BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THU HỒNG

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA

GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ Kinh tế với đề tài “Phân tích mối quan hệ

giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu của tôi,

dưới sự hướng dẫn của TS. Thân Thị Thu Thủy. Các tài liệu trong luận văn có

nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy và được xử lý khách quan, trung thực.

Thành phố, Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 10 năm 2013

Học viên thực hiện

Lê Thị Thu Hồng

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 2

4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 2

5. Kết cấu của đề tài ................................................................................................ 2

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG

VÀ LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ ................................................ 4

1.1 Tổng quan về giá vàng ..................................................................................... 4

1.1.1 Giới thiệu về kim loại vàng ........................................................................... 4

1.1.1.1 Kim loại vàng ............................................................................................. 4

1.1.1.2 Ứng dụng của vàng ...................................................................................... 4

1.1.1.3 Vai trò của vàng trong nền kinh tế ............................................................. 6

1.1.1.4 Các hình thức kinh doanh vàng .................................................................. 6

1.1.2 Giá vàng ......................................................................................................... 7

1.1.2.1 Cách tính giá vàng ....................................................................................... 7

1.1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng .......................................................... 9

1.2 Tổng quan về lạm phát .................................................................................... 13

1.2.1 Khái niệm về lạm phát .................................................................................. 13

1.2.2 Phân loại lạm phát ....................................................................................... 14

1.2.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát ....................................................................... 16

1.2.3.1. Lạm phát do chi phí đẩy ........................................................................... 16

1.2.3.2. Lạm phát do cầu kéo ................................................................................. 17

1.2.3.3. Lạm phát tiền tệ ........................................................................................ 18

1.2.3.4. Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế ................................................... 18

1.2.4. Đo lường lạm phát ....................................................................................... 18

1.2.4.1. Đo lường lạm phát trên thế giới ............................................................... 18

1.2.4.2. Đo lường lạm phát của Việt Nam ............................................................ 19

1.2.5. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế ....................................................... 19

1.2.5.1. Tác động tích cực của lạm phát ............................................................... 20

1.2.5.2. Tác động tiêu cực của lạm phát ............................................................... 20

1.2.6. Kiềm chế lạm phát ....................................................................................... 21

1.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát trong nền kinh tế ............... 23

1.3.1 Giá vàng tác động đến lạm phát ................................................................... 23

1.3.2 Lạm phát tác động đến giá vàng ................................................................... 24

1.4 Sự cần thiết phải nghiên cứu mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát trong

nền kinh tế ............................................................................................................ 25

1.5 Các nghiên cứu về giá vàng và lạm phát trong nền kinh tế trên thế giới. ....... 25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ..................................................................................... 27

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ

LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM ................................................................... 28

2.1 Thực trạng về biến động giá vàng tại Việt Nam ............................................. 28

2.1.1 Thực trạng biến động giá vàng tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2000

đến 2006 ............................................................................................................... 28

2.1.2 Thực trạng biến động giá vàng tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2007

đến 2012 ................................................................................................................ 30

2.2 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam ................................................................... 41

2.2.1 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến 2006 ........... 41

2.2.2 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến 2012 ........... 41

2.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam ..................... 49

2.3.1 Mô hình nghiên cứu ..................................................................................... 49

2.3.2 Dữ liệu nghiên cứu ...................................................................................... 55

2.3.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam ................. 55

2.3.3.1 Kiểm định sự tác động của tỷ giá USD/VND đến giá vàng và lạm phát .. 55

2.3.3.2 Kiểm định mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát ................................... 58

2.4 Đánh giá mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát ........................................... 63

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 65

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH GIÁ VÀNG NHẰM KIỀM CHẾ

LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM ................................................................... 66

3.1 Định hướng kiềm chế lạm phát tại Việt Nam .................................................. 66

3.2 Giải pháp ổn định giá vàng nhằm kiềm chế lạm phát tại Việt Nam................ 70

3.2.1 Ổn định tâm lý người dân ............................................................................. 70

3.2.2 Dự trữ vàng hợp lý và huy động vàng trong dân ......................................... 72

3.2.3 Tăng cường sự quản lý của Ngân hàng nhà nước đối với thị trường vàng . 73

3.2.4 Tiến tới tự do hóa thị trường vàng ............................................................... 74

3.2.5 Thành lập trung tâm giao dịch vàng ............................................................ 75

3.3 Giải pháp hổ trợ .............................................................................................. 78

3.3.1 Đối với Chính phủ ........................................................................................ 78

3.3.2 Đối với doanh nghiệp ................................................................................... 81

3.4 Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của các nước ..................................... 81

3.4.1 Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Trung Quốc ............................... 81

3.4.2 Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Ấn Độ ........................................ 86

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 90

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 91

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CP : Chính phủ

CPI : Chỉ số giá tiêu dùng

CSTT : Chính sách tiền tệ

DTBB : Dự trữ bắt buộc

ETFs : Quỹ đầu tư tín thác

FED : Federal Reserve System : Cục dự trữ liên bang của Mỹ

FOMC : Ủy ban Thị trường mở Liên bang

GDP : Tổng thu nhập quốc nội

GDP: Tổng sản phẩm quốc nội

IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế

MSCI : Các chỉ số chứng khoán cho các thị trường quốc gia và quốc tế

NFP : Một báo cáo về tình hình kinh tế của Mỹ được thông báo hàng tháng

NHNN : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

OTC : Over-The-Counter Market – Thị trường tự do

PCE : Persional consumption Expenditure – Chỉ tiêu tiêu dùng cá nhân

PPI : Producer Price Index – Chỉ số đo lường mức độ lạm phát

S&P : Chỉ số cổ phiếu

SJC: Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn

TCTD : Tổ chức tín dụng

TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

TTCK : Thị trường chứng khoán

TTTC : Thị trường tài chính

TTV : Thị trường vàng

VIFA : Hiệp hội đầu tư tài chính Việt Nam

VN : Việt Nam

WGC : Hội đồng vàng thế giới

WTO : World Trade Organization- Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang

1.1 Kết quả các nghiên cứu sự ảnh hưởng của lạm phát lên giá vàng 26

2.1 Tốc độ cung tiền và tín dụng giai đoạn 2007-2012 42

2.2 Kết quả kiểm định đồng liên kết giữa giá vàng, lạm phát và tỷ giá 56

USD/VND

2.3 Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết tỷ giá USD/VND tác động 57

đến lạm phát

2.4 Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết tỷ giá USD/VND tác động 58

đến sự thay đổi giá vàng

2.5 Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và lạm phát 58

Hệ số tương quan giữa giá vàng và lạm phát 2.6 59

Kết quả kiểm định đồng liên kết giữa giá vàng và lạm phát 2.7 59

Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết giá vàng tác động đến lạm 2.8 60

phát

2.9 Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết lạm phát tác động đến giá 61

vàng

2.10 Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả giữa giá vàng và lạm phát 62

3.1 Dự báo các chỉ tiêu kinh tế - xã hội từ năm 2013-2015 70

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

Đồ thị Tên đồ thị Trang

2.1 Giá vàng Việt Nam và giá vàng thế giới từ năm 2000 đến năm 2006 28

2.2 Giá dầu thế giới từ năm 2000 đến năm 2006 29

2.3 Tỷ giá USD/VND từ năm 2000 đến năm 2006 30

2.4 Giá vàng Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2012 31

2.5 Tốc độ tăng giá vàng tại Việt Nam từ năm 2007-2012 31

2.6 Giá vàng thế giới từ năm 2007 đến năm 2012 32

2.7 Giá dầu thế giới từ năm 2007 đến năm 2012 32

2.8 Tỷ giá USD/VND giai đoạn 2007-2012 33

2.9 Giá vàng tại Việt Nam năm 2010 38

2.10 Tỷ lệ lạm phát Việt Nam từ năm 2000-2006 41

2.11 Lạm phát tại Việt Nam từ năm 2007-2012 42

2.12 Chỉ số CPI và chỉ số giá vàng từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2011 tại Việt 64

Nam

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu Tên biểu đồ Trang

đồ

1.1 Tổng cung vàng thế giới từ năm 1973 đến 2012 9

1.2 Tổng cầu vàng thế giới từ năm 1973 đến 2012 11

1

LỜI MỞ ĐẦU

1/ Lý do chọn đề tài

Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn trải nghiệm những thách thức

quan trọng nhất của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa. Sau khi gia nhập tổ chức

Thương mại thế giới (WTO) vào cuối năm 2006, độ mở của nền kinh tế tăng vọt. Do

đó, những biến động trong nền kinh tế thế giới sẽ tác động, ảnh hưởng đến nền kinh

tế các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.

Trong những năm gần đây giá vàng thế giới liên tục phá kỷ lục, bắt đầu từ năm 2002

đến nay. Mức tăng mạnh nhất xuất phát từ khi khủng hoảng thế giới nổ ra từ năm

2008. Khủng hoảng tài chính lan rộng đẩy nền kinh tế thế giới vào suy thoái. Khủng

hoảng tín dụng, khởi đầu từ thị trường bất động sản ở Mỹ, nhanh chóng lan rộng

sang nhiều nước, nhiều khu vực, cùng với khủng hoảng giá lương thực, biến động

giá dầu. Bong bóng tài chính và bất động sản bùng nổ làm cho cả thế giới chao đảo.

Hệ lụy từ cuộc khủng hoảng tài chính này đã làm cho kinh tế thế giới trì trệ đáng kể

nhất đó là cuộc khũng hoảng nợ công Châu Âu lan rộng từ Hy Lạp đến nhiều nước

trong khu vực Euro zone làm cho vàng trở thành lựa chọn tối ưu cho các nhà đầu tư.

Giá vàng thế giới trong xu thế tăng mạnh từ năm 2000 đến năm 2012, mức

tăng 481% (nguồn www.kitco.com), điều này làm cho giá vàng tại Việt Nam cũng

tăng nhanh. Do vàng ở Việt Nam chủ yếu là từ nguồn nhập khẩu, giá vàng Việt Nam

liên thông với giá vàng thế giới thông qua tỷ giá USD. Tuy vậy, mức tăng của giá

vàng Việt Nam có lúc vượt xa mức tăng của giá vàng thế giới là do yếu tố tâm lý làm

cho người dân đổ xô đi mua vàng, làm cho cầu tăng, cung không đáp ứng, dẫn đến

nạn nhập lậu vàng xảy ra. Điều này đã gây khó khăn cho các nhà hoạch định chính

sách tiền tệ. Bên cạnh đó, diễn biến lạm phát trong giai đoạn này cũng phức tạp, năm

2008 lạm phát ở mức 19.87%, giảm xuống còn 6.52% vào năm 2009 sau đó có đà

tăng lên năm 2010 là 11.75% và tiếp tục tăng lên 18.13% trong năm 2011. Trước

tình hình đó, Chính phủ ban hành Nghị Quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 nhằm

đưa những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo

đảm an sinh xã hội. Trong số những giải pháp kiềm chế lạm phát có giải pháp thực

hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, trong đó có việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh

doanh vàng; Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng

2

theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng

miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua

biên giới.

Giải pháp kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng trong gói giải pháp

kiềm chế lạm phát mà Chính phủ đưa ra chứng tỏ giữa giá vàng và lạm phát có mối

quan hệ. Để kiểm chứng vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài “ Phân tích mối quan hệ

giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam”. Thông qua việc kiểm định mối quan hệ này

tại Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2012 sẽ góp phần đánh giá được hiệu quả, tác

động của các chính sách mà chính phủ đang triển khai đối với thị trường vàng góp

phần làm giảm lạm phát và bình ổn kinh tế vĩ mô.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề cơ bản của vàng, giá vàng và lạm phát, đi

sâu phân tích, kiểm định mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam, từ đó

đề ra một số giải pháp nhằm ổn định giá vàng nhằm giải pháp kiềm chế lạm phát tại

Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Nghiên cứu về giá vàng, lạm phát.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài : Chỉ nghiên cứu các vấn đề liên quan đến giá

vàng, lạm phát.

Phạm vi nghiên cứu về không gian: Phân tích dữ liệu giá vàng và lạm phát tại

Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Số liệu nghiên cứu được sử dụng từ năm

2000 đến năm 2012.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu định tính : Phương pháp lịch sử, phương pháp so

sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích số liệu.

Phương pháp nghiên cứu định lượng : Từ số liệu thống kê, tiến hành phân tích

số liệu bằng hồi quy chuỗi dữ liệu thời gian và kiểm định nhân quả Granger thông

qua phần mềm Eviews 8.0.

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu của luận văn

gồm 3 chương chính :

3

Chương 1: Tổng quan về mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát trong nền

kinh tế.

Chương 2: Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp ổn định giá vàng nhằm giải pháp kiềm chế lạm phát tại

Việt Nam.

4

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM

PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ

1.1 Tổng quan về giá vàng

1.1.1Giới thiệu về kim loại vàng

1.1.1.1 Kim loại vàng

Vàng cùng với bạc, đồng là 3 kim loại đầu tiên được tìm thấy đầu tiên trên thế

giới, năm 5000 trước công nguyên. Vàng được xem là kim loại quý, biểu tượng của

quyền lực và sự giàu có. Vàng có sức chịu đựng oxi hóa cao, lâu bị hư hao.

Vàng có thể kết hợp với nhiều chất khác để cho những sản phẩm phục vụ cho

công nghiệp. Một năm thế giới tiêu thụ khoảng 450 tấn vàng trong ngành công

nghiệp chiếm 11% nhu cầu thế giới. Nhu cầu trang sức chiếm 70% và 13% còn lại là

nhu cầu đầu tư.

Mỏ vàng nằm rải rác ở 60 quốc gia. Vì vàng trong thiên nhiên có kết hợp với

một ít kim loại khác, nên không tinh khiết, cần phải qua quá trình tinh lọc. Nam Phi

là nước có nhiều mỏ vàng nhất thế giới khoảng 40.000 tấn. Cả thế giới ước tính có

khoảng 145.000 tấn vàng, vàng có dưới dạng vàng hạt hoặc vàng thỏi.

Ấn Độ là nước tiêu thụ vàng nguyên liệu nhiều nhất thế giới, với nhu cầu hàng

năm lên đến 800 tấn, chiếm ¼ nhu cầu vàng vật chất của thế giới. Do đó nếu tính

luôn vàng nữ trang thì Ấn Độ là nước có nhiều vàng nhất thế giới. Các hộ gia đình ở

nước có nền kinh tế lớn thứ 3 Châu Á này tích lũy 20.000 tấn vàng qua nhiều thế hệ.

Ở Ấn Độ, vàng là món quà thông dụng nhất trong các kỳ lễ hội và là một phần

không thể thiếu trong của hồi môn. Do đó nhu cầu vàng trang sức sẽ tăng mạnh trong

mùa lễ hội và mùa kết hôn bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm.

Nước Mỹ là nước có dự trữ ngoại hối bằng vàng lớn nhất thế giới, tiếp theo là

Đức và quỹ tiền tệ IMF.

Vàng cũng như ngoại tệ được giao dịch trên toàn thế giới, và gần như 24/24.

1.1.1.2 Ứng dụng của vàng

Vàng là một nguyên liệu hữu dụng trong khoa học kỹ thuật hiện đại và những

ứng dụng mở rộng vai trò của vàng trong khoa học kỹ thuật là một nhân tố chính góp

5

phần làm tăng cầu vàng trong những năm gần đây. Một số ứng dựng của vàng rất cần

thiết trong cuộc sống hiện đại.

Trong lĩnh vực điện tử,vàng được sử dụng làm miếng khuếch âm nhỏ đặt

trong tai nghe của điện thoại bàn chứa đựng trong 33 công tắc. Vai trò chính của

vàng trong lĩnh vực điện tử được ứng dụng vào các công tắc, bộ chuyển mạch, cục

rơle và các khớp nối. Việc gắn vàng lên công tắc nhằm đảm bảo cho việc phân tán

nhiệt lượng một cách nhanh chóng, và giúp ngưng lại quá trình oxi hoá hoặc bị mờ

do tác động của nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao.

Một ứng dụng khác của vàng trong kỹ thuật điện là các thiết bị bán dẫn, ở đó

các dây hoặc mảnh vàng đủ tuổi được dùng đề kết nối các chi tiết như bóng bán dẫn

với các vi mạch, và trong các bảng mạch dùng để liên kết các chip điện tử lại với

nhau. Một lần nữa, nhu cầu cho các kết nối bền vững đã chứng minh giá trị không

thể thay thế của vàng. Liên kết này là một trong những ứng dụng đặc trưng nhất của

vàng là được xác định có mức độ tinh khiết đến 99.9%, và thường có một đường

kính đặc thù là 1/100 mm.

Trong lĩnh vực hàng không và du hành vũ trụ, không có vàng, con người sẽ

không bao giờ đặt chân đến mặt trăng. Vàng, được thiết kế thành bảng dày 0.15mm,

sử dụng trong các chương trình vũ trụ như một tấm khiên chống lại bức xạ của mặt

trời. Do vàng là một kim loại có khả năng phản xạ tốt nên sẽ làm chệch hướng sức

nóng thiêu đốt của mặt trời.

Vàng là được xem là một nhân tố quan trọng không thể thiếu trong các tiêu

chuẩn an toàn bay vào không gian, chính vì vậy lượng cầu vàng gia tăng liên tục

cùng với sự phát triển của tốc độ chinh phục không gian. Một ví dụ cụ thể là hơn

40.8 kg vàng được sử dụng trong quá trình chế tạo tàu du hành con thoi Columbia

nổi tiếng, chủ yếu tập trung ở các bộ phần bằng hợp kim đồng thau, chế tạo buồng

nhiên liệu, các mảnh plastic và các công tác điện.

Trong lĩnh vực y học, vàng chủ yếu được sử dụng trong điều trị chứng viêm

khớp và các bệnh liên quan đến gan, tai và mắt. Vàng được sử dụng trong một nhóm

thuốc giúp giảm quá trình phát triển của bệnh viêm khớp. Những thuốc này được biết

đến dưới cái tên là DMARD giúp đánh tan cơn đau và vết sưng trong các khớp

xương. Vàng đã được sử dụng điều trị chứng viêm khớp hơn 70 năm nay nhưng các

nhà khoa học vẫn chưa tìm ra được nguyên lý vận hành. Một vài người cho rằng

6

vàng giúp ngăn cản hệ miễn dịch khỏi việc tấn công các khớp xương, bởi vì mặc dù

hệ miễn dịch thường bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân lây nhiễm nhưng với bệnh

viêm khớp thì lại góp phần phá huỷ lớp sụn bảo vệ các khớp xương.

Ngoài ra, vàng còn được sử dụng trong các lĩnh vực như nha khoa, trang trí

thiết kế. Vàng được sử dụng thiết kế cho nhiều đối tượng khác nhau, từ trang sức,

mặt đồng hồ, bút máy, bút chì cho đến gọng kính và các dụng cụ trang trí phòng tắm.

Nhu cầu vàng phục vụ cho lĩnh vực này ước khoảng 90 tấn/năm và được ứng dụng

dưới nhiều hình thức đa dạng.

1.1.1.3 Vai trò của vàng trong nền kinh tế

Mặc dù bị tước đi khả năng làm đơn vị tiền tệ, vàng vẫn hấp dẫn được mọi

quốc gia. Các quốc gia, ngân hàng và quỹ đầu tư trên toàn thế giới tăng cường giữ

vàng trong danh mục đầu tư của mình để bảo toàn vốn hoặc đầu cơ tích trữ và mua đi

bán lại.

Bên cạnh đó, vàng còn là công cụ phòng chống lạm phát. Khi hàng hóa và

dịch vụ tăng nhà đầu tư có khuynh hướng mua vàng do sức mua và giá trị của vàng

có khuynh hướng ổn định. Do đó, mỗi khi lo sợ về lạm phát, nhà đầu tư lại mua

vàng.

Ngoài ra, vàng còn là công cụ đầu tư thay thế đồng USD. Vàng thường được

sử dụng như một công cụ đầu tư hiệu quả thay thế đồng USD – đồng tiền được giao

dịch nhiều nhất thế giới. Vàng là nơi trú ẩn an toàn nhất khi có những biến động về

chính trị-xã hội trên thế giới. Vì mọi giao dịch mua bán vàng trên thị trường thế giới

đều dùng đơn vị USD/Oz nên mối quan hệ qua lại giữa giá vàng và tỷ giá USD được

những nhà đầu tư sử dụng rất linh hoạt. Sự lên giá của USD so với đồng tiền mạnh

khác sẽ đi đôi với hiện tượng giảm giá vàng và ngược lại. Điều này đã được kiểm

chứng trong thời gian dài. Tuy nhiên do cả vàng và USD đều chịu sự tác động của

nhiều yếu tố nên thời điểm và tỷ lệ biến động của hai thị trường này không giống

nhau. Nếu đồng USD tăng giá, thì vàng sẽ giảm. Ngược lại USD giảm giá thì vàng

sẽ tăng. Do đó vàng là cách đầu tư hiệu quả nhất trong việc phòng chống rủi ro giảm

giá của đồng USD. Vì khi tỷ giá tăng, lạm phát tăng dẫn đến giá vàng tăng, hay tỷ

giá tăng, vàng nhập khẩu tăng do thanh toán bằng những đồng ngoại tệ.

1.1.1.4 Các hình thức kinh doanh vàng.

7

Giao dịch mua bán giao ngay: là nghiệp vụ mua bán vàng được thực hiện theo

giá tại thời điểm thỏa thuận, tuy nhiên cần thời gian để thực hiện bút toán và thanh

toán tiền vàng nên có thể mất thời gian nếu số lượng mua lớn.

Giao dịch mua bán vàng kỳ hạn : Việc mua bán được thực hiện tại một thời

điểm tương lai với mức giá xác định tại thời điểm hiện tại.

Giao dịch hoán đổi vàng : Là cam kết mua và bán tại một mức giá được xác

định trước, trong đó việc mua và bán được tiến hành tại các thời điểm khác nhau.

Thực chất của giao dịch hoán đổi là một nghiệp vụ kép của hai nghiệp vụ là giao

dịch giao ngay và giao dịch có kỳ hạn với cùng một lượng vàng nhưng theo 2 hướng

ngược nhau.

Giao dịch quyền chọn vàng : Là giao dịch theo quyền được mua hoặc bán vàng

trong thời gian xác định tại thời điểm giao dịch. Có 2 loại quyền chọn là Quyền chọn

mua (Call option) và quyền chọn bán (Put option). Phí quyền chọn không rẻ là chi

phí đáng kể ảnh hưởng đến lợi nhuận. Do đó, nếu nhà đầu tư không xác định đúng

hướng và đúng thời điểm thì sẽ bị lỗ phần chi phí quyền chọn.

Giao dịch mua bán vàng qua tài khoản: Là giao dịch mua bán vàng thông qua

tài khoản đặt lệnh tại sàn giao dịch vàng. Sau khi lệnh đặt khớp đã hoàn thành giao

dịch. Khách hàng muốn lấy vàng hoặc tiền có thể thực hiện ngay.

1.1.2 Giá vàng

1.1.2.1 Cách tính giá vàng

- Cơ chế hình thành giá vàng trên thế giới.

Giá vàng thế giới được quyết định bởi tương quan giữa nguồn cung và nguồn cầu.

Thị trường vàng được hình thành ở nhiều quốc gia, trong đó phải kể tới những thị

trường quan trọng nhất là:

• Thị trường vàng OTC (over-the-counter) lớn nhất là London, nơi giá giao

ngay của vàng được quyết định. Tuy nhiên, cũng có các thị trường vàng OTC ở New

York, Dubai và thậm chí là Thổ Nhĩ Kỳ. Phần lớn giao dịch vàng diễn ra trên thị

trường OTC tại các bàn giao dịch khắp toàn cầu. Các bàn giao dịch này làm nhiệm

vụ giao dịch vàng thay cho khách hàng, bao gồm các nhà khai mỏ, các ngân hàng

trung ương, các hãng chế tác, các nhà sản xuất công nghiệp… Ngoài ra các bàn giao

dịch cũng có nghiệp vụ tự doanh. Một số khách hàng cũng muốn vay hoặc cho vay

vàng vật chất

8

• Thị trường vàng giao sau lớn nhất là Mỹ.

• Thị trường vàng giá cố định ở London (London fix). Đây là thị trường cung

cấp mức giá tiêu chuẩn cho vàng. Mục đích của việc này là tạo ra một mức giá tiêu

chuẩn có thể áp dụng cho giao dịch.

Thị trường vàng giá cố định ở London hoạt động như sau: mỗi ngày có hai lần

thiết lập giá cố định, một lần vào 10 giờ 30 sáng, và một lần vào 3 giờ chiều. Thị

trường này thực chất là một công ty, có tên là London Gold Fixing Limited, bao gồm

5 tổ chức là các ngân hàng HSBC, Deutsche Bank, Barclay’s, Societe Generale, và

ScotiaMocatta. Thị trường này do một chủ tịch đứng đầu, và mỗi một thành viên

tham gia thiết lập giá cố định lại có một đường dây nối tới các nhà giao dịch khác.

Mô hình này có dạng một kim tự tháp: Vị chủ tịch đưa ra một mức giá, 5 thành viên

chuyển thông tin này tới các khách hàng của họ, khách hàng lại chuyển tin tới các

đối tượng quan tâm khác. Cuối cùng, từng thành viên tham gia cố định giá công bố

mức giá mà họ quan tâm với tư cách một người bán, hoặc người mua, hoặc tuyên bố

không có mối quan tâm mua bán nào. Khi các thành viên này đạt được một điểm cân

bằng giữa bên mua và bên bán, vị chủ tịch sẽ đề nghị mỗi thành viên công bố số

lượng thỏi vàng mà họ muốn bán hoặc mua dựa trên mối quan tâm mua-bán của

khách hàng của các thành viên này, và sau đó vị chủ tịch sẽ công bố mức giá cố định.

Đó là, cơ chế hình thành giá vàng thế giới.

- Cách tính giá vàng tại Việt Nam

Hiện nay, giá vàng SJC tại các tiệm vàng trong cả nước được niêm yết hàng

ngày trên thị trường đều xuất phát từ Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn –SJC. Cơ sở

để công ty SJC cung cấp giá ra thị trường bắt nguồn từ các yếu tố thị trường cho giá

vàng nhập khẩu, giá vàng thế giới, mức cung-cầu vàng của thị trường tại thời điểm

thiết lập giá,… Giá thành của vàng là toàn bộ những chi phí để có một đơn vị vàng,

trên cơ sở đó tính được lời lỗ. Tại Việt Nam, do sản lượng vàng khai thác không

đáng kể, nguồn vàng nguyên liệu chủ yếu nhập từ nước ngoài nên giá thành của vàng

Việt Nam được tính chủ yếu theo giá thế giới, các ký hiệu trong công thức như sau:

- VTG là giá vàng thế giới;- VVN là giá vàng Việt Nam;- FVC là chi phí vận chuyển

- FBH là phí bảo hiểm ;-TNK là thuế nhập khẩu ;- E là tỷ giá hối đoái USD/VND

-FGC là phí gia công ;- 1ounce ≈1,20556 lượng

Công thức tính :

9

VN=[(VTG + F

X 1,20556 X VV FVC + FBH)X X (1+TNK)X XE] + FGC

Còn gi á bán là giá á niêm yết trên thị trư ường hàng n ngày, là điể ểm gặp nha au của

ức cung và mức cầu. Đ Đối với nh ững loại sả ản phẩm kh hác, giá bán n trên thị tr rường mứ

phả ải luôn cao hơn hoặc b bằng với gi á thành làm m ra sản phẩ ẩm. Tuy nh hiên, ở thị tr rường

Việ ệt Nam khô ông phải lú vàng trên th hị trường cũ ũng thể hiện n đúng như ư trên. c nào giá v

Th eo ghi nhận n thực tế th hì giá vàng b biến động c có lúc theo khung giá trên nhưng g cũng

lúc thấp hơ ơn khung gi iá trên. Giá á niêm yết t trên thị trườ ờng chỉ phụ ụ thuộc một t phần có

o giá thành là giá cả th hế giới, phầ ần còn lại d do mãi lực t trong nước , do nhu cầ ầu của vào

ngư ười sử dụn g,…. Vì vậ ậy, việc dự ự đoán giá v vàng là mộ ột điều khó ó thực hiện ở thị

trư ường Việt N Nam.

1.1 1.2.2 Các nh hân tố ảnh h hưởng đến n giá vàng

- Nguồn cun ng

ểu đồ 1.1 : g vàng thế g giới từ năm m 1973 đến n 2012 Biể Tổng cung

(Nguồn web ( bsite www. .cpmgroup. com )

ất mỏ. • Sản xuấ

Vàng đ được sản x xuất từ các mỏ trên k khắp các ch hâu lục ngo oại trừ châu u Đại

ương, nơi m mà hoạt độn ng khai thác c mỏ bị cấm m. Các hoạt t động khai thác này d diễn ra Dư

từ q quy mô rất nhỏ đến rất t lớn. Theo số liệu đượ ợc công bố ó khoảng 40 00 mỏ gần đây, có

vàn ng trên thế giới. Ngày y nay sản lư ượng khai k khoáng mỏ của toàn c cầu tương đ đối ổn

địn nh, trung bìn nh khoảng 2.225 tấn m mỗi năm nế g quãng thờ ời gian 5 nă ăm trở u tính trong

10

lại đây. Những mỏ mới đang trong quá trình triển khai mục đích là để giúp đảm bảo

sản lượng hiện tại thay vì mở rộng phạm vi khai thác.

Để đưa một mỏ mới vào sản xuất ước tính mất một quãng thời gian tương đối

dài- lên tới 10 năm, điều này có nghĩa rằng sản lượng khai khoáng được tương đối ít

dao động và do đó khó có thể phản ứng nhanh chóng để có thể có ảnh hương lớn đến

được một thay đổi nào đó trong dự đoán về giá cả.

