intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC:" SỰ THỐNG NHẤT GIỮA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

211
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở Việt Nam theo hai nội dung: 1) Hồ Chí Minh nghiên cứu, nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế; 2) Hồ Chí Minh phân tích một cách cụ thể mối quan hệ giữa các giai tầng trong xã hội...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC:" SỰ THỐNG NHẤT GIỮA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH "

  1. Luận văn NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC:" SỰ THỐNG NHẤT GIỮA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH "
  2. SỰ THỐNG NHẤT GIỮA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN THẾ (*) Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở Việt Nam theo hai nội dung: 1) Hồ Chí Minh nghi ên cứu, nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế; 2) Hồ Chí Minh phân tích một cách cụ thể mối quan hệ giữa các giai tầng trong x ã hội và chủ động kết hợp đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, không tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ mặt nào trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này trong tình hình hiện nay. Thời gian vừa qua đã xuất hiện những quan điểm sai trái, lệch lạc và cả những quan điểm thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc. Trong đó, nổi lên là quan điểm cho rằng, trong điều kiện hiện nay, nói tới đấu tranh giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là gây nên sự chia rẽ, phân hoá nội bộ… làm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Bằng sự lập luận một cách phiến diện, thiếu khách quan, phản khoa học, một số người đã đi đến kết luận rằng, giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc là hai mặt luôn loại trừ nhau, xét cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Theo họ, hiện nay, chúng ta cần phải từ bỏ giáo điều về đấu tranh giai cấp để tập trung vào củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Do vậy,
  3. có thể nói, việc nâng cao nhận thức khoa học về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh để qua đó, góp phần đấu tranh phòng, chống những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay là một vấn đề khoa học, có ý nghĩa chính trị - thực tiễn cấp thiết. 1. Hồ Chí Minh nghiên cứu, nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế. Sinh thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bàn nhiều về đấu tranh giai cấp và chỉ rõ những cái mới trong lý luận về vấn đề này. Điều đáng nói là, do nhu cầu của thực tiễn lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp của lịch sử. Nhưng các ông không bao giờ xem đấu tranh giai cấp là mục đích, là công cụ vạn năng, duy nhất để giải quyết mâu thuẫn xã hội, mà đó chỉ là phương tiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Quan điểm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Về vấn đề đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã đưa ra những chỉ dẫn quý báu. Đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế phải theo lập trường giai cấp công nhân, lấy sự thống nhất về những lợi ích căn bản làm cơ sở để đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng và phân hoá, cô lập các lực lượng thù địch. Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh giai cấp và liên minh giai cấp, đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế là những cái không hoàn toàn đối lập nhau. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, nắm vững thực chất của những vấn đề mang ý nghĩa phương pháp luận trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế. Ngay từ khi còn học ở Đại học Phương Đông, Hồ Chí Minh đã được học tập “nguyên lý đấu tranh giai cấp”. Đây là một trong những nội dung quan trọng mà nhà trường giảng dạy
