
Những Bí Mật Về
Chiến Tranh Việt Nam
Chương 30
Cuộc chiến tranh vẫn đang tiếp diễn
Lời H. R. Haldeman nói với Tổng thống Nixon, trong băng ghi âm của Phòng Bầu dục,
14-7-1971 về tác động của Hồ sơ Lầu Năm Góc:
"Đối với một người bình thường, tất cả chỉ là một mớ văn chương cầu kỳ. Nhưng trong
mớ văn chương cầu kỳ này lại nói lên một điều rất rõ ràng. Anh không thể tin vào chính
phủ, anh không thể tin vào những điều họ nói, và anh không thể tin vào những lời phán
xử của họ. Và niềm tin vào sự sáng suốt của Tổng thống vốn được thừa nhận rộng rãi ở
Mỹ đã bị tổn thương nghiêm trọng, bởi nó chỉ ra rằng người ta sẵn sàng làm những điều
mà Tổng thống muốn dù cho điều đó là sai lầm, và Tổng thống cũng có thể sai
lầm[108]".
Thông điệp đó đã đến với quần chúng như một lời tuyên bố chung chung. Chính nhờ lệnh
cấm đầy kịch tính của Nixon và thái độ bất chấp của phần lớn báo giới Mỹ mà sự chú ý
đổ dồn vào nội dung những tài liệu đó đã vượt quá những trông đợi của tôi: phủ kín 50
trang tờ Thời báo New York, chiếm một nửa thời lượng bản tin tối trong suốt một tháng;
xuất hiện trên trang nhất của không chỉ 19 tờ báo mà chúng tôi gửi bản sao mà hầu như
toàn bộ tất cả các tờ báo trong nước. Và toàn bộ các tiêu đề và bài xã luận, trong suốt một
tháng, ngày nào cũng nhắc lại thông điệp mà Haldeman đã tóm tắt một cách cô đọng và
nhanh chóng.
Dù rằng thông điệp này xa lạ và khó lọt tai, nhưng không ai thực sự phản bác và không
thể chối bỏ nó. Đó là một sự thay đổi trong ý thức của người Mỹ. Nó càng được củng cố
sau khi bí mật về vụ Watergate được hé lộ. Một sự thay đổi chỉ đem lại những điều tốt
đẹp nếu chúng ta vẫn là một nền Cộng hoà.
Tuy nhiên tôi đã sớm nhận ra rằng tâm lý của những cử tri và những nhà bình luận vẫn
khó tin vào những lời suy luận đối với ông Tổng thống đương nhiệm. Ít nhất là họ cũng
phản đối trên cơ sở là tôi không có những tài liệu tương tự như những tài liệu mà tôi đã
cung cấp về những chính quyền tiền nhiệm. Đây là việc mà tôi phải sớm kết thúc trong
vòng 2 năm tới, sau một cơ hội lớn để kiểm chứng điều đó. Bản cáo trạng của Bộ Pháp lý
dành cho tôi, sau hai tuần truy nã rộng khắp nhưng thất bại, đã cho tôi thấy cơ hội của
mình. Điều đó đã làm cho tôi trở nên nổi tiếng đến mức tôi có thể sử dụng để truyền tải

thông điệp chính: cách thức dối lừa của cơ quan hành pháp, lạm dụng quyền lực thời
chiến, và chiến lược vô vọng nhằm ngấm ngầm đe doạ và công khai leo thang bạo lực
trong những Hồ sơ của Lầu Năm Góc trong suốt 23 năm qua vẫn tiếp tục được chính
quyền Nixon theo đuổi, trong năm cầm quyền thứ ba và sau đó.
