QT6.2/KHCN1-BM17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

ISO 9001 : 2008

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NGHIÊN CỨU MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÀ SỰ ĐA DẠNGTHÀNH PHẦN LOÀI, SINH VẬT LƯỢNG TẢO LAM (CYANOPHYTA) Ở MỘT SỐ RUỘNG LÚA VÀ AO THỦY SẢN THUỘC TỈNH TRÀ VINH

Chủ nhiệm đề tài:

ThS. PHẠM THỊ BÌNH NGUYÊN

Chức danh:

Giảng viên

Đơn vị:

Khoa Nông nghiệp - Thủy sản

Trà Vinh, ngày tháng năm 2016

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

ISO 9001 : 2008

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NGHIÊN CỨU MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÀ SỰ ĐA DẠNG THÀNH PHẦN LOÀI, SINH VẬT LƯỢNG TẢO LAM(CYANOPHYTA) Ở MỘT SỐ RUỘNG LÚA VÀ AO THỦY SẢN THUỘC

TỈNH TRÀ VINH

Xác nhận của cơ quan chủ quản

Chủ nhiệm đề tài

(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)

(Ký, ghi rõ họ tên)

Phạm Thị Bình Nguyên

Trà Vinh, ngày tháng năm 2016

2

TÓM TẮT

Nghiên cứu về sự đa dạng thành phần loài và những tác động của các yếu tố môi trường đến sự đa dạng loài tảo lam tại một số ruộng lúa và ao thủy sản thuộc tỉnh Trà Vinh đã được tiến hành từ tháng 3/2015 đến tháng 9/2015 vào hai mùa (mưa, nắng). Kết quả ghi nhận được 49 loài tảo lam thuộc 4 bộ (Oscillatoriales, Noctoscales, Chroococcales, Synechococcales), 9 họ và 15 chi khác nhau. Trong đó, bộ Oscillatoriales là bộ chiếm ưu thế với 21 loài (42,86%), kế đến là bộ Nostoccales với 12 loài (24,49%), bộ Chroococcales với 11 loài (22,45%), còn lại thành phần loài ít nhất là bộ Synechococcales với 5 loài (10,2%). Thành phần loài ở ruộng lúa là cao nhất (28 loài) và ao tôm là thấp nhất (12 loài) trong ba loại hình thủy vực. Sự chênh lệch số loài giữa mùa nắng và mùa mưa là rất ít (mùa nắng: 35 loài, mùa mưa: 36 loài). Loài Oscillatoria rubescens Gom có mặt ở cả ba loại hình thủy vực vào cả hai mùa. Chi Oscillatoria có độ đa dạng loài cao nhất với 18 loài chiếm 36,73 %. Tất cả các địa điểm khảo sát đều có sự phân bố của tảo lam. Kết quả phân tích, đánh giá mối tương quan cho thấy yếu tố dinh dưỡng N, P, C có mối tương quan thuận và ảnh hưởng tương đối chặt chẽ đến thành phần loài tảo lam. Thành phần loài tảo lam phân bố nhiều ở các địa điểm có hàm lượng dinh dưỡng (N, P, C) cao. Khảo sát biến động mật độ trung bình loài tảo lam theo không gian và thời gian cho thấy mật độ trung bình của tảo lam tại các điểm khảo sát dao động từ 4.560 – 932.640 cá thể/lít. Cao nhất là điểm Đ8 với 932.640 cá thể/lít. Vào mùa nắng, mật độ tảo lam trung bình dao động từ 600 – 126.000 cá thể/lít. Mật độ cao nhất là loài Microcytis aeruginosa với 132.960 cá thể/lít, loài thấp nhất là loài Raphidiopsis sp với 760 cá thể/lít. Vào mùa mưa, mật độ trung bình cao nhất là loài Spirulina platensis với 126.000 cá thể/lít và thấp nhất là loài Cylindrospermopsis raciborskii với 600 cá thể/lít. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy loài Microcytis aeruginosa phát triển ở nơi có hàm lượng N và C cao và loài Spirulina platensis phát triển ở nơi có hàm lượng P cao.

3

Từ khóa: tảo lam, ao tôm, ao cá, ruộng lúa, tỉnh Trà Vinh. Abstract The study of the diversity of species and the impact of environmental factors on species diversity of blue – green algae in some rice field and aquaculture ponds of Tra Vinh province was conducted from January to March 2015 on two seasons (rain, sun). Results recorded 49 species of algae Lam 4 ministry (Oscillatoriales, Noctoscales, Chroococcales, Synechococcales), 9 family and 15 different varieties. Inside, the Oscillatoriales is the dominant with 21 species (42.86%), followed by the Nostoccales with 12 species (24.49%), with 11 species of Chroococcales (22.45%), the rest of species at least 5 species of Synechococcales with (10.2%). Species

individuals/liter 126.000 species and the to

composition in rice fields is the highest (28 species) and ponds are the lowest (12 species) in 03 type of water body. The difference between the species in the dry season and the rainy season was little (dry season: 35 species, season: 36 species). Oscillatoria rubescens Gom species present in 03 type of the waterbody in both seasons. Oscillatoria was the highest species diversity with 18 species, accounting for 36.73%. All study sites was the distribution of blue – green algae. The results of analysis and evaluation of the correlation showed nutrient elements N, P, C has a positive correlation and relatively strong influence on blue – green algae species composition. Number of species of blue – green algae distribution in locations many nutrient content (N, P, C) high. Survey average density fluctuations algae species in space and time shows the average density of blue – green algae in the survey ranged from 4.560-932.640 individuals/liter. At D8 is the highest point to 932.640 individuals/liter. In the dry season, the average density of blue – green algae ranged from 600 - 126.000 individuals/liter. The highest density was Microcytis aeruginosa species with 132.960 individuals/liter, the lowest was Raphidiopsis sp species with 760 individuals/liter. In the rainy season, the highest average density was Spirulina lowest was platensis Cylindrospermopsis raciborskii species with 600 individuals/liter. The study results also showed that Microcytis aeruginosa species developed where nitrogen and high C and Spirulina platensis species grow in areas with high P content.

Key words: blue – green algae, rice fields, fish ponds, shrimp ponds, Trà Vinh

4

province.

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU........................................................................... 7

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH ................................... 7

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... 8

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 9

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 9 2. Tổng quan nghiên cứu .......................................................................... 10 2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới .................................................. 10 2.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam................................................... 10 2.3. Đặc điểm chung của Tảo lam ......................................................... 12 3. Mục tiêu ............................................................................................... 25 4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu .................................. 25 4.1 Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu .................................. 25 4.2 Quy mô nghiên cứu ........................................................................ 27 4.3 Phương pháp nghiên cứu ................................................................ 27

PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................... 31

Chương 1: Kết quả khảo sát địa điểm nghiên cứu và ................................ 31 đo đạc các chỉ tiêu môi trường .................... Error! Bookmark not defined. 1.1. Kết quả khảo sát địa điểm và chọn địa điểm nghiên cứu ................ 31 1.2. Kết quả đo đạc các chỉ tiêu môi trường .......................................... 31 Chương 2: Khảo sát đa dạng thành phần loài tảo lam ............................... 34 2.1. Thành phần loài tảo lam ở các địa điểm khảo sát tại Trà Vinh ....... 34 2.2. Bộ sưu tập hình ảnh tảo lam.......................................................... 37 2.3. Biến động thành phần loài theo không gian và thời gian ................ 60 2.4. Kết quả phân tích, đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố môi trường và thành phần loài tảo lam. ........................................................ 60 Chương 3: Khảo sát biến động sinh vật lượng tảo lam .............................. 63 3.1. Biến động mật độ tảo lam theo mùa và địa điểm khảo sát .............. 63 3.2 Kết quả phân tích, đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố môi trường và sinh vật lượng tảo lam tại các địa điểm khảo sát. .................. 66

PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 69

1. Kết luận ................................................................................................ 69 2. Kiến nghị .............................................................................................. 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 70

Phụ lục 1: Hình ảnh dụng cụ và địa điểm thu mẫu ..................................... 733

Phụ lục 2: Số liệu thô các kết quả đo đạc và phân tích chỉ tiêu môi trường tại 16 điểm thu qua 2 mùa .......................................................................... 764-76

5

Phụ lục 3: Số liệu thống kê mối tương quan của các yếu tố môi trường và thành phần loài, sinh vật lượng tảo lam ................................................... 77-78

Phụ lục 4: Chỉ số đa dạng loài ở các thủy vực………………………………79

Phụ lục 5: Bảng ANOVA các chỉ tiêu môi trường ..................................... 810

Phụ lục 6: Số liệu thô trong phân tích định lượng tảo lam qua hai mùa. 843-96

6

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên bảng Số trang

26-27

Bảng 1: Địa điểm được tiến hành khảo sát và thu mẫu tảo lam tại Trà Vinh

31

Bảng 2: Kết quả giá trị trung bình của các chỉ tiêu thủy lý hóa qua hai mùa

Bảng 3: Kết quả giá trị trung bình các chỉ tiêu về dinh dưỡng 32

34-36

Bảng 4: Danh mục thành phần loài và sự phân bố của tảo lam ở Trà Vinh

37

Bảng 5: Danh mục các loài tảo lam sản sinh độc tố khảo sát tại Trà Vinh

61

Bảng 6: Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và thành phần loài tảo lam vào mùa nắng

61

Bảng 7: Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và thành phần loài tảo lam vào mùa mưa

Bảng 8: Kết quả mật độ trung bình các loài tảo lam vào hai mùa 63-64

65-66

Bảng 9: Mật độ trung bình của các loài tảo lam tại hai điểm (Đ8, Đ4) có thành phần và sinh vật lượng cao

66

Bảng 10: Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và sinh vật lượng tảo lam vào mùa mưa

68

Bảng 11: Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và sinh vật lượng tảo lam vào mùa nắng

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH

Tên biểu đồ Số trang

60

Hình 1: Biến động thành phần loài tảo lam qua hai mùa mưa và nắng tại các địa điểm khảo sát ở Trà Vinh

7

Hình 2: Mật độ trung bình tảo lam theo địa điểm khảo sát 64

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin cảm ơn gia đình đã giúp đỡ động viên và tạo điều kiện cho

tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.

Chân thành cảm ơn Quý lãnh đạo và anh, chị, em đồng nghiệp Khoa Nông

nghiệp - Thủy sản đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn Phòng Khoa học Công nghệ, phòng Kế hoạch – Tài vụ đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong việc hướng dẫn các thủ tục, hồ sơ thanh toán nghiệm thu và viết báo cáo đề tài theo đúng qui định.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn thân thiết đến Chị Nguyễn Thị Trúc Linh và

Anh Mai Văn Hoàng đã hỗ trợ tôi trong quá trình thu mẫu ngoài thực địa.

Trà Vinh, ngày ….. tháng …. năm 2016

Tác giả

8

PHẠM THỊ BÌNH NGUYÊN

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trà Vinh là một tỉnh nằm kẹp giữa Sông Tiền và Sông Hậu, là hai nhánh sông lớn của Đồng bằng Sông Cứu Long. Hàng năm, Trà Vinh được phù sa bồi đắp từ hai con sông lớn nên có tiềm năng rất lớn về nông nghiệp. Thêm vào đó, phía Đông giáp với Biển Đông – là vùng đất liền giáp biển nên Trà Vinh là tỉnh có nhiều thế mạnh về nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản, nhất là nuôi tôm nước lợ và đang là một trong những tỉnh nuôi tôm công nghiệp nhiều nhất vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Năm 2014, tổng diện tích thả nuôi tôm trên toàn tỉnh là 16.861 ha (tăng trưởng bình quân 65,7%/năm). Tuy nhiên, đến năm 2015, diện tích tôm nuôi chính vụ 2015 của tỉnh Trà Vinh chỉ đạt gần 52% kế hoạch, sản lượng tôm nuôi giảm gần 10.000 tấn so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do biến đổi khí hậu, thời tiết thất thường ảnh hưởng môi trường, dịch bệnh phát triển khiến tôm chết hàng loạt. (Thuysanvietnam.com.vn). Một trong những nguyên nhân nội tại xảy ra trong môi trường ao nuôi là sự phát triển của một số loài vi tảo độc có ảnh hưởng đến chất lượng nước và tạo điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh xảy ra trên tôm. Bên cạnh những loài vi tảo có lợi như tảo lục, khuê tảo thì tảo lam được xem là tảo có hại đối với môi trường ao nuôi thủy sản.

Tảo lam (Blue-green algae) hay Thanh tảo (Cyanophyta) – Vi khuẩn Lam (Cyanobacteria) có mặt hầu hết các thủy vực nước ngọt, lợ, mặn và kể cả môi trường trên cạn. Tảo lam phát triển được ở cả những vùng có khí hậu ấm áp đến cả những vùng bắc cực giá rét. Chúng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tuần hoàn hóa sinh của nhiều yếu tố, tham gia vào cấu trúc, chức năng và đa dạng sinh học của cộng đồng thủy sinh vật. Cùng với vi tảo, tảo lam cung cấp năng lượng sơ cấp cho sinh quyển đồng thời giải phóng một lượng lớn oxy vào trong không khí thông qua quá trình quang hợp và trao đổi chất (Đào Thanh Sơn & ctv, 1985). Một số loài tảo lam (Sprirulina platensis, S.maxima...) giàu protein, vitamin và một vài axit béo thiết yếu như glyceraldehide, polysaccharides, sulfolipids và glycolipids, giàu carotenoid nên nó được ứng dụng nhiều trong việc dùng làm thức ăn, mỹ phẩm, dược phẩm, thực phẩm chức năng (Vũ Ngọc Út, Dương Thị Hoàng Oanh, 2013). Trong nông nghiệp, nhờ vào khả năng cố định đạm mà tảo lam (Anabaena azolla) được sử dụng để làm phân bón cho cây trồng và đất thay thế lượng đạm hóa học. Nếu dùng Tảo lam cố định đạm có thể giảm thiểu lượng phân bón cho lúa tới 15% (Nguyễn Anh Tuấn,1994).

9

Tuy nhiên, một số tảo lam (Microcystis, Anabaena, Oscillatoria,. ) khi phát triển mạnh trong ao hồ sẽ làm thành lớp váng xanh dày đặc, gây độc đối với tôm cá, sinh vật phù du và các loại thủy sinh vật khác, gây thiếu oxy, phát triển các quá trình kỵ khí trong thủy vực. Hình thành các chất độc như phenol, indol, các khí độc như CO2, NH3, H2S,..làm nhiễm bẩn nước. Sự phát triển dày đặc sẽ làm cản trở hoạt

động bơi lội của cá, tôm đặc biệt đối với tảo sợi (trừ chi sprirulina), làm cho phần lớn cá bị chết ngay trong vùng có Tảo lam nở hoa. Khi Tảo lam xuất hiện nhiều trong ao nuôi sẽ làm cho tôm nuôi có mùi hôi, đồng thời còn là nhóm thải ra chất nhờn ở màng tế bào có thể gây tắc nghẽn mang của tôm. Một số trường hợp tôm bị phân trắng thường tìm thấy nhóm tảo này trong đường ruột tôm ở dạng chưa tiêu hóa.

Tảo lam có vai trò quan trọng và nhiều tác động, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản nên nó được xem là ngành tảo thu hút sự quan tâm khảo sát và nghiên cứu của các nhà khoa học. Đặc biệt đối với tỉnh Trà Vinh là tỉnh có thế mạnh về hai lĩnh vực trên thì việc tìm hiểu về Tảo lam là cần thiết. Chính vì vậy, đề tài: “Nghiên cứu mối tương quan giữa các yếu tố môi trường và sự đa dạng thành phần loài, sinh vật lượng Tảo lam (Cyanophyta) ở một số ruộng lúa và ao thủy sản thuộc tỉnh Trà Vinh” được đề xuất và thực hiện nhằm cung cấp thêm những minh chứng về sự đa dạng cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự đa dạng của Tảo lam để làm nguồn dữ liệu cơ sở cho những nghiên cứu ứng dụng về việc khai thác các đối tượng giống, loài Tảo lam có lợi hay những nghiên cứu về các biện pháp khắc phục những giống, loài Tảo lam có hại đối với nghề nuôi trồng thủy sản ở Trà Vinh.

2. Tổng quan nghiên cứu

2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Một số nghiên cứu về Tảo lam ở các thủy vực nước ngọt trên thế giới như về phân loại, đa dạng sinh học và các Tảo lam gây nở hoa. Bên cạnh đó, Tảo lam còn được đề cập đến trong các nghiên cứu về phiêu sinh thực vật như nghiên cứu sự thay đổi theo không gian và thời gian, hay mối tương quan giữa phiêu sinh thực vật và các yếu tố môi trường. Tuy nhiên, đó là những nghiên cứu chung về tảo, trong đó có tảo lam. Một số công trình nghiên cứu riêng cho ngành tảo lam kể đến là:

Nghiên cứu của T.v Desikachary, Ph. D, F.A. Sc (1959) tác giả viết về ngành Tảo lam (Cyanophyta): các đặc điểm hình thái, sinh học, nguồn gốc, phân bố, phân loại, khóa định loại Tảo lam.

Nghiên cứu của Komarek J., Anagnostidis K., (1999); (2005) tác giả viết về các đặc điểm và khóa định loại Tảo lam nhân sơ bộ Chroococcales và Oscillatoriales....

2.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

10

`Một số công trình nghiên cứu trước đây khảo sát và định danh các loài tảo lam ở các địa điểm thuộc miền bắc, trung, nam Việt Nam, bổ sung cho bảng danh mục các loài tảo lam ở Việt Nam và trên thế giới.

Nghiên cứu đầu tiên về Tảo lam ở Việt Nam là tác giả Frémy (1927), đã công

bố 3 “loài” Tảo lam ở Việt Nam.

Người Việt Nam công bố kết quả đầu tiên chuyên về Tảo lam là Cao Ngọc

Phượng (1964), tác giả đã viết về 23 loài Tảo lam trên mặt đất ở Sài Gòn và Đà Lạt.

Nhà tảo học Hungary Hortobagyi (1967 – 1969) đã xác định 24 “loài” Tảo lam

khi phân tích nước hồ Hoàn Kiếm vào thời điểm nở hoa.