• Vàng tái chế

Dù sản lượng của các mỏ vàng tương đối ít dao động, vàng tái chế giúp đảm

bảo nguồn cung thương mại khá dễ dàng khi cần thiết. Chính điều này góp phần ổn

định giá vàng. Giá trị của vàng còn có ý nghĩa về mặt kinh tế vì có thể được khôi

phục lại từ những hình thức sử dụng khác bằng việc nung chảy, tinh chế và tái chế.

Trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2007, vàng tái chế chiếm khoảng 26 %

nguồn cung hàng năm của thế giới.

• Ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương và các tổ chức đa quốc gia như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế hiện tại

cất giữ khoảng 1/5 tổng lượng vàng dự trữ toàn cầu làm tài sản dự trữ (ước tính số

lượng khoảng 29.000 tấn được cất trữ ở 110 tổ chức). Tính trung bình, vàng chiếm

khoảng 10 % tài sản dự trữ của các chính phủ, cho dù tỷ lệ này có khác nhau giữa

các nước.

Mặc dù một số các ngân hàng trung ương đã tăng lượng dự trữ vàng trong những

thập niên gần đây, khu vực bán buôn mới chính là những đối tượng bán vàng thực

tính từ năm 1989 trở lại đây, và đã góp phần đưa 520 tấn vàng vào nguồn cung hàng

năm tính từ năm 2007. Từ năm 1999, Doanh số này được điều hành bởi hiệp hội điều

phối vàng thuộc ngân hàng trung ương-CBGA là tổ chức giúp ổn định số lượng bán

ra từ 15 nhà nắm giữ khối lượng vàng lớn nhất thế giới. Doanh số thực tế bán ra của

ngân hàng trung ương ước chỉ đạt 500 tấn vào năm 2007.

- Nguồn cầu

• Mức cầu của khu vực kim hoàn

Đây là lĩnh vực tiêu thụ chủ yếu của thị trường vàng, chiếm từ 50% đến 75%

sản lượng khai thác hầm mỏ hàng năm. Tùy vào phong tục tập quán của từng dân

tộc, từng quốc gia mà việc mua sắm nữ trang ở mỗi nước có ý nghĩa khác nhau. Ở

11

Ch hâu Âu, vật trang sức n nói lên vị t trí xã hội, n những bậc vua chúa, h hoàng thân n quốc

thíc ch thường đ đeo những t trang sức cầ ầu kỳ và đắ ắc tiền. tran ng sức ở Ch âu Âu thườ ờng có

hàm m lượng và àng thấp, ch hủ yếu là m mẫu mã mớ ới, đẹp, độc vi. Ngược l lại, tại đáo, tinh v

Ch hâu Á vàng làm trang sức phải vừ ừa mang tín nh thẩm mỹ ỹ vừa là tà i sản tích lũ ũy, vì

vậy y trang sức ày thường c ó hàm lượn ng vàng cao o. khu vực nà

.2 : Tổng n nhu cầu vàn ng từ năm 1977 đến n năm 2012 Biểu đồ 1.

(Ng guồn websit te www.cpm mgroup.com m)

cầu của các c ngành côn ng nghiệp c có sử dụng vàng • Mức c

Vàng đ được sử dụn ng rộng rãi trong các n ngành công nghệ cao, đ đặc biệt là c các vi

ạch, chế tạo o các linh k ị điện tử, d dụng cụ qua ang học, hàn ng không v vũ trụ, mạ iện, thiết bị

nha a khoa… T Tổng mức t tiêu thụ vàn ng cho ngả ảnh công ng ghiệp hiện nay vào kh hoảng

200 0 đến 300 t tấn/năm. R Riêng Mỹ và à Nhật tiêu u thụ 70% n nguyên liệu u vàng dùn ng cho

ngà ành điện tử khoảng 70 đến 90 tấn /năm.

cầu dự trữ c của các ngâ ân hàng qu uốc gia. • Mức c

Tùy và ào tình hình h chính trị- xã hội, chín nh sách tài chính của m mỗi quốc g gia mà

ệc dự trữ vàng được guồn dự trữ ữ chính của a quốc gia. Nhà nước vi xem là ng sẽ sử

ụng vàng tro ong việc điề ều chỉnh ch hính sách tiề ền tệ của qu uốc gia. dụ

cầu về đầu t tư và đầu c cơ. • Mức c

Để đáp p ứng nhu cầu tích t trữ, thuận l lợi trong g giao dịch m mua bán trê ên thị

ường, vàng đ được đúc th hành thỏi, n nén,…Việc mua bán, t tích trữ loạ ại vàng này trư trong

nhữ ững điều ki iện nhất địn nh đã gây n nên những đợt biến độ ộng giá vàn ng tách xa g giá trị

12

thực của nó. Hiện nay, trung tâm tích trữ vàng lớn nhất thuộc về khu vực Trung và

Viễn đông nơi vàng được xem là phương tiện đầu tư và đầu cơ rất thuận lợi. Bởi vì

tình hình chính trị ở khu vực này luôn sôi động nên không phát triển được các hình

thức chứng khoán, tín dụng, dân chúng có truyền thống tích trữ vàng. Mức cầu vàng

tại đây còn phụ thuộc rất lớn nguồn thu nhập quan trọng là dầu hỏa.

- Ảnh hưởng của giá dầu

Khu vực Trung đông có nguồn tài nguyên rất quý giá là dầu. Đây cũng là

nguyên nhân khiến cho khu vực này luôn chìm trong chiến tranh, xung đột và vàng

đã có một vị trí quan trọng tại khu vực này. Vì giá dầu được tính bằng USD nên bất

kỳ sự dao động nào trong giá dầu sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá USD và kéo theo sự tăng

giảm giá vàng. Nghĩa là giá vàng không bị ảnh hưởng trực tiếp từ giá dầu hỏa mà

cùng với giá dầu chịu ảnh hưởng của các biến cố chính trị- xã hội khác.

- Yếu tố lạm phát

Lạm phát cũng là một yếu tố không nhỏ ảnh hưởng tới giá vàng. Nếu lạm phát

thấp dưới một con số thì sẽ thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng trong xã hội, ngược lại khi

lạm phát quá cao thì nó lại là một nhân tố kiềm hãm tiêu dùng, khiến giá cả hàng hóa

tăng cao và giảm sức mạnh của đồng tiền. Có rất nhiều lý do là nguyên nhân của lạm

phát, có thể kể đến những bất ổn trong chính sách điều hành chính sách tiền tệ nếu

nới lỏng quá mức hay đầu tư không hiệu quả hoặc giá cả hàng hóa tăng cao khiến chi

phí sản xuất bị đẩy lên mà mức thu nhập không theo kịp.

Lo lắng tình trạng lạm phát sẽ gây đột biến về giá cả hàng hóa. Đồng thời,

những biện pháp giải quyết sẽ ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền khiến các nhà đầu tư

sẽ tìm đến vàng để bảo toàn tài sản, từ đó khiến giá vàng biến động tăng.

- Các tác động khác

• Chính trị

Chiến tranh gây nên những tổn thất không lường và lịch sử đã có thời kỳ

chứng kiến Mỹ phải phá giá đồng tiền và vô hiệu hóa thỏa thuận Bretton Woods để

giải quyết hậu quả chiến tranh tại Việt Nam, giá vàng khi đó đạt mức lịch sử

875USD/ounce ngày 21/01/1981. Chính vì vậy, những xung đột gần đây giữa Mỹ và

các quốc gia khác cũng luôn là mối lưu tâm. Tình hình chiến sự làm cho tình hình

chính trị thế giới nóng lên từng ngày. Giá vàng cũng sẽ bị ảnh hưởng khi những xung

đột đó đem đến chiến tranh và nguy cơ khó khăn cho nền kinh tế toàn cầu.

13

• Đầu cơ

Vàng là một hàng hóa đặc biệt có thể thực hiện đầy đủ chức năng của tiền tệ

và là loại hàng hóa bảo toàn tài sản tốt nhất, thế nên các quỹ đầu tư và cả cá nhân

xem vàng là một tài sản phải duy trì trong danh mục đầu tư nhất là trong trường hợp

kinh tế thế giới đang trên đà giảm và lạm phát tràn lan. Những động thái liên quan

đến các quỹ đầu tư trong thời gian gần đây cho thấy điều đó. Ngày 03/09/2008, khi

USD tăng mạnh lên và khu vực đồng EUR giảm tăng trưởng khiến USD lên giá so

với EUR thì quỹ đầu tư SPDG Gold Share- Quỹ tín thác đầu tư vàng số 1 thế giới

bán ra 9,19 tấn vàng. Chính điều này đã làm tâm lý bán của các nhà đầu tư và quỹ

khác tăng lên khiến xu hướng giảm giá kéo vàng xuống mức 737 USD/ounce ngày

11/09/2008. Nhưng tuần lễ từ 17/09/2008 đến 24/09/2008, quỹ này đã mua vào gần

100 tấn vàng do biến động tình hình tài chính tại Mỹ đã khiến cho giá vàng trong

một đêm tăng lên đến 120USD/ounce. Những quỹ đầu tư này hoạt động vì mục đích

lợi nhuận có thể tác động mạnh mẽ làm cho không những giá vàng mà kể cả giá cả

các loại hàng hóa khác biến động. Đã có thời điểm tháng 05/2008, các quỹ này bị các

tổ chức chính phủ cảnh cáo kiểm tra nếu có các hành vi lũng đoạn thị trường.

• Thời tiết, thiên tai, chu kỳ lễ hội, khủng bố.

Các nhân tố ảnh hưởng như thời tiết, thiên tai, chu kỳ lễ hội, khủng bố tuy

không phải là cơ bản và lâu dài nhưng cũng góp phần gây ảnh hưởng đột biến khiến

giá vàng biến động. Chu kỳ lễ hội và phong tục tập quán mua vàng làm tài sản hồi

môn trong đám cưới tại Ấn Độ khiến giá vàng tăng theo chu kỳ này.

1.2 Tổng quan về lạm phát

1.2.1 Khái niệm về lạm phát

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung

của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm

sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá

giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường, người ta

hiểu theo nghĩa đầu tiên là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của

một quốc gia, còn hiểu theo nghĩa thứ hai là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm

vi thị trường toàn cầu.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng sự tăng lên của giá cả chính là một trong những biểu

hiện cơ bản của lạm phát. Việc xem xét lạm phát tập trung vào nghiên cứu những

14

biểu hiện của lạm phát, thể hiện qua việc gia tăng của mức giá chung với tốc độ cao

và kéo dài. Để đo lường mức giá chung trong nền kinh tế, thường dùng khái niệm chỉ

số giá. Chỉ số giá bao gồm một số loại như chỉ số giá bán lẻ - CPI - Consumer Price

Index, chỉ số giá bán buôn - WPI - Wholesale price index, Chỉ số giá sản xuất - PPI -

Producer Price Index,... song thông thường thì dùng chỉ số giá bán lẻ để đo lường

mức độ lạm phát.

Nếu nền kinh tế năm nay có lạm phát 10%/năm tức là mức giá chung trong

nền kinh tế tăng lên 10% so với năm trước đó. Điều đó không có nghĩa là giá cả của

tất cả các hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ 10%, mà những hàng hóa khác nhau

sẽ có những tỷ lệ tăng khác nhau và thậm chí có những mặt hàng giá giảm hoặc giá

không đổi.

Về bản chất, lạm phát là do khối lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá khối

lượng hàng hóa và dịch vụ cung ứng, dẫn đến sự tăng giá đồng loạt, liên tục và ở

mức đáng kể. Từ đó, thường lấy chỉ số giá tăng để nói lên mức độ lạm phát. Lạm

phát thường đi kèm với tăng trưởng kinh tế, tăng số lượng công ăn việc làm. Bản

chất lạm phát không xấu, bởi lạm phát ở mức kiểm soát được sẽ kích thích đầu tư,

xuất khẩu và cải thiện công ăn việc làm. Song, lạm phát khi tăng quá mức đến 2 con

số trở lên và ngoài tầm kiểm soát sẽ gây tổn hại cho nền kinh tế và cuộc sống người

dân.

1.2.2 Phân loại lạm phát

Tùy theo tiêu thức phân loại lạm phát có các loại lạm phát khác nhau. Thông

thường việc phân loại lạm phát trên cơ sở định lượng và định tính.

- Về mặt định lượng: Phân loại lạm phát dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm phát được

tính trong năm. Theo đó, lạm phát được chia thành 3 loại: lạm phát vừa phải, lạm

phát phi mã và siêu lạm phát.

• Lạm phát vừa phải: Lạm phát vừa phải là lạm phát ở mức 1 con số nguyên

khi tỷ lệ tăng giá cả hàng hóa trong khoảng 10% trở lại. Ở mức độ lạm phát vừa phải,

giá cả tăng chậm, dao động xung quanh mức tăng tiền lương. Trong điều kiện như

thế, giá trị tiền tệ không biến động nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát

triển. Khi giá cả tăng vượt ra khỏi mức độ hợp lý trên, người ta nói lạm phát đang

bước vào giai đoạn tăng cao.

• Lạm phát phi mã: Lạm phát cao là lạm phát với tốc độ 2 con số, từ

15

20%/năm đến dưới 100%/năm. Khi lạm phát phi mã xảy ra, sản xuất bị đình trệ, nền

tài chính bị phá hoại. Nếu không có biện pháp thích hợp thì nền kinh tế sẽ dễ dàng

rơi vào tình trạng siêu lạm phát.

• Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát với tốc độ 3 con số trở lên, thậm chí

không thể đo lường lạm phát bằng số % mà bằng số lần tăng giá trong năm. Siêu lạm

phát thường xảy ra do các biến cố lớn như chiến tranh, khủng hoảng chính trị dẫn

đến đảo lộn trật tự xã hội. Khi những biến cố lớn xảy ra, sự thâm thụt ngân sách

khiến Chính phủ phải phát hành tiền giấy để bù đắp dẫn đến siêu lạm phát. Siêu lạm

phát có sức phá huỷ toàn bộ hoạt động kinh tế và nền kinh tế bị suy thoái nghiêm

trọng. Có thể ví siêu lạm phát như cơn sóng thần trong kinh tế.

- Về mặt định tính: lạm phát được chia thành nhiều loại khác nhau, tùy theo

tính chất của lạm phát mà chia ra các loại cơ bản sau:

• Lạm phát thuần túy: là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu như giá cả của

mọi hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian.

• Lạm phát cân bằng: là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với

mức thu nhập.

• Lạm phát được dự đoán trước: là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán

trước nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm.

• Lạm phát không được dự đoán trước: là lạm phát xảy ra bất ngờ, ngoài sự

tiên liệu của mọi người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động.

• Lạm phát cao và lạm phát thấp: lạm phát cao là mức lạm phát mà tỷ lệ tăng

thu nhập thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại, lạm phát thấp là mức tăng thu nhập cao

hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát.

Như vậy, có thể phân loại lạm phát theo nhiều mức độ khác nhau để có những

biện pháp kiểm soát thích hợp. Song, biện pháp phòng chống hay chữa trị cũng còn

phải căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát.

1.2.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát

Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát. Các nguyên nhân này có thể xuất phát

từ phía tổng cầu trong nền kinh tế, cũng có thể xuất phát từ phía tổng cung và cũng

có thể là nguyên nhân xuất hiện đồng thời ở cả phía cung lẫn phía cầu. Khi quan sát

thực tế, người ta nhận thấy, trong môi trường có lạm phát thì bản thân môi trường đó

16

cũng có thể có khả năng và là nguyên nhân thúc đẩy hoặc tiếp tục gây ra một chu

trình lạm phát mới, tức là tạo sự luẩn quẩn trong vòng xoáy lạm phát.

1.2.3.1. Lạm phát do chi phí đẩy

Trong hoàn cảnh sản xuất không tăng hoặc tăng ít trong khi chi phí tăng lên

có thể do chi phí sản xuất tăng vượt quá mức tăng của năng suất lao động thì sẽ sinh

ra lạm phát chi chí đẩy. Chi phí sản xuất tăng lên tạo áp lực đẩy giá bán sản phẩm

tăng lên hay làm giảm mức cung ứng hàng hoá của xã hội, như vậy lạm phát trong

trường hợp này là do các yếu tố sản suất và tiêu thụ hàng hoá gây ra. Chi phí tăng lên

có thể xuất phát từ những nguyên nhân:

Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động. Các doanh nghiệp

trong nền kinh tế thị trường thường phải chịu rất nhiều áp lực về vấn đề tiền lương.

Trong ngắn hạn, chi phí nhân công ổn định do bị hạn chế bởi hợp đồng lao động

song trong dài hạn do áp lực của công đoàn, do thuế thu nhập và các yếu tố khác làm

cho tiền lương nhân viên chịu sức ép nâng lên. Khi lương tăng, giá cả hàng hoá sẽ

tăng. Quy trình này tác động bởi yếu tố hành chính, có nghĩa khi giá cả tăng lên, các

doanh nghiệp phải tăng giá bán để đảm bảo lợi nhuận. Khi giá cả hàng hoá nói chung

và tiêu dùng nói riêng tăng lên thì người lao động tìm mọi cách để tăng lương. Khi

lương tăng, giá cả lại tăng. Đến lượt mình, các doanh nghiệp lại tăng giá bán để đảm

bảo lợi nhuận. Nhà kinh tế học Adam Smith gọi sự vận hành của cơ chế này là đường

xoáy trôn ốc.

Giá nhập khẩu tăng lên tác động trực tiếp tới giá cả trong nước, nếu là hàng tiêu dùng

trực tiếp, hoặc tác động gián tiếp thông qua việc làm tăng chi phí sản xuất, nếu là đầu

vào của quá trình sản xuất. Giá hàng nhập khẩu tăng lên có thể do lạm phát của nước

ngoài cao làm cho giá nguyên liệu ở nước xuất khẩu tăng, hay do đồng nội tệ bị mất

giá so với đồng tiền của những nước có quan hệ mậu dịch.

- Do thuế suất tăng lên làm ảnh hưởng tới mức sinh lời của các nhà đầu tư

nên đẩy giá cả tăng lên. Để duy trì mức sinh lời mong muốn, hoặc các doanh nghiệp

tăng tỷ lệ lợi nhuận bằng biện pháp tăng giá bán hàng hoá sẽ làm cho giá cả tăng,

việc tăng giá trong trường hợp này mang tính chất hành chính tích cực nhằm duy trì

lợi nhuận ở mức mong muốn. Việc này thường xảy ra trong điều kiện độc quyền.

Một số nước gọi là lạm phát hành chính.

1.2.3.2. Lạm phát do cầu kéo

17

Lạm phát cầu kéo hay lạm phát nhu cầu là lạm phát xảy ra do tổng cầu tăng

vượt quá mức cung hàng hóa của xã hội, dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Tổng cầu

trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình-C, chi tiêu của Chính phủ-G, đầu

tư trong nến kinh tế-I, nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu-X, lượng hàng hóa nhập

khẩu-M. Nếu gọi tổng cầu là AD thì AD = C + G + I +X – M (dấu âm trong biểu

thức là do hàng hóa nhập khẩu làm phong phú thêm hàng hóa trong nước và làm

giảm căng thẳng cho tổng cầu). Tổng cầu tăng có thể do một hoặc một số yếu tố của

biểu thức tăng lên:

Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, các khoản đầu tư

làm cho tổng cầu tăng.

Thâm hụt ngân sách kéo dài và được đài thọ bằng cách vay mượn ở trong

nước, ngoài nước hoặc NHTƯ.

Các hộ gia đình tăng chi tiêu do mức thu thập tăng hoặc được Chính phủ giảm

thuế, tăng trợ cấp.

Tâm lý thích tiêu dùng hay tiết kiệm của dân chúng đưa đến sự gia tăng tốc độ

lưu thông tiền tệ. Nếu dân chúng có khuynh hướng thích tiêu dùng, tốc độ lưu thông

tiền tệ gia tăng.

Đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên do dự đoán về triển vọng phát triển kinh

tế trong nước và cả ngoài nước hay do lãi suất giảm.

CSTT mở rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, người dân dễ tiếp cận

nguồn vốn, có thể vay dễ dàng hơn, vay nhiều hơn dẫn đến nhu cầu chi tiêu nhiều

hơn.

Các yếu tố liên quan đến nhu cầu nước ngoài như tỷ giá hối đoái, mức thu

nhập của cư dân nước ngoài, làm gia tăng nhu cầu hàng hóa xuất khẩu kéo theo tổng

cầu gia tăng.

Như vậy, khi tổng cầu tăng thì sẽ gây áp lực tăng giá và xảy ra tình trạng lạm

phát trong ngắn hạn. Song, nếu nền kinh tế chưa đạt được mức sản lượng tiềm năng

thì việc tăng tổng cầu trong trường hợp này trở thành một chính sách lạm phát có

hiệu quả để thúc đẩy sản xuất xã hội làm cho kinh tế tăng trưởng, từ đó tổng cung sẽ

tăng, sản lượng của nền kinh tế tăng lên.

1.2.3.3. Lạm phát tiền tệ

Cung tiền tăng khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân

18

gây ra lạm phát. Nghiên cứu học thuyết khối lượng tiền tệ của Fisher, sẽ thấy rõ hơn

bản chất của vấn đề. Đối với công thức khối lượng tiền tệ: MV = PY, trong đó M:

cung tiền tệ, V: tốc độ vòng quay, P: mức giá cả, Y: tổng sản phẩm (không đổi trong

ngắn hạn), PY tương đương GNP danh nghiã. Học thuyết này cho rằng khi tăng

lượng tiền cung ứng thì mức giá cả cũng tăng theo tương ứng vì V và Y gần như

không đổi trong ngắn hạn. Nội dung học thuyết tập trung luận giải những yếu tố hình

thành giá cả có liên quan trực tiếp đến: (i) quá trình hình thành và phát triển thị

trường tiêu dùng; (ii) cung hàng hoá và dịch vụ; (iii) mối tương quan giữa cung và

cầu hàng hoá; (iiii) giá cả sản xuất. Tất cả các yếu tố hình thành giá cả được xem xét

như là nguyên nhân tăng giá. Có thể nhận thấy rằng giá cả năng lượng, nguyên

liệu…có tác động đến lạm phát. Song sự tác động này phải nằm trong mối liên hệ

của 4 yếu tố nêu trên.

1.2.3.4. Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế

Là lạm phát xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối cơ

bản của nền kinh tế như Công nghiệp - Nông nghiệp, Công nghiệp nặng - Công

nghiệp nhẹ, Sản xuất - Dịch vụ, Xuất khẩu - Nhập khẩu, Tích lũy - Tiêu dùng... Các

quan hệ nói trên không được đặt trong một hoàn cảnh kinh tế cụ thể để có định

hướng cân đối một cách hợp lý sẽ lập tức gây ra hiện tượng đông cứng một bộ phận

nguồn lực kinh tế, giữa chúng không chuyển hóa được cho nhau tạo ra một trạng thái

vừa thừa vừa thiếu các năng lực sản xuất giả tạo. Vì vậy, có thể gọi nhóm nguyên

nhân gây ra loại lạm phát này là sự ách tắc các nguồn vốn. Các lợi thế so sánh giữa

các vùng trong nội bộ nền kinh tế và lợi thế so sánh giữa các quốc gia không được

khai thác làm cho sức phát triển bị đóng băng hóa.

1.2.4. Đo lường lạm phát

1.2.4.1.Đo lường lạm phát trên thế giới

Ở Mỹ, FED chọn chỉ số trượt giá tổng tiêu dùng cá nhân làm cơ sở cho các

quyết định về chính sách tiền tệ. Chỉ số này rộng hơn CPI và không bị ảnh hưởng bởi

sự thay đổi thói quen tiêu dùng trong dân chúng nên là thước đo rất tốt cho tình trạng

lạm phát hiện thời.

Với các nước khác, NHTƯ thường sử dụng CPI đã được hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ vì

không có được số liệu của chỉ số trượt giá tổng tiêu dùng cá nhân tốt như Mỹ.

Đáng lưu ý hơn cả là FED và một số NHTƯ của Úc, New Zealand, Nhật đã

19

loại bỏ một số loại hàng hóa có độ biến thiên lớn như lương thực, năng lượng, lãi

suất mua nhà ra khỏi rổ hàng hóa tính chỉ số lạm phát cơ bản. Các ngân hàng này cho

rằng những thành phần nói trên dù có biên độ dao động lớn nhưng về lâu dài không

làm ảnh hưởng đến xu hướng chung của lạm phát, nên không ảnh hưởng đến kỳ vọng

lạm phát. Hơn nữa, sự biến động của các nhóm hàng này thường nằm ngoài khả năng

kiểm soát và tầm ảnh hưởng của NHTƯ nên cũng không thể can thiệp.

Ảnh hưởng của việc loại bỏ các yếu tố có độ biến thiên lớn ra khỏi rổ hàng hóa tính

CPI rất quan trọng cho Việt Nam. Hiện tại, nhóm hàng hóa lương thực thực phẩm đã

chiếm khoảng 42,85% và giá cả của mặt hàng lương thực thực phẩm của Việt nam có

độ biến thiên cao hơn so với nhiều nước.

1.2.4.2. Đo lường lạm phát tại Việt Nam

Ở Việt Nam, lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát, là suất tăng của

mức giá tổng quát theo thời gian. Thước đo phản ánh mức giá tổng quát phổ biến

nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). CPI là một tỷ số phản ánh của rổ hàng hóa trong

nhiều năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hóa đó trong năm gốc. Chỉ số giá

này phụ thuộc vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rổ hàng hóa tiêu dùng.

Trên cơ sở xác định CPI bình quân, tỷ lệ lạm phát phản ánh sự thay đổi mức giá bình

quân của giai đoạn này so với giai đoạn trước.

Tỷ lệ lạm phát= (Mức giá hiện tại – Mức giá năm trước) x 100%

Mức giá năm trước

Nhược điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử dụng trọng

số cố định trong tính toán. Mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn đối với

một số hàng hóa tiêu dùng và trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu đối với một

số hàng hóa cơ bản của người dân thành thị mua vào năm gốc. Nhược điểm thứ hai

của chỉ số này là không phản ánh sự biến đổi trong cơ cấu hàng hóa tiêu dùng cũng

như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho những hàng hóa khác

nhau theo thời gian.

1.2.5. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế

Lạm phát có thể tác động tích cực lẫn tiêu cực đối với tốc độ tăng trưởng kinh

tế thông qua nhiều kênh khác nhau với mức độ ảnh hưởng tổng thể khác nhau, phụ

thuộc đáng kể vào cơ cấu thể chế cả nhà nước và tư nhân của nền kinh tế, phụ thuộc

vào khả năng thích nghi với mức lạm phát hiện hành và khả năng dự báo lạm phát.

20

1.2.5.1. Tác động tích cực của lạm phát

Lạm phát vừa phải được xem là giúp tăng trưởng kinh tế thông qua việc

khuyến khích huy động vốn và tăng tính linh hoạt giá cả. Tỷ lệ lạm phát thấp có thể

giúp bôi trơn thị trường hàng hoá, lao động và tăng tính linh hoạt tương đối đối với

giá cả. Nếu giá cả kể cả tiền lương và giá cả của các nhân tố khác giảm xuống với

tính linh hoạt thấp và nếu các ngành sản xuất khác nhau có mức cầu và năng suất

tăng không đồng đều thì giá cả tăng nhẹ có thể tạo ra một mức độ linh hoạt giá cả

tương đối lớn cần thiết cho việc phân bổ hiệu qủa các nguồn lực. Tỷ lệ lạm phát thấp

và ổn định sẽ tạo ra một trong những động lực mạnh nhất để giúp đạt được mức tăng

trưởng ổn định.

1.2.5.2. Tác động tiêu cực của lạm phát

Lạm phát xảy ra ngoài dự tính sẽ tạo nên biến động bất thường về giá trị tiền

tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi hoạt động

kinh tế xã hội. Có thể kể ra một số hậu quả của lạm phát như sau:

• Lạm phát kìm hãm tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời

sống kinh tế xã hội.

Lạm phát làm cho thu nhập thực của người lao động bị giảm sút, có thể kéo

theo các cuộc đình công đòi tăng lương với qui mô lớn, dài ngày làm ngừng trệ sự

tăng trưởng kinh tế.

Lạm phát còn làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên bởi tỷ lệ lạm phát dự tính

tăng lên (lãi suất thực = lãi suất danh nghiã - tỷ lệ lạm phát), nếu lạm phát dự tính

không phù hợp với lạm phát thực tế, nó sẽ làm ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Kết

quả là ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến mức tăng trưởng kinh

tế.

Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, do lạm phát, giá cả vật tư hàng hoá,

nguyên liệu tăng nên khu vực sản xuất kinh doanh mỗi ngày một thu hẹp, ngược lại

dịch vụ, thương mại lại phát triển (buôn bán có lợi hơn) dẫn đến khủng hoảng kinh tế

và trật tự kinh tế bị rối loạn.

Trong lĩnh vực đầu tư, sự biến động bất thường của lạm phát gây khó khăn

cho việc xác định mức sinh lợi chính xác của các khoản đầu tư, khiến cho các nhà

đầu tư ngần ngại khi tiến hành đầu tư, nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn, làm ảnh

hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.

21

Trong lĩnh vực lưu thông phân phối, giá cả hàng hoá tăng đã gây nên tình

trạng đầu cơ tích trữ hàng hoá vì thế làm mất cân đối giả tạo quan hệ cung cầu làm

cho lĩnh vực lưu thông bị rối loạn.

• Lạm phát làm cho đời sống người dân gặp khó khăn hơn.

Khi lạm phát tăng lên, tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên, giá cả hàng hoá tăng, trong

khi thu nhập không tăng, hoặc tăng chậm (đặc biệt là những người làm công ăn

lương) ngày càng gặp khó khăn.

• Lạm phát làm rối loạn hệ thống tiền tệ.

Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, lạm phát làm cho sức mua đồng tiền giảm, lưu thông

tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của tiền tệ tăng lên một cách đột biến

càng làm cho sức mua của đồng tiền giảm xuống nhanh chóng hơn. Hoạt động của

hệ thống tín dụng ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng, do nguồn tiền gửi trong

xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh

toán và thua lỗ trong kinh doanh. Tình hình đó làm cho hệ thống tiền tệ bị rối loạn và

không thể kiểm soát nổi.

