intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đền Gióng - những lớp văn hóa kiến trúc, mĩ thuật độc đáo

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đền Gióng, một trong những di tích lịch sử văn hóa nổi bật của Việt Nam, không chỉ là nơi thờ phụng Thánh Gióng mà còn là biểu tượng cho lòng tự hào dân tộc. Với kiến trúc độc đáo và những lớp văn hóa phong phú, đền Gióng phản ánh sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật dân gian và tín ngưỡng truyền thống. Những chi tiết trang trí tinh xảo cùng các hình thức mĩ thuật đa dạng tại đây thể hiện sự sáng tạo và tay nghề cao của các nghệ nhân xưa. Bài viết này sẽ khám phá các lớp văn hóa kiến trúc và mĩ thuật độc đáo của đền Gióng, góp phần làm rõ giá trị lịch sử và nghệ thuật của di tích này trong bối cảnh văn hóa Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đền Gióng - những lớp văn hóa kiến trúc, mĩ thuật độc đáo

  1. TẠP CHÍ VHDG s ố 1/2011 55 về việc có một ngôi đền thò Phù Đổng. Việt điện u linh chép rằng: Chí Thành ĐỆN GIÓNG - NHỮNG (Cảm Thành) thiền sư dựng chùa ở hương Phù Đổng, lập ngôi thổ thần ở bên phải LỚP VÃN HÓA KIÊN TRÚC, của chùa. Những ghi chép vắn tắt về sự gắn kết giữa hai di tích này đã cho thấy, M ĩ THUẬT ĐÔC ĐÁO ___________■_____ ■ vào thời tiền Lý, khoảng đầu thế kỉ IX, đồng thời với việc thiền sư Cảm Thành TRANG THANH HIỂN xây chùa Kiến Sơ khoảng đầu thế kỉ IX (820), đền Phù Đổng đã có. Nó nguyên là Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn một đền thò thổ thần - thần đất làng Phù Đằng không do-hận cửu thiên đê!(1) Đổng. Khi Lý Thái Tổ đến chùa Kiến Sơ Cao Bá Quát học đạo, thì thần đã hiện lên và xưng (Lên ba đánh giặc lo còn muộn mình là Xung Thiên Thần vương rồi bảo Vượt chín tầng trồi giận chửa cao!) cho vua về việc nhà Lý sẽ lên ngôi và Nằm bên tay phải chùa Kiến Sơ, đền truyền qua được tám đời thịnh vượng. Gióng thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Sau sự kiện này thì ngôi đền mới được mở Lâm, Hà Nội, trên bd tả ngạn sông rộng và bỗng chốíc, vị thổ thần lấng Phù Đuống, là một trong những di tích nổi Đổng đã được hóa thành một vị thần bảo tiếng và là nơi diễn ra một lễ hội đặc sắc hộ quốc gia, bảo hộ Phật giáo như tính nhất vùng Kinh Bắc xưa - lễ hội vừa được chất siêu tưởng trong câu chuyện cậu bé UNESCO công nhận là di sản phi vật thể lên ba vươn mình lớn dậy. Theo một số của thế giới tháng 11 năm 2010. Là nơi nhà nghiên cứu việc xuất hiện đền thờ kiến tạo nên không gian diễn xưống đậm Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ đã giúp chất văn hóa Việt cổ, nghệ thuật kiến khẳng định cho ý hướng của tư tưởng trúc đền Gióng còn cọ thể xem là kiểu Phật giáo thối bấy giồ về một đất nước có thức kiến trúc đền - đình độc đáo thuộc chủ quyền(2). vùng ngoại thành Thăng Long. Đến thế kỉ X, câu chuyện của Khuông Theo cổ sử ghi chép, Phù Đổng xưa Việt Thiển Sư gặp gỡ với Tỳ Sa Môn thuộc đất Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, là