16
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Nghiên cứu tác động của sức mạnh thị trường tới sự
ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nguyễn Nhật Minh1, Trần Thị Phương Anh2, Nguyễn Thị Minh Trang3
1Học viện Ngân hàng, Việt Nam 2,3Tng Đại học Kinh tế Quốc dân, Việt Nam
Ngày nhận: 17/12/2023 Ngày nhận bản sửa: 05/04/2024 Ngày duyệt đăng: 10/04/2024
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu tác động của sức mạnh thị trường tới sự ổn định
của các ngân hàng thương mại Việt Nam bằng cách sử dụng bộ dữ liệu bảng
không cân bằng theo quý của 22 ngân hàng thương mại trong giai đoạn quý
2 năm 2015 đến quý 3 năm 2023, kết hợp với các hình phân tích dữ liệu
bảng phù hợp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra sức mạnh thị trường tác động tiêu
cực tới sự ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam, hàm ý rằng một
thị trường ngân hàng tính cạnh tranh cao hơn sẽ sự ổn định cao hơn.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi và lạm phát cao hơn cũng
khiến các ngân hàng trở nên kém ổn định hơn khi các yếu tố này sẽ gia tăng
rủi ro phá sản, rủi ro thanh khoản cũng như rủi ro tín dụng của các ngân hàng.
Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao
sự ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm việc tạo môi
The impact of market power on bank stability: Empirical evidence from Vietnam
Abstract: This paper investigates the impact of market power on the stability of Vietnamese commercial
banks using a quarterly unbalanced panel data set of 22 commercial banks in the period from Q2:2015
to Q3:2023, combined with panel data analysis models. Research results show that market power has a
negative impact on the stability of Vietnamese commercial banks, implying that a more competitive banking
market will have higher stability. In addition, a higher non-performing loan ratio, loan-to-deposit ratio and
inflation also make banks less stable, as these factors increase bankruptcy risk, liquidity risk, and credit risk.
On that basis, this paper proposes some policy recommendations to improve the stability of Vietnamese
commercial banks, including creating a favorable banking business environment, encouraging diversification
and innovation in the banking market (such as supporting small banks to increase capital or establish
FinTech in a controlled manner). In addition, commercial banks need to proactively manage their internal
factors such as credit risk and loan to deposit ratio to ensure stability.
Keywords: Market power, Stability, Bank, Vietnam
Doi: 10.59276/JELB.2024.07.2634
Nguyen, Nhat Minh1, Tran, Thi Phuong Anh2, Nguyen, Thi Minh Trang3
Email: minhnn@hvnh.edu.vn1, p.anh1709@gmail.com2, ntmtrang7703@gmail.com3
Organization of all: 1Banking Academy of Vietnam, 2,3National Economics University, Vietnam
NGUYỄN NHẬT MINH - TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH - NGUYỄN THMINH TRANG
17
Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
trường kinh doanh ngân hàng thuận lợi, khuyến khích sự đa dạng hóa đổi
mới trong thị trường ngân hàng, như hỗ trợ các ngân hàng quy nhỏ
tăng vốn hay thành lập các fintech một cách kiểm soát. Bên cạnh đó, các
ngân hàng thương mại cần chủ động quản trị các yếu tố nội tại của mình như
rủi ro tín dụng, tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi nhằm đảm bảo và nâng cao sự
ổn định cho ngân hàng.
Từ khóa: Sức mạnh thị trường, Ổn định, Ngân hàng, Việt Nam
1. Giới thiệu
Hệ thống ngân hàng nói chung và các ngân
hàng thương mại (NHTM) nói riêng đóng
vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế
của các quốc gia. Tuy nhiên, sự bất ổn tiềm
ẩn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng
cũng thể gây ra những hậu quả nghiêm
trọng trên phạm vi toàn cầu, trong đó cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 một
dụ điển hình (Allen Carletti, 2012).