  4. cho cán bộ cách mạng. Gắn lý luận với thực tiễn, Người đã nghiên cứu, khảo sát các cuộc đấu tranh giai cấp tiêu biểu trên thế giới. Từ đó, Người đã phê phán quan điểm sai trái về đấu tranh giai cấp, về “lý luận hợp tác giai cấp” của những người theo chủ nghĩa cải lương - một trào lưu chính trị trong phong trào công nhân, đối lập với chủ nghĩa Mác. Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm duy vật lịch sử, coi đấ u tranh giai cấp chỉ là phương tiện để đạt mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đối với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, tầng lớp trong nội bộ nhân dân, Người chỉ rõ mục đích của cuộc đấu tranh này không phải để loại trừ, gạt bỏ những người sai trái, tội lỗi (dù họ thuộc thành phần giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội), mà đấu tranh bằng những hình thức phù hợp để cải tạo, hạn chế mặt tiêu cực, phát triển mặt tích cực, góp phần vào xây dựng và hoàn thiện con người. Nổi bật trong phương pháp tư tưởng của Người không phải là khơi sâu mâu thuẫn vốn có (kể cả mâu thuẫn đối kháng), mà tập trung mọi nỗ lực cao nhất để tìm kiếm sự thống nhất, sự hiểu biết, gần gũi, sự đoàn kết hoà hợp theo những nguyên tắc có lý, có tình. Ngay cả khi buộc phải giải quyết mâu thuẫn bằng việc sử dụng bạo lực cách mạng th ì khi đó, tư tưởng nhân văn, nhân đạo và hoà bình của Người vẫn luôn toả sáng. 2. Hồ Chí Minh đã phân tích một cách cụ thể mối quan hệ giữa các giai tầng trong xã hội và chủ động kết hợp đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, không tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ một mặt nào trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội vốn đa dạng, phức tạp, luôn biến đổi trong những điều kiện nhất định. Để thực hiện kết hợp một cách khoa học đấu tranh giai cấp với xây dựng, củng cố khối đoàn kết dân tộc, đòi hỏi phải phân biệt rõ tính chất của các mâu thuẫn: mâu thuẫn đối kháng giữa địch - ta và mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp trong nội bộ nhân dân; trên cơ sở đó, đề ra chính sách phù hợp để đoàn kết
  5. các lực lượng có thể đoàn kết được nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh giai cấp trong từng giai đoạn cụ thể. Đối với cuộc đấu tranh giai cấp trong nội bộ nhân dân, Hồ Chí Minh nhận thấy đây là một vấn đề không đơn giản, mang tính nhạy cảm chính trị rất cao, liên quan trực tiếp tới việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó, nếu giáo điều, máy móc trong việc vận dụng nguyên lý Mác - Lênin, kinh nghiệm của nước ngoài về đấu tranh giai cấp vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng, khó lường. Bằng phương pháp "phân tích cụ thể tình hình cụ thể", Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân Việt Nam vừa bị đế quố c, vừa bị phong kiến áp bức bóc lột; tư bản dân tộc không phát triển được vì bị đế quốc áp bức và phong kiến ngăn trở; tư sản mại bản là tay sai của đế quốc chống lại lợi ích của nhân dân; công nhân thì rất khổ và thất nghiệp; nông dân vốn đã nghèo khổ, lại bị sưu cao thuế nặng; tiểu tư sản có khá hơn nhưng sinh hoạt của họ cũng không chắc chắn. Vì lẽ đó, “muốn giải phóng thì nhân dân, tức là công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc phải đoàn kết để đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến và tư sản mại bản”(1). Như vậy, có thể khẳng định, ngay từ khi chúng ta chưa có chính quyền dân chủ nhân dân, vấn đề đấu tranh giai cấp và đoàn kết dân tộc đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu một cách khoa học và cụ thể. Sau khi chúng ta có chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh vẫn nhất quán phương pháp kết hợp nguyên tắc đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Tại “Hội nghị giảm tô và cải cách ruộng đất”, ngày 31 - 10 - 1955, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp”, một cuộc cách mạng long trời chuyển đất, có ảnh hưởng tới mọi giai tầng trong xã hội ta. Trong cuộc đấu tranh giai cấp này, lực lượng của địch là giai cấp địa chủ và những khuyết điểm của cán bộ, những khuyết điểm đó là đồng minh đắc lực của địch; lực lượng của ta có Đảng, Chính phủ, Mặt trận dân tộc thống nhất, quân đội, bần
  6. cố trung nông, công an, du kích. Việc xác định lực lượng địch, ta như thế là một quan điểm chính trị thật sự khoa học, hoàn toàn khác với quan điểm máy móc phân chia đơn thuần ai là địch, ai là ta và chỉ cần thủ tiêu bên địch để còn lại “ta với ta”… Hồ Chí Minh đã chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong cải cách ruộng đất, nổi lên là việc thực hiện đoàn kết nông thôn. Người yêu cầu cần sửa chữa những khuyết điểm, như không dựa vào bần cố nông, không đoàn kết chặt chẽ với trung nông, không thực hiện liên hiệp với phú nông. Đối với giai cấp địa chủ, nông dân cũng không “vơ đũa cả nắm” mà có phân biệt. Riêng đối với địa chủ thì phải chiếu cố những địa chủ kháng chiến, ủng hộ cách mạng và địa chủ có con là bộ đội, cán bộ; đối với địa chủ thật thà theo pháp luật thì giúp đỡ cải tạo; "đối với những địa chủ cường hào gian ác, đã có nhiều nợ máu, lại ngoan cố phá hoại thì mới trừng trị. Giáo dục cải tạo là chính"(2). Hồ Chí Minh nhấn mạnh một điểm rất nhạy cảm, cần nhận thức cho đúng là xem xét thành phần giai cấp và quan hệ gia đình để không rơi vào quan điểm thành phần chủ nghĩa. Theo Người, thành phần giai cấp nhất định có ảnh hưởng đến tư tưởng của con người, nhưng nó không phải là ảnh hưởng quyết định…, điều quyết định vẫn là do bản thân mỗi người. Hồ Chí Minh còn xác định rõ, để tiến hành đấu tranh giai cấp, đồng thời xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, cần phải cải tạo và xây dựng các thành phần kinh tế theo đường lối, chính sách của Đảng. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Hồ Chí Minh luôn quan tâm chỉ đạo việc xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế, như kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế địa chủ phong kiến, kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghiệp, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản quốc gia. Sau 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người vẫn nhất quán tư tưởng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đưa ra những nguyên tắc để vừa bảo đảm sự phát triển kinh tế, vừa củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là các nguyên tắc: “công, tư đều có lợi”, “chủ thợ đều lợi”, “công nông
  7. giúp nhau”, “lưu thông trong ngoài thuận lợi”. Và, Người khẳng định rõ: “Kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”(3). Đối với tư sản dân tộc, Người đã nói rõ khi trả lời một nhà báo nước ngoài: “Chúng tôi không chủ trương giai cấp đấu tranh vì một lẽ tầng lớp tư sản Việt Nam đã bị kinh tế thực dân đè nén không cất đầu lên được, khiến cho kinh tế Việt Nam đã bị tiêu diệt, dân cùng, tài tận. Trái lại, chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển”(4). Khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với “đặc điểm to nhất” là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(5), Hồ Chí Minh đã chỉ ra một việc cần kíp là “cải tạo hoà bình đối với giai cấp tư sản dân tộc”. Cụ thể là, “về kinh tế, chúng ta không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại. Về chính trị, chúng ta vẫn cho họ có quyền lợi thích đáng, họ vẫn giữ được địa vị một thành viên trong Mặt trận Tổ quốc”(6), đoàn kết họ trong “đại gia đình toàn dân Việt Nam”. “Dân”, "nhân dân", "toàn dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm rất rộng lớn, bao gồm tất cả những người dân nước Việt có lòng ái quốc, căm thù giặc, không phản lại quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Theo Người, để tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh của nhân dân phải thực hiện đại đoàn kết toàn dân. Tháng 3 - 1944, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hiện nay ở trong nước không cần nêu khẩu hiệu “Đoàn kết các đảng phái”, vì điều này đã trở thành hiện thực, mà còn phải mở rộng khối đại đoàn kết đến toàn dân”(7). Về nguyên tắc là “không được phép bỏ một lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia”. Trong hệ thống phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh, điểm mấu chốt, xuyên suốt là lấy cái chung, cái tương đồng để khắc phục cái dị biệt, lấy nhân ái để giải quyết bất đồng. Người luôn phê phán những biểu hiện sai trái, như chia rẽ, bênh vực lớp này, chống lại lớp khác… mà quên mất phải đại đoàn
  8. kết để thực hiện mục tiêu chung của nhân dân, của dân tộc. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải chủ động đấu tranh để tăng cường đoàn kết, đồng thời phải thấy rõ sự khác nhau căn bản giữa đấu tranh trong nội bộ nhân dân Việt Nam với đấu tranh giải quyết mâu thuẫn đối kháng địch - ta. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh dựa trên phương pháp luận duy vật lịch sử, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội đã "hóa giải" được những đối kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định để quy tụ mọi người, tập trung cao nhất cho quyền lợi của toàn dân tộc. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh đã nắm được "cái hồn" và vận dụng một cách sáng tạo lý luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, nhờ đó mà vừa tạo ra được động lực phát triển của cách mạng thông qua giải quyết mâu thuẫn khách quan, vốn có trong nội bộ nhân dân, dân tộc; vừa tập trung được lực lượng vào khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh không có sự đối lập, loại trừ nhau giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, kiên quyết đấu tranh, phê phán tư tưởng thành phần chủ nghĩa biểu hiện trong cả lĩnh vực chính trị, t ư tưởng và kinh tế. 3. