98
NGUYÊN XUÂN KÍNH
có NHIỀU
CÁCH HIẾU
MỘT LỜI CA DAO
NGUYỄN XUÂN KÍNHP)
I
ăm 1999, PGS Hoàng Tiến Tựu khi
bình giảng bài ca dao dưới đây đã
đưa ra hai đị bản A và B.
Bản A được ghi lại trong sách Tục
ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc
Phan:
Mình nói dối ta mình hãy còn son
Tu đi qua ngõ, thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Tu đi xách nước rửa cho con mình.)
Bản B gồm 6 dòng sau đây:
Mình nói uới ta mình hãy còn son
Tu ởi qua ngõ thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Tu đi gánh nước tắm cho con mình
Con raình uửa đẹp 0uửa xinh
Một nửa giống mình, nửa lại giống ta.
Dị bản này ông sưu tầm được vào năm
1989, “do một cô giáo quê ở vùng sông Cầu,
Hà Bắc cung cấp”
trọn vẹn hơn, đầy đủ hơn bản A.
- Theo ông,-bản B này
Theo Hoàng Tiến Tựu, “chàng trai
nói liên tục tất cả những điều cần nói và
muốn nói. Cô gái chỉ im lặng lắng nghe
và tiếp nhận.
' PGS, TS, Viện Nghiên cứu văn hoá dân
gian.
Cô gái “còn son”; có thể hiểu là cô gái
chưa chồng, cũng có thể hiểu là cô đã có
chổng mà chưa có con. “Dù hiểu từ son
theo cách nào thì cũng có nghĩa là cô gái
đã nói dối và chàng trai đã trực tiếp phát
hiện ra sự nói dối đó”. Đứa bé “những
trấu cùng tro” “là hình ảnh đáng thương
của những đứa con hoang bị bố rơi”.
“Nghe chàng trai nói đến câu này, chắc
chắn cô gái vô cùng đau đón trước hình
ảnh thảm hại của đứa con mình, đồng
thời càng hồi hộp, lò lắng cho mối quan
hệ trong tương lai của chàng trai và bản
thân mình”. Khi biết chàng “gánh nước
tắm cho con mình” “chắc cô gái hết sức
bất ngờ và càng hồi hộp hơn. Việc chàng
trai gánh nước tắm cho con mình là một
hành động tốt đẹp, cao thượng và đầy
lồng nhân ái đối với đứa con bị bỏ rơi của
mình nhưng còn đối với bản thân mình
thì sao? Vẫn chưa có tín hiệu gì rõ rệt cả
(có thể thế này mà cũng có thể thế kia
lắm chứ?).”
Do hiểu như trên, lúc chỉ tiếp xúc với
văn bản do Vũ Ngọc Phan ghi chép,
Hoàng Tiến Tựu cho rằng văn bản bốn
dòng làm ông “thấy khó hiểu và không
nhận thức và lý giải được chủ để” của tác
phẩm. Ông “ngờ rằng bài ca dao trên
chưa được sưu tầm và ghi chép đầy đủ”),
Chúng ta tiếp tục theo mạch suy nghĩ
của ông:
“Câu thứ năm lại càng đặc biệt và bất
ngờ hơn nữa:
Con mình uừa đẹp uừa xinh!
Đó là một lời khen thực bụng, chân
thành hay là một lời nói mát, nói kháy?
Một đứa trẻ bị bỏ liều, mặt mũi nhem
nhuốc bẩu. thỉu, sau khi được tắm rửa
xong, trông nó trắng trẻo, kháu khỉnh
xinh đẹp. Đó là một điều rất tự nhiên và
dễ hiểu. Nhưng nó là con của người khác,
nó không phải là con của anh. Anh khen
nó “vừa đẹp vừa xinh” để ngụ ý điều gì
với mẹ nó?”.
“Đến câu cuối cùng “Một nửa giống
mình, một nửa giống ta” thì cô gái mới
hoàn toàn hiểu rõ và thật sự yên tâm. Cái
điều mà cô gái đợi chờ, mong mỗi cũng
chính là cái điều mà chàng trai ấp ủ
muốn nói. Chủ đề và cái thần của bài ca
dao đều chủ yếu nằm trong câu cuối. Câu
“Một nửa giống mình, một nửa giống ta”
là một sáng tạo đặc sắc trong ca dao Việt.