quê Thiên Vương (cũng là Xung Thiên Thần hương phát tích của nhà Lý, và đền Vương) ở núi Vệ Linh (núi Sóc) cũng cho Gióng, cũng là một trong những địa danh thấy sự gắn bó chặt chẽ củạ tư tưỗng này gắn bó chặt chẽ với sự ra đời, thịnh vượng vối Phật giáo. Tỳ Sa Môn Thiên Vương của triều đại này. Đại Việt sử kí toàn thư vốn là một vị thần trong Ân Độ giáo: chép, đền thờ Thánh Gióng có từ thòi Vaisravana - thần bảo hộ thế gian, một Hùng Vương và được dựng trên đất vưdn trong Tứ Thiên Vương bảo vệ Phật pháp ngôi nhà mà Phù Đổng đã thác sinh. Ngôi và là một trong tám vị thần canh giữ các đền thò này được cho là gắn bó chặt chẽ phương hướng, mà cụ thể là phương với sự ra đòi của chùa Kiến Sơ ngay sát Bắc(3). Như vậy, có thể vào thế kỉ IX, ở cạnh đền hiện nay. Tuy nhiên, theo Việt Nam vị thần này đã được du nhập và những ghi chép trong Thiền uyển tập anh được thờ phụng trong Phật giáo và hoàn về chùa Kiến Sơ thì lại không thấy nói gì toàn chưa xuất hiện một nhân vật nào gọi
  2. 56 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl là Phù Đổng Thiên Vương. Chỉ sau giai rôĩ hước vào các dịp lễ hội hoặc ngày húy đoạn này Tỳ Sa Môn Thiên Vương mới kị' đặc/’biệt. í Tốa thủy đình này là minh được Việt hóa với cái tên Sóc Thiên chứng cho những giá trị tâm linh tôì cổ Vương từ câu chuyện của Khuông Việt của ngôi đền. Thiền sư, rồi được hóa thân vào câu Bên cạnh ý nghĩa tạo lập phong thủy chuyện Phù Đổng Thiên Vương. Sự hóa như đắp gò đất giữa hồ phía trước đình thân này chính là một cách đề cao tinh như một nhân lõi của minh đưòng, giống thần chông ngoại xâm bảo vệ tổ quốc từ một sọ ngối đình cuối thế kỉ XVII đầu thế trước thời Lý. Điển hình là việc Lê Đại kỉ XVIII như đình So (Hà Tây), thủy đình Hành đã cầu đảo thần cho chiến thắng đền Gióng còn là ỉhột thức kiến trúc độc quân Tông, rồi thần lại phù trì cho việc đáo bậc nhất của vùng ngoại vi thành lên ngôi của Lý Công uẩn. Từ đây, việc Thăng Long. So với những thủy đình thờ Phù Đổng Thiên Vương đã giúp hình chùa Nàhh (Ninh Hiệp), chùa Thầy (Sài thành nên hàng loạt các di tích từ làng Sờn), đền Sốc (Xuân La, Hồ Tây) thì kiến Phù Đổng cho đến khắp vùng núi Sóc. trúồ nàỳ thuộc loậi có nỉên đại sớm nhất, Kiến trúc thế kỉ XVII. Theo niên đại được ghi trên Chính những câu chuyện truyền câu đầu của bộ vì thì công trình này được thuyết này đã dẫn đến tính chất độc đáo dựng đời Vĩnh Trị II (1675) và đến gần trong di tích đền Gióng ỏ Phù Đổng. Nó cuối thế kĩ XVIII đời Cảnh Hưng thứ 36 đi từ sự không tách biệt giữa không gian (1775), thủỳ đình đã được trùng tu. Việc văn hóa Phật giáo và không gian văn hóa xuất hịện hàng loạt các thủy đình trong bản địa đến sự chuyển hóa mang tính cáú di tích kể trên liên quan đến Phật cách độc lập giữa chùa, đền, rồi trên một giáo thời Lý và việc thờ Phù Đổng đã cho khía cạnh nào đó lại trở thành ngôi đình. thấy tính chất gắn bó giữa Phật giáo và Toàn bộ kiến trúc đền Gióng Phù Đổng tíri ngưỡng