Nghiên cứu văn học dân gian từ

góc độ type và motif - Những khả

thủ và bất cập

Phần 2

Một số công trình Nghiên cứu văn học dân gian theo lí thuyết type và motif

Bên cạnh các công trình biên soạn, sắp xếp tư liệu văn học dân gian, khuynh hướng

nghiên cứu so sánh truyện dân gian theo các hệ thống type, motif đã được tiến hành. Các

bài viết tiêu biểu cho khuynh hướng này là Nghiên cứu so sánh ba type truyện cổ tích

Trung Quốc và truyện cổ tích của người da đỏ Bắc Mỹ (A Comparative Study of Three

Chinese and North- American Indian Folktale Types) của Đinh Nãi Thông, giáo sư người

Mỹ gốc Hoa của trường đại học Western Illinois; bàiBảng tra motif và bảng tra type

truyện cổ: Một bài phê bình (The Motif- Index and the Tale Type Index: A Critique) của

Alan Dundes; bài Xu hướng trung tâm trong ngành nghiên cứu folklore về type và motif

truyện kể (The Centrality in Folkloristics of Motif and Tale Type) của Robert A. Georges;

bài Bảng tra cứu truyện dân gian: một khảo sát mang tính phê bình (Indexing Folktales:

A Critical Survey) của Hans- Jörg Uther; bài Kết cấu, văn bản và nội dung của truyện kể

và bảng tra cứu (Texture, Text, and Context of the Folklore Text vs. Indexing) Heda

Jason, bài Việc lập sơ đồ motif truyện cổ của vùng Newfoundland (Motifing the Folktales

of Newfoundland) của Martin Lovelace… Những bài viết này đều được đăng tải

trên Thông báo của các nhà nghiên cứu folklore (Folklore Fellows’ Communication, gọi

tắt là FFC) ở Phần Lan.

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu truyện kể dân gian theo phương pháp type và motif

được bắt đầu tương đối muộn. Các nhà nghiên cứu có công giới thiệu phương pháp này

với giới nghiên cứu Việt Nam là Lê Chí Quế, Nguyễn Tấn Đắc, Nguyễn Thị Hiền. Năm

1994, Lê Chí Quế có bài giới thiệu về phương pháp này trên Tạp chí Văn học với nhan đề Trường phái văn học Phần Lan - những nguyên tắc ứng dụng và khả năng lí luận(8).

Năm 1996, Nguyễn Thị Hiền có bài viết Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo

bảng mục lục tra cứu típ và môtíp truyện cổ tích dân gian của Antti Aarne và Stith Thompson(9). Trong bài viết này, Nguyễn Thị Hiền đã giới thiệu khá kỹ lưỡng về Bảng tra

cứu type và motif, đồng thời ứng dụng phương pháp này để xác định các motif trong

truyện cổ tích Tấm Cám. Kiều Thu Hoạch có 2 bài nghiên cứu là Sơ bộ tìm hiểu kiểu

truyện Tấm Cám ở Trung Quốc(10), So sánh tip truyện Trầu cau ở Trung Quốc và tip

truyện cùng loại ở Việt Nam và Cam puchia, bàn về tục ăn trầu và văn hóa quyển trầu cau Đông Nam Á(11). Đặc biệt, năm 2001, nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Đắc đã có một

tuyển tập khá dày dặn các bài nghiên cứu truyện dân gian Việt Nam và Đông Nam Á theo

phương pháp type và motif. Cuốn sách có nhan đề là Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif(12), trong đó, tác giả đã có một bài viết công phu giới thiệu Bảng mục lục tra cứu A-