Một nội dung tư tưởng tình cảm cao đẹp
và sâu sắc đã được diễn đạt dưới một
hình thức nghệ thuật giản dị và độc đáo.
Chàng trai chỉ nói về đứa bé nhưng lại
thể hiện được đầy đủ, và sâu sắc tình yêu
của mình đối với cô gái. Qua câu này,
chàng trai đã nói được với cô gái rất
nhiều, kể cả những điều không tiện nói
ra. Đến đây cô gái mới thực sự yên tâm,
vì biết rõ chàng trai không chỉ hiểu mình
và yêu mình trong hiện tại, mà còn hiểu,
thông cảm và chấp nhận cả cái quá khứ
của mình, kể cả cái quá khứ lỡ làng khó
„.® ` ˆ " " m4
nói cùng hậu quả của nó”®,
II
Năm 2000, mừng tròn 6 tuổi, Tạp chí
Thế giới trong ta (của Hội Tâm lý - giáo
dục học Việt Nam) tổ chức cuộc thi bình
ca dao. Bài ca dao được bình chính là bài
đã được PGS Hoàng Tiến Tựu bình giảng.
Văn bản được chọn làm đề thi là văn bản
6 dòng. Số tiền trao cho giải nhất là
600.000 đồng, có nghĩa là “giá trị giải cao
nhất cũng bắt đầu bằng con số 6. Lúc đầu
ban tổ chức dự kiến hạn chế mỗi bài dự
thi chỉ gói gọn trong 600 chữ, nhưng rồi
lại e rằng số lượng chữ ấy là quá hẹp, quá
thắt, có thể gây khó khăn cho người dự
thi nên nới rộng là 1.000 chữ””.
Theo đánh giá của Tạp chí Thế giới
trong ta, “hình như cả hình thức lẫn đề
thi đã đi được vào lòng người nên được
đông đảo bạn đọc xa gần hưởng ứng. Tổ
thư ký phải làm việc mê mãi với số lượng
rất lớn bài dự thi gửi về (...)®. Hội đồng
chung khảo (do GS Phạm Tất Dong, Tổng
biên tập Tạp chí, làm chủ tịch) đã “làm
việc nhiều ngày” và “thống nhất đánh
giá: Bài ca dao là viên ngọc lấp lánh
trong kho tàng phôncÌ]o nước nhà. Các tác
giả dự thi như những người thợ ngọc tài
hoa đã phát hiện ra những đường vân đa
sắc lóng lánh cả trong đêm tối và dưới
ánh nắng mặt trời, thậm chí còn nghe
thấy cả tiếng tâm tình trong hồn ngọc”),
Tạp chí Thế giới trong ta ởã trao hai
giải nhất (mỗi giải 600.000đ), hai giải nhì
(mỗi giải 400.000đ), ba giải ba (mỗi giải
200.000đ), năm giải khuyến khích (mỗi
giải 150.000đ).
Báo Giáo dục uà thời đại, số 39, ngày
1ỗ tháng 3 năm 2001, và tuần báo Văn
nghệ, số 11 ngày 17 tháng 3 năm 2001
cùng đăng bài “Băn khoăn về một đề thĩ”
của nhà giáo Nguyễn Thị Lan. Tác giả
viết:
“Các “thí sinh” tham gia dự thi đều
thống nhất ca ngợi việc làm “gánh nước
tắm cho con mình” của chàng trai là cao
thượng, là tốt bụng, dễ thương đầy tính
nhân văn. Nhận định này, chúng tôi
100
NGUYÊN XUÂN KÍNH
==—————————=—=—ễ—ễ—-
hoàn toàn nhất trí 'song với điều kiện
phân tích theo dị bản bốn câu của ông Vũ
Ngọc Phan. Chàng trai “gánh nước tắm
cho con mình” sạch sẽ xong rồi lặng lẽ ra
đi không nhận một lời cảm ơn hoặc một
lời mời vào nhà xơi nước của cô gái thì cái
cao thượng, cái tốt bụng dễ thương kia
còn được nhân lên gấp bội. Việc làm của
chàng trai sẽ để lại trong lòng cô gái một
ấn tượng đẹp đế khó quên, một lòng
khâm phục kính nể, một tâm trạng bâng
khuâng nhung nhớ. Từ đố mà tình yêu
càng được nung nấu trào dâng. “Ta đi
gánh nước tắm cho con mình”, kết thúc
bài ca dao ở đây là đẹp nhất. Song ở dị
bản sáu câu, chàng trai thực hiện xong
một nghĩa cử cao đẹp còn nán lại gặp cô
gái tán một đôi câu thô thiển tầm thường,
cơ hội:
Con. mình uữa đẹp 0uừa xinh
Một nửa giống mình nửa lại giống ta.