Hầu như chẳng có ai tin tôi cả. Tôi không có những tài liệu để chứng minh cho những
điều tôi nói về chính sách bí mật của Nixon, và không ai trong chính quyền bước ra để
cung cấp những tài liệu này. Bản cáo trạng đối với tôi về ba tội nghiêm trọng cấp liên
bang, cuối năm đó đã tăng thêm khoảng một tá tội danh khác khiến tôi có thể sẽ bị phạt tù
tổng cộng 115 năm - cùng với Anthony Russo, người cũng bị thay đổi cáo trạng, có thể tù
25 năm rõ ràng là nhằm ngăn chặn bất kỳ một sự tiết lộ trái thẩm quyền những thông tin
giống như của chúng tôi, có lẽ cũng phát huy tác dụng. Có thể thông cảm được rằng, rất ít
người trong công chúng muốn tin lời tôi nói về triển vọng của cuộc chiến và sự leo thang
tiếp diễn, và vì tôi thiếu những bằng chứng thuyết phục hơn, nên họ không cảm thấy bị
bắt buộc phải tin. Vì vậy, tôi chỉ có thể nói, tôi không định thuyết phục những người
không tích cực tham gia vào phong trào phản chiến. Những nhà phỏng vấn chuyên
nghiệp và hầu hết những nhà bình luận đều lắng nghe tôi và đối xử với tôi một cách trân
trọng. Nhưng kể cả những người này và công chúng đều không thực sự nghiêm túc tin
vào những lời cảnh báo mà tôi cố gắng truyền đạt: Cuộc chiến này chưa kết thúc và nó
không phải đang trong tiến trình kết thúc, thậm chí nó đang mở rộng ra một lần nữa.
Thật không may, những sự kiện xảy ra đã chứng minh là tôi đúng. Tuy nhiên vào mùa
thu năm 1971, sự lạc quan trong lời tuyên bố của Nixon về việc khai thông quan hệ với
Trung Quốc đã khiến công chúng hiểu điều này nghĩa là cuộc chiến đã là chuyện cũ, lui
vào lịch sử, những thông điệp của tôỉ lại trở nên thiếu sức thuyết phục và lạc lõng. Mọi
người suy đoán trong thông điệp hào nhoáng của Nixon về chuyến thăm Trung Quốc sắp
tới rằng một thoả thuận về Đông Dương đang được định hình. Có lẽ Tổng thống Nixon
và Henry Klssinger cũng tin vào điều đó. Còn tôi thì không.
Tôi không thấy có một dấu hiệu nào là Nixon đã từ bỏ những mục tiêu cá nhân: nhằm ép
miền Bắc rút quân khỏi miền Nam cùng với Mỹ hoặc chấp nhận một lệnh ngừng bắn
nhằm để Chính quyền Thiệu vĩnh viễn nắm quyền tuyệt đối ở Sài Gòn.
Tôi cũng không thấy một dấu hiệu mong manh nào cho thấy Hà Nội sẽ chấp nhận những
điều khoản này. Đối với miền Bắc Việt Nam, việc đồng ý ngừng bắn và trên cơ sở lời hứa
về những cuộc bầu cử được tổ chức bởi chế độ chống cộng Sài Gòn thì cũng không khác
gì những thoả thuận rỗng tuếch mà người Pháp đã đưa ra năm 1946 hay phương án của
những "nhà bảo trợ" đưa ra trong Hiệp ước Geneva năm 1954. Tuy nhiên đó chính là điều
mà Nixon nghĩ trong đầu; ông ta thậm chí còn không buồn thay đổi cái vỏ bọc của nó.
Những kí ức của ông ta về những năm 1954 đến 1960 khi ông đang là phó Tổng thống
cũng sống động như của họ. Ông ta không hề có ý định cho phép có một cuộc bầu cử
năm 1972 hoặc 1973 để rồi dẫn đến việc chia sẻ quyền lực ở Sài Gòn hoặc những người
Cộng sản nắm quyền, cũng như Dwight Eisenhower hoặc John Foster Dulles đã từng làm
năm 1954 và 1956. Thực ra tôi nghi ngờ rằng ông ta đang hy vọng lặp lại chính xác
phương án Geneva mà Hà Nội cương quyết phản đối: nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc sẽ

lại ép một giải pháp như vậy đối với đồng minh nhỏ bé của mình, để đổi lấy việc cải thiện
quan hệ với Mỹ. Tuy nhiên, mặc dù Nixon có kế hoạch thăm cả Trung Quốc và Liên Xô,
tôi tin rằng sự đối đầu giữa Trung Quốc và Liên Xô sẽ vẫn tiếp tục, giống hệt trong thập
kỷ trước, và đảm bảo cho Hà Nội sự trợ giúp đầy đủ để tránh hậu quả đó. Dù sớm hay
muộn, năm sau hoặc năm sau nữa, sẽ có một đợt tấn công mới để rồi Nixon sẽ đáp trả
bằng việc tăng cường ném bom và có lẽ cả những biện pháp còn cứng rắn hơn.