T và một chuyên khảo về truyện Tấm Cám ứng dụng phương pháp Phần Lan. Ngoài ra,

cũng cần phải kể đến những công trình nghiên cứu truyện dân gian vận dụng phương pháp nghiên cứu type và motif như chuyên khảo của Vũ Anh Tuấn(13), Nguyễn Bích Hà(14), Nguyễn Thị Huế(15), bài viết của Trần Thị An(16)… Các công trình ứng dụng này đã chỉ ra

yêu cầu bức thiết về việc dịch ra tiếng Việt công trình của A. Aarne và S. Thompson để

các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam có thể tiếp cận được với văn bản hoàn chỉnh của

các nhà sáng lập ra phương pháp nghiên cứu này. Bên cạnh đó, thực tế nghiên cứu cũng

chỉ ra rằng, việc lập một bảng tra cứu truyện cổ tích Việt Nam ứng dụng mô hình type

truyện của A. Aarne và S. Thompson là một việc làm cần thiết.

Sự phản ứng của các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ - những người tiên phong trong

phương pháp tiếp cận folklore từ góc độ diễn xướng

Trên đây, chúng tôi đã đề cập đến những đóng góp của phương pháp Phần Lan cho

ngành nghiên cứu folklore thế giới. Những thành tựu mà phương pháp này đạt được và

ảnh hưởng rộng rãi của nó đến việc nghiên cứu văn học dân gian trên toàn thế giới là

không thể hồ nghi. Tuy nhiên, với tuổi đời hàng trăm năm, phương pháp này rõ ràng đã

bộc lộ những điểm bất cập trong tình hình mới. Và người chỉ ra sự bất cập này lại chính là

những nhà nghiên cứu folklore ở Hoa Kỳ, mảnh đất mà phương pháp này đặt chân đến

sớm, đạt được nhiều thành công và gây được ảnh hưởng lớn ra thế giới.

Mặc dầu đạt được nhiều thành công nhưng công việc của các nhà nghiên cứu so

sánh folklore ở Hoa Kỳ được khởi xướng bởi Thompson không được tiếp tục lâu dài bởi

vì hướng nghiên cứu này bị coi là “có nguồn gốc châu Âu và được thiết kế ra để phù hợp

với điều kiện châu Âu” và “Phương pháp Phần Lan có thể áp dụng cho vùng Bắc Mỹ như

S. Thompson đã chỉ ra bằng câu chuyện về người chồng là ngôi sao, tuy nhiên, những

nghiên cứu như thế này chỉ liên quan tới văn hoá nguyên thuỷ chứ không thể liên hệ

chúng với nền văn minh Hoa Kỳ. Nhà nghiên cứu Hoa Kỳ muốn biết rằng điều gì xảy ra

với tài liệu folklore Hoa Kỳ. Anh ta không muốn so sánh với các dị bản ở bất cứ nơi nào

chúng được tìm thấy trên thế giới theo cách làm của trường phái Phần Lan mà chỉ muốn

so sánh những truyền thống dân tộc ở Hoa Kỳ với các hình thức, chức năng của chúng trên mảnh đất mà chúng được sinh ra, đó là bối cảnh của nước Mỹ”(17).

Thực ra, từ khi phương pháp Phần Lan bắt đầu bén rễ trên đất Mỹ, nó đã không

nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của các nhà nghiên cứu folklore theo phương pháp nhân

học, một phương pháp đạt được những thành tựu rực rỡ từ đầu thế kỷ XX ở Hoa Kỳ. Hai

phương pháp nghiên cứu này chọn hai cách tiếp cận khác nhau: một bên dựa vào các điều

tra dân tộc học và một bên dựa vào văn bản đã được sưu tầm. Vào những năm mà các nhà

nghiên cứu folklore Hoa Kỳ ứng dụng phương pháp Phần Lan và đạt được thành công rực

rỡ thì S. Thompson đã nhận thấy sự không đồng thuận này. Ở cuộc họp của Hội Folklore

Hoa Kỳ năm 1936 (là năm mà 6 tập bộ sách Bảng tra motif văn học dân gian vừa được

xuất bản lần đầu), Stith Thompson nói rằng, ông là nhà “phi-nhân học” duy nhất của cuộc

họp và ông cho rằng: “Khó khăn lớn nhất mà Hội đang đối mặt là không nhận thức được

tầm quan trọng của một thực tế là Hội và Tạp chí đang trở nên thứ yếu đằng sau hai hướng quan tâm chính: một của các nhà nhân học và một của các nhà nhân văn”(18).