Bao nhiêu cái cao thượng, cái dễ
thương, cái nhân văn trong việc làm của
chàng trước đây hoàn toàn bị sụp đổ, nó
xúc phạm đến danh dự của chàng, xúc
phạm đến giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ
của bài ca vốn được suy tôn là bài ca hay
nhất trong kho tàng ca dao dân ca cổ Việt
Nam (8)
Về từ ngữ, bà Nguyễn Thị Lan “vẫn
thích thú và tri âm với đị bản của ông Vũ
Ngọc Phan “Ta đi xách nước rửa cho con
mình”. Từ “xách” và từ “rửa” nó cổ hơn từ
“sánh” và từ “tắm”, nó phù hợp với việc
làm vội vã khẩn trương của chàng trai
khi thấy cháu bé “đây mình tro trấu”.
Mặt khác, vào thời điểm bài ca dao xuất
hiện, ở làng quê Việt Nam mấy ai sắm
được thùng gánh nước (kế cả nhà giàu
có), huống hồ nhà một cô gái nghèo. Việc
lấy nước ở ao hồ về dùng chủ yếu được
vận chuyển bằng hũ sành (xách tay) nên
dị bản “đề thi” “Ta đi gánh nước tắm cho
con mình” cũng cần phải được xem xét”.
Bà Lan kết luận:
“Có thể nái bài ca dao bốn câu mà ông
Vũ Ngọc Phan đã tuyển chọn in trong
Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam là bài ca
hay nhất trong kho tàng thi ca dân gian
Việt Nam. Bài ca dao mở ra cho người đọc
một trường liên tưởng hết sức phong phú,
nó ngợi ca tình yêu của những người lao
động nghèo khổ, cao thượng, vị tha. Rất
tiếc hai câu cuối mới được thêm vào:
Con mình uửa đẹp uừa xinh
Một nửa giống mình, nửa lại giống ta
của một tác giả dân gian hiện đại nào đó,
vô hình trung đã làm tổn thương đến giá
trị thẩm mỹ và nghệ thuật của bài ca,
làm mở ởi cái trong sáng lung linh của
một viên ngọc quý.”
Sau khi bài viết trên được công bố,
“ông Đàm Ngọc Xuyến (Hà Nội) đã đến
tận Toà soạn Thế giới trong ta gửi bài
trao đổi về bài viết của bà Lan. Thế giới
trong ta mời ông Đào Nam Sơn, người
được đào tạo chuyên ngành phôncÌo tham
gia ý kiến”. “Để rộng đường dư luận”, Tạp
chí Thế giới trong ta số 13ð năm 2001
đăng bài của cả ông Đàm Ngọc Xuyến và
ông Đào Nam Sơn”).
Ông Đàm Ngọc Xuyến nhận xét rằng
bà Nguyễn Thị Lan đã “hiểu ca dao một
VĂN HOÁ DÂN GIAN VÀ NHÀ TRƯỜNG
cách thiển cận”. Ông cho rằng cô gái
trong lời ca dao đang bàn không đơn giản
chỉ là đáng thương, đáng được giúp đỡ.
