intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu Thị trường chứng khoán

Chia sẻ: Pham My Nuong | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:20

94
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc sử dụng các giấy tờ có giá trên Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW ảnh hưởng đến tính lỏng của thị trường vốn và do đó đă ảnh hưởng đến giỏ cỏc chứng khoán Lăi suất có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nhà đầu tư chính là lăi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương (ở VN là ngân hàng nhà nước). Lăi suất chiết khấu là chi phí mà các ngân hàng thuơng mại phải trả cho việc vay tiền từ ngân hàng trung ương. Nói rơ ràng hơn th ́ khi các ngân hàng thương mại cần tiền, họ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu Thị trường chứng khoán

  1. Vấn đề 1: Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trương vốn: I- Các vấn đề lư thuyết 1) Bản chất thị trường tiền tệ -Thị trường tiền tệ (TTTT) là nơi trao đổi mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn. - Đặc trưng của TTTT là các hàng hoá có tính thanh khoản cao, mức rủi ro thấp. - Đây là thị trường quan trọng để tài trợ các nhu cầu về vốn lưu động của các DN và CP - Phân chia thành thị trường liờn ngơn hang và thị trường tiền tệ mở rộng căn cứ vào sự khác biệt về chức năng cũng như phạm vi thị trường 2) Bản chất thị trường vốn - Thị trường vốn (TTV) là nơi trao đổi mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn - Các hàng hoá của TTV có rủi ro cao hơn nên lợi nhuận cao hơn - Thoả măn nhu cấu về vốn đầu tư dài hạn của DN và CP - Có thể được phân chia thành thị trường tín dụng trung, dài hạn và thị trường chứng khoán (TTCK) 3) Mối quan hệ giữa 2 thị trường TTTT và TTV có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau. Mọi sự thay đổi của TTTT( sự tăng giảm lăi suất, giá cả) đều ảnh hưởng đến sự biến động của TTV. Ngược lại, mọi sự thay đổi trên TTV (giá chứng khoán, thị giá cổ phiếu, trái phiếu..) cũng ảnh hưởng đểnTTTT 3.1- Tác động của TTTT lên TTCK : Việc sử dụng các giấy tờ có giá trên Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW ảnh hưởng đến tính lỏng của thị trường vốn và do đó đă ảnh hưởng đến giỏ cỏc chứng khoán Lăi suất có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nhà đầu tư chính là lăi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương (ở VN là ngân hàng nhà nước). Lăi suất chiết khấu là chi phí mà các ngân hàng thuơng mại phải trả cho việc vay tiền từ ngân hàng trung ương. Nói rơ ràng hơn th́ khi các ngân hàng thương mại cần tiền, họ có thể vay ở ngân hàng trung ương bằng cách mang chiết khấu các giấy tờ có giá với một lăi suất do ngân hàng trung ương công bố từ trước, gọi là lăi suất chiết khấu. Như vậy NHTW sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để tác động đến cung cầu tiền trong nền kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng lăi suất chiết khấu khiến cho việc vay tiền của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Khi ngân hàng trung ương công bố tăng lăi suất chiết khấu, thường sẽ kèm theo là các chứng khoán chính phủ mới được phát hành thí dụ như trái phiếu chính phủ. Đây được xem là cơ hội đầu tư an toàn nhất. Nói cách khác, lúc này tỷ suất sinh lợi phi rủi ro sẽ tăng và do đó đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các cơ hội đầu tư tương tự trở nên hấp dẫn hơn. Sự thay đổi các mức lăi suất do NHTW ấn định kéo đến sự thay đổi lăi suất trên thị trường liờn ngơn hang, kết quả là lái suất tiền gửi và tiền vay mà ngân hàng áp dụng cho khách hàng thay đổi, khi đó ngưới gửi tiền sẽ cân nhắc giũa việc gửi tiền vào Ngân hàng hay đầu tư vào chứng khoán và trái phiếu, cổ phiếu. Do đó sự thay đổi các mức lăi suất kéo theo sự thay đổi của giá chứng khoán. Cụ thể: + Lăi suất chiết khấu tăng -> Giá cổ phiếu sẽ giảm → Nhà đầu tư chỉ thâm nhập thị trường chứng khoán khi giá cổ phiếu thấp hơn trước khi tăng lăi suất → Index giảm. + Lăi suất chiết khấu tăng → Lăi suất tiền vay tăng → Doanh nghiệp hạn chế quy mô sản xuất do ngại trả lăi tiền vay → Kết quả kinh doanh đạt được ít khả quan hơn do doanh thu giảm → Tác động không tốt đến tâm lư Nhà đầu tư → Index giảm.
  2. + Lăi suất chiết khấu tăng → Lăi suất trái phiếu chính phủ tăng, lăi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tăng do cạnh canh với lăi suất trái phiếu → Lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức sẽ dịch chuyển nhiều về Ngân hàng và Kho bạc → Lượng tiền bỏ vào thị trường chứng khoán giảm → Index giảm. + Lăi suất chiết khấu tăng → Lăi suất tiền vay tăng → Lượng tiền vay Ngân hàng để đầu tư vào thị trường chứng khoán sẽ giảm đi đáng kể → Index giảm. - Hiệu ứng thông tin từ TTTT ảnh hưởng đến TTCK: + Bất kỳ sự biến động thông tin nào trên thị trường tiền tệ đều gây ảnh hưởng đến thị trường vốn, Chúng ta có thể thấy điều này qua việc FeD ( cuc dự trữ liên bang My) thông báo sẽ bơm tiền vào lưu thông, lập tức chỉ sổ chứng khoán của thị trường Mỹ tăng lên. Nguyên nhân do GDP của Mỹ chiếm 28%GDP của toàn thế giới nên bất kỳ động thái nào của FeD đế dẫn độn phản ứng tức th́ của các thị trường liên quan. Điều này cho thấy hiệu ứng thông tin từ thị trường tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số giỏ trờn TTCK, thông qua đó tác động lên TTV 3.2- Tỏc đụng của TTCK lên TTTT: - Gớa chứng khoán tác động ngược lại các mức lăi suất : Khi giá chứng khoán tăng làm tăng cầu chứng khoán và giảm cầu tiền tệ, các mức lăi suất sẽ bị tác động. Trong xu hướng con người thích đầu tư vào chứng khoán hơn là gửi tiền vào ngân hàng hoăc xảy ra hiện tượng rút ti ền ồ ạt từ ngân hàng vào thị trường chứng khoán, buộc các ngân hàng phải tăng lăi suất huy đông, giảm lăi suất cho vay để cạnh tranh thu hút người gửi tiền - Sự phát triển của chứng khoán tác động đến nghiệp vụ thị trường mở của NHTW, quy mô vốn trên thị trường tiền tệ: Với sự phát triển của TTCK là tăng cầu về chứng khoán làm cầu tiền giảm, người dân không có nhu cầu mua các giấy tờ có giá trên thị trường mở mà thay vào đó là muốn đổi những giấy tờ có giá sang chứng khoán. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc NHNN bỏn trỏi fiếu trên thị trường mở làm cho giá trái phiếu giảm, dẫn đến lăi suất tăng. Điều này làm cho quy mô vốn trên thị trường tiền tệ bị giảm khi khả năng cho vay của ngân hàng giảm sút - Rủi ro mà TTTT gánh chịu từ biến động của TTCK: Đối với những thị trường tài chính phát triển, giữa thị trường chứng khoàn và thị trường tiền tệ như hai bnh thông nhau, thể hiện ở chỗ, giá chứng khoán tăng th́ lăi suất trên thị trường ́ tiền tệ sẽ giảm, và giá chứng khoán giảm th́ lăi suất sẽ tăng. Bên cạnh đó, rủi ro thị trường là rất lớn, việc rút tiền hàng loạt xẩy ra ở hai ngân hàng thương mại cổ phần thời gian qua, cũng như sự biến động đột ngột của tỷ giá trên thị trường tư do trong những ngày gần đây do thông tin thất thiệt và sự lên xuống chóng mặt cuả chỉ số chứng khoán cũng phản ánh sự non yếu của thị trường tiền tệ. Điều này làm cho dự trữ của các ngân hàng đột ngột giảm, tnh ́ trạng thiếu vốn xảy ra , làm giảm khả năng ứng phó với các tnh huống xấu khi tnh trạng ́ ́ không đủ vốn để hoạt động. Đây là rủi ro lớn nhất mà TTTT gánh chịu khi có biến động trên TTCK II- Thực trạng Việt Nam: - Việt Nam hiện nay, giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chưa có sự gắn kết, chưa thực sự là hai bnh thông nhau. Sự tăng giảm của giá chứng khoán trong thời gian qua ́ dường như chỉ bị tác động của yếu tố cung cầu về chứng khoán mà chưa bị tác động bới sự thay đổi laĩ suất trên thị trường tiền tệ. Điều đó, thể hiện rơ nét nhất là trong 4 tháng đầu năm 2006, chỉ số chứng khoán Vn-Index tăng vọt, và trong tháng 5/2006 lại có xu hướng giảm, điều đó không phải chịu tác động hiệu ứng bởi lăi suất thị trường tiền tệ (xem biểu đồ sau).