• Lạm phát làm xấu đi tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế

Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước ngoài (có quan hệ mậu

dịch) thì giá cả hàng hoá trong nước trở nên mắc hơn so với giá cả hàng hoá nước

ngoài, do đó làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu, làm xấu đi tình trạng tài khoản

vãng lai. Tỷ lệ lạm phát cao cùng với bội chi tài khoản vãng lai có thể tạo nên tâm lý

trông đợi một sự giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ gây áp lực tăng tỷ giá, từ

đó càng đẩy mức giá cả chung tăng lên.

• Lạm phát làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp

Mức giá chung tăng lên có thể gây nên sự giảm sút của tổng cầu và công ăn việc làm,

do đó gia tăng tỷ lệ thất nghiệp (vì khu vực sản xuất sẽ bị thu hẹp).

Như vậy, có thể thấy ngoại trừ trường hợp lạm phát vừa phải còn có tác động tích

cực đến nền kinh tế, các loại lạm phát còn lại đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình

phát triển của nền kinh tế xã hội. Vì vậy, việc tìm ra giải pháp thích hợp để kiềm chế

lạm phát là một vấn đề cần thiết.

1.2.6 Kiềm chế lạm phát

Để kiềm chế lạm phát tốt, trước hết cần tìm hiểu nguyên nhân các mối tương

tác giữa các chỉnh thể cấu thành trong nền kinh tế, tiên liệu được tình hình kinh tế có

22

thể xảy ra. Từ đó, xây dựng các hệ thống giải pháp đồng bộ, phối hợp nhịp nhàng với

nhau nhằm can thiệp kịp thời. Các giải pháp đó trước hết cần hiểu tường tận, thấu

đáo và sử dụng thành thạo các công cụ của chính sách vĩ mô; tăng cường công cuộc

cải tổ hệ thống kinh tế theo hướng rõ ràng, minh bạch nhằm tạo môi trường thông

thoáng, có thể giám sát kiểm tra dễ dàng; xây dựng hệ thống các chỉ số kinh tế vĩ mô

một cách chi tiết để làm căn cứ đưa ra báo động khác nhau và là cơ sở quyết định các

chính sách vĩ mô nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng.

- Nhóm giải pháp tác động vào tổng cung

• Giải pháp hạn chế sự gia tăng của chi phí: Giải pháp cơ bản là tác động vào

mối quan hệ giữa mức tăng tiền lương và mức tăng năng suất lao động xã hội. Nếu

thành công, giải pháp này sẽ hạn chế những đòi hỏi tăng tiền lương bất hợp lý dẫn

đến vòng luẩn quẩn lương - tiền - giá. Đi kèm với cơ chế tiền lương, các nước tiến

hành chính sách kiểm soát giá cả nhằm hạn chế sự biến động của tiền lương thực tế,

tránh rơi vào vòng xoáy lạm phát lương - giá - tiền.

• Giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hóa: nhằm chặn đứng

nhanh chóng và hiệu quả cơn sốt giá cả vì khan hiếm hàng hoá, các nước thường cho

nhập khẩu các mặt hàng đang thiếu và lên giá.

- Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu

Chính phủ các nước có lạm phát thường tìm cách ngăn chặn các nguyên nhân

dẫn đến gia tăng khối tiền, đồng thời tăng thu cho ngân sách nhằm rút ngắn cách biệt

giữa thu và chi (giảm bội chi), dần dần tiến đến cân bằng thu chi ngân sách.

- Nhóm giải pháp tác động vào chính sách tiền tệ

NHTƯ các nước thông qua việc quản lý và sử dụng các công cụ của CSTT để

tác động trực tiếp làm giảm khối tiền trong lưu thông, tức là thực hiện một CSTT thắt

chặt- vừa rút bớt tiền từ lưu thông vừa hạn chế cung ứng tiền ra lưu thông.

- Nhóm giải pháp tác động vào cơ cấu kinh tế

Chính phủ các nước chú trọng hơn nữa tính cân đối của các mối quan hệ Công

nghiệp - Nông nghiệp, Công nghiệp nặng - Công nghiệp nhẹ, Sản xuất - Dịch vụ,

Xuất khẩu - Nhập khẩu, Tích lũy - Tiêu dùng... trong nền kinh tế gắn liền với quá

trình phân công lao động xã hội - là quá trình chuyển dịch lao động giữa các ngành.

Đồng thời, nâng cao năng suất lao động, áp dụng các phương pháp sản xuất, công

nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Hình thành

23

các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu của thị

trường, gắn liền với phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia

cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung,

tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương cần đặt mình

trong một thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường

quốc tế, trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát

triển, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả.

1.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát trong nền kinh tế

1.3.1 Giá vàng tác động đến lạm phát

Giá vàng ảnh hưởng đến các quốc gia xuất nhập khẩu chúng, dẫn đến gián

tiếp ảnh hưởng đến lạm phát. Giá trị tiền tệ của một quốc gia gắn chặt với giá trị xuất

nhập khẩu của nước đó. Khi một quốc gia nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, giá trị

đồng tiền của nước này sẽ suy giảm. Ngược lại, giá trị tiền tệ sẽ tăng lên khi quốc gia

này là một nước xuất khẩu ròng. Như vậy, đồng tiền của một quốc gia xuất khẩu

vàng hoặc có thể tiếp cận với những nguồn dự trữ vàng sẽ tăng giá trị khi giá vàng

tăng, vì điều này làm đồng tiền nước này mạnh lên.

Ngược lại, các nước nhập khẩu vàng nhiều chắc chắn sẽ làm đồng tiền của

nước mình yếu đi khi giá vàng tăng. Hay nói cách khác đồng tiền bị mất giá khi giá

vàng tăng.

Việc mua vàng có thể làm giảm giá trị đồng tiền dùng để mua nó. Khi các

ngân hàng Trung ương mua vàng sẽ tác động đến cung, cầu tiền nội địa và có thể dẫn

đến lạm phát. Điều này phần lớn là vì các ngân hàng phụ thuộc vào việc in thêm tiền

để mua vàng, và do đó tạo ra một nguồn cung dư thừa đồng tiền định danh. Khi giá

vàng tăng mạnh, niềm tin vào giá trị đồng tiền trở nên mỏng manh. Người dân có thể

rút tiền từ các kênh đầu tư khác để đầu tư vào vàng . Nếu tiền mua vàng sau đó nằm

trong lưu thông mà không quay lại nhà băng thì sẽ gây ra lạm phát.

Một số chỉ số hàng đầu được theo dõi bởi các ngân hàng trung ương và các cơ

quan khác trong nền kinh tế để dự báo tỷ lệ lạm phát. Giá các tài sản tài chính cũng

được tìm thấy hữu ích đối với thuộc tính chỉ báo hàng đầu của lạm phát vì tỷ suất

sinh lợi của chúng đã tính đến lạm phát kỳ vọng, nhưng sức mạnh dự đoán của các

tài sản tài chính chỉ được tìm thấy trong một số giai đoạn và đối với một số nước

nhất định. Trong số tài sản tài chính đó, có thể kế đến giá vàng. Trong thực tế, vàng

24

thường được phân tích với vai trò là hàng hoá, nhưng không giống các hàng hóa

thông thường khác, vàng có sự khác biệt lịch sử, vàng đã và đang được sử dụng để

bảo tồn giá trị và là nơi trú ẩn để chống lại lạm phát. Nếu xem vàng là một loại tài

sản tài chính, vàng có thể được kỳ vọng để xác định là nhân tố dự báo hàng đầu cho

lạm phát.

Vàng là một tài sản đặc biệt, vì vàng vừa là một loại hàng hóa, ví dụ trong việc

sản xuất đồ trang sức và các thiết bị công nghiệp, vừa là tài sản tài chính, nơi nó có

thể được sử dụng như để bảo tồn giá trị. Vàng không có đối thủ trong việc làm tài

sản để bảo tồn giá trị sau cùng, vì có một lợi thế tâm lý hơn các tài sản khác xuất

phát từ việc sử dụng cho mục đích này bao trùm nhiều thế kỷ qua. Sự chuyển động

trong giá vàng, với một mức độ nào đó, có thể dự báo được mức độ lạm phát trong

tương lai. Về lý thuyết, sự gia tăng kỳ vọng lạm phát làm giảm sức mua của đồng

tiền, do đó, sẽ có tâm lý tìm đến vàng để bảo tồn giá trị. Điều này sẽ làm tăng nhu

cầu vàng, khiến giá vàng tăng cao, do đó, giá vàng càng cao là tín hiệu cho thấy tỷ lệ

lạm phát cao hơn trong tương lai. Lưu ý rằng, đối với bất kỳ quốc gia nào, tỷ lệ lạm

phát được tính bằng cách sử dụng giá trị đồng nội tệ. Vì là một nơi trú ẩn chống lại

lạm phát, các nhà đầu tư phải xem xét tỉ lệ lợi nhuận từ vàng thể hiện bằng đơn vị

đồng nội tệ. Bởi vì giá vàng được xác định tại các thị trường thế giới và được định

giá bằng USD, nên giá vàng trước hết phải được nhân bởi tỷ giá hối đoái hiện hành

trước khi tính toán tỷ suất sinh lợi của nó.

1.3.2 Lạm phát tác động đến giá vàng

Thị trường vàng đã có sự tăng giá khá vững chắc trong suốt thời gian qua.

Điển hình trong suốt giai đoạn 2000 – 2012 mức tăng giá của vàng trung bình hàng

năm khoảng 38%. Khi mức giá chung hay lạm phát tăng, giá vàng cũng tăng do vàng

cũng là một loại hàng hoá.

Các nhà đầu tư thường mua vàng với số lượng lớn khi đất nước đối mặt với

lạm phát cao. Nhu cầu vàng tăng cao trong suốt thời kỳ lạm phát vì giá trị vốn có

cũng như nguồn cung hạn chế. Vàng có thể giữ giá trị tốt hơn nhiều so với các hình

thức tiền tệ khác vì không bị mất giá. Ví dụ như vào tháng 4 năm 2011, các nhà đầu

tư lo sợ sự giảm giá trị của tiền tệ định danh và giá vàng đã tăng lên mốc đáng kinh

ngạc 1.500 USD/ounce. Điều này cho thấy có rất ít niềm tin vào các loại tiền tệ trên

thị trường thế giới.

25

Như vậy, trong một vài trường hợp, nếu tốc độ lạm phát tăng cao, người dân

lo sợ đồng tiền bị mất giá. Do đó, để báo toàn giá trị tài sản, người dân sẽ đầu tư vào

vàng. Đây được xem là một phương thức dự trữ tài sản hiệu quả nhất. Lúc này, cầu

về vàng sẽ phát sinh ở cả cộng đồng, đẩy mức cầu vàng tăng cao, khiến giá vàng leo

thang.

Sự thay đổi trong lạm phát kỳ vọng cũng có tác động đến giá vàng. Nếu lạm

phát kỳ vọng tăng lên, các nhà đầu tư sẽ mua vàng để đầu cơ trên sự tăng giá của

vàng hoặc để chống lại sự mất giá của đồng tiền pháp định. Dù bằng cách nào các áp

lực mua vàng sẽ gây ra một sự gia tăng giá vàng ngay lập tức. Các bài báo tài chính

chỉ ra rằng có những bằng chứng đáng kể cho thấy có một mối quan hệ mạnh mẽ

giữa lạm phát kỳ vọng và giá vàng. Các nhà phân tích thị trường thường cho là

những thay đổi đáng kể trong giá vàng do tác động của thay đổi trong lạm phát kỳ

vọng. Như vậy, vàng là một chỉ số rất tốt của lạm phát và rất có ích trong cuộc chiến

chống lại lạm phát.

1.4 Sự cần thiết phải nghiên cứu mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát trong

nền kinh tế.

Qua việc phân tích lý thuyết, đã thấy giá vàng và lạm phát có mối quan hệ với

nhau. Những năm qua, bài toán vàng, lạm phát luôn là vấn đề thách thức của các nhà

điều hành chính sách tài chính tại Việt Nam. Trước tình hình đó, nhiều giải pháp

nhằm ổn định thị trường tiền tệ nói riêng và kinh tế vĩ mô nói chung đã được đưa ra,

trong đó có các đề xuất cấm việc mua bán vàng miếng trên thị trường tự do. Khi

chính phủ đã quyết liệt triển khai gói chính sách bao gồm cả kiểm soát thị trường

vàng và thị trường ngoại hối cũng như chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt, chắc

chắn lạm phát sẽ giảm. Tuy nhiên, Chính phủ nên ưu tiên cho việc kiểm soát thị

trường vàng hay nên tập trung kiểm soát tốt chính sách tiền tệ và tài khóa như đã

công bố. Do đó, rất cần thiết phải nghiên cứu mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát

để góp phần vào việc đề ra các định hướng đúng đắn cho việc kiềm chế lạm phát.

1.5 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát trong nền kinh tế

trên thế giới.

Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá vàng và lạm

phát. Các nghiên cứu trước đây cho rằng vàng được sữ dụng rộng rãi như là đơn vị

tiền tệ và là nơi trú ẩn an toàn chống lại lạm phát lâu dài. Tuy nhiên các nghiên cứu

26

đã thất bại trong việc chứng minh mối quan hệ chính xác giữa các thay đổi về giá

vàng và lạm phát.

Sherman (1983) và Moore (1990) kết luận rằng giá vàng và lạm phát có mối

tương quan thuận, và lạm phát có thể được sử dụng như một chỉ số hàng đầu để dự

đoán giá vàng. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Christie-David (2000) và cộng sự

cho thấy rằng giá vàng có thể là chỉ báo lạm phát tốt phụ thuộc vào thời gian kiểm

tra.

Mặt khác, Jaffe (1989), Garner (1995), Larson và McQueen (1995), (2000)

Cecchetti et al kết luận rằng giá vàng không bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Một số

người khác cũng cho thấy lạm phát ở các nước khác ngoài Mỹ không dự đoán chính

xác giá vàng và chứng minh rằng vàng không thể chống lại lạm phát ở nhiều nước.

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bao gồm các giai đoạn sau năm 1999 của giá vàng cũng

không chứng minh mối quan hệ giữa lạm phát và giá vàng. Do đó, không chắc chắn

liệu vàng có thể chống lại lạm phát.

Bảng 1.1 Kết quả các nghiên cứu sự ảnh hưởng của lạm phát lên giá vàng

trên thế giới

Tác giả Thời gian

(Năm dữ liệu Kỳ dữ Kết quả nghiên cứu

nghiên cứu) nghiên liệu

cứu

Sherman 1970-1980 Giá vàng có mối quan hệ tương Hàng

(1983) quan với lạm phát năm

Jaffe (1989) 1971-1987 Biến động giá vàng không là chỉ Hàng

số dự báo lạm phát tháng

More(1990) 1970-1988 Lạm phát được dự báo bởi giá Hàng

vàng tháng

Larson&Mc 1972-1992 Theo thống kê thì giá vàng và Hàng

Queen lạm phát không tương quan với tháng

(1995) nhau

1973-1994 Mức độ lạm phát không phụ Garner Hàng

thuộc vào giá vàng (1995) tháng

27

Mahdavi&Zh 1970-1994 Chỉ số CPI và giá vàng không Hàng

có mối quan hệ đồng liên kết ou (1997) quý

Cecchetti et 1975-1984 Giá vàng không bị ảnh hưởng Hàng

bởi lạm phát al. (2000) quý

Christe- 1992-1995 Giá vàng có ảnh hưởng đến chỉ Hàng

David et số lạm phát trong ngắn hạn ngày

al.(2000)

Lawrence 1975-2001 Giá thành sản xuất không ảnh Hàng

(2003) hưởng đến giá vàng quý

Tkacz(2007) 1994-2005 Theo nghiên cứu tại 14 quốc Hàng

gia, nghiên cứu phát hiện ra tháng

rằng giá vàng có ảnh hưởng đến

chỉ số lạm phát.

(Nguồn: website www.ksri.org)

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 đã giới thiệu tổng quan về vàng và lạm phát. Qua chương này, có

thể thấy giá vàng và lạm phát tồn tại một mối quan hệ tác động qua lại và trong một

số trường hợp có thể sử dụng giá vàng để làm chỉ số dự báo lạm phát trong tương lai.

Đó là về mặt lý luận, để kiểm tra về mặt thực tiễn, ta tiến hành các kiểm định thực tế

trong chương 2.

28

CHƯƠNG 2

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ

LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM

2.1 Thực trạng về biến động giá vàng tại Việt Nam

2.1.1 Thực trạng biến động giá vàng tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến

năm 2006

Trong giai đoạn này tình hình kinh tế Việt Nam có nhiều thay đổi, các thành

phần kinh tế trong xã hội được khuyến khích mở rộng hoạt động kinh doanh. Nhiều

chính sách kinh tế thông thoáng được ban hành cùng việc thu hút đầu tư từ nhiều

nguồn đặc biệt từ các nhà đầu tư nước ngoài. Từ năm 2001, việc nhập khẩu vàng

được cấp phép trở lại bình thường. Từ năm 2000 đến năm 2006, giá vàng Việt Nam

trong xu hướng tăng. Bắt đầu từ 2001, khi Tổng thống George Bush chính thức lên

nắm chính quyền tại Mỹ thì cũng là thời điểm khởi đầu của chu kỳ tăng giá vàng, đặc

biệt là từ sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001. Trong giai đoạn này, điều kiện nền kinh

tế Việt Nam và thị trường vàng hội nhập càng sâu rộng với thế giới và trong điều

kiện thông tin hiện đại nên giá vàng trong nước theo nguyên tắc bình thông nhau với

giá vàng thế giới, đồng thời giá vàng ở nước ta cũng phản ánh tức thì, cùng chiều và

theo sát giá vàng trên thị trường thế giới.

Đồ thị 2.1: Giá vàng tại Việt Nam và giá vàng thế giới giai đoạn 2000 – 2006

14,000

12,000

10,000

8,000

Giá vàng VN (ngàn đồng/lượng)

6,000

Giá vàng TG (ngàn đồng/lượng)

4,000

2,000

-

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006

Đơn vị tính: ngàn đồng/lượng

(Nguồn: Cục Thống kê Việt Nam và webside www.kitco.com)

Bước sang năm 2006, thị trường kim loại quý vẫn liên tục lên cơn sốt tăng giá

29

và liên tục lập những kỷ lục mới. Giá vàng trong nước sáng 12/5/2006 đã vượt mức

1,5 triệu đồng/chỉ tại hầu hết các địa phương. Như vậy, giá vàng trong nước tính đến

thời điểm 12/5/2006 đã tăng 46% so với đầu năm 2006.

Giá vàng tại Việt Nam tăng như vậy là do ảnh hưởng phiên giao dịch ngày

12/5/2006 của thế giới, giá vàng đã có lúc tăng lên mức cao kỷ lục 731 USD/ounce –

mức cao nhất kể từ tháng 1/1980, so với đầu năm 2006, giá vàng đã tăng khoảng 200

USD/ounce – tương đương 38,1%.

Việc giá vàng tăng cao đã gây nên hội chứng tâm lý làm nhiều người dân đổ

xô đi mua vàng, một số đã rút tiền tiết kiệm để mua vàng. Tuy nhiên, trước sự trồi

sụt thất thường của giá vàng thế giới đã khiến không ít người dân bị thua thiệt

nghiêm trọng do đầu tư theo phong trào – giá lên thì đổ xô đi mua, giá hạ thì ào ạt

bán. Đây cũng là một nguyên nhân kỳ vọng tác động đẩy giá vàng trong nước tăng

cao ngoài nguyên nhân chính là do giá vàng thế giới biến động.

Do ảnh hưởng sự biến động của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng

tăng liên tục và có lúc tốc độ tăng của giá vàng trong nước còn cao hơn cả tốc độ

tăng của giá vàng thế giới. Trong giai đoạn này, giá vàng thế giới tăng là do yếu tố

tâm lý từ cuộc khủng bố ngày 11/09/2011 và do ảnh hưởng của giá dầu.

Đồ thị 2.2: Giá dầu thế giới giai đoạn 2000 – 2006

70

60

50

40

30

20

10

-

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Đơn vị tính: USD/thùng

(Nguồn: website www.ioga.com/Special/crudeoil_Hist.htm )

30

Giá dầu giảm nhẹ từ năm 2000 đến năm 2001, sau đó tăng mạnh lên đặc biệt từ năm

2003 đến năm 2006. Giá dầu tăng làm cho giá vàng tăng theo. Khi giá năng lượng

tăng, có thể đẩy các ngành sản xuất dịch vụ, nhất là vận chuyển rơi vào khó khăn. Vì

vậy khi giá dầu tăng quá mức thương gây tác động xấu đến nền kinh tế nhất là gây ra

lạm phát, chính vì vậy giá vàng cũng biến động cùng chiều với giá dầu do nhu cầu

đầu tư trành rủi ro. Giá dầu năm 2004 chỉ có 37USD/thùng lên 58USD/thùng năm

2006, tăng 56,7%, cùng thời gian đó giá vàng từ 410 USD/ounce năm 2003 lên đến

612 USD/ounce năm 2006, tăng 49,3%

Ngoài ra, tỷ giá đô la Mỹ tăng lên hàng năm, giai đoạn từ 2000 đến 2003 tăng

cao, sau đó tăng nhẹ từ năm 2004 đến 2006. Do nguồn vàng tại Việt Nam chủ yếu là

từ nhập khẩu, do đó khi tỷ giá qui đổi USD/VND tăng làm cho giá vàng tăng theo.

Năm 2000 tỷ giá USD/VND là 14.232 nhưng đến năm 2006 là 16.022, tăng 12,6%.

Đồ thị 2.3: Tỷ giá USD/VND giai đoạn 2000 - 2006

Đơn vị tính :Đồng

16,500

16,000

15,500

15,000

14,500

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

14,000

(Nguồn : Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam)

2.1.2 Thực trạng biến động giá vàng tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến

năm 2012

Giai đoạn 2007-2012 là giai đoạn nổi bật nhất của thị trường vàng, vì giá

vàng luôn biến động và tăng liên tục với tốc độ tăng rất mạnh qua từng năm.

31

Đồ thị 2.4 : Giá vàng tại Việt Nam giai đoạn 2007-2012

50,000

40,000

30,000

20,000

10,000

-

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Đơn vị tính : ngàn đồng/lượng

(Nguồn: Cục thống kê và website http://www.sjc.com.vn )

Giá vàng tại Việt Nam từ mức 13.401.000 đồng/lượng năm 2007 lên đến

44.133.000 đồng/lượng năm 2012, tăng 229% chỉ trong thời gian 5 năm. Tốc độ tăng

giá vàng qua các năm không đều nhau, tốc độ giá vàng tăng mạnh nhất trong năm

2009 với tỷ lệ 64.32%.

Đồ thị 2.5: Tốc độ tăng giá vàng tại Việt Nam giai đoạn 2007-2012

70

60

50

40

30

20

10

0

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Đơn vị tính: %

(Nguồn: Cục thống kê Việt Nam)

Nguyên nhân tăng giá vàng của giai đoạn này chủ yếu là do ảnh hưởng của

giá vàng thế giới, từ mức giá 704.2USD/ounce đã tăng 973.6USD/ounce trong vòng

năm năm, nghĩa là đến năm 2012 giá vàng thế giới ở mức 1.677,8USD/ounce, tăng

32

138%.

Đồ thị 2.6: Giá vàng thế giới giai đoạn 2007 – 2012

1,800.0 1,600.0

1,400.0 1,200.0 1,000.0

800.0 600.0 400.0 200.0

-

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Đơn vị tính : USD/ounce

(Nguồn: website www.kitco.com)

Bên cạnh đó, sự biến động giá dầu cũng gây ảnh hưởng đến giá vàng. Năm

2007 tiếp đà tăng của năm 2006, giá dầu đạt mức 64USD/thùng, tiếp tục tăng mạnh

lên 91USD/thùng năm 2008. Sau đó có giảm xuống 54 USD/thùng năm 2009, Bước

qua năm 2010, giá dầu lại trong xu hướng tăng lên đến năm 2011 đạt mức

87USD/thùng.

Đồ thị 2.7: Giá dầu thế giới giai đoạn 2007-2012

100 95 90 85 80 75 70 65 60 55 50

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Đơn vị tính: USD/thùng

(Nguồn http://www.ioga.com/Special/crudeoil_Hist.htm)

Bên cạnh các nhân tố bên ngoài, thì nhân tố bên trong là tình hình tỷ giá

33

USD/VND trong giai đoạn 2007-2012 cũng tăng mạnh, giá USD/VND năm 2007 là

16.100, tăng dần qua các năm đến năm 2012 là 20.880, tăng 29.6%. yếu tố này góp

phần không nhỏ đến sự gia tăng giá vàng tại Việt Nam.

Đồ thị 2.8: Tỷ giá USD/VND giai đoạn 2007-2012

22,000 21,000 20,000 19,000 18,000 17,000 16,000 15,000

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Đơn vị tính : đồng

(Nguồn : Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam)

Từ cái nhìn tổng quát tình hình biến động giá vàng trong giai đoạn 2007-2012,

đi vào diễn biến chi tiết giá vàng từng năm để thấy rõ tình hình giá vàng tại Việt

Nam.

Năm 2007 là năm khởi động cho giai đoạn tăng giá vàng. Giá vàng tại Việt

Nam trong tháng 1/2007 ở mức 12.160.000 đồng/lượng tăng 28% trong năm, đạt

mức 15.640.000 đồng/lượng.

Trong năm 2008 hai nỗi lo trái ngược thống trị là lạm phát và giảm phát đã

tạo những cơn sóng trồi sụt liên tục cho vàng. Vàng liên tục gia tăng giá trị cùng với

sự leo dốc của chỉ số lạm phát trong những tháng đầu năm 2008, tuy nhiên nửa cuối

năm còn lại thật sự là quãng thời gian khó khăn cho giá vàng khi phải liên tục dò tìm

những đáy mới trong bối cảnh nỗi lo suy giảm kinh tế toàn cầu gia tăng.

Năm 2008 chứng kiến sự lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

xuất phát từ sự sụp đổ thị trường địa ốc kéo theo một số lượng con nợ lớn chưa từng

thấy của thị trường cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Ảnh hưởng của nó đã khiến nhiều

nền kinh tế trên thế giới chao đảo và trong bối cảnh lạm phát tăng cao, các nhà đầu tư

ồ ạt chuyển vốn sang thị trường vàng - loại hàng hóa an toàn và hấp dẫn trong thời

kỳ lạm phát và xu hướng này thực sự đã tạo ra một hậu phương hết sức vững chắc

giúp quý kim thẳng tiến chinh phục những đỉnh cao mới. Vào ngày 17/03/2008, thị

34

trường tiền tệ thế giới ghi nhận mức giá kỷ lục trong lịch sử của giá vàng – mức

1.033,90 USD/Oz. Chỉ tính trong quý 1/2008, vàng đã gia tăng được 14% giá trị. Nỗi

ám ảnh về lạm phát ngày càng đe dọa toàn cầu, trong đó biểu hiện rõ ràng nhất là

việc giá dầu cứ tiếp tục leo lên từng mốc, mốc sau lại cao hơn mốc trước và việc

FED liên tục hạ lãi suất để chống đỡ với sự tàn phá của cuộc khủng hoảng tín dụng

trong khi các NHTW khác lại cố gắng giữ lãi suất ở mức cao nhằm kiềm chế lạm

phát lại càng gây sức ép nặng nề cho đồng USD.

Trong khi đó nguồn cung vàng có dấu hiệu giảm sút do việc khai thác vàng ở

các nước khó khăn hơn khi phải tìm vàng ở độ sâu khá lớn và trả lương cao cho công

nhân, cộng thêm những biến động về chính trị đã chắp cánh cho giá vàng thăng hoa.

Việc giá vàng cao ngất ngưởng đã khiến cho một bộ phận các nhà đầu tư tỏ ra e ngại

khiến nhu cầu mua vàng giảm 19% trong quý 2 nhưng những diễn biến phức tạp về

tình hình lạm phát của toàn cầu cùng với sự hỗ trợ của yếu tố đồng hành lâu năm với

vàng là dầu thô, vàng vẫn tiếp tục giữ vững được vị thế của mình. Không ai có thể

ngờ dầu thô có thể cán mốc kỷ lục 147,27 USD/thùng vào ngày 11/07/2008 bởi lực

hậu thuẫn xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Đồng USD tiếp tục mất giá, xung đột về

địa chính trị lên cao, trữ lượng dầu có phần hạn chế, hoạt động đầu cơ trên thị

trường, tình hình thời tiết không mấy thuận lợi... Vàng đã tận dụng được lợi thế này

và duy trì được phong độ trong một khoảng thời gian khá dài.

Tuy nhiên, tính chất hầm tránh bão của vàng trong thời kỳ lạm phát đang giảm

dần bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bước sang thời điểm mới: các nền kinh tế

dẫn đầu thế giới bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu giảm tốc và nỗi lo suy giảm tăng

trưởng kinh tế mà xa hơn là suy thoái kinh tế bắt đầu làm đau đầu các nhà lãnh đạo

khu vực Châu Âu, Mỹ , Nhật, Trung Quốc... Nguồn vốn trên thị trường bắt đầu tập

trung vào những tài sản có mức bảo toàn vốn cao như trái phiếu chính phủ, tiền

mặt... Sự lao dốc đến chóng mặt của thị trường chứng khóan trong thời buổi kinh tế

khó khăn khiến các nhà đầu tư nhanh chóng thanh lý hợp đồng vàng - loại hàng hóa

có mức thanh khoản cao - để bù đắp những khoản thua lỗ trên các thị trường khác.