bần địa tồn tại trong văn hóa mặc dù được hoàn thiện vào thế kỉ XVIII, Việt và gắn kết giữa các kiểu thức kiến nhưng người ta có thể thấy ỏ đó sự chồng trửc đình, đền, chùa. Vấn đề này, chúng xếp của những lớp niên đại qua các thời tôỉ xin tạm gác lại để trinh bày trong một kì khác nhau. Ngày nay, muốn vào đền chuyên khảo khác, ộ ;đây chỉ tập trung Gióng thì phải qua nghi môn của chùa vào 'nghệ thụật kiến tróc củá ngôi thủy đìntì đềri Giống.. J Kiến Sơ. Qua cửa ngũ quan, phương đình là đến khu chính của đền có dạng thức Chiếm vị tr í gần như trung tâm của tiền nhị hậu công với hai dãy hành lang hồ nưộe, toa' thuy đinh có mặt bằng hình bao quanh. Ta có thể bắt gặp kiểu thức bô' vuôhg được dựng theo lối chồng diêm hai cục như thế ỗ các di tích thuộc vùng ven tầng tâm máị màng biểu .tượng của Thái đô như đình Chèm hay đình Đông Ngạc - cực(4 Hai, lớp’ m ái.như tượng trưng cho ). cũng là những di tích mà niên đại hoàn lưỡng nghi (mái trên nhẹ là dương, mái thiện tổng thể vào thế kỉ XVIII. Tuy dựới nặng là âm) bôn phía mái cho tứ nhiên, sự khác biệt của đền Gióng có lẽ là tượng .(thái đương, thiếu âm, thái âm, việc có thêm tòa thủy đình được dựng thiếu dương). Tám mái tượng cho bát quái giữa hồ minh đường phía đằng trước cụm (kiền: trời, khảm: nước; cấn: núi, chấn: kiến trúc, ngay sát chân đê dùng để diễn sấm, tốn: gió, li: lửa, khôn: đất, đoài: đầm
  3. TẠP CHÍ VHDG SỐ 1/2011 57 nước). Ngôi thủy đình trước đây rất có thể phượng hàm thư phảng phất ý thức dân chỉ được xây dạng kiến trúc gỗ, nhưng gian về việc cầu nguồn nước cũng như gửi sau đã được xây thêm tường bao và hai gắm mong ước vê' sự đỗ đạt. Các chạm bên trổ những cửa hình chữ thọ trong khắc này cũng là những chạm khắc rất khuôn hình tròn hoặc hình chữ nhật, để đặc trưng xuất hiện trong các ngôi đình tạo nên độ thoáng khí giữa không gian việt đầu thê" kỉ XVIII. Đáng chú ý nhất trong ngoài. Toàn bộ kiến trúc của ngôi trong sô" những chạm khắc ở đây là hai thủy đình tuy không cao nhưng tỉ lệ lại bức chạm có hình ngưòi, đều ở cùng một rất hợp lí với tám đầu đao cong vút khiến bên. Một bức chạm một ngưòi khuất cho toàn bộ kiến trúc như trỏ nên bay trong bụi trúc đang chĩa ông xì đồng về bổng giữa không gian non nước. phía con chim phượng, còn bức kia là một Khác với đa phần các thủy đình khác người búi tó đang kéo chân con hươu, chỉ là một kiến trúc tồn tại độc lập giữa phía trên là đôi chim loan phượng đang một hồ nước, tòa thủy đình đền Gióng còn gù trên cành tre. Đe minh họa cho hai có thêm một sân khấu được xây dựng mảng chạm này, người đương thòi đã ghi phía trước hưổng về phía đền với một rõ các câu chữ hán kèm theo: đưòng dẫn hẹp xây lan can thấp. Sân Trượng phu tùng tô'tâm phùng mĩ lộc khấu này có diện tích gần như bằng với Quân tử trúc ngưỡng điện xạ phượng hoàng mặt bằng của tòa thủy đình tạo nên yêu (Tạm dịch: Ngưòi trượng phu quyết tô" nhất âm, nhất dương đôì đãi cho chính tâm nắm được lộc đẹp cụm kiến trúc này. Còn