  3. Nguyên nhân là do qui mô thị trường chứng khoán cn nhỏ, hàng hoỏ ớt, biến động giá chứng ̣ khoán là thất thường, đồng thời mức độ phát triển của thị trường tiền tệ cũng cn rất hạn chế ̣ nên khó có sự gắn kết. - Thị trường chứng khoán phát triển, trở thành kênh đầu tư hấp dẫn hàng đầu, thu hút rất nhiều nhà đầu tư. Điều này là nguyên nhân khiến tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng của dân cư bị giảm và chảy mạnh qua chứng khoán. Báo cáo mới đây của Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho biết, trong 3 tháng đầu năm, điểm đáng chú ư nhất trên lĩnh vực huy động vốn và cho vay của nền kinh tế là tiền gửi VND của dân cư tăng rất thấp, chỉ tăng 6,6% so với mức tăng 13,2% của cùng kỳ năm ngoái. Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, nguyên nhân của tnh trạng này do thời ́ gian qua nhiều DN đă phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn và rất nhiều người dân đó dựng tiền đầu tư vào chứng khoán thay v́ gửi vào ngân hàng. Cổ phiếu: Khi một công ty cổ phần tự huy động vốn thì số vốn cần huy động đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Các cổ đông sở hữu cổ phiếu có quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty như: Được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh; Được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty; Và phải chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn góp của mình. 2. Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm vốn gốc và lãi) của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Khi mua trái phiếu, bạn trở thành chủ nợ của tổ chức phát hành – còn gọi là bên vay (có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương hoặc các công ty). Với tư cách là người sở hữu trái phiếu – hay còn gọi là trái chủ, bạn sẽ được ưu tiên thanh toán tài sản thanh lý khi công ty bị phá sản trước các cổ đông. Tuy nhiên, bạn không được tham gia vào những quyết định của tổ chức phát hành, và cũng không được ''chia gì'' thêm ngoài những khoản tổ chức phát hành đã cam kết Cổ phiếu thường được gọi là chứng khoán vốn, trong khi trái phiếu được gọi là chứng khoán nợ. Một nhà đầu tư khi nắm giữ cổ phiếu của một doanh nghiệp trên TTCK, nhà đầu tư đó có quyền làm chủ một phần của doanh nghiệp đó, tương đương với trị giá cổ phiếu mình có. Ngược lại, khi một nhà đầu tư nắm giữ một số trái phiếu của một doanh nghiệp trên TTCK, nhà đầu tư đó là chủ nợ của doanh nghiệp với trị giá trái phiếu người ấy đang nắm giữ. Giữa trái phiếu và cổ phiếu có một gạch nối liên kết, đó là trường hợp trái phiếu chuyển đổi được. Khi bắt đầu, nhà đầu tư mua trái phiếu, tức là cho doanh nghiệp vay một số tiền bằng trị giá mua trái phiếu (tất nhiên phải tính trừ phí hoa hồng môi giới...), nhưng nhà đầu tư vẫn kỳ vọng rằng đây là doanh nghiệp sẽ có lãi và có tương lai phát triển với mức thu nhập cao, nhà đầu tư đưa ra điều kiện là từng phần hoặc toàn phần trị giá trái phiếu sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu. Khi đó từ vai trò chủ nợ, nhà đầu tư trở thành một trong các sở hữu chủ của doanh nghiệp và
  4. chuyển chứng khoán nợ thành chứng khoán vốn. Cổ phiếu khác trái phiếu như thế nào? - Xin được giải thích như sau: Cổ phiếu thường được gọi là chứng khoán vốn, trong khi trái phiếu được gọi là chứng khoán nợ. Một nhà đầu tư khi nắm giữ cổ phiếu của một doanh nghiệp trên TTCK, nhà đầu tư đó có quyền làm chủ một phần của doanh nghiệp đó, tương đương với trị giá cổ phiếu mình có. Ngược lại, khi một nhà đầu tư nắm giữ một số trái phiếu của một doanh nghiệp trên TTCK, nhà đầu tư đó là chủ nợ của doanh nghiệp với trị giá trái phiếu người ấy đang nắm giữ. Giữa trái phiếu và cổ phiếu có một gạch nối liên kết, đó là trường hợp trái phiếu chuyển đổi được. Khi bắt đầu, nhà đầu tư mua trái phiếu, tức là cho doanh nghiệp vay một số tiền bằng trị giá mua trái phiếu (tất nhiên phải tính trừ phí hoa hồng môi giới...), nhưng nhà đầu tư vẫn kỳ vọng rằng đây là doanh nghiệp sẽ có lãi và có tương lai phát triển với mức thu nhập cao, nhà đầu tư đưa ra điều kiện là từng phần hoặc toàn phần trị giá trái phiếu sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu. Khi đó từ vai trò chủ nợ, nhà đầu tư trở thành một trong các sở hữu chủ của doanh nghiệp và chuyển chứng khoán nợ thành chứng khoán vốn. Đề tài: Phân biệt thị trường tiền tệ và thị trường vốn. thực trạng 2 thị trường tại Việt Nam và giải pháp phát triển. I/Phân biệt thị trường tiền tệ và thị trường vốn: 1: khái niệm: Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai dạng của thị trường tài chính được phân chia căn cứ vào thời hạn của các công cụ tài chính. * Thị trường tiền tệ(TTTT) là nơi trao đổi mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn. theo thông lệ, một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán dưới 1 năm là công cụ của TTTT.(lâu nhất là 12 tháng và ngắn nhất là 1 đêm hay 24 giờ) Gồm: TTTT liên ngân hàng(diễn ra hoạt động tín dụng giữa các ngân hàng) và thị trường tiền tệ mở rộng * Thị trường vốn (TTV) là nơi trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn. một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán trên 1 năm được coi là công cụ của TTV. Gồm: thị trường tín dụng trung, dài hạn (vốn được chuyển giao qua các trung gian tài chính) và thị trường chứng khoán (diễn ra hoạt động trao đổi mua bán các chứng khoán có thời hạn trên 1 năm thể hiện dưới hình thức trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ chứng khoán phái sinh. Gồm có 3 hình thức tổ chức: sở giao dịch chứng khoán, thị trường tự do và thị trường OTC) 2: chức năng: * TTTT: nhìn từ góc độ người đi vay, là nhằm bù đắp chênh lệch giữa cung và cầu vốn khả dụng. Tài trợ các nhu cầu về vốn lưu động của các doanh nghiệp và chính phủ (phục vụ cho tái sản xuất giản đơn là chủ yếu).==>trọng tâm là cung cấp phương tiện giúp cá nhân và doanh nghiệp nhanh chóng điều chỉnh tình hình thanh khoản thực của họ theo số lượng tiền mong muốn. * TTV: nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và chính phủ (phục vụ cho tái sản xuất mở rộng là chủ yếu) ==>trọng tâm cho mục đích
