NGƯỜI NƯỚC NGOÀI MUA CỔ PHẦN CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Quy định pháp luật về việc nhà đầu nước ngoài
mua c phần trong các doanh nghiệp Việt Nam
giống n mt m bòng bong. Thực chất như thế
nào?
ng buc...
Pháp luật quy định về việc mua c phần của nhà đầu tư nước ngoài trong
các doanh nghiệp Việt Nam có một lịch sử khá “thăng trầm”. Cũng là vốn
nước ngoài hết nhưng trong khi đầu trực tiếp được o bế (với việc ban
hành Luật Đầu nước ngoài tại Việt Nam vào năm 1987) thì ngược lại,
cánh cửa đầu gián tiếp mra rất chậm. Về mặt logic, lẽ ra đã cho phép
nhà đầu nước ngoài b vốn thành lập công ty liên doanh hoặc ng ty
100% vốn ớc ngoài thì đương nhiên hcũng phải được quyền mua c
phn ở các doanh nghiệp khác. Thế nhưng, thực tế lại không phi như vậy.
Một thời gian dài, giới đầu đã phải chờ đi trong tình trạng “âm âm u
u” thiếu hành lang pháp lý. Đến ngày 28-6-1999, tức sau đúng 12 năm
mcửa cho đầutrực tiếp nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ mi ký ban
hành Quyết định số 145/QĐ-TTg chính thức cho phép nhà đầu nước
ngoài được tham gia mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam
nhưng với tỷ lệ không vượt quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Vì sao
lại 30%? Đây là vấn đề thú vị liên quan đến một điều khoản trong Luật
Đầu ớc ngoài tại Việt Nam (1987). Điều khoản này quy định: “Phần
góp vốn của bên nước ngoài vào vn pháp định của xí nghiệp liên doanh
không bhạn chế về mức cao nhất, theo sthỏa thuận của hai bên nhưng
không dưới 30% tổng s vn”. Tỷ lệ mua cphần, do đó không thcho
phép vượt 30% vốn của doanh nghiệp vì nếu ợt thì doanh nghiệp này
không n doanh nghiệp trong nước nữa mà đã trthành xí nghiệp liên
doanh được điều chỉnh theo một hệ thống chính sách và pháp luật hoàn
toàn khác.
Riêng đối với công ty niêm yết trên thtrường chứng khoán, ngày 10-6-
1999 Thớng Chính phủ cũng ký Quyết định s139/QĐ-TTg cho phép
nhà đu tư nước ngoài được mua cổ phiếu nhưng với tỷ lệ thấp hơn, tối đa
không q20% tng số cổ phiếu đang lưu hành củang ty niêm yết.
nhiều lý do cả hai văn bản trên đã không tạo nên sức hấp dẫn cần thiết
để thu t giới đầu tư. Vì vy, ngày 11-3-2003, Chính phban hành tiếp
Quyết định s 36/2003/QĐ-TTg v quy chế góp vốn, mua c phần của
nhà đầu nước ngoài với tuyên bố: khuyến khích c nhà đầu nước
ngoài p vn, đồng thời huy động vốn, công nghệ, phương pháp quản lý
doanh nghiệp của nước ngoài mrộng thị trường, ng sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp Việt Nam... Điểm đáng chú ý đây là việc m rộng
loi doanh nghiệp được phép bán cổ phần, bao gồm: doanh nghiệp nhà
nước thực hiện cổ phần a, công ty cổ phần, ng ty trách nhiệm hữu
hạn, ng ty hợp danh, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực ngành ngh do Thủ tướng Chính phủ quyết định
hoc y quyền Btrưởng BKế hoạch Đầu công bố từng thời kỳ.
vậy, tỷ lệ cho pp mua phần vốn góp vẫn bị khống chế theo mức cũ,
30%. Trong khi đó, đối với công ty niêm yết, bằng Quyết định số
146/2003/QĐ-TTg ngày 17-7-2003 của Thủ tướng Chính phủ tlệ mua c
phiếu từ 20% được nâng lên mức ngang bằng 30%.