đứng về mặt tổng Ngưòi quân tử ngửa mặt bắn chim thể thì thủy đình là yếu tố thiếu dương phượng hoàng)(5. > trong hồ nước âm. ứng đôì vói nó qua Chim phượng hoàng ỏ đây có thể xem nghi môn ngũ quan lại có một tòa phương như con vật tượng trưng cho ánh sáng, trí đình cũng có diện tích tương tự với dạng tuệ, do đó, bắn chim phượng hoàng cũng thức chồng diêm hai tầng có thể xem như có nghĩa là dành được ngôi cao. Ý nghĩa là yếu tô" thiếu âm của toàn bộ kiến trúc này là sự hổ sung một cách hoàn hảo cho dương. Chúng ứng đôì nhau như sự giao các chạm khắc về rồng, cá ở các chạm đãi âm dương làm nên khí chất địa linh khắc khác. Như vậy có thể thấy, việc múa của khu đền. rối hầu thánh, cũng như những hình ảnh Bên cạnh các ý nghĩa tổng thể trên chạm khắc đầy ý nghĩa này chính là lời thì chạm khắc ồ các thành phần kiến trúc khẩn cầu đối vói thần linh phù trì cho con như các tay chông kẻ góc và đầu bẩy của cháu ấm no và đỗ đạt. thủy đình đã tạo một nét đặc sắc riêng Qua một khoảng sân rộng, kiến trúc của công trình hày. Dườ.ng như-tất cả đền Gióng như bày ra một dạng thức tiểu những tràng trí đó đều tuân thủ nguyên triều đình với cổng ngũ quan và đôi rồng tắc tả dương, hữu âm. Các trang trí bên đã cho thấy tính chất bể thê" của nó. cổng phải của tòa thủy đình đều là những ngũ quan được kết câu gồm một công trang trí hoa lá và phượng, còn bên trái chính xây dạng. cúôn vòm ba cửa, phía là trang trí lân và rồng. Trên nguyên tắc trên là thượng lâú hai tầng mái với đầu đó ngưồi ta dần phát hiện ra các hoạt đao cong vút khiến cho kiến trúc này trỏ cảnh như cá chép, rồng phun nưốc, nên thanh thoát. Cùng việc xây thượng
  4. NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 58 lâu, người ta còn tạo ra một hành lang với Dụ Tông (1705 - 1729). Nhìn vào hình lan can xây gạch hoa chanh, mà đứng trên thức chạm khắc của đôi rồng, thì đây là đó, người ta có thể nhìn bao quát phong hai tác phẩm điêu khắc khá đặc biệt so cảnh của toàn bộ khu đền từ nhà thủy vối đa phần các thềm bậc chạm rồng mà đình cho đến hậu cung cũng như chùa chúng ta được biết đến trong nghệ thuật Kiến Sơ sát bên kia của đền. Chính giữa chạm khắc thòi Lê - Trịnh. Bởi dường của tòa thượng lâu này dùng để treo như nó đã tuân thủ một cách không đầy chuông. Liền sang hai bên các cổng chính, đủ các tiêu chuẩn chạm khắc được ấn có hai cổng phụ nhỏ hơn không có mái mà định cho việc miêu tả rồng như sừng nai, chỉ được trang trí bằng các đắp ngõa hình tai thú, trán lạc đà, miệng lang, mũi sư kỉ hà. Chính giữa cổng ngũ môn này ghi tử, cổ rắn, vẩy cá chép, chân cá sấu, móng hàng chữ “Thiên hạ thần” với hàm ý rằng chim ưng đã rất phổ biến từ cuối thế kỉ nhân vật được thời ở đây - Đức Thánh XVII. Rồng có dạng hình yên ngựa với ba Gióng vừa là một thiên thần, nhưng cũng khúc uốn, được chạm trên một phiến đá lại là một nhân thần. dài gần 2m. Đầu rồng tròn tù, mũi lón, Đôi rồng đá trưổc cổng ngũ quan càng miệng há rộng, nhưng mắt lại không