  5. tiết kiệm và đầu tư. 3: đặc điểm của các công cụ tài chính: * TTTT: do thời hạn ngắn nên những biến động về giá của các công cụ tài chính do ảnh hưởng của sự biến động lãi suất thị trường là không đáng kể, các công cụ của TTTT thường được phát hành theo dạng được chuẩn mực hóa cao và thị trường thứ cấp của chúng rất phát triển, hơn nữa thông thường các công cụ này được đảm bảo bằng tài sản hoặc các dạng đảm bảo khác của người đi vay chúng là những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao và ít rủi ro lợi nhuận đem lại thấp hơn. * TTV: ngược lại với TTTT, trong TTV vì thời hạn dài nên những biến động về giá của các CCTC do ảnh hưởng của sự biến động lãi suất thị trường là đáng kể, thị trường thứ cấp của chúng không phát triển chúng là những công cụ đầu tư có tính thanh khoản rất thấp, có mức rủi ro cao lợi nhuận đem lại cao hơn. II. Thực trạng thị trường tiền tệ và thị trường vốn 1. Thị trường tiền tệ 1.1 Các bộ phận cấu thành thị trường Mặc dù đến nay quy mô của thị trường tiền tệ Việt Nam còn rất khiêm tốn, nhưng các bộ phận cấu thành của thị trường đã hình thành ở một mức độ nhất định. Đó chính là thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN như nghiệp vụ cho vay của NHNN dưới các hình thức cho vay cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ …Thành viên tham gia thị trường, hàng hóa giao dịch trên thị trường cũng như doanh số hoạt động của các nghiệp vụ thị trường tiền tệ đều được từng bước mở rộng; hoạt động của thị trường đã từng bước được hiện đại hoá, đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Trước hết, cần phải kể đến thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, nơi thực hiện việc điều tiết ngắn hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ giữa các ngân hàng. Thị trường nội tệ liên ngân hàng: được hình thành từ 1993 dưới hình thức ban đầu là 1 thị trường tập trung, có tổ chức qua NHNN. Đến 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thông qua NHNN. Cho đến nay, doanh số hoạt động trên thị trường đã tăng đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực hiện qua mạng. Về thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: hình thành năm 1994 đến nay, thông qua thị trường, NHNN đã theo dõi được các giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, nắm bắt diễn biến cung cầu và tham gia thị trường với vai trò người mua bán cuối cùng. NHNN thực hiện can thiệp thị trường khi cần thiết nhằm thực hiện
  6. mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ: điều hành linh hoạt tỷ giá, hỗ trợ cho các ngân hàng cân đối ngoại tệ và đặc biệt là góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Về thị trường tín phiếu kho bạc: từ năm 1995, việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động vốn với chi phí thấp cho Ngân sách Nhà nước và đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa chủ yếu cho các giao dịch nghiệp vụ tiền tệ giữa NHNN với các ngân hàng thương mại (NHTM) nhất là nghiệp vụ thị trường mở để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Kỳ hạn tín phiếu Kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày, 273 ngày và 182 ngày. Bên cạnh các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đã từng bước trở thành thành viên tham gia thị trường. Về các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN: Từ tháng 7/2000, NHNN chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở, đã đánh dấu một bước đổi mới mạnh mẽ trong việc điều tiết tiền tệ gián tiếp theo các nguyên tắc thị trường. Tổng doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở theo cả 2 chiều mua và bán tăng mạnh qua các năm; kỳ hạn giao dịch cũng được đa dạng hóa từ 7-182 ngày; khối lượng giao dịch qua từng phiên, định kỳ giao dịch cũng ngày càng tăng thêm. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở giúp tăng cường khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và các điều kiện trên thị trường tiền tệ. Bên cạnh nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN cũng được từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ gián tiếp của NHNN. Đến nay tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá. Thủ tục, quy trình xử lý đề nghị vay tái cấp vốn từng bước được tinh giản, tạo thuận lợi cho các ngân hàng. Cơ chế tái cấp vốn được áp dụng bình đẳng cho tất cả các ngân hàng, không phân biệt loại hình sở hữu. Đặc biệt từ năm 2003, thực hiện Luật sửa đổi một số Điều Luật Ngân hàng Nhà nước, NHNN đã cho phép cả các giấy tờ có giá dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ được sử dụng trong các giao dịch giữa NHNN và các ngân hàng. Điều này làm tăng đáng kể khối lượng giấy tờ có giá được giao dịch với NHNN, mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các kênh hỗ trợ vốn của NHNN, tạo điều kiện nâng cao khả năng điều tiết của NHNN đối với thị trường tiền tệ. Đến nay, bên cạnh các NHTM Nhà nước, khá nhiều NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn nêu trên của NHNN. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp với mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Từ năm 2003, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi suất sàn, NHNN đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng. Qua đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều hành như một kênh hỗ trợ vốn thường xuyên với
  7. giá rẻ từ NHNN. Trong khi đó, nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá áp dụng lãi suất tái cấp vốn là mức lãi suất trần để NHNN từng bước thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường. Ngoài các kênh hỗ trợ vốn ngắn hạn của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn, NHNN còn thực hiện cho vay thấu chi và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Từ 7/2001, NHNN bắt đầu thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ các tổ chức tín dụng gặp khó khăn tạm thời về vốn khả dụng VND và nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ. Thực tế công cụ này đã phát huy tác dụng trong những thời điểm các NHTM thực sự khan hiếm về vốn khả dụng VND, nhất là đối với các ngân hàng nước ngoài có ngoại tệ dư thừa nhưng lại khó khăn về vốn VND và không sở hữu giấy tờ có gía ngắn hạn nên không có điều kiện tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn khác của Ngân hàng Nhà nước. Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2 Về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động thị trường tiền tệ Có thể tạm coi điểm mốc đánh dấu sự ra đời của thị trường tiền tệ Việt nam là việc Thống đốc NHNN ban hành Chỉ thị số 07/CT-NH ngày 7/10/1992 về quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng. Kể từ đó đến nay, NHNN đã từng bước ban hành mới, bổ sung, sửa đổi các văn bản tạo khung pháp lý cho hoạt động thị trường tiền tệ. Việc xây dựng và từng bước hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ đã được thực hiện nhằm xử lý bất cập, khó khăn, đáp ứng yêu cầu thực tế và từng bước phù hợp thông lệ quốc tế. Để tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ, NHNN cũng đã ban hành quy định về tổ chức và hoạt động môi giới tiền tệ (Quyết định số 315/2004/QĐ-NHNN ngày 7/4/2004); quy định về việc chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá giữa TCTD với khách hàng (Quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004) và phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng xây dựng mẫu hợp đồng gốc Repo. NHNN cũng đã sửa đổi, bổ sung văn bản hướng dẫn đối với các giao dịch hối đoái của các