Phạm Hoàng Hộ (1963, 1964, 1968) nghiên cứu thủy vực ruộng lúa, kênh ao tỉnh Cần Thơ đã đưa ra danh mục 39 “loài” Tảo, trong đó Tảo lam – 30 “loài”, Tảo Lục – 2 “loài”, Tảo thuộc họ Characeae – 7 “loài”.

Phùng Thị Nguyệt Hồng, T.C. Tiến & N.T.N.Tuyết (1977) nghiên cứu thành phần giống, “loài” Tảo lam của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long trong các ruộng lúa để nghiên cứu khả năng sử dụng các Tảo lam giàu đạm vào công tác bón ruộng và làm thức ăn cho gia súc.

Shirota (1963, 1966) trong chương trình nghiên cứu hải ngoại của Nhật Bản đã công bố quyển sách về sinh vật nổi Nam Việt Nam với 388 taxon “loài” và dưới “loài”, trong đó Tảo mắt – 57 “loài”, Tảo lục – 152 “loài”, Tảo lam – 29 “loài”, Tảo silic – 103 “loài”, Tảo roi lệch – 4 “loài”, Tảo vàng – 43 “loài”.

Năm 1982, Dương Đức Tiến trong nghiên cứu điều tra các sinh thái thủy vực nước ngọt Việt Nam công bố 1.403 các taxon “loài” và dưới “loài”, trong đó Tảo lục - 530 “loài”, Tảo silic - 388 “loài”, Tảo lam - 344 “loài”, Tảo mắt - 78, Tảo giáp – 30 “loài” , Tảo vàng ánh - 14 “loài”, Tảo vòng - 9 “loài” , Tảo vàng - 5 “loài” và Tảo đỏ - 4 “loài”.

Năm 2003, Nguyễn Văn Tuyên đã nghiên cứu về sự Đa dạng sinh học Tảo trong thủy vực nội địa Việt Nam. Kết quả đã định danh được 1.539 “loài” trong khu hệ tảo nước ngọt Việt Nam, đưa ra được bảng danh mục tảo nội địa Việt Nam. Trong đó, Tảo lam gồm 3 lớp: Chroococceae, Chamaesiphoneae và Hormogoneae; 6 bộ: Chroococcales, Pleurocapsales, Stigonematales, Nostocales, Dermocarpales, Tubiellales; 25 họ với 236 “loài”.

11

Nghiên cứu sự phân bố thành phần “loài” Tảo lam ở khu dự trữ sinh quyển Nam cát Tiên và Đồng tháp Mười của Nguyễn Văn tuyên (2003) đã đưa ra bảng danh mục như sau: Khu dự trữ sinh quyển Nam Cát Tiên: 3 lớp (Chroococceae, Chamaesiphoneae và Hormogoneae); 4 bộ (Chroococcales, Pleurocapsales, Stigonematales, Nostocales) và 02 bộ phụ (Symmetreae, Asymmetreae); 14 họ với 52 “loài”. Vùng Đồng Tháp Mười: 3 lớp (Chroococceae , Chamaesiphoneae và Hormogoneae), 5 bộ (Chroococcales, Oscillateriales, Dermocarpales, Nostocales, Tubiellales); 15 họ với 65 “loài”.

Một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học đăng tạp chí và báo cáo Hội

nghị Việt Nam, như sau:

Năm 2007, Lưu Thị Thanh Nhàn & Nguyễn Ngọc Lâm đã nghiên cứu về chi Microcystis ở hồ Trị An, tỉnh Đồng Nai. Công trình này đã mô tả 9 loài thuộc chi Microcystis cung cấp một số dữ liệu cơ sở khoa học về chi này trong ngành tảo lam.

Năm 2008, một số công trình của Hoàng Phương Hà, Trần Văn Nhị, Lê Quang Huấn đã nghiên cứu một số đặc điểm của một số loài tảo lam thuộc chi Anabeana phân lập từ ruộng lúa Việt Nam đã phân lập và lập cây phân loại một số chủng tảo lam ở Việt Nam.

Một công trình cũng được nghiên cứu vào năm 2008 của tác giả Lưu Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thanh Tùng nghiên cứu về thành phần và sự phân bố của các vi khuẩn lam phù du (bộ Oscillatoriales) ở lưu vực sông Ngà, đã ghi nhận được 88 taxa vi khuẩn lam phù du thuôc bộ Oscillatoriales.

Năm 2009, tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương và Nguyễn Danh nghiên cứu đa dạng thành phần loài vi khuẩn lam phù du ở Ayun Hạ, tỉnh Gia Lai đã phát hiện thêm 7 loài vi khuẩn lam mới, đồng thời cũng phát hiện 5 loài có khả năng sản sinh độc tố.

Gần đây nhất là công nghiên cứu của Đào Thanh Sơn, Bùi Bá Trung, Đỗ Hồng Lan Chi vào năm 2013, đề tài “đa dạng sinh học vi khuẩn lam ở hồ Dầu Tiếng” công bố trên tạp chí hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 5, đã ghi nhận được 38 loài vi khuẩn lam, trong đó có 4 loài chưa từng mô tả trong bảng định loại tảo lam.

Tất cả các công trình nghiên cứu về tảo lam trên đều định danh và bổ sung cho danh mục thành phần giống, loài tảo lam ở Việt Nam ở một số thủy vực phân bố cả ba, miền bắc, trung, nam. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu, khảo sát ngành tảo lam nào được thực hiện ở tỉnh Trà Vinh.

2.3. Đặc điểm chung của Tảo lam

2.3.1. Nguồn gốc và phân bố

Ngành Tảo lam là ngành tảo cổ xưa, hóa thạch của chúng được tìm thấy xuất hiện cách đây khoảng 3,5 tỷ năm. Vào lúc đó Tảo lam được xem là sinh vật đầu tiên tạo bầu khí quyển cho Trái đất bởi khả năng quang hợp sản sinh ra khí oxy.Tảo lam (Cyanophyta) còn gọi là Vi khuẩn lam (Cyanobacteria), bởi các đặc điểm vừa giống vi khuẩn vừa giống thực vật (Vũ Ngọc Út, Dương Thị Hoàng Oanh, 2013).

12

Tảo lam có sức sống rất dẻo dai, chúng phân bố rộng rãi trong tất cả các môi trường. Đại bộ phận Tảo lam sống trong nước ngọt, ở các ao hồ có nhiều chất hữu cơ và góp phần hình thành hệ sinh vật nổi (plankton) của các thủy vực; một số phân

bố trong nước mặn hoặc nước lợ, nơi bùn lầy hay đất ẩm ướt, trên đá, trên vỏ cây ẩm, ngay cả những nơi có điều kiện rất khắc nghiệt như trong tuyết và ở những suối nước nóng đến 69°C. Tảo lam thuộc loại ưa nhiệt, có tính bền vững với nhiệt độ. Nhiều loài có thể phát triển ở nhiệt độ cao, cả trong các suối nước nóng (70 - 80°C). Tảo phát triển mạnh ở nhiệt độ cao (vào các tháng nóng trong năm) (Nguyễn Lân Dũng & ctv, 2012).

Với các Tảo lam ở nước ngọt, nhiệt độ phát triển thích hợp là 30°C. Tảo lam có thể chịu được nhiệt độ cao như vậy là nhờ trạng thái keo đặc biệt của chất nguyên sinh. Mặt khác, một số Tảo lam cũng có khả năng tồn tại ở nhiệt độ thấp (những tảo sống trong băng tuyết, hay ở Nam cực, nhiệt độ tới -83°C vẫn tìm thấy một lượng lớn tảo Nostoc). Tảo lam cũng gặp ở các hồ, vũng ven biển có độ mặn cao do quá trình bốc hơi nước. Một số Tảo lam có thể tiến hành quang hợp trong môi trường yếm khí tương tự như vi khuẩn (http://thuviensinhhoc.com/).

2.3.2 Phân loại

Theo hệ thống phân loại của Bergey (1994) thì có 160 giống, 1500 loài và

được xếp vào 5 bộ khác nhau khá rõ rệt về hình thái.

a. Bộ Chroococcales: Hình que hoặc hình cầu đơn bào, không có dạng sợi hay dạng kết khối (aggregate); phân đôi hoặc nẩy chồi; không có dị tế bào (heterocytes). Hầu hết không di động. Các chi tiêu biểu là: Chamaesiphon, Chroococcus, Gloeothece, Gleocapsa, Prochloron.

b. Bộ Pleurocapsales: Hình que hoặc hình cầu đơn bào, có thể tạo dạng kết khối (aggregate); phân cắt nhiều lần tạo ra các baeocytes; không có dị tế bào.Chỉ có các baeocytes là có di động. Các chi tiêu biểu là: Pleurocapsa, Dermocapsa, Chroococcidiopsis.

c. Bộ Oscillatorriales: Dạng sợi (filamentous) ; dạng lông (trichome) không phân nhánh chỉ có ở các tế bào dinh dưỡng; phân đôi trên mặt phẳng, có kiểu đứt đoạn (fragmentation); không có dị tế bào; thường di động. Các chi tiêu biểu là: Lyngbys, Osscillatoria, Prochlorothrix, Spirulina, Pseudanabaena.

d. Bộ Nostocales: Dạng sợi; dạng lông (trichome) không phân nhánh có thể chứa các tế bào biệt hoá (specialized cell) ; phân đôi trên mặt phẳng, có kiểu đứt đoạn tạo thành đoạn sinh sản (hormogonia) ; có tế bào dị hình ; thường di động có thể sản sinh bào tử màng dày (akinetes). Các chi tiêu biểu là : Anabaena, Cylindrospermum, Aphanizomenon, Nostoc, Scytonema, Calothrix.

13

e. Bộ Stigonematales:Lông (trichome) dạng sợi, phân nhánh hoặc do các tế bào nhiều hơn một chuỗi tạo thành ; phân đôi theo nhiều mặt phẳng, hình thành đoạn sinh sản (hormogonia) ; có tế bào dị hình ; có thể sản sinh bào tử màng dày

( alkinetes), có hình thái phức tạp và biệt hóa (differentiation). Các chi tiêu biểu là : Fischerella, Stigonema, Geitlerinema.

* Một số đại diện phân bố ở các thủy vực ngọt, lợ, mặn

- Tảo lam cầu (Microcystis): với 20-25 loài rất khó xác định, tế bào hình cầu bé tập hợp thành tập đoàn hình cầu hay hình trái xoan. Phần lớn các loài sống trôi nổi trong nước ngọt hay nước mặn; trong các ao hồ có khi chúng tạo thành một lớp như phấn xanh rắc trên mặt nước (Lam Mỹ Lan, 2000). Nước chứa nhiều tảo này có thể làm chết cá vì một số loài tiết ra chất độc (M. aeruginosa).

- Tảo bèo dâu (Anabaena azollae): tảo đa bào hình chuỗi hạt, thỉnh thoảng có xen lẫn các tế bào dị hình. Thường sống trong khoang lá bèo hoa dâu. Tảo này có khả năng cố định đạm nên tổng hợp được nhiều nitơ cho bèo, dùng làm phân xanh và thức ăn nuôi gia súc rất tốt. Thuộc chi Anabaena có tới 100 loài phân bố rộng cả trong nước và trên mặt đất, nhiều loài có khả năng cố định đạm khí quyển và gây nên hiện tượng “nước nở hoa” (Nguyễn Thị Phi Oanh, 2012).

- Tảo chuỗi ngọc (Nostoc): có hình chuỗi hạt với các tế bào dị hình như Anabaena, nhưng bên ngoài các chuỗi có bao chất nhày. Thường gặp ở ruộng lúa, trên bãi cỏ hay trên đất ẩm. Có tới 50 loài khác nhau (Huỳnh Thị Kim Ngân, 2011). Nhiều loài cũng có khả năng cố định nitơ tự do.

- Tảo dao động (Oscillatoria): sợi tảo cấu tạo bởi các tế bào hình chữ nhật dẹt nối tiếp nhau, sợi không có bao, đầu sợi có cử động dao động. Tảo sống thành từng đám màu lục đen ở trên đất ẩm hoặc các cống rãnh nước bẩn. Oscillatoria là một chi lớn có trên 100 loài (Komarek J.,Anagnostidis K.,1999), phân bố rộng cả ở nước mặn, ngọt.

- Tảo lam xoắn (Spirulina): đa bào hình sợi xoắn ốc. Loài S. platensis hiện đang được gây nuôi nhiều vì có hàm lượng protein rất cao (trên 60% khối lượng khô) với nhiều axit amin không thay thế và vitamin (Dương Đức Tiến, 1996).

2.3.3. Đặc điểm hình thái

Tảo lam sống đơn bào riêng rẽ hoặc liên kết lại thành tộc đoàn hoặc đa bào

dạng sợi. Hình dạng tế bào Tảo lam có thể chia thành hai kiểu:

- Tế bào dạng hình cầu, hình elip rộng, hình quả lê, và hình trứng.

- Tế bào kéo dài về một phía: hình elip kéo dài, hình thoi, hình ống.

- Dạng đơn bào: hình cầu, hình elip rộng, hình quả lê, hình trứng.

14

- Dạng tộc đoàn: gồm nhiều tế bào liên kết lại với nhau nhờ chất nhầy. Tộc đoàn có thể từ 2 đến 8 tế bào như ở Chroococcus, hay nhiều tế bào như Microcystic, Aphanocapsa. Hình dạng của tộc đoàn khác nhau: hình cầu, hình elip, hình trụ, hình

bàn, hình khối, và thông thường nhất là hình thành tộc đoàn không có hình dạng nhất định như ở Microcystis. Ở Merismopedia các tế bào xếp thành những bản mỏng như hình tấm sáo (Desikachary, 1959).

- Đa bào dạng sợi: là dạng đơn giản của tản đa bào, có cấu trúc sợi đơn độc có bao và không bao hoặc gồm nhiều sợi dính với nhau nhờ lớp gelatin hoặc chất nhầy bao quanh (Vũ Ngọc Út, Dương Thị Hoàng Oanh, 2013).

- Thường Tảo lam dễ nhận diện được dưới kính hiển vi quang học bởi màu xanh lam đặc trưng do chứa các sắc tố diệp lục tố a, caroten, xanthophyl, c- phycocyanin và c-phycoerythrin. Trong đó hai sắc tố phụ c- phycocyanin và c- phycoerythrin làm cho tảo thường có màu lam (Phạm Hoàng Hộ, 1972). Hơn nữa do chất nhân và sắc tố chưa có hình dạng nên dưới kính hiển vi với số phóng đại nhỏ tế bào gần như có cấu trúc đồng nhất. Ở các tảo lam phiêu sinh như Microcystis, Anabaena, Coelosphaerium dưới kính hiển vi với số phóng đại lớn, quan sát được các không bào khí, thường có màu hơi đen hay đỏ tím (Schopf J.W, 1993).

* Dị bào

Dị bào là tế bào đặc biệt có ở Tảo lam sợi chúng có khả năng cố định đạm, chúng cố định nitơ trong không khí bởi enzyme nitrogenase. Nitrogenase bị bất hoạt bởi oxy nên Tảo lam chỉ cố định nitơ trong môi trường kị khí.

* Tản của Tảo lam : Ở thực vật bậc thấp, cơ quan dinh dưỡng chưa có sự

chuyên hóa thành các mô, cơ thể của chúng được gọi là tản.

Tản đơn bào

Tản có thể có hình cầu, hình bầu dục... sống đơn độc hay sống chung với nhau thành một khối gọi là tộc đoàn. Tộc đoàn có thể sống trôi nổi như Microcystis hoặc đính trên thực vật khác.

Tản hình sợi

- Sợi thường đơn, do các tế bào giống nhau xếp nối tiếp nhau thành một hàng

như Oscillatoria, Lyngbya...

15

- Sợi có thể trần như Oscillatoria hay ở trong một bao nhầy (gaine) như Lyngbya. Bao có thể bao quanh tộc đoàn, đơn bào, sợi. Cấu tạo chính là đường đa hoà tan được. Bao có thể rất mỏng (không nhận ra) hoặc rất dày, mềm hoặc cứng, có lớp song song hoặc phân tán (divergent), trong suốt hoặc có màu (nâu, vàng, đỏ...) tùy theo môi trường. Bao có màu khi có nhiều ánh sáng và không màu khi thiếu ánh sáng, ngoài ra có màu lam khi môi trường kiềm, đỏ hoặc tím khi axit và vàng hoặc nâu khi nhiều muối hoặc khi tản bị khô héo. Tản có thể do nhiều sợi dính nhau, làm thành lông mịn trên đá ở Calothrix, miếng như ở Symploca dề mỏng như Brachytrichia, khối như Nostoc.

- Sợi có thể hẹp dần về phía đuôi đến khi gần như không còn chất tế bào như lông, tóc. Ví dụ các giống của họ Rivulariaceae.Trên sợi, ngoài tế bào dinh dưỡng còn có thể có nhiều loại tế bào khác như dị bào nang (Heterocytes), bào tử nghỉ (akinetes).

- Sợi có thể phân nhánh: (có 3 kiểu phân nhánh) (Phạm Hoàng Hộ, 1967).

2.4. Môi trường sống của Tảo lam

Tảo lam có sức sống rất dẽo dai, chúng hiện diện trong tất cả môi trường: trên giá thể (trên mặt bùn của ruộng, mương; trên vỏ cây ẩm, trên các viên đá...), trong nước, trong không khí... (Phạm Hoàng Hộ, 1967). Ngay cả những nơi có điều kiện rất khắc nghiệt suối nước nóng (trên 70 oC) hay trên những vùng núi tuyết...

Bùn của ruộng, rạch là nơi mà ta gặp nhiều Tảo lam (Oscillatoria, Phormidium). Chính bùn các đường mương, nơi chứa rất nhiều chất hữu cơ cũng là môi trường tốt cho Tảo lam phát triển. Mặt đất là nơi sống của nhiều Tảo lam như Nostoc commune, Schizothrix, Porphyrosiphon, nhất là các đất ẩm ướt, các đất sét.Các chân tường, sân gạch, sân xi măng thường ẩm (gần vòi nước hay mùa mưa) cũng bị Tảo lam (Scytonema) xâm chiếm, làm thành một lớp nhung dễ trợt. Các vỏ cây cũng chứa nhiều Scytonema (Dầu, Còng,..) (Phạm Hoàng Hộ, 1967). Ở trong các vũng nước, ta gặp nhiều Microcoleus. Trên các viên đá cứng, trọc, dựa biển ta gặp Calothrix pilosans ở trên cao, rồi đến Brachytrichia maculans (như mực đen), Lyngbya lutea,..