vậy, trong những năm gần đây, các nghiên
cứu nhằm nâng cao sự ổn định của hệ
thống ngân hàng đã thu hút sự quan tâm
của nhiều học giả trên thế giới. Theo đó,
hội nhập thị trường quá trình toàn cầu
hóa, đi kèm với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ đã cho phép các ngân hàng
thể dễ dàng mở rộng hoạt động kinh doanh
cung cấp dịch vụ trên quy toàn cầu
(Vives, 2001). Điều này đồng nghĩa với
việc họ sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh
từ các đối thủ trong nước và quốc tế, từ đó
yêu cầu các ngân hàng cần phải nâng cao
sức mạnh thị trường để gia tăng lợi nhuận
cũng như giảm thiểu rủi ro. Những diễn
biến này đặt ra câu hỏi lớn về mức độ ảnh
hưởng của sức mạnh thị trường đến sự ổn
định của các ngân hàng, đặc biệt trong
bối cảnh kinh tế Việt Nam. Trong những
năm gần đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam
ghi nhận sự tăng trưởng rệt về cả quy
lẫn số lượng xu hướng mở rộng này đã
khiến mức độ cạnh tranh trong ngành ngân
hàng ngày càng trở nên gắt gao hơn, đặt
ra nhiều thách thức đối với sự ổn định của
các NHTM (Le và cộng sự, 2020). Vì vậy,
việc nghiên cứu tác động của sức mạnh
thị trường tới sự ổn định của ngân hàng
lại càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, quan
điểm về việc gia tăng sức mạnh thị trường
nhằm cải thiện sự ổn định giảm thiểu
rủi ro đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi giữa
hai trường phái thuyết cạnh tranh- dễ tổn
thương (competition- fragility nexus)
cạnh tranh- ổn định (competition- stability
nexus) (Fu cộng sự, 2014). Bên cạnh đó,
các nghiên cứu hiện nay về tác động của
sức mạnh thị trường tới sự ổn định của các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam còn
chưa có sự thống nhất.
Bài viết này nghiên cứu tác động của sức
mạnh thị trường tới sự ổn định của các
NHTM Việt Nam thông qua hình hồi
quy dữ liệu bảng kết hợp với bộ dữ liệu
không cân bằng theo quý của 22 NHTM
Việt Nam trong giai đoạn từ quý 2 năm
2015 đến quý 3 năm 2023. Bên cạnh phần
giới thiệu, phần còn lại của bài viết
cấu trúc như sau: Phần 2 trình bày sở
thuyết về sức mạnh thị trường tổng
quan nghiên cứu về tác động của sức mạnh
thị trường tới sự ổn định của ngân hàng;
Phần 3 phương pháp nghiên cứu áp
dụng; Phần 4 tóm tắt các phát hiện kết
quả chính của nghiên cứu. Cuối cùng, các
kết luận hàm ý quản trị được thảo luận
trong Phần 5.
Nghiên cứu tác động của sức mạnh thị trường tới sự ổn định của
các ngân hàng thương mại Việt Nam
18 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024
2. sở thuyết tổng quan nghiên cứu
2.1. Sự ổn định của ngân hàng
Mặc nhận được nhiều sự quan tâm của
các học giả cũng như những người làm
chính sách, tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa sự thống nhất về khái niệm của
sự ổn định ngân hàng trong các nghiên
cứu tiền nhiệm. Sự ổn định của ngân hàng
xuất phát từ nguyên “An toàn trên
hết” (safety first) được phát triển bởi Roy
(1952) khi cho rằng một ngân hàng cần duy
trì hoạt động hiệu quả nhằm ứng phó với
các mối đe dọa tiềm ẩn giảm thiểu rủi
ro khi khủng hoảng tài chính xảy ra (Atta
Mills cộng sự, 2019). Đồng ý với quan
điểm trên, Karim cộng sự (2019) chỉ ra
sự ổn định của ngân hàng đề cập đến khả
năng ngân hàng duy trì tình trạng tài chính
an toàn khả năng đáp ứng các nghĩa
vụ của mình một cách nhất quán, được thể
hiện qua tỷ lệ an toàn vốn, chất lượng tài
sản, lợi nhuận tính thanh khoản. Tương
tự, Jahn Kick (2012) định nghĩa sự ổn
định của ngân hàng trạng thái các
ngân hàng phân bổ nguồn lực, phân tán rủi
ro phân phối thu nhập một cách hợp lý,
từ đó gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân
hàng. Trong khi đó, Tan (2014) lại tả
sự ổn định ngân hàng mức độ hiệu quả
trong việc nhận biết, đo lường, giám sát
kiểm soát các loại rủi ro khác nhau bao
gồm rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng,
rủi ro tập trung, rủi ro lãi suất rủi ro tỷ
giá của các nhà quản ngân hàng. Với
vai trò trung gian chính trong nền kinh
tế, sự ổn định của các ngân hàng sẽ tác
động mạnh mẽ tới các điều kiện trong thị
trường tài chính cũng như nền kinh tế thực
(Swamy, 2014; Gersl và Hermanek, 2007).