  8. TCTD (Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004) và ban hành các quy định mới về các công cụ thị trường tiền tệ nhất là các công cụ phòng ngừa rủi ro (options, swap lãi suất....) phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành mới và không ngừng hoàn thiện các cơ chế, quy chế về các nghiệp vụ thị trường tiền tệ giữa NHNN và các TCTD như nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá; các quy định về đấu thầu tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ qua NHNN, quy định về lưu ký giấy tờ có giá. 1.3 Một số hạn chế, bất cập của thị trường tiền tệ. Bên cạnh những kết quả chủ yếu nêu trên, cho đến nay thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập.Trước hết, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn còn phát triển ở mức độ thấp xét trên cả góc độ quy mô, nhất là chủng loại hàng hóa, công cụ giao dịch trên thị trường. Thứ hai, do nhiều nguyên nhân mà thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự thực hiện có hiệu quả vai trò tiếp nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Về công cụ giao dịch, loại nghiệp vụ trên thị trường: Theo Luật NHNN, các giấy tờ có giá ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ gồm tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác. Tuy nhiên, trên thực tế đến trước năm 2003, công cụ chủ yếu được sử dụng trên thị trường tiền tệ là tín phiếu Kho bạc và tín phiếu NHNN. Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật NHNN, từ sau năm 2003 đến nay danh mục giấy tờ có giá có thể giao dịch trong các nghiệp vụ thị trường tiền tệ đã được tăng cường bao gồm cả các giấy tờ có giá dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, các giấy tờ có giá có thể sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ vẫn tập trung chủ yếu ở các NHTM Nhà nước. Một số công cụ đã được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ các nước như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi... nhưng hầu như vẫn chưa được hình thành, hoặc còn ít sử dụng ở Việt Nam. Vừa qua, Luật công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội chính thức thông qua, song NHNN hiện đang trong quá trình phối hợp với các cơ quan hữu quan để triển khai soạn thảo các văn bản hướng dẫn. Kỳ hạn của các trái phiếu Chính phủ – công cụ chủ yếu sử dụng trong nghiệp vụ thị trường tiền tệ vẫn chưa thực sự đa dạng hóa, nhất là tín phiếu Kho bạc với thời hạn ngắn dưới 364 ngày ít được phát hành. Thậm chí, đến nay chưa có tín phiếu Kho bạc với kỳ hạn ngắn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng …Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều kiện đầu tư vào giấy tờ có giá, tạo công cụ tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ. Các giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chủ yếu được thực hiện dưới hình thức giao ngay. Các công cụ mang tính phòng ngừa
  9. rủi ro, công cụ phái sinh còn ít được áp dụng hoặc mới bước đầu triển khai, nhất là giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và giao dịch hoán đổi với các hình thức hoán đổi lãi suất, hoán đổi tiền tệ. Về thành viên tham gia thị trường: Cho đến nay lượng thành viên tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ vẫn còn hạn hẹp. Chẳng hạn, trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, thành viên chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Ngoài ra, có khoảng 10 NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã bước đầu tham gia nghiệp vụ này. Trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ giữa NHNN và các ngân hàng, ngoài các NHTM Nhà nước, cũng chỉ có khoảng 12-14 NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là thành viên thường xuyên tham gia. Đặc biệt, trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã hình thành nhóm các ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND chủ yếu là các NHTM Nhà nước và ngược lại nhóm các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh là các ngân hàng thường có nhu cầu vay tiền VND. Việc điều chuyển vốn thường chỉ diễn ra một chiều giữa nhóm các ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay. trên thị trường chứng khoán; Mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường. Đối với những doanh nghiệp đã cổ phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết; đồng thời tiến hành rà soát, thực hiện ngay việc bán tiếp phần vốn, thực hiện ngay việc bán tiếp phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hình thức công ty cổ phần và niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán; Mở rộng quy mô và đa dạng hóa các phương thức phát hành trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp trên thị trường vốn; Phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc gia; Phát triển các loại chứng khoán phái sinh như quyền chọn mua, quyền chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm liên kết (chứng khoán – bảo hiểm, chứng khoán – tín dụng, tiết kiệm – chứng khoán),…. -Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc, được quản lý, giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với thị trường khu vực và quốc tế: Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt; Từ sau năm 2010 nghiên cứu hình thành và phát triển thị trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường chứng khoán hóa các khoản cho vay trung dài hạn của ngân hàng…; Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị trường giao dịch tập trung, thị trường OTC, thị trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; Chuyển Trung tâm giao dịch chứng khoán thành Sở giao dịch chứng khoán hoạt động theo mô hình công ty tháng 6/2008 theo tinh thần của Luật chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện chức năng tổ chức và
  10. giám sát giao dịch chứng khoán tập trung. Nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường đảm bảo khả năng liên kết với thị trường các nước trong khu vực; Tổ chức thị trường giao dịch OTC theo hướng: Thực hiện đăng ký, lưu ký tập trung đối với các công ty cổ phần đủ điều kiện theo quy định của Luật chứng khoán; Nghiên cứu cơ chế giao dịch đối với các chứng khoán không đủ điều kiện niêm yết theo mô hình thỏa thuận thông qua các công ty chứng khoán; Các giao dịch chứng khoán tập trung thanh toán và chuyển giao thông qua Trung tâm lưu ký chứng khoán, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát của Trung tâm giao dịch chứng khoán trong việc công bố thông tin,… để tăng cường tính công khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý, giám sát của Nhà nước đối với các giao dịch chứng khoán, thu hẹp hoạt động trên thị trường tự do. Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường: Tăng số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán,…. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường; Mở rộngphạm vi hoạt động Trung tâm lưu ký chứng khoán, áp dụng các chuẩn mực lưu ký quốc tế, thực hiện liên kết giao dịch thanh toán giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ; Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam và cho phép một số tổ chức định mức tính nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước: Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam theo lộ trình đã cam kết; Đa dạng hóa các loại quỹ đầu tư, tạo điều kiện cho phép Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện…. tham gia đầu tư trên thị trường vốn; Từng bước phát triển các quỹ hưu trí tư nhân để thu hút các vốn dân cư tham gia đầu tư; Khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam. -Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước: Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp ứng được yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc tế; Bổ sung các chế tài nghiêm khắc về dân sự, hình sự để phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán; Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động chứng khoán để khuyến khích thị trường phát triển, đồng thời góp phần giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán và từng đối tượng, thành viên tham gia thị trường; Thực hiện mở cửa thị trường vốn theo lộ trình hội nhập đã cam kết, mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển thị trường; Đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị trường vốn; Tăng cường phổ cập kiến thức về thị trường vốn, thị trường chứng khoán cho công chúng, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Nhìn chung, TTTC dù ngắn hạn hay dài hạn ( thị trường tiền tệ hay thị trường