“Nếu cô là người tử tế và có tình cảm thật
thì cô sẽ khác kia, chẳng chân thành bày
tổ thì cũng lặng lẽ nín nhịn, như bao
người phụ nữ Việt Nam nết na chịu
thương, chịu khó khác. Chứ sao cô lại nói
khống lên là mình chưa có gì?”.
“Cô nàng này xem ra oái oăm, đang
định chơi khăm hay xỏ xiên gì chàng trai
cơ đấy. Có thể xưa nay cô tưởng chàng
mê mình, nhưng cô lại cho rằng chàng
quá hiển lành, đến mức khờ dại ngốc
nghếch, nên nảy ra ý định ghẹo chơi (dân
gian gọi là dữ mỡ miệng mèo) cho vul.
Mặc dù thân phận cô nào có ra gì, nhưng
kiểu vui của cô là niềm vui độc ác, cư xử
của cô là cư xử thiếu tên trọng người
khác, ít văn hoá đấy chứ. Vậy thì việc gì
chàng phải “tắm cho con nàng rồi nặng lẽ
ra để°(..)?”
Chàng trai biết rõ sự “đắc thắng lén
lút và đầy tội lỗi” của cô gái nhưng không
vội nổi khùng. “Chàng vẫn đàng hoàng
làm cái việc mà nàng không thể ngờ
được, đó là đi gánh nước tắm cho đứa trẻ
lem luốc bẩn thỉu. Để rồi trước khi di
chàng làm bộ như khen con nàng “cháu
nó vừa đẹp vừa xinh”. Nàng vẫn chưa ý
thức được câu khen ấy đâu, vẫn tưởng là
chàng “dở hơi”, “cám hấp”, đến thế mà
còn “nhân ái với cả cao thượng”.
“Và nàng hoàn toàn bất ngờ khi
chàng nói câu cuối cùng, một câu vu vơ
nhưng thật sự là một đòn chua cay: con
nàng chả giống bố nó tẹo nào, tôi đã
101
chiếm đoạt nàng (trong tâm tưởng) từ lâu
rồi mà nàng còn không biết à? Ý nghĩa
châm biếm của hai câu cuối thật vô cùng
tình tế và sinh động, nhưng cũng thật
khó nắm bắt, bởi bản thân trò chơi khăm
của cô gái kia cũng đâu dễ lột tát),
Về nhân vật chàng trai, ông Đàm
Ngọc Xuyến phân tích: “Liệu chàng trai
có cố chấp quá không? Có thiếu quân tử
chăng khi ăn miếng trả miếng với phụ
nữ? Cũng có thể, bởi dân gian không ngại
đưa ra những điển hình hai mặt. Họ còn
dám cho các cô danh đá một câu “ghê
chết đi được”: Lắng lơ cũng chẳng hao
mòn. Chính chuyên cũng chẳng sơn son
để thờ kia mà. Nhưng trong trường hợp
này, tôi lại nghĩ khác. Cô nàng trơ tráo
kia định đem nhan sắc của mình ra đùa
nhả với người thật thà tốt bụng. Á cần
phải nhận bài học. Có lẽ chàng cũng
chẳng yêu đương gì nàng đâu, nghe cách
xưng hô “mình mình ta ta” nửa đùa nửa
thật, và nhất là qua giọng điệu thì biết,
chẳng qua nàng tưởng bở mà thôi. Và bài
học thật kịp thời và đích đáng”.
Tác giả cho rằng bà Nguyễn Thị Lan
“lầm cẩm đáng cười” khi nhà giáo này
viết, hai từ “xách” và “rửa” cổ hơn, phù
hợp hơn hai từ “gánh” và “tắm”. Theo
ông, “cả bốn chữ ấy đếu nằm trong vốn
“1200 từ vựng cơ bản”, dân tộc nào cũng
dùng từ khi mới hình thành, chẳng chữ
nào cổ hơn chữ nào?” Ông phê phán tiếp:
“Bà không thấy được hai chữ “gánh” và
“tắm” nó cực nhọc và triệt để hơn “xách”
và “rửa” ư? Chàng trai chịu nhục lùi lại
lấy đà để sau đó vùng lên phản đòn quyết
định đấy".
