SỰ THỐNG NHẤT GIỮA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ XÂY DỰNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
NGUYỄN N THẾ (*)
Trong bài viết này, tác giđã đưa ra và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
ở Việt Nam theo hai nội dung: 1) Hồ Chí Minh nghiên cứu, nhận thức sâu sắc
bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin vvấn đề đấu
tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế; 2) Hồ Chí Minh phân
tích một cách cụ thể mối quan hệ giữa các giai tầng trong xã hội và chủ động
kết hợp đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, không
tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ mặt nào trong suốt quá trình cách mạng Việt
Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã khẳng định giá trị của tư ởng Hồ Chí Minh
về vấn đề này trong tình hình hiện nay.
Thời gian vừa qua đã xuất hiện những quan điểm sai trái, lệch lạc và c
những quan điểm thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đấu tranh giai cấp
và đại đoàn kết dân tộc. Trong đó, nổi lên là quan điểm cho rằng, trong điều
kiện hiện nay, nói tới đấu tranh giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là gây nên sự chia
rẽ, phân hoá nội bộ… làm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Bằng sự lập luận
một cách phiến diện, thiếu khách quan, phản khoa học, một số người đã đi
đến kết luận rằng, giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc là hai mặt
luôn loại trừ nhau, xét cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Theo họ, hiện
nay, chúng ta cần phải từ bỏ giáo điều về đấu tranh giai cấp để tập trung vào
củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Do vậy,
có thnói, việc nâng cao nhận thức khoa học về sự thống nhất giữa đấu tranh
giai cấp và đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh để qua đó, góp
phần đấu tranh phòng, chống những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay là một vấn
đề khoa học, có ý nghĩa chính trị - thực tiễn cấp thiết.
1. H C Minh nghiên cu, nhận thcu sắc bn chất cách mạng, khoa học của
chủ nghĩac -nin v vấn đ đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc,
quốc tế.
Sinh thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bàn nhiều vđấu
tranh giai cấp và chỉ rõ những cái mới trong lý luận về vấn đề này. Điều đáng
nói là, do nhu cầu của thực tiễn lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp của lịch sử. Nhưng
các ông không bao giờ xem đấu tranh giai cấp là mục đích, là công cvạn
năng, duy nhất để giải quyết mâu thuẫn xã hội, mà đó chỉ là phương tiện để
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Quan điểm đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Về vấn đề đoàn
kết giai cấp, dân tộc và quốc tế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng đã đưa ra những chỉ dẫn quý báu. Đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế
phải theo lập trường giai cấp công nhân, lấy sự thống nhất về những lợi ích
căn bản làm sở để đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng và phân hoá,
cô lập các lực lượng thù địch. Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đấu tranh giai cấp và liên minh giai cp, đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế
là những cái không hoàn toàn đối lập nhau.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, nắm vững thực chất của những vấn đề mang ý
nghĩa phương pháp luận trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh
giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế. Ngay từ khi còn học ở Đại
học Phương Đông, Hồ Chí Minh đã được học tập “nguyên lý đấu tranh giai
cấp”. Đây là một trong những nội dung quan trọng mà nhà trường giảng dạy
cho cán bộ cách mạng. Gắn lý luận vi thực tiễn, Người đã nghiên cứu, khảo
sát các cuộc đấu tranh giai cấp tiêu biểu trên thế giới. Từ đó, Người đã phê
phán quan điểm sai trái về đấu tranh giai cấp, vlý luận hợp tác giai cấp”
của những người theo chủ nghĩa cải lương - một trào lưu chính trị trong
phong trào công nhân, đối lập với chủ nghĩa Mác.
Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm duy vật lịch sử, coi đấu tranh giai cấp
chỉ là phương tiện để đạt mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Đối vi cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, tầng lớp
trong nội bộ nhân dân, Người chỉ rõ mục đích của cuộc đấu tranh này không
phải để loại trừ, gạt bỏ những người sai trái, tội lỗi (dù họ thuộc thành phần
giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội), mà đấu tranh bằng những hình thức phù
hợp để cải tạo, hạn chế mặt tiêu cực, phát triển mặt tích cực, góp phần vào
xây dựng và hoàn thiện con người. Nổi bật trong phương pháp tư tưởng của
Người không phải là khơi sâu mâu thuẫn vốn có (kể cả mâu thuẫn đối kháng),
mà tập trung mi nỗ lực cao nhất để tìm kiếm sự thống nhất, sự hiểu biết, gần
gũi, sự đoàn kết hoà hợp theo những nguyên tc có lý, có tình. Ngay cả khi
buộc phải giải quyết mâu thuẫn bằng việc sử dụng bạo lực cách mạng thì khi
đó, tư tưởng nhân văn, nhân đạo và hoà bình của Người vẫn luôn toả sáng.
2. H C Minh đã pn tích mt cách c thmối quan hệ giữa các giai tầng
trong xã hi và chủ động kết hợp đấu tranh giai cấp vớiy dựng khi đi đoàn
kết dân tộc, kng tuyệt đối hoá hoặc xem nhmột mặt nào trong sut quá trình
ch mng Việt Nam.