  11. vốn ), đều ngày càng mang tính mở và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại cả ở cấp quốc gia, cũng như quốc tế. Chúng tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn cho đầu tư phát triển từ các nguồn trong và ngoài nước, từ doanh nghiệp và trong dân; cung cấp cho các nhà đầu tư những cơ hội và hình thức đầu tư đa dạng, phù hợp; làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính và giúp đánh giá xác thực hơn giá trị của doanh nghiệp và nền kinh tế; đồng thời giúp thực hiện hiệu quả hơn các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường mở... Câu IV/3: Khái niệm thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Sự khác nhau về mục đích giữa Thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp 1. Thị trường tiền tệ - Là thị trường vốn ngắn hạn. Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vì các ngân hàng thương mại là chủ thể quan trọng nhất trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn. - Thị trường tiền tệ có một số đặc điểm sau đây: + Thời gian luân chuyển vốn ngắn hạn Công cụ của thị trường này là những món nợ vay hay những chứng khoán có thời gian đáo hạn dưới 1 năm. + Hình thức TC đặc trưng là hình thức TC gián tiếp. Đóng vai trò trung gian giữa những người vay và người cho vay là các ngân hàng thương mại + Các công cụ trên thị trường tiền tệ có độ an toàn tương đối cao nhưng lại thường có mức lợi tức thấp. - Thị trường tiền tệ được phân thành 3 bộ phận sau: + Thị trường cho vay ngắn hạn của các định chế TC trung gian. Thị trường này hoạt động dựa vào hoạt động của các tổ chức TC trung gian. Các tổ chức này sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá nhân bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và đem cho các tổ chức kinh tế, cá nhân khác vay lại nếu cần. + Thị trường hối đoái (thị trường ngoại hối): là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ. Khác với các loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá, thì trên thị trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệt nữa của thị trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nào người dân ở các khu vực khác nhau còn dùng những đồng tiền khác nhau thì thị trường ngoại hối tồn tại là cần thiết. + Thị trường liên ngân hàng: đây là thị trường hoạt động phục vụ cho các khách hàng là các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động không phải lúc nào ngân hàng luôn có đủ tiền để cho vay, không phải lúc nào ngân hàng cũng tìm được khách hàng để cho vay hết khoản tiền mà mình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu cầu vay và cho vay giữa các ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động chính của mình là huy động vốn và cho vay vốn. Đặc điểm của thị trường này là chỉ dành riêng cho các ngân hàng và thường khối lượng, giá trị giao dịch là lớn. 2. Thị trường vốn: - Thị trường vốn là thị trường dành cho các khoản vốn dài hạn. Thị trường này cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn của chính phủ, các doanh nghiệp và các hộ gia đình. Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và tất nhiên mức lợi tức của nó cũng sẽ cao hơn. - Trong lịch sử hình thành của thị trường TC thì thị trường tiền tệ là thị trường được hình thành trước vì ban đầu do kinh tế chưa phát triển nên nhu cầu vốn và nhu cầu tiết kiệm vốn chưa nhiều chủ yếu là ngắn hạn. Sau khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về các nguồn vốn
  12. dài hạn cho đầu tư xuất hiện thì thị trường vốn ra đời. Bên cạnh việc huy động vốn dài hạn thông qua các định chế TC trung gian thì chính phủ và các doanh nghiệp còn tự huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán. - Thị trường vốn bao gồm: thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán, thị trường vay nợ dài hạn thì lại được chia thành + Thị trường thế chấp: đây là thị trường chuyên cho vay các món nợ dài hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giá trị của các món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản (nhà, đất, nhà xưởng,...) nên cần có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp có thể là những tài sản sẵn có của những người đi vay và kể cả những tài sản được hình thành từ khoản nợ vay đó. Chính vì thế, thị trường thế chấp còn được gọi là thị trường cho vay dài hạn có cầm cố bất động sản + Thị trường tín dụng thuê mua (cho thuê TC): Tín dụng thuê mua hay còn được gọi là hoạt động cho thuê TC hoặc có thể được gọi là thuê vốn. Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuê là người sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê tài sản trong một khoảng thời gian đã được thảo thuận trước. Trong suốt thời gian thuê, người thuê không được quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ hạn. Khi kết thúc hợp đồng, người thuê có thể chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê nhưđã thoả thuận trong hợp đồng. Thông thường hoạt động tín dụng thuê mua được cung cấp bởi các ngân hang lớn hoặc các công ty TC. Cho nên thị trường tín dụng thuê mua là một nơi hoạt động của ngân hàng và công ty TC. 3. Thị trường chứng khoán: - Đây là thị trường được hình thành dùng để giao dịch mua bán chứng khoán. Đối với hoạt động của thị trường này khá là phức tạp nhưng cũng rất hấp dẫn. Chúng ta sẽ có dịp nói đến nó về sau. Tuy nhiên, khi nói đến thị trường chứng khoán thì chúng ta có thể chia nó ra thành 2 loại thị trường cơ bản là: + Sở giao dịch chứng khoán: là thị trường chứng khoán chính thức bởi vì nó được tổ chức một cách tập trung tại địa chỉ cụ thể và tuân thủ theo những qui được ban hành một cách chặt chẽ + Thị trường OTC (Over The Counter): đây là thị trường chứng khoán ở cấp độ cao hơn với sự hỗ trợ của các thiết bị hiện tại nên việc giao dịch chứng khoán không cần được tập trung lại một nơi cụ thể mà có thể thực hiện giao dịch từ nhiều nơi khác nhau. Đồng thời số lượng chứng khoán được giao dịch trên thị trường này sẽ nhiều hơn so với thị trường chứng khoán tập trung, không bó hẹp trong số những chứng khoán được nằm trong danh mục cụ thể. 4. Sự khác nhau giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp a. Thị trường sơ cấp (primary market): - Đây là nơi mua bán những chứng khoán mới phát hành. Vì thế, trong thực tế người ta còn gọi thị trường phát hành chứng khoán. Nguồn vốn chủ yếu của thị trường này là nguồn tiền tiết kiệm của công chúng cũng như một số tổ chức phi TC. Như vậy, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng của thị trường chứng khoán đó là mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử dụng, đưa tiền tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Với đặc tính thị trường sơ cấp là nơi phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng cho nên nó được xem là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và chỉ tạo ra phương tiện huy động vốn. Vì thế, vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và là tăng vốn đầu tư cho