Nhiều Tảo lam sống trong nước (phiêu sinh thực vật) như Aphanocapsa, Chroococus Anabaena, Oscillatoria,... ở nước ngọt. Đáng chú ý là một số rong sống trên mặt nước, làm thành những bọt lục xanh, thường các bọt này do Spirulina làm ra hoặc màu lam đậm do Oscillatoria, Microcystis hay Aphanizomenon (Nguyễn Thanh Tùng, 1967). Nhiều khi có nguyên lớp mặt trên ao, hồ, có màu xanh hay đỏ: đó là do nhiều rong khác như Volvocales, Xanthophyceae hay Euglena).

2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân bố và phát triển của Tảo lam

Theo Reynolds (1984), việc hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân bố và xác định tốc độ phát triển của các nhóm tảo đặc biệt là nhóm tảo lam với các điều kiện thực nghiệm khác nhau thì rất hữu ích cho giải pháp kiểm soát sự phát triển của nhóm Tảo này.

2.5.1. Yếu tố thủy, lý, hóa

* Nhiệt độ

16

Tảo lam và vi khuẩn là hai nhóm có khả năng chịu đựng nhiệt độ rất cao. Nhiều loài Tảo lam sống trong nước nóng 65-680C cho đến các suối nước nóng có nhiệt độ đến 870C vẫn còn có Tảo lam sinh sống (Phạm Hoàng Hộ, 1967). Nhờ đặc

tính này mà Tảo lam có thể phân bố ở nhiều nơi mà các loài Tảo khác không sống được, trong không gian rất rộng từ vùng ôn đới cho đến nhiệt đới.

Theo Hoogenhout và Amesz (1965); Reynolds (1984), tốc độ phát triển của tảo lam luôn luôn kém hơn các nhóm tảo khác. Ở nhiệt độ 200C, ánh sáng bão hòa, trong một ngày phần lớn Tảo lam có hệ số phân đôi từ 0.3 – 1.4, trong khi đó ở tảo khuê là 0.8 – 1.9 và ở tảo lục đơn bào là 1.3 - 2.3. Với tốc độ phát triển chậm nên Tảo lam thường nở hoa sau các nhóm Tảo khác.

Theo Sastry (1988), ở nhiệt độ 250C phần lớn tảo lam có tốc độ phát triển cao nhất, nhiệt độ này cao hơn nhiệt độ tối ưu của nhóm tảo Lục và Tảo Khuê. Điều này giải thích tại sao phần lớn tảo lam nở hoa trong suốt mùa hè.

* Độ mặn (độ muối)

Một số Tảo lam có thể sống trong cả nước ngọt hay nước biển. Trong các đầm dựa biển, Pilai (1954) đếm dược 7 loài Tảo lam chịu được nồng độ muối cao. Trong các ruộng muối, Microcoleus và Spirulina sống tạo thành một lớp ở đáy. Loài Lyngbya aesluarii sống được cả ở nước biển và nước ngọt.

* pH

Tảo lam có thể sống được ở nhiều nồng độ pH khác nhau. Nhiều Oscillatoria có thể sống trong nước đầy C02; trong nước nhiều acid (SO2) có loài Cyanidium (Phạm Hoàng Hộ, 1967). Tuy nhiên, pH dường như là nhân tố có thể giới hạn sự phân bố của Tảo lam, chúng có thể phân bố thuận lợi trong môi trường trung tính đến kiềm, và ít phân bố trong môi trường pH thấp (Vũ Ngọc Út, Dương Thị Hoàng Oanh, 2013).

Sự biến động pH trong ao nuôi thủy sản phụ thuộc rất nhiều vào mật độ tảo có

trong ao nuôi (www.pir.sa.gov.au).

* Ánh sáng

Theo Lê Văn Cát (2006), ánh sáng có vai trò quan trọng cho tảo phát triển. Nhiều ánh sáng kết hợp với dinh dưỡng cao tạo điều kiện cho tảo phát triển mạnh. Kết hợp với cát nền (silicates) cho kết quả là tảo nâu phát triển dữ dội hơn nưã. Kết hợp với Phosphates cho kết quả là tảo lam và tảo đỏ phát triển mạnh. Ánh sáng được xem như một chất xúc tác, kiểm soát ánh sáng và dinh dưỡng là cách tốt nhất giải quyết các vần đề về tảo trong hồ. Đơn vị đo cường độ ánh sáng là lux hay lumen, đây là một chỉ số rất quan trọng vì 1 đơn vị tối thiểu ánh sáng chỉ đi được khoảng 7 cm dưới nước.

17

Sự có mặt của tảo trong ao hồ tự chúng cũng điều hòa về mức độ ánh sáng trong nước. Ví dụ khi mật độ tảo cao sẽ che chắn bớt ánh sáng và hãm lại sự phát triển tiếp theo của tảo, quá trình quang hợp kém đi, ít sinh ra oxy. Quá trình đó được

gọi là tạo ra “bong mát”. Quá trình tạo bóng mát cũng ảnh hưởng đến thành phần loại tảo trong ao hồ. Ví dụ, dưới điều kiện “bóng mát” loại Tảo lam phát triển được dưới điều kiện thiếu ánh sáng vì vậy tỉ trọng của chúng tăng lên. Một số loài tảo khi bị thiếu ánh sáng sẽ tìm cách nổi lên trên mặt nước bằng cách làm giảm khối lượng riêng của tế bào để thu được nhiều ánh sáng.

* Độ trong

Độ trong suốt của nước là khả năng ánh sáng mặt trời xuyên qua nó, khả năng cản những tia nắng mặt trời của nước là độ vẫn đục. Hai đặc tính này của nước tỷ lệ nghịch với nhau và phụ thuộc vào lượng keo khoáng, vật chất hữu cơ lơ lửng, sự phát triển của các vi tảo, sóng gió thủy triều và lượng mưa đổ vào thủy vực. Độ trong suốt và độ vẫn đục của nước ảnh hưởng đến cường độ chiếu sáng của mặt trời vào thủy vực nên có ảnh hưởng đến cường độ quang hợp của thực vật phù du, đặc biệt là tảo sẽ bị giảm. Độ trong quá cao nước sẽ nghèo dinh dưỡng, sinh vật phù du kém phát triển, hạn chế thành phần thức ăn của Tôm, Cá. Nhưng khi độ trong quá cao kết hợp với ao cạn, thì ánh sáng mặt trời chiếu thắng đến đáy ao do đó sự quang hợp của rong, tảo diễn ra mạnh, dẫn đến sự phát triển của rong, tảo ngày càng nhiều (Phạm Văn Thương, et al., 2013). Đĩa Secchi là một công cụ quan trắc đơn giản để đo độ trong của nước, thông qua đó ta có thể biết được phần nào mức độ ô nhiễm của nước (Nguyễn Thị Ben, 2011).

* Độ kiềm

Theo Chanratchakool (2003), độ kiềm của nước là số đo tổng của carbonat và bicarbonat, chúng có tác dụng trong nước thông qua khả năng làm giảm biến động pH. Các nguyên nhân làm độ kiềm trong ao nuôi thủy sản giảm thấp có liên quan đến độ mặn nước ao thấp, đất phèn, thay nước ít và phiêu sinh thực vật đặc biệt là tảo phát triển quá dày, thực vật phiêu sinh cần CO2 (vào ban ngày để sử dụng cho quá trình quang hợp) có nguồn chủ yếu từ carbonat và bicarbonat. Độ kiềm giữ vai trò làm hệ đệm giúp giữ cho pH ổn định và duy trì tốt sự phát triển của các sinh vật phù du và kể cả tôm.

2.5.2. Yếu tố dinh dưỡng

18

Để phát triển tảo lam cũng như các loài tảo khác cần tới 12 nguyên tố đa lượng và 8 nguyên tố vi lượng. Tất cả các nguyên tố trên được tảo hấp thu từ môi trường nước (còn gọi là sự đồng hóa). Những chất cần thiết này tồn tại trong nước với nồng độ rất khác nhau, biến động liên tục và tỉ lệ giữa chúng cũng thay đổi, vì vậy tỉ lệ giữa các loài tảo trong ao hồ cũng thay đổi theo thời gian. Giả sử trong một ao hồ nào đó có đầy đủ mọi chất cần thiết trừ một chất nào đó, thì khi đưa thêm chất thiếu đó vào tảo sẽ phát triển nhanh, tuy vậy nếu vượt quá nhu cầu thì có thể có tác dụng

gây độc. Sự phát triển của tảo chỉ thích hợp trong một khoảng nhất định nào đó, giống như trong trường hợp của cường độ ánh sáng (Lê Văn Cát, 2006).

Theo nghiên cứu của Sze (1981), trên sông Potomac, quần thể tảo phát triển dọc theo dòng chảy, Tảo Khuê có kích thướt nhỏ với tốc độ sinh trưởng nhanh phát triển ở đầu nguồn nơi có dòng chảy mạnh có ít chất dinh dưỡng, kế tiếp chúng được thay thế bởi nhóm tảo có tốc độ sinh trưởng chậm hơn là Tảo Khuê có kích thước lớn hơn và tảo Lục, cuối cùng nơi dòng chảy chậm mang nhiều chất dinh dưỡng thì Tảo lam phát triển.

Ngoại trừ Tảo lam, các nhóm tảo khác bị ăn bởi các nhóm Copepoda, Daphnia và Protozoa, trong khi đó Tảo lam chỉ bị tấn công bởi virus, vi khuẩn và actinomycetes mà các nhóm này có rất ít và luôn bị hạn chế ở các thủy vực nuôi. Như vậy, vì có ít kẻ thù, vì khả năng tự phục hồi quần thể tránh sự lắng đọng cao nên mặc dù Tảo lam có tốc độ phát triển chậm nhưng tốc độ suy giảm quần thể thấp và có sự ổn định mật độ quần thể cao hơn các nhóm tảo khác (Nguyễn Thị Thanh Thảo, 2005).

Sự nở hoa của tảo, đặc biệt ở nghiên cứu này là Tảo lam có thể kiểm soát thông qua việc xác định chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của chúng. Điều cơ bản cho sự phát triển của Tảo lam và các loài tảo khác trong thủy vực là sự phú dưỡng mà chủ yếu là nhân tố phosphorus, nitrogen và ánh sáng.

Trong cùng một thời điểm, dường như chỉ cần hạn chế 1 trong 3 nhân tố trên là có thể giới hạn sinh khối của Tảo lam hay các tảo khác. Tuy nhiên, các nguồn giới hạn này có thể thay đổi theo mùa. Khi cường độ ánh sáng gia tăng trong mùa xuân hoặc khi thủy vực trở nên trong hơn, các nhóm tảo bắt đầu nhân đôi và kết hợp chặt chẽ với nitrogen và phosphorus sẵn có trong thủy vực để tạo thành sinh khối của chúng và tiếp tục nâng cao sinh khối này đến khi các nguồn này ngày càng cạn kiệt. Nếu nồng độ chất dinh dưỡng cao, tảo phát triển mạnh làm độ đục gia tăng và lúc này ánh sáng trở thành nhân tố giới hạn cho sự phát triển của tảo (Gross, 1988). Như vậy việc đánh giá xác định đúng nguồn nhân tố giới hạn từ 3 nguồn trên là điều cần thiết cho việc quản lý sự phát triển của tảo.

Theo Round (1975), bất kỳ một nhóm ngành tảo nào phát triển chiếm ưu thế đều liên quan đến khả năng dự trữ nitrogen và phosphorus, tỷ lệ số lượng của các chất dinh dưỡng cho sinh khối tảo cũng được Round xác định và được xem là một tỷ lệ thực nghiệm tốt, C:H:O:N:P bằng 42:8,5:57:7:1.

* Nguồn Carbon

19

Carbon có sẵn trong thủy vực ở dạng CO2 chúng được tiêu thụ bởi quá trình quang hợp, sự tiêu thụ CO2hòa tan làm tăng quá trình khuếch tác CO2 từ không khí vào nước để bù vào. Về khả năng giới hạn này, CO2 có tác động mạnh trong thủy

-thấp. Nhưng môi trường với điều kiện như vậy chỉ vực nước mềm có độ kiềm HCO3 tồn tại trong thời gian ngắn và không thể duy trì việc giới hạn sinh khối tảo (Reynolds, 1997).

Theo Ball (1945), nghiên cứu thủy vực tự nhiên không có bón phân hoặc không bị ô nhiễm do tác động của con người cho thấy sức sản xuất của thủy vực tăng khi độ kiềm tăng nhưng không có nghĩa độ kiềm tăng thì dẫn đến nồng độ carbon tăng và vì vậy sức sản xuất sơ cấp của thủy vực tăng. Sức sản xuất sơ cấp của thủy vực có mối quan hệ chặt chẽ đối với hàm lượng nitrogen và phosphorus nhiều hơn là sự khác biệt của nồng độ CO2 và độ kiềm.

* Nguồn Nitrogen

Nitrogen có thể đi vào thủy vực từ đất, hoặc từ sự cho ăn quá dư thừa, và từ việc phân hủy chất hữu cơ trong thủy vực. Tảo lấy Nitrogen hòa tan vô cơ ở dạng nitrate, nitrite và amonia. Theo Reynolds (1997), trong những vùng đất acid, nitrogen được xem là nhân tố chủ yếu để giới hạn sự phát triển của tảo. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến không xem nitrogen là yếu tố giới hạn sự phát triển của Tảo lam vì một số giống, loài Tảo lam (Aphanizomenon, Anabaena,...) có thể lấy nitơ từ không khí để bù vào việc thiếu hụt nito cho quá trình phát triển của chúng, nhưng những giống loài này chỉ xuất hiện khi môi trường dư thừa nito. Quan trọng hơn quá trình cố định nito đòi hỏi năng lượng ánh sáng cao và sẽ không có hiệu quả đối với thủy vực bị đục do mật độ tảo quá dày bởi hiện tượng nở hoa.

* Phosphorus

Phosphorus có từ việc phân hủy chất thải hữu cơ ở nền thủy vực, phosphorus là dạng phosphate sinh học sẵn có nó gắn kết với keo đất chặt hơn nitrate.Vì vậy, nguồn phosphorus chủ yếu đi vào thủy vực từ đất như đất bề mặt rửa trôi và sự xói mòn. Mặc dù tỷ lệ P:N cần thiết cho sinh khối tảo phát triển chỉ là 1:7 nhưng phosphorus cần hơn nitrogen và nó là nhân tố giới hạn chủ yếu cho sự phát triển của tảo. Tảo lam và nhiều giống, loài tảo có khả năng thu nhận và dư trữ phosphate cho cơ thể chúng. Chúng có thể chứa phosphate đủ cho 3-4 lần phân chia, kết quả là một tế bào có thể phân chia thành 8-16 tế bào mà không cần thu nhận phosphate và sinh khối của chúng có thể tăng gấp 10 lần hay hơn nữa khi phosphate hòa tan hầu như cạn kiệt. Trong phần lớn các thủy vực phosphorus và nitrogen là hai nhân tố dinh dưỡng cần thiết để hạn chế sự phát triển của tảo mà trong đó phần lớn người ta dùng phosphorus là nhân tố giới hạn chủ yếu (Hutchison, 1967).

20

Một nghiên cứu về yếu tố dinh dưỡng hạn chế sự phát triển của tảo trên 49 hồ ở Mỹ, thì thấy rằng Nitrogen là nhân tố giới hạn tảo ở 8 hồ trong khi đó Phospho là nhân tố giới hạn tảo ở 35 hồ và các yếu tố dinh dưỡng khác thì hạn chế 6 hồ còn lại. Cũng trong nghiên cứu trên cho thấy trong nước ngọt, Phospho thường được dùng

chủ yếu hơn Nitrogen, nhưng cả hai yếu tố dinh dưỡng Phospho và Nitrogen đều được xem là nhân tố giới hạn tảo ở môi trường nước mặn (Smith V. H, 1983).

* Tỷ lệ N:P và Tảo lam

Theo Schindler (1997) và Smith (1983), việc xác định tỷ

lệ nitrogen:phosphorus là quan trọng để biết được khi nào tảo lục hoặc tảo lam phát triển vào mùa hè. Một cách tổng quát, tế bào đòi hỏi khoảng 10-15 nguyên tử nitrogen cho mỗi nguyên tử phosphorus. Khi N:P cao, tức phosphorus của môi trường thấp, tế bào đòi hỏi cung cấp phosphorus, lúc này tảo Lục chiếm ưu thế hơn các nhóm tảo khác bởi khả năng sinh trưởng cao của chúng. Khi tỷ lệ N:P thấp một số loài Tảo lam có thể phát triển mạnh vì chúng có khả năng tổng hợp nitrogen từ khí trời.

Seymour (1980), đề nghị thay đổi tỷ lệ nitrogen:phosphorus để ngăn chặn sự phát triển của Tảo lam, tuy nhiên, theo Smith (1983), điều này ảnh hưởng đến thành phần giống loài của tảo mà ít có tác động cải thiện tình trạng thiếu oxy do sự nở hoa của chúng gây nên. Tảo lam dường như chết đột ngột nhiều hơn và gây mùi hôi nhiều hơn các tảo khác, cho nên việc tìm ra tỷ lệ nitrogen:phosphorus để ngăn chặn sự phát triển của Tảo lam là cần thiết.

Theo Luuc và ctv (1999), Tảo lam có mối quan hệ chặt chẽ với nồng độ nitrogen và phosphorus trong thủy vực hơn là các tảo khác. Điều này có nghĩa là chúng có thể canh tranh mạnh hơn các nhóm tảo khác ở điều kiện môi trường nitrogen và phosphorus bị giới hạn.Hơn nữa, Tảo lam có khả năng dự trữ phosphorus một cách đáng kể, chúng có thể chứa đủ lượng phosphorus để thực hiện phân chia tế bào để gia tăng sinh khối. Tỷ lệ nitrogen:phosphorus thấp có lẽ thuận lợi cho sự nở hoa của Tảo lam.

2.6. Tảo lam trong các thủy vực

a. Tảo lam trong thủy vực ruộng lúa (nước ngọt)

Ruộng lúa là loại hình thủy vực khá đặc biệt, mực nước biến đổi theo mùa vụ trồng lúa, nước nông, nền đáy mềm, đất thịt. Số lượng sinh vật nổi và sinh vật đáy ruộng lúa phụ thuộc chủ yếu vào mực nước cho nên diễn biến số lượng thủy sinh vật mang tính mùa vụ khá rõ rệt.

21

Thành phần loài tảo ở ruộng lúa nước vùng đồng bằng chủ yếu là Tảo lam, các loài nhiệt đới và cận nhiệt đới, các chi Anabaena, Nostoc, Aulosira, Gloeotrichia, Aphanothece, Spirogyra, Mougeotia, Surirella, Gomphonem (Hồ Thanh Hải, 1993).

b. Tảo lam trong thủy vực là ao nuôi thủy sản (nước lợ)

Trong các hồ ao vùng đồng bằng, các loài tảo nhiệt đới càng phát triển phong phú, nhất là các nhóm loài Microcystis, Anabaena, Merismopedia, Coelosphaerium, Scenedesmus, Pediastrum, Ankistrodesmus, Cryptomonas, Gloeocapsa,…

Theo thống kê sơ bộ của Hồ Thanh Hải, 1993, nhóm tảo lục (Clorophyta) có 113 loài, vi khuẩn lam (Cyanobacteria) có 32 loài phát triển mạnh nhất, tảo Silic, tảo giáp, tảo mắt kém phát triển hơn. Trong các ao vùng đồng bằng, thành phần loài tảo không khác ở hồ, do điều kiện tương tự giữa ao và hồ nhỏ. Thành phần loài tảo ở ao có thể thay đổi theo mùa hoặc theo chế độ bón phân ở các ao nuôi cá hoặc theo độ pH của nước ao

Tảo lam có thể kết khối và phát triển nhanh trong ao nuôi thủy sản. Các yếu tố ảnh hưởng phát triển của Tảo lam bao gồm dinh dưỡng, độ mặn, điều kiện sáng, độ đục, nhiệt độ, sự phối trộn nước, hàm lượng thức ăn cho các loài thủy sản và các loài ăn thực vật. Trong ao nuôi thủy sản, các loài tảo thượng đẳng Eukaryotic (tảo lục, Tảo Khuê) thường tăng trưởng nhanh hơn Tảo lam. Tuy nhiên, tảo lam có thể cạnh tranh dinh dưỡng, tăng trưởng ở oxy hòa tan thấp và có thể quang hợp ở điều kiện ánh sáng thấp. Tảo lam ít bị ảnh hưởng bởi độ đục, ít bị ảnh hưởng bởi ammonia cao và bởi nhiệt độ cao. Tảo lam có thể phát triển tốt khi ở môi trường phú dưỡng, ảnh hưởng đến phiêu sinh động và động vật thủy sản.

Tảo lam có thể tiết ra các hóa chất ức chế các loài tảo cạnh tranh và các loài ăn thực vật thuộc nhóm không xương sống. Có bằng chứng là Tảo lam và độc tố của Tảo lam (gồm độc tố thần kinh và độc tố gan tụy) ảnh hưởng lên cấu trúc quần đàn phiêu sinh động vật (giáp xác và luân trùng) và điều này ảnh hưởng đến các đáp ứng sinh lý cho sự thành công của Tảo lam. Phiêu sinh động vật thông thường không chọn Tảo lam làm nguồn thức ăn, nghĩa là phiêu sinh vật phải ăn các loài tảo khác cạnh tranh với Tảo lam và trong tiến trình này chúng phóng thích dinh dưỡng làm kích thích tăng trưởng Tảo lam.

Vì vậy, khi Tảo lam bùng nổ sẽ làm nguồn thức ăn của phiêu sinh động vật giảm, làm giảm quần đàn phiêu sinh động vật. Một số phiêu sinh động vật thích nghi được trong điều kiện của một số loài tảo độc (như Daphnia pulicaria, Daphnia pulex). Áp lực thức ăn của các loài phiêu sinh động vật thích ứng được Tảo lam sẽ bị giảm do các loài cá ăn phiêu sinh động vật và điều này lại kích thích Tảo lam phát triển (Trần Văn Vĩ, 1995).

2.7. Ý nghĩa của Tảo lam

22

2.7.1. Trong nông nghiệp

Trong nông nghiệp, vai trò quan trọng của Tảo lam là làm tăng độ phì cho đất nhờ khả năng cố định đạm. Người ta đã nghiên cứu tìm ra được khoảng 152 loài Tảo lam có khả năng cố định đạm.

Ở nước ta trong số 238 loài Tảo lam đã biết có 24 loài Tảo lam có khả năng quý báu này (Đặng Đình Kim, 1998). Ðặc biệt đáng chú ý là loài Anabaena azollae cộng sinh trong bèo hoa dâu, một loại cây dùng làm phân xanh và làm thức ăn gia súc có ý nghĩa kinh tế rất lớn ở nước ta. Việc sử dụngTảo lam cố định N2 sống tự do hay cộng sinh đóng vai trò rất to lớn trong việc bón phân cho đất, đặc biệt là cánh đồng lúa. Nếu dùng Tảo lam cố định đạm có thể giảm thiểu lượng phân bón cho lúa tới 15%. Trong mùa phát triển thích hợp Tảo lam có thể cố định được 20-30 kg N2/ha. Mặc khác, Tảo lam còn kích thích sự tăng trưởng của lúa thông qua các hoocmon do chúng bài xuất ra môi trường.(www.vietnamplus.vn).

2.7.2. Trong thủy sản

Theo tài liệu của Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh (2013), thì Tảo lam

ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với nghề nuôi trồng thủy sản, như sau:

- Tảo lam khi chết tạo thành nhiều mùn bã hữu cơ, là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều loại vi sinh vật phù du, sinh vật đáy và nhiều loại cá. Loại mùn do Tảo lam Anabaena và Microcystis khi chết tạo ra được coi là có giá trị dinh dưỡng cao. So với Tảo Lục và Tảo Khuê thì nó phân hủy chất hữu cơ của Tảo lam khi chết nhanh hơn (5-8 ngày) và có khối lượng lớn hơn (80% chất hữu cơ của Tảo lam thuộc loại dễ thủy phân), và chất hữu cơ này cũng được vô cơ hóa hoàn toàn hơn các tảo khác. Điều này chứng tỏ trong việc tạo thành và thay đổi thành phần sinh hóa học của bùn đáy ao hồ, Tảo lam đã phát huy vai trò tích cực của mình sau khi chết nhiều hơn khi còn sống.

- Dùng làm thức ăn cho tôm, cá: Tảo lam ít được sử dụng cho tôm, cá ăn, nhưng trong các thủy cực Tảo lam chiếm ưu thế chúng cũng được cá sử dụng làm thức ăn. Tổng kết kinh nghiệm nghề nuôi cá ở Trung Quốc cho biết 3 ngành Tảo mà cá mè trắng và cá mè hoa không thể ăn được là: Tảo lam, một số Tảo lục (Pediastrum, Eudorina) và Tảo mắt (Euglena). Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Prowse G.A (1966), ở cá mè trắng khi hiếm các tảo ưa thích chúng cũng ăn cả tảo lam, cá ăn thực vật có thể dùng Tảo lam trực tiếp, nhưng mức độ tiêu hóa của từng loại tảo có khác nhau, cá có thể tiêu hóa tốt Anabaenopsis, đối với Anabaena thì kém hơn, Microcystis thì hoàn toàn không thể tiêu hóa được.

23

- Ảnh hưởng của sự nở hoa Tảo lam đối với thủy vực và sinh vật: Trong điều kiện môi trường thuận lợi, nhiệt độ cao, ánh sáng mạnh (mùa hè) ở các thủy vực giàu dinh dưỡng, Tảo lam dễ dàng phát triển mạnh tạo thành sinh khối lớn. Nhiều giống loài Tảo lam dạng tộc đoàn hoặc dạng sợi trong cấu tạo có các túi khí,

do đó khi nở hoa chúng nổi đầy trên bề mặt nước tạo lớp váng dày đặc. Những chất do Tảo lam tiết ra, cũng như những sản phẩm phân hủy của chúng đều có hại. Do vậy sự nở hoa của Tảo lam bị coi như tai họa. Sinh khối của chúng đạt khá lớn (200-300g/m3). Chất độc của Tảo lam không những gây chết cá mà kể cả gia súc hay gia cầm đều bị ảnh hưởng (http://aquanetviet.org).

. Các giống loài hay gây hoa nước là: Microcystis, Anabaena, Oscillatoria,

Phormidium....chúng tạo thành váng có màu xanh sẫm hoặc màu rĩ đồng.

- Tảo lam nở hoa gây độc cho môi trường: Một số Tảo lam khi phát triển mạnh trong ao hồ, chúng gây độc cho môi trường nên ít có giá trị đối với nghề cá. Chúng gây độc đối với tôm cá, sinh vật phù du và các loại thủy sinh vật khác, gây thiếu oxy, phát triển các quá trình kỵ khí trong thủy vực. Hình thành các chất độc như phenol, indol, các khí độc như CO2, NH3, H2S,... làm nhiễm bẩn nước. Phát triển dày đặc làm cản trở hoạt động bơi lội của cá đặc biệt đối với tảo sợi, làm cho phần lớn cá bị chết ngay trong vùng có Tảo lam nở hoa.

- Nhiều loài cá, thủy sinh vật, động vật phù du bị chết do độc tố của Tảo lam tiết ra. Một số Tảo lam sống trôi nổi trong các thủy vực nước ngọt có khả năng sinh ra các độc tố. Các độc tố này có thể gây chết động vật có vú, chim và cá, nhưng chưa có báo cáo về người chết do độc tố của Tảo lam. Tảo lamAnabaena sản sinh ra độc tố Anatoxin gây kích thích căng cơ dẫn đến tê liệt. Microcystin và Nodularin là độc tố gan từ Tảo lam Microcystis và Nodularia. Ở biển Tảo Lynbya phóng thích độc tố Lynbyatoxin, aplysia gây viêm da và gây ngứa (Carmichael, W. W, 1981).

2.7.3. Trong các lĩnh vực khác (thực phẩm, y dược, công nghiệp, môi

trường...)

- Lọc sạch vực nước:

Theo Wilde & Benemann (1993), một số chủng vi tảo đã qua chọn lọc có tiềm năng lớn trong việc giảm ô nhiễm kim loại năng trong nước thải công nghiệp. Việc phát triển kĩ thuật cố định tế bào (Cell immobilization) là bước đột phá quan trọng trong công nghệ này.

Bảng 2.1: Kết quả nghiên cứu khả năng hấp phụ kim loại nặng của một số

vi tảo

Tảo Kim loại nặng

Hệ số nồng độ (nồng độ trong sinh khối/nồng độ trong nước thải)

24

Zn Zn, Cu, Cd 21.600 4.000 Tảo silic Chroococcus paris (Tảo lam) Chlorella pyrenoidosa

Chlorella sp. Cladophora glomerata Nhiều tảo khác

2.000.000 2.500 16.000 100.000 Cd Cu, Cd, Ni Pb Cd, Pb, Hg

(Nguồn: Wilde & Benemann, 1993)

- Cung cấp chất dinh dưỡng cho con người: Một số loài Tảo lam có hàm lượng Protein cao dùng điều chế được dược phẩm, thực phẩm chức năng nhằm cung cấp chất dinh dưỡng cho trẻ em, người bệnh (Nostoc commune, N. furiforme, Sprirulina platensis, S.maxima).

- Nguyên liệu cho thực phẩm và thức ăn gia súc: Tảo lam giàu vitamin và các chất có hoạt tính sinh học khác được dùng làm nguyên liệu trong thực phẩm và thức ăn gia súc.

thành nhiên liệu

- Tảo lam làm nhiên liệu sinh học: Các nhà khoa học thuộc Phân viện Los Angeles Đại học California, Mỹ, tiết lộ vừa nghiên cứu thành công loài Tảo lam chuyển đổi gen có khả năng biến CO2 lỏng. (www.vietnamplus.vn). Các lợi thế của việc sử dụng hydro sinh học làm nhiên liệu là thân thiện với môi trường thiên nhiên, hiệu quả sử dụng, khả năng tái sinh và không thải ra khí carbon dioxide trong quá trình sản xuất và sử dụng nó.

3. Mục tiêu

- Xây dựng được bảng danh mục và bộ sưu tập về hình ảnh Tảo lam nhằm làm

hình ảnh trực quan để phục vụ giảng dạy và học tập.

- Đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự đa

dạng thành phần loài và sinh vật lượng của Tảo lam.

4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu

4.1 Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu

4.1.1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu: Thu mẫu tảo lam vào hai mùa. Mùa nắng (tháng 3, 4, 5/2015), mùa mưa (7, 8, 9/2015). Mỗi mùa được thu lặp lại 3 lần tương ứng với 3 tháng thu mẫu. Tần suất thu mẫu 1 lần/tháng vào buổi sáng (8-10h) và gần cuối buổi chiều (15-16h) (với điều kiện thời tiết nắng không có mưa).

4.1.2. Địa điểm:

- Ao tôm ở Cầu Ngang và Duyên Hải (6 mẫu/6 ao)

- Ao nuôi cá lóc và cá thát lát ở Trà Cú (5 mẫu gồm: 02 mẫu/02 ao cá thát lát, 03 mẫu/03 ao cá lóc).

25

- Các ruộng lúa ở Châu Thành và Càng Long (5 mẫu gồm: 02 mẫu ruộng ở Châu Thành, 03 mẫu ruộng ở Càng Long).

Ký hiệu địa điểm: - Đ1, Đ2, Đ3 tương ứng với mẫu thu ở ao tôm gồm mẫu 1, 2, 3 tại Duyên hải. - Đ4, Đ5 tương ứng với mẫu thu ở ao cá thát lát gồm mẫu 4, 5 tại Trà Cú. - Đ6, Đ7, Đ8 tương ứng với mẫu thu ở ao cá lóc gồm mẫu 6, 7, 8 tại Trà Cú. - Đ9, Đ10, Đ11 tương ứng với mẫu thu ở ao tôm gồm mẫu 9, 10, 11 tại Cầu Ngang. - Đ12, Đ13 tương ứng với mẫu thu ở ruông lúa gồm mẫu 12, 13 tại Châu Thành. - Đ14, Đ15, Đ16 tương ứng với mẫu thu ở ruộng lúa gồm mẫu 14, 15, 16 tại Càng Long.

Bảng 1: Địa điểm được tiến hành khảo sát và thu mẫu tảo lam tại Trà Vinh

Mùa nắng

Mùa mưa

Tt

Địađiểm

Số mẫu

Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5

Tháng 8 Tháng 9

Địa điểm thu

Tháng 7

1

Ao tôm 1

Mẫu 1

Tôm thẻ 8 ngày

Tôm thu hoạch

Tôm thẻ 20 ngày

2

Tôm thẻ 5 ngày

Tôm thu hoạch

Tôm thẻ 20 ngày

Ao tôm 2

Mẫu 2

Duyên Hải

Tôm thẻ 1 tháng 20 ngày Tôm thẻ 1 tháng 20 ngày

3

Tôm thẻ 15 ngày

Tôm thẻ 10 ngày

Tôm thẻ 1 tháng

Tôm thẻ 2 tháng

Ao tôm 3

Mẫu 3

Tôm thẻ (1 tháng 10 ngày) Tôm thẻ (1 tháng 8 ngày) Tôm thẻ (1 tháng 24 ngày)

Tômthẻ (2 tháng 10ngày) Tôm thẻ (2tháng 8ngày) Tôm thẻ (2 tháng 24 ngày)

6 tháng

10 ngày

4

1 tháng 10 ngày

2 tháng 10 ngày

3 tháng 10 ngày

5 tháng 10 ngày

Mẫu 4

1 tháng

2 tháng

3 tháng

5 tháng

5

5 tháng 20 ngày

Ao thu hoạch

Mẫu 5

Trà Cú

1 tháng

2 tháng

3 tháng

10 ngày

1 tháng

2 tháng

6

1 tháng

2 tháng

1 tháng

2 tháng

3 tháng

7

Mới thả 10 ngày

20 ngày

8

1 tháng 10 ngày

2 tháng 10 ngày

3 tháng 10 ngày

Ao cá thát lát 1 Ao cá thát lát 2 Ao cá lóc 1 Ao cá lóc 2 Ao cá lóc 3

Mẫu 6 Mẫu 7 Mẫu 8

9

Ao tôm 1

Mẫu 9

Tôm sú 2 tháng

Tôm sú 3 tháng

Thu hoạch

Tôm sú 1 tháng

10

Tôm sú 3 tháng

Tôm sú 4 tháng

Ao tôm 2

Mẫu 10

Cầu Ngang

Tôm sú 2 tháng

Tôm sú mới thả 5 ngày

2 tháng 10 ngày Tôm sú 2 tháng 20 ngày Tôm sú 3 tháng 21 ngày

11

Thu hoạch

Tôm thu hoạch

Ao tôm 3

Mẫu 11

1 tháng 10 ngày Tôm sú 1 tháng 20 ngày Tôm sú 2 tháng 20 ngày Tômsú 2 tháng 21 ngày

15 ngày

12

Lúa thu hoạch

Tôm sú 2 tháng 1 ngày Không có mẫu

Ruộng lúa 1

Mẫu 12

Châu Thành

13

Lúa thu hoạch

Không có mẫu

Lúa 15 ngày

Ruộng lúa 2

Mẫu 13

Tôm sú 2 tháng 10 ngày Lúa được 2 tháng Lúa 1 tháng 24 ngày

Tôm sú 3 tháng 10 ngày Lúa được 3 tháng Lúa 2 tháng 24 ngày

1 tháng 15 ngày Lúa 1 tháng 15 ngày

26

14

Ruộng lúa 1

Mẫu 14

Lúa non 10 ngày

15

Ruộng lúa 2

Mẫu 15

Lúa thu hoạch

Càng Long

16

Ruộng lúa 3

Mẫu 16

Lúa thu hoạch

Lúa 2 tháng lúa 1 tháng 25 ngày Lúa 1 tháng 24 ngày

Lúa 3 tháng lúa 2 tháng 25 ngày Lúa 2 tháng 24 ngày

2 tháng 10 ngày Lúa 1 tháng 20 ngày Lúa 1 tháng 15 ngày

Lúa 3 tháng Lúa 2 tháng 10 ngày Lúa 2 tháng 5 ngày

Lúa đã gặt Lúa 3 tháng 10 ngày Lúa 3 tháng 5 ngày

4.2 Quy mô nghiên cứu

- Đề tài nghiên cứu được triển khai với qui mô cấp Trường.