Theo HChí Minh, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội vốn
đa dạng, phức tạp, luôn biến đổi trong những điều kiện nhất định. Để thực
hiện kết hợp một cách khoa học đấu tranh giai cấp với xây dựng, củng cố
khối đoàn kết dân tộc, đòi hỏi phải phân biệt rõ tính chất của các mâu thuẫn:
mâu thuẫn đối kháng giữa địch - ta và mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp
trong nội bộ nhân dân; trên cơ sở đó, đề ra chính sách phù hp để đoàn kết
các lực lượng có thể đoàn kết được nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu
tranh giai cấp trong từng giai đoạn cụ thể. Đối với cuộc đấu tranh giai cấp
trong nội bộ nhân dân, Hồ Chí Minh nhận thấy đây là một vấn đề không đơn
giản, mang tính nhạy cảm chính trị rất cao, liên quan trc tiếp tới việc xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó, nếu go điều, máy móc trong việc vận dụng
nguyên lý Mác - Lênin, kinh nghiệm của ớc ngoài về đấu tranh giai cấp vào
điều kiện cthể ở Việt Nam sẽy nên những hậu qunghiêm trọng, kng.
Bằng phương pháp "phân tích cụ thể tình hình cthể", Hồ Chí Minh đã ch
rõ, dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân Việt Nam vừa bị đế quốc, vừa
bị phong kiến áp bức bóc lột; tư bản dân tộc không phát triển được vì bđế
quốc áp bức và phong kiến ngăn trở; tư sản mại bản là tay sai của đế quốc
chống lại lợi ích của nhân dân; công nhân thì rất khổ và thất nghiệp; nông dân
vốn đã nghèo khổ, lại bsưu cao thuế nặng; tiểu tư sản có khá hơn nhưng sinh
hoạt của họ cũng không chắc chắn. Vì lđó, “muốn giải phóng thì nhân dân,
tức là công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc phải đoàn kết để đánh đổ đế
quốc, đánh đổ phong kiến và tư sản mại bản”(1). Như vậy, có thể khẳng định,
ngay tkhi chúng ta chưa có chính quyền dân chủ nhân dân, vấn đề đấu tranh
giai cấp và đoàn kết dân tộc đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu một cách khoa
học và cụ thể.
Sau khi chúng ta có chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh vẫn nhất quán
phương pháp kết hợp nguyên tắc đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đoàn
kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Tại Hội nghị giảm tô và cải cách
ruộng đất”, ngày 31 - 10 - 1955, HChí Minh đã khẳng định: “Cải cách
ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp”, một cuộc cách mạng long trời
chuyển đất, có ảnh hưởng tới mọi giai tầng trong xã hội ta. Trong cuộc đấu
tranh giai cấp này, lực lượng của địch là giai cấp địa chủ và những khuyết
điểm của cán bộ, những khuyết điểm đó là đồng minh đắc lực của địch; lực
lượng của ta có Đảng, Chính phủ, Mặt trận dân tộc thống nhất, quân đội, bần
cố trung nông, công an, du kích. Việc xác định lực lượng địch, ta như thế là
một quan điểm chính trị thật sự khoa học, hoàn toàn khác với quan điểm máy
móc phân chia đơn thuần ai là địch, ai là ta và chỉ cần thủ tiêu bên địch để còn
lại “ta với ta”… Hồ Chí Minh đã chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong cải
cách ruộng đất, nổi lên là việc thực hiện đoàn kết nông thôn. Người yêu cầu
cần sửa chữa những khuyết điểm, như không dựa vào bần cố nông, không
đoàn kết chặt chẽ với trung nông, không thực hiện liên hiệp với phú nông.
Đối với giai cấp địa chủ, nông dân cũng không “vơ đũa cả nắm” mà có phân
biệt. Riêng đối vi địa chủ thì phải chiếu cố những địa chủ kháng chiến, ủng
hộ cách mạng và địa chủ có con là bộ đội, cán bộ; đối với địa chủ thật thà
theo pháp luật thì giúp đỡ cải tạo; "đối với những địa chủ cường hào gian ác,
đã có nhiều nợ máu, lại ngoan cố phá hoại thì mới trừng trị. Giáo dục cải tạo
là chính"(2). Hồ Chí Minh nhấn mạnh một điểm rất nhạy cảm, cần nhận thức
cho đúng là xem xét thành phần giai cấp và quan hệ gia đình để không rơi vào
quan điểm thành phần chủ nghĩa. Theo Người, thành phần giai cấp nhất định
ảnh hưởng đến tư tưởng của con người, nhưng nó không phải là ảnh hưởng
quyết định…, điều quyết định vẫn là do bn thân mỗi người.
Hồ Chí Minh còn xác định rõ, để tiến hành đấu tranh giai cấp, đồng thời xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, cần phải cải tạo và xây dựng các thành phần
kinh tế theo đường lối, chính sách của Đảng. Trong 9 năm kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), HChí Minh luôn quan tâm chỉ đạo
việc xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế, như kinh tế quốc doanh,
kinh tế hợp tác xã, kinh tế địa chủ phong kiến, kinh tế cá nhân của nông dân
và thủ công nghiệp, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản quốc gia. Sau 1954,
miền Bắc bước vào thi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người vẫn nhất quán
tư tưởng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đưa ra những nguyên tắc
để vừa bảo đảm sự phát triển kinh tế, vừa củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Đó là các nguyên tắc: “công, tư đều có lợi”, “chủ thợ đều lợi”, “công nông