_102
NGUYỄN XUÂN KÍNH
————ễễễễễ=EE=EEEE-——cc
Trong bài “Trao đổi với một đồng
nghiệp”, một mặt ông Đào Nam Sơn “tin
cô giáo Lan nói đúng ở chỗ bài ca dao sáu
câu rất có thể sinh ra sau bài ca dao bốn
câu”; “công nhận bài ca dao kết thúc ở
bốn câu là đẹp”. Mặt khác, ông cho rằng,
việc “nối thêm hai câu nữa cũng không
làm cho bài ca dao xấu đi, tình người kém
đi. Hai câu tiếp theo được phát triển
trong một trường liên tưởng hợp lý: Gột
sạch tro trấu đứa trẻ nào chẳng được đẹp
lên. Câu Một nửa giống mình nửa lại
giống ta là một câu lạ đòi hỏi người
bình phải tốn nhiều giấy mực”. Theo ông
“đây chính là cái tài của người ra để'0,
Ông chưa đồng tình khi nhà giáo Nguyễn
Thị Lan cho rằng “chàng trai thực hiện
xong một nghĩa cử cao đẹp còn nán lại
gặp cô gái tán một câu thô th:ển, tầm
thường”, khi nhà giáo này phân tích từ
“xách” cổ hơn từ “gánh”, từ “rửa” cổ hơn
từ “tắm”. Ông kết luận: “Cô giáo Lan đưa
bài ca dao vào hệ thống dị bản để phân
tích là đúng đắn, cần thiết. Nhưng khi
đánh giá từng bản, cô lại có nhiều chỗ
chủ quan, thiên lệch, thiếu thấu đáo”.!?
Trong bài “Đôi lời bàn thêm sau một
cuộc thi bình ca dao”, tác giả Đào Thân
nhận xét:
1. Đối với dị bản sáu dòng, có hai
tình huống xảy ra:
a/ Đây là chuyện bịa. Hai bên trai gái
gặp nhau, chuyện đùa vui, trêu chọc,
chòng ghẹo nhau là chuyện thường. Mọi
tình tiết hư cấu càng có tính giật gân bao
nhiêu, càng gây được hứng thú”#”, Nếu
các tác giả dự thi cảm phục tấm lòng
nhân hậu, cao thượng, ca ngợi hành động
hào hiệp của chàng trai - nếu hiểu như
thế thì có thể sai lầm, đã “ hiểu bài ca
dao một cách quá thật thà”.
b/ Nếu giả định đây là hành động có
kế
thực của anh con trai thì liệu “ anh có
còn được xem là con người nhân hậu, vị
tha nữa hay không, hay đã tự bộc lộ một
ý đồ không lấy gì làm đẹp đẽ là biết người
ta đã có chồng, có con sờ sờ ra đấy mà còn
giỏ trò tán tỉnh. Lại còn có thể nghĩ xấu
thêm rằng, biết đâu tất cả những lời lẽ ấy
lại là của một anh chàng cực kỳ ranh ma,
biết đặt lời nói xạo để dèm pha cô gái son,
để đánh đòn phủ đầu vào cô gái nhằm
chiếm lĩnh phần thắng trước mọi đối
tượng đang rập rình quanh cô. Bằng
những thông báo “xanh rờn” tỏ ra ta đây
biết tổng mọi điều về nhân thân cô gái,
anh ta chắc rằng sẽ chẳng còn ai dám là
tình địch với mình. Còn cô gái tội nghiệp
kia, trước lời bịa tạc dựng đứng nhưng
đầy vẻ thuyết phục bởi những chỉ tiết cụ
thể rành rành đến vậy, chắc đành chết
lặng; còn biết biện bạch được lời nào!”
9. Ở dị bản bốn dòng, sự việc chỉ
dừng lại ở chỗ chàng trai gánh nước rửa
cho đứa trẻ. “Nếu sự việc chỉ dừng lại ở
đấy, chúng ta có thể tin đó là sự thật, và
hoàn toàn có quyền ca ngợi, cảm phục
lòng vị tha, nhân hậu của chàng, một con
người cao thượng hiếm có”.