Đồng USD bất ngờ lại lấy lại được lợi thế của mình khi các nhà đầu tư nhận ra rằng

đây vẫn là đồng tiền an tòan nhất và chiếm khối lượng giao dịch lớn nhất trên thị

trường ngoại hối. Sự giằng co giữa hai xu hướng: bán vàng bù lỗ, nắm giữ USD mặt

và nhu cầu sụt giảm trong bối cảnh suy thoái kinh tế với việc mua vào lọai hàng hóa

35

vốn từ lâu đời có tính an toàn và bảo toàn giá trị khiến vàng có những phiên trồi sụt

thất thường và giao động trong biên độ rộng từ 750 – 980 USD/Oz. Cơn sóng thần

của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra nhiều hậu quả nặng nề: sự thua lỗ,

đổ vỡ, quốc hữu hóa, phá sản, vỡ nợ… Chính phủ các nước phải đưa ra các kế hoạch

hỗ trợ cho nền kinh tế tuy nhiên những giải pháp này vẫn chưa phát đi những tín hiệu

đáng mừng nào cho thị trường. Hơn nữa, nỗi ám ảnh về mối lo giảm phát đã đưa thời

kỳ bong bóng của thị trường hàng hóa đi vào hồi kết trong đó giảm sâu nhất phải kể

đến dầu thô có lúc giảm tới 70% so với đỉnh điểm hồi tháng 7/2008 và liên tục trượt

dài đến nay mặc cho những nỗ lực của các nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới như

OPEC, Nga, Arab Saudi đã cắt giảm mạnh sản lượng. Vàng và dầu không còn có thể

tiếp tục đồng hành cùng nhau: trong khi dầu liên tục trượt dốc từ tháng 7/2008 và có

lúc giảm chỉ còn 33.87 USD/thùng (19/12); vàng vẫn giữ được là loại hàng hóa giảm

giá ít nhất trong chỉ số Reuters/Jefferies CRB Index của 19 loại hàng hóa (chỉ giảm

khỏang 12% giá trị) nhờ những tính chất truyền thống vốn có của nó.

Nhu cầu đối với vàng với tư cách là mặt hàng an toàn không mất đi thậm chí

cả tình hình kinh tế không mấy sáng sủa, nhất là dư âm từ vụ sụp đổ Lehman Brother

và các tổ chức tài chính khổng lồ khác đã đưa giá vàng lên đỉnh cao vào ngày

10/10/2008 ở mức 950USD/Oz, đồng thời với những rắc rối vẫn chưa được tháo gỡ

triệt để của các nền kinh tế hàng đầu và việc FED quyết định đưa lãi suất về mức

thấp nhất trong lịch sử, cộng thêm những biện pháp bơm USD với khối lượng khổng

lồ vào nền kinh tế để chống khủng hoảng đang tạo áp lực mất giá trở lại đối với USD

và khiến người ta đặt câu hỏi về sự hình thành của một chu kỳ lạm phát mới sẽ là lực

hỗ trợ cho thị trường quý kim tiếp tục ghi điểm.

Nguy cơ giảm phát sẽ còn bao trùm nền kinh tế toàn cầu trong năm tới sẽ là

một lý do để hạn chế đà tăng giá của giá vàng. Tuy nhiên với những khó khăn hiện

tại của nền kinh tế, khi công cụ lãi suất không còn có thể dễ dàng sử dụng, các quốc

gia lớn trên thế giới sẽ buộc phải nghĩ đến việc in thêm tiền ra lưu thông và vay

mượn đa quốc gia và chính điều này sẽ lại trở thành động lực tốt cho giá vàng phục

hồi. Hơn nữa khi kinh tế toàn cầu lấy lại được mãi lực tăng trưởng, nhu cầu hàng hóa

sẽ tăng trở lại cũng là một lý do để giá vàng tiếp tục leo dốc.

Dưới tác động của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng liên tục khiến

thị trường đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác . Tăng khá đều đặn trong các quý 1, 2

36

và 3 rồi bứt phá mạnh trong quý 4 là xu hướng chính của giá vàng thế giới năm 2009.

Khởi động năm 2009 với mức giá khoảng 880 USD/Oz, giá vàng giao ngay thị

trường thế giới đến ngày 23/12/2009 đóng cửa ở mức gần 1.090 USD/Oz, tăng xấp xỉ

24%. Mức đỉnh cao lịch sử của giá vàng giao ngay đóng cửa tại thị trường New York

hiện là mức 1.215,8 USD/Oz thiết lập vào ngày 2/12/2009. Mức giá này đã bỏ xa kỷ

lục đóng cửa 1.002,8 USD/Oz của năm 2008. Năm 2009 là một năm giá tăng khá

nhanh và mạnh chưa từng có của vàng trong nước. Ngày lịch sử của thị trường vàng

trong nước năm 2009 là 11/11/2009, khi giá vàng lần lượt chinh phục các mốc giá

27, 28, rồi 29 triệu đồng/lượng chỉ trong vòng có vài giờ đồng hồ buổi sáng. Đỉnh

cao mọi thời đại của giá vàng trong nước năm 2009 là mốc 29,3 triệu đồng/lượng.

Đầu năm 2009, giá vàng trong nước đứng ở mức gần 18 triệu đồng/lượng. Tính tới

ngày 24/12/2009, khi giá vàng ở mức 26,5 triệu đồng/lượng, thì giá vàng trong nước

đã tăng 8,5 triệu đồng/lượng, tương đương 47%.

Điều đáng nói là giá vàng thế giới năm 2009 lập kỷ lục giữa lúc khủng hoảng

tài chính không còn căng thẳng như năm 2008, đồng thời rủi ro lạm phát cũng không

phải là một mối lo lớn của hầu hết các quốc gia. Tuy không phát huy được tối đa vai

trò hầm trú ẩn an toàn, giá vàng năm nay lại được hỗ trợ nhiều bởi chính sách tiền tệ

và tài khóa nới lỏng của nước Mỹ. Xu hướng suy yếu của tỷ giá USD do Cục Dự trữ

Liên bang Mỹ duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục là nhân tố nâng đỡ tích cực

nhất cho giá vàng trong năm.

Giá vàng trong nước năm 2009 biến động cùng chiều với giá vàng thế giới.

Tuy nhiên, do còn chịu tác động từ tình hình cung cầu và biến động tỷ giá

USD/VND nên giá vàng trong nước năm 2009 có thời điểm thấp hoặc cao hơn giá

vàng thế giới tới cả triệu đồng/lượng. Ở thời điểm giữa quý 1, khi người dân ồ ạt bán

vàng để chốt lời ở mức giá 19-20 triệu đồng/lượng, còn doanh nghiệp thu mua để

xuất khẩu, giá vàng trong nước có lúc thấp hơn giá vàng thế giới 1,5 triệu

đồng/lượng. Trong khi đó, vào giữa quý 4 năm 2009, khi các nhà đầu tư tranh mua

vàng, giá vàng trong nước lại thường xuyên cao hơn giá thế giới. Trong ngày sốt

đỉnh điểm 11/11/2009, giá vàng trong nước có lúc cao hơn giá vàng thế giới 3,6 triệu

đồng/lượng. Thừa hoặc thiếu cung vàng là lý do chính mà các công ty kim hoàn đưa

ra để lý giải cho sự vênh giá. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, sự lệch giá này là kết

quả của hoạt động ghìm giá hoặc thổi giá của giới đầu cơ.

37

Sự lên xuống của tỷ giá USD/VND thị trường tự do ở nhiều thời điểm cũng là

một nguyên nhân quan trọng khiến giá vàng trong nước không tăng giảm cùng biên

độ với giá vàng thế giới, thậm chí biến động ngược chiều với giá vàng thế giới.

Trước những diễn biến bất thường của thị trường vàng trong nước, Ngân hàng

Nhà nước đã quyết định cho nối lại hoạt động nhập khẩu vàng nhằm hạ nhiệt thị

trường. Quyết định được công bố vào chiều ngày 11/11/2009 này được xem như một

liều thuốc giải nhiệt hiệu quả và kịp thời đối với cơn sốt vàng đang ở đỉnh điểm.

Trước đó, hoạt động nhập khẩu vàng đã bị tạm ngừng hơn 1 năm.

Sau khi vấn đề nguồn cung được giải quyết, giá vàng tiếp tục có những biến

động mạnh do xu hướng leo thang của tỷ giá USD/VND thị trường tự do. Tuy nhiên,

vấn đề này đã được khắc phục sau khi Ngân hàng Nhà nước nâng mạnh tỷ giá

USD/VND liên ngân hàng và thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% về +/-3% vào ngày

25/11/2009. Với sự ổn định của tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do và nguồn

cung vàng không còn khan hiếm, giao dịch trên thị trường vàng diễn ra khá ổn định.

Quản lý sàn vàng là một vấn đề lớn được các cơ quan chức năng cân nhắc

trong năm 2009. Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ hai phương án về quản lý

sàn vàng: một là chấm dứt hoạt động sàn vàng; hai là tiếp tục cho hoạt động thì chỉ

cho phép các ngân hàng thương mại được mở sàn, đồng thời mức ký quỹ có thể lên

tới mức 100%. Tuy nhiên, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định chấm dứt hoạt động

sàn vàng vào ngày 30/03/2010 mục đích là chỉnh đốn lại hoạt động này trong thời

gian tới.

Bước sang năm 2010 giá vàng diễn biến theo hình răng cưa với chiều đi lên là

chủ đạo và liên tiếp tự phá các kỷ lục mới, cả ở phạm vi trong nước và quốc tế.

Ngay trong tháng 01/2010, giá vàng đã tăng 53.89% so với tháng 01/2009

đứng ở mức 26.5 triệu đồng/lượng. Mặc dù NHNN điều chỉnh tỷ giá hối đoái liên

ngân hàng tăng trên 3% lên mức 18,544 VND/USD từ ngày 11/02/2010 đi đôi

với chính thức tăng giá vốn tín dụng ngân hàng thông qua áp dụng lãi suất thoả

thuận cho các khoản vay trung dài hạn từ 26/02/2010 song chỉ số giá vàng tháng

02/2010 lại giảm 2.03% so với tháng trước, và tăng 42.58% so với cùng kỳ năm

2009. Giá vàng trong tháng 02/2010 giảm nguyên nhân là do trong tháng này

NHNN đã cấp quota nhập khẩu vàng cho SJC để bán vàng ra bình ổn thị trường.

Giá vàng từ tháng 3/2010 đến tháng 8/2010 trong xu hướng tăng nhẹ.

38

Đồ thị 2.9: Giá vàng tại Việt Nam năm 2010

39,000,000 37,000,000 35,000,000 33,000,000 31,000,000 29,000,000 27,000,000 25,000,000

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Đơn vị tính : đồng/lượng

(Nguồn: Cục thống kê Việt Nam)

Chỉ số giá vàng tháng 09/2010 tăng 3.58% so với tháng trước, tăng 5.19% so

với tháng 12/2009 và tăng tới 34.35% so với cùng kỳ năm 2009. Diễn biến giá vàng

rất phức tạp và phụ thuộc vào diễn biến giá thế giới trong khi giá vàng thế giới đúng

như dự báo của tháng trước đó đã lập kỷ lục mới lên trên 1,300USD/Oz vào cuối

tháng 09/2010. Giá vàng tại Việt Nam cuối tháng 09/2010 dao động quanh mốc kỷ

lục mới là 31 triệu đồng/lượng, có thời điểm lên tới 31.5 triệu đồng/lượng, cao hơn

giá thế giới khoảng 400 – 500 ngàn đồng/lượng nên hiện tượng thu gom USD trên thị

trường tự do để nhập lậu vàng đã xuất hiện trong khi NHNN vẫn chưa cấp quota

nhập khẩu vàng chính thức. Giá vàng tiếp tục tăng mạnh đến tháng 12/2010, có thời

điểm cao hơn giá thế giới đến gần 1 triệu đồng/lượng. Thị trường vàng và USD tự do

liên tục biến động trong tháng 11/2010, thậm chí giá thay đổi từng giờ trong nhiều

ngày. Đầu tháng 11/2010, giá vàng tăng lên đến kỷ lục mọi thời đại là 38.3 triệu

đồng/lượng, đồng thời tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do cũng lên tới 21,500,

sau đó giá vàng dao động trong khoảng 34.5 – 36.5 triệu đồng/lượng và USD/VND

dao động trong khoảng 21,000 – 21,500. Thời gian này, NHNN tuyên bố không thay

đổi tỷ giá hối đoái chính thức 18,932 VND/USD (theo đó trần tỷ giá giao dịch chính

thức tại các NHTM là 19,500 VND/USD) đến hết tháng 01/2011 lại càng làm cho thị

trường ngoại hối căng thẳng do chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị

trường tự do đã lên đến khoảng 2,000 VND/USD. Tháng cuối cùng của năm 2010,

vàng tiếp tục tăng 5.43% so với tháng trước, dao động quanh ngưỡng 36 triệu

đồng/lượng trong khi CPI cả năm tăng 11.75%, còn tỷ giá USD/VND chỉ tăng 9.69%

39

so với cuối năm trước.

Tiếp theo đà tăng giá của năm 2010, giá vàng trong nước khởi động ở mức

35,8 triệu đồng/lượng khi giá thế giới dao động nhẹ quanh 1.370 USD/ounce vào đầu

năm 2011 sau khi đã xác lập kỷ lục cao nhất là 1.432 USD/ounce vào ngày

7/12/2010. Ngay sau khi Việt Nam điều chỉnh tỷ giá tăng kỷ lục tới 9,3% vào ngày

11/2/2011 thì giá vàng bắt đầu bứt phá lên mức 36 triệu đồng lượng mặc dù giá vàng

thế giới không ghi nhận biến động nào đáng kể. Chỉ 1 tuần sau đó, giá vàng phá

ngưỡng 37 triệu đồng/lượng do đôla thị trường tự do tăng vọt lên tới 22.000

VND/USD và cơn sốt vàng xuất hiện sớm ngay trung tuần tháng 2/2011, chỉ 3 tháng

sau cơn sốt ngày 11/11/2010. Ngưỡng giá 37,5 triệu đồng/lượng bị phá cùng lúc với

tỷ giá trên thị trường phi chính thức lên tới 22.250 VND/USD và giá vàng thế giới ở

mức 1.384 USD/ounce. Không dừng lại ở đó, ngày 19/2/2011, giá vàng lại vượt 38

triệu đồng/lượng rồi 38,5 triệu đồng/lượng do giá USD tự do lên 22.400 - 22.500

đồng/USD và giá vàng thế giới xấp xỉ 1.390 USD/ounce trước khi lên đến 1.400

USD/ounce vào ngày 21/2/2011.

Đến giữa tháng 3/2011, vàng thế giới đột ngột mất giá, giảm mạnh xuống

dưới ngưỡng 1.400 USD/ounce do nhiều nhà đầu tư bán tháo kim loại quý để bù đắp

tổn thất trên những thị trường khác như dầu thô, chứng khoán,... kéo theo giá vàng

trong nước tụt xuống dưới 37 triệu đồng/lượng. Khoảng đầu tháng 4/2011, do sự suy

yếu của USD, khủng hoảng tài chính châu Âu, bất ổn chính trị tại Trung Đông và

Bắc Phi, lạm phát có xu hướng tăng nên giá vàng thế giới lại lập kỷ lục mới trên

1.460 USD/ounce, tạo cơ sở cho dự báo mốc 1.500 USD/ounce đã sắp đến, theo đó,

giá vàng trong nước lại vượt qua mốc 37 triệu đồng/lượng. Chỉ trong vòng vài ngày

giữa tháng 4/2011, giá vàng thế giới liên tục xô đổ các ngưỡng cản 1.470 rồi 1.480

USD/ounce. Cơn sốt vàng trên thế giới không dừng lại khi ngưỡng cản dự báo 1.500

USD/ounce mà vượt mốc 1.550 USD/ounce 1 tháng sau đó. Theo đó, giá vàng tại

Việt Nam lại vượt mốc 38 triệu/lượng.

Giữa tháng 7/2011, giá vàng lại tăng lên 38,6 triệu đồng/lượng khi giá thế giới

xấp xỉ 1.570 USD/ounce. Ngày 14/7/2011, ngưỡng kỷ lục 39 triệu đồng/lượng chính

thức bị phá khi giá vàng thế giới áp sát 1.600 USD/ounce rồi ngưỡng 39,5 triệu

đồng/lượng cũng không trụ nổi vào ngày 19/7/2011. Khi giá thế giới lập kỷ lục 1.624

USD/ounce thì giá trong nước cũng nhanh chóng tiệm cận rồi vượt qua mốc 40 triệu

40

đồng/lượng ngày 25/7/2011. Sang đầu tháng 8/2011, giá vàng lên sát 41 triệu

đồng/lượng khi vàng thế giới vượt qua 1.660 USD/ounce.

Tiếp đó, sau cú sốc hạ mức tín nhiệm của Mỹ, giá vàng thế giới bùng nổ lên

sát 1.700 USD/ounce và giá vàng Việt Nam tăng 3,5 triệu đồng mỗi lượng trong

ngày 8/8/2011 lên tới 44,2 triệu đồng/lượng - cao hơn giá thế giới tới 2 triệu

đồng/lượng - rồi lại rơi về 43,2 triệu đồng/lượng ngay trong ngày. Sang ngày

9/8/2011, giá vàng lại lên sát 45 triệu đồng/lượng.

Nỗi lo khủng hoảng nợ công của châu Âu và suy giảm tăng trưởng ở Mỹ hỗ

trợ mạnh cho thị trường vàng quốc tế. Ngày 23/8/2011, giá vàng thế giới vượt 1900

USD/ounce và giá vàng trong nước cũng vọt lên 48,6 triệu đồng/lượng rồi vượt 49

triệu đồng/lượng. Sang ngày 24/8/2011 giá vàng tuột dốc xuống 47,6 triệu đồng với

mức giảm gần 1,5 triệu đồng một lượng do đà tuột dốc trên thị trường thế giới khi

các nhà đầu tư ào ạt chốt lời với giá thế giới xuống sát 1.820 USD một ounce, mất

gần 90 USD so với đỉnh cao. Đến cuối tháng 9/2011, thị trường vàng Việt nam lại

chứng kiến cảnh hỗn loạn để bán vàng khi giá vàng lao dốc xuống 41 triệu

đồng/lượng.

Như vậy, năm 2011 khởi điểm từ mốc 35 triệu đồng/lượng trong những ngày

đầu tiên của năm 2011, đến cuối tháng 12, giá vàng xấp xỉ đạt ngưỡng 42 triệu

đồng/lượng, khép lại một năm đầy kịch tính của giá vàng. Tính từ đầu năm đến cuối

năm 2011, giá vàng đã tăng thêm khoảng 7 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, mức giá 42

triệu đồng/lượng chưa phải là mức tăng cao nhất trong năm bởi có thời điểm vàng

đạt tới 49,1 triệu đồng/lượng vào ngày 23-8/2011.

Trong năm 2012 so với những năm trước, thị trường vàng trong nước năm

nay ổn định hơn về diễn biến giá cả. So với mức chốt năm 2011, giá vàng SJC kết

thúc năm 2012 tăng được 3,6 triệu đồng/lượng, tương đương mức tăng 8,4%. Mức

giá đỉnh của vàng SJC trong năm nay là khoảng 48,2 triệu đồng/lượng vào đầu tháng

10/2012, còn mức đáy là dưới 41 triệu đồng/lượng vào giữa tháng 5/2012.

Nhìn chung thị trường vàng liên tục tăng qua các năm, tính từ năm 2002 đến

năm 2012 vàng tăng 9.5 lần từ 4.900.000 đồng/lượng lên đến 47.500.000

đồng/lượng. Nhìn vào con số này thì đây quả thật là một kênh đầu tư mang lại lợi

nhuận cao nhất.

Theo báo cáo của Hội đồng vàng thế giới, lượng vàng hiện có tại Việt Nam

41

(lấy lượng vàng nhập khẩu trừ đi lượng vàng xuất khẩu) là khoảng 1,000 tấn, tương

đương với 45 tỷ USD. Tuy con số này chưa được công nhận, nhưng chắc chắn một

lượng vàng rất lớn đang được người dân nắm giữ, đang trở thành luồng vốn hoạt

động không chính thức, gây sức ép không nhỏ đến chính sách tiền tệ và tăng trưởng

kinh tế và hoạt động của các NHTM.

2.2 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam

2.2.1 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2000-2006

Trong giai đoạn 2000-2006, tình hình kinh tế Việt Nam có nhiều thay đổi lớn, cơ chế

thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước đã mang lại hiệu quả GDP gia tăng hàng

năm, góp phần kiềm chế lạm phát dưới một con số. Ngoài ra, có thể giai đoạn này,

Việt Nam chưa mở rộng quan hệ quốc tế, việc gia nhập tồ chức Thương mại thế giới

WTO điễn ra vào tháng 11/2006, nên tình hình kinh tế thế giới trong giai đoạn này

ảnh hưởng không đáng kể đến nền kinh tế Việt Nam.

Đồ thị 2.10: Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam từ năm 2000-2006

9.67

8.71

6.57

4.04

3.01

0.8

0.6

Đơn vị tính: %

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006

(Nguồn: Cục thống kê Việt Nam)

2.2.2 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2007-2012

Lạm phát tại Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2007, cùng với giai đoạn bùng

nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007, chỉ số

CPI tăng đến 12.75% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm. Năm 2008 là

một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam.

CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.87%, đây

là mức cao nhất kể từ năm 1992 đến nay. Tăng trưởng cung tiền M2 lên đỉnh điểm

tháng 10/2007 đến tháng 1/2008 với mức xấp xỉ 50%. Tăng trưởng tín dụng lên mức

42

đỉnh trên 55% vào tháng 1 đến tháng 4 năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007, thời

đoạn 12 tháng. Hậu quả CPI cũng lên mức cao nhất từ tháng 6 đến tháng 10 năm

2008 quanh mức 28%

Đồ thị 2.11: Lạm phát tại Việt Nam từ năm 2007 -2012

19.87

19.13

12.75

11.75

6.52

6.18

Đơn vị tính:%

2007 2008 2009 2010 2011 2012

(Nguồn: Cục thống kê Việt Nam)

Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều

hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát ở mức thấp mặc dù tăng trưởng tín

dụng và cung tiền tăng khá mạnh kể từ mức đáy lúc đầu năm. Rõ ràng tăng trưởng

tín dụng và cung tiền chưa tác động ngay đến CPI nhưng có thể để lại nguy cơ lạm

phát cao trong những tháng tới. Vào tháng 8 năm 2009, CPI đã xuống mức thấp nhất

1.97% so với cùng kỳ năm trước, cách đó 8 tháng thì tăng trưởng tín dụng và cung

tiền M2 đều ở mức 20%. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 năm 2009 lần lượt

là 37% và 27.5%.

Bảng 2.1: Tốc độ cung tiền và tín dụng giai đoạn 2007-2012 tại Việt Nam

Đơn vị 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Một số chỉ tiêu tính

Tốc độ tăng M2(%) 41.2 20.3 27.5 29.8 12 22.4 %

Tốc độ tăng tín dụng (%) 48.9 23.4 37.5 31.2 10.9 8.91 %

M2/GDP danh nghĩa (lần) 1.16 1.08 1.23 1.34 0.7 1.1 lần

Tín dụng/GDP danh nghĩa(lần) 0.9 0.86 1.06 1.16 0.65 0.6 lần

Tỷ lệ cho vay/Huy động (LDR) 0.95 1.01 1.01 0.7 0.6

(Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia)

43

Diễn biến CPI có thể nhận thấy sau khi lạm phát lên đến mức đỉnh điểm vào

năm 2008 và suy giảm vào năm 2009 do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, thì

ngay cuối năm 2009, CPI đã bắt đầu gia tăng trở lại; năm 2010 lạm phát bắt đầu tăng

trở lại lên 11.75% và tiếp tục tăng đến năm 2011 là 18.13%.

Các yếu tố gia tăng lạm phát năm 2010,2011 là do yếu tố cầu kéo, chi phí đẩy

đến các yếu tố tiền tệ và tâm lý.

- Nguyên nhân do cầu kéo

Mặc dù nền kinh tế Việt Nam chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, vẫn còn

nhiều nguồn lực cho tăng trưởng như nguồn nhân lực dồi dào và trẻ, nguồn vốn

trong và ngoài nước phong phú, nguồn tự nhiên chưa khai thác hết, nhưng lạm phát

trong những năm 2007 - 2012 vẫn có nguyên nhân từ phía cầu.

Thu nhập quốc dân tăng lên do kết quả tăng trưởng kinh tế nhiều năm liền

trước đó làm cho thu nhập của dân cư tăng lên (năm 2007: 8,46% ; năm 2008:

6,31%; năm 2009: 5,46%; năm 2010: 6,78%; năm 2011 tăng 5,34% và năm 2012

tăng 5.03%). Điều đó làm cho cầu tiêu dùng cá nhân gia tăng từ 2007 đến năm

2012, dẫn đến giá cả tăng liên tục nhiều năm liền.

Tốc độ tăng đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế bao gồm khu vực kinh tế trong

nước và nước ngoài cao trong nhiều năm liền (khoảng 25% - 35%/năm), nhất là đầu

tư nước ngoài vào Việt Nam tăng cao trong các năm: năm 2007 là 21 tỷ USD và đặc

biệt nhảy vọt trong năm 2008 (vốn FDI đăng ký trên 71 tỷ USD), trong những năm

2009, 2010, 2011 và 2012 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam khoảng 11 –12

tỷ USD/năm và thực tế giải ngân khoảng 8 -9 tỷ USD/năm đã làm cho cầu đầu tư

tăng lên nhanh chóng, đẩy giá nguyên, nhiên vật liệu và nhân công tăng cao. Tiền

lương tối thiểu trong khu vực hành chính, sự nghiệp đã tăng lên kéo tiền lương trong

khu vực sản xuất cũng tăng theo, làm gia tăng thu nhập bằng tiền và tiêu dùng trong

dân cư cũng tăng theo. Bên cạnh đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước,

đầu tư và chi tiêu công của Chính phủ cũng gia tăng mạnh qua các năm, bội chi

ngân sách những năm gần đây luôn tăng trên 5%, vượt mức phê duyệt của Quốc hội

hàng năm.

Xuất khẩu tăng nhanh qua nhiều năm, riêng năm 2006 là 39,8 tỷ USD, năm

2007 là 48,5 tỷ USD, năm 2008 đã đạt trên 62,6 tỷ USD; năm 2009 đạt gần 70 tỷ

USD, năm 2010 đạt 82 tỷ USD và năm 2011 ước đạt 100 tỷ USD làm cho việc tiêu

44

dùng sản xuất xuất khẩu như mua nguyên, nhiên, vật liệu, thuê mướn nhân

công….tăng nhanh, đẩy tổng cầu tăng nhanh.

Đồng thời, với chính sách đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu nhằm duy trì tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách tiền tệ mở

rộng, khi giữ mức lãi suất thị trường thấp, tỷ giá USD/VND ổn định. Điều đó thể

hiện trong năm 2007 Ngân hàng nhà nước đã phát hành khối lượng tiền mặt tăng

thêm 30%, chủ yếu để mua ngoại tệ nhằm giữ giá trị VND thấp, với mục đích

thúc đẩy xuất khẩu. Bên cạnh đó, do lãi suất thị trường thấp nên lượng tín dụng từ

các ngân hàng cũng tăng lên đến trên 35%, nhất là cho vay mua chứng khoán và kinh

doanh bất động sản, nhưng thiếu biện pháp để thu hút tiền về ngân hàng. Riêng

trong năm 2008, do thực hiện các gói giải cứu nền kinh tế thoát khói suy thoái kinh

tế nên lượng tiền trong lưu thông tăng lên rất nhanh điều này cũng làm gia tăng lạm

phát trong năm 2008. Chính sách mở rộng tiền tệ tiếp tục được thực hiện trong năm

2009, 2010 khi dư nợ tín dụng tăng trên 35 – 36%/năm càng làm gia tăng lượng tiền

trong lưu thông.

- Nguyên nhân do chi phí đẩy

Trong năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của

WTO, đánh dấu sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Do

đó, các biến động trên thị trường thế giới đều ảnh hưởng đến thị trường trong

nước. Giá dầu trên thị trường thế giới tăng cao ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế

Việt Nam, mặc dù, Việt Nam là nước xuất khẩu dầu, nhưng khi giá dầu lên lại ảnh

hưởng xấu đến nền kinh tế, bởi vì, Việt Nam chưa có công nghiệp hóa dầu mạnh nên

chủ yếu phải nhập xăng dầu và các nguyên liệu sản xuất từ dầu hỏa với giá cao,

trong khi phải xuất khẩu dầu thô với giá thấp. Giá dầu tăng cao và giá cả các hàng

hóa nguyên, nhiên vật liệu khác trên thế giới tăng cao quả thật đã đè nặng lên chi

phí sản xuất của Việt Nam, bởi vì, Việt Nam phải nhập nhiều thứ hàng hóa máy móc,

thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất kinh doanh trong nước và cho xuất khẩu.

Từ năm 2007 mức nhập siêu của Việt Nam luôn tăng cao, trong đó, đến 80% là nhập

khẩu máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất. Giá nhập khẩu tăng

đã đẩy giá thành sản xuất trong nước tăng cao, buộc nhà sản xuất, kinh doanh phải

nâng giá bán lên, đẩy mức giá cả chung tăng lên. Trong khi đó, năng suất lao động

của Việt Nam còn thấp, việc ứng dụng khoa học – công nghệ nhằm nâng cao năng

45

suất lao động, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm còn ít, nên cũng không thể

hạ giá bán sản phẩm hàng hóa.