Tuy nhiên, hai hướng nghiên cứu này vẫn đi theo sự lựa chọn của mình. Trên con

đường phát triển và tạo ảnh hưởng của mình, phương pháp Phần Lan còn gặp phải một trở

lực khác lớn hơn từ phía các nhà nghiên cứu folklore. Trong khi S. Thompson chỉ quan

tâm đến tư liệu folklore tồn tại ở các văn bản có giá trị văn học và chúng là sản phẩm của

quá khứ thì các nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, folklore vẫn tồn tại trong đời sống hôm

nay, là biểu hiện của lĩnh vực rộng lớn của hành vi và văn hoá loài người. Đó là cơ sở cho

sự ra đời của phương pháp nghiên cứu folklore từ góc độ diễn xướng (context), một

phương pháp nghiên cứu thịnh hành ở Hoa Kỳ vào nửa cuối thế kỷ XX và đang được cả

thế giới ứng dụng ngày nay. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các nhà nghiên cứu

William Bascom, R.M. Dorson, Richard Bauman, Linda Dégh... Các nhà nghiên cứu tán

đồng quan điểm này chỉ coi văn bản như một yếu tố tham chiếu chứ không phải là toàn bộ

tư liệu nghiên cứu. Điều quan trọng đối với họ là phải quan tâm tìm hiểu xem các hiện

tượng cụ thể của đời sống folklore đang tồn tại trong những điều kiện như thế nào, chẳng

hạn, về truyện cổ tích, họ không còn thực sự quan tâm đến cốt truyện, motif (là những đơn

vị mang tính văn học mà trường phái Phần Lan quan tâm) mà lại quan tâm đến vai trò

người kể chuyện; về truyền thuyết, họ không quan tâm đến cốt truyện, hình tượng nhân

vật mà lại quan tâm đến tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội… là môi trường mà truyền thuyết đã

và đang sống… Đối với các nhà nghiên cứu folklore theo phương pháp này, họ không đi

vào những vấn đề lí thuyết như đặc trưng thể loại, đặc điểm thi pháp thể loại, nhân vật…

mà lại tập trung vào các vấn đề cụ thể, nghiên cứu qua các trường hợp cụ thể (a case

study) nhằm thâm nhập vào thực trạng đời sống folklore hiện nay. Có vẻ như, đối với các

nhà nghiên cứu folklore hiện nay, mọi lí thuyết của thế kỷ XX đã bộc lộ nhiều bất cập và

không thể soi sáng các vấn đề của đời sống folklore như một dòng chảy bất tận. Chính vì

thế, việc khám phá dòng chảy đó để nắm bắt nó là quan trọng và thiết thực hơn việc tìm tư

liệu để minh chứng cho những lí thuyết nào đó. Với quan điểm này, các tư liệu văn bản

văn học dân gian (mà những bảng tra cứu của các nhà nghiên cứu ứng dụng phương pháp

Phần Lan là các ví dụ) dường như đang lùi vào hậu trường và đóng một vai trò thứ yếu.

Chúng ta cũng có thể nhìn thấy sự điều chỉnh hướng nghiên cứu ở các công trình

công bố trên Thông báo. Trong Tổng mục lục của Thông báo này, có tới 34 công trình

nghiên cứu về tín ngưỡng, 10 công trình nghiên cứu về tôn giáo. Từ góc độ lí thuyết,

ngoài type và motif, các nhà nghiên cứu đã mở rộng phạm vi khảo sát của mình sang cả

chủ đề (subject), nhan đề (title) và cổ mẫu (archetype), nghệ nhân, môi trường diễn

xướng... Và với S. Thompson, một trong những chủ soái của trường phái nghiên cứu

folklore ở góc độ ngôn từ, như đã nói ở trên, cũng đã dần dần thoát li khỏi hướng nghiên

cứu lệ thuộc vào các yếu tố văn bản mà đã nghiên cứu chúng dưới góc độ tổ chức văn bản