- Địa bàn triển khai: Khảo sát thực tế và thu mẫu tại một số thủy vực ao nuôi thủy sản (tôm, cá), ruộng lúa thuộc các huyện Càng Long, Cầu Ngang, Châu Thành, Trà Cú, Duyên Hải.

4.3 Phương pháp nghiên cứu

4.3.1 Dụng cụ và hóa chất

- Lưới phiêu sinh thực vật định tính: là một lưới hình nón với đường kính miệng lưới thay đổi từ 30 cm. Miệng lưới được giữ bằng 01 vành cứng với sợi thừng cột lưới. Vải lưới lọc là nylon mỏng được thiết kế bằng các sợi đơn chịu nhiệt với kích thước mắt lưới không thay đổi. Lưới phiêu sinh có kích thướt khoảng 25µm thường được dùng trong các nghiên cứu phân loại tảo.

- Lưới phiêu sinh thực vật định lượng: được thiết kế thẳng đứng có chiều cao 60 cm, loại vải lưới là nylon Scrynel 30HD. Phần đầu được may vào một đoạn vải thường cao khoảng 4 cm, gắn vào một khung bằng kim loại đường kính 30 cm. Phần đáy gắn với một chai thủy tinh khoảng 30ml để thu lấy phần cặn.

- Chai đựng mẫu (12 ml).

- Ống nhỏ giọt, micropipette

- Lame, Lamelle

- Kính hiển vi quang học

- Nhiệt kế, đĩa secchi, máy đo độ mặn, bộ test kiềm, test pH.

- Xô nhựa (3-6 lít), ca nhựa, hộp nhựa (50 – 100 ml)

- Thùng xốp bảo quản chai đựng mẫu

- Dụng cụ khác (kéo, dây thun, túi nylon, keo giấy, bút lông dầu, giấy bóng

27

mờ, băng keo...).

4.3.2. Phương pháp nghiên cứu

- Đo đạc các chỉ tiêu môi trường tại nơi thu mẫu: + pH: đo bằng pH kế cầm tay + Độ trong: đo bằng đĩa secchi + Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế thủy ngân + Độ mặn: đo bằng mấy đo độ mặn cầm tay khi thu mẫu + Ánh sáng: máy đo cường độ ánh sáng cầm tay vào lúc thu mẫu - Thu 500ml nước cho vào hộp nhựa (trữ lạnh) dùng để phân tích hàm lượng

a. Ngoài thực địa: Các yếu tố thủy, lý và hóa của nước bao gồm độ mặn, độ trong, độ kiềm, pH, nhiệt độ và ánh sáng được đo trực tiếp bằng các thiết bị cầm tay tại hiện trường thu mẫu.

dinh dưỡng C, N, P.

- Ghi nhận ngày, giờ, địa điểm, điều kiện thời tiết và số thứ tự mẫu thu vào

nhật ký theo dõi

- Đối với mẫu dùng để định tính: Mẫu tảo được thu bằng cách dùng lưới phiêu sinh thực vật định tính có kích thước mắt lưới khoảng 25 µm, kéo lưới trên bề mặt nước, dọc theo bờ ao, ruộng (nơi có diện tích chứa nước tương đối thuận tiện cho việc thu mẫu) với thể tích nước qua miệng lưới càng nhiều càng tốt. Mẫu thu được cho vào chai thủy tinh 12 ml và cố định bằng formol 4%. (12 ml mẫu sẽ cho vào 1,2 ml formol 4%).

- Đối với mẫu được dùng để định lượng: Mẫu tảo được thu bằng cách thu nước ở các vị trí khác nhau của ao nuôi hoặc ruộng lúa cho vào xô 5 lít, khuấy đều và đổ qua lưới phiêu sinh thực vật định lượng cô đặc lại một thể tích nước nhất định (30 ml). Mẫu thu được cho vào hộp nhựa và cũng cố định bằng formol 4%. (30 ml mẫu sẽ cho vào 3 ml formol 4%) b. Trong phòng thí nghiệm

- Định tính: Sau khi thu, mẫu được cố định và được đem về Phòng thí nghiệm để lắng. Dùng pipet hoặc ống nhỏ giọt hút lấy phần cặn ở dưới đáy chai và cho lên lame, đậy lamelle lại (tránh bọt khí) sau đó mẫu được quan sát dưới kính hiển vi quang học ở vật kính có độ phóng đại là 10X, 40X và đo kích thước mẫu tảo bằng thước trắc vi thị kính. Dựa vào việc so sánh hình thái và kích thước tảo để xác định giống, loài và chụp hình mẫu. Việc định danh dựa vào tài liệu định loại của Desikachary (1959), Shirota A. (1966); Phạm Hoàng Hộ (1969) và Nguyễn Văn Tuyên (2003).

28

- Định lượng: Mẫu được đưa về phòng thí nghiệm để lắng, sau đó dùng micropippet hút 10 µl/1 lần đếm. Quan sát và đếm số lượng tế bào tảo lam dưới kính hiển vi ở vật kính 10X – 40X. Đếm 5 lần cho 1 mẫu và tính giá trị trung bình số lượng tảo lam cho 1 lần đếm/mẫu.

- Phân tích C, N, P

Hàm lượng C (đo bằng máy): mẫu được lọc sạch tạp chất, sau đó mẫu được bơm vào hệ thống máy phân tích để đốt ở nhiệt độ 1200oC, quá trình đốt tạo ra CO2, CO2 qua cột sắc ký thu được tín hiệu trên phần mềm máy tính tương ứng. Xác định tín hiệu thu được sau khi đốt. So sánh tín hiệu mẫu với tín hiệu chất làm chuẩn.

Hàm lượng N: mẫu được công phá với H2SO4 trên bếp nung ở nhiệt độ

300oC. Mẫu sau khi công phá hoàn toàn sẽ tiến hành chưng cất Kjeldahl.

Hàm lượng P: mẫu được công phá với H2SO4 trên bếp nung ở nhiệt độ 300oC. Mẫu sau khi công phá hoàn toàn sẽ tiến hành phản ứng tạo màu với các hóa chất thích hợp như: amoni molipdate 4%, potassium antimony tartarate, ascobic. Chất màu hình thành sẽ tiến hành đo ở máy so màu với bước sóng 882 nm.

* Độ đa dạng của loài được xác định qua chỉ số đa dạng (H’) của Shannon và

Weiner (1963), tính bằng công thức:

Trong đó,

n: số loài đếm được

pi = ni/N: tỷ lệ loài thứ i trên tổng số loài thu được tại điểm thu mẫu.

Giá trị H’ cao là sự kết hợp của sự đa dạng loài và sự cân bằng số lượng giữa

các loài tại địa điểm thu mẫu.

Chỉ số đa dạng (H’) của Shannon cso thể chỉ ra mức độ ô nhiễm trong môi

trường thủy vực:

+ H’ < 1: rất nhiễm bẩn

+ H’ từ 1 đến 2: nhiễm bẩn vừa mức α

+ H’ từ 2 đến 3: nhiễm bẩn vừa mức β

+ H’ từ 3 đến 4,5: nhiễm bẩn nhẹ.

(Nguồn: Nguyễn Thị Vân Hà, 2007)

c. Phương pháp đánh giá mối tương quan giữa thành phần loài, mật độ loài

tảo lam và các yếu tố môi trường:

29

- Dựa vào chỉ số tương quan (r):

Mối tương quan giữa 2 biến được phân loại thuận (r>0) và nghịch (r<0), mức độ tương quan phụ thuộc vào hệ số tương quan (r) như sau: |r|>0,8: Tương quan ở mức rất mạnh, |r| = 0,6-0,8: Mức mạnh, |r| = 0,4-0,6: Mức trung bình, |r| = 0,2-0,4: Mức yếu và |r| <0,2: Không có tương quan hoặc ở mức rất yếu. Công thức tính tương quan (r) của hai biến độc lập X và Y như sau :

(Nguồn: thống kê kinh doanh, 2009) d. Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel 2010. Xử

30

lý thống kê bằng chương trình Statgraphics, với mức ý nghĩa thống kê (p<0,05).

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU VÀ ĐO ĐẠC CÁC CHỈ TIÊU MÔI TRƯỜNG

1.1 Kết quả khảo sát địa điểm và chọn địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành khảo sát và thu mẫu tại 16 địa điểm ở 5 huyện

(Cầu Ngang, Châu Thành, Càng Long, Duyên Hải và Trà Cú) thuộc tỉnh Trà Vinh.

Đây là các huyện phù hợp với yêu cầu nghiên cứu của đề tài, đặc trưng cho ba loại hình thủy vực mà đề tài khảo sát. Cầu Ngang và Duyên Hải là hai huyện gần biển và nuôi tôm nhiều nhất ở Tỉnh Trà Vinh. Trà Cú là vùng chuyện canh tác nuôi các đối tượng là cá lóc và cá thát lát. Châu Thành và Càng Long thuộc vùng nước ngọt chuyên canh trồng lúa.

1.2. Kết quả đo đạc các chỉ tiêu môi trường

Qua 6 đợt thu mẫu tương ứng với 6 tháng tại 16 địa điểm đã chọn để tiến hành nghiên cứu vào hai mùa mưa và nắng (mỗi mùa thu 3 lần tương ứng với 3 tháng) cho kết quả như sau: Bảng 2. Kết quả giá trị trung bình của các chỉ tiêu thủy, lý, hóa qua hai mùa

pH Nhiệt độ (0C) Độ mặn (‰) Độ trong (cm) ĐĐ

Độ kiềm (mg/l) N* M* 95,5

77,6 83,5 89,5

Ký hiệu: N*: mùa nắng, M*: Mùa mưa Kết quả phân tích các chỉ tiêu thủy, lý, hóa của môi trường cho thấy: vào mùa nắng, đa số các chỉ tiêu như: pH, độ trong, độ mặn, độ kiềm, hàm lượng N, C, P ở các địa điểm thu mẫu đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (cụ thể là: pH, độ

31

N* M* N* M* N* M* N* M* 31,0 29,7 7,3 31,3 30,7 8,2 33,0 31,3 7,5 30,0 31,0 8,7 30,0 31,3 8,2 30,3 31,7 8,2 32,7 32,7 8,7 33,3 32,3 9,2 32,3 31,0 8,0 32,0 31,3 7,7 32,0 32,7 7,8 30,0 29,0 6,8 30,3 30,3 6,8 31,3 31,0 7,5 32,0 31,7 7,3 31,0 31,0 7,2 Ánh sáng (lux) N* M* 903 12,3 9,3 38,3 38,3 119,3 1307 1473 5,7 40,0 36,7 149,2 125,3 1543 9,7 1733 14,3 11,7 31,7 30,0 119,3 155,1 2143 1550 2,0 25,0 30,0 190,9 190,9 1673 2,3 2080 1,7 26,7 31,7 161,1 155,1 1830 1,7 1923 1,0 21,7 28,3 149,2 179,0 2080 2,0 1910 1,0 18,3 31,7 196,9 161,1 2440 1,7 1930 1,0 21,7 26,7 208,8 137,2 2443 1,7 1713 5,3 38,3 45,0 143,2 137,2 2310 11,7 1923 6,7 35,0 40,0 131,3 173,0 2330 11,7 2167 9,3 36,7 36,7 155,1 161,1 2253 8,3 1063 1827 0,0 15,0 16,7 71,6 0,0 1360 1843 0,0 13,3 13,3 77,6 0,0 1663 0,0 13,3 18,3 107,4 0,0 2123 1883 0,0 13,3 13,3 107,4 113,4 2377 0,0 2227 0,0 10,0 16,7 125,3 107,4 2427 0,0 6,8 7,7 8,3 8,8 8,3 8,5 8,5 8,0 7,7 8,2 8,2 6,8 7,0 6,8 7,2 6,8 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

mặn, độ trong, độ kiềm có p = 0 < 0,05; hàm lượng N có p = 0,0222<0,05), ngoại trừ yếu tố nhiệt độ và ánh sáng là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (với nhiệt độ có p = 0,2617 > 0,05 và ánh sáng có p = 0,0645 > 0,05) giữa các điểm khảo sát (phụ lục 4). Vào mùa mưa, tất cả các chỉ tiêu môi trường khảo sát đều khác biệt có ý nghĩa thống kê (cụ thể là nhiệt độ có p = 0,005<0,05; pH có p= 0,0006<0,05; độ trong có p = 0,0001<0,05; độ mặn và ánh sáng p = 0<0,05; độ kiềm p = 0,0007<0,05) (phụ lục 4) giữa các địa điểm khảo sát.

Nhiệt độ nước trung bình qua hai mùa dao động trong khoảng từ 29 0C – 33,30C, pH: 6,8 – 9,2, độ trong : 10 – 45 cm, độ mặn: 0-14%, độ kiềm: 71,6 – 208,8 mg/l và ánh sáng: 903 - 2443 lux. Nhìn chung các yếu tố môi trường qua 6 đợt thu mẫu đều thích hợp cho sự tồn tại và phát triển của các loài tảo lam. Điều này phù hợp với các nghiên cứu cho rằng tảo lam là ngành tảo có khoảng chịu đựng điều kiện sống rộng, chúng có thể sống ở môi trường khắc nghiệt từ vùng băng tuyết đến vùng sa mạc nóng bức (Nguyễn Lân Dũng, 2006).

Bảng 3. Kết quả giá trị trung bình các chỉ tiêu về dinh dưỡng

N (mg/l) P (mg/l) C (mg/l) ĐĐ

Ký hiệu: N*: mùa nắng, M*: Mùa mưa N: Hàm lượng đạm nitrogen; P: Hàm lượng phosphates, C: Hàm lượng carbon. Nguồn dinh đưỡng đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của các loài tảo lam. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến thành phần loài tại các điểm nghiên cứu qua hai mùa, đặc biệt là nguồn đạm (nitrogen) và nguồn phosphates (phosphorus). Qua kết quả phân tích thống kê cho thấy hàm lượng dinh dưỡng ở các địa điểm thu mẫu vào cả hai mùa đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (cụ thể là vào mùa nắng: hàm lượng P, C có p = 0 < 0,05; hàm lượng N có p = 0,0222<0,05;

32

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 M* 6,91 3,87 4,46 42,77 34,41 15,97 16,15 18,31 5,13 15,20 14,06 11,70 9,34 19,83 24,19 22,96 N* 1,20 1,19 1,40 11,12 8,01 10,29 9,44 12,58 3,61 4,65 4,46 1,40 1,24 3,67 2,56 2,35 M* 0,29 0,29 0,40 13,95 12,12 7,36 6,58 6,80 1,37 1,87 0,19 0,88 0,56 4,61 4,89 4,43 N* 50,31 44,09 47,21 95,30 73,50 97,55 108,81 121,01 49,14 55,78 53,99 21,45 19,26 21,09 19,39 21,83 M* 39,33 53,76 47,35 120,22 101,94 99,29 93,78 101,83 35,95 65,87 50,52 28,03 28,01 28,14 30,40 28,54 N* 7,59 7,48 12,09 44,48 32,47 31,34 42,19 53,28 22,51 26,30 21,29 24,60 22,51 14,59 14,17 15,82

33

mùa mưa: hàm lượng N có p = 0,0192 <0,05; hàm lượng P có p = 0,0074<0,05; hàm lượng C có p = 0,0006<0,05) (phụ lục 4) giữa các điểm nghiên cứu. Điểm Đ8 có hàm lượng nitrogen và carbon trung bình cao nhất vào mùa nắng (N = 53,28 mg/l và C = 121,01 mg/l), điểm Đ2 có hàm lượng nitrogen trung bình thấp nhất (N = 3,87 mg/l) và điểm Đ13 có hàm lượng carbon thấp nhất (C = 19,26 mg/l). Điểm Đ4 có hàm lương P cao nhất vào mùa mưa (P = 13,95 mg/l) và thấp nhất là điểm Đ11 (P = 0,19 mg/l) (Bảng 3).

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT ĐA DẠNG THÀNH PHẦN LOÀI TẢO LAM

2.1. Thành phần loài tảo lam ở các địa điểm khảo sát tại Trà Vinh

2.1.1. Danh mục thành phần loài tảo lam tại Trà Vinh

Kết quả phân tích định tính trên 96 mẫu thu được tại 16 địa điểm thuộc ba loại hình thủy vực (ruộng lúa, ao cá và ao tôm) ở tỉnh Trà Vinh qua 6 đợt thu mẫu vào 2 mùa (mưa và nắng), đã xác định được 49 loài tảo lam thuộc 4 bộ (Oscillatoriales, Noctoscales, Chroococcales, Synechococcales), 9 họ và 15 chi khác nhau. Trong đó, bộ Oscillatoriales là bộ chiếm ưu thế với 21 loài (42,86%), kế đến là bộ Nostoccales với 12 loài (24,49%), bộ Chroococcales với 11 loài (22,45 %), còn lại thành phần loài ít nhất là bộ Synechococcales với 5 loài (10,2%). Việc định danh dựa vào tài liệu định loại của Desikachary (1959), Shirota A.(1966); Nguyễn Văn Tuyên (2003), Phạm Hoàng Hộ (1967).