Trong khi đó, ông ta vẫn tiếp tục rêu rao về cái gọi là "những cuộc phản công bằng không
quân vì mục đích phòng thủ" (đối với miền Bắc đến một mức độ ngang với mức ném
bom thời Johnson. Ngay sau đêm Giáng sinh 1972, ông ta lệnh cho hàng ngàn máy bay
ném bom miền Bắc Việt Nam suốt 5 ngày, đây là đợt oanh tạc dữ dội nhất kể từ năm
1968). Vậy là 6 tháng sau khi xuất bản Hồ sơ Lầu Năm Góc, khi mọi người hỏi rằng tôi
nghĩ những tài liệu này đã đem lại điều gì, tôi trả lời:
"Chẳng có tác dụng gì". Chẳng có tác dụng gì liên quan đến cuộc chiến tranh, mối quan
tâm lớn nhất của tôi. Mục đích chính của tôi không phải là thay đổi dư luận: mục đích
chính của tôi là ngăn chặn việc ném bom, cuộc chiến tranh, và chính sách của Nixon.
Như tôi thấy, cả ba đối tượng này đều chưa bị ảnh hưởng gì bởi dư luận Mỹ, hoặc bởi
những tài liệu của tôi, suốt từ khi Nixon lên nắm quyền đến nay.
Hầu hết người Mỹ đều muốn rút khỏi cuộc chiến từ trước khi những tài liệu này được
xuất bản; phần đông coi cuộc chiến là phi đạo đức. Có lẽ cả hai nhóm người này đều
đang tăng lên sau khi họ đọc các bài báo liên quan đến hồ sơ và bất cứ điều gì mà họ biết.
Nhưng tác động đến mức nào? Bất chấp tình cảm của đa số, Tổng thống tiếp tục kéo dài
cuộc chiến bằng cách giảm bộ binh nhưng lại tăng cường ném bom và luôn liên tục
thuyết phục công chúng rằng ông ta đang đi đến một giải pháp.
Ông ta lại lặp lại luận điệu đó vài tháng sau, tháng giêng năm 1972, tiết lộ rằng đã có một
số cuộc hội đàm bí mật và ra vẻ như có một số lời đề nghị "hào phóng" mà ông biết rằng
Hà Nội sẽ không bao giờ chấp nhận.
Khi đó tôi đang dành thời gian mấy tháng, trước phiên toà xét xử chúng tôi bắt đầu vào
tháng Năm, để viết lời bình luận trong một tập hợp những bài viết của tôi về Việt Nam,
nhan đề "Hồ sơ cuộc chiến". Vì tôi đã hoàn thành phần giới thiệu của cuốn sách vào cuối
tháng ba, tôi buộc phải viết những nhận định đáng buồn rằng: "Cuộc chiến vẫn tiếp tục và
vẫn chờ một "sự kết thúc" bất tận, trong khi các đợt ném bom vẫn diễn ra đều đặn với
cường độ ngang với Chiến tranh thế giới lần II". Mấy ngày sau khi tôi viết những dòng
đó, miền Bắc mở đợt tấn công chớp nhoáng. Ba năm nay, Mort Halpelin và tôi từng dự
báo đợt tấn công này, Nixon và Kissinger từng tìm cách ngăn ngừa nó bằng những lời đe
doạ, những đợt ném bom, những đợt xâm lược công khai vào lãnh thổ Campuchia, Lào,
và chính sách ngoại giao tam giác với Liên Xô và Trung Quốc. Một niềm tin vô căn cứ
rằng sức mạnh của những lời đe doạ và những sự leo thang ít nhất cũng ngăn ngừa được
một đợt tấn công ở quy mô luôn là tâm điểm trong chính sách chiến lược của chính quyền
Mỹ suốt 3 năm qua. Đợt tấn công nổ ra ngay vào năm bầu cử Tổng thống cho thấy sự thất
bại hoàn toàn của chính sách trước đó. Như Halpelin và tôi cũng dự báo, họ phản ứng
bằng một đợt leo thang dài hơi, chưa từng có.