Tổng quát lại, sự ổn định của một ngân
hàng khả năng ngân hàng đó thể
hoạt động một cách an toàn, bền vững
hiệu quả được thể hiện thông qua khả năng
tạo ra lợi nhuận, kiểm soát rủi ro cũng như
đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính.
Để đo lường tính ổn định, Jokipii Monnin
(2013) sử dụng xác suất ngân hàng đó
phá sản trong quý tới làm chỉ số đo lường sự
bất ổn định. Những nghiên cứu khác sử dụng
đòn bẩy tài chính để phân tích mức độ ổn
định của các ngân hàng với hai quan điểm.
Một mặt, gia tăng tỷ lệ đòn bẩy sẽ làm cho
các ngân hàng trở nên an toàn hơn thông qua
việc cải thiện khả năng thanh khoản (Kato
Tsuruga, 2016). Mặt khác, tỷ lệ đòn bẩy
quá lớn thể làm tăng rủi ro thanh khoản
lên hệ thống ngân hàng nền kinh tế, làm
mất đi những lợi ích ban đầu mang lại
(Kiema Jokivuolle, 2014; Acosta-Smith
cộng sự, 2020). Bên cạnh hai thước đo
trên, nhiều nghiên cứu gần đây đã sử dụng
Z-score như một chỉ số phổ biến để đo lường
mức độ ổn định của các ngân hàng (Beck
cộng sự, 2012; Cihak và Hesse, 2007; Khan
cộng sự, 2017; Pham Nguyen, 2023)
với công thức như sau:
Z = (ROA + (E/A)) / δROA
Trong đó:
Z: Z-Score đo lường ổn định của ngân hàng
ROA: Lợi nhuận trên tài sản của ngân hàng
E:Vốn chủ sở hữu của ngân hàng
A:Tổng tài sản của ngân hàng
δROA: độ lệch chuẩn của ROA
Ưu điểm của Z- score là giúp các nhà phân
tích đánh giá khả năng hấp thụ sự biến động
trong lợi nhuận của vốn ngân hàng
không khiến ngân hàng bị vỡ nợ (Laeven
Levine, 2009). Z-score cao đồng nghĩa
với ngân hàng sự ổn định cao hơn
nguồn vốn của ngân hàng này có khả năng
hấp thụ những sự biến động trong lợi nhuận
tốt hơn (Houston cộng sự, 2010). Theo
đó, bài viết này sử dụng Z-score làm biến
số đo lường sự ổn định của ngân hàng.
2.2. Sức mạnh thị trường của ngân hàng
NGUYỄN NHẬT MINH - TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH - NGUYỄN THMINH TRANG
19
Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Sức mạnh thị trường (market power)
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi
của các định chế tài chính, tác động tới
hiệu quả hoạt động hay sự ổn định của các
ngân hàng (Chaffai Coccorese, 2023).
Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế
(Organization for Economic Cooperation
and Development- OECD) định nghĩa sức
mạnh thị trường khả năng của doanh
nghiệp thể gia tăng duy trì giá bán
sản phẩm của họ ở mức cao hơn thị trường
(OECD, 1993). Theo Beighley McCall
(1975), sức mạnh thị trường phản ánh liệu
doanh nghiệp khả năng huy động các
nguồn lực với chi phí thấp trong khi vẫn có
thể bán ra với giá cao hay không. Tương
tự, De Guevara và cộng sự (2005) và Delis
và cộng sự (2017) định nghĩa sức mạnh thị
trường của ngân hàng khả năng ngân
hàng thể gây ảnh hưởng đến thị trường
bằng cách thiết lập mặt bằng lãi suất, kiểm
soát nguồn cung tín dụng, hoặc hạn chế sự
cạnh tranh trong hệ thống. Như vậy, sức
mạnh thị trường của ngân hàng khả năng
ngân hàng kiểm soát thị trường áp đặt
giá lên sản phẩm và dịch vụ để đạt được ưu
thế so với đối thủ cạnh tranh. Trong một
thị trường ít sự cạnh tranh, các ngân
hàng sẽ có sức mạnh thị trường cao hơn và
ngược lại, một hệ thống ngân hàng có mức
độ cạnh tranh cao dẫn đến việc các ngân
hàng có sức mạnh thị trường yếu hơn.