Bảng 4. Danh mục thành phần loài và sự phân bố của tảo lam ở Trà Vinh

Stt Tên khoa học Ao cá Ruộng Ao tôm Mùa nắng Mùa mưa lúa

+ + + + + + + + + + + + + + + + Anabaena crassa Lemm Anabaena variabilis Popova Anabeane iyengarii Bharadwaja Anabaena spiroides Klebs Anabaena sphaerica Elenk Anabaena ballyganglii Banerii

+ + + + + + + Anabaenopsis circinarlis Rabenhorst Anabaenopsis tanganyikae Wolosz&Miller Anabaenopsis arnoldii Aptekarj

+ + + + +

+ + I. Bộ Noctoscales (1) Họ Nostocaceae * Chi Anabeana 1 2 3 4 5 6 (2) Họ Aphanizomenonaceae * Chi Anabaenopsis 7 8 9 * Chi Raphidiopsis 10 Raphidiopsis curvata Fritsch 11 Raphidiopsis sp. * Chi Cylindrospermopsis 12 Cylindrospermopsis raciborskii

34

+ + Woloszynska II. Bộ Synechococcales (3) Họ Merismopediaceae * Chi Synechocystis 13 Synechocystis aquatilis Sauv

+ + +

+ +

+ + + +

+ + + + + +

+ + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +

+ +

35

+ + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + * Chi Aphanocapsa 14 Aphanocapsa littoralis Hansgirg (4) Họ Pseudanabaenaceae * Chi Pseudanabaena 15 Pseudanabaena schmidlei Jagg (5) Họ Merismopediaceae * Chi Merismopedia 16 Merismopedia minima G, Beck 17 Merismopedia punctata Meyen III. Bộ chroococcales (6) Họ chroococcaceae * Chi chroococcus 18 Chroococcus sp. 19 Chroococcus minimus Lemm (7) Họ Microcystaceae * Chi Microcytis 20 Microcystis panniformis Komarek, 2002 21 Microcystis aeruginosa Kutzing 1846 22 Microcystis ichtyoblable Kutzing 1843 23 Microcystis flos – aquae Kirchner 1898 24 Microcystis robusta Nygaard 25 Micrrocystis firma Schmidle 1902 26 Microcystis wesenbergii Kom 1968 27 Microcytis protocytis Crow 1923 (8) Họ Aphanothecaceae * Chi Aphanothece 28 Aphanothece saxicola Nag IV. Bộ Oscillatoriales (9) Họ Oscillatoriaceae * Chi Oscillatoria 29 Oscillatoria sp. 1 30 Oscillatoria sp. 2 31 Oscillatoria sp. 3 32 Oscillatoria simplicissima Gom 33 Oscillatoria mougeotii Forti 34 Oscilatoria salina Biswwas 35 Oscillatoria prolifica Gom 36 Oscillatoria rubescens Gom 37 Oscillatoria guttulata Goor 38 Oscillatoria raoi De Toni J 39 Oscillatoria chlorina Gom 40 Oscillatoria subbrevis Schmidle 41 Oscillatoria earlei Gardnern

+

+ + + + + + + + + + + +

+ + +

+ +

42 Oscillatoria subuliformis Gom 43 Oscillatoria princeps Wauch 44 Oscillatoria limnetica Lemm 45 Oscillatoria ornata Gom 46 Oscillatoria annae Goor * Chi Spirulina 47 Spirulina platensis Gom * Chi Trichodesmium 48 Trichodesmium lacustre Klebahn * Chi Lyngbya 49 Lyngbya limnetica Lemm Tổng số loài 12 22 + 28 + 35 36

Kết quả cho thấy thành phần loài ở ruộng lúa là cao nhất (28 loài) và ao tôm là thấp nhất (12 loài) trong 03 loại hình thủy vực. Sự chênh lệch thành phần loài giữa mùa nắng và mùa mưa là rất ít (mùa nắng: 35 loài, mùa mưa: 36 loài). Loài Oscillatoria rubescens Gom có mặt ở cả ba loại hình thủy vực vào cả hai mùa. Tất cả các thủy vực khảo sát đều có sự phân bố của tảo lam (Bảng 4). Điều này cũng phù hợp với một số nghiên cứu cho rằng các thủy vực nước ngọt thành phần loài tảo lam phân bố nhiều hơn (Nguyễn Văn Tuyên, 2003). Thêm vào đó, đối với nghề nuôi tôm thì người nuôi xem tảo lam là ngành tảo có hại nên đa số giai đoạn chuẩn bị ao, các công tác phơi ao, diệt tảo được thực hiện rất cẩn thận, khi thấy dấu hiệu có sự xuất hiện của tảo độc hại, người nuôi sẽ tìm cách khống chế tảo nên việc khảo sát đối tượng tảo lam tại các thủy vực ao nuôi tôm ít đa dạng là phù hợp. Một số nghiên cứu cho rằng, tảo lam chỉ xuất hiện ở ao nuôi tôm vào gần cuối vụ nuôi (Nguyễn Anh Tuấn, 1994).

Dựa vào chỉ số đa dạng Shanon Weiner (H) cho thấy rằng ở thủy vực ruộng lúa có chỉ số H cao (H=1.67) so với 02 thủy vực còn lại (ao tôm có H=0.97; ao cá có H = 1.61) (phụ lục 4). Điều này chứng tỏ rằng ở thủy vực ruộng lúa có sự đa dạng về loài và sự cân bằng về số lượng giữa các loài. Ngoài ra chỉ số Shanon Weiner (H) còn chỉ ra mức độ ô nhiễm trong thủy vực và qua kết quả tính toán cho thấy chỉ số H của ba loại hình thủy vực dao động trong khoảng từ H 1 – 2, tương đương ở mức độ nhiễm bẩn vừa mức α. (Nguyễn Thị Vân Hà, 2007).

36

2.2.2. Danh mục thành phần loài tảo lam có hại và có lợi Đã phát hiện 03 loài tảo lam nằm trong danh mục các loài có khả năng sản sinh ra độc tố (bảng 5). Các loài này sản sinh ra độc tố Microcystin và Cylindrospermopsin, hai dạng độc tố này có những tác động xấu lên da, thận, phổi, gan, hệ tiêu hóa và thần kinh, chúng có thể là tác nhân gây ung thư hoặc dẫn đến cái chết cho nạn nhân (Nguyễn Thị Thanh Hương et al, 2007). Bên cạnh đó, kết quả khảo sát được loài Spirulina platensis là tảo lam có lợi giàu protein, vitamin và một vài axit béo thiết yếu, giàu carotenoid nên nó được ứng dụng nhiều trong việc dùng

làm thức ăn, mỹ phẩm, dược phẩm, thực phẩm chức năng (Vũ Ngọc Út, Dương Thị Hoàng Oanh, 2013).

Bảng 5. Danh mục các loài sản sinh độc tố khảo sát tại Trà Vinh

Tên khoa học Độc tố tảo Stt

Microcystis aeruginosa Kutzing 1846 Microcystin 1

Cylindrospermopsis raciborskii Woloszynska Cylindrospermopsin 2

Lyngbya limnetica Lemm Microcystin 3

2.2. Bộ sưu tập hình ảnh tảo lam

1. Chi Oscillatoria thuộc họ Oscillatoriaceae, Bộ Oscillatoriales

Oscillatoria sp. 1: Dạng sợi dài 40 μm, rộng 8 μm, đầu hơi tròn bầu, tế bào không phân biệt rõ, màu lam nhạt, có hạt.

Hình 1.1: Oscillatoria sp. 1

Oscillatoria sp. 2 : Dạng sợi dài 150 μm, màu xanh lam hoặc màu lục lam.

37

Hình 1.2: Oscillatoria sp. 2

Oscillatoria sp. 3: Dạng sợi dài 75 μm, màu xanh lá cây nhạt.

Hình 1.3: Oscillatoria sp. 3

Oscillatoria simplicissima: Dạng sợi màu xanh nhạt, có hạt ở gần vách ngăn, không eo ở vách ngăn, dài 180 μm, tế bào rộng 5 μm, không mũ, một đầu thon nhọn ở cuối chóp, màng mỏng.

Hình 1.4: Oscillatoria simplicissima

38

Oscillatoria mougeotii: Sợi màu xanh xám, nhánh thẳng hơi cong về phía hai đầu, dài 300 μm, rộng 5,5 μm, đầu thon tròn.

Hình 1.5: Oscillatoria mougeotii

Oscilatoria salina: Dạng sợi thẳng dài 100 μm, rộng 8 μm, một đầu thon nhọn, tế bào chất đặc, có hạt, màu nâu đen, không phân biệt vách ngăn giữa các tế bào.

39

Hình 1.6: Oscilatoria salina

Oscillatoria prolifica: Dạng sợi dài 500 μm, rộng 3,5 μm, hơi nhọn cong ở một đầu cuối sợi, màu đỏ nâu hoặc nâu đen, có hạt tại các vách ngăn.

Hình 1.7 Oscillatoria prolifica

Oscillatoria rubescens: Dạng sợi thẳng dài 400 μm, rộng 5,5 μm, tế bào chất đặc, không phân biệt vách ngăn, có màu nâu đen hoặc nâu đỏ, hơi thon ở đầu.

40

Hình 1.8: Oscillatoria rubescens

Oscillatoria guttulata: Dạng sợi thẳng dài 450 μm, thon nhỏ rộng 4,5 μm, tế bào chất đặc, có vách ngăn, hai đầu tròn, bằng nhau, màu nâu đỏ hoặc nâu đen.

Hình 1.9: Oscillatoria guttulata

Oscillatoria raoi: Dạng sợi khối mỏng dài 180 μm, rộng 5,5 μm, có khuynh hướng hơi bầu ở một đầu, không mũ, tế bào chất đặc, có vách ngăn giữa các tế bào màu nâu đỏ.

Hình 1.10: Oscillatoria raoi

41

Oscillatoria chlorina: Dạng sợi dài 550 μm, rộng 2,5 μm, màu xanh ngọc, có vách ngăn, một đầu thon nhọn, hơi cong về phía chót, một đầu bằng.

Hình 1.11: Oscillatoria chlorina

Oscillatoria subbrevis: Dạng sợi dài 150 μm, rộng 5 μm, gần như thẳng, đầu tròn ở cuối, chóp không có mũ và không biến dạng, tế bào chất phân bố không đều giữa các tế bào, màu nâu đen

Hình 1.12: Oscillatoria subbrevis

42

Oscillatoria earle: Dạng sợi dài 120 μm, rộng 2,5 μm, hướng cong về cuối sợi, không eo tại vách ngang, một đầu tà, một đầu hơi bầu, không mũ, ít hạt, màu xanh nhạt.

Hình 1.13: Oscillatoria earle

Oscillatoria subuliformis: Dạng sợi có màu xanh xám hoặc xanh vàng nâu, rộng 2,5 μm, rất dài có thể uốn cong, cuộc rối lại, vách ngăn, tế bào mỏng, không mũ ở đầu tận cùng.

Hình 1.14: Oscillatoria subuliformis

43

Oscillatoria princeps: Dạng thẳng, thanh dài 40 - 100 μm, rộng 7,5 μm, màu xanh nâu, hai đầu tà, màng tế bào mỏng, có hạt ở vách ngăn.

Hình 1.15: Oscillatoria princeps

Oscillatoria limnetica: Dạng sợi thẳng, mỏng manh, dài 50 μm - 180 μm, rộng 2,5 μm, tế bào dạng đoạn hình chữ nhật, chiều dài gấp 6 lần chiều rộng, phân chia rõ ràng tại vách ngăn mỗi tế bào, màu xanh lá cây.

44

Hình 1.16: Oscillatoria limnetica

Oscillatoria ornata: Sợi màu xanh lục dài 100 μm, rộng 10 μm, đầu tròn, không mũ, có eo giữa các vách ngăn, tế bào chất đặc, có hạt.

Hình 1.17: Oscillatoria ornata

Oscillatoria annae: Dạng thẳng dài 80 μm, rộng 7,5 μm, màu xanh tối, có hạt ở vách ngăn, đầu tròn hầu hết mỏng ở đỉnh đầu.

Hình 1.18: Oscillatoria annae

2. Giống Trichodesmium thuộc họ Oscillatoriaceae, bộ Oscillatoriales

45

Trichodesmium lacustre: Dạng sợi thẳng dài 100 μm, rộng 5 μm, hai đầu tròn, không mũ, eo ở giữa vách các tế bào, tế bào hình cầu.

Hình 2.1: Trichodesmium lacustre

3. Chi Lyngbya thuộc họ Oscillatoriaceae, bộ Oscillatoriales

Lyngbya sp.: Dạng sợi thẳng, dài 100 μm rộng 2 μm, ốm và hẹp, đoạn bị đứt không màu, không eo ở vách ngang, màu xanh lam, đầu tròn ở cuối sợi.

Hình 3.1: Trichodesmium sp.

4. Chi Spirulina thuộc họ Oscillatoriaceae, bộ Oscillatoriles

46

Spirulina platensis: Sợi màu xanh, xanh đen, dạng xoắn hình chữ chi, có thể xoắn cực đại giống hình lò xo, tế bào rộng 7,5 μm, đường kính vòng xoắn 32 μm, khoảng cách giữa các vòng xoắn 45 μm, khoảng cách này có thể ngắn hơn khi sợi xoắn cực đại, hai đầu tròn.

Hình 4.1: Spirulina platensis 5. Chi Anabaenopsis thuộc họ Aphanizomenonaceae, bộ Nostoccales

47

Anabaenopsis arnoldii: Dạng sợi đơn, tế hình cầu dài gấp đôi rộng, có 2 dị bào nối tiếp nhau hoặc ở hai đầu, hình cầu hoặc elip, có nhiều hoặc hơn 2 bị bào nếu sợi dài, có thể có bì bào tử hoặc không.

Hình 5.1: Anabaenopsis arnoldii

Anabaenopsis tanganyikae: Dạng sợi trôi nổi tự do ngắn, cuộn xoắn, có eo ở vách tế bào, tế bào hình trụ rộng 2,5 μm, dài 5 μm. Không có hoặc có một dị bào ở đầu hình elip, đầu còn lại có thể có bì bào tử hình elip.

Hình 5.2: Anabaenopsis tanganyikae

Anabaenopsis circularis: Dạng sợi xoắn, bơi tự do, ngắn, hiếm thẳng. Tế bào hình cầu hoặc có chiều dài dài hơn rộng, chiều dài khoảng 10 μm, dị bào hình cầu ở hai đầu, có thể có một hoặc hai dị bào, không có bì bào tử.

48

Hình 5.3: Anabaenopsis circularis

6 Chi Raphidiopsis thuộc họ Aphanizomenonaceae, bộ Nostoccales

Raphidiopsis curvata: Dạng sợi, trôi tự do, đơn hoặc ít khi thành bó dài 50 μm, dạng uốn cong, không eo ở vách tế bào, nhọn một đầu hoặc cả hai đầu, có dạng cong lại hình chữ C, hai đầu bằng, rộng 2 μm có hoặc không có bì bào tử hình thùng ở giữa hai nhánh.

Hình 6.1: Raphidiopsis curvata Raphidiopsis sp.: Dạng sợi thẳng dài 100 μm, không phân biệt rõ vách tế bào, nhọn hai đầu.

49

Hình 6.2: Raphidiopsis sp.

7. Chi Cylindrospermopsis thuộc họ Aphanizomenonaceae, bộ Nostoccales

Cylindrospermopsis raciborskii: dạng sợi hình chữ chi dài 100 µm hoặc dạng xoắn, có dị bào ở đầu sợi hình nón nhọn.

Hình 7.1: Cylindrospermopsis raciborskii

8. Chi Anabeana thuộc họ Nostocaceae, bộ Nostoccales

Hình 8.1 Anabaena variabilis

Anabaena variabilis: Sợi dài 100 μm, màu xanh tối, tế bào hình thùng, eo ở vách ngăn, có dị bào hình cầu hoặc oval, có thể có bì bào tử hình thùng kế dị bào hoặc không có, khoảng cách giữa các dị bào từ 14-26 tế bào tùy theo sợi dài hay ngắn.

50

Anabaena spiroides: Sợi đơn, bơi tự do, thường dạng xoắn cuộn với bao nhầy mỏng, đường kính vòng xoắn 50μm, khoảng cách vòng xoắn 41 μm, tế bào hình cầu, có thể có dị bào hình cầu.

Hình 8.2 Anabaena spiroides

Hình 8.3 Anabaena crassa

Anabaena crassa: Dạng sợi trôi nổi tự do, đơn, tế bào gần như hình cầu, có dị bào hình cầu, mỗi dị bào cách nhau khoảng 14- 26 tế bào.

51

Anabaena iyengarii: Nhánh đơn dài khoảng 150 μm, tế bào ở cuối một đầu có dạng hình nón, tế bào hình thùng, có khi hình cầu nhưng hiếm, dị bào hình elip nằm trong chuỗi dài cách nhau khoảng từ 14-20 tế bào.

Hình 8.4 Anabaena iyengarii Anabaena sperica: Dạng sợi dài 300 μm, rộng 5 μm, tế bào hình cầu hoặc hình thùng ngắn, cuối đầu sợi hình tròn, dị bào tượng tự hình cầu hoặc oval, có một hoặc nhiều hơn, màu xám vàng.

Hình 8.5 Anabaena sperica

Anabaena ballyganglii: Sợi đơn, không thẳng, màu xanh xám. Tế bào hình cầu hoặc hình thùng dài, rộng 7μm, dài 12μm. Dị bào hình cầu, đơn hoặc cặp, bì bào tử đơn, hình elip, còn nhỏ hình cầu.

Hình 8.6 Anabaena ballyganglii 9. Chi Synechocystis thuộc họ Merismopediaceae, bộ Synechococcales

52

Synechocystis aquatilis : Tế bào hình cầu, đơn hoặc 2 tế bào, màu xanh nhạt.

Hình 9.1 Synechocystis aquatilis

10. Chi Aphanocapsa thuộc họ Merismopediaceae, bộ Synechococcales

Hình 10.1 Aphanocapsa littoralis

Aphanocapsa littoralis: Tản không có hình dạng xác định. Tế bào hình cầu hoặc tương tự hình càu, màu lục lam. Tế bào đơn hoặc xếp tải rác thành từng nhóm.

11. Chi Pseudanabaena thuộc họ Pseudanabaenaceae, bộ Synechococcales

Pseudanabaena schmidlei : Sợi dài 300μm, rộng 7μm. Tế bào có chiều dài dài hơn hoặc ngắn hơn theo chiều rộng, sau khi phân chia tế bào khoảng ½ đường kính, màu xanh dương đậm.