IH
Một tác phẩm văn học dân gian nói
chung, tác phẩm ca dao nói riêng, là A
chẳng hạn, luôn luôn được lưu truyền
VĂN HOÁ DÂN GIAN VÀ NHÀ TRƯỜNG
108
trong không gian và qua thời gian. Quá
trình lưu truyền có thể làm cho A sâu sắc
hơn về nội dung, chặt chẽ thêm về kết
cấu, trau chuốt hơn về nghệ thuật ngôn
từ. Quá trình lưu truyền ấy lại có khi
làm cho A bị phá vỡ, mất dần đi hoặc trỏ
nên một bộ phận cấu thành của tác phẩm
khác. Quá trình ấy cũng có thể giữ
nguyên khung cấu tạo của A, chỉ thay đổi
một số chỉ tiết. Từng năm tháng, từng địa
phương, từng nhóm người, từng cá nhân
tiếp thu nó, lưu truyền nó đều in dấu vào
nó, làm cho nó biến đổi. Sự biến đổi là
liên tục và hiện tượng có những bản khác
(dị bản) xuất hiện một cách tất yếu trong
quá trình này. Vận động đến một thời
điểm nhất định (hoặc một địa phương
nhất định), AÁ sẽ thay đổi với một trong
hai khả năng:
1/ A thay đổi vượt quá độ, trở thành
lời khác, là B chẳng hạn.
2/ A thay đổi chưa vượt quá độ, vẫn là
nó nhưng có thêm sắc thái mới, là A'
chẳng hạn.
A và B là hai lời, hai tác phẩm riêng
biệt. Còn A và A' là hai bản khác nhau
của một tác phẩm. Khi sưu tầm, người ta
có thể gặp nhiều bản khác nhau của một
tác phẩm và họ gọi hiện tượng này là “đại
đồng tiểu đị”.
Trở lại lời ca dao đang phân tích.
Hiện nay chúng ta có hai dị bãn, một
bốn dòng, một sáu dòng. Chưa có đủ căn
cứ để chúng tôi kết luận dị bản sáu dòng
là của “tác giả dân gian hiện đại”, là bản
ra đời sau bản bốn dòng. Song, xét trên
phương diện lịch sử sưu tầm, biên soạn
thơ ca dân gian thì dị bản bốn dòng được
ghi lại sớm hơn, tức là được văn bản hoá
sớm hơn.
Trong số 40 cuốn sách (gồm 49 tập,
trong đó có 12 cuốn sách Hán Nôm) đã
được biên soạn từ cuối thế ký XVIII đến
năm 1975, có bốn cuốn ghi lại lời ca dao
đang bàn.
Ba cuốn Tục ngữ phong dao, tập II
(xuất bản lần đầu 1928) của Nguyễn Văn
Ngọc, Hút phường uỏi (1961) của Ninh
Viết Giao, Thị ca bình dân Việt Nam, tập
[ (1969) của Nguyễn Tấn Long và Phan
Canh đều ghi như sau:
Mình nói dốt ta mình chứa có con
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi xách nước rửa cho con mình.
Cuốn thứ tư: Tực ngữ ca dao dân ca
Việt Nam (1n lần thứ bảy, 1971) của Vũ
Ngọc Phan ghi ba dòng sau giống hệt ba
dòng trong ba sách vừa dẫn, chỉ có dòng
đầu ghi là: “Mình nói đối ta mình hãy còn
son"19,
Trong 49 tập sách có nội dung ghi
chép, biên soạn ca dao không có tập nào
ghi dị bản sáu dòng. Như đã trình bày ở
đầu bài viết, văn bản sáu dòng này do
Hoàng Tiến Tựu công bố lần đầu, năm
1992.
Xin nói thêm, ba sách Tục ngữ phong
dao, tập II, Thị ca bình dân Việt Nam,
tập lL, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam
(bản in năm 1971) còn ghi lại một lời ca
dao khác dưới đây:
104
NGUYÊN XUÂN KÍNH
— CC CễBE———EEỄEỄEỄễỄễỄEEEEễễ=ễễỄễỄễỄễEEEEEEEEEEEEEEEEẼỄP£ỄỀỄễŠễễễ
Mình nói dôi ta mình chứa có chông
Ta đi qua ngõ mình bồng con ra
Con mình hhéo giống con ta
Con mình bảy rưỡi con ta ba phần. ?Ẻ)
Trỏ lại với lời ca dao đang bàn.