Đã nhiều nghiên cứu trước đây quan
tâm đến việc thu thập các chỉ số nhằm đo
lường sức mạnh thị trường của các ngân
hàng để trả lời các câu hỏi liên quan đến
mối quan hệ tiềm ẩn giữa sức mạnh thị
trường với các biến số đặc trưng của các
ngân hàng (Brissimis Delis, 2011).
Stigler (1964), Lindenberg Ross (1981)
Keeley (1990) cho rằng Tobin’s q
chỉ số tưởng để đo lường sức mạnh của
thị trường bởi phản ánh thu nhập độc
quyền trong giá trị thị trường của vốn chủ
sở hữu thay vì chi phí của các tài sản được
mua. Trong khi đó, chỉ số Lerner, được
ước lượng với công thức thể hiện sự chênh
lệch giữa giá chi phí biên, cũng được
nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để đại diện
cho sức mạnh thị trường của ngân hàng
(Ariss, 2010; Kasman cộng sự, 2010).
Ưu điểm của công thức này thể nắm
bắt được ảnh hưởng của cả sự tập trung thị
trường và độ co giãn của nhu cầu (Maudos
De Guevara, 2007). Tuy nhiên, với công
thức trên, việc đo lường chi phí biên khá
phức tạp, nên nhiều nghiên cứu hiện nay
đã đơn giản hóa chỉ số Lerner thông qua
việc đo lường tỷ số lợi nhuận trên doanh
thu của ngân hàng (Kasman cộng sự,
2010; Hawtrey Liang, 2008; Gounder
Sharma, 2012). Phương pháp này dễ
dàng tính toán được chỉ số Lerner dựa vào
các dữ liệu kế toán được công bố công khai
cũng như vẫn đảm bảo tính chất của chỉ số
này khi đo lường được sự chênh lệch giữa
doanh thu đầu ra chi phí đầu vào của
ngân hàng. Do đó, bài viết này sử dụng chỉ
số Lerner đã được đơn giản hóa nhằm đo
lường sức mạnh thị trường của ngân hàng.
Với phương pháp trên, chỉ số Lerner được
ước lượng với công thức như sau:
Lerner = (TR − TC) / TR
Trong đó:
TR: tổng doanh thu của ngân hàng
TC: tổng chi phí của ngân hàng.
Chỉ số Lerner càng cao cho thấy sức mạnh
thị trường của ngân hàng càng lớn, thể hiện
qua khả năng huy động nguồn vốn với chi
phí thấp trong khi vẫn duy trì doanh thu
mức cao. Ngược lại, trong một thị trường
cạnh tranh cao, ngân hàng ít khả năng
đạt được các biên lợi nhuận lớn dẫn đến chỉ
số Lerner thấp (Hawtrey và Liang, 2008).
2.3. Tổng quan các nghiên cứu tiền nhiệm
Đã nhiều công trình nghiên cứu về các
Nghiên cứu tác động của sức mạnh thị trường tới sự ổn định của
các ngân hàng thương mại Việt Nam
20 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024
ảnh hưởng của sức mạnh thị trường tới sự
ổn định của hệ thống ngân hàng (Schaeck
Cihák 2014; Ozili, 2018). Tuy nhiên,
vẫn chưa sự thống nhất trong kết quả
giữa các nghiên cứu này. hai quan
điểm đối lập nhau về mối quan hệ giữa sức
mạnh thị trường sự ổn định của ngân
hàng. Một mặt, thuyết cạnh tranh- dễ
tổn thương (competition- fragility nexus)
cho rằng mức độ cạnh tranh giữa các ngân
hàng càng cao dẫn đến sự kém ổn định của
các ngân hàng (Berger cộng sự, 2009;
Forssbæck Shehzad, 2015; Kasman
Kasman, 2015; Tongurai Vithessonthi,
2020). Mặt khác, thuyết cạnh tranh- ổn
định (competition- stability nexus) lại ủng
hộ cho quan điểm mức độ cạnh tranh trong
hệ thống ngân hàng càng cao sẽ giúp làm
tăng tính ổn định của ngân hàng (Nicoló
cộng sự, 2004; Uhde Heimeshoff,
2009; Fiordelisi Mare, 2014; Li, 2019;
Soedarmono cộng sự, 2011; Ovi
cộng sự, 2014).