để nhìn nhận nó trong mối quan hệ với văn học viết. Ông còn có tham vọng vượt thoát

hẳn khỏi khuynh hướng lệ thuộc vào văn bản để hướng tới nghiên cứu truyện cổ tích từ

góc độ diễn xướng khi ý thức rằng “Chúng ta cần nghiên cứu chức năng của truyện kể

trong đời sống của những người kể chúng và nghe chúng; chúng ta nghiên cứu bản chất

của nghệ thuật này ở nhiều thời điểm khác nhau của nhiều vùng miền khác nhau” (Lời

giới thiệu The Folkltale). Tuy nhiên, có thể thấy rõ là, đây là điều ông chưa làm được

trong các công trình của mình.

Sự bất cập của lí thuyết này còn bộc lộ cả ở việc ứng dụng để biên soạn tư liệu và

cả trong việc ứng dụng vào nghiên cứu so sánh. Trong khi ứng dụng thành tựu của

phương pháp này để biên soạn tài liệu truyện cổ của nước mình, bên cạnh việc thừa

nhận “sự chỉ đường” của nó, một số nhà nghiên cứu đã nhận thấy nhiều “vênh lệch” khi

lấy khung chuẩn A-T lắp vào kho tư liệu địa phương. Đơn cử một trường hợp vận dụng

bảng tra A-T để biên soạn truyện dân gian châu Á là Giáo sư Đinh Nãi Thông. Ông là

người đã để nhiều công sức đi điền dã, bổ sung tài liệu để lập Bảng tra type truyện dân

gian Trung Quốc và đã công bố chúng trong công trình A Type Index of Chinese

Folktales in the Oral Tradition and Major Works of Non-ReligiousClassical Literature(19) đã nhận ra hệ thống sắp xếp của A-T không hoàn toàn trùng khớp với

truyện dân gian Trung Quốc. Ông chỉ ra rằng, trong 843 type và “tiểu type” (subtype),

chỉ có 575 type truyện trùng với bảng A-T, còn 268 type khác là hoàn toàn của Trung

Quốc. Và khi ứng dụng bảng tra để phân tích so sánh ông cũng nhận thấy một đôi chỗ

bất cập. Trong bài viết A Comparative Study of Three Chinese and North-American

Indian Folktale Types ông cũng đã chỉ ra rằng: “Sự phân biệt type và thể loại (genre),

như là lí thuyết cũ đã làm, không thể áp dụng cho khu vực ngoài Ấn- Âu được. Đối với

tôi, lí thuyết này chỉ đúng từng phần; và kết quả của việc sử dụng một cách hết sức thận

trọng thuật ngữ thể loại bởi quyền lực nhất định trong quá khứ và kết quả của sự thôi

thúc mạnh mẽ của một số nhà nghiên cứu folklore ngoài Ấn Âu (non- Indo- European)

để phân loại những thể loại tự sự khác ngoài cổ tích chỉ là tương đối mà thôi, tuy sự ham mê phương pháp này, đến nay vẫn tồn tại”(20). Đây là điều thực ra khó tránh khỏi đối với

bất cứ một lí thuyết nào, một phương pháp nghiên cứu nào trên thế giới vì những giới

hạn lịch sử của nó sớm hay muộn đều cũng sẽ bị vượt qua, bởi không có một phương

pháp nào là chìa khóa vạn năng.

