KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022:
ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
157
NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM NĂM 2021,
TRIỂN VỌNG NĂM 2022
TS. Lê Văn Tuyên*
Tóm tắt
Năm 2021, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhiều ngành nghề trong
cấu kinh tế của Việt Nam dịch vụ logistics cũng không phải ngoại lệ. Tuy nhiên, so
với các ngành nghề khác như: vận tải hành khách, hàng không, du lịch, thì sự ảnh hưởng của
đại dịch đối với ngành logistics không quá tiêu cực. Bằng các phương pháp nghiên cứu định
tính như: phân tích tổng hợp, thống tả, so sánh, bài viết phân tích thực trạng ngành
logistics Việt Nam trong năm 2021, dự báo những triển vọng trong năm 2022 đưa ra một
số kiến nghị nhằm phục hồi ngành logistics Việt Nam trong trạng thái bình thường mới của
đại dịch COVID-19.
Từ khóa: Dịch vụ hậu cần, logistics, triển vọng, Việt Nam
1. GIỚI THIỆU
Khái niệm hậu cần (logistics) ra đời từ những năm 1950, hoạt động vận chuyển, lưu
kho cung cấp hàng hóa. Trong kinh doanh, logistics thể hiểu sự tập trung của cả
nguồn lực bên trong lẫn bên ngoài bao gồm cả quá trình chuyển từ “người sản xuất”, qua
nhiều giai đoạn đích đến “người tiêu dùng cuối cùng”. Logistics quá trình lập kế
hoạch, thực hiện và kiểm soát việc di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, sản phẩm trong quy
trình, thành phẩm các thông tin liên quan từ khâu thu mua nguyên vật liệu đến khi tiêu
thụ nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nói một cách đơn giản hơn, logistics là các
hoạt động xoay quanh hàng hóa như: đóng gói, bảo quản, vận chuyển hàng hóa… Dựa theo
quá trình hoạt động, logistics chia ra làm ba loại: (i) logistics đầu vào gồm những hoạt động
mang tính “thu thập” như: tiếp nhận và lưu trữ nguyên vật liệu đầu vào từ nhà cung cấp đến
doanh nghiệp, đảm bảo các yếu tố đầu vào được cung ứng một cách tối ưu về thời gian, giá
trị và chi phí phục vụ cho quá trình sản xuất; (ii) logistics đầu ra là các hoạt động liên quan
đến việc dịch chuyển hàng hóa từ điểm cuối cùng của dây chuyền sản xuất đến khách hàng,
13.
* Học viện Kỹ thuật Quân sự
KỶ YẾU HI THO KHOA HỌC QUỐC GIA
158
thông qua các kênh phân phối (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến tay người tiêu dùng; (iii) logistics
“ngược” gồm các hoạt động của quá trình thu hồi lại sản phẩm lỗi, phế phẩm, phế liệu…
phát sinh sau khi phân phối sản phẩm để tái chế hoặc xử lý.
Tại Việt Nam, ngành logistics ngày càng đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình
hoạt động của xã hội, đặc biệt là trong sản xuất, lưu thông và phân phối các sản phẩm và dịch
vụ. Tuy nhiên, trong hai năm trở lại đây, ngành logistics nhiều sự biến động sự bùng
phát của đại dịch COVID-19. Bằng các số liệu thứ cấp từ Báo cáo logistics Việt Nam năm
2021 của Bộ Công Thương (đây báo cáo thường niên nhằm soát, đánh giá, cung cấp
thông tin về tình hình, triển vọng logistics Việt Nam quốc tế và các quy định chính sách
liên quan... góp phần phục vụ công tác quản nhà nước, hoạt động sản xuất - kinh doanh,
đầu của các doanh nghiệp, công tác nghiên cứu khoa học và truyền thông trong lĩnh vực
logistics) số liệu từ các bài báo trên website chính thống Việt Nam, bài viết sử dụng
phương pháp nghiên cứu thống kê mô tả, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh để đánh giá thực trạng ngành logistics Việt Nam năm 2021, dự báo những triển vọng
trong năm 2022 và đề xuất các kiến nghị nhằm phát triển ngành logistics Việt Nam trong thời
gian tới.
