Nghiên cứu văn học dân gian từ

góc độ type và motif - Những khả

thủ và bất cập

Về đại thể, các công trình ứng dụng lí thuyết type và motif đều được ứng dụng để

nghiên cứu truyện cổ tích (112/291). Điều này có cơ sở từ nguồn gốc: các công trình đặt

nền móng cho lí thuyết này (17 công trình chúng tôi liệt kê ở chú thích) của Antti Aarne,

trong một chừng mực nào đó, đã mang tính hướng đạo cho một diễn đàn. Tuy vậy, bên

cạnh việcnghiên cứu truyện cổ tích theo lí thuyết type và motif, các nhà nghiên cứu công

bố chuyên luận của mình ở Thông báo này còn hướng tới nhiều thể loại khác như: huyền

thoại:13; sử thi: 16; tục ngữ: 13; câu đố: 3; truyền thuyết: 18… Có lẽ các nhà sáng lập

trường phái địa lý- lịch sử Phần Lan cũng không ngờ lí thuyết do mình đề xướng lại nhận

được sự hưởng ứng nồng nhiệt và gợi mở nhiều hướng nghiên cứu folklore đến thế.

Nhận định về giá trị của lí thuyết này, khi viết về cuốn Bảng tra type truyện dân

gian Bulgari (Index of Bulgarian Folktales), Ulrika Wolf- Knuts, giảng viên trường Đại

học Åbo Akademi (Phần Lan) đã viết: “Bảng tra type tựa như một tấm bản đồ, chỉ ra lối

đi nhanh chóng để có cái nhìn tổng quát về một vùng miền đặc biệt, một dân tộc hay một

vùng nhỏ hẹp nào đó. Ở nhiều phương diện, bảng tra type là một thư mục đối với nhà

nghiên cứu folklore hay là một cơ sở dữ liệu (data base) đối với sinh viên những ngành

khoa học khác… Không có bảng tra type, nhà nghiên cứu folklore trên văn bản rất dễ rơi

vào tình trạng phải dò dẫm tìm đường đi. Với tư cách là một thư mục hay cơ sở dữ liệu,

bảng tra type không phải là kết quả nghiên cứu hiện tại mà là kết quả của một quá trình

nghiên cứu lâu dài; nó đơn giản chỉ mở đường cho một cuộc hành trình bắt đầu”(7). Nhận

định này, ở vào thời điểm cuối thế kỷ XX, như là một tiếng nói chung của các nhà nghiên

cứu folklore yêu thích và vận dụng thành công phương pháp này để hệ thống hóa, lập

một “bản đồ” văn học dân gian nước mình, trên cơ sở đó chỉ ra sự tương đồng và khác

biệt của văn học dân gian từng khu vực với văn học dân gian thế giới. Đó là lí do giải

thích sự xuất hiện liên tục các công trình ứng dụng lí thuyết địa lý- lịch sử Phần Lan vào

nghiên cứu văn học dân gian trong suốt thế kỷ XX và cả những năm đầu thế kỷ XXI.

Những công trình đó, phần nhiều được xuất bản theo các séri chuyên khảo Thông báo

của các nhà nghiên cứu folklore (Folklore Fellows’ Communications). Có thể kể một số

ví dụ về các công trình mới xuất bản gần đây:

- The Type and Motif Index of Finnish Belief Legens and Memorates (Marjatta

Jauhiainen, Bảng tra type và motif của truyền thuyết niềm tin và hồi ức ở Phần Lan, 362

trang, 1998, FFC No. 267. Revised and enlarged edition of Lauri Simonsuuri's Typen-

und Motivverzeichnis der finnischen mythischen Sagen (FFC No. 182).

- A Motif-Index of Luis Rosado Vega's Mayan Legends (Jim C. Tatum, Bảng tra

motif truyền thuyết của người Maya của Luis Rosado Vega, 117 trang, 2000, FFC No.

271, xxxviii ).

- Motif, Type and Genre. A Manual for Compiling of Indices & A Bibliography of

Indices and Indexing (Heda Jason, Motif, Type và Thể loại, Sổ tay biên soạn mục lục và

Bảng thư mục các mục lục và các bảng tra cứu, 279 trang, 2000, FFC No. 273).