  13. nền kinh tế. Trong thị trường sơ cấp, nhà phát hành (người bán chứng khoán) là người huy động vốn và người đầu tư mua chứng khoán là nhà đầu tư. - Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai đoạn gay go nhất, vì nếu không đạt được kết quả thì chứng khoán phát hành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán. - Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá chứng khoán ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị danh nghĩa của chứng khoán. Nhà phát hành sẽ thu được vốn mới chỉ khi những chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Sau đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không làmảnh hưởng đến số vốn của người phát hành. b. Thị trường thứ cấp (secondary market): - Đây còn được gọi là thị trường cấp hai, là nơi mua bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Đây cũng là một bộ phận quan trọng của thị trường TC và có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường sơ cấp và khác với thị trường sơ cấp là nó hoạt động một cách liên tục. Chứng khoán giao dịch trên thị trường này có thểđược mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau với tác động của quan hệ cung cầu và nhiều nhân tố khác. Nhờ có thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâmđầu tư vào chứng khoán, vì khi cần tiền họ có thể bán lại các chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường. - Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng sau: + Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ TC nhằm thu tiền mặt, tức là tạo cho các công cụ TC tăng cao tính thanh khoản + Kiếm lời từ việc nắm giữ chứng khoán + Xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sởđấu giá tự do + Giá hợp lý trên thị trường cấp hai ảnh hưởng đến giá phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp c. Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp - Tóm lại, giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ giữa 2 thị trường này là mối quan hệ nội tại, trong đó thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đềđể cho thị trường thứ cấp hoạt động; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán cho thị trường thứ cấp hoạt động; và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được. Vì khi đó các loại chứng khoán rất khó khăn khi phát hành, không ai dám đầu tư vào chứng khoán vì chứng khoán không thể chuyển đổi thành tiền tệ khi cần, vốn của họ bị ứ động. - Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai đoạn gay go nhất, vì nếu không đạt được kết quả thì chứng khoán phát hành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán.
  14. - Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá chứng khoán ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị danh nghĩa của chứng khoán. Nhà phát hành sẽ thu được vốn mới chỉ khi những chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Sau đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không làmảnh hưởng đến số vốn của người phát hành. b. Thị trường thứ cấp (secondary market): - Đây còn được gọi là thị trường cấp hai, là nơi mua bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Đây cũng là một bộ phận quan trọng của thị trường TC và có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường sơ cấp và khác với thị trường sơ cấp là nó hoạt động một cách liên tục. Chứng khoán giao dịch trên thị trường này có thểđược mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau với tác động của quan hệ cung cầu và nhiều nhân tố khác. Nhờ có thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâmđầu tư vào chứng khoán, vì khi cần tiền họ có thể bán lại các chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường. - Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng sau: + Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ TC nhằm thu tiền mặt, tức là tạo cho các công cụ TC tăng cao tính thanh khoản + Kiếm lời từ việc nắm giữ chứng khoán + Xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sởđấu giá tự do + Giá hợp lý trên thị trường cấp hai ảnh hưởng đến giá phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp c. Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp - Tóm lại, giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ giữa 2 thị trường này là mối quan hệ nội tại, trong đó thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đềđể cho thị trường thứ cấp hoạt động; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán cho thị trường thứ cấp hoạt động; và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được. Vì khi đó các loại chứng khoán rất khó khăn khi phát hành, không ai dám đầu tư vào chứng khoán vì chứng khoán không thể chuyển đổi thành tiền tệ khi cần, vốn của họ bị ứ động. Câu 9 : Phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn người ta đã chia TTCK ra làm 2 loại : A, Thị trường sơ cấp: - Là thị trường mua bán các CK lần đầu được phát hành qua đó huy động vốn để đưa và đầu tư - Thị trường này cung cấp hàng hóa cho TTCK , có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết ki ệm lớn nh nước ngoài, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các dn, các tổ chức tài chính, chính ph ủ t ạo thành mộ hđ of TTCK cũng làm tăng vốn cho nhà phát hành thông qua việc bán CK cho nhà đầu t ư - Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dung bằng cách giúp h ọ ch ọn th ời đi ểm cho vi ệ - Việc mua bán CK trên TT sơ cấp thường được tiến hành thông qua trung gian đó là NH - Phương thức phát hành chứng khoán : phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng - Thị trường này hđ không liên tục B, Thị trường thứ cấp: - Là thị trường mua đi bán lại các loại CK đã được phát hành lần đầu ở thị trường sơ cấp - Thị trường thứ cấp tạo đk dễ dàng để bán những CK đã phát hành ở thị trường sơ cấp TT th ứ cấp ưa chuộng và sẽ làm cho các tổ chức dễ dàng hơn cho các tổ chức phát hành bán chúng ở thị trường s
  15. - TT thứ cấp xđ giá bán of mỗi loại CK mà tổ chức phát hành bán ở thị trường sơ cấp → Mặc dù TT thứ cấp không làm tăng them vốn đầu tư cho nền kt nhưng chính nhờ 2 chức năng này mà thị tr - Việc mua bán trên TT thứ cấp được tiến hành thông qua các công ty môi giới - Thị trường thứ cấp được tổ chức theo 2 cách: Thị trường tập trung, TT phi tập trung, TT thứ 3 là thị trường của Sở giao dịch và hệ thống máy tính của thị trường OTC - Thị trường này hđ liên tục,các CK được mua đi bán lại làm tăng khả năng thanh khoản cho CK . 2 thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, thị trường sơ cấp tạo cơ sở hàng hóa cho TT thứ cấp...., Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh) Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn vay của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Mục lục 1 Đặc điểm cơ bản 2 Đặc trưng 3 Phân loại Trái phiếu 4 Tham khảo 5 Liên kết ngoài Đặc điểm cơ bản Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ có Công ty, mà còn có Chính phủ Trung ương và Chính phủ địa phương. Người mua trái phiếu chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ của chủ thể phát hành trái phiếu. Khác với người mua cổ phiếu là người Chủ sở hữu Công ty. Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi Công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trước hết Công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các Chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia cho các Cổ đông. Với những đặc điểm trên, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Vì vậy, trái phiếu là loại chứng khoán được các nhà đầu tư ưa chuộng. Đặc trưng Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