53

Hình 11. 1 Pseudanabaena schmidle

12. Chi Merismopedia thuộc họ Merismopediaceae, bộ Synechococcales

Merismopedia minima: Tế bào màu xanh lam nhạt, gồm 4 hoặc nhiều tế bào nhỏ, trôi nổi tự do, tạo thành nhóm, tộc đoàn.

Hình 12.1 Merismopedia minima

Merismopedia punctata: Tộc đoàn nhỏ, khoảng 4-64 tế bào, dài 60 μm, tế bào hình cầu hoặc bán cầu, màu xanh lam nhạt, các nhóm 4 tế bào thường kết nối không chặt chẽ với nhau.

Hình 12.2 Merismopedia punctata

13. Chi Chroococcus thuộc họ Chroococcaceae, bộ Chroococcales

54

Chroococcus sp. : Tế bào hình cầu hoặc bán cầu, đường kính 3 μm sau khi phân chia sẽ thành nhiều nhóm tế bào nhỏ từ 2 – 4 tế bào. Có chất nhầy bao quanh. Tế bào phân chia và hình thành tộc đoàn. Màu xanh lá cây đậm.

Hình 13. 1 Chroococcus sp.

Chroococcus minimus: Dạng nhầy, tế bào hình cầu hoặc elip, tập trung thành 2 hoặc 3 tế bào hình cầu được bao trong lớp chất nhầy.

14. Chi Microcystis thuộc họ Microcystaceae, bộ Chroococcales

55

Microcytis aeruginosa: Tộc đoàn bao gồm nhiều tế bào xếp dày đặc, ban đầu nhỏ, hình cầu hoặc hình trứng. Sau đó lớn, hình dạng thay đổi, phân thùy, thường có dạng lưới với những lỗ hỏng. Chất nhầy không màu, không có cấu trúc nhất định. Các tế bào hình cầu, đường kính 3-7μm đk/tb, chứa khí thể. Là loà rất phong phú về hình dạng, luôn thay đổi theo mùa. Tạo độc tố Microcystin. Thường gặp ở các thủy vực phú dưỡng, suốt các mùa, nước ngọt, lợ, hay xảy ra hiện tượng nở hoa.

Hình 14.1 Microcystis aeruginosa Microcystis ichtyoblable: Tộc đoàn hình cầu không đều, ngoài cùng các tế bào xếp rải rác, càng vô trong các tế bào xếp gần nhau hơn, khoảng giữa trống, tế bào hình cầu, đường kính 2,5μm, chứa khí thể.

56

Hình 14.2 Microcystis ichtyoblable

Microcytis flos – aquae: Tộc đoàn trôi nổi tự do, hình cầu hay không đều, chỉ có lớp chất nhầy mỏng, các tế bào xép dày đặc trong tộc đoàn. Tế bào hình cầu đường kính 3,5μm, chứa khí thể. Sống ở ao nước ngọt.

Hình 14.3 Microcystis flos – aquae

Microcytis robusta: Tộc đoàn tròn hoăc dài hơn dạng hình bầu dục, lớp bao nhầy mỏng, tế bào hình cầu có đường kính 9μm.

Hình 14.4 Microcytis robusta

Microcystis firma: Tộcđoàn có tế bào hình cầu hoặc hình cầu không đều, không có dạng lưới, các tế bào dày đặc, chất nhầy bao bọc khó phân biệt. Tế bào có đường kính 3,5 μm.

57

Hình 14.5 Microcystis firma

Microcystis wesenbergii: Tộc đoàn hình cầu hơi kéo dài, chia thùy, có dạng lưới. Chất nhầy không màu. Các tế bào sắp xếp ngẫu nhiên trong tộc đoàn. Tế bào hình cầu, chứa khí thể, đường kính 5 μm.

Hình 14.6 Microcystis wesenbergii

Microcytis panniformis: Tộc đoàn nhỏ hay lớn hơn, trôi nổi tự do, không hình dạng rõ ràng, các tế bào xếp khít nhau, phân bố rải rác. Tế bào đường kính khoảng 4,5 μm, chứa khí thể.

58

Hình 14.7 Microcytis panniformis

Microcytis protocytis: Tộc đoàn nhỏ, trôi nổi tự do, viền ngoài không đều. Các tế bào phân bố rải rác và không đều trong chất nhầy không màu, thường rất khó thấy. Tế bào hình cầu, đường kính 3 - 4,5 μm.

Hình 14.8 Microcytis protocytis

15. Chi Aphanothece thuộc họ họ Microcystaceae, bộ Chroococcales

Hình 15.1 Aphanothece saxicola

59

Aphanothece saxicola : Tộc đoàn gồm nhiều tế bào nhỏ dài 3μm, màu lam nhạt, phân bố rải rác thành từng cặp.

2.3. Biến động thành phần loài theo không gian và thời gian

Hình 1. Biến động thành phần loài tảo lam qua hai mùa mưa và nắng tại các địa điểm khảo sát ở Trà Vinh

Kết quả phân tích cho thấy, ở Đ8 có thành phần loài cao nhất (13 loài) và kế đến là Đ4 (12 loài) vào mùa nắng (Hình 1). Điểm thu Đ8 là mẫu thu ở ao cá lóc 3 tại huyện Trà Cú có nhiệt độ, pH, ánh sáng (t = 33,3 0C, pH = 9,2, As = 2443 lux) (Bảng 1) và hàm lượng nitrogen và carbon cao nhất vào mùa nắng (N = 53,28 mg/l và C = 121,01 mg/l) so với các địa điểm khác (Bảng 3). Điều này phù hợp với nghiên cứu cho rằng nhiều ánh sáng kết hợp với dinh dưỡng cao tạo điều kiện cho tảo phát triển mạnh (Lê Văn Cát, 2006) và điều kiện thực tế khảo sát cho thấy ao cá lóc 3 là ao nuôi với mật độ cao (70 - 80 con/m2 ), tần suất cho ăn 3 lần/ngày và khối lượng thức ăn gia tăng theo thời gian nuôi từ 70 -170 kg/ngày nên đây là thủy vực giàu chất dinh dưỡng thuận lợi cho loài tảo lam phát triển. Thành phần loài thấp nhất (1 loài) ở Đ1 và Đ3 vào cả hai mùa. Đây là các ao nuôi tôm thẻ thường thời gian nuôi ngắn và có cải tạo ao nuôi, diệt tảo có hại trước khi thả nuôi nên thành phần loài tảo lam thấp. Tuy nhiên, thành phần loài tảo lam còn phụ thuộc vào điều kiện thực tế (ao thu hoạch, ao mới thả nuôi, thời gian nuôi và đối tượng sinh vật) tại các địa điểm thu mẫu qua các tháng thu mẫu.

2.4. Kết quả phân tích, đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố môi trường và thành phần loài tảo lam.

Khảo sát mối tương quan giữa thành phần loài tảo lam và các yếu tố môi

60

trường tại 16 điểm nghiên cứu qua hai mùa ta được bảng kết quả như sau:

Bảng 6. Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và thành phần loài tảo lam vào mùa nắng

Các chỉ tiêu môi trường

Nhiệt độ pH Độ mặn Độ trong Độ kiềm Ánh sáng Hàm lượng N Hàm lượng P Hàm lượng C Hệ số tương quan (r) -0,3 0,5 -0,6 -0,3 0,5 -0,04 0,8 0,7 0,6 Mức độ tương quan Yếu Trung bình Trung bình Yếu Trung bình Rất yếu Mạnh Mạnh Mạnh

Qua kết quả cho thấy các yếu tố nhiệt độ, độ mặn, ánh sáng và độ trong có mối tương quan nghịch với thành phần loài tảo lam tại các địa điểm khảo sát (r < 0), có nghĩa là nếu nhiệt độ, độ mặn, độ trong, ánh sáng càng tăng thì thành phần loài càng giảm và ngược lại. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này có cường độ từ rất yếu đến trung bình |r| = 0,4-0,6: Mức trung bình, |r| = 0,2-0,4: Mức yếu và |r| <0,2: Không có tương quan hoặc ở mức rất yếu. Chỉ số pH, độ kiềm có mối tương quan thuận (r > 0) nhưng mức độ tương quan trung bình (|r| = 0,4-0,6: Mức trung bình), chỉ ảnh hưởng tương đối thành phần loài tảo lam. Hàm lượng N, P, C có mối tương quan thuận (r > 0) và mạnh (|r| = 0,6-0,8: Mức mạnh) đối với thành phần loài tảo lam, nghĩa là nếu hàm lượng N, P, C cao thì thành phần loài sẽ cao và mối tương quan này chặt chẽ với nhau. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Luuc và ctv (1999), cho rằng tảo lam có mối quan hệ chặt chẽ với nồng độ nitrogen và phosphorus trong thủy vực hơn là các tảo khác.

Bảng 7. Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và thành phần loài tảo lam vào mùa mưa

Các chỉ tiêu môi trường

61

Nhiệt độ pH Độ mặn Độ trong Độ kiềm Ánh sáng Hàm lượng N Hàm lượng P Hàm lượng C Hệ số tương quan (r) 0,09 0,3 -0,7 -0,3 0,17 -0,03 0,5 0,6 0,5 Mức độ tương quan Rất yếu Yếu Mạnh Yếu Rất yếu Rất yếu Trung bình Trung bình Trung bình

Kết quả khảo sát cho thấy các yếu tố độ mặn, độ trong và ánh sáng có mối tương quan nghịch với thành phần loài tảo lam tại các địa điểm khảo sát (r < 0), có nghĩa là nếu độ mặn, độ trong và ánh sáng càng tăng thì thành phần loài càng giảm và ngược lại. Kết quả còn cho thấy rằng yếu tố độ mặn chi phối mạnh đến thành phần loài tảo lam và sự chi phối này tỷ lệ nghịch với nhau, nghĩa là độ mặn tăng thì thành phần loài giảm, điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu định lượng ở những địa điểm có độ mặn cao thì thành phần loài tảo lam thấp (Đ1, Đ2, Đ3, Đ9, Đ10, Đ11 có độ mặn cao dao động từ 9.7 đến 14.3). Ngược lại, sự ảnh hưởng của độ trong và ánh sáng có cường độ từ rất yếu đến yếu (|r| = 0,2-0,4: Mức yếu và |r| <0,2: Không có tương quan hoặc ở mức rất yếu), hay ảnh hưởng không đáng kể. Nhiệt độ, pH và độ kiềm có mối tương quan thuận (r > 0) nhưng mức độ tương quan cũng từ rất yếu đến yếu, ảnh hưởng không đáng kể đến thành phần loài tảo lam. Hàm lượng N, P, C có mối tương quan thuận (r > 0) và mức độ trung bình (|r| = 0,4-0,6: Mức trung bình) đối với thành phần loài tảo lam, nghĩa là nếu hàm lượng N, P, C cao thì thành phần loài sẽ cao và mối tương quan này ở mức trung bình nhưng tương đối ảnh hưởng rõ hơn các yếu tố khác. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Luuc và ctv (1999), cho rằng tảo lam có mối quan hệ chặt chẽ với nồng độ nitrogen và phosphorus trong thủy vực hơn là các tảo khác.

62

Như vậy, hàm lượng dinh dưỡng là nhân tố tác động chính đến thành phần loài tảo lam tại các địa điểm khảo sát vào hai mùa. Kết quả phân tích mối tương quan này phù hợp với kết quả thống kê thành phần loài tảo lam ở điểm Đ4 (23 loài) và Đ8 (22 loài) có thành phần loài cao ứng với hàm lượng N và P cao (Đ4 có N = 87,25 mg/l và P = 25,07 mg/l; Đ8 có N = 71,60 mg/l và P = 19,38 mg/l) (phụ lục 2).

CHƯƠNG 3: KHẢO SÁT BIẾN ĐỘNG SINH VẬT LƯỢNG TẢO LAM

3.1. Biến động mật độ tảo lam theo mùa và địa điểm khảo sát

3.1.1. Khảo sát biến động mật độ tảo lam theo mùa:

Qua phân tích định lượng 96 mẫu được thu vào 6 đợt tương ứng với 6 tháng thuộc hai mùa (mưa và nắng) cho kết quả mật độ trung bình các loài tảo lam, như sau: Bảng 8. Kết quả mật độ trung bình các loài tảo lam vào hai mùa mưa và nắng

Mật độ Stt Tên loài Mùa nắng Mùa mưa

Anabaena variabilis Popova Anabaenopsis tanganyikae Wolosz&Miller Microcytis aeruginosa Kutzing Oscillatoria princeps Wauch Pseudanabaena schmidlei Jagg chroococcus minimus Lemm chroococcus sp.

63

3.040 0 132.960 6.360 0 23.520 4.160 0 1.760 0 0 19.000 3.320 0 0 920 4.520 6.440 2.000 0 13.760 45.240 5.680 5.760 27.120 0 0 1.000 5.480 26.440 4.360 49.560 0 4.320 81.240 0 3.880 10.040 0 1.080 1.720 11.340 20.160 1.240 880 4.720 600 0 0 0 34.640 14.600 25.120 42.560 0 4.400 0 9.560 3.560 3.880 0 72.800 0 1.800 1 2 3 4 5 6 7 8 Anabaena ballyganglii Banerii 9 Anabaena crassa Lemm 10 Anabaena sphaerica Elenk 11 Anabaenopsis arnoldii Aptekarj 12 Anabaenopsis circularis Rabenhorst 13 Anabeane iyengarii Bharadwaja 14 Aphanocapsa littoralis Hansgirg 15 Cylindrospermopsis raciborskii Woloszynska 16 Lyngbya limnetica Lemm 17 Merismopedia minima G. Beck 18 Merismopedia punctata Meyen 19 Microcystis ichtyoblable Kutzing 20 Microcystis wesenbergii Kom 21 Microcytis flos – aquae Kirchner 22 Microcytis panniformis Komarek 23 Microcytis protocytis Crow 24 Microcytis robusta Nygaard 25 Micrrocystis firma Schmidle 26 Oscilatoria salina Biswwas 27 Oscillatoria annae Goor 28 Oscillatoria chlorina Gom 29 Oscillatoria earlei Gardnern 30 Oscillatoria guttulata Goor 31 Oscillatoria limnetica Lemm 32 Oscillatoria mougeotii Forti

33 Oscillatoria ornata Gom 34 Oscillatoria prolifica Gom 35 Oscillatoria raoi De Toni J 36 Oscillatoria rubescens Gom 37 Oscillatoria simplicissima Gom 38 Oscillatoria subbrevis Schmidle 39 Oscillatoria subuliformis Gom 40 Raphidiopsis curvata Fritsch 41 Raphidiopsis sp. 42 Spirulina platensis Gom 43 Synechocystis aquatilis Sauv 44 Trichodesmium lacustre Klebahn 45 Anabaena spiroides Klebs 46 Oscillatoria sp. 1 47 Oscillatoria sp. 2 48 Oscillatoria sp. 3 49 Aphanothhece saxicola Nag Tổng cộng 0 46.880 6.080 20.920 80.040 5.040 2.640 4.800 760 90.680 4.800 0 4.600 6.360 0 22.240 0 688.240 960 46.840 46.800 69.400 26.440 0 6.280 10.600 0 126.000 0 1320 33.880 3.400 2.760 15.360 1.200 745.380

Kết quả phân tích định lượng và thống kê cho thấy vào mùa nắng mật độ tảo lam trung bình dao động từ 760 – 132.960 cá thể/lít. Mật độ cao nhất là loài Microcytis aeruginosa với 132.960 cá thể/lít, thấp nhất là loài Raphidiopsis sp với 760 cá thể/lít. Vào mùa mưa, mật độ trung bình dao động từ 600 – 126.000 cá thể/lít, cao nhất là loài Spirulina platensis với 126.000 cá thể/lít và thấp nhất là loài Cylindrospermopsis raciborskii với 600 cá thể/lít. Loài Microcytis aeruginosa là loài tảo lam có khả năng sản sinh ra độc tố Microcystin có hại cho môi trường và loài Spirulina platensis là loài có lợi, có giá trị kinh tế cao. Nhìn chung, mật độ trung bình của tảo lam vào mùa mưa cao hơn mùa nắng.

3.1.2. Khảo sát biến động mật độ tảo lam theo địa điểm khảo sát

Sau khi phân tích định lượng 96 mẫu tảo được thu từ 16 địa điểm ở Tỉnh Trà Vinh được biểu thị qua biểu đồ, như sau:

64

Hình 2. Mật độ trung bình tảo lam theo địa điểm khảo sát

Kết quả cho thấy mật độ trung bình tảo lam tại các điểm từ Đ1 đến Đ16 dao động từ 4.560 – 932.640 cá thể/lít. Cao nhất là điểm Đ8 với 932.640 cá thể/lít tương ứng với thành phần loài cao nhất là 13 loài và kế đến là điểm Đ4 với 866.160 cá thể/lít (12 loài) (Hình 1). Thấp nhất là điểm Đ3 với 4.560 cá thể/lít. Điều này phù hợp với kết quả khảo sát và thống kê thành phần loài ở hình 1 và kết quả đo đạc, phân tích hàm lượng dinh dưỡng ở bảng 2 và 3. Bảng 9 : Mật độ trung bình các loài tảo lam tại hai điểm (Đ8, Đ4) có thành phần loài và sinh vật lượng cao.

Stt Tên khoa học Sinh vật lượng Đ4 Đ8

0 0 75.240 0 0 10.040 0 0 0 0 0 1.000 0 0 0 0 0 0 0 0 13.760 30.360 0 0 0 0 0 0 0 12.440 200 11.400 0 32.200

0 0 7.920 0 3.880 0 0 0 0 0 8.440 9.040 0 0 0 0 0 0 0 14.600 0 15.440 0 0 27.120 0 0 0 0 13.080 1.080 20.840 0 15.840

Anabaena variabilis Popova Anabaenopsis tanganyikae Wolosz&Miller Microcytis aeruginosa Kutzing Oscillatoria princeps Wauch Pseudanabaena schmidlei Jagg chroococcus minimus Lemm chroococcus sp.