- Motif-Index of Folk Narratives in the Pan-Hispanic Romancero (Harriet

Goldberg. Bảng tra motif truyện kể dân gian trong loại truyện anh hùng hiệp sĩ Tây Ban

Nha và Bồ Đào Nha, Tempe : Arizona Center for Medieval and Renaissance Studies,

2000).

- The Matti Kuusi international type system of proverbs (Outi Lauhakagas, Hệ

thống type tục ngữ thế giới của nhà folklore Matti Kuusi, 158 trang, 2001).

- Types of the Folktale in the Arab World: a Demographically Oriented Tale-Type

Index (Hasan M. El-Shamy, Type truyện dân gian trong thế giới Ả rập: Bảng tra cứu

type theo hướng nhân khẩu học, Bloomington, IN : Indiana University Press, 2004).

- The Types of International Folktales. A Classification and Bibliography (Hans-

JÖrg Uther, Type truyện dân gian thế giới, Bảng phân loại và thư mục, Part I, 619 pp.

Part II, 536 pp. Part III, 285 pp. 2004, FFC No. 284-286).

- Archetypes and Motifs in Folklore and Literature: A Handbook (Hasan El-

Shamy, Mẫu gốc và motif trong folklore và văn học, Chỉ nam tra cứu, 2005).

- A Motif Index of The Thousand and One Nights (Hasan M. El-Shamy, Bảng tra

motif Nghìn lẻ một đêm, Bloomington: Indiana University Press, 2006).

- Catalogue of Portuguese Folktales (Israbel Cardigos with the collaboration of

Paulo Correia and J.J.Dias Marques, Danh mục truyện dân gian Bồ Đào Nha, 406 trang,

2006, FFC No. 291).

Những công trình này cho thấy một thực tế là, phương pháp Phần Lan vẫn tiếp tục

nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học dân gian trên thế giới. Chắc chắn

là, các công trình biên soạn theo cách “lập bản đồ” truyện kể dân gian của từng nước vẫn

đang tiếp tục được thực hiện và sẽ đem lại những kết quả mới.

Một số công trình Nghiên cứu văn học dân gian theo lí thuyết type và motif

Bên cạnh các công trình biên soạn, sắp xếp tư liệu văn học dân gian, khuynh

hướng nghiên cứu so sánh truyện dân gian theo các hệ thống type, motif đã được tiến

hành. Các bài viết tiêu biểu cho khuynh hướng này là Nghiên cứu so sánh ba type truyện

cổ tích Trung Quốc và truyện cổ tích của người da đỏ Bắc Mỹ (A Comparative Study of

Three Chinese and North- American Indian Folktale Types) của Đinh Nãi Thông, giáo sư

người Mỹ gốc Hoa của trường đại học Western Illinois; bài Bảng tra motif và bảng tra

type truyện cổ: Một bài phê bình (The Motif- Index and the Tale Type Index: A Critique)

của Alan Dundes; bài Xu hướng trung tâm trong ngành nghiên cứu folklore về type và

motif truyện kể (The Centrality in Folkloristics of Motif and Tale Type) của Robert A.

Georges; bài Bảng tra cứu truyện dân gian: một khảo sát mang tính phê bình (Indexing

Folktales: A Critical Survey) của Hans- Jörg Uther; bài Kết cấu, văn bản và nội dung

của truyện kể và bảng tra cứu (Texture, Text, and Context of the Folklore Text vs.

Indexing) Heda Jason, bài Việc lập sơ đồ motif truyện cổ của vùng

Newfoundland (Motifing the Folktales of Newfoundland) của Martin Lovelace… Những

bài viết này đều được đăng tải trên Thông báo của các nhà nghiên cứu folklore (Folklore

Fellows’ Communication, gọi tắt là FFC) ở Phần Lan.

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu truyện kể dân gian theo phương pháp type và motif

được bắt đầu tương đối muộn. Các nhà nghiên cứu có công giới thiệu phương pháp này

với giới nghiên cứu Việt Nam là Lê Chí Quế, Nguyễn Tấn Đắc, Nguyễn Thị Hiền. Năm

1994, Lê Chí Quế có bài giới thiệu về phương pháp này trên Tạp chí Văn học với nhan

đề Trường phái văn học Phần Lan - những nguyên tắc ứng dụng và khả năng lí luận(8).

