic, số
ngày 11/05/2009.
19. Đoàn Triệu Nhạn, Phan Quốc Sủng, Hoàng Thanh Tiệm (2000), “Cây
cà phê Việt Nam”, NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2000.
20. OECD, “Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp (HLFIC)”.
21. Trần Sửu ( 2000), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều
kiện toàn cầu hoá.
22. Nguyễn Phương Thanh (2000), Luận văn tốt nghiệp, Nghiên cứu năng
lực cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, trường đại học
Ngoại Thương Hà Nội.
23. Hồ Khánh Thiện (2008), “Cà phê Việt đối mặt với thách thức mới”,
Vneconomy số ngày 13/08/2008.
83
24. Thời báo kinh tế Việt Nam, kinh tế 08-09 Việt Nam và Thế Giới, số
ngày 30/08/09.
25. Thời báo kinh tế Sài Gòn số ngày 03/05/09.
26. Thu Đức Thu (2008), “Tiềm năng lớn của cà phê Việt Nam”, Tạp chí
tổng quan số 3, chuyên đề công thương- nông nghiệp 2008.
27. Anh Tuấn ( 2006), Cuộc hành trình đến giảI thưởng WIPPO 2005, tạp
chí thương mại 11/4/2006, tr 21-22.
28. Vũ Trí Tuệ (2006), “Cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế”, tạp chí trung tâm thông tin và dự báo kinh tế- xã
hội quốc gia, ngày 13/06/2006.
29. Vũ Trí Tuệ (2006), Một số nghiên cứu về ngành cà phê Braxin, tạp chí
thương mại số 23/2006.
30. Trần Văn Tùng (2004), Lợi thế cạnh tranh quốc gia và chiến lược
cạnh tranh của công ty, NXB Thế Giới, Hà Nội.
31. Viện khoa học xã hội Việt Nam, viện nghiên cứu Châu Phi và Trung
Đông (2006), Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, tháng
08/2006.
32. Viện kinh tế Việt Nam, Viện khoa học xã hội Việt Nam (2006), Tạp chí
nghiên cứu kinh tế, số 341, tháng 10/2006.
33. Mai Thị Thanh Xuân, Ngô Đăng Thành “Phát triển công nghiệp chế
biến nông sản ở Việt Nam” - NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 2006.
34. Dictionary of Trade (1997), University of Adelaide, New Dictionary of
Trade, University of Adelaide, NewYork.
35. http://encarta.msn.com/dictionary_1861599120/compete.html
36. www.asset.vn.
37. www.24h.com.vn
38. www.vicofa.org.vn
39. www.agroviet.gov.vn
84
40. www.vneconomy.com.vn
41. www.ico.org
42. www.worldbank.org.vn
43. www.vnexpress.net
44. www. Mard.gov.vn
45. www. Mot.gov.vn
46. www. Gso.gov.vn
47. www.commodityexpert.com
48. www.wto.org
49. www.vietnam-ustrade
50. www.acpc.org
51. www.weforum.org
52. : http://thongtinthuongmaivietnam.vn, ngày 07/03/08.
85