Đôi điều nghĩ tiếp

Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một xã hội có tốc độ chuyển động nhanh, nơi

mà quá khứ và hiện tại có nhiều đan cài; nơi mà sự giao lưu văn hóa diễn ra cả ở bề rộng

và bề sâu. Chính vì vậy, không một phương pháp nghiên cứu đơn lẻ nào có hiệu lực

tuyệt đối, và việc ứng dụng phương pháp liên ngành là điều không thể khác được. Có vẻ

như lời phát biểu của S. Thompson, cũng tại cuộc họp của Hội Folklore Hoa Kỳ năm

1936, vẫn còn giá trị: “Một nhà dân tộc học có thể khó mà hy vọng có thể hiểu được con

người nếu như anh ta không để ý đến một phần rất quan trọng trong cuộc sống của họ

như truyện cổ tích và thần thoại, các bài ca và các điệu nhảy, các nghi lễ và các bài khấn.

Tương tự như vậy, nhà nghiên cứu folklore cần những kinh nghiệm và những kĩ năng

của một nhà dân tộc học được đào tạo để lập ra những mô hình cho nghiên cứu của họ”(21). Trong quá trình thể nghiệm nghiên cứu, phương pháp Phần Lan đã được các thế

hệ nghiên cứu tiếp nối bổ sung và đổi mới. Việc tiếp thêm hơi thở mới của sự giao lưu

và tiếp nhận thành tựu của các phương pháp khác đã được thể hiện trong ý kiến được

phát biểu gần đây của nhà nghiên cứu Phần Lan Ulrika Wolf-Knuts. Bà viết rằng: “Ngày

nay, các nhà folklore học đã hướng sự chú ý tới các nghệ nhân và ảnh hưởng qua lại

giữa nghệ nhân và nhà nghiên cứu folklore. Các nhà folkore học trên toàn thế giới đang

cố gắng tìm ra cái nhìn toàn cảnh về hệ thống giá trị, về sơ đồ có tính quy tắc của đời

sống con người từ việc phân tích những nghệ nhân. Các nhà folklore học ngày nay quan

tâm đến chất lượng nhiều hơn là số lượng, nghiên cứu sâu hơn là những khảo sát có tính

so sánh toàn cầu. Đã nghe thấy một vài tiếng nói chỉ trích giá trị khoa học của những

công trình như thế. Tuy nhiên, vì nhiều lí do, sự so sánh folklore của những nền văn hóa

khác nhau có thể mở rộng tầm mắt của chúng ta trong một xã hội đa văn hóa ở châu Âu.

Việc so sánh không chỉ cho thấy sự khác biệt văn hóa mà còn chỉ ra sự tương đồng…

Bảng tra type giúp chúng ta tìm thấy những sự tương đồng, ít nhất là ở phạm vi bề mặt.

Việc nghiên cứu nghĩa của văn bản đòi hỏi một sự hiểu biết sâu rộng lịch sử vùng, bối

cảnh văn hóa thường xuyên ảnh hưởng tới văn bản folklore, nghĩa rộng và nghĩa sâu của

những khái niệm then chốt, ở một chừng mực nào đó, còn là kiến thức về nghệ nhân và

những cách thức mà văn bản đó được ghi lại. Bảng tra cứu type giúp cho nhà nghiên cứu

folklore lần theo tư liệu và buộc phải bổ sung thêm những nguồn tư liệu khác. Bằng

cách này, họ không còn biên soạn những bảng danh mục tư liệu folkore thuần túy nữa

mà bắt đầu sống theo cách thức truyền cảm hứng mạnh mẽ nhất. Và bảng tra motif lúc

này giống như một bản bí truyền: đối với các nhà nghiên cứu folklore được học hành bài

bản, nó là một cái hòm đựng đầy châu báu, nhưng đối với kẻ ít học thì nó chỉ là một đống đinh rỉ mà thôi”(22).

Ý kiến này cho chúng ta một cái nhìn lạc quan về tương lai của phương pháp Phần

Lan có tuổi đời hàng trăm năm và cả những đòi hỏi đối với các nhà nghiên cứu folklore về

việc phải đổi mới không ngừng khi ứng dụng phương pháp này ở thế kỷ XXI. Đó cũng là

kết luận mà chúng tôi muốn nói tới khi khép lại bài viết này