Nghiên cứu ủng hộ thuyết cạnh tranh-
dễ tổn thương
thuyết truyền thống về cạnh tranh- dễ
tổn thương ủng hộ quan điểm rằng mức độ
cạnh tranh của các ngân hàng càng cao sẽ
dẫn đến sự kém ổn định của các ngân hàng.
Hay nói cách khác, ngân hàng sức mạnh
thị trường càng cao thì các ngân hàng càng
ổn định.
Đầu tiên, thuyết này thể dựa trên
hình về giá trị thực (charter value). Marcus
(1984), Keeley (1990), Noman cộng sự
(2017) cho rằng giá trị thực của ngân hàng
sụt giảm khi sức mạnh thị trường của ngân
hàng bị suy yếu, từ đó khiến các ngân hàng
chọn chiến lược đầu rủi ro hơn, làm giảm
sự ổn định của ngân hàng. Một lập luận
khác cho rằng ngân hàng với sự độc quyền
càng lớn sẽ được nhiều lợi ích kinh tế
hơn từ các hoạt động trung gian, bao gồm
việc sàng lọc những người cho vay tiềm
năng, tăng chất lượng tín dụng tổng thể
của danh mục đầu tư, từ đó nâng cao sự ổn
định của ngân hàng (Chan, 1986; Cetorelli
và Peretto, 2000; Marquez, 2002).
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của
Berger cộng sự (2009) với dữ liệu của
8.235 ngân hàng tại các nước phát triển cho
thấy sức mạnh thị trường càng cao thì càng
đủ vốn để bảo vệ họ khỏi rủi ro trong thị
trường đang có tốc độ tăng trưởng tín dụng
cao. Tương tự, Forssbæck Shehzad
(2015) (mẫu nghiên cứu hơn 800 ngân
hàng từ 48 quốc gia trên thế giới), Kasman
Kasman (2015) (mẫu nghiên cứu các
ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ) và Tongurai và
Vithessonthi (2020) (mẫu nghiên cứu của
các ngân hàng tại Nhật Bản) cũng tìm thấy
mối quan hệ cùng chiều giữa sức mạnh thị
trường sự ổn định của các ngân hàng
trên thế giới. Tại Việt Nam, (2022) sử
dụng mẫu nghiên cứu của 30 ngân hàng
từ năm 2008- 2020 cũng đưa ra kết luận
ủng hộ thuyết cạnh tranh- dễ tổn thương.
Cụ thể, trong bối cảnh sự gia nhập của
các tổ chức tài chính nước ngoài vào thị
trường nội địa, mức độ cạnh tranh của các
ngân hàng Việt Nam cao hơn kéo theo đó
những cuộc đua lãi suất, những hành
động rút tiền gửi ạt của khách hàng gia
tăng, dẫn tới những ảnh hưởng tiêu cực đến
tính ổn định của ngân hàng. Tương tự, với
dữ liệu của 27 NHTM Việt Nam giai đoạn
2006- 2016, Phan Phan (2017) kết luận
rằng chỉ số Lerner càng thấp ( mức độ cạnh
tranh càng cao) sẽ dẫn đến sự kém ổn định
của ngân hàng. Theo đó, việc mở rộng hoạt
động toàn diện hoặc tăng cường cho vay
nhằm nâng cao sự cạnh tranh một trong
những nguyên nhân chính gây nên sự gia
tăng của rủi ro tín dụng, từ đó làm giảm
sự ổn định của các NHTM Việt Nam. Kết
quả này cũng tương đồng với nghiên cứu
của Đặng (2016) với mẫu nghiên