Chúng ta có hai dị bản, có chàng trai của
dị bản bốn dòng, có chàng trai của dị bản
sáu dòng.
Chúng tôi đồng tình với tác giả
Nguyễn Thị Lan khi bà phân tích vẻ đẹp
trong cách ứng xử của chàng trai trong dị
ban bốn dòng. Các ông Đào Nam Sơn,
Đào Thân cũng gặp gỡ bà ở điểm này.
Chúng tôi chưa đồng cảm khi bà viết,
ở dị bản sáu dòng, “chàng trai thực hiện
xong một nghĩa cử cao đẹp còn náấn lại
gặp cô gái tán một đôi câu thô thiển £ểm
thường, cơ hội". Nhận xét như vậy cố
phần khe khắt và nghiêm khắc quá
chăng? Ở điểm này, chúng tôi chia sẻ với
ông Đào Nam Sơn.
Về phía công chúng tiếp nhận, chúng
tôi tin rằng, nếu được lựa chọn giữa hai
dị bản, tâm đắc với văn bản sáu dòng vẫn
có một bộ phận (có thể là thiểu số). Trong
bộ phận này, lại chia thành hai nhóm;
một nhóm hiểu đây là lời ca dao hài hước,
bịa chuyện như một trong nhiều cách
hiểu của PGS Đào Thản; một nhóm ca
ngợi chàng trai vị tha, cao thượng. Tiêu
biểu cho cách hiểu này là những tác giả
được tặng giải cao của Tạp chí Thế giới
trong ta. Xin được nói thêm, trong tình
huống này, chúng tôi không cho chàng là
người cơ hội và cũng chưa đồng tình với
ông Phạm Văn Tình (một trong hai người
được trao giải nhất) khi ông viết: “Đoạn
cuối cùng khép lại, khiến ta vừa thương
vừa thông cảm, vừa cảm phục chàng”. Ở
chàng trai này, có gì đáng thương đầu?
Chúng tôi nghĩ, có thể đánh giá lời ca
dao (bốn dòng) là một trong số những tác
phẩm ca dao hay nhất trong kho tàng ca
dao, dân ca người Việt (Kinh). Còn việc
khẳng định nó là “bài ca hay nhất” trong
số 19.487 tác phẩm ca dao thì chưa thoả
đáng.
Về các từ “xách”, “gánh”, “rửa”,
“tắm”, chúng tôi xin hẹn một dịp khác,
trên một diễn đàn khác. Có điều xin được
nói ngay để đâm bảo sự công bằng và
tính chính xác. Bà Nguyễn Thị Lan viết:
*“(...) ở thời điểm bài ca dao xuất hiện, ỏ
làng quê Việt Nam mấy ai sắm được
thùng gáth nước (kể cả nhà giàu có)
huống hồ nhà một cô gái nghèo. Việc lấy
nước ở ao hồ về dùng chủ yếu được vận
chuyển bằng hũ sành (xách tay)....
(những chỗ nhấn mạnh là do N.X.K).
Trong khi trao đổi với bà, ông Đàm Ngọc
Xuyến đã viết: “Còn việc ngày xưa dân ta
toàn. xách nước bằng vò bằng hũ thôi thì
lại càng rõ ra là bà đoán mò. Việt Nam
chứ có phải dân Trung Đông đạo Hồi
đâu?” (chỗ nhấn mạnh là do N.X.K).
Cuộc thi bình ca dao do Tạp chí Thế
giới trong ta tổ chức đã khép lại, nhưng
chắc chắn sẽ còn có những ý kiến khác
nhau, thậm chí đối lập nhau tiếp tục phát
biểu về lời ca daơ "Mình nói đối ta...". Đó
là hiện tượng bình thường và đáng mừng
trong đời sống văn hoá tỉnh thần, trong
việc tiếp nhận văn học. Có điều trong khi
VĂN HOÁ DÂN GIAN VÀ NHÀ TRƯỜNG
105
thảo luận, chúng ta cố gắng tránh chủ
quan, tránh quy chụp nặng nề và nhất là
cần hiểu đúng và trích dẫn chính xác ý
kiến của người đi trước, cũng như của
người đối thoại.