Từ giai đoạn từ năm 2007-2012 Việt Nam thường xuyên chịu nhiều thiệt hại

do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Bão, lũ các tỉnh miền Bắc, miền Trung đã làm tình

hình sản xuất lương thực, thực phẩm của các địa phương này gặp khó khăn, kèm theo

dịch bệnh liên tục đã làm cho giá lương thực, thực phẩm tăng cao. Đồng thời, các

cơn sốt nhà đất, bất động sản trong những năm qua cũng đã đẩy giá nhà, giá căn hộ,

giá thuê nhà ở, giá văn phòng cho thuê tăng cao. Bên cạnh đó, giá các dịch vụ khác

cũng đều gia tăng như giá điện, giá nước, chi phí học tập, giá dịch vụ y tế….Tất cả

đều ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, nhất là đến giá trị sức lao động, gây sức ép đẩy

giá nhân công tăng cao, và làm cho chi phí sản xuất tăng cao, góp phần đẩy mức giá

chung tăng lên.

Trong năm 2011 việc điều chỉnh tỷ giá vào đầu năm quá cao và đột ngột làm

cho đồng tiền Việt Nam bị mất giá 9,3% đã đẩy giá tất cả hàng hóa nhập khẩu tăng

cao, trong đó, phần lớn nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng trong

nước và xuất khẩu đều là hàng nhập khẩu.

Lãi suất tăng cao vừa là biện pháp kiềm chế lạm phát nhưng đồng thời lại có

tác động làm tăng chi phí tài chính cho doanh nghiệp, vì vậy cũng góp phần làm tăng

giá cả hàng hóa khi doanh nghiệp chuyển chi phí đó cho người tiêu dùng và đẩy lạm

phát gia tăng. Năm 2011, Ngân hàng nhà nước đã dùng giải pháp thắt chặt tiền tệ,

nâng trần lãi suất tiền gửi lên 14%/năm, trong khi thả nổi lãi suất cho vay. Bên cạnh

đó, Ngân hàng nhà nước đã không có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát việc thực

hiện trần lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, nhất là

các ngân hàng thiếu thanh khoản, tạo ra cuộc đua lãi suất của các ngân hàng và đẩy

lãi suất tiền gửi thực tế lên đến 17 – 19%/năm làm cho lãi suất cho vay cũng bị đẩy

lên 22 – 24%/năm. Điều này đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc

tiếp cận đến nguồn vốn, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm cho sản xuất bị đình

đốn, nhiều doanh nghiệp thiếu vốn đã phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh, sa thải bớt

công nhân. Tác động làm thiếu nguồn cung hàng hóa và đẩy giá hàng hóa gia tăng.

Với chủ trương điều hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, Chính phủ đã

quyết định thực hiện cơ chế giá các mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế như xăng,

dầu, điện, nước, lương thực, thực phẩm theo giá thị trường. Tuy nhiên, do việc điều

46

chỉnh tăng giá các mặt hàng xăng, dầu, điện, nước không đúng thời điểm nên đã góp

phần làm tăng giá trong nền kinh tế, đẩy tỷ lệ lạm phát tăng cao. Trong năm 2011,

dưới tác động của tăng tỷ giá VND đầu năm, giá xăng dầu đã hai lần tăng cao, lên

đến 20%, còn giá điện cũng được điều chỉnh hai lần tăng lên trên 20%, giá thực

phẩm, gia súc, gia cầm, thủy sản và rau xanh tăng mạnh vào tháng 7 và giá dịch vụ

giáo dục cũng tăng mạnh vào tháng 9/2011.

- Yếu tố tiền tệ

Đằng sau những nguyên nhân trực tiếp trên là vấn đề cố hữu của nền kinh tế

trong nhiều năm qua. Sau những năm phát triển, kinh tế bị suy giảm từ năm 2000,

các nhân tố lạm phát bắt đầu được nuôi dưỡng khi giải pháp kích cầu tăng trưởng

thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được ưa

chuộng để kích thích nền kinh tế. Tuy nhiên, khả năng sản xuất trong nước lại không

đáp ứng được sự tăng lên của nhu cầu nội địa. Chi tiêu của nhà nước so với GDP đã

tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng

lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004. Năm 2009, bội chi ngân sách đã

lên cao, chiếm 7% GDP trong khi đó hệ số ICOR tính bình quân 5 năm cho cả 2 giai

đoạn 2001 – 2005 là 4,6% và 2006 – 2010 là 5,8% của Việt Nam đều cao gấp đôi so

với Malaysia hay Indonesia khi các nước này ở trong cùng giai đoạn giống Việt

Nam. Thực tế, chỉ số ICOR cao cũng không phải là điều đáng lo ngại nếu nó được

giải thích bởi sự gia tăng cơ sở hạ tầng, xây dựng phát triển đẩy mạnh nền tảng kinh

tế nhưng tình hình Việt Nam, tổng chi đầu tư cho kết cấu hạ tầng trên GDP cao

nhưng kết cấu hạ tầng vẫn còn nhiều bất cập. Điều này cho thấy cơ cấu đầu tư của

Việt Nam có vấn đề, cơ cấu kinh tế chưa thực sự hợp lý để tạo điều kiện phát triển

bền vững cho những năm sau.

Việc bơm tiền ra để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, song hệ số ICOR

cao, nguy cơ lạm phát là khó tránh khỏi. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2009 đã ở

mức 38%, gấp 7 lần tốc độ tăng trưởng GDP, cao hơn nhiều so với mức chênh lệch

3,5 lần giữa tốc độ tăng tín dụng bình quân và tốc độ tăng GDP trong 5 năm trước.

Đây là sức ép gây ra lạm phát cho năm 2010,2011.

Trong năm 2012, xu thế lạm phát tính theo năm giảm dần kể từ mức đỉnh 23%

vào tháng 8/2011 được khẳng định chắc chắn khi xuống đến mức đáy 5,04% vào

47

tháng 8/2012. Sau 8 tháng, so với cuối năm 2011 nên đã có thể khẳng định chắc chắn

kiềm chế lạm phát cả năm ở mức một con số.

Diễn biến lạm phát ổn định liên tục suốt 6 tháng có sự đóng góp không nhỏ

của việc 5 lần liên tiếp điều chỉnh giảm giá xăng dầu đưa về mức còn thấp hơn so với

đầu năm 2012. Kết quả nổi bật của điều hành thị trường xăng dầu và điện là biến

động giá cả của hai nhóm vốn thường xuyên dẫn đầu về tốc độ tăng giá trong mấy

năm gần đây là nhóm giao thông và nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng đã tăng chậm hẳn

lại.

So với cuối năm 2011, chỉ số giá nhóm nhà ở vật liệu xây dựng tháng 7 chỉ

tăng 2,89% và tháng 8 tăng 4,98% do giá điện bình quân tăng 5% kể từ 1/7/2012 còn

chỉ số giá nhóm giao thông tháng 8 thậm chí chỉ tăng 2,6% - thấp hơn cả mức tăng

CPI chung. Mặc dù, giá xăng dầu lại tăng liên tiếp 4 lần từ cuối tháng 7/2012 trước

khi giảm nhẹ vào tháng 11/2012 song chỉ số giá nhóm giao thông cả năm 2012 chỉ

tăng 6,67% so với cuối năm trước – mức tăng thấp xa so với mức tăng tương ứng tới

19,04% của năm 2011.

Bên cạnh đó, việc trì hoãn tăng giá điện thêm 5% đến tận ngày 21/12/2012

thay vì tăng ngay từ đầu quý IV/2012 cũng trực tiếp tác động làm chỉ số giá nhóm

nhà ở, vật liệu xây dựng cả năm 2012 chỉ tăng 9,18%, nghĩa là chỉ bằng hơn một nửa

so với mức tăng tương ứng tới 17,29% của năm 2011.

Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch ăn uống vốn chiếm tỷ trọng 39,39% trong rổ

hàng hóa dịch vụ tính CPI lại tăng rất thấp trong năm 2011. So với cuối năm trước,

CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống năm 2012 chỉ tăng vỏn vrj có 1,01% trong đó

giá thực phẩm tăng 0,95% còn chỉ số giá nhóm lương thực giảm tới 5,66%. Đây là

bức tranh hoàn toàn trái ngược với năm 2011 khi các chỉ số tương ứng lần lượt là

24,8%, 27,38% và 18,98%.

Diễn biến thị trường giá cả năm 2012, giá dịch vụ gây bất ngờ lớn và tác động

mạnh tới lạm phát năm 2012, đặc biệt là giá thuốc và dịch vụ y tế. Từ tháng 7/2012,

chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng tới 17,2%, riêng chỉ số giá dịch vụ y tế

tăng vọt 23,87% so với tháng trước. Mặc dù thuốc và dịch vụ y tế chỉ chiếm 5,61%

trong rổ tính chỉ số giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, do mức điều chỉnh quá mạnh

và đồng loạt ở nhiều địa phương nên CPI suốt 7 tháng đầu năm làm cho lạm phát

tăng cao. Thời điểm đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 25/2012/CT – TTg

48

ngày 26/9/2012 tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá những tháng

cuối năm 2012 với nội dunng chủ yếu là giãn tiếp độ điều chỉnh tăng giá điện và dịch

vụ y tế. Nhờ sự chỉ đạo kiên quyết và kịp thời của Chính phủ và thị trường giá cả quí

IV/2012 đã nhanh chóng ổn định trở lại và nguy cơ tái lạm phá cao đã bị đẩy lùi. Chỉ

số giá tiêu dùng 3 tháng cuối năm 2012 tăng chậm trở lại, góp phần tích cực vào

thành tích CPI cả năm tăng 6,81% so với cuối năm trước và bình quân cả năm tăng

9,21% - đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát đặt ra từ đầu năm.

Sự ổn định của lạm phát năm 2012 là kết quả và chịu sự chi phối rất lớn của sự tăng

chậm lại rõ rệt của tổng cầu, cả tổng cầu tiêu dùng và tổng cầu đầu tư, cả tổng cầu

trong nước và xuất khẩu.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội quí I/2012 tăng lên 36,2% GDP từ mức 34,6% GDP

năm 2011 trước khi giảm xuống 34,5% GDP sau 6 tháng rồi lại tăng lên 35,8% GDP

sau 9 tháng rồi lại hạ xuống còn 33,5% GDP cả năm 2012 – mức thấp nhất trong hơn

10 năm qua. Tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng tốn năm 2012 đạt 13,013 tỷ

USD, chỉ bằng 84,7% so với năm 2011 còn vốn FDI đã giải ngân cũng chỉ được

10,46 tỷ USD, bằng 95,1% so với cùng kỳ năm 2011.

Kiềm chế lạm phát năm 2012 còn được sự hỗ trợ của ổn định tỷ giá hối đoái

suốt cả năm 2012 với tỷ giá hối đoái liên ngân hàng cố định ở mốc 20.828

VND/USD. Chỉ số giá vàng tháng 12/2012 chỉ tăng 0,4% so với năm trước, bình

quân cả năm tăng 7,83% và chỉ số giá đô la Mỹ thậm chí còn giảm 0,96% và bình

quân cả năm tăng có 0,18%.

Song song với chính sách ổn định tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ và tín

dụng ngân hàng thận trọng đã góp phần tích cực vào kiềm chế lạm phát năm 2012.

Mặt bằng lãi suất cũng được kéo giảm xuống rõ rệt trong năm 2012 nhằm ổn định thị

trường tiền tệ ngân hàng.

Mặc dù trần lãi suất huy động đã giảm mạnh từ 14% năm 2011 xuống 8% vào

cuối năm 2012 nhưng tổng tiền gửi bằng VND của dân cư vấn tăng tới 36% và tổng

phương tiện thanh toán tăng khoảng 20% trong khi tổng tín dụng chỉ tăng khoảng 7%

với lãi suất cho vay 12-15%/năm, giảm nhiều so với mức 25%/năm của năm 2011.

Chính sách tài khóa năm 2012 tuy chưa thật sự thắt chặt nhằm kiềm chế lạm

phát song cũng không nới lỏng chi tiêu NSNN để có thể gây ra lạm phát cao. Trong

khi tổng thu cân đối NSNN năm 2012 đạt 741,5 ngàn tỷ đồng, tăng 0,14% so với dự

49

toán và tăng 5,3% so với năm 2011 thì tổng chi NSNN kiềm chế ở mức 904,1 ngàn

tỷ đồng, chỉ tăng 0,11% so với dự toán và tăng 14,6% so với năm 2011 nên vẫn duy

trì được bội chi NSNN ở mức 4,8%GDP.

Đầu tư công năm 2012 cũng được quản lý chặt chẽ hơn theo chỉ thị

1792/2011/CT – TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư vốn NSNN và

vốn trái phiếu chính phủ.

Tóm lại, lạm phát năm 2012 là đã ổn định sau hai năm 2010 – 2011 đầy bất ổn, góp

phần tích cực vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.

2.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam

2.3.1 Mô hình nghiên cứu

- Giả thuyết 1 : Giá vàng tác động đến lạm phát tại Việt Nam

Giả thuyết này dựa trên luận điểm :

• Khi giá vàng biến động kéo theo giá nhiều loại hàng hóa đặc biệt khác biến

động theo. Tác động rõ nhất là khi giá vàng tăng thì giá ngoại tệ đặc biệt là USD trên

thị trường cũng tăng. Giá vàng tăng cao ảnh hưởng tới xu hướng tăng của tất cả các

loại hàng hóa thiết yếu khác, ở đây có yếu tố tâm lý rất lớn. Trong khi đó, nền kinh tế

luôn trong tình trạng nhập siêu, cân đối ngoại tệ liên ngân hàng luôn căng thẳng. Hai

yếu tố cộng hưởng này làm cho tâm lý người dân bị đẩy lên. Điều này dẫn đến người

dân có xu hướng tích trữ các loại hàng hóa, tạo nên sự biến động trong nguồn cầu

trong khi nguồn cung chưa kịp thời thay đổi, do đó làm giá các loại hàng hóa này

tăng cao.

• Giá vàng ảnh hưởng đến CPI. Mặc dù vàng không được tính vào 572 nhóm

hàng hóa và dịch vụ để tính CPI, nhưng khi giá vàng tăng, các nguyên liệu đầu vào

phục vụ cho việc sản xuất, chế tác các dòng sản phẩm có liên quan đến vàng hoặc

ngành vàng bạc đá quý sẽ tăng theo, dẫn đến giá bán tăng đối với nhóm hàng hóa

này. Khi giá bán của các sản phẩm kim loại quý tăng, các sản phẩm này sẽ tác động

gián tiếp tới 572 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính thức nói trên.

• Một ảnh hưởng trực tiếp rõ nét khác đó là tác động đến thị trường tiền tệ,

chứng khoán và thậm chí là bất động sản. Khi giá vàng tăng gây ảnh hưởng gián tiếp

đến CPI, những dấu hiệu về lạm phát xuất hiện. Nếu tỷ lệ lạm phát không dao động

trong vùng kiểm soát theo kỳ vọng chung của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ

50

phải xem xét thực thi một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất cơ bản, điều chỉnh tỷ

lệ dữ trữ bắt buộc và điều tiết tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế để kiềm

chế lạm phát. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán và bất động sản được coi là kênh

đầu tư thay thế cho vàng của các nhà đầu tư, một khi cơ hội đầu tư tại thị trường

vàng tăng cao thì thị trường chứng khoán ngay lập tức thiếu tính thanh khoản và thị

trường bất động sản ít sôi động là đúng quy luật. Giá vàng tăng ảnh hưởng trực tiếp

đến khả năng huy động nguồn vốn của các khu vực tài chính vì khi giá vàng tăng

người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Đồng thời

vốn rút ra lại loanh quoanh ở thị trường vàng dẫn đến khả năng huy động vốn của

các ngân hàng thương mại giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ

thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vàng tăng khiến thị trường

ngoại tệ tự do bành trướng mạnh mẽ. Tình trạng đôla hóa ở Việt Nam không chỉ biểu

hiện bằng tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/Tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là

khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng và chênh

lệch lớn với giá vàng thế giới làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để

nhập khẩu vàng lớn dẫn đến tỷ giá USD/VND tăng vọt, ngoài tầm kiểm soát của

Ngân hàng nhà nước.

Mặc dù vàng không đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ thế giới,

nhưng giá vàng có thể là một chỉ số dự báo tốt cho lạm phát. Lý do là nếu nhà đầu tư

tin rằng vàng là tài sản để bảo tồn giá trị trước lạm phát thì với sự kỳ vọng lạm phát

tăng cao hơn sẽ dẫn tới một số các nhà đầu tư chuyển vốn ra khỏi các tài sản tài

chính với lãi suất danh nghĩa cố định hình thành vàng hoặc đồ trang sức. Do đó,

nguồn cung vàng tương đối cố định, giá vàng có thể tăng mạnh với ngay cả việc sự

gia tăng nhỏ trong cầu.

Trong rổ hàng hóa tính CPI không bao gồm vàng, nên giá vàng tăng không

trực tiếp làm tăng lạm phát. Tuy nhiên, theo truyền thống, người Việt Nam thường

neo giá hàng hóa có giá trị lớn với vàng, điển hình là bất động sản, do đó giá vàng

tăng thì giá hàng hóa tăng theo. Vậy tăng giá vàng làm tăng lạm phát.

- Giả thuyết 2 : Lạm phát tác động đến giá vàng tại Việt Nam

Về mặt lý thuyết trong một nền kinh tế có thu nhập, chỉ số giá tăng thì nhiều

mặt hàng có khả năng bảo toàn giá trị, trong đó có vàng sẽ tăng giá tức thời. Lý

tưởng nhất là giá cả hàng hóa tăng theo cùng một tỷ lệ. Vậy lạm phát tăng làm giá

51

vàng tăng theo. Ngoài ra, khi có lạm phát, người dân tránh giữ tiền mặt, mua vàng để

bảo toàn vốn là một trong số những lựa chọn hiệu quả nhất. Cầu vàng tăng thì giá

vàng sẽ tăng và mức tăng sẽ cao hơn mức tăng của lạm phát. Giả thuyết đầu cơ lập

luận rằng những thay đổi trong kỳ vọng lạm phát sẽ gây ra những thay đổi ngay lập

tức đến giá vàng.

Thực tế ở Việt Nam trong những năm 70,80 nền kinh tế là nền kinh tế tập

trung, bao cấp không tạo được động lực phá triển, làm suy thoái năng lực sản xuất xã

hội, lạm phát gia tăng với tốc độ chóng mặt khiến cho đồng tiền mất giá. Các chủ

trương, chính sách không phù hợp như đổ i tiền, kiểm kê tài sản, kiểm tra hành

chính, điều chỉnh giá bán buôn – giá bán lẽ, …khiến cho tâm lý người dân luôn

hoang mang, chính vì vậy mà người dân không tin tưởng vào tiền đồng mà tích trữ

vàng, vàng trở thành vật đảm bảo giá trị tiền đồng. Lạm phát của Việt Nam trong

những năm 70,80 tăng cao, rất nghiêm trọng và nguy hiểm: Giá cả hàng hóa tăng với

tốc độ phi mã, đỉnh điểm vào năm 1986 với tỷ lệ lạm phát là 774,7%. Chỉ số giá bán

lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980; năm 1987 tăng 124,42 lần so với năm

1985 và năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985. Không chỉ riêng người dân,

ngay cả các đơn vị sản xuất kinh doanh cũng xem vàng là nơi trú ẩn tạm thời tốt nhất

cho vốn lưu động khi chưa mua được nguyên liệu. Giá của tất cả các mặt hàng đều

được người dân nhẩm tính và quy ra vàng. Lúc này, mặc dù Nhà nước không công

khai thừa nhận vàng làm chức năng lưu thông, thanh toán nhưng trong thực tế người

dân đã trao đổi, mua bán bằng những đơn vị tiền vàng. Việc giá vàng tăng cao đã gây

nên hội chứng tâm lý làm nhiều người dân đổ xô đi mua vàng, một số đã rút tiết kiệm

để mua vàng.

Từ năm 2000 đến năm 2006 nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này đã có nhiều đổi

khác, các thành phần kinh tế trong xã hội được khuyến khích mở rộng hoạt động

kinh doanh. Nhiều chính sách kinh tế thông thoáng được ban hành cùng với việc thu

hút đầu tư từ nhiều nguồn đặc biệt từ các nhà đầu tư nước ngoài, lượng dữ trữ ngoại

hối. Hành lang pháp lý dần được mở rộng, đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư. Tâm

lý tích trữ vàng trong dân giảm đáng kể so với thời kỳ trước, người dân đã mạnh dạn

đầu tư kinh doanh, mở rộng hoạt động sản xuất. Thị trường ngoại tệ, thị trường

chứng khoán, thị trường bất động sản dần hình thành và phát triển tạo nên các kênh

đầu tư hấp dẫn giúp những nhà đầu tư trong nước và ngoài nước có thêm nhiều lựa

52

chọn cho nguồn vốn đầu tư của mình. Với việc kiểm giữ với tốc độ lạm phát ở mức

an toàn, đồng tiền Việt Nam đã không còn bị mất giá như trước, người dân đã tin

tưởng vào tiền đồng, mặc dù giá vàng trong nước có biến động do ảnh hưởng giá

vàng thế giới nhưng không ảnh hưởng nhiều đến thị trường trong nước.

Từ năm 2006 đến năm 2012 nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động, là do

Việt Nam đã gia nhập WTO vào cuối năm 2006. Việc gia nhập tổ chức này, làm cho

Việt Nam và thế giới hội nhập nhiều hơn, các quan hệ thông thương với thế giới

ngày càng mở rộng. Do đó, những biến động trong nền kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng

đến Việt Nam. Trong giai đoạn 2007-2012 tình hình lạm phát tăng nhanh, nằm ở hai

con số. Người dân lo sợ đồng nội tệ bị mất giá nên tìm tài sản đảm bảo an toàn đó là

vàng để cất trữ. Điều này làm cho giá vàng trong giai đoạn này diễn biến tăng nhanh.

Như vậy, với thực tế xảy ra có thể thấy rằng lạm phát có tác động đến giá vàng.

Để phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam sử dụng

phân tích nhân quả theo phương pháp Granger. Theo Granger (1969) phương pháp

phân tích các mối quan hệ nhân quả thực hiện như sau: muốn kiểm tra quan hệ nhân

quả giữa X và Y, tiến hành kiểm tra cách biểu diễn Y theo X và X theo Y. Nếu biến

X - Giá vàng gây ra sự thay đổi của biến Y- lạm phát, thì sự thay đổi của X sẽ có

trước sự thay đổi của Y, với hai điều kiện phải có được đó là:

- Nếu X giúp cho việc dự đoán Y tức là trong hồi quy của Y đối với các giá trị trễ

của Y và những giá trị trễ của X như là các biến độc lập, sẽ đóng góp một cách có ý

nghĩa vào khả năng giải thích của hồi quy.

- Y không giúp cho dự đoán của X. Vì nếu X giúp cho dự đoán của Y, và Y lại giúp

cho dự đoán X thì điều này dường như là có một số biến khác đang gây ra sự thay

đổi của cả X và Y. Cách này phổ biến trong thực tế để xem xét cả hai chiều tác động

là X là nguyên nhân của Y, Y nguyên nhân của X. Trong quan hệ nhân quả theo

Granger chúng ta đặt giả thuyết kiểm định X không là nguyên nhân của Y, và nếu có

thể bác bỏ giả thuyết này, thì ngụ ý rằng X là nguyên nhân của Y.

Để kiểm định liệu có tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger giữa hai chuỗi thời gian

Y và X trên Eviews, xây dựng hai phương trình sau:

(cid:3041) (cid:1850)(cid:3047) = (cid:3533) (cid:2009)(cid:3036)(cid:1851)(cid:3047)(cid:2879)(cid:3036) + (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869)

(cid:3040) (cid:3533) (cid:2010)(cid:3037)(cid:1850)(cid:3047)(cid:2879)(cid:3037) + (cid:1873)(cid:2869)(cid:3047) (cid:3037)(cid:2880)(cid:2869)

(2.1)

53

(cid:3041)

(cid:3036)(cid:2880)(cid:2869)

(cid:3040) (cid:3533) (cid:2012)(cid:3037)(cid:1850)(cid:3047)(cid:2879)(cid:3037) + (cid:1873)(cid:2870)(cid:3047) (cid:3037)(cid:2880)(cid:2869)

(2.2) (cid:1851)(cid:3047) = (cid:3533) (cid:2019)(cid:3036)(cid:1851)(cid:3047)(cid:2879)(cid:3036) +

Để xem các biến trễ X có giải thích cho Y (X tác động nhân quả Granger lên Y) và

các biến trễ của Y có giải thích cho X (Y tác động nhân quả Granger lên X), tiến

hành kiểm định giả thuyết sau đây:

(2.3) Phương trình: H0 :α1= α2=…….. =αi =0

(2.4) Phương trình: H0 :δ1= δ 2=……..= δ j =0

Để kiểm định các ràng buộc này, có thể sử dụng ba cách kiểm định:

Likelihood Ratio (LR), thống kê F của kiểm định Wald và Lagrane Multiplier (LM).

Ý tưởng cơ bản của ba thủ tục kiểm định này là đánh giá sự khác biệt giữa mô hình

giới hạn và mô hình không giới hạn. Nếu các ràng buộc không ảnh hưởng nhiều đến

mức độ phù hợp của mô hình, thì có thể chấp nhận các ràng buộc đó là hợp lý.

Ngược lại nếu mô hình giới hạn không phù hợp bằng mô hình không giới hạn, thì có

thể bác bỏ giả thuyết H0 (bác bỏ mô hình giới hạn). Ngoài ra, LR thường được sử

dụng để kiểm định đưa thêm hay bỏ bớt một hoặc một số biến giải thích vào hoặc ra

khỏi mô hình. Do đó, trong bài nghiên cứu này, sẽ đi theo hướng sử dụng kiểm định

LR.

Cách quyết định quan hệ nhân quả Granger như sau:

- Nhân quả Granger một chiều từ X sang Y nếu các biến trễ của X có tác động lên

Y, nhưng các biến trễ của Y không tác động lên X.

- Nhân quả Granger một chiều từ Y sang X nếu các biến trễ của Y có tác động

lên X, nhưng các biến trễ của X không tác động lên Y.

- Nhân quả Granger hai chiều giữa X và Y nếu các biến trễ của X tác động lên Y

và các biến trễ của Y tác động lên X.

- Không có quan hệ nhân quả Granger giữa X và Y nếu các biến trễ của X không

có tác động lên Y và các biến trễ của Y không tác động lên X.

Với giả định rằng khi các yếu tố khác không đổi thì dữ liệu chuỗi thời gian là

chuỗi dữ liệu duy nhất hàm chứa đầy đủ các thông tin thích hợp để giải thích cho

những sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các biến. Gujarati (2003,696) cho rằng khi

hồi quy chuỗi dữ liệu thời gian thì một vấn đề quan tâm là phải kiểm định mối quan

hệ nhân quả giữa các biến để xem xét trong các biến, biến nào là biến nguyên nhân

54

và biến nào là biến kết quả. Để xem xét mối quan hệ đó, sử dụng mô hình nhân quả

Granger. Theo Granger, sẽ tiến hành ước lượng các phương trình hồi quy giữa giá

vàng và lạm phát, từ đó kiểm định tồn tại mối quan hệ nhân quả.

Điều kiện cần để có thể thực hiện được kiểm định nhân quả Granger là:

- Các biến lạm phát, giá vàng phải là các chuỗi dừng và/hoặc đồng liên kết, không

có hiện tượng tương quan giả.

- Chiều hướng của mối quan hệ nhân quả có thể phụ thuộc vào số biến trong mô

hình. Nói cách khác, kết quả kiểm định Granger rất nhạy cảm với việc lựa chọn độ

trễ các biến. Nếu độ trễ được chọn bé hơn độ trễ thực sự, thì việc bỏ sót biến trễ thích

hợp có thể làm chệch kết quả. Ngược lại, nếu lớn hơn, thì số biến trễ không thích hợp

sẽ làm cho các ước lượng không hiệu quả.

- Các phần dư không có hiện tượng tự tương quan. Nếu có hiện tượng tương quan

cần phải thực hiện việc chuyển sang một dạng mô hình thích hợp hơn.

- Kiểm định đồng liên kết:

Gujarati (1999,460) cho rằng mặc dù các chuỗi thời gian không dừng nhưng

rất có thể vẫn còn tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa chúng nếu các chuỗi

thời gian đó đồng liên kết – nghĩa là phần dư từ phương trình hồi quy của các chuỗi

thời gian không dừng là một chuỗi dừng.

(2.5) Giả sử hồi quy Y theo X: Yt=β1+ β2Xt+ut

(2.6)

Hay có thể viết lại là : ut=Yt - β1 – β2Xt

Vậy nếu như phần dư của phương trình hồi quy là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi

quy của phương trình (2.5) có ý nghĩa, tức không có hiện tượng tương quan giả.

Trong trường hợp này, hai biến X và Y được gọi là đồng liên kết và hệ số ước lượng

α2 được gọi là hệ số hồi quy đồng liên kết. Nói theo ngôn ngữ kinh tế học, hai biến

đồng liên kết khi chúng có mối quan hệ dài hạn, hay ổn định với nhau. Như thế thì

nếu ta kiểm định phần dư từ phương trình (2.5) và nhận thấy phần dư là dừng tức là

có phân phối chuẩn, thì các kiểm định truyền thống vẫn áp dụng được cho chuỗi thời

gian không dừng. Theo Granger, kiểm định đồng liên kết như cách kiểm định trên để

tránh hiện tượng hồi quy tương quan giả. Mô hình này có thể được mở rộng cho

trường hợp mô hình hồi quy có k biến giải thích.

Để kiểm định đồng liên kết, người ta sử dụng kiểm định DF hoặc ADF theo các bước

sau đây:

55

- Hồi quy phương trình dạng như phương trình (2.5) và có được phần dư ut

- Thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị cho phần dư ut trên. Nếu giá trị tuyệt đối |τ|

tính toán lớn hơn giá trị tuyệt đối |τ| tra bảng thì phần dư là một chuỗi dừng, và vì

thế phương trình (2.5) là phương trình hồi quy đồng liên kết. Lúc này có thể kết luận

X và Y thực sự có mối quan hệ dài hạn.