65

1 2 3 4 5 6 7 8 Anabaena ballyganglii Banerii 9 Anabaena crassa Lemm 10 Anabaena sphaerica Elenk 11 Anabaenopsis arnoldii Aptekarj 12 Anabaenopsis circularis Rabenhorst 13 Anabeane iyengarii Bharadwaja 14 Aphanocapsa littoralis Hansgirg 15 Cylindrospermopsis raciborskii Woloszynska 16 Lyngbya limnetica Lemm 17 Merismopedia minima G. Beck 18 Merismopedia punctata Meyen 19 Microcystis ichtyoblable Kutzing 20 Microcystis wesenbergii Kom 21 Microcytis flos – aquae Kirchner 22 Microcytis panniformis Komarek 23 Microcytis protocytis Crow 24 Microcytis robusta Nygaard 25 Micrrocystis firma Schmidle 26 Oscilatoria salina Biswwas 27 Oscillatoria annae Goor 28 Oscillatoria chlorina Gom 29 Oscillatoria earlei Gardnern 30 Oscillatoria guttulata Goor 31 Oscillatoria limnetica Lemm 32 Oscillatoria mougeotii Forti 33 Oscillatoria ornata Gom 34 Oscillatoria prolifica Gom

35 Oscillatoria raoi De Toni J 36 Oscillatoria rubescens Gom 37 Oscillatoria simplicissima Gom 38 Oscillatoria subbrevis Schmidle 39 Oscillatoria subuliformis Gom 40 Raphidiopsis curvata Fritsch 41 Raphidiopsis sp. 42 Spirulina platensis Gom 43 Synechocystis aquatilis Sauv 44 Trichodesmium lacustre Klebahn 45 Anabaena spiroides Klebs 46 Oscillatoria sp. 1 47 Oscillatoria sp. 2 48 Oscillatoria sp. 3 49 Aphanothhece saxicola Nag Tổng cộng

0 10.920 31.960 0 2.640 0 0 47.080 4.800 0 4.600 0 0 22.240 0 310.880

25.160 31.280 27.640 0 0 8.280 0 50.160 0 0 8.920 0 0 0 0 288.720

Kết quả phân tích thống kê ở điểm Đ8 (ao cá lóc) cho thấy loài Microcytis aeruginosa có sinh vật lượng cao nhất với 75.240 cá thể/lít và giữ vị trí thứ 2 là loài Spirulina platensis với 47.080 cá thể/lít. Ở điểm Đ4 (ao cá thát lát), loài Spirulina platensis đạt mật độ cao nhất (50.160 cá thể/lít). Như vậy, qua kết quả khảo sát và phân tích thống kê cho thấy loài Microcytis aeruginosa và Spirulina platensis thường xuất hiện và có mật độ cao ở ao nuôi cá, đây là các thủy vực giàu dinh dưỡng (hàm lượng N, P, C cao) và độ kiềm cao (Bảng 2 và 3). Điều này phù hợp với nghiên cứu cho rằng loài Microcytis aeruginosa thường có mật độ cao và nở hoa ở các thủy vực giàu dinh dưỡng (Shirota et al, 1966), loài Spirulina platensis phân bố nhiều ở các thủy vực nước đứng, tù, nước ngọt, giàu Na2CO3 (Vũ Ngọc Út, Dương Thị Hoàng Oanh, 2013).

3.2 Kết quả phân tích, đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố môi trường và sinh vật lượng tảo lam tại các địa điểm khảo sát.

Khảo sát mối tương quan giữa sinh vật lượng tảo lam và các yếu tố môi trường

tại 16 điểm nghiên cứu qua hai mùa ta được bảng kết quả như sau:

Bảng 10 . Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và sinh vật lượng tảo lam vào mùa mưa

Các chỉ tiêu môi trường

66

Nhiệt độ pH Độ mặn Hệ số tương quan (r) 0,4 0,6 -0,4 Mức độ tương quan Trung bình Trung bình Trung bình

Độ trong Độ kiềm Ánh sáng Hàm lượng N Hàm lượng P Hàm lượng C -0,03 0,5 0,3 0,7 0,8 0,9 Rất yếu Trung bình Yếu Mạnh Mạnh Rất mạnh

Qua kết quả cho thấy các yếu tố độ mặn độ trong có mối tương quan nghịch

(r < 0) với thành phần loài tảo lam tại các địa điểm khảo sát, có nghĩa là nếu độ mặn, độ trong càng tăng thì sinh vật lượng càng giảm và ngược lại. Sự ảnh hưởng này có cường độ từ rất yếu đến trung bình (|r| = 0,2-0,4 và |r| <0,2). Nhiệt độ, pH, độ kiềm và ánh sáng có mối tương quan thuận (r > 0) đến sinh vật lượng tảo lam, tuy nhiên mối tương quan này có mức độ từ yếu đến trung bình |r| = 0,4-0,6: Mức trung bình, |r| = 0,2-0,4: Mức yếu. Hàm lượng N, P, C có mối tương quan thuận (r > 0) và ảnh hưởng từ mạnh đến rất mạnh |r| 0,8: Tương quan rất mạnh, |r| = 0,6-0,8: Mức mạnh) đối với sinh vật lượng tảo lam, nghĩa là nếu hàm lượng N, P, C cao thì thành phần loài sẽ cao và mối tương quan này rất chặt chẽ với nhau. Như vậy, tại các địa điểm có hàm lượng N, P, C cao thì sinh vật lượng tảo lam sẽ cao tương ứng với kết quả thống kê là điểm Đ4 và Đ8 có sinh vật lượng cao nhất (phụ lục 3).

Bảng 11 . Kết quả đánh giá mối tương quan giữa các chỉ tiêu môi trường và sinh vật lượng tảo lam vào mùa nắng

Các chỉ tiêu môi trường

Nhiệt độ pH Độ mặn Độ trong Độ kiềm Ánh sáng Hàm lượng N Hàm lượng P Hàm lượng C Hệ số tương quan (r) -0,08 0,8 -0,4 -0,3 0,7 0,07 0,9 0,9 0,8 Mức độ tương quan Rất yêu Mạnh Trung bình Yếu Mạnh Rất yếu Rất mạnh Rất mạnh Mạnh

67

Qua kết quả cho thấy các yếu tố nhiệt độ, độ mặn và độ trong có mối tương quan nghịch với thành phần loài tảo lam tại các địa điểm khảo sát (r < 0), có nghĩa là nếu nhiệt độ, độ mặn và độ trong càng tăng thì sinh vật lượng càng giảm và ngược lại. Sự ảnh hưởng này có cường độ từ rất yếu đến trung bình (|r| = 0,4-0,6: Mức trung bình, |r| = 0,2-0,4 và |r| <0,2: Không có tương quan hoặc ở mức rất yếu).

68

Yếu tố ánh sáng có mối tương quan thuận (r > 0) đến sinh vật lượng tảo lam, tuy nhiên mối tương quan này có mức độ rất yếu (|r| <0,2) nên ảnh hưởng không đáng kể. Các yếu tố như pH, độ kiềm, hàm lượng C có mối tương quan thuận (r > 0) và ảnh hưởng mạnh (|r| = 0,6-0,8) đến sinh vật lượng tảo lam. Hàm lượng N, P có mối tương quan thuận (r > 0) và ảnh hưởng rất mạnh (|r| = 0,6-0,8) đối với sinh vật lượng tảo lam, nghĩa là nếu hàm lượng N, P cao thì thành phần loài sẽ cao và mối tương quan này rất chặt chẽ với nhau. Như vậy, tại các địa điểm có pH, độ kiềm và hàm lượng N, P cao thì sinh vật lượng tảo lam sẽ cao tương ứng với kết quả thống kê là điểm Đ4 và Đ8 có sinh vật lượng cao nhất (phụ lục 3).

PHẦN KẾT LUẬN

1. Kết luận

- Đã ghi nhận được 49 loài tảo lam xuất hiện ở hai mùa thuộc các địa điểm khảo sát tại Trà Vinh. Thủy vực ruộng lúa có chỉ số đa dạng loài Shanon Weiner là cao nhất (H = 1.67).

- Thành phần loài tảo lam ở loại hình thủy vực ruộng lúa là đa dạng nhất (28

loài) và thấp nhất ở ao tôm (12 loài).

- Vào mùa nắng, mật độ cao nhất là loài Microcytis aeruginosa với 132.960 cá thể/lít. Vào mùa mưa, mật độ cao nhất là loài Spirulina platensis với 126.000 cá thể/lít. Mật độ trung bình của tảo lam cao nhất là điểm Đ8 với 932.640 cá thể/lít tương ứng với thành phần loài cao nhất là 13 loài.

- Loài Microcytis aeruginosa và Spirulina platensis thường xuất hiện và có mật độ cao ở ao nuôi cá, đây là các thủy vực giàu dinh dưỡng (hàm lượng N, P, C cao) và độ kiềm cao.

- Hàm lượng dinh dưỡng N, C, P có mối tương quan thuận và quan hệ chặt chẽ đến thành phần loài, sinh vật lượng tảo lam. Thành phần loài tảo lam phân bố nhiều và mật độ cao ở các địa điểm có hàm lượng dinh dưỡng cao.

2. Kiến nghị

- Tiếp tục nghiên cứu về mặt ứng dụng đối với loài Spirulina platensis có lợi và nghiên cứu các biện pháp khống chế đối với loài có hại thuộc chi Microcytis, đặc biệt là loài Microcytis aeruginosa.

- Mở rộng thêm các địa điểm khảo sát và độ sâu mực nước ở tất cả các thủy

69

vực toàn tỉnh Trà Vinh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng việt

1. Nguyễn Thị Ben, 2011. Nghiên cứu sự phân bố của các Tảo lam và sự tương quan với các yếu tố môi trường tại hồ công viên 29/3, thành phố Đà Nẵng. Luận văn Cao học ngành Sinh thái học. Đại học Đà Nẵng. Đà Nẵng.

2. Lê Văn Cát, Đỗ Thị Hồng Nhung, Ngô Ngọc Cát, 2006. Nước nuôi thủy sản, chất lượng và giải pháp cải thiện chất lượng nước. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.

3. Nguyễn Lân Dũng, Phạm Văn Ty, Nguyễn Đình Quyến, 2012. Giáo trình vi sinh vật học. NXB Giáo dục Việt Nam. 519 trang.

4. Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Hải Hà, 2006. Chương trình Vi sinh vật học, Vietsciences, Hà Nội.

5. Nguyễn Thành Đạt, Mai Thị Hằng, 2000. Sinh học vi sinh vật học – Bộ GD và ĐT. NXB GD. tr 64-65.

6. Nguyễn Thị Vân Hà, 2007. Quản lý chất lượng môi trường. NXB đại học quốc gia.

7. Hồ Thanh Hải, 1993. Một số đặc điểm về cấu trúc thẳng đứng của nhiệt độ và oxy hòa tan ở một số hồ chứa. Tuyrn tập các công trình Sinh thái và tài nguyên sinh vật. Nhà xuất bản KH & KT. Hà Nội: 229 – 303.

8. Phạm Hoàng Hộ, 1967. Tảo học. Tủ sách khoa học. NXB BGD&ĐT, 273 trang

9. Nguyễn Thị Thanh Hương & Nguyễn Danh, 2007. Nghiên cứu đa dạng thành phần vi khuẩn lam phù du ở Hồ Ayun Hạ, tỉnh Gia Lai. Tạp chí khoa học công nghệ nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 11- tháng 11/2009.

10. Đặng Đình Kim, 1999. Công nghệ sinh học vi Tảo. NXB Nông nghiệp.

11. Lam Mỹ Lan, 2000. Bài giảng Thực vật thủy sinh. Trường ĐHCT.

12. Huỳnh Thị Kim Ngân, 2011. Ý nghĩa thực tiễn của Tảo lam. Báo cáo môn học phân loại học thực vật. DH12SI.

13. Nguyễn Thị Phi Oanh, 2012. Giáo trình Sinh học rong. Tài liệu nội bộ. Trường Đại học Cần Thơ.

14. Đào Thanh Sơn, Bùi Bá Trung, Đỗ Hồng Lan Chi, 1985. Đa dạng sinh học Tảo lam ở Hồ dầu Tiếng. Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 5. Tr. 660-665.

15. Dương Đức Tiến, 1996. Phân loại vi khuẩn lam Việt Nam. NXB Nông nghiệp.

16. Nguyễn Anh Tuấn,1994. “Cẩm nang kỹ thuật nuôi thuỷ sản nước lợ”, NXb Nôngnghiệp.

17. Nguyễn Thanh Tùng, 1967. Contribution a Letude de quelques Zygnemacees au Sud Vietnam. Ann. Fac. Saigon, 1970.

70

18. Nguyễn Thị Thanh Thảo, 2005. Thành phần phiêu sinh thực vật và các yếu tố ảnh hưởng. NXB. Hà Nôi. 2007

19. Phạm Văn Thương, Lê Tân Phú , 2013. Tiểu luận Đa dạng sinh học ở các thủy vực nước ngọt nội địa và phương hướng khai thác.

20. Nguyễn Văn Tuyên, 2003. Đa dạng sinh học Tảo trong thủy vực nội địa Việt Nam. Triển vọng và thứ thách. NHÀ XUấT BảN Nông nghiệp. 495 trang

21. Vũ Ngọc Út, Dương Thị Hoàng Oanh, 2013. Giáo trình thực vật và động vật thủy sinh. NXB Đại học Cần Thơ. 324 trang.

22. Trần Văn Vĩ, 1995. Thức ăn tự nhiên. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội

Tài liệu sách, giáo trình

1. Giáo trình cơ sở Rong biển, 1979. Tài liệu nội bộ trường Đại học Hải Sản. NXB Nha Trang. 196 trang.

2. Thống kê kinh doanh. Tài liệu thuộc chương trình đào tạo thạc sĩ kinh doanh quốc tế (MBA). 2009

Tài liệu nước ngoài

1. Ball, R. C. 1945. A Summary of Experiments in Michigan Lakes on the Elimination of Fish Population with Rotenone, 1934-1942. Trans. Amer. Fish. Soc., 75:139-146

2. Boyd, C.E. and E. Scarbrood, 1974. Effects of Agriculture Limestone on

Phytoplankton Communities of Fish Ponds. Arch. Hydrobiol, 74: 336-349.

3. Bergey; John G Holt; et al.,1994. Bergey's manual of determinative bacteriology. Publication: Lippincott Williams & Wilkins. 2000

4. Carmichael, W. W. (ed.), 1981. The Water Environment. Algal Toxins and

Health.

5. Chanratchakool, et al., 2003. Health management in shrimp ponds. Third edition. Aquatic animal Health research institute, Deparments of fisheries, Kasetsart Universty Campus, Bangkok.

6. Desikachary, 1959. Cyanophyta. Published by Indian cuoncil of agricultural research new delhi. 684 pp.

7. Gaidukow, 1902. Uber Einfluss farbigen Lichtes auf die Farbung dẻ Oscillarien Abh. Preuss. Akad. Wiss. Berlin, n, 5, Anhang Phý – Math. Kl. 1-36.

8. Gross et al., 1988. Blue – green aglae of lake thunderbird. Proc. Okla. Acad. Sci. 68.

9. Hoongerhout, H. and Amesz, J, 1965 Growth rates of Photosynthetic Microorganisms in Laboratory Cultures. Arch. Microbio., 50, 40-15.

10. Hutchinson, G. E., 1967. A Treatise on Limnology: Vol I. Geography, Physis, and Chemistry. John Wiley and Son, NewYork. 1.015 pp

71

11. Komarek J.,Anagnostidis K.,1999. Cyanoprokaryota 1. Oscillatoriales. In Budel, B., Gartner, G., Krienitz, L.,Schagerlm. 1-759

12. Krishna Pilai, K., 1954. Growth and development of Cyanobacteria Phormidium tennue (Menegh) in hypersalina enviroments, Indian Journal of Fisheries, 1 130 – 135.

13. Luuc, R. M. et al, 1990. Toxic of Cyanobacteria in Water. Chapter 2 Cyanobacteria in the Environment.

14. Prowse G.A, 1966. Plankton productivity in relation to tropical fish culture. In scientific proplem of the humid tropical zone detal and their implecation. Pp 263 – 266, UNESCO, pari.

15. Philip Sze, 1981. A Biological of the Algae. Third Edition. Wm. C, Brow Publishers.

16. Renoylds, C.S. 1984 The Ecology of Freshwater Phytoplankton. University Press, Cambridge.

17. Reynolds, C.S 1997. Vegetation Process in the Pelagic: a model for Ecosystem

18. Round, F. E. 1975. The Biology of the Algae. Edward Arnold, London. March 1988.

19. Sastry, C.A. 1988. Biological indicators of water quality. Encology Vol. 2 No. 10 March 1988.

20. Seymour, E. A. 1980. The Effect and Control of Algal Blooms in Fish Ponds Aquaculture, 46:111-117

21. Smith V. H. 1983. Low nitrogen to Phosphorus ratio favor dominance by blue- green algae in Lake Phytoplankton 221:669-671

22. Schindler, D. W. 1977. Evolution of Phosphorus limitation in Lakes. Science 195:260 – 262.

23. Schopf J.W, 1993. Microfossils of the early Archean Apex chert: new evidence of the antiquity of life. Science, 260 pp 24. Shirota A. and Hoang Quoc Truong, 1966. The Freshwater plankton of South

VietNam. Ann. Fac. Sci. Saigon. Pp. 177-236.

25. Theory. Excellence in the ecology. Ecology institude. Oldondery Lutic, 31 pp.

26. Wilde & Benemann, 1993. Bioremoval of heavy metals by the use of microalgae. Westinghouse Savannah River Co., Savannah River Site, Aiken, SC 29808, USA.

Tài liệu trang web

www.thuysanvietnam.com.vn. Truy cập ngày 16/1/2016.

Biology.umbc.edu. Truy cập ngày 25/3/2015.

www.pir.sa.gov.au. Truy cập ngày 25/3/2015.

http://aquanetviet.org/. Truy cập ngày 15/3/2016.

72

www.vietnamplus.vn, 15/12/2015.

PHỤ LỤC 1 Hình ảnh dụng cụ và địa điểm thu mẫu

Ao tôm

Ao cá lóc

73

Ao cá thát lát

Ruộng lúa

* Dụng cụ thu mẫu

74

Lưới PSTV định tính

Lưới PSTV định lượng

75