được gia cố cho tính chất tiểu triều đình kể chạm lồi lên. Lốì chạm khắc này khiến trên như thể tạo ra một hàm ý tượng người ta hình dung ra, nhóm thợ dân trưng cho sân rồng phía trước. Bên cạnh gian chạm khắc đôi rồng này đã quen với đó, đôi nghê canh gác phía trong lại tạo việc chạm khắc nhũng con chó đá, nên ra không khí trang nghiêm trước khi vào cho dù họ có thêm bờm, thêm râu, sừng hầu thánh. Lối cách xếp đặt các linh thú nai, tai thú, mũi sư tử cho con vật, thì con và xây cổng ngũ quan được tìm thấy ít vật nom vẫn hết sức ngây ngô. Tương tự nhiều sự tương đồng với di tích thờ An vối phong cách này, đôi nghê được đặt Dương Vương ỏ đền cổ Loa ở Đông Anh. phía trong của nghi môn cũng chỉ khác Lôì thức tương đồng này còn có thể cho với chó đá bỏi tính góc cạnh của gương chúng ta một suy luận khác về các di tích mặt, khuôn mũi to, hàm lớn và các trang gắn vối việc thồ vua trong quá khứ. Và trí trên thân và đuôi xoắn mà thôi. kiểu thức này ồ đền Gióng lại cho thấy Tòa Bái đường và Trung đường đền không phải Gióng được coi ngang với Phù Gióng được dựng song song đều có dạng Đổng Thiên Vương như một vị Vua - năm gian hai chái, vì kèo bôn hàng chân Thần, mà có thể nó đã góp phần nói lên cột, niên đại cuôì thế kỉ XVII(6). Trước sự gắn kết giữa đền và chùa Kiến Sơ, nơi đây, chúng được dựng cách nhau một có thờ Lý Công uẩn, bởi hai di tích này quãng, mặt bằng kè đá và tạo rãnh để thậm chí có chung một nghi môn đã đề thoát nưốc giữa hai tòa nhà. Sau đó, giữa cập đến ồ trên. Và kiểu thức thiết lập một chúng đã được nôì với nhau bằng một hệ cách hoàn chỉnh của cả đền cổ Loa cũng thông ông máng thoát nước. Đặc sắc nhất như đền Gióng đều có niên đại đầu thế kỉ của hai tòa Bái - Trung đường này cố lẽ là ỵ XVIII, đời Vĩnh Thịnh. các mảng chạm rồng ổ đặt giữa các xà Điều này được xác minh bằng niên thượng và xà hạ nốỉ các bộ vì kèo. Các đại được ghi khắc dưới phần bụng rồng mảng chạm rồng nàý cũng chỉ tìm thấy ở thì đôi rồng đá này được tạc vào đdi Lê gian giữa của tòa Trung đưòng, còn Bái
  5. TẠP CHÍ VHDG s ố 1/2011 59 đưòng chỉ có những trang trí rồng đơn xây, để đặt ngai thò Đức Phù Đổng Thiên giản trên các vì kèo chồng rưdng. Vương, tương truyền là dấu vết của ngôi Khu chính thất của đền Gióng có miếu cổ ngày xưa, trước khi vua Lý Thái dạng mặt bằng hình chữ công vối tiền Tổ cho mở rộng ngôi đền trở nên bề thế. đưòng năm gian hai chái, tòa ông muông Khoảng sân thiên tỉnh phía sau tòa nhà một gian và hậu cung ba gian hai chái này vẫn lưu giữ một tấm bia thời Lê Kính được đóng ván đố lụa toàn bộ. Nó cũng Tông: Hiển linh từ thạch bi khắc năm được tuân thủ theo lốỉ cách dựng hậu Hoằng Định 6 (1606) kể về sự tích Thánh cung thò Thánh rất phổ biến ỏ thế kỉ Gióng và việc trùng tu ngôi đền. Rất có XVII, như các hậu cung của chùa Keo thể đây cũng là niên đại của tòa hậu cung Thái Bình, Keo Hành Thiện, chùa Thầy, đền Gióng, ở đây người ta còn tìm thấy nhưng đơn giản hơn. Giữa các hàng cột hai