Vì giá vàng và lạm phát cùng tăng theo thời gian nên không thể hồi quy trực

tiếp giá vàng và chỉ số giá tiêu dùng với nhau để tránh việc mô hình bị hiện tượng

hồi quy giả mạo (spurious regression).

Do Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm khá tương đồng cả về chính sách

cũng như tâm lý tích trữ vàng của người dân nên chọn độ trễ là 6 tháng theo kết quả

nghiên cứu của ngân hàng Trung ương Canada ứng với trường hợp của Trung Quốc.

2.3.2 Dữ liệu nghiên cứu

Nguồn dữ liệu :

- Tỷ lệ lạm phát được tính toán từ tốc độ tăng trưởng của chỉ số CPI. Số liệu CPI,

giá vàng, tỷ giá USD/VND được lấy từ nguồn Tổng cục thống kê, Cục thống kê

Thành phố Hồ Chí Minh.

- Việc lấy số liệu tỷ giá USD/VND như trên là điểm hạn chế vì giá vàng trong

nước thường đuợc quy đổi từ giá vàng thế giới theo tỷ giá USD/VND trên thị trường

tự do. Tuy nhiên, số liệu tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do là không thể thu

thập đầy đủ trong suốt khoảng thời gian nghiên cứu.

- Dữ liệu được lấy trong giai đoạn 01/2000 đến 12/2012

2.3.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam

2.3.3.1 Kiểm định sự tác động của tỷ giá USD/VND đến lạm phát và giá

vàng tại Việt Nam

Do giá vàng thế giới hiện nay chủ yếu được yết giá và giao dịch bằng USD,

Việt Nam lại là nước chủ yếu nhập khẩu vàng, nên sử dụng một lượng USD không

nhỏ, ảnh hưởng đến cán cân thương mại quốc gia. Hiện nay hoạt động nhập khẩu

vàng vào Việt Nam đang được quản lý rất chặt chẽ, các doanh nghiệp kinh doanh

vàng muốn nhập khẩu phải xin hạn ngạch từ NHNN. Khi chênh lệch giữa giá vàng

trong nước và thế giới tăng cao, không được phép nhập khẩu qua đường chính

thức, nhà đầu cơ đẩy mạnh mua USD để nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm

tiền USD và đẩy giá USD lên cao, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đẩy giá vàng

56

tăn ng tương ứn ng, tạo vòng g xoáy giữa a vàng và U USD. Do đó ó sẽ tiến hàn nh kiểm địn nh tác

độn ng của tỷ gi iá USD/VN ND đối với l lạm phát và à giá vàng.

(Kiểm địn Bả ảng 2.2: Kế ết quả kiểm m định đồn ng liên kết h Trace)-Đ Độ trễ (sai phân

bậc c nhất) : 1- - 6

đồng Mối quan hệ M Trị riêng g Thống kê Tr T race Gi iá trị tới hạn n 5%

iên kết giả đ li định (Eigen valu ue)

Kh hông* 6 0.320556 108 8.2713 29.7 79707

Tối i đa 1* 3 0.221933 49 9.9129 15.4 49471

Tối i đa 2* 0.07652 12.0 02059 3.84 41466

(Ng guồn : Phụ lục 1)

Vớ ới mức ý ng ghĩa 5%, ta thấy giá trị ị thống kê T Trace > Giá á trị tới hạn n, nên bác b bỏ giả

thu hĩa là giữa g giá vàng, lạ ạm phát và t tỷ giá USD D/VND có tí ính đồng liê ên kết uyết H0, ngh

và tồn tại mối i quan hệ dà ài hạn giữa chúng, do đó không c có hiện tượn ng hồi qui t tương

an giả trong g phương t trình và các c kiểm định h thống kê truyền thố ống vẫn áp qua dụng

tron ng trường h hợp này.

định giả thu uyết tỷ giá U USD/VND t tác động đế ến lạm phát tại Việt Na am • Kiểm đ

Kh hi đưa tỷ giá á USD/VND D vào mô h hình thì mô m định tỷ gi iá USD/VN ND tác ô hình kiểm

độn ng lên lạm p phát có dạn ng:

Tro ong đó:

hằng số + C1: h

ai số + ε1: sa

riêng + a : hệ ệ số hồi qui

+ P: tỷ t lệ lạm phát

g ỷ lệ giá vàng + G: tỷ

+ i : độ ộ trễ thứ i củ t ủa lạm phát

+ j : độ ộ trễ thứ j củ t ủa lạm phát

+ t : độ ộ trễ thứ t củ ủa tỷ giá US SD/VND

57

+ n : độ ộ trễ (n=1,2 2,3,4,5,6)

Vớ ới giả thuyế t tỷ giá US SD/VND có ó tác động đ đến lạm phá át, sẽ kiểm định các b iến tỷ

giá á USD(-1), USD(-2), U USD(-3), U USD(-4), U USD(-5), U những biến n thừa SD(-6) là n

tron ng mô hình h, nghĩa là k kiểm định g giả thuyết H ủa các biến USD(-1), U USD(- H0: hệ số củ

2), USD(-3), U USD(-4), U USD(-5), US SD(-6) đồng g thời bằng g 0 với mức ý nghĩa α = = 5%.

u kết quả k kiểm định bá ác bỏ giả th ó nghĩa tỷ g giá có tác độ ộng đến lạm m phát Nế huyết H0, có

và cần thiết đư ưa các biến tỷ giá vào mô hình kiể ểm định.

quả kiểm định LR c Bả ảng 2.3 Kết ho giả thuy yết tỷ giá U USD/VND t tác động đ đến sự

tha ay đổi lạm iệt Nam phát tại Vi

Giá trị n Sai phân t Xác suất

Thố ống kê F 1.17985 59 (6,131) 0.321

Tỷ số ln hàm h hợp lý 7.89446 67 6 0.2459

(Ngu ồn: Phụ luc c 2 và Phụ lục 3)

Kế t quả kiểm định cho th hấy giá trị x xác suất Pro ob. F(6,131 ) = 32.21% % > α = 5%, , chấp

ận giả thuy nghĩa là các c biến tỷ giá á USD(-1), USD(-2), U USD(-3), U USD(- nhậ yết H0, có n

4), USD(-5), U USD(-6) là à những biế ến thừa tron ng mô hình h, hay nói c cách khác t tỷ giá

ông tác độn ng đến lạm p phát. khô

định giả thu uyết tỷ giá U USD/VND tác động đ ến sự thay đổi của giá á vàng • Kiểm đ

tại Việt Nam

Kh hi đưa tỷ giá á USD/VND D vào mô h hình thì mô m định tỷ gi iá USD/VN ND tác ô hình kiểm

độn ng lên giá v vàng có dạn ng:

Tro ong đó:

hằng số + C2: h

ai số + ε2: sa

số hồi qui + b: hệ riêng

lệ lạm phát t + P: tỷ

ỷ lệ biến độn g ng giá vàng + G: tỷ

+ USD : tỷ lệ biến động giá U USD

58

+ i : độ trễ thứ i của lạm phát

+ j : độ trễ thứ j của lạm phát

+ t : độ trễ thứ t của tỷ giá USD/VND

+ n : độ trễ (n=1,2,3,4,5,6)

Tương tự, với giả thuyết tỷ giá có tác động đến giá vàng, sẽ kiểm định các biến tỷ giá

USD(-1), USD(-2), USD(-3), USD(-4), USD(-5), USD(-6) là những biến thừa trong

mô hình, nghĩa là kiểm định giả thuyết H0: hệ số của các biến USD(-1), USD(-2),

USD(-3), USD(-4), USD(-5), USD(-6) đồng thời bằng 0 với mức ý nghĩa α = 5%.

Nếu kết quả kiểm định bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa tỷ giá có tác động đến giá vàng

và cần thiết đưa các biến tỷ giá vào mô hình kiểm định.

Bảng 2.4: Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết tỷ giá USD/VND tác động đến

sự thay đổi của giá vàng tại Việt Nam

Giá trị Sai phân Xác suất

Thống kê F 0.390205 (6,131) 0.8843

Tỷ số ln hàm hợp lý 2.541736 6 0.8638

(Nguồn: Phụ lục 4 và Phụ lục 5)

Kết quả kiểm định cho thấy giá trị xác suất Prob. F(6,131) = 88.43% > α = 5%, chấp

nhận giả thuyết H0, có nghĩa là các biến tỷ giá USD(-1), USD(-2), USD(-3), USD(-

4), USD(-5), USD(-6) là những biến thừa trong mô hình, hay nói cách khác tỷ giá

không tác động đến lạm phát.

Như vậy, qua kiểm định sự tác động của tỷ giá USD/VND đến lạm phát và giá vàng

tại Việt Nam thì tỷ giá USD/VND không ảnh hưởng đến sự biến động của giá vàng

và lạm phát hay USD/VND là biến thừa trong mô hình. Như vậy, loại biến tỷ giá

USD/VND ra khỏi mô hình kiểm định mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát.

2.3.3.2 Kiểm định mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam

• Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam

Bảng 2.5: Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam

LẠM PHÁT GIÁ VÀNG

LẠM PHÁT 1.634038 2.212843

GIÁ VÀNG 2.212843 23.73118

(Nguồn: Phụ lục 6)

59

Tro ong lý thuy ết xác suất và thống k ê hiệp phươ ơng sai do s sự biến thiê ên cùng nha au của

hai i biến ngẫu c với phươn ng sai chỉ d do độ biến th hiên của mộ ột biến). M Ma trận nhiên (khác

hiệ ệp phương s sai ở trên th hể hiện mới i quan hệ gi iữa sự biến thiên của h hai biến giá á vàng

và lạm phát. H Hiệp phươn ng sai dươn ng có nghĩ ĩa độ dao đ động của ha ai biến này y cũng

ơng (tăng h hay giảm). dươ

tương quan n giữa giá v vàng và lạm m phát tại V Việt Nam • Hệ số t

Bả ảng 2.6: Hệ số tương q quan giữa g giá vàng và à lạm phát am tại Việt N

LẠ ẠM PHÁT GIÁ VÀ ÀNG

LẠM M PHÁT 1 0.355 5353

GIÁ Á VÀNG 0.355353 1

Nguồn: Phụ (N lục 7)

Hệ số t tương quan chỉ là một chỉ số thốn ng kê đo lườ ờng mối liê ên hệ tương g quan

giữ ữa hai biến s số ngẫu nhi iên. Hệ số tư ương qua g giữa giá vàn ng và lạm ph hát là 0.355 5353

định sự đồn ng liên kết g giữa giá và ng và lạm p phát tại Việ ệt Nam • Kiểm đ

Bả ảng 2.7: Kế ết quả kiểm m định đồn ng liên kết (Kiểm địn h Trace)-Đ Độ trễ (sai phân

bậc c nhất) : 1- - 6

đồng Mối quan hệ M Trị riêng g Thống kê Tr T race Gi iá trị tới hạn n 5%

định (Eigen valu ue)

li iên kết giả đ hông* Kh 0.21741 49 9.2577 15.4 49471

Tối i đa 1* 4 0.077864 12.2 24051 3.84 41466

(N Nguồn: Phụ lục 8)

Vớ ới mức ý ng ghĩa 5%, ta thấy giá tr ị thống kê Trace > Gi iá trị tới hạn n nên bác b bỏ giả

thu hông có đồn ng liên kết g giữa giá vàn ng và lạm p phát, nghĩa là giữa giá á vàng uyết H0 : kh

và lạm phát c ó tính đồng g liên kết v và tồn tại m mối quan hệ ệ dài hạn gi iữa chúng, do đó

ông tồn tại h hiện tượng hồi qui tươ ơng quan gi ả trong mô hình trên, v và các kiểm m định khô

truy yền thống v vẫn áp dụng g trong các p này. trường hợp

uyết 1: Giá động đến lạm m phát tại Việt Nam vàng tác đ • Giả thu

n lạm phát có dạng: Mô hìn nh kiểm địn nh giá vàng tác động lê

60

Trong đó:

+ C1: hằng số

+ ε1: sai số

+ a: hệ số hồi qui riêng

+ P: tỷ lệ lạm phát

+ G: tỷ lệ biến động giá vàng

+ i : độ trễ thứ i của lạm phát

+ j : độ trễ thứ j của lạm phát

+ n : độ trễ (n=1,2,3,4,5,6)

Với giả thuyết giá vàng có tác động đến lạm phát, sẽ kiểm định các biến tỷ lệ giá

vàng G(-1), G(-2), G(-3), G(-4), G(-5), G(-6) là những biến thừa, nghĩa là kiểm định

giả thuyết H0: hệ số của các biến G(-1), G(-2), G(-3), G(-4), G(-5), G(-6) đồng thời

bằng 0 với mức ý nghĩa α=5%. Nếu kết quả kiểm định bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa

giá vàng có tác động đến lạm phát và cần thiết đưa các biến tỷ lệ giá vàng vào mô

hình kiểm định.

Bảng 2.8: Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết giá vàng tác động đến lạm phát

tại Việt Nam

Giá trị Xác suất Sai phân

Thống kê F 2.450279 0.0278 (6,137)

Tỷ số ln hàm hợp lý 15.29025 0.0181 6

Hệ số xác định R2 0.464084 Hệ số xác định điều 0.441598

chỉnh

(Nguồn: Phụ lục 9 và Phụ lục 10)

Kết quả hồi quy trên cho thấy giá trị xác suất Prob. F(6,137) = 2.78% < α = 5%, hay

với mức ý nghĩa α = 5%, ta thấy giá trị thống kê F tính toán (2.45) hoặc tỷ số hàm ln

hợp lý (15.29) cao hơn giá trị F tra bảng (1.943) hoặc giá trị tỷ số ln hàm hợp lý tra

bảng (12.6), nên ta bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa là các các biến tỷ lệ tăng giá vàng

G(-1), G(-2), G(-3), G(-4), G(-5), G(-6) không phải là những biến thừa trong mô

hình, hay nói cách khác sự tăng giảm của giá vàng có tác động đến lạm phát. Hệ số điều chỉnh R2 = 46.40% có nghĩa là: Mô hình giải thích được 46.40%, còn

61

53. .60% sẽ đượ ợc giải thích h bởi các y ếu tố khác n ngoài mô h hình.

uyết 2: Lạm m phát tác đ động đến gi iá vàng tại Việt Nam • Giả thu

Mô hìn nh kiểm địn nh lạm phát tác động lê ên giá vàng có dạng:

số Tro ong đó: + C2: hằng

+ ε2: sai số

+ a: hệ số h g hồi qui riêng

+ P: tỷ lệ lạ ạm phát

iá vàng + G: tỷ lệ b biến động g

+ i : độ trễ ạm phát thứ i của lạ

thứ j của lạ ạm phát + j : độ trễ

(n=1,2,3,4 ,5,6) + n : độ trễ

Vớ ới giả thuyết t lạm phát c có tác động g đến giá và àng, sẽ kiểm m định có p phải các biế n lạm

phá át P(-1), P( (-2), P(-3), P(-4), P(-5 5), P(-6) là à những biế ến thừa tron ng mô hình h hay

khô ông, nghĩa l là chúng ta kiểm định giả thuyết H ủa các biến n P(-1), P(-2 2), P(- H0: hệ số củ

kiểm 3), P(-4), P(-5 5), P(-6) đồ ồng thời bằn ng 0 với mứ ức ý nghĩa α = 5%. N Nếu kết quả

địn nh bác bỏ g giả thuyết H a lạm phát có tác động g đến giá v vàng và cần n thiết H0, có nghĩa

đưa a các biến l ạm phát và ào mô hình k kiểm định.

Bả ảng 2.9: Kế t quả kiểm m định LR c cho giả thu uyết lạm ph hát tác độn ng đến giá v vàng

tại Việt Nam

Giá trị n Sai phân t Xác suất

Thố ống kê F 8 1.787348 (6,137) 0.1061

Tỷ số ln hàm h hợp lý 8 11.3048 6 0.0794

(Nguồn : Phụ lục 1 11 và Phụ lụ ục 12)

Kế t quả hồi qu uy trên cho o thấy giá tr ị xác suất P Prob. F(6,13 37) = 10.61 % > α = 5% % hay

i mức ý ngh hĩa α = 5%, , ta thấy giá á trị thống k kê F tính to oán (1.78) h hoặc tỷ số h hàm ln với

hợp p lý (11.30) ) thấp hơn g giá trị F tra a bảng (1.94 43) hoặc giá á trị tỷ số ln n hàm hợp lý tra

bản ng (12.6): c chấp nhận g giả thuyết H a là các biế ến lạm phát 2), P(- P(-1), P(-2 H0, có nghĩa

3), P(-4), P(-5 5), P(-6) là n những biến n thừa trong g mô hình, h hay nói các ch khác lạm m phát

ông tác độn ng đến giá v vàng. khô

62

Bảng 2.10: Kết quả kiểm định Granger giữa giá vàng và lạm phát tại Việt

Nam

Độ trễ Giả thuyết Thống kê F Xác suất

Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá

2.31471 0.1023 vàng

Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm

2 phát 5.29827 0.006

Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá

3.24934 0.0537 vàng

Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm

3 phát 2.88362 0.0379

Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá

2.60214 0.0485 vàng

Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm

4 phát 3.76685 0.0061

Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá

2.21939 0.0557 vàng

Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm

5 phát 2.92447 0.0153

Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá

vàng 1.78735 0.1061

Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm

6 phát 2.45028 0.0278

(Nguồn : Phụ lục 13)

Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam

trong giai đoạn từ tháng 01/2000 đến tháng 12/2012 với độ trễ (lag) từ 2 đến 6 tháng

như sau:

- Với mức ý nghĩa α = 5%, kết quả bác bỏ giả thuyết H0: giá vàng không có

quan hệ nguyên nhân kết quả với lạm phát (với độ trễ được xác định từ 2 đến 6

tháng), nghĩa là giá vàng có tác động đến lạm phát. Do hiệp phương sai giữa giá vàng

và lạm phát dương nên giữa giá vàng và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều, giá

63

vàng tăng thì lạm phát tăng, giá vàng giảm thì lạm phát giảm.

- Với mức ý nghĩa α = 5%, kết quả chấp nhận giả thuyết H0: lạm phát không có

tác động đến sự thay đổi của giá vàng (với độ trễ được xác định từ 2 đến 6 tháng).

Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger giữa giá vàng và lạm phát ta

thấy giá vàng có quan hệ nhân quả với lạm phát, nhưng lạm phạt không hoàn toàn có

quan hệ nhân quả với giá vàng. Bởi vì trong hồi qui cho giả thuyết lạm phát tác động

đến giá vàng thì kết quả là lạm phát không tác động đến giá vàng.

2.4 Đánh giá mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam

Có nhiều mô hình lý thuyết khác nhau về mối hệ giữa lạm phát và giá vàng

nhưng quan điểm chung của các trường phái là mối quan hệ giữa lạm phát và giá

Xem xét về mặt lý thuyết, giá vàng và lạm phát có tác động qua lại trong nền kinh tế.

Khi giá vàng tăng thì lạm phát sẽ tăng và ngược lại. Theo nghiên cứu của Sherman (1983)

vàng không phải là mối quan hệ một chiều mà là sự tác động qua lại.

và Moore (1990) kết luận rằng giá vàng và lạm phát có mối tương quan thuận, và

lạm phát có thể được sử dụng như một chỉ số hàng đầu để dự đoán giá vàng. Ngoài

ra, kết quả nghiên cứu của Christie-David (2000) và cộng sự cho thấy rằng giá vàng

có thể là chỉ báo lạm phát tốt phụ thuộc vào thời gian kiểm tra. Mặt khác, Jaffe

(1989), Garner (1995), Larson và McQueen (1995), (2000) Cecchetti et al kết luận

rằng giá vàng không bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Một số người khác cũng cho thấy

lạm phát ở các nước khác ngoài Mỹ không dự đoán chính xác giá vàng và chứng

minh rằng vàng không thể chống lại lạm phát ở nhiều nước. Nghiên cứu sử dụng dữ

liệu bao gồm các giai đoạn sau năm 1999 của giá vàng cũng không chứng minh mối

quan hệ giữa lạm phát và giá vàng. Do đó, không chắc chắn liệu vàng có thể chống

lại lạm phát.

Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu biến động giá vàng và lạm phát, thông qua

việc phân tích tình hình biến động giá vàng và lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn

2000-2012, đồng thời kiểm định thực tế mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát, phát

hiện ra sự biến động giá vàng có ảnh hưởng đến lạm phát. Nhưng ngược lại lạm phát

không hoàn toàn tác động làm tăng hay giảm giá vàng.

64

Đồ thị 2.12: Chỉ số CPI và chỉ số giá vàng từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2011

tại Việt Nam

135

130

125

120

Lạm phát

115

Giá vàng

110

105

100

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Đơn vị tính: %

(Nguồn: Cục thống kê Việt Nam)

Qua đồ thị, trong năm 2011 giá vàng và lạm phát trong xu hướng tăng. Tuy nhiên,

khi xem xét biến động từng giai đoạn thì giá vàng có thời điểm tăng, giảm thay đổi

trong năm, lạm phát tăng liên tục từ đầu năm. Như vậy, kết quả kiểm chứng hoàn

toàn khớp với diễn biến thực tế. Nghĩa là, trong tháng 2 năm 2011 giá vàng tăng

5.8% làm cho lạm phát cũng ảnh hưởng theo, tốc độ tăng của lạm phát trong tháng 2

năm 2011 cao hơn tốc độ tăng bình thường qua các tháng. Sau đó giá vàng giảm dần

đến tháng 6 năm 2011, nhưng lạm phát vẫn tiếp tục tăng. Điều này chứng tỏ lạm phát

tăng không ảnh hưởng đến giá vàng. Trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 9 năm

2011 giá vàng tăng đột biến, làm cho lạm phát cũng tăng nhanh hơn so với các tháng,

nhưng đến tháng 9 năm 2011 giá vàng đột ngột giảm, tuy vậy lạm phát vẫn duy trì đà

tăng. Điều này một lần nữa chứng minh giá vàng tác động làm ảnh hưởng đến lạm

phát, nhưng lạm phát không ảnh hưởng đến sự biến động của giá vàng.

Như vậy, xét xem mối quan hệ giữa giá vàng vàng lạm phát tại Việt Nam có thể thấy

rằng một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát đó chính là sự tăng giá vàng. Do

đó, để kiềm chế lạm phát, phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, nhằm

ổn định giá vàng.

65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Sau khi đưa ra thực trạng và phân tích nguyên nhân của sự biến động giá vàng

và lạm phát, đồng thời kiểm định mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát giai đoạn

2000-2012 tại Việt Nam, đã có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình biến động giá

vàng và lạm phát tại Việt Nam. Kết quả kiểm định nhân quả Granger cặp giữa giá

vàng và lạm phát và kiểm định Granger có biến kiểm soát tỷ giá USD/VND cho thấy

giá vàng có tác động đến lạm phát, giá vàng tăng sẽ làm cho lạm phát tăng, sự biến

thiên cùng chiều. Do đó, một trong những mục tiêu kiềm chế lạm phát là phải ổn

định được giá vàng.

66

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH GIÁ VÀNG NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

TẠI VIỆT NAM

3.1 Định hướng kiềm chế lạm phát tại Việt Nam

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai

đoạn 2011 - 2020 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-

2015, ngày 24/04/2012 Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 10/NQ-CP về chương

trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã

hội giai đoạn 2011-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm

2011-2015 và Chỉ thị 19/CT-TTg ngày 18/06/2012 về xây dựng Kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội trong 3 năm 2013-2015. Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới hiện

đang diễn biến phức tạp, lạm phát tăng, giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu

vào của sản xuất, giá lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tiếp tục xu

hướng tăng cao. Trong nước, thiên tai, thời tiết tác động bất lợi đến sản xuất và đời

sống; một số mặt hàng là đầu vào quan trọng của sản xuất như điện, xăng dầu vẫn

chưa thực hiện đầy đủ theo cơ chế giá thị trường buộc phải điều chỉnh tăng; mặt

khác, chúng ta phải nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá để ngăn chặn suy giảm, duy

trì tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Tình hình trên đây đã làm giá cả tăng cao,

tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Vì vậy, tập trung kiềm chế lạm

phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm,

cấp bách hiện nay.

Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã

hội, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ

tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế,

tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tập trung chỉ đạo, thực hiện một số giải pháp

chủ yếu sau đây:

- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa

phương, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa

chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm

soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng , tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ

67

phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ

trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực

phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.

Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là

các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.

Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị

trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ

chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ

cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh

khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh

doanh và tăng dự trữ ngoại hối.

Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, Chính phủ ban hành Nghị

định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu

vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn

hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.

Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát

việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban hành quy định

và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản;

quy định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi,

mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi

phạm.

- Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm

bội chi ngân sách nhà nước

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương chỉ đạo phấn

đấu tăng thu ngân sách nhà. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế,

chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp

cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.

Tạm dừng trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối

đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...; không bố trí kinh phí

cho các việc chưa thật sự cấp bách. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa

phương, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm tiết giảm tối đa chi

68

phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước... Không bổ

sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ,

phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ quyết

định. Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm.

Giảm bội chi ngân sách nhà nước, giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước

ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ,

nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của

Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn

an toàn và an toàn tài chính quốc gia.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương,

không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ cho các dự án, trừ

các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách; không kéo dài thời

gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ.

Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ

nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí, xác định cụ

thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện; thu hồi hoặc

điều chuyển các khoản đã bố trí nhưng chưa cấp bách, không đúng mục tiêu, báo cáo

và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ biện pháp xử lý.

Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước,

doanh nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý, loại bỏ

các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài.

- Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập

siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện

quy định về điều tiết cân đối cung - cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết

hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu; tiếp tục chỉ đạo,

kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh để đẩy mạnh

sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ; chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu

quả, ổn định giá lương thực trong nước, phối hợp với Bộ Tài chính trong việc điều

hành dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực; thường xuyên theo dõi sát diễn

biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị

69

trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng

giá.

Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu

không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm

soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân

sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của

doanh nghiệp Nhà nước; phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát bảo đảm thực

hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết

bị sản xuất trong nước, nhất là các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập

khẩu; chủ động áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng,

hạn chế nhập siêu.

Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch huy

động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa

khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý

để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động áp

dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh doanh

xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ việc được sử dụng một

số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.

Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào

nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn

thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…

Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu

đãi đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi

về thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với

các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được;

nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến

khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô.

70

Bảng 3.1: Dự báo các chỉ tiêu kinh tế-xã hội tại Việt Nam giai đoạn 2013-2015

2013 2014 2015 Chỉ tiêu

GDP danh nghĩa (tỷ USD) 200,19 232,22 269,38

Tỷ lệ tăng GDP thực (%) 8,2 8,0 8,0

Dân số (triệu người) 94,20 95,30 96,47

GDP theo đầu người (USD) 2.125 2.437 2.792

Tỷ lệ tăng giá tiêu dùng (%) 4,6 4,8 4,0

Tài khoản vãng lai (%) 1,5 2,15 3,34

(Nguồn: Business Monitor International Ltd)

3.2 Giải pháp ổn định giá vàng nhằm kiềm chế lạm phát tại Việt Nam

Tại Việt Nam, trong bối cảnh giá trị đồng nội tệ thấp, áp lực mất giá lớn, thì

sự gia tăng mạnh giá vàng theo xu hướng hiện nay sẽ làm tăng động lực sử dụng

vàng với tính chất là một công cụ tiền tệ, cho tất cả các mục đích cất trữ, dự phòng,

định giá và thanh toán, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam, với các quy định về

giao dịch kinh doanh vàng còn khá thông thoáng gây khó khăn cho việc quản lý tiền

tệ của các cơ quan chức năng. Việc tăng mạnh giá vàng và sử dụng vàng cho các

mục đích tiền tệ sẽ đội giá của các mặt hàng được mua – bán, thanh toán bằng vàng,

gây sức ép không nhỏ tới lạm phát trong nền kinh tế. Một khi thiếu cơ chế quản lý

vàng với tính chất là một công cụ tiền tệ trong trường hợp này sẽ khó có thể đạt được

các mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, đặc biệt với xu hướng giá vàng đã,

đang và sẽ còn diễn biến phức tạp.

Qua kết quả kiểm định đã thấy giá vàng ảnh hưởng tới lạm phát. Do đó, để

thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, phải ổn định giá vàng.

Qua đây, đề xuất một số giải pháp ổn định giá vàng nhằm giải pháp kiềm chế lạm

phát.

3.2.1 Ổn định tâm lý người dân

71

Ổn định được tâm lý người dân, sẽ không làm cho giá vàng tăng đột biến, có

nghĩa là người dân tin tưởng vào giá trị đồng nội tệ, làm cho lạm phát không biến

động.

Mặc dù thị trường vàng trong nước đã liên thông với thị trường vàng thế giới,

thế nhưng việc giá vàng trong nước luôn vượt giá vàng thế giới từ 1 triệu rồi đến 5

triệu, đã cho thấy bên cạnh việc đầu cơ, đã có sự tham gia của tâm lý đám đông. Liên

tiếp trong nhiều năm, đã xảy ra nhiều cơn sốt giá, như năm 2007 là chuyện xếp hàng

đăng ký mua nhà khi còn nằm trên giấy với kỳ vọng sẽ bán lại với giá cao hơn nhiều,

đã đẩy giá nhà đất vào cơn sốt, rồi việc cuối tháng 4/2008, người dân ùn ùn mua gạo

đã đẩy giá gạo lên cao gấp mấy lần giá thường trong khi Việt Nam lả nước xuất khẩu

gạo đứng thứ hai trên thế giới. Nếu như cơn sốt nhà đất là do đầu cơ khá rõ nét, còn

cơn sốt gạo là do tin đồn thì sự hoảng loạn là từ dùng để giải thích hiện tượng chen

lấn mua vàng lúc giá đỉnh điểm. Nếu như năm 2009 chứng kiến việc người dân đổ xô

đi mua vàng khi giá lên cao mức kỷ lục thì một kịch bản tương tự đã diễn ra vào năm

2010 và năm 2011, khi giá vàng trong nước và quốc tế leo thang mạnh mẽ. Lý do

giải thích điều này trước hết là yếu tố tâm lý. Tâm lý lo sợ đồng tiền mất giá, tâm lý

thiếu lòng tin vào đồng tiền VND trong lúc lo ngại giá vàng trong nước sẽ còn tăng

nữa khiến nhu cầu vàng tăng mạnh trong khi nguồn cung có hạn, đã khiến thị trường

chứng kiến các hiện tượng giá vàng tăng mạnh như trong thời gian qua. Có hai

nguyên nhân khiến người dân theo các cơn sốt giá. Thứ nhất là sức hấp dẫn trong lựa

chọn đầu tư ngắn hạn của người dân đối với các tài sản có giá trị như vàng. Rất nhiều

người hy vọng vào những cơn sốt để tạo sự chênh lệch giá cao để sinh lợi lớn. Tuy

nhiên, chỉ có một bộ phận nhỏ chủ động đầu cơ là có lãi, còn lại đa số người dân bị

cuốn vào dòng xoáy tâm lý là bị thua lỗ. Thứ hai, nhiều người dân vẫn quen tích trữ

vàng như tài sản đảm bảo. Khi giá biến động, người dân sợ mất giá trị tài sản nên vội

đổ ra mua bán gây xáo trộn thị trường, tạo nên cơn sốt.