Ngay từ ngày 1-4-1972, tôi đã tiên đoán được việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng và theo đó,
tôi chắc rằng, sẽ có những đợt ném bom không hạn chế ra miền Bắc, bao gồm cả B52.
Tôi cũng chẳng biết nói gì thêm sau những lời cảnh báo của mình trước đó. Đối với ý
nghĩa của sự kiện này, đây là lúc để xuất bản những tài liệu cuối cùng của tôi về cuộc
chiến, tài liệu mã số NSSM-1 và một tài liệu tự chọn. Tôi từng muốn xuất bản những tài
liệu này vào mùa thu năm ngoái, ngay sau khi Hồ sơ Lầu Năm Góc được phát tán, nhưng
Patricia đã khuyên rằng trong bối cảnh Trung Quốc đang muốn khai thông quan hệ với
Mỹ và Quốc hội lại đang tạm hoãn, những tài liệu này sẽ có ít tác dụng.
Nay ít nhất thì những tài liệu này sẽ chứng minh được rằng Nixon có ý định thả thuỷ lôi ở
Hải Phòng từ năm 1969 và sự thiếu hiệu quả của quân đội Mỹ đã được các nhà phân tích
tình báo dân sự dự báo trước.
Những luật sư của tôi chắc rằng, việc tiếp tục tung ra tài liệu này ra sẽ dẫn đến thêm một
tội danh nữa trong cáo trạng của tôi, như họ đã từng thấy ở năm 1971. Hơn thế nữa, nó lại
liên quan đến tài liệu mật của Hội đồng An ninh quốc gia từ chính quyền hiện tại, loại tài
liệu không thể biện luận là thuộc diện tài liệu "lịch sử" được. Do vậy việc tránh tội là hầu
như không thể. Tuy nhiên, họ không gây sức ép với việc tôi chuẩn bị đưa ra lời kêu gọi.
Và vì chúng tôi sắp phải đối đầu với một cuộc tổng tấn công mà chúng tôi đã tránh né
trong 7 năm qua, cả Patricia cũng đồng ý rằng đây là thời cơ để chúng tôi làm tất cả
những gì có thể. Sự nhượng bộ duy nhất mà tôi đồng ý với các luật sư của mình là tôi sẽ
không khiêu khích Bộ Tư pháp bằng việc cung cấp 500 trang tài liệu mật tại một buổi
họp báo hoặc công khai tuyên bố mình là nguồn cung cấp những tài liệu đó.
Một lần nữa, Thượng nghị sỹ Mike Gravel sẵn sàng đóng vai trò trung gian đưa thông tin
vào Hồ sơ quốc hội của Thượng nghị viện và lần này là cả giới truyền thông nữa. Mặc
dầu đang phải cố gắng bảo vệ những người phụ tá khỏi bị kết tội vì có vai trò trong việc
xuất bản Hồ sơ Lầu Năm Góc tại nhà xuất bản Beacon - ông đã kháng án đến Toà án tối
cao - ông vẫn khuyến khích tôi đưa cho ông ta bất cứ tài liệu gì tôi có. Tôi đã giao tài liệu
NSSM-l cho ông để chờ thời điểm thích hợp. Vào tháng sáu ông bị Thượng nghị viện
ngăn không cho đưa những văn bản trên vào Hồ sơ quốc hội qua một bài phát biểu tại
Thượng viện. Dự tính được điều này, ông đã đưa những tài liệu này cho Jack Anderson
và tờ Tuần tin tức và thế là chúng xuất hiện trong những bài viết nổi bật trên các báo Bưu
điện Washington và Ngôi sao Washington, bắt đầu từ ngày 25-4-1972, chính vào ngày
mà Thượng nghị viện ngăn cản Gravel đọc những tài liệu này trước Quốc hội.