Năm 1996, Nguyễn Thị Hiền có bài viết Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo

bảng mục lục tra cứu típ và môtíp truyện cổ tích dân gian của Antti Aarne và Stith

Thompson(9). Trong bài viết này, Nguyễn Thị Hiền đã giới thiệu khá kỹ lưỡng về Bảng

tra cứu type và motif, đồng thời ứng dụng phương pháp này để xác định các motif trong

truyện cổ tích Tấm Cám. Kiều Thu Hoạch có 2 bài nghiên cứu là Sơ bộ tìm hiểu kiểu

truyện Tấm Cám ở Trung Quốc(10), So sánh tip truyện Trầu cau ở Trung Quốc và tip

truyện cùng loại ở Việt Nam và Cam puchia, bàn về tục ăn trầu và văn hóa quyển trầu

cau Đông Nam Á(11). Đặc biệt, năm 2001, nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Đắc đã có một

tuyển tập khá dày dặn các bài nghiên cứu truyện dân gian Việt Nam và Đông Nam Á

theo phương pháp type và motif. Cuốn sách có nhan đề là Truyện kể dân gian đọc bằng

type và motif(12), trong đó, tác giả đã có một bài viết công phu giới thiệu Bảng mục lục tra

cứu A-T và một chuyên khảo về truyện Tấm Cám ứng dụng phương pháp Phần Lan.

Ngoài ra, cũng cần phải kể đến những công trình nghiên cứu truyện dân gian vận dụng

phương pháp nghiên cứu type và motif như chuyên khảo của Vũ Anh Tuấn(13), Nguyễn

Bích Hà(14), Nguyễn Thị Huế(15), bài viết của Trần Thị An(16)… Các công trình ứng dụng

này đã chỉ ra yêu cầu bức thiết về việc dịch ra tiếng Việt công trình của A. Aarne và S.

Thompson để các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam có thể tiếp cận được với văn bản

hoàn chỉnh của các nhà sáng lập ra phương pháp nghiên cứu này. Bên cạnh đó, thực tế

nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc lập một bảng tra cứu truyện cổ tích Việt Nam ứng dụng

mô hình type truyện của A. Aarne và S. Thompson là một việc làm cần thiết.

Sự phản ứng của các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ - những người tiên phong trong

phương pháp tiếp cận folklore từ góc độ diễn xướng

Trên đây, chúng tôi đã đề cập đến những đóng góp của phương pháp Phần Lan

cho ngành nghiên cứu folklore thế giới. Những thành tựu mà phương pháp này đạt được

và ảnh hưởng rộng rãi của nó đến việc nghiên cứu văn học dân gian trên toàn thế giới là

không thể hồ nghi. Tuy nhiên, với tuổi đời hàng trăm năm, phương pháp này rõ ràng đã

bộc lộ những điểm bất cập trong tình hình mới. Và người chỉ ra sự bất cập này lại chính

là những nhà nghiên cứu folklore ở Hoa Kỳ, mảnh đất mà phương pháp này đặt chân đến

sớm, đạt được nhiều thành công và gây được ảnh hưởng lớn ra thế giới.

Mặc dầu đạt được nhiều thành công nhưng công việc của các nhà nghiên cứu so

sánh folklore ở Hoa Kỳ được khởi xướng bởi Thompson không được tiếp tục lâu dài bởi

vì hướng nghiên cứu này bị coi là “có nguồn gốc châu Âu và được thiết kế ra để phù hợp

với điều kiện châu Âu” và “Phương pháp Phần Lan có thể áp dụng cho vùng Bắc Mỹ

như S. Thompson đã chỉ ra bằng câu chuyện về người chồng là ngôi sao, tuy nhiên,

những nghiên cứu như thế này chỉ liên quan tới văn hoá nguyên thuỷ chứ không thể liên

hệ chúng với nền văn minh Hoa Kỳ. Nhà nghiên cứu Hoa Kỳ muốn biết rằng điều gì xảy

ra với tài liệu folklore Hoa Kỳ. Anh ta không muốn so sánh với các dị bản ở bất cứ nơi

nào chúng được tìm thấy trên thế giới theo cách làm của trường phái Phần Lan mà chỉ

muốn so sánh những truyền thống dân tộc ở Hoa Kỳ với các hình thức, chức năng của

chúng trên mảnh đất mà chúng được sinh ra, đó là bối cảnh của nước Mỹ”(17).