con sư tử đá mang phong cách nghệ quân của ba gian tiền đường hậu cung, thuật thời Trần, mặc dầu có kích thước ngưòi ta lắp những bộ cửa bức bàn. Hai khá nhỏ, nhưng ngưòi ta có thể phỏng gian kế tiếp, người ta tạo nên các cửa đoán đây là chốt bậu cửa của kiến trúc chấn song, phía dưới là các mảng chạm đền xưa. Chúng là những di vật xác thực khắc tứ linh, mang đậm phong cách nghệ cho lịch sử ngôi đền. thuật đầu thế kỉ XVII. Phía trong hậu Có thể thấy rằng, bằng cách bố cục cung hệ thống vì kèo cũng có dạng thức liên hợp, cụm kiến trúc đền Gióng như kết cấu đơn giản dạng vì chồng rường, giá vừa được trải, được nôi bởi các thành chiêng cột trốn. Điểm đặc biệt nhất của phần kiến trúc liên tiếp, như dạng trùng kiến trúc hậu cung này là việc tạo ra hai thiềm điệp ốc, nhưng cũng lại được chú ý cửa hậu và vách gỗ ở hai gian hai bên. đến các giếng trời được tạo ra giữa các Hai cửa hậu này thông sang tòa thờ thành phần, kết hợp với bên tả, bên hữu, Quan Giám sát bằng hai hành lang phía phía trước, phía sau là các khoảng không sau của chính thất đền Gióng. Hai cửa rộng lớn, tòa thủy đình, ao mắt rồng. này chỉ được mở vào những dịp lễ hội đăc Đồng thời kiến trúc này cũng lại gắn bó biệt, để tế và lạm các nghi thức đặc biệt chặt chẽ với không gian của chùa Kiến Sơ trong hậu cung. Hình thức kiến trúc này phía bên tay trái của đền, khiến cho cảnh đã tạo thành hình chữ khẩu ngay phía quan nơi đây không chỉ là một chốn linh sau dạng thức chữ công của ngôi đền và thiêng mà còn là nơi phong cảnh kì thú tạo ra một sân thiên tỉnh giữa hai kiến chốn ven đô. trúc này. Đây cũng là một lối thức hiếm gặp trong các dạng thức kiến trúc cổ Bắc Điêu khắc Bộ. Có lẽ nó được dựng lên để phục vụ Khởi nguyên khi đền Gióng chỉ là một cho các nghi thức tế lễ trong hội Gióng ngôi miếu nhỏ thờ thổ thần thồi của sư nên ít nhiều tạo ra sự khác biệt. Theo các Cảm Thành dựng chùa Kiến Sơ, ngưồi ta cụ ở làng Gióng cho biết, vào những dịp lễ chỉ thờ ngai và thò bài vị, chưa có sự xuất hội, thì không gian này đặc kín người và hiện của tượng Thánh. Việc làm tượng tạo thành một luồng giao thống giữa thò hậu trong các ngôi đình cũng như đền trưổc và sau của khu đền. miếu chỉ thực sự xuất hiện vào cuối thế kỉ Ngày nay, tại chính giữa hậu cung XVII. Đền Gióng cũng nằm trong tâm đền Gióng vẫn còn lưu giữ một bục gạch thức chung đó, nên đa phần các tượng đặt
  6. 60 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl trong hậu cung của đền có niên đại khá Nho giáo được phủ lên, thì dân gian lại muộn khoảng đầu thế kỉ XVIII. coi đây là hai pho tượng tả văn hữu võ. Theo các cụ trong làng thì trước đây Gian tiền đưòng của hậu cung bày chỉ có ngai thd đức Phù Đổng đại vương bôn pho tượng tứ trấn đông - tây - nam - đặt trên dấu tích miếu gạch nằm ở trung bắc, được tạc tương đối giông nhau. Các tâm của toà hậu cung. Ngai thờ này là di vị đều đặt một tay trên ngực, một tay vật của thồi Hậu Lê, đẹp và tinh xảo. Đến nắm lại giơ lên