Ngày 30 - 7 - 2003
N.X.E
(1) Vũ Ngọc Phan (1971): Tục ngữ ca
dao dân ca Việt Nam, bản in lần thứ bảy),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr.200
(2) Hoàng Tiến Tựu (1999) Bình giảng
ca dao, NxbGIáo dục, Hà Nội, Tr. 79.
Tác giả cho biết: “Cô Nguyễn Thị Thanh
Nhàn nguyên là cán bộ giảng dạy khoa Ngữ
văn, Trường Đại học Sư phạm II cung cấp
theo lời hát của bà mẹ và bà nội cô”.
(3) Hoàng Tiến Tựu, sđd, Tr.79.
(4) Hoàng Tiến Tựu , sđd, Tr. 88 - 84.
Ỏ đoạn trích này, cố câu: “Chủ đề và cái
thân của bài ca dao...”. Chúng tôi cho rằng
câu này in sai, cái (hần mới đúng.
(5) "Tổng kết cuộc thi bình ca dao
mừng Thế giới trong ta tròn 6 tuổi. Khép
lại một cuộc bình văn đầy lý thú và hào
hứng”. Thế giới trong ta (2001) số 137,
Tr. 6
600 chữ ở đây có nghĩa là 600 tiếng,
600 âm tiết. (N.X.K)
(6) “Tổng kết cuộc thi bình ca dao...”,
tlảd, Tr. ð
(7) “Tổng kết cuộc thi bình ca dao...”,
tiđd, Tr. 6
(8) Nguyễn Thị Lan (2001) “Băn khoăn
về một đề thi”, Giáo dục và thời đại, số 32,
TẾT
Nguyên văn đoạn trích có câu: “Song dị
bản sáu câu, chàng trai thực hiện xong một
nghĩa cử cao đẹp còn nán lại gặp cô gái tán
một đôi câu thô thiển, tầm thường, cơ
hội...”. Chúng tôi cho rằng có thể câu này
bị in sai. Có thể tác giả viết: “Sang dị bản
sáu câu...”, hoặc viết: “Song ở dị bản sáu
câu...”. Chúng tôi xin phép tác giả sửa lại
cho trọn nghĩa câu văn.
(9) “Trở lại bài ca dao Mình nói uới
ta...”, Thế giới trong ta (2001), số 135, Tr. 9
(10) Đàm Ngọc Xuyến (32001) “Một cách
hiểu ca dao thiển cận”, Thế giới trong ta,
số 135, Tr. 10
(11) Đào Nam Sơn (2001) “Trao đổi với
một đồng nghiệp”, Thế giới trong ta, số
.l15, Ef(11
(12) Đào Nam Sơn, bđd, Tr. 12
(18) Bài của PGS Đào Thân đăng ở Tạp
chí Văn hoá dân gian, số này. Chúng tôi đã
được tác giả đồng ý cho tham khảo bài viết
của ông khi chưa công bố.
(14) Xin xem: Nguyễn Xuân Kính,
Phan Đăng Nhật đồng chủ biên (2001) Kho
tàng ca dao người Việt, tái bản có bổ sung,
sửa chữa, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội, tập I, Tr. 1488
Bộ sách Kho tòng ca dao người Việt
(hai tập) tập hợp 19.487 tác phẩm ca dao;
các tác phẩm này được ghi lại trong 40
cuốn sách (49 tập) có ghi chép, biên soạn ca
dao. Con số 19.487 lời đi nhiên /£ hơn số lời
ca dao cổ truyền đã tồn tại trong thực tế.
(15) Kho tàng ca dao người Việt, tập T,
Tr. 1488 — 1489
(16) Phạm Văn Tình (2000) “Ba kịch
tính một nỗi niềm”, Thế giới trong ta, số
122, Tr. 6