Và m
Vic mua cphần của nhà đu ớc ngoài l sẽ mãi còn bkhống
chế tỷ lệ 30% nếu như còn phân biệt doanh nghiệp nước ngoài doanh
nghiệp trong nước. Rất may, đến m 2005 với việc ra đời của Luật
Doanh nghiệp và Lut Đầu sự phân biệt này đã được a bỏ. Theo tinh
thần của hai đạo luật này, nhà đầu tư ớc ngoài i chung được đối x
bình đẳng như nhà đầu trong nước, cả về quyền đầu tư, góp vốn, mua
c phần (dù còn một số phân biệt nhất định). Tuy nhiên, chỉ đến khi Chính
ph ban hành Nghđịnh số 139/2007/NĐ-CP vào ngày 5-9-2007 thì quyền
này mới được ghi nhận một cách cthể, rõ ng. Theo đó, tất cc tổ
chc là pháp nhân, gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không
phân bit nơi đăng ký trsở chính và mi nhân, không phân biệt quốc
tịch và nơi cư trú, đu có quyền góp vốn, mua cổ phần với mức không hạn
chế tại doanh nghiệp, trừ một số trường hợp (công ty cổ phần niêm yết;
doanh nghiệp ngành nghkinh doanh điều kiện do pháp luật chuyên
ngành quy định; doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa và doanh nghiệp
kinh doanh dch vụ áp dụng theo Biểu cam kết về thương mại dịch vụ với
WTO). Ngay trong Biểu cam kết dịch vụ với WTO, chúng ta cũng hứa:
“Mt năm sau khi gia nhập, hạn chế 30% cphần ớc ngoài trong vic
mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được bãi bỏ, ngoại trừ đối
với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các ngân hàng thương
mại c phần và các ngành không cam kết trong biểu cam kết này”.
Như vậy, từ ngày 11-1-2008 (mt năm sau khi gia nhập WTO), thực chất
rào cản chỉ nằm trong ba loại trường hợp đặc biệt còn lại theo quy định
của Nghị định 139/2007/NĐ-CP. Tuy nhiên, theo luật gia Cao Bá Khoát,
khi chúng ta thực thi lộ trình cam kết với WTO những lĩnh vực hạn chế
nói trên trong ơng lai cũng sẽ “m toangnh cửa cho đầu nước
ngoài. Kcả đi với công ty niêm yết, đường vào cũng được mở rộng hơn
khi trước đó, ngày 29-2-2005, bằng Quyết định 238/2005/QĐ-TTg Th
tướng Chính phủ cho phép ng tỷ lệ nm giữ cổ phiếu của nhà đầu
nước ngoài lên 49% (tr các ngân ng thương mại cổ phần, theo quy
định chuyên ngành, hiện chỉ cho phép tỷ lệ 30%).
Những câu hỏi lớn chưa lời đáp
Theo luật Nguyễn Gia Huy Chương, Văn phòng Luật P&P, mặc dù
quyền mua cổ phần của nđầu ớc ngoài đã được quy định nhưng
việc thực thi trên thc tế vẫn còn không ít truân chuyên, đặc biệt là những
trường hợp liên quan đến thực thi Biểu cam kết về thương mại dịch vụ với
WTO. Sau hơn một năm gia nhập, nghị định hướng dẫn về vấn đề này vẫn
chưa ra đời, khiến cho doanh nghiệp lẫn các quan đăng ký kinh doanh
rối như tơ vò. Theo cam kết, sẽ bãi b hạn chế về tỷ lệ s hữu 30% của
nhà đầu nước ngoài trong doanh nghip Việt Nam; điều đó nghĩa
nhà đầu nước ngoài được mua 100% hay chỉ một tỷ lệ nào đó trong
khoảng từ >30% đến <100%? Hoàn toàn không rõ. Smù m này làm
cho các hmua bán công ty “có yếu tố ớc ngoài” rơi vào tình trạng
bị ngưng trệ nghiêm trng.
Một doanh nghiệp dẫn chứng, dụ như tại cơ quan đăng kinh doanh
TPHCM, khi đến nộp hồ sơ vmua n c phần, bình thường nhà đu
sđược cán bộ trả lời “chờ ớng dẫn”. Nếu quen biết, nhà đầu thể
gửi ng văn hỏi trước nhưng ngay ctrong trường hợp y quan chức
năng cũng chỉ trả lời lấp lửng “có thể được mua những ngành nghsau
đây...”. Trong khi đó, điều quan trọng được mua với tỷ lệ cthể bao
nhiêu thì lại không hề cho biết. Thậm chí, quan đăng ký kinh doanh,
để cho an toàn” vẫn áp dụng cho phép tỷ lệ 30% theo Quyết định
36/2003/QĐ-TTg trước đây của Thủ tướng Chính phủ, vì cho rng
chưa b“khai tử” bi văn bản nào cả. Theo ông Nguyễn Đình Cung, Thư