Tám ngày sau, ngày 3-5-1972, tôi tranh thủ sự hiện diện của Thượng nghị sỹ Gravel và
Hạ nghị sỹ Ron Dellums tại cuộc mít tinh trên bậc thềm trước toà nhà Quốc hội, là nơi tôi
đang diễn thuyết - theo sự gợi ý của một trợ lý tư pháp của Dellum là ông Mike
Duberstein - để Gravel có thể chuyển tài liệu cho Dellums. Sau khi cắt bỏ kí hiệu phân
loại mật bằng một chiếc kéo, Duberstein đặt 500 trang tài liệu mật vào trong hộc dành
cho những kiến nghị bổ sung cho Hồ sơ Quốc hội, theo đó tất cả đã được xuất bản vào
ngày 10 và 11-5. Vậy là những Thượng nghị sỹ đang bàn cãi trong cuộc họp kín rằng liệu
họ có đủ thẩm quyền để nhận tài liệu mật của Gravel hay cứ mặc kệ kí hiệu mật đi thì
cuối cùng tất cả đều được đọc.

Tuy nhiên, chính quyền Mỹ cũng đã học được một vài bài học. Lần này không hề có yêu
cầu báo chí hạn chế hoặc lệnh cấm của toà án, không phạt, không khiển trách, không tính
thêm tội danh trong cáo trạng của tôi, mặc dù ông Tổng thống cũng như ông Chánh án
Toà án tối cao biết quá rõ nguồn cung cấp một lượng thông tin mật ấy là từ đâu rồi.
Những quan chức khôn ngoan đã không hề phản ứng hoặc bình luận gì trước việc xuất
bản đó. Kết quả là, việc tiết lộ 500 trang văn bản bí mật của chính quyền Nixon chỉ gây
một chút xáo động, không có tác động gì thực sự đáng kể.
Nỗi lo lắng của tôi về những điều sẽ đến với người dân Bắc Việt là hoàn toàn xác thực,
bởi vì một đoạn băng ghi lại những đối thoại ở Nhà Trắng mãi đến gần đây mới được tiết
lộ. Vào ngày 25-4-1972, buổi sáng mà tờ Bưu điện Washington lần đầu tiên cho đăng tài
liệu NSSM-1 và những phân tích về việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng, có cuộc trao đổi trong
Phòng Bầu Dục như sau:
Tổng thống Nixon: Chúng ta phải bỏ kiểu không kích 3 ngày liên tiếp (ở khu vực Hà Nội
và Hải Phòng). Chúng ta ta cần phải nghĩ đến một đợt ném bom dốc toàn lực - kéo dài
cho đến khi chúng … - Và bây giờ với việc đánh bom toàn lực tôi đang nghĩ đến những
điều xa hơn thế. Tôi nghĩ đến đê đập, tôi nghĩ đến đường sắt, và tôi nghĩ đến tất nhiên, cả
những bến cảng…
Kissinger: … Tôi đồng ý với ngài.
Tổng thống Nixon: … Chúng ta phải sử dụng lực lượng lớn …
Hai tiếng sau, vào buổi trưa, H. R Haldeman và Ron Ziegler cùng dự với Kissinger và
Nixon:
Tổng thống: Chúng ta giết được bao nhiêu bên Lào?
Ziegler: Có lẽ là 10 ngàn hoặc 15 ngàn?
Kissinger: Nói chung ở bên Lào, ta hạ được khoảng 10, 15 ngàn…
Tổng thống: Thế đấy, quay lại chuyện đợt tấn công vào miền Bắc mà ta đang tính… nhà
máy điện, bất kể cái gì còn lại - trạm xăng dầu, bến cảng… và tôi đang tính có lẽ ta sẽ
nên đánh cả các đê đập. Điều đó sẽ làm chết nhiều người chứ?
Kissinger: Khoảng 200.000 người.
Tổng thống: Không, không, không,… tôi thà dùng bom nguyên tử còn hơn. Anh hiểu
không hả Henry.
Kissinger: Điều đó, tôi nghĩ, có lẽ là quá nhiều.
Tổng thống: Bom nguyên tử, điều đó làm anh khó nghĩ à? Tôi chỉ muốn anh nghĩ rộng ra,