2. THỰC TRẠNG NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM NĂM 2021
2.1. Những kết quả đạt được
Theo Bộ Công Thương, năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục tăng
trưởng tạo nên nguồn cầu dịch vụ logistics phục vụ xuất - nhập khẩu, hiện hơn 4.000
doanh nghiệp logistics hoạt động chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ logistics quốc tế. Chất
lượng dịch vụ của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao nhờ tăng cường ứng dụng
chuyển đổi số, cải tiến quy trình nghiệp vụ, đặc biệt các doanh nghiệp logistics cung cấp
dịch vụ cho thị trường châu Âu, Mỹ và Trung Quốc. Theo Báo cáo logistics Việt Nam năm
2021 của Bộ Công Thương, trong 9 tháng năm 2021, số doanh nghiệp vận tải, kho bãi đăng
thành lập mới tăng 4,61%, số vốn tăng 43% so với cùng kỳ năm 2020, trong năm 2021
nhiều doanh nghiệp ngành logistics tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận, hầu hết mức tăng
hai con số. Minh chứng nhất do kinh tế trong nước dần phục hồi trở lại dẫn đến hoạt
động vận tải đường biển thủy nội địa 10 tháng năm 2021 ghi nhận hồi phục so với cùng
kỳ 2020. Cụ thể, khối lượng hàng hóa vận tải đường biển và thủy nội địa 10 tháng năm 2021
ước đạt lần lược 68,1 triệu tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ và 265 triệu tấn giảm 3,2% so với
cùng kỳ, cải thiện đáng kể so với mức giảm 4,2% và 11,6% trong 10 tháng năm 2020. Đáng
chú ý, tổng trọng tải tàu biển tăng mạnh 22% so với cùng kỳ (Minh Anh, 2021).
Kết quả khảo sát doanh nghiệp ngành logistics do Vietnam Report (công ty tiên phong
trong lĩnh vực báo cáo đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, sản phẩm và dịch vụ tại Việt Nam)
thực hiện trong tháng 11/2021 cho thấy, 80% số doanh nghiệp đạt được tăng trưởng doanh
thu lợi nhuận trong năm nay so với năm 2020, thậm chí 83% số doanh nghiệp còn ghi
nhận tăng trưởng so với năm 2019 thời điểm trước đại dịch. Khi phân tích sâu hơn, Vietnam
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022:
ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
159
Report nhận thấy bức tranh kinh tế ngành logistics năm vừa qua sự phân hóa nhất định.
Đầu tiên là sự phân hóa theo quy mô. Việt Nam hiện có khoảng 4.000 - 4.500 doanh nghiệp
cung cấp logistics trực tiếp và có đến hơn 30.000 công ty liên quan. Các đợt bùng phát dịch
liên tiếp đã bào mòn sức chống chịu của đại bộ phận doanh nghiệp logistics. Tác động chủ
yếu nằm ở nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ – bộ phận chiếm hơn 90% số doanh nghiệp toàn
ngành. Trong khi đó, tác động tiêu cực đối với những doanh nghiệp lớn được hạn chế bớt
nhờ vị thế thị trường nền tảng vốn vững chắc. Không những vậy, sự rút lui của một bộ
phận doanh nghiệp vừa và nhỏ còn tạo cơ hội cho nhóm doanh nghiệp lớn gia tăng thị phần.
Theo đó, đại dịch góp phần đẩy nhanh quá trình phân cực giữa những doanh nghiệp dẫn đầu
với nhóm còn lại trong ngành. Tiếp theo sự phân hóa theo nhóm ngành hoạt động (Tiền
Phong, 2021). Bên cạnh đó, số liệu từ Cục Hàng hải cũng cho thấy, trong 11 tháng đầu năm
2021, tổng khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đạt 647 triệu tấn, tăng 2%
so với cùng kỳ năm 2020. Đáng chú ý, mặc dù một số cảng biển lớn khu vực phía Nam chịu
tác động mạnh của dịch bệnh nhưng tổng khối lượng hàng container qua cảng biển cả nước
vẫn duy trì mức tăng trưởng rất tích cực, ước đạt hơn 22 triệu TEU, tăng 8% so với cùng kỳ
năm trước (Minh Đức, 2021). Báo cáo tài chính của 34 doanh nghiệp logistics niêm yết trên
sàn chứng khoán, kết thúc Quý III/2021, nhóm hỗ trợ vận tải (giao nhận, kho bãi, dịch vụ
logistics bên thứ 3, thứ 4; chuyển phát nhanh, giao hàng chặng cuối…) ghi nhận kết quả tích
cực hơn hẳn nhóm vận tải hàng hóa và khai thác cảng.
Cũng trong 9 tháng năm 2021, 2.509 doanh nghiệp vận tải kho bãi phải tạm ngừng
hoạt động, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 5,56% tổng số doanh nghiệp tạm
ngừng hoạt động của cả nước. Đồng thời 571 số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể,
tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 4,46% tổng số doanh nghiệp giải thể của cả
nước. Các doanh nghiệp logistics Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với việc cạnh tranh gay
gắt với các doanh nghiệp logistics nước ngoài. Chưa kể, doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt
Nam chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 95%), nhưng đa số các doanh nghiệp nhỏ siêu nhỏ
cung cấp các dịch vụ chưa giá trị gia tăng cao. vậy, doanh thu của các doanh nghiệp
logistics nước ngoài luôn chiếm thị phần logistics cao hơn (Như Loan, 2021).