ngang vai, như thể đang năm 2000, dân Phù Đổng đã hưng công cầm một vật gì đó. Tuy nhiên ngày nay, đắp pho tượng và khán thờ bằng đồng các vật dụng trong tay các nhân vật này ngay trước miếu gạch. Pho tượng này cao đều bị mất. gần 3m, mô tả Đức Phù Đổng có khuôn Các tác phẩm điêu khắc này mang mặt khá trẻ con nhưng môi mím, mắt lổn đâm phong cách của nghệ thuật thế kỉ khiến cho tác phẩm dường như rất có thần uy. Hai bên đức Thánh Gióng là sáu XVIII. Và mặc dầu chúng được tạc trong vị nữ quan, mà dân gian thường gọi là những trang phục theo quy cách cung tượng Lục vị tiên nương, một tay đưa ra đình, từ các quan tứ trấn cho đến lính phía trước một tay cầm mây có đuôi chớp hầu và lục vị tiên nương, nhưng thực chất tạo hình vân xoắn. Tất cả đều đội vương vẫn là những nhân vật tượng trưng cho miện, tóc búi, cài trâm, mình mặc áo mớ các nhân tố tự nhiên mây, mưa, sấm, ba mớ bảy vói vân kiên phủ vai và thắt chớp của tín ngưỡng nông nghiệp, đồng lưng đeo những lá thất Phật. Mặc dù các thời cũng tượng trưng cho tầng trời, mà ở pho tượng này chỉ là tượng đất đắp, phủ đó đức Đức Phù Đổng Thiên Vương là sơn, nhưrig từ trang phục cho đến chân thần chủ. Cái ý nghĩa này còn được thể dung đều vô cùng sinh động. Ta có cảm hiện ra trong những sinh hoạt tín ngưỡng giác như các nhân vật này đang cùng ở đền Phù Đổng vào các dịp lễ hội như chuyển động trong một điệu múa nhịp trong các bài hát và điệu múa Ải Lao. nhàng vối những âm điệu dìu dặt, lôi Bên cạnh các lòi hát kể về sự tích Đức cuốn, khi thưa khi mau. Tương truyền Phù Đổng, thì có rất nhiều những lời hát đây là những cô tiên đã rẽ mây cho ông Gióng khi bay về tròi. mang tính chất cầu mưa, cầu mùa, cầu cho sinh sôi nảy nở, no ấm. Chếch lên một chút, ồ gian ông muông, có hai pho tượng lính hầu, tượng Đứng về mặt bô' cục mặt bằng hiểu bên trái cầm quả lôi cán dài đầu đội mũ theo ý nghĩa dịch học, ngưòi ta cũng dễ tròn trang trí vân mây, tượng bên phải dàng nhận thấy rằng sáu nhân vật nam cầm chùy đầu đội mũ quả dưa. Hai nhân được bô' trí khá đều đặn ỗ tiền đường và vật này tượng trưng cho hai thiên lôi gian ô'ng muống tạo thành hình của quẻ canh cửa nhà trời, đồng thòi cũng tượng kiền, còn sáu nhân vật nữ được đặt trong trưng cho các hiện tượng tự nhiên. Nếu hậu cung tượng trưng cho quẻ khôn. Đây lục vị tiên nương chầu hai bên đức Phù cũng có thể xem như lẽ hóa sinh, sinh Đổng tượng trưng cho vân vũ (mây mưa) hóa để sinh ra vạn vật. Bên cạnh đó, việc thì hai nhân vật này tượng trưng cho lôi, những nhân vật này được miêu tả trong điện (sấm, chớp). Sau này khi lớp văn hóa các trang phục cung đình đã cho thấy lớp