Thực ra, từ khi phương pháp Phần Lan bắt đầu bén rễ trên đất Mỹ, nó đã không

nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của các nhà nghiên cứu folklore theo phương pháp nhân

học, một phương pháp đạt được những thành tựu rực rỡ từ đầu thế kỷ XX ở Hoa Kỳ. Hai

phương pháp nghiên cứu này chọn hai cách tiếp cận khác nhau: một bên dựa vào các

điều tra dân tộc học và một bên dựa vào văn bản đã được sưu tầm. Vào những năm mà

các nhà nghiên cứu folklore Hoa Kỳ ứng dụng phương pháp Phần Lan và đạt được thành

công rực rỡ thì S. Thompson đã nhận thấy sự không đồng thuận này. Ở cuộc họp của Hội

Folklore Hoa Kỳ năm 1936 (là năm mà 6 tập bộ sách Bảng tra motif văn học dân gian

vừa được xuất bản lần đầu), Stith Thompson nói rằng, ông là nhà “phi-nhân học” duy

nhất của cuộc họp và ông cho rằng: “Khó khăn lớn nhất mà Hội đang đối mặt là không

nhận thức được tầm quan trọng của một thực tế là Hội và Tạp chí đang trở nên thứ yếu

đằng sau hai hướng quan tâm chính: một của các nhà nhân học và một của các nhà nhân

văn”(18).

Tuy nhiên, hai hướng nghiên cứu này vẫn đi theo sự lựa chọn của mình. Trên con

đường phát triển và tạo ảnh hưởng của mình, phương pháp Phần Lan còn gặp phải một

trở lực khác lớn hơn từ phía các nhà nghiên cứu folklore. Trong khi S. Thompson chỉ

quan tâm đến tư liệu folklore tồn tại ở các văn bản có giá trị văn học và chúng là sản

phẩm của quá khứ thì các nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, folklore vẫn tồn tại trong đời

sống hôm nay, là biểu hiện của lĩnh vực rộng lớn của hành vi và văn hoá loài người. Đó

là cơ sở cho sự ra đời của phương pháp nghiên cứu folklore từ góc độ diễn xướng

(context), một phương pháp nghiên cứu thịnh hành ở Hoa Kỳ vào nửa cuối thế kỷ XX và

đang được cả thế giới ứng dụng ngày nay. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các nhà

nghiên cứu William Bascom, R.M. Dorson, Richard Bauman, Linda Dégh... Các nhà

nghiên cứu tán đồng quan điểm này chỉ coi văn bản như một yếu tố tham chiếu chứ

không phải là toàn bộ tư liệu nghiên cứu. Điều quan trọng đối với họ là phải quan tâm

tìm hiểu xem các hiện tượng cụ thể của đời sống folklore đang tồn tại trong những điều

kiện như thế nào, chẳng hạn, về truyện cổ tích, họ không còn thực sự quan tâm đến cốt

truyện, motif (là những đơn vị mang tính văn học mà trường phái Phần Lan quan tâm)

mà lại quan tâm đến vai trò người kể chuyện; về truyền thuyết, họ không quan tâm đến

cốt truyện, hình tượng nhân vật mà lại quan tâm đến tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội… là môi

trường mà truyền thuyết đã và đang sống… Đối với các nhà nghiên cứu folklore theo

phương pháp này, họ không đi vào những vấn đề lí thuyết như đặc trưng thể loại, đặc

điểm thi pháp thể loại, nhân vật… mà lại tập trung vào các vấn đề cụ thể, nghiên cứu qua

các trường hợp cụ thể (a case study) nhằm thâm nhập vào thực trạng đời sống folklore

hiện nay. Có vẻ như, đối với các nhà nghiên cứu folklore hiện nay, mọi lí thuyết của thế

kỷ XX đã bộc lộ nhiều bất cập và không thể soi sáng các vấn đề của đời sống folklore

như một dòng chảy bất tận. Chính vì thế, việc khám phá dòng chảy đó để nắm bắt nó là

quan trọng và thiết thực hơn việc tìm tư liệu để minh chứng cho những lí thuyết nào đó.

Với quan điểm này, các tư liệu văn bản văn học dân gian (mà những bảng tra cứu của các

nhà nghiên cứu ứng dụng phương pháp Phần Lan là các ví dụ) dường như đang lùi vào

hậu trường và đóng một vai trò thứ yếu.