Như vậy, tâm lý đám đông là một yếu tố chi phối trong các cơn sốt giá, nhất là

khi niềm tin vào sự nhanh nhạy trong quản lý giá của các cơ quan có thẩm quyền bị

xói mòn thì người dân dễ bị dẫn dắt bởi thông tin truyền miệng, tin đồn thổi và chỉ

chờ có vậy, chỉ cần có một nhóm người có tiềm lực kinh tế làm động tác giảm cung

hàng là cơn sốt giá xuất hiện. Thực tế với một cá nhân, việc giá vàng tăng vài phần

trăm có lẽ không gây ảnh hưởng gì nhiều, nhưng tâm lý bất ổn khiến rất nhiều người

72

đổ xô đi mua thứ kim loại quý hiếm này cùng lúc, thì đó lại là hiểm họa cho cả một

nền kinh tế.

Việc hóa giải tâm lý đám đông không quá khó, nếu có sự can thiệp nhanh

chóng và kịp thời từ các cơ quan quản lý nhà nước. Như khi giá vàng leo thang đỉnh

điểm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tuyên bố cho nhập khẩu vàng không hạn chế,

ngay lập tức giá vàng giảm. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành văn bản nhằm ổn định

thị trường vàng. Với Quyết định 1623/QĐ-NHNN ban hành ngày 23/8/2012, Ngân

hàng Nhà nước coi đó là liều thuốc đặc trị sự bất kham của thị trường vàng trong

những ngày qua. Trong đó, khẳng định độc quyền vàng miếng thuộc về nhà nước và

sẵn sàng cho phép các tổ chức tín dụng vay, cho vay vàng để đảm bảo thanh khoản.

Tuy nhiên, những phản ứng ấy của cơ quan quản lý nhà nước thường là quá chậm.

Nguyên nhân có thể là do áp lực kiềm chế nhập siêu, giảm lạm phát, duy trì tỷ giá ổn

định đã khiến cho cơ quan quản lý nhà nước đắn đo, nên chưa ra các quyết định kịp

thời, để góp phần ngăn chặn hiệu quả các yếu tố tâm lý và tin đồn thất thiệt tương tự

trong thời gian tới.

3.2.2 Dự trữ vàng hợp lý và huy động vàng trong dân.

Vàng vẫn giữ vai trò quan trọng trong dự trữ ngoại hối của các nước, đặc biệt

đối với các nước đang phát triển, lượng vàng dự trữ có xu hướng tăng theo xu hướng

tăng lên của tổng dự trữ ngoại hối. Tùy theo tình hình tài chính quốc gia mà Ngân

hàng nhà nước nên tăng dự trữ vàng trong dự trữ ngoại hối của Nhà nước, coi đây là

chiến lược lâu dài. Giảm dự trữ USD và tăng dự trữ vàng là cách đa dạng hóa dự trữ

ngoại hối mà ngân hàng Trung Ương của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế

mới nổi lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil, Nga…, đang thực hiện. Vàng đã trở

thành một kênh huy động và luân chuyển vốn liên thông giữa các thị trường tài chính

(tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ, chứng khoán, vàng). Giá vàng ngày càng chịu ảnh hưởng

của lãi suất trái phiếu chính phủ, thuế thu nhập, hoạch định chính sách tài chính và

tiền tệ … Trong chiến lược của các quốc gia, dự trữ vàng đã trở thành công cụ để

thực hiện mục tiêu khống chế tiền tệ, nâng cao uy tín và tầm ảnh hưởng trên trường

quốc tế. Do vậy, Việt Nam cần xây dựng phương án tăng lượng vàng dự trữ tương

ứng mức độ tăng tổng dự trữ. Đồng thời, đa dạng hóa hình thức đầu tư như gửi tiết

kiệm, hay ủy thác cho quỹ đầu tư để nâng cao hiệu quả đầu tư vàng thuộc dự trữ.

73

Nhằm bình ổn giá cả và ổn định thị trường tài chính trong nước, kiềm chế lạm

phát, Nhà nước cần dự trữ vàng và đa dạng hóa dự trữ ngoại tệ một cách hợp lý. Việc

làm này tạo tính an toàn cho nền kinh tế Việt Nam. Bởi dự trữ ngoại hối nếu chỉ là

đồng USD thì giả sử khi giá trị đồng tiền USD bị mất giá sẽ ảnh hưởng đến nguồn dự

trữ ngoại tệ quốc gia. Từ đó ảnh hưởng đến lạm phát trong nền kinh tế.

Do tâm lý vẫn còn tồn tại từ thời kinh tế bao cấp trước đây, các nhà phân tích

ước tính rằng lượng vàng cất trữ trong dân còn khá lớn chủ yếu dưới hình thức vàng

thỏi, nén. Để giảm lượng vàng tích trữ trong dân, huy động nguồn vốn này phục vụ

cho việc phát triển đất nước, Nhà nước cần có chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý, đúng

lúc ổn định thị trường, không để xảy ra những đợt giá cả đột biến như trong những

năm qua, nâng cao giá trị đồng Việt Nam, điều này sẽ giảm đi tâm lý tích trữ vàng

phòng rủi ro trong dân chúng và dĩ nhiên lượng vàng này sẽ được sử dụng để đầu tư.

Khi đó lượng tiền sẽ quay trở lại thị trường, tham gia vào quá trình sản xuất kinh

doanh. Như vậy lượng tiền trong lưu thông tăng lên mà không phải nhờ phát hành

thêm. Do đó góp phần kiềm chế được lạm phát.

3.2.3 Tăng cường sự quản lý của Ngân hàng nhà nước đối với thị trường vàng

Hoạt động của thị trường vàng ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi chính sách tiền

tệ và ngoại hối của quốc gia. Do vậy, với những nước chưa hoàn toàn tự do hóa thị

trường tài chính như Việt Nam hiện nay thì sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối

với thị trường vàng là cần thiết. Về hình thức quản lý, Ngân hàng Trung ương có thể

quản lý bằng các biện pháp gián tiếp như cấp phép xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó,

Ngân hàng Nhà nước cũng cần có cơ chế chủ động can thiệp mua bán trực tiếp trên

thị trường khi có chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới nhằm hạn

chế tình trạng buôn lậu. Thực hiện biện pháp quản lý, NHNN chính thức quản lý

vàng miếng, tuy chấp nhận quyền sở hữu cũng như giao dịch mua bán vàng miếng

của các tổ chức, cá nhân nhưng chỉ mua bán đối với thương hiệu vàng miếng quốc

gia SJC. Ngoài ra, thời gian tới, những giao dịch này sẽ được thu hẹp lại ở những địa

chỉ được NHNN quy định. Việc quản lý như thế sẽ ổn định được thị trường vàng,

không để thị trường vàng tác động tiêu cực tới ổn định tỷ giá và lãi suất.

Việc tăng cường sự quản lý của Ngân hàng nhà nước đối với thị trường vàng

cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng nhà nước kiểm soát tỷ giá và thị trường ngoại

74

hối. Một khi điều hành được tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt, bình ổn được giá

cả các mặt hàng nhập khẩu, góp phần kiềm chế được lạm phát.

3.2.4 Tiến tới tự do hóa thị trường vàng

Cùng với quá trình tự do hóa thị trường tài chính, thị trường vàng cũng cần

được tự do từng bước nhằm phù hợp với trình độ phát triển chung của thị trường tài

chính. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, trong đó có Trung Quốc, tiến trình tự do

hóa thị trường vàng bắt đầu từ tự do hóa thị trường vàng vật chất, sau đó đến kinh

doanh vàng tài khoản và cuối cùng là xóa bỏ kiểm soát đối với hoạt động xuất nhập

khẩu vàng.

Đối với hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản, mặc dù là kênh đầu tư hấp

dẫn nhằm giúp nhà đầu tư đa dạng hóa danh mục đầu tư nhưng do mức độ rủi ro cao

nên cần được quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu chỉ cho phép nhà đầu

tư cá nhân tham gia với tỷ lệ ký quỹ 100% nhằm hạn chế rủi ro, chủ yếu để tạo cho

nhà đầu tư môi trường tiếp cận, tích lũy kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh vàng

tài khoản.

Hoạt động xuất nhập khẩu vàng do liên quan đến cung cầu ngoại tệ nên trong

điều kiện còn các biện pháp kiểm soát ngoại hối, quản lý tỷ giá thì vẫn cần thực hiện

kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu vàng. Nên cho phép xuất nhập khẩu vàng như

loại hàng hóa thông thường, vấn đề là chính sách thuế và phí đối với xuất nhập khẩu

vàng. Nên sử dụng công cụ thị trường trong quản lý vàng, hơn là dùng các quyết

định hành chính. Có như vậy, sự khác biệt giữa vàng trong nước và quốc tế sẽ giảm

dần, từ đó giảm hoạt động đầu cơ lũng đoạn thị trường.

Đối với chính sách nhập khẩu vàng

Khi giá vàng tăng đột biến, việc nhập khẩu vàng sẽ làm giảm nhiệt thị trường

vàng nhanh chóng. Do đó, chính sách nhập khẩu rất cần thiết và kịp thời can thiệp

khi thị trường vàng có biến động. Nhà nước cần xem vàng như một loại hàng hóa

thông thường, cho phép người dân được tự do mua bán, trao đổi trên thị trường theo

mức giá cả cung cầu quyết định. Khi cần thiết, nhà nước đứng ra can thiệp như một

nhà kinh doanh thực sự.

Đối với chính sách xuất khẩu vàng

Trung bình mỗi năm nước ta nhập khẩu khoảng 60 tấn vàng theo đường

chính ngạch, ngoài ra còn một lượng vàng khác được nhập vào bằng con đường

75

nhập lậu gây thất thoát ngoại tệ khá nhiều. Tuy nhiên, lượng vàng nhập khẩu vào

chưa được sử dụng hiệu quả, chủ yếu được dùng sản xuất vàng miếng, vàng trang

sức và được giữ lại chủ yếu trong dân, lượng vàng xuất khẩu rất ít, chủ yếu dưới

dạng vàng nguyên liệu và vàng trang sức. Do đó vàng đi vào Việt Nam chủ yếu theo

một chiều nhập vào, gần như không có đầu ra nên việc đầu tư, kinh doanh vàng

trong nước còn bị hạn chế rất nhiều. Khi giá trong nước đang giảm chênh lệch thấp

hơn giá thế giới, người dân đem bán vàng rất nhiều, các doanh nghiệp kinh doanh

vàng sẽ mua vào nhưng lại không được phép xuất khẩu để bán ra thu lời. Do đó,

việc kinh doanh vàng trong nước còn hạn chế rất nhiều chưa phát triển được, chỉ

lòng vòng trong dân chúng. Nếu được phép xuất khẩu, doanh nghiệp lại phải biến

vàng miếng, vàng trang sức thành vàng nguyên liệu để xuất đi, gây tốn kém chi phí

cho các doanh nghiệp và ngân hàng muốn xuất khẩu vàng.

3.2.5 Thành lập Trung tâm giao dịch vàng

Các nước ở châu Á đều có sở giao dịch vàng, nhưng tại Việt Nam, đã đến lúc

cho ra đời Trung tâm giao dịch vàng quốc gia. Đây là biện pháp sẽ góp phần ngăn

được tình trạng xuất, nhập khẩu vàng lậu, đồng thời huy động được lượng vàng tích

trữ trong dân tham gia thị trường để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Theo cuộc điều tra thử nghiệm của Tiến Sĩ Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy

ban Giám sát Tài chính Quốc gia năm 2011 tại Hà Nội đối với hộ gia đình trên các

phương diện thu nhập, tiêu dùng, tích lũy và đầu tư. Kết quả cuộc điều tra cho thấy

trên 31% số hộ gia đình có đầu tư, tích lũy bằng vàng, trong đó hơn 28% số hộ gia

đình có giữ vàng tại nhà, 92% số hộ gia đình giải thích nguyên nhân tích trữ vàng là

do thói quen và tâm lý phòng chống lạm phát. Đầu tư bằng vàng và ngoại tệ chiếm

tới 17% trong cơ cấu đầu tư. Tỉ lệ đầu tư của VN hiện vào khoảng 30% GDP

(khoảng 30 tỉ USD), chứng tỏ một nguồn lực tài chính lớn không đến được nơi trực

tiếp tạo ra của cải vật chất mà loanh quanh giữa những kênh đầu tư tài chính, trong

đó có vàng. Điều này làm méo mó chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là cầu

nối giữa tiết kiệm và đầu tư.

Theo số thống kê của Hội đồng Vàng thế giới, Việt Nam là một trong năm

nước nhập khẩu vàng lớn nhất thế giới trong khi 95% lượng vàng tiêu thụ tại VN là

được nhập khẩu. Cầu về vàng ít khi có dấu hiệu giảm trong khi nhu cầu mua USD để

nhập khẩu vàng luôn tăng đã làm giá vàng tác động ngược lại USD trong nước. Bên

76

cạnh đó, một lượng USD trên thị trường tự do được sử dụng để nhập khẩu vàng

không chính thức là một phần nguyên nhân khiến sai sót trong cán cân thanh toán

tổng thể. Như vậy, Nhà nước đã không thể kiểm soát một lượng lớn giao dịch thanh

toán quốc tế trong những năm qua. Điều này đồng nghĩa với việc Nhà nước có thể

mất khả năng kiểm soát thị trường ngoại hối, đặc biệt là thị trường ngoại hối không

chính thức.

Muốn quản lý được thị trường vàng, trước hết phải quản lý được việc nhập lậu

vàng. Do vậy, Nhà nước cần phải thành lập Trung tâm giao dịch vàng quốc gia. Việc

Trung tâm giao dịch vàng quốc gia ra đời sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng xuất,

nhập lậu vàng. Khi có Trung tâm giao dịch thì giá vàng trong nước và thế giới sẽ liên

thông với nhau, góp phần hình thành mức giá đồng nhất trên thị trường, tránh được

tình trạng đầu cơ làm giá như hiện nay.

Mô hình Trung tâm giao dịch vàng quốc gia thuộc sở hữu nhà nước dưới hình

thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với hai sàn giao dịch ở Hà Nội và

TP.HCM, chịu sự giám sát trực tiếp từ Ngân hàng Nhà nước. Những tổ chức, cá nhân

có nhu cầu giao dịch sẽ thực hiện lệnh đặt mua, bán vàng thông qua các thành viên

của Trung tâm giao dịch là các ngân hàng thương mại và công ty kinh doanh vàng có

uy tín. Trung tâm giao dịch vàng quốc gia cần phát triển đồng bộ và đa dạng các loại

hình giao dịch như giao ngay, kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi…để thu hút đông đảo

các đối tượng tham gia giao dịch.

Hình thức kinh doanh này phù hợp với xu hướng quốc tế, làm giảm bớt nhu

cầu kinh doanh vàng vật chất và tạo một kênh lưu thông hiệu quả giữa thị trường

trong nước và thị trường thế giới. Ngoài hình thức giao dịch nhanh chóng, hình thức

này còn khắc phục được các công đoạn, các chi phí phát sinh từ nhập đến lưu thông

như vận chuyển, chế tác, bảo hiểm, lưu giữ vàng. Hình thức giao dịch này không chỉ

khiến lượng vàng vật chất nhập về giảm đi, tiết kiệm được ngoại tệ và các chi phí

cho xã hội, mà còn giúp các ngân hàng huy động, cân đối được nguồn vốn bằng vàng

trong dân, từ đó góp phần làm minh bạch, rõ ràng, tập trung được các hoạt động giao

dịch.

Một số người dân và nhà đầu tư bắt đầu chú ý và tham gia vào việc kinh

doanh vàng, ngoại tệ trên mạng. Không ít người đã sử dụng tiền đầu tư vào việc mua

bán hết sức mạo hiểm này mà không hề biết rằng đó là một hoạt động vi phạm các

77

quy định pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối của nhà nước. Đây cũng là lĩnh

vực kinh doanh hết sức rủi ro, dễ dẫn đến thiệt hại lớn cho những người tham gia.

Chỉ với một bản sao y chứng minh nhân dân, một địa chỉ cụ thể và số điện thoại

được đăng nhập vào địa chỉ của trang website, không phải trải qua giai đoạn kiểm

chứng, nhà đầu tư đã có một một tài khoản cá nhân phục vụ cho việc kinh doanh

vàng theo đẳng cấp quốc tế. Tất nhiên, việc mua bán này cũng chỉ được diễn ra trên

những website mà không ai có thể biết chính xác được các tổ chức này hoạt động

theo sự đảm bảo của một định chế tài chính nào. Bản thân các nhà đầu tư cũng không

thể lường hết được hậu quả sẽ ra sao nếu các website trên không còn nữa. Tuy chưa

có thông tin cụ thể về việc người đầu tư vàng ảo trên mạng bị lừa đảo, nhưng để

phòng ngừa hậu quả xấu có thể mang đến cho các nhà đầu tư, đồng thời để hỗ trợ cơ

quan quản lý nhà nước phát hiện, xử lý các tổ chức vi phạm, vừa qua, Ngân hàng

Nhà nước đã chính thức đưa ra khuyến cáo về việc kinh doanh vàng, ngoại tệ trên

mạng.

Theo quy định hiện hành, Nghị định 24/2012/NÐ-CP ngày 03/04/2012 về

quản lý hoạt động kinh doanh vàng, chỉ có các tổ chức, doanh nghiệp được Ngân

hàng Nhà nước xem xét giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ

các điều kiện về vốn điều lệ phải từ 100 tỷ đồng trở lên, các doanh nghiệp có kinh

nghiệm động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ hai năm trở lên, có số thuế

đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong hai năm

liên tiếp gần nhất có xác nhận của cơ quan thuế. Đồng thời, có mạng lưới chi nhánh,

địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ ba tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.

Trường hợp đối với tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy

phép kinh doanh mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện về vốn điều lệ

từ 3.000 tỷ đồng trở lên, có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng, có mạng lưới chi

nhánh tại Việt Nam từ năm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.

Tuy trong phạm vi điều chỉnh của Nghị định 24/2012/NĐ-CP có qui định về

hoạt động kinh doanh vàng, bao gồm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức,

mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh

doanh mua, bán vàng miếng; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng và các hoạt động

kinh doanh vàng khác, bao gồm cả hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản và hoạt

78

động phái sinh về vàng. Nhưng đến hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn việc

thực hiện kinh doanh vàng trên tài khoản.

Việc ban hành quy chế về Trung tâm giao dịch vàng sẽ rất cần thiết nhằm tạo

một hành lang pháp lý cho hoạt động của kênh huy động vốn quan trọng này. Khi có

Trung tâm giao dịch vàng hoạt động theo chuẩn, thị trường vàng Việt Nam sẽ liên

thông với thị trường vàng quốc tế. Vàng Việt Nam có hơn 90% là nhập khẩu, vì thế

nếu có Trung tâm giao dịch, thì sẽ huy động được lượng vốn lớn trong dân tham gia

nhập khẩu vàng, đảm bảo quyền quyết định của người dân khi lựa chọn hình thức

đầu tư. Thông qua đó, Nhà nước cũng có cơ sở giám sát, định hướng thị trường vàng.

Một Trung tâm giao dịch vàng chuẩn phải phát huy được những lợi ích, đó là nơi

phản ánh trung thực, khách quan về giá cả. Thông qua Trung tâm giao dịch, có thể áp

dụng các công cụ phái sinh, giúp nhà đầu tư phòng ngừa và kiểm soát rủi ro trước

biến động của giá vàng. Thông qua Trung tâm giao dịch, nhà nước có thể huy động

nguồn vốn lớn từ vàng trong dân thông qua nghiệp vụ kinh doanh vàng trên tài

khoản, giúp mở rộng hoạt động của thị trường vàng. Các ngân hàng thương mại cũng

huy động được nguồn vốn cho đầu tư phát triển, còn các cơ quan chức năng như hải

quan, thuế, ngân hàng... có thể kế hoạch hóa được lượng vàng giao dịch, nắm được

lượng vàng giao dịch trên thị trường, từ đó điều tiết, cân đối lượng ngoại tệ, giám sát

thị trường tốt hơn.

Trước mắt, cơ quan chức năng cần xác định được các tiêu chí, điều kiện thành

lập Trung tâm giao dịch vàng, một số nguyên tắc hoạt động đảm bảo cân đối quyền

lợi giữa đơn vị quản lý sàn với các nhà đầu tư; nhận diện các dạng vi phạm và hướng

xử lý, cơ quan có trách nhiệm xử lý vi phạm.

3.3 Giải pháp hỗ trợ

Việc hạn chế lạm phát là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm,cấp bách hiện nay. Để

thực hiện mục tiêu này phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Ngoài giải pháp bình

ổn giá vàng để kiềm chế lạm phát cần thực hiện một số giải pháp hỗ trợ sau:

3.3.1 Đối với Chính phủ

• Điều hành chính sách tiền tệ

Không thể phủ nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có nguồn

gốc từ phía CSTT. Do vậy, NHNN nên điều chỉnh trong điều hành CSTT cho phù hợp

tình hình lạm phát hiện nay. Việc điều hành CSTT thông qua các công cụ cơ bản như

79

DTBB, thị trường mở và lãi suất.

• Dự trữ bắt buộc

Trước mắt, tỷ lệ DTBB có thể tăng hay giảm theo sát tình hình lạm phát trên

thị trường song xét về lâu dài, công cụ này nên hạn chế sử dụng một cách riêng lẻ,

đơn điệu bởi NHNN cứ điều chỉnh thường xuyên tỷ lệ DTBB theo tình hình lạm

phát sẽ khiến cho hoạt động kinh doanh của các TCTD không ổn định, làm cho việc

quản lý khả năng thanh khoản của ngân hàng gặp khó khăn hơn, từ đó tạo tâm lý sốc

cho các ngân hàng và doanh nghiệp. Hơn nữa, chỉ một thay đổi nhỏ trong tỷ lệ

DTBB cũng sẽ dẫn đến những thay đổi rất lớn trong lượng tiền cung ứng thông qua

hệ số tạo tiền nên nếu có sai sót trong các quyết định liên quan đến sự thay đổi tỷ lệ

DTBB thì ảnh hưởng sẽ rất lớn.

• Sử dụng công cụ thị trường mở

Tham khảo nghiệp vụ thị trường mở của một số nước phát triển, có thể thấy

sự kết hợp nhịp nhàng giữa công cụ DTBB và thị trường mở đã tạo nên hiệu ứng tốt

hơn trong điều hành CSTT thay vì sử dụng từng công cụ riêng lẻ. Theo hướng trên,

nhược điểm của công cụ DTBB đã được khắc phục, DTBB không còn đơn thuần là

công cụ hành chính cứng nhắc do NHNN áp đặt cho các NHTM mà trở thành công

cụ hết sức uyển chuyển, linh hoạt đối với thị trường tiền tệ. Do đó, thiết nghĩ NHNN

trong tương lai nên điều hành CSTT theo hướng trên. Song song đó, để hoàn thiện và

phát triển nghiệp vụ thị trường mở, NHNN cần phải tập trung hoàn thiện hành lang

pháp lý, phát triển các công cụ trên thị trường mở, phát triển nghiệp vụ thị trường mở

ra toàn hệ thống ngân hàng, tránh cho thị trường mở chỉ là sân chơi của một số

NHTM.

+ Về lãi suất

Trước mắt, NHNN cần duy trì chính sách lãi suất thực dương. Tuy nhiên, nếu

lãi suất thực dương quá cao thì trước hết sẽ kiềm hãm tốc độ phát triển kinh tế và

sau đó sẽ tiềm tàng nguy cơ phá sản các TCTD. Do đó, mức lãi suất thông thường

trong nền kinh tế bình thường luôn được khuyến nghị tuân theo bất phương trình

sau: L1

L4: lợi nhuận bình quân xã hội trong cùng kỳ hạn lãi suất.

Trong tương lai, để phát huy hết vai trò quan trọng của lãi suất trong nền

kinh tế thị trường, Việt Nam nên theo thông lệ quốc tế là sử dụng chỉ số lạm phát cơ

80

bản để điều hành CSTT thay vì căn cứ vào chỉ số giá cả tiêu dùng. Lúc đó, lãi suất

không còn là công cụ của CSTT mà được xem là mục tiêu trung gian của CSTT.

Nếu theo hướng trên, NHNN không cần công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở

cho lãi suất kinh doanh của các TCTD hiện nay mà NHNN nên có lãi suất chủ đạo

dùng làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh.

Bất cứ CSTT của quốc gia nào, sử dụng bất cứ công cụ nào cũng nhằm đạt

được mục tiêu CSTT của quốc gia đó. Ở Việt Nam, để đạt được các mục tiêu cơ

bản của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy

phát triển kinh tế - xã hội, NHNN áp dụng CSTT thắt chặt hoặc nới lỏng trong từng

thời kỳ. Khi áp dụng CSTT nới lỏng, NHNN có thể hạ thấp lãi suất chủ đạo để đẩy

mạnh hoạt động cho các NHTM vay vốn nhiều hơn nhằm góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, đồng thời ngăn chặn ngay hiện tượng giảm phát. Ngược lại, NHNN

có thể tăng lãi suất chủ đạo khi NHNN áp dụng CSTT thắt chặt để hạn chế tín dụng

nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền.

Để thực hiện được điều này, NHNN nên nhanh chóng tổ chức, hướng dẫn

đẩy mạnh phát triển các công cụ của thị trường tiền tệ nhằm phong phú hoá và đa

dạng hóa các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt trên thị trường tiền tệ như séc,

thẻ ngân hàng; đặc biệt các giấy nợ và các giấy tờ có giá. Các giấy nợ và các giấy tờ

có giá càng nhiều, hoạt động của thị trường tiền tệ càng phong phú và đa dạng hơn.

Từ đó, NHNN có thể phát triển hoạt động thị trường mở, hoạt động tái chiết khấu

nhằm thúc đẩy việc điều hành chính sách lãi suất từ cơ chế kiểm soát trực tiếp sang

cơ chế kiểm soát gián tiếp thông qua các công cụ của CSTT. Có như vậy, NHNN

mới có thể hoàn thiện việc điều hành chính sách lãi suất để tiến tới tự do hóa hoàn

toàn lãi suất và lãi suất kinh doanh của các TCTD mới có thể được hình thành một

cách khách quan trên cơ sở cung, cầu vốn thị trường.

Tuy nhiên, các giải pháp trên có hiệu quả hay không là phụ thuộc vào tính

độc lập của CSTT. Tính độc lập của CSTT phải được đảm bảo trước tiên. Tính độc

lập thể hiện ở chỗ NHNN có đầy đủ thẩm quyền quyết định phát triển, mở rộng các

công cụ CSTT quốc gia cũng như các chủ thể tham gia vào hoạt động của thị trường

tiền tệ; đồng thời NHNN cũng cần có đầy đủ thẩm quyền quyết định việc cung ứng

tiền trong từng thời kỳ khác nhau.

3.3.2 Đối với doanh nghiệp

81

Kiểm soát lạm phát không chỉ là nhiệm vụ của các nhà hoạch định, điều hành

chính sách mà còn trở thành điều thường trực trong sản xuất, kinh doanh và cuộc

sống hàng ngày. Vì vậy, các doanh nghiệp cũng phải có ý thức về lạm phát, phối hợp

cùng với Chính phủ, NHNN để các biện pháp kiểm soát lạm phát có hiệu quả hơn.

Doanh nghiệp trước mắt cần rà soát lại các khâu, các bộ phận, triệt để cắt

giảm chi phí, khắc phục nguyên nhân lạm phát do chi phí đẩy. Giảm chi phí trong

quá trình sản xuất kinh doanh không chỉ đặt ra trong tình hình lạm phát tăng cao mà

là một trong những biện pháp lâu dài, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp trong quá trình hội nhập.

Để giảm chi phí sản xuất và tăng năng suất lao động, các doanh nghiệp phải chú ý

đến một số vấn đề về ứng dụng công nghệ hiện đại, chuẩn hóa thao tác; sử dụng

nguồn nhân lực hiệu quả, thực hiện tái cấu trúc tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp.

Bên cạnh việc cắt giảm chi phí, doanh nghiệp cũng phải có biện pháp phòng ngừa

rủi ro tăng giảm bất thường của giá cả. Trong tương lai, khi Việt Nam hội nhập

WTO hoàn toàn, các doanh nghiệp sẽ phải trực diện với sự thay đổi giá cả của tất cả

các mặt hàng chứ không chỉ riêng gì giá xăng dầu, đôla, vàng, sắt thép, phân bón ….

Và còn rất rất nhiều thay đổi khác nữa khi toàn cầu hóa nền kinh tế.