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc trong tình hình hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc đã được hiện thực hoá và ngày càng khẳng định tính khoa học và cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, Đảng ta đã vận dụng đúng tư tưởng của Người, song cũng còn không ít những thiếu sót, hạn chế trong vấn đề rất nhạy cảm và hệ trọng này. Thực tế cho thấy, quan điểm đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã từng có lúc được nhận thức và vận dụng một cách máy móc, một chiều, gây nên những tổn thất cả về mặt chính trị lẫn kinh tế. Biểu hiện rõ là, trong
  9. tiến hành cải cách ruộng đất, trong cải tạo công thương nghiệp tư nhân ở miền Nam và hợp tác hoá nông nghiệp… Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức và tổ chức thực tiễn và rút ra nhiều bài học có giá trị về tiến hành đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện mới. Điều này thể hiện rất rõ trong đường lối đổi mới của Đảng ta trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”; “nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”; “động lực chủ yếu để phát triển đất n ước là đại đoàn kết toàn dân”(8). Đại hội X của Đảng, khi tổng kết những thành tựu và bài học của 20 năm đổi mới, đã tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(9). Đại hội đã chỉ rõ, chúng ta phải lấy “mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” làm điểm tương đồng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo đó, cần xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ,
  10. thành phần giai cấp; phải tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích dân tộc; xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Với quan điểm đó, Đảng, Nhà nước ta đã có những chính sách đổi mới, tập hợp, lôi cuốn ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào định cư ở nước ngoài trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm đúng đắn của Đảng là cơ sở để đấu tranh khắc phục những nhận thức giản đơn, phiến diện hoặc cường điệu, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, đồng thời phòng, chống tư tưởng “thành phần chủ nghĩa” hoặc đoàn kết một cách vô nguyên tắc. Tuy nhiên, tình hình mới cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, có liên quan đến vấn đề đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách khá gay gắt và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đang đứng trước nhiều thách thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ, với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đề cao cảnh giác, làm cho nhân dân các dân tộc, tôn giáo gắn bó với cộng đồng dân tộc, với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; quan tâm giải quyết lợi ích đúng đắn của nhân dân, tạo nên sự ổn định chính trị - xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ, phá hoại của các thế lực thù địch. Tiếp tục
  11. nghiên cứu để thấy rõ đặc điểm, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế. Thực tế cho thấy, chúng ta không được phép tuyệt đối hoá hoặc xem thường đấu tranh giai cấp, cũng không đơn giản chỉ thấy đấu tranh giai cấp là đấu tranh địch - ta; tách rời đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời, phải quán triệt sâu sắc, đầy đủ và thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta. Chủ động, tích cực đấu tranh có hiệu quả chống lại các quan điểm sai trái, th ù địch, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.r (*) Tiến sĩ triết học, Phó chủ nhiệm Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quân sự . (1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.209. (2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.139. (3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 248. (4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 169 - 170. (5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr. 13. (6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr. 15. (7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr. 465. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 85, 86. (9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 116.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
56=>2