  16. Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu. Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn cóa thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên. Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái phiếu thường được mỗi năm hai hoặc một lần. Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. Có thể phân biệt 3 trường hợp: Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá); Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu); Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng). Dù trái phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng), thì lợi tức luôn được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái phiếu sẽ được thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu. [1] Phân loại Trái phiếu Phân loại theo người phát hành: Trái phiếu của Chính phủ: Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất. Trái phiếu của doanh nghiệp: Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng. Trái phiếu của ngân hàng và các tổ chức tài chính: các tổ chức này có thể phát hành trái phiếu để tăng thêm vốn hoạt động. Phân loại lợi tức trái phiếu Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá. Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): Là loại trái phiếu mà lợi tức được trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo một lãi suất tham chiếu. Trái phiếu có lãi suất bằng không: Là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn. Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành Trái phiếu bảo đảm: Là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng thanh toán, thì trái chủ có quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền người phát hành còn nợ. Trái phiếu bảo đảm thường bao gồm một số loại chủ yếu sau:
  17. Trái phiếu có tài sản cầm cố: Là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát hành cầm cố một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường giá trị tài sản cầm cố lớn hơn tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để đảm bảo quyền lợi cho trái chủ. Trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ: Là loại trái phiếu được bảo đảm bằng việc người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ chuyển nhượng mà mình sở hữu để làm tài sản bảo đảm. Trái phiếu không bảo đảm: Là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm vật bảo đảm mà chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành. Phân loại dựa vào hình thức trái phiếu Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi. Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát hành. Phân loại dựa vào tính chất trái phiếu Trái phiếu có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ được quyền chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ thể về thời gian và tỷ lệ khi mua trái phiếu. Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu: Là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho phép trái chủ được quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty. Trái phiếu có thể mua lại: Là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được quyền mua lại một phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán. [2] 1. Định nghĩa Tín phiếu kho bạc là loại giấy nợ do chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và là một công cụ trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính sách tiền tệ (tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành). Tín phiếu kho bạc thường có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hay 9 tháng với một hay nhiều mức mệnh giá. Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro tín dụng (rủi ro phá sản). 2. Đặc điểm của tín phiếu kho bạc: Do kho bạc nhà nước phát hành. Mục đích phát hành: + Nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước. + Là công cụ quan trọng để ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất: cao Đặc điểm loại chứng khoán: Chiết khấu hoặc mang mệnh giá. Mức độ rủi ro vỡ nợ: thấp nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ. Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro tín dụng (rủi ro phá sản) vì nó được Nhà nước bảo đảm thanh toán và thời hạn ngắn nên tác động của sự biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ không đáng kể. Tính thanh khoản (tính lỏng): là công cụ có tính thanh khoản cao nhất. Thời hạn của tín phiếu kho bạc: thường là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm với một hay nhiều mức mệnh giá. Hình thức phát hành: đấu thẩu, phát hành trực tiếp qua kho bạc, phát hành qua đại lí trên thị trường thứ cấp. *Ưu điểm: Nhà nước tiết kiệm được nhiều chi phí vay nợ. Ngân hàng trung ương thống nhất chỉ đạo chính sách lãi suất, tạo lập thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thị trường mở. Sự kết hợp giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng trung ương được thường xuyên, đồng bộ và kịp thời. 3. Quá trình phát hành tín phiếu Tín phiếu kho bạc được phát hành trên thị trường sơ cấp trên cơ sở đấu thầu. Tại Việt Nam, các tổ chức tham gia đấu thầu thường là các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm thỏa mãn một số quy định trong đó quan trọng nhất là phải có vốn pháp định bằng hoặc cao hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước. Có hai hình thức đấu thầu
  18. là ngang mệnh giá và chiết khấu. Các phiếu đặt thầu bao gồm thông tin về lãi suất và khối lượng tín phiếu đặt thầu. Việc xác định khối lượng và lãi suất trúng thầu của tín phiếu kho bạc được dựa vào khối lượng và lãi suất đặt thầu của các thành viên, và khối lượng tín phiếu kho bạc chính phủ muốn huy động. Khối lượng tín phiếu kho bạc trúng thầu được tính theo thứ tự tăng lên của lãi suất đặt thầu. Tại mức lãi suất đặt thầu cao nhất mà khối lượng tín phiếu đặt thầu vượt quá khối lượng dự kiến huy động, thì khối lượng tín phiếu trúng thầu sẽ được phân chia cho mỗi phiếu đặt thầu, tỷ lệ thuận với khối lượng tín phiếu đặt thầu của từng phiếu tại mức lãi suất đó. Lãi suất phát hành tín phiếu là lãi suất trúng thầu cao nhất được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng trúng thầu. Khung 1: Quy chế đấu thầu tín phiếu kho bạc (02 tháng 02 năm 2001) Các đối tượng được phép tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc tại Ngân hàng Nhà nước phải là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, có vốn pháp định từ 20 tỷ đồng trở lên, có tài khoản tiền đồng mở tại Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng được chỉ định. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng quy định rằng mỗi thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc phải kí quỹ tại Ngân hàng Nhà nước tối thiểu 5% giá trị đăng kí đấu thầu. 4. Định giá tín phiếu kho bạc khi phát hành trên thị trường sơ cấp Tín phiếu kho bạc là loại tín phiếu chiết khấu. Điều đó có nghĩa là, tín phiếu được bán thấp hơn mệnh giá và thanh toán theo mệnh giá khi đáo hạn, chứ không trả lãi theo định kỳ. Giá tín phiếu bán ra khi phát hành được tính theo công thức sau: P = (2) 2. TÀI SẢN VÔ HÌNH Là những quyên tài sản (nghĩa hẹp) thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định và thường chỉ gắn với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao. Tuy nhiên một số quyền tài sản có thể chuyển giao như thương hiệu hàng hóa hoặc ủy quyền cho chủ thể khác. Tài sản vô hình là những thứ không thể dùng giác quan để thấy được và không thể dùng đại lương để tính. Nhưng trong quá trình chuyển giao có thẻ quy ra tiền (cái này là quan trọng nhất). Tùy từng thời điểm nhất định mà quyền tài sản có giá như thế nào. Việc gây thiệt hại về tài sản vô hình của chủ thể sẽ phải bồi thường nhưng rất khó để xác định giá trị của nó. Ngoài những quy định trong luật còn việc xác định giá trị của tài sản vô hình không thể xác định được. Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. KÌ phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, ta có tài sản cố định và tài sản lưu động. Còn khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Vì các tài sản tài chính trên thị trường bao gồm các hang hóa .