Chúng ta cũng có thể nhìn thấy sự điều chỉnh hướng nghiên cứu ở các công trình

công bố trên Thông báo. Trong Tổng mục lục của Thông báo này, có tới 34 công trình

nghiên cứu về tín ngưỡng, 10 công trình nghiên cứu về tôn giáo. Từ góc độ lí thuyết,

ngoài type và motif, các nhà nghiên cứu đã mở rộng phạm vi khảo sát của mình sang cả

chủ đề (subject), nhan đề (title) và cổ mẫu (archetype), nghệ nhân, môi trường diễn

xướng... Và với S. Thompson, một trong những chủ soái của trường phái nghiên cứu

folklore ở góc độ ngôn từ, như đã nói ở trên, cũng đã dần dần thoát li khỏi hướng nghiên

cứu lệ thuộc vào các yếu tố văn bản mà đã nghiên cứu chúng dưới góc độ tổ chức văn

bản để nhìn nhận nó trong mối quan hệ với văn học viết. Ông còn có tham vọng vượt

thoát hẳn khỏi khuynh hướng lệ thuộc vào văn bản để hướng tới nghiên cứu truyện cổ

tích từ góc độ diễn xướng khi ý thức rằng “Chúng ta cần nghiên cứu chức năng của

truyện kể trong đời sống của những người kể chúng và nghe chúng; chúng ta nghiên cứu

bản chất của nghệ thuật này ở nhiều thời điểm khác nhau của nhiều vùng miền khác

nhau” (Lời giới thiệu The Folkltale). Tuy nhiên, có thể thấy rõ là, đây là điều ông chưa

làm được trong các công trình của mình.

Sự bất cập của lí thuyết này còn bộc lộ cả ở việc ứng dụng để biên soạn tư liệu và

cả trong việc ứng dụng vào nghiên cứu so sánh. Trong khi ứng dụng thành tựu của

phương pháp này để biên soạn tài liệu truyện cổ của nước mình, bên cạnh việc thừa

nhận “sự chỉ đường” của nó, một số nhà nghiên cứu đã nhận thấy nhiều “vênh lệch” khi

lấy khung chuẩn A-T lắp vào kho tư liệu địa phương. Đơn cử một trường hợp vận dụng

bảng tra A-T để biên soạn truyện dân gian châu Á là Giáo sư Đinh Nãi Thông. Ông là

người đã để nhiều công sức đi điền dã, bổ sung tài liệu để lập Bảng tra type truyện dân

gian Trung Quốc và đã công bố chúng trong công trình A Type Index of Chinese

Folktales in the Oral Tradition and Major Works of Non-Religious Classical

Literature(19) đã nhận ra hệ thống sắp xếp của A-T không hoàn toàn trùng khớp với

truyện dân gian Trung Quốc. Ông chỉ ra rằng, trong 843 type và “tiểu type” (subtype),

chỉ có 575 type truyện trùng với bảng A-T, còn 268 type khác là hoàn toàn của Trung

Quốc. Và khi ứng dụng bảng tra để phân tích so sánh ông cũng nhận thấy một đôi chỗ

bất cập. Trong bài viết A Comparative Study of Three Chinese and North-American

Indian Folktale Types ông cũng đã chỉ ra rằng: “Sự phân biệt type và thể loại (genre),

như là lí thuyết cũ đã làm, không thể áp dụng cho khu vực ngoài Ấn- Âu được. Đối với

tôi, lí thuyết này chỉ đúng từng phần; và kết quả của việc sử dụng một cách hết sức thận

trọng thuật ngữ thể loại bởi quyền lực nhất định trong quá khứ và kết quả của sự thôi

thúc mạnh mẽ của một số nhà nghiên cứu folklore ngoài Ấn Âu (non- Indo- European)

để phân loại những thể loại tự sự khác ngoài cổ tích chỉ là tương đối mà thôi, tuy sự

ham mê phương pháp này, đến nay vẫn tồn tại”(20). Đây là điều thực ra khó tránh khỏi

đối với bất cứ một lí thuyết nào, một phương pháp nghiên cứu nào trên thế giới vì

những giới hạn lịch sử của nó sớm hay muộn đều cũng sẽ bị vượt qua, bởi không có

một phương pháp nào là chìa khóa vạn năng.