KỶ YẾU HI THO KHOA HỌC QUỐC GIA
160
Hình 1. Biến động doanh thu giai đoạn 2019 - 2021 của một số doanh nghiệp logistics niêm yết
Nguồn: Vietnam Report, thống kê từ dữ liệu xếp hạng top 10 công ty uy tín ngành logistics năm 2021
(tháng 11/2021)
Hình 2. Chỉ số logistics năm 2021 của một số quốc gia
Nguồn: Agility
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022:
ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
161
Báo cáo chỉ số Logistics thị trường mới nổi năm 2021 do nhà cung cấp dịch vụ kho vận
hàng đầu thế giới Agility công bố, Việt Nam đã tăng 3 bậc xếp hạng so với năm 2020, đứng
ở vị trí thứ 8 trong top 10 quốc gia đứng đầu. Đây là mức tăng nhanh nhất ở nửa trên của chỉ
mục Việt Nam đã thay thế vị trí của Thái Lan trong top 10 (Lê Minh Hương, 2021). Trong
đó, Trung Quốc xếp vị trí số 1, Ấn Độ xếp vị trí thứ 2, Indonesia vị trí thứ 3. Quatar Thổ
Nhĩ Kỳ xếp sau Việt Nam ở vị trí thứ 9 và thứ 10. Trong số các nước ASEAN, Indonesia xếp
vị trí thứ 3, Malaysia bậc 5, Việt Nam đứng vị trí thứ 8, Thái Lan xếp vị trí thứ 11,
Philippines vị trí thứ 21, Campuchia vị trí thứ 41. Theo Agility, Việt Nam một trong
những quốc gia thành công nhất trên toàn cầu về việc đối phó với đại dịch COVID-19. Mức
tăng 3 hạng của Việt Nam lên vị trí thứ 8 là mức tăng nhanh nhất ở nửa trên của chỉ mục và
thay thế khu vực Thái Lan trong top 10 (Thanh Hằng, 2021).
2.2. Một số tồn tại, hạn chế
Các cuộc khảo sát của Vietnam Report gần đây cho thấy, ngành logistics Việt Nam hiện
nay đang phải đối mặt với hai lực cản lớn. Lực cản đầu tiên những vấn đề cố hữu của ngành
tồn tại từ trước khi đại dịch xuất hiện, bao gồm: (1) chi phí logistics còn cao so với các nước
trong khu vực; (2) hạ tầng giao thông chậm phát triển, chưa tương xứng với lợi thế địa lý;
(3) hệ thống pháp lý chưa đồng bộ và nhất quán; (4) mức độ ứng dụng công nghệ còn thấp;
và (5) nguồn nhân lực còn thiếu và yếu. Lực cản thứ hai và cũng nghiêm trọng hơn, chính là
những khó khăn liên quan đến đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu dưới tác động của đại dịch,
thể hiện ở (1) mất cân đối cung - cầu; (2) thiếu lao động; và (3) điều kiện hoạt động.
Khoảng 2/3 số doanh nghiệp tham gia khảo sát của Vietnam Report cho biết, họ đã gặp
không ít khó khăn do hàng hóa bị lưu kho, lưu cảng, chờ thông quan nhiều ngày do kiểm
soát biên giới, hạn chế thương mại tới các nước có vùng dịch. Khảo sát cũng chỉ ra rằng, do
phía cung cũng chịu tác động từ đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên vật liệu sản xuất, dẫn đến
thiếu hụt hàng hóa nên lượng đơn hàng của trên 53% số doanh nghiệp đã giảm sút đáng kể
(VNR, 2021).
Thiếu lao động cũng một trong những thách thức hàng đầu của gần 54% số doanh
nghiệp logistics hiện nay, theo khảo sát của Vietnam Report. Đại dịch COVID-19, nhất
đợt bùng phát lần thứ tư với những giai đoạn giãn cách xã hội và phong tỏa nghiêm ngặt đã
khiến cho tình trạng thiếu lao động trở nên nghiêm trọng hơn. Số liệu cho thấy, thời gian qua
đã có khoảng 1,3 triệu lao động từ Thành phố Hồ Chí Minh các tỉnh trọng điểm phía Nam
trở về các địa phương. Nhiều lao động sau khi về quê không còn muốn trở lên thành phố làm
việc, cho dù các nhà máy đã cố tìm cách “giữ chân” bằng mức lương và phúc lợi xã hội tốt
hơn. Khảo sát của Vietnam Report cho thấy, quy mô nhân sự của gần 40% số doanh nghiệp
trong ngành hiện đã giảm so với năm 2019, thời điểm trước đại dịch. Trong khi đó, những
tháng cuối năm 2021 đầu năm 2022 giai đoạn nhu cầu hàng hóa tăng cao, cần sử
dụng nhiều lao động để phục hồi sản xuất, đặc biệt ở các tỉnh vùng Kinh tế trọng điểm phía
Nam. Điều này đặt ra thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp trong ngành.