  19. Trong đó, P là giá tín phiếu kho bạc bán ra F là mệnh giá tín phiếu kho bạc r là lãi suất tín phiếu kho bạc trúng thầu (%/năm) T là kỳ hạn của tín phiếu 365 ngày trong năm Giải thích: F là mệnh giá của tín phiếu, hay là giá trị người giữ tín phiếu nhận lại khi đáo hạn.Vì từ khi phát hành đến khi đáo hạn, tín phiếu không trả lãi suất, nên giá tín phiếu khi phát hành sẽ bằng giá trị hiện tại của F, với tỷ lệ chiết khấu là rT/365, vì r (lãi suất %/năm) được chuyển về rT/365 là lãi suất %/kỳ hạn của tín phiếu. Khung 3: Ví dụ định giá tín phiếu kho bạc khi phát hành Trong ví dụ ở Khung 1, mệnh giá tín phiếu kho bạc là F = 1.000.000đ, kỳ hạn T = 91 ngày (3 tháng), lãi suất trúng thầu r = 4,95%/năm. P = = = 987, 809 đ 5. Định giá tín phiếu kho bạc mua bán trên thị trường thứ cấp Về cơ bản, công thức 2 vẫn được áp dụng, nhưng lúc này ta phải chiết khấu bằng lãi suất không rủi ro hiện hành trên thị trường là i %/năm. Giá tín phiếu kho bạc mua bán lại trên thị trường thứ cấp được tính theo công thức sau: P = Trong đó: P là giá tín phiếu kho bạc F là mệnh giá tín phiếu kho bạc i là lãi suất không rủi ro hiện hành trên thị trường (%/năm) t số ngày từ thời điểm tính toán đến khi tín phiếu đáo hạn 365 là số ngày trong năm Ký quỹ tại Ngân hàng Nhà nước tối thiểu 5% giá trị đăng ký đấu thầu.1 Ở một số quốc gia (trong đó có Việt Nam), chính phủ đưa ra lãi suất chỉ đạo trong quá trình đấu thầu và lãi suất trúng thầu không được vượt quá lãi suất chỉ đạo này. Lãi suất chỉ đạo được áp dụng để giới hạn mức lãi tối đa mà chính phủ phải trả cho tín phiếu kho bạc huy động, nhưng khi áp dụng biện pháp này thì chính phủ có thể không huy động được đủ khối lượng tín phiếu mong muốn. Khung 2: Ví dụ về phát hành tín phiếu kho bạc Trong đợt phát hành 26/06/2000, chính phủ dự kiến huy động 300 tỷ đồng (300.000 tín phiếu, mỗi tín phiếu có mệnh giá 1 triệu đồng, kỳ hạn 3 tháng). Số thành viên dự thầu là 4. Phiếu đặt thầu Lãi suất đặt thầu Khối lượng tín phiếu đặt thầu Thành viên A 4,50% 100 tỷ đồng Thành viên B 4,95% 140 tỷ đồng Thành viên C 4,95% 110 tỷ đồng Thành viên D 5,00% 100 tỷ đồng Xếp các phiếu đặt thầu theo lãi suất từ thấp đến cao, 3 thành viên đầu có tổng khối lượng đặt mua là 350 tỷ đồng, lớn khối lượng chính phủ huy động. Vậy, thành viên D sẽ không trúng thầu. - Lãi suất trúng thầu là 4,95% áp dụng chung cho cả 3 thành viên A, B & C. - Thành viên A sẽ mua được toàn bộ 100 tỷ đồng tín phiếu (100.000 tín phiếu). - Thành viên B và C phải chia nhau khối lượng 200 tỷ đồng tín phiếu còn lại theo tỷ lệ khối lượng đặt thầu của họ - Khối lượng tín phiếu B mua được: 200*140/(140+110) = 112 tỷĐ (112.000 tín phiếu). - Khối lượng tín phiếu C mua được: 200*110/(140+110) = 88 tỷĐ (88.000 tín phiếu). Các phương thức phát hành tín phiếu kho bạc: *Phát hành tín phiều Kho bạc trực tiếp thông qua Kho bạc nhà nước: Các đơn vị kho bạc ở các tỉnh thành phố được trực tiếp tổ chức bán lẻ tín phiếu Kho bạc cho các đối tượng như cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng … Trước mỗi đợt phát hành, Bộ tài chính thông báo trên các phương tiện thong tin đại chúng về kế hoạch phát hành như: doanh số, thời hạn, lãi suất, mệnh giá, thời gian, phương thức thanh toán, địa đi ểm, … Vì tín phiếu Kho bạc phát hành dưới hình thức ghi số, người mua phải mở tài khoản chứng khoán và tiền mặt chỉ định để phản ánh các khoản thành toán tiền và chứng khoán phát sinh từ việc mua bán tín phiếu. Mọi khoản lãi, gốc được thanh toán trực tiếp vào tài khoán tiền chri định của người mua. *Phát hành thông qua đại lý Kho bạc nhà nước có thể phát hành tín phiếu Kho bạc thong qua đại lý là các tổ chức tín dụng. Các đại lý này được hưởng một khoản phí do Bộ tài chính quy định. Trên thị trường OTC, tín phiếu Kho bạc được mua bán vào bất cứ lúc nào. Các nhà kinh doanh tín phiếu kho bạc chính là các nhà tạo thị trường, còn
  20. các nhà môi giới đóng vài trò trung gian cho khách hàng của mình. Các tín phiếu kho bạc thường được trao đổi với khối lượng lớn giữa các nhà đầu tư chuyên nghiệp. 1- Tài sản hữu hình và tài sản vô hình. a - Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất do chủ tài sản nắm giữ để sử dụng phục vụ các mục đích của mình; nó bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. - Tài sản ngắn hạn là tài sản: + Được dự tính để bán hoặc sử dụng trong khuôn khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp; hoặc + Được nắm giữ chủ yếu cho mục đích thương mại hoặc cho mục đích ngắn hạn, hoặc + Là tiền hoặc tài sản tương đương mà việc sử dụng không gặp một hạn chế nào. - Tài sản dài hạn là các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn, bao gồm: tài sản cố định, tài sản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác. b- Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị do chủ tài sản nắm giữ để sử dụng phục vụ mục đích của mình; nó bao gồm: kỹ năng quản lý, bí quyết marketing, danh tiếng, uy tín, tên hiệu, biểu tượng doanh nghiệp và việc sở hữu các quyền và công cụ hợp pháp (quyền sử dụng đất, quyền sáng chế, bản quyền, quyền kinh doanh hay các hợp đồng). Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2