Đôi điều nghĩ tiếp

Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một xã hội có tốc độ chuyển động nhanh,

nơi mà quá khứ và hiện tại có nhiều đan cài; nơi mà sự giao lưu văn hóa diễn ra cả ở bề

rộng và bề sâu. Chính vì vậy, không một phương pháp nghiên cứu đơn lẻ nào có hiệu

lực tuyệt đối, và việc ứng dụng phương pháp liên ngành là điều không thể khác được.

Có vẻ như lời phát biểu của S. Thompson, cũng tại cuộc họp của Hội Folklore Hoa Kỳ

năm 1936, vẫn còn giá trị: “Một nhà dân tộc học có thể khó mà hy vọng có thể hiểu

được con người nếu như anh ta không để ý đến một phần rất quan trọng trong cuộc

sống của họ như truyện cổ tích và thần thoại, các bài ca và các điệu nhảy, các nghi lễ và

các bài khấn. Tương tự như vậy, nhà nghiên cứu folklore cần những kinh nghiệm và

những kĩ năng của một nhà dân tộc học được đào tạo để lập ra những mô hình cho

nghiên cứu của họ”(21). Trong quá trình thể nghiệm nghiên cứu, phương pháp Phần Lan

đã được các thế hệ nghiên cứu tiếp nối bổ sung và đổi mới. Việc tiếp thêm hơi thở mới

của sự giao lưu và tiếp nhận thành tựu của các phương pháp khác đã được thể hiện

trong ý kiến được phát biểu gần đây của nhà nghiên cứu Phần Lan Ulrika Wolf-Knuts.

Bà viết rằng: “Ngày nay, các nhà folklore học đã hướng sự chú ý tới các nghệ nhân và

ảnh hưởng qua lại giữa nghệ nhân và nhà nghiên cứu folklore. Các nhà folkore học trên

toàn thế giới đang cố gắng tìm ra cái nhìn toàn cảnh về hệ thống giá trị, về sơ đồ có tính

quy tắc của đời sống con người từ việc phân tích những nghệ nhân. Các nhà folklore

học ngày nay quan tâm đến chất lượng nhiều hơn là số lượng, nghiên cứu sâu hơn là

những khảo sát có tính so sánh toàn cầu. Đã nghe thấy một vài tiếng nói chỉ trích giá trị

khoa học của những công trình như thế. Tuy nhiên, vì nhiều lí do, sự so sánh folklore

của những nền văn hóa khác nhau có thể mở rộng tầm mắt của chúng ta trong một xã

hội đa văn hóa ở châu Âu. Việc so sánh không chỉ cho thấy sự khác biệt văn hóa mà

còn chỉ ra sự tương đồng… Bảng tra type giúp chúng ta tìm thấy những sự tương đồng,

ít nhất là ở phạm vi bề mặt. Việc nghiên cứu nghĩa của văn bản đòi hỏi một sự hiểu biết

sâu rộng lịch sử vùng, bối cảnh văn hóa thường xuyên ảnh hưởng tới văn bản folklore,

nghĩa rộng và nghĩa sâu của những khái niệm then chốt, ở một chừng mực nào đó, còn

là kiến thức về nghệ nhân và những cách thức mà văn bản đó được ghi lại. Bảng tra cứu

type giúp cho nhà nghiên cứu folklore lần theo tư liệu và buộc phải bổ sung thêm

những nguồn tư liệu khác. Bằng cách này, họ không còn biên soạn những bảng danh

mục tư liệu folkore thuần túy nữa mà bắt đầu sống theo cách thức truyền cảm hứng

mạnh mẽ nhất. Và bảng tra motif lúc này giống như một bản bí truyền: đối với các nhà

nghiên cứu folklore được học hành bài bản, nó là một cái hòm đựng đầy châu báu,

nhưng đối với kẻ ít học thì nó chỉ là một đống đinh rỉ mà thôi”(22).

Ý kiến này cho chúng ta một cái nhìn lạc quan về tương lai của phương pháp Phần Lan có tuổi đời hàng trăm năm và cả những đòi hỏi đối với các nhà nghiên cứu folklore về việc phải đổi mới không ngừng khi ứng dụng phương pháp này ở thế kỷ XXI. Đó cũng là kết luận mà chúng tôi muốn nói tới khi khép lại bài viết này