  7. TẠP CHÍVHDG s ố 1/2011 61 văn hóa Nho giáo đã phủ trùm lên tín hợp của nhiều lớp văn hóa khác nhau. ngưỡng nông nghiệp thờ tự nhiên. Xuất phát từ Phật giáo, kết hợp với tín Ngày nay, mặc dầu vẫn được gọi là ngưỡng bản địa thò thổ thần, rồi tín đền Gióng, nhưng thực chất ngôi đền này ngưỡng thò các thế lực tự nhiên, cuối cùng là lổp văn hóa Nho giáo được kết còn mang ý nghĩa như một ngôi đình của hợp nhuần nhuyễn với nhau trong một làng Phù Đổng. Hai bên ngôi đền đã được nhân vật huyền thoại, Thiên - Nhân thần sửa sang và xây thêm những kiến trúc Phù Đổng Thiên Vương. □ mối để phục vụ cho lễ hội và tín ngưỡng thò Phù Đổng. Hơn nữa, nếu nhìn vào T.T.H hình thức kiến trúc được phân tích tỉ mỉ CHÚ THÍCH kể trên thì đền Gióng không khác bao xa (1) . Câu đối của Cao Bá Q uát được treo với một ngôi đình hoàn thiện ỏ Bắc Bộ trong đền. vào thế kỉ XVIII. Đồng thời nó cũng cho (2) . Lê M ạnh T h á t (2006), Lịch sử P hật thấy một nét rất đặc trưng của ố các ngôi giáo Việt N a m , tập II, tr. 253, Nxb. Tổng hợp đình Việt, mà rất nhiều trong số đó là sự T hành phố’Hồ Chí M inh. hóa thân của từ một ngôi đền để trỏ (3) . Viện V ăn hóa Nghệ th u ậ t Việt Nam thành đình, như đình Chèm, đình Đông (2009), L ễ hội Thánh Gióng, Nxb. V ăn hóa - Thông tin, tr. 139. Ngạc... Một số nơi vẫn được gọi là đền, nhưng một số nơi đã được cải tên là đình, (4) . Đọc thêm : T rần Lâm (2001), “Đôi nét về tạo hình trong nghệ th u ậ t rối Việt”, Tạp nhưng thực chất tín ngưỡng nghi lễ ỏ các chí Văn hóa nghệ thuật, số 2, tr. 30. ngôi đền - đình này vẫn tuân theo các (5) . T rần Lâm (2001), bđd, tr. 30. cách thức và giá trị cô’ xưa. Chúng đồng (6) . Theo ghi chép th ì tòa Bái đường do thời cho thấy lớp văn hóa Nho giáo đã N guyễn Huy, ngưòi làng P hù Đổng đứng ra phủ lên lớp văn hóa bản địa, trong các di xây dựng, còn T rung đường do T rạng nguyên tích có sự chồng xếp của các giá trị lịch Đ ặng Công C hất đứng r a hưng công. Đọc sử. thêm : N guyễn Thị Hòa (2009), “Khu di tích P hù Đổng”, trong L ễ hội Thánh Gióng, sđd, Từ kiến trúc cho đến điêu khắc, đền tr. 18. Gióng chính là bằng chứng của sự tích b ấ t ngò” cũng chỉ góp p hần vào cơ chê" gây CÃCPHUDNGTHÚb... cưòi, chứ tự th â n chúng không làm nên tiếng (Tiếp theo trang 42) cưòi trong tru y ện cưdi. (3). Cho nên, sệ không chuẩn xác khi nói: (4) . Vấn đề này đã được ngưồi viết trìn h bày ỏ “Đặc điểm của n h ân vật trong truyện “lời nói đáng cưòi, cử chỉ đáng cưòi, hoàn cảnh đáng cưòi,...” [1, 386]; hoặc: “Vì vậy, một cười dân gian”, Tạp chí N guồn sáng dân gian, trong những biện pháp gây cưồi là phóng đại sô" 3 (36), 2010; tr. 3 - 10. sự th ậ t” [1, 387]; hoặc: “Để gây tiếng cưòi (5) . Chú ý, phóng đại hay phi thực tế đều thực là giòn giã, tru y ện cưòi dân gian hay dựa trê n một thực th ể (cái đang có) để tác dùng yếu tô" bất ngò” [1, 388] - “Lòi nói đáng động, hoặc làm cho khác về kích cỡ (phóng cười, cử chỉ đáng cưòi, hoàn cảnh đáng cưòi” đại), hoặc lấm cho khác về cách thức (phi thực trên đại thể thuộc vào tiếng cưòi nói chung, tế); phân biệt vối b ấ t ngò, không dựa trê n cái chứ không h ẳn là các thuộc tín h của th ể loại đang có, m à thưòng bằng một liên tưỏng khác truyện cưòi. “Biện pháp phóng đại” và “yếu tô" loại, hay trá i lẽ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2