3.4 Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của các nước

3.4.1 Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Trung Quốc

Tại Trung Quốc, hoạt động kinh doanh vàng được thống nhất quản lý bởi đầu

mối duy nhất là Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (People’s Bank of China-PBOC –

Ngân hàng Trung ương của Trung Quốc). Trong giai đoạn từ năm 1949 đến 2001,

Trung Quốc thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, PBOC đóng

vai trò độc quyền thị trường vàng trong nước. Tuy nhiên, cùng với việc tự do hóa thị

trường tài chính, Trung Quốc đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc tự do hoá

từng bước thị trường vàng. Về cơ bản, kế hoạch tự do hoá thị trường vàng của Trung

Quốc cũng bao gồm 3 giai đoạn như nhiều nước khác, đó là:

Giai đoạn 1: Xoá bỏ chế độ độc quyền kinh doanh vàng và cơ chế kiểm soát

giá, đồng thời thành lập Sở giao dịch vàng Thượng Hải;

Giai đoạn 2: Từng bước xoá bỏ cơ chế cấp phép đối với hoạt động sản xuất,

bán buôn và bán lẻ vàng, bước đầu là đối với hoạt động bán lẻ, sau đó cho phép cá

nhân được tham gia giao dịch vàng miếng;

82

Giai đoạn 3: Xoá bỏ từng bước chế độ quản lý xuất nhập khẩu vàng. Trên cơ

sở các bước nêu trên, PBOC đã ban hành các quy định theo hướng nới lỏng quản lý

hoạt động kinh doanh vàng. Dưới đây là những mốc quan trọng trong tiến trình tự do

hoá thị trường vàng của Trung Quốc.

- Giai đoạn 1991-2000: Trước năm 1991, tại Trung Quốc, nhu cầu tiêu thụ vàng

phát triển chậm, chỉ vào khoảng 80 tấn mỗi năm, rất thấp nếu tính theo đầu người.

Trong giai đoạn 1991-2000, nhu cầu tiêu thụ vàng bắt đầu tăng mạnh và đạt mức

trung bình 270 tấn do những cải cách kinh tế và bắt đầu quá trình tự do hóa. Tuy

nhiên, thị trường vàng vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước từ khâu sản xuất

cho đến khâu phân phối bán lẻ.

Trong giai đoạn này, PBOC hoàn toàn độc quyền thị trường vàng trong nước từ khâu

khai thác, tinh chế, gia công lẫn hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu vàng. Các công

ty khai thác vàng sau khi tinh chế thành vàng miếng phải bán lại cho các chi nhánh

của PBOC, sau đó PBOC sẽ bán lại cho các công ty vàng bạc đá quý chuyên gia

công vàng trang sức. Các công ty này sau đó được phép bán vàng trang sức cho dân

chúng. Các hãng kinh doanh vàng trang sức chỉ được phép mua vàng nguyên liệu từ

PBOC và bán nhưng không được phép mua lại vàng trang sức từ dân chúng. Người

dân muốn bán vàng trang sức để lấy tiền mặt sẽ bán tại các chi nhánh của PBOC.

Ngoài ra, giá cả mua bán vàng đều phải áp dụng giá do PBOC quy định. PBOC quản

lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới dạng cấp phép xuất nhập khẩu cho các công

ty được phép với số lượng tuỳ vào từng thời điểm. Nhờ đó mà Ngân hàng Trung

ương kiểm soát được số lượng vàng trong nước.

Tuy nhiên, do giá vàng mua vào mà Nhà nước quy định thường thấp hơn

nhiều so với vàng bán ra nên đã hình thành thị trường mua bán vàng ngầm trong dân

cư. Mặt khác, cơ chế độc quyền trong phân phối và kiểm soát giá đã làm cho giao

dịch trên thị trường bị méo mó, giá cả không tuân theo quy luật cung cầu trong khi

nhu cầu vàng người dân lại ngày càng cao. Tình trạng này làm tăng lượng vàng nhập

lậu kém chất lượng từ các nước có chung đường biên giới với Trung Quốc. Nhận

thấy tình hình tiêu cực trên, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã đổi mới, từng

bước xóa bỏ cơ chế độc quyền trong sản xuất, kinh doanh và phân phối vàng.

- Giai đoạn từ 2001-2006: Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001. Đây cũng là năm đánh dấu mốc quan

83

trọng trong việc tự do hoá thị trường vàng của Trung Quốc. Tháng 4/2001, Ngân

hàng Nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên chính thức công bố kế hoạch xoá bỏ cơ chế

quản lý độc quyền trong mua và phân phối vàng, bãi bỏ việc kiểm soát và ấn định giá

vàng cũng như giảm thuế suất. Hiệp Hội Vàng Trung Quốc (CGA) và Sở/Sàn giao

dịch vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange - SGE) được thành lập. Đây được

coi là bước đột phá trong chính sách quản lý thị trường vàng của Trung Quốc sau

hơn 50 năm thực hiện kiểm soát chặt chẽ.

Đặc biệt, vào tháng 11/2001 Trung Quốc xoá bỏ chế độ cấp phép đối với hoạt

động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng trong nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp 100%

vốn nước ngoài vẫn chưa được phép tham gia vào lĩnh vực này.

Hoạt động của Sở giao dịch vàng Thượng Hải (SGE)

Để quản lý thị trường vàng hiệu quả mà vẫn đảm bảo nhu cầu kinh doanh

vàng bạc của dân chúng, Trung Quốc đã thành lập Sở giao dịch vàng Quốc gia vào

tháng 11/2001, hoạt động độc lập như một Sở Giao dịch Chứng khoán. Sở giao dịch

vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange – SGE) là pháp nhân độc lập do Nhà

nước đầu tư vốn 100% (vốn điều lệ đăng ký là 30.000.000 RMB, tương đương

khoảng 4,2 triệu USD), thời gian hoạt động là 50 năm. Ngân hàng Nhân dân Trung

Hoa là cơ quan quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động của SGE. Hội đồng quản trị của

Sàn do NHTW tiến cử, hầu hết các vị trí quan trọng và chủ chốt trong Ban Quản trị

của Sàn đều do Ngân hàng Trung ương bổ nhiệm. SGE có chế độ báo cáo thường

xuyên và đột xuất nhờ đó mà Ngân hàng Trung ương Trung Quốc vẫn giữ được

quyền chủ động trong mọi quyết định của SGE.

Vào tháng 10/2002, Sở giao dịch vàng Thượng Hải chính thức đi vào hoạt động. Đây

là sàn vàng vật chất giao ngay (spot gold). Sản phẩm được phép giao dịch lúc đầu là

vàng miếng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sau đó mở rộng sang các kim loại quý khác như

bạch kim và bạc. Để thực hiện giao dịch vàng vật chất, SGE có hệ thống thành viên

là các công ty cung cấp dịch vụ lưu kho, bảo quản và giao nhận vàng. Ban đầu, chỉ

nhà đầu tư là tổ chức mới được phép tham gia giao dịch trên SGE, nhà đầu tư cá

nhân chưa được phép tham gia. SGE có hệ thống thành viên là các tổ chức kinh tế

trong nước, gồm: các công ty kinh doanh vàng (công ty khai thác, chế tác, xuất nhập

khẩu vàng); các định chế tài chính và các thành viên chủ chốt. Các thành viên này là

các nhà tạo lập thị trường, tham gia giao dịch, làm đại lý nhận lệnh, thực hiện chức

84

năng ngân hàng thanh toán hoặc cung cấp dịch vụ kho bãi, giao nhận. Tại thời điểm

đi vào hoạt động, SGE có 108 thành viên.

Theo số liệu thống kê trên website của Sở giao dịch vàng Thượng Hải, giá vàng giao

dịch trên SGE (đơn vị CNY/g) tương đối sát với giá thế giới (đơn vị USD/ounce) nếu

cộng cả thuế và các chi phí nhập khẩu. Trong khi hoạt động xuất nhập khẩu vàng

đang bị quản lý dưới dạng cấp phép, giá vàng trong nước có sự liên thông với giá

vàng thế giới chứng tỏ PBOC có cơ chế quản lý linh hoạt trong việc cho phép các

đơn vị xuất hoặc nhập khẩu vàng khi có chênh lệch giá. Ngoài ra, cũng có khả năng

PBOC trực tiếp mua bán can thiệp thị trường nhằm bình ổn giá, hạn chế tình trạng

buôn lậu vàng.

Với sự ra đời của SGE, giao dịch vàng miếng đã được thực hiện tập trung qua Sàn

bằng cơ chế khớp lệnh tập trung, giá cả do cung cầu thị trường quyết định, PBOC

không thực hiện quy định giá đối với giao dịch vàng miếng. Đây là sự kiện đánh dấu

sự chấm dứt cơ chế độc quyền đối với thị trường vàng của Trung Quốc.

Tháng 3/2003, Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được phép đầu tư

vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vàng tại thị trường trong nước. Năm 2003- 2004,

cũng đánh dấu tiến trình mở cửa thị trường của Trung Quốc qua việc:

+ Bãi bỏ việc cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu sử dụng vào mục

đích sản xuất nữ trang để tái xuất khẩu;

+ Bãi bỏ quy định cấp giấy phép kinh doanh vàng để tự do hóa thị trường

vàng nữ trang;

+ Ngân hàng Trung Quốc bắt đầu cho phép cá nhân giao dịch vàng hai chiều

với thanh toán bằng tiền mặt;

+ Ủy ban Pháp chế cho phép việc mua bán vàng vật chất tại các ngân hàng

thương mại.

- Giai đoạn từ năm 2006 - nay: Tháng 12/2006, Ngân hàng Nhân dân Trung cho

phép nhà đầu tư cá nhân được phép giao dịch vàng miếng trên SGE. Nhờ quy định

này, vàng trở thành kênh đầu tư tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư cá nhân cùng

với kênh đầu tư khác như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản. Với sự tham gia của

các nhà đầu tư cá nhân, tính thanh khoản của vàng trên SGE cũng được nâng lên

đáng kể. Đồng thời, PBOC cũng chính thức cho phép các ngân hàng thương mại

được phép cung cấp dịch vụ kinh doanh vàng tài khoản cho khách hàng cá nhân.

85

Kinh doanh vàng qua tài khoản là việc nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch mua bán

vàng trên tài khoản của mình nhưng trên thực tế không diễn ra việc giao nhận vàng

vật chất, cũng như không thể rút vàng vật chất từ tài khoản của mình.

Hiện nay, các nhà đầu tư cá nhân phải mở 2 tài khoản (1 tài khoản tiền thanh

toán và 1 tài khoản vàng) để thực hiện giao dịch tại các Ngân hàng là thành viên của

SGE. Ngân hàng cung cấp dịch vụ thực hiện chức năng trung gian, mở tài khoản cho

nhà đầu tư, nhập lệnh, khớp lệnh và thu phí giao dịch. Theo quy định của PBOC, nhà

đầu tư cá nhân chỉ được phép giao dịch trong giới hạn số dư tài khoản tiền hoặc vàng

của họ. Tức là ngân hàng không được phép cho nhà đầu tư vay để đầu tư vượt quá số

tiền hoặc vàng họ đang nắm giữ hay không sử dụng đòn bẩy tài chính (tỷ lệ ký quỹ là

100%). Quy định này sẽ hạn chế quy mô giao dịch vàng tài khoản nhưng sẽ giảm

thiểu rủi ro cho nhà đầu tư trong trường hợp đầu tư thua lỗ.

Giữa năm 2007, PBOC chấp thuận cho một số ngân hàng nước ngoài gồm HSBC,

Standard Chartered, UBS AG và Bank of Nova Scotia (BNS) trở thành thành viên

của Sàn giao dịch vàng Thượng Hải. Năm 2010, lượng vàng giao dịch tại Sàn Giao

dịch Vàng Thượng Hải đạt 6.046 tấn trị giá 1,61 nghìn tỷ NDT, trong đó giao dịch

vật chất là 837 tấn.

Tháng 08/2010, Chính phủ Trung Quốc nới lỏng những quy định trong hoạt động

mua, bán và đầu tư vàng đối với các tổ chức tài chính và nhà đầu tư cá nhân. Nhiều

ngân hàng được phép nhập khẩu và xuất khẩu vàng, mở cửa thị trường vàng cho các

tổ chức và các cá nhân. Cũng trong năm 2010, Trung Quốc cho phép quỹ đầu tư

vàng đầu tiên được đầu tư ra các quỹ tín thác đầu tư vàng ở thị trường nước ngoài.

Hiện tại, Trung Quốc là nước khai thác vàng lớn nhất thế giới với sản lượng dự kiến

lên tới 440 tấn năm 2013, vượt Nam Phi – nhà khai thác vàng lớn nhất thế giới năm

2007, với sản lượng đạt 403 tấn trong năm 2012. Đồng thời, Trung Quốc là nước tiêu

thụ vàng đứng thứ 2 thế giới (sau Ấn Độ, tuy nhiên sẽ sớm vượt Ấn Độ trong năm

2013 ) với mức tiêu thụ ngày càng tăng (năm 2010: 580 tấn; năm 2011: 778,6 tấn; 6

tháng đầu năm 2013: 706,36 tấn và có thể đạt 1.000 tấn cả năm 2013)

Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc chiếm 30,2% tổng dự trữ ngoại hối của thế giới

vào cuối năm 2012. Tuy nhiên, tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối của Trung

Quốc khá khiêm tốn. Năm 2009, Trung Quốc là quốc gia có dự trữ vàng đứng thứ 6

86

thế giới (sau Mỹ, Đức, IMF, Ý và Pháp) với 1054 tấn (chỉ chiếm 1,9% tổng dự trữ

của Trung Quốc).

3.4.2 Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Ấn Độ

- Chính sách quản lý thị trường vàng và chống vàng hóa của Ấn Độ

Từ tháng 3/2012 trở lại đây, Chính phủ và Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (The

Reserve Bank of India – RBI – Ngân hàng Trung ương của Ấn Độ) dồn dập đưa ra

các quy định mới để tăng cường quản lý thị trường vàng, thậm chí kêu gọi người dân

bớt “yêu” vàng, và không mua vàng, bên cạnh việc sử dụng tiết kiệm xăng dầu. Ngày

21/3/2012, RBI ra quy định các công ty tài chính phi ngân hàng không được cho vay

dựa trên tài sản đảm bảo bằng vàng miếng và tiền xu vàng. Trong báo cáo định kỳ

ngày 30/10/2012, RBI quan ngại việc nhập khẩu vàng tăng mạnh trong những năm

gần đây do các ngân hàng cho vay mua vàng dưới mọi hình thức và điều này thúc

đẩy nhu cầu vàng nhằm mục đích đầu cơ. Đến tháng 11/2012, RBI chính thức có quy

định cấm các ngân hàng cho vay để mua vàng dưới mọi hình thức.

Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ cũng dừng kế hoạch cho phép tăng tỷ lệ danh mục cho vay

dựa trên thế chấp bằng vàng từ 11% lên 15% như dự kiến trước đó, đồng thời chỉ đạo

các công ty tài chính phi ngân hàng giới hạn giá trị khoản vay ở mức 60% giá trị tài

sản thế chấp bằng vàng so với tỷ lệ 90 – 100% như trước đây.

Tháng 2/2013, RBI yêu cầu các ngân hàng hợp tác xã chỉ được phép cho vay thế

chấp bằng vàng và không được phép cho vay mua vàng dưới mọi hình thức. Đầu

tháng 5/2013, RBI quy định các ngân hàng được phép cho vay dựa trên tài sản đảm

bảo là vàng trang sức và tiền xu vàng do ngân hàng đúc, nhưng không được phép cho

vay để mua vàng dưới bất kỳ hình thức nào. Cho vay dựa trên đảm bảo bằng tiền xu

vàng đối với mỗi khách hàng không được quá trọng lượng 50 gram vàng.

Cũng trong tháng 5/2013, RBI quy định hạn chế nhập khẩu vàng trên cơ sở ủy thác

của ngân hàng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của đơn vị xuất khẩu vàng trang sức, rồi

mở rộng sang các tổ chức khác được Chính phủ cho phép nhập khẩu vàng. Tất cả thư

tín dụng (L/C) để nhập khẩu vàng dưới mọi hình thức phải được đảm bảo 100% bằng

tiền mặt và việc nhập khẩu vàng sẽ phải được thực hiện theo phương thức Hồ sơ –

Thanh toán, không được áp dụng phương thức Hồ sơ – Chấp thuận.

Cuối tháng 6/2013, tiếp theo quy định trước đó, RBI yêu cầu việc nhập khẩu vàng

dựa trên tín dụng của bên mua/bên bán phải tuân thủ quy định về tỷ lệ đảm bảo bằng

87

tiền mặt và phương thức Hồ sơ – Thanh toán, các ngân hàng phải đảm bảo không

cho phép cấp tín dụng dưới bất kỳ hình thức nào để nhập khẩu vàng.

Hội đồng Vàng thế giới cho rằng nhu cầu vàng vật chất của Ấn Độ có thể tiến tới con

số 1.000 tấn trong năm nay. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ lại muốn hạn chế lượng

vàng nhập khẩu không vượt quá 850 tấn và vì thế quốc gia này một lần nữa lại áp

dụng các chế tài khắt khe trong việc mua và nhập khẩu vàng.

Trong nỗ lực nhằm giảm thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao kỷ lục, ngày 5/6/2013,

Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ quyết định tăng thuế nhập khẩu vàng lần thứ 2 trong năm

nay, từ 6% lên 8%, so với mức thuế 2% vào tháng 1/2012.

Ngày 22/6/2013, RBI yêu cầu các nhà nhập khẩu phải tái xuất ít nhất 20% lượng

vàng nhập khẩu – thường là đồ trang sức. Sau đó, ngày 30/8/2013, RBI lại tiếp tục

tăng thuế nhập khẩu vàng từ 8% lên 10%.

Có nhiều điểm tương đồng trong các chính sách tăng cường quản lý thị trường vàng

của Ấn Độ giống với Việt Nam, đó là cùng theo hướng siết chặt, cắt bỏ dần hoạt

động cho vay bằng vàng, cho vay thế chấp bằng vàng, cũng như hạn chế việc nhập

khẩu vàng. Chính phủ Ấn Độ gần đây tuyên bố có thể sẽ áp dụng thêm các biện pháp

hạn chế nhập khẩu vàng hơn nữa cho đến khi lượng vàng vật chất nhập khẩu đạt ở

con số mong muốn.

Tuy nhiên, tại Ấn Độ, sự say mê giao dịch vàng vẫn được duy trì bất chấp các biện

pháp tăng thuế nhập khẩu của chính phủ với mục tiêu cắt giảm thâm hụt cán cân

vãng lai. Theo Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), trên thực tế, nhu cầu vàng trang sức,

vàng thỏi và tiền xu vàng tại Ấn Độ trong quý 2/2013 vẫn tăng mạnh so với cùng kỳ

năm ngoái, ngay cả khi các biện pháp tăng thuế được áp dụng, cho dù nhập khẩu

vàng giảm mạnh trong quý 3/2013 theo số liệu nhập khẩu chính thức.

Lực mua vàng kỷ lục này không xuất phát hoàn toàn từ tình yêu vàng. Chắc chắn

người dân quyết định mua vàng một phần là do lo ngại nghèo đói cũng như sự bất ổn

trong các chính sách của chính phủ. Một chính sách tốt có thể kích thích kinh tế tăng

trưởng và khiến thị trường phản ứng tốt. Một chính sách tồi lại đem đến những hậu

quả trái ngược. Khi người dân mua vàng cho người thân và bạn bè, cũng là lúc họ

mua vàng với mục đích bảo vệ. Trong vòng 3 năm qua, từ tháng 8/2010 đến tháng

8/2013, lợi nhuận từ vàng ở Ấn Độ tính theo đồng Rupee – một đồng tiền yếu so với

USD là 49,5%, trong khi lợi nhuận của vàng tính theo đồng USD ở Mỹ chỉ là 12,4%.

88

Theo Thomson Reuters GFMS, tổng hợp số liệu của Hội đồng vàng Thế giới, năm

2012 có 102 tấn vàng nhập lậu vào Ấn Độ. Năm 2013, các nhà bán lẻ và các trung

tâm bán vàng miếng dự đoán vàng nhập lậu vào Ấn Độ có thể lên tới 140 tấn, tăng

40% so với năm ngoái.

- Kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc huy động vàng

Để thu hút một phần khối lượng vàng của quốc gia do tư nhân nắm giữ (hiện tại

khoảng 20.000 tấn vàng), qua đó giảm sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu vàng, Ngân

hàng Dự trữ Ấn Độ (NHTW) cho phép các ngân hàng có đủ điều kiện được huy

động và cho vay vàng, cụ thể như sau:

- Ngân hàng được huy động khi được NHTW Ấn Độ cho phép (hiện nay ngân hàng

huy động vàng lớn nhất của Ấn Độ là Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ). Các ngân hàng

phải có cơ chế quản trị rủi ro thích hợp để phòng chống rủi ro biến động giá vàng và

được phép tham gia vào các hợp đồng kỳ hạn ở Ấn Độ để bảo hiểm rủi ro. Các ngân

hàng được tham gia thị trường vàng quốc tế, Hiệp hội vàng London hoặc sử dụng các

hợp đồng OTC để phòng ngừa biến động giá vàng theo các quy định về kiểm soát

ngoại hối. Đồng thời, các ngân hàng phải thiết lập hệ thống kế toán phù hợp, cơ chế

kiểm tra, kiểm soát nội bộ và công bố thông tin bao quát các hoạt động liên quan đến

vàng bao gồm cả huy động vàng.

- Một số đặc điểm huy động vàng ở Ấn độ:

+ Hình thức: huy động tiết kiệm hoặc phát hành chứng chỉ huy động vàng cho các hộ

gia đình, các ngôi đền, chùa và các quỹ tôn giáo.

+ Kỳ hạn: thường từ 3-7 năm.

+ Lãi suất: Do ngân hàng huy động quy định.

+ Khi đến hạn sẽ được thanh toán bằng vàng hoặc tương ứng bằng đồng Rupee theo

yêu cầu của người gửi.

+ Chứng chỉ có thể chuyển nhượng và người sở hữu không phải chịu thuế.

+ Người gửi vàng có thể thanh toán trước hạn sau khi gửi tối thiểu 1 năm. Ngân hàng

có thể cho người giữ chứng chỉ vay đồng Rupee.

- Ngân hàng huy động vàng có thể cho vay vàng đối với lĩnh vực trang sức trong

nước, cho vay các nhà xuất khẩu vàng trang sức hoặc bán vàng giao ngay tại thị

trường trong nước hoặc bán vàng cho các ngân hàng chỉ định khác.

89

- Ngân hàng huy động sẽ bán vàng huy động được trên thị trường trong nước để

giảm sự phụ thuộc vào vàng nhập khẩu. NHTW sẽ cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ

hạn cho ngân hàng huy động vàng với một chi phí nhất định. Chi phí này cùng với

lãi suất huy động trả cho người sở hữu chứng chỉ vàng sẽ tương đương với lãi suất đi

vay Rupee của ngân hàng huy động.

Tuy nhiên, việc huy động vàng ở Ấn Độ cũng có một số vấn đề đặt ra là:

+ Nhu cầu mua vàng miếng sẽ tương ứng với số lượng vàng gửi vào ngân

hàng thương mại nên không làm giảm được sự phụ thuộc vào vàng miếng nhập khấu.

+ Chính phủ sẽ mất tiền nếu đồng Rupee giảm giá trị mạnh so với Đô la Mỹ

hoặc giá vàng tăng mạnh trong suốt thời hạn gửi vàng.

+ Mất khoản thu thuế đối với lãi gửi vàng trong khi có thể đánh thuế đối với

lãi tiền gửi Rupee.

+ NHTW Ấn Độ có lượng vàng dự trữ khoảng 557,7 tấn vàng (năm 2009). Số

vàng này đang không mang lại lợi nhuận cho NHTW Ấn độ, tuy nhiên họ đã chọn

việc cho phép NHTM đi vay vàng từ người dân và trả lãi suất. Nếu số vàng huy động

tăng lên và NHTW cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ hạn cho ngân hàng huy động thì

có nghĩa là NHTW đã bán khoản dự trữ ngoại hối của mình và có thể phải giao vàng

trong tương lai.

- Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Thị trường vàng Việt Nam hiện nay có quy mô khoảng 40 tỷ USD, vẫn rất nhỏ bé

nếu xét trên bình diện toàn thế giới. Theo đánh giá của Hội đồng Vàng Thế giới, thị

trường vàng Việt Nam là một thị trường nhiều tiềm năng, tuy nhiên vẫn còn kém

phát triển, mang nặng tính thủ công, chưa áp dụng được các công nghệ sản xuất và

nghiệp vụ kinh doanh hiện đại trên thị trường quốc tế.

Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và huy động vàng của quốc tế, đặc

biệt kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ, có thể rút ra các bài học sau.

+ Thị trường vàng cần quản lý theo quy luật cung – cầu trên cơ sở liên thông,

gắn kết với thị trường vàng thế giới. Tuy nhiên, do vàng là tài sản quốc gia và là

hàng hóa mang tính tiền tệ đặc biệt nên Nhà nước có cơ chế quản lý sao cho huy

động tối đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu phát triển và bình ổn kinh tế vĩ mô, có

thể điều tiết được thị trường khi cần.

90

+ Cùng với quá trình tự do hoá thị trường tài chính, thị trường vàng cũng cần

tự do từng bước nhằm phù hợp với trình độ phát triển chung của thị trường tài chính.

Theo kinh nghiệm của nhiều nước trong đó có Trung Quốc, tiến trình tự do hoá thị

trường vàng nên bắt đầu từ tự do hoá thị trường vàng vật chất, sau đó đến kinh doanh

vàng tài khoản và cuối cùng là từng bước xoá bỏ kiểm soát đối với hoạt động xuất

nhập khẩu vàng.

+ Ngân hàng Trung ương là đầu mối quản lý thị trường vàng và điều tiết thị

trường này theo quy luật cung cầu thị trường. Quản lý của NHTW cần phải hướng

tới việc kiểm soát được việc kinh doanh, đầu tư vàng của đối tượng đầu tư, tiêu

dùng. Muốn vậy, NHTW cần xây dựng cơ sở pháp lý đảm bảo đối tượng đầu tư, tiêu

dùng chỉ có thể mua, bán vàng trên mạng lưới mà NHTW thiết lập (như các ngân

hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, sàn/sở giao dịch vàng,…). Từ

đó, Chính phủ không cần thiết phải cấm người dân mua, bán và tích trữ vàng miếng

mà vẫn quản lý được nguồn lực tài chính quốc gia, đủ năng lực và công cụ để đưa ra

các biện pháp cần thiết, kịp thời nhằm ổn định và điều tiết thị trường khi cần.

+ Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Sở giao dịch hàng hoá trong

đó có giao dịch vàng (trên cơ sở vàng được coi như một loại hàng hóa đặc biệt) như

mô hình của Sở giao dịch vàng Thượng Hải để đưa thị trường vàng trong nước liên

thông với thị trường vàng quốc tế. Kinh nghiệm từ các quốc gia khác cho thấy, việc

đưa hoạt động kinh doanh vàng vào quản lý theo thị trường tập trung mang lại hiệu

quả cao về kinh tế, xã hội.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Từ những nghiên cứu, phân tích, kiểm định mối quan hệ giữa giá vàng và lạm

phát ở chương 2 và những định hướng kiềm chế lạm phát tại Việt Nam của Chính

phủ, đưa ra một số giải pháp để ổn định giá vàng, tránh gây ra hiện tượng đầu cơ,

thao túng gây nhiễu loạn xáo trộn ảnh hưởng đến thị trường vàng cũng như tránh tác

động tâm lý ảnh hưởng đến mặt bằng giá chung , nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Những giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ với nhau.

91

KẾT LUẬN

Lạm phát là căn bệnh của nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây, tuy

đó là tình trạng chung của nền kinh tế toàn cầu, nhưng lạm phát của Việt Nam quá

cao so với các nước trong khu vực. Lạm phát cao và kéo dài làm suy giảm niềm tin

vào mãi lực của tiền đồng, hệ quả là tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế và nhập

siêu vàng. Lạm phát cũng làm thâm hụt thương mại vì tỷ giá bị kềm nén, tăng rủi ro

của hoạt động kinh tế, và suy giảm mức sống của người lao động. Kềm nén tỷ giá thì

bất lợi cho ngoại thương, nhưng phá giá tiền đồng đến 9.3% (ngày 11/02/2011) cũng

ít nhiều làm sụt giảm lòng tin của các đối tác quốc tế. Vì vậy, kiềm chế lạm phát

được xem là nhiệm vụ cấp bách của chính phủ. Chính sách cấm mua bán vàng miếng

dựa trên giả thuyết kiểm soát giá vàng làm giảm lạm phát và ổn định vĩ mô. Người

dân thường định giá hàng hoá có giá trị lớn vào giá vàng, giá vàng tăng thì giá hàng

hoá tăng theo. Một nghiên cứu của Ngân Hàng Trung ương Canada cho 14 quốc gia

với số liệu từ 1994 đến 2005 cho thấy giá vàng là chỉ báo cho lạm phát. Bình ổn giá

vàng, do đó, cũng góp phần bình ổn thị trường vốn. Chiều ngược lại giá vàng có thể

là hệ quả của lạm phát. Khi lạm phát người ta tránh giữ tiền mặt, vàng là một lựa

chọn. Nếu không có hạn ngạch nhập khẩu vàng, thì giá vàng trong nước sẽ cao hơn

giá thế giới. Lạm phát cũng làm tăng tỷ giá, vậy giá vàng sẽ tăng kép, vừa do tỷ giá

vừa do cầu tăng.

Nếu cả hai chiều tác động đều đúng thì có một vòng xoáy tăng giá, lạm

phát làm tăng giá vàng đồng thời giá vàng tăng khiến lạm phát trầm trọng hơn. Để

cắt đứt vòng xoáy lạm phát-sốt vàng cần tìm đúng nguyên nhân gây ra lạm phát.

Kiểm chứng quan hệ nhân quả giữa lạm phát và giá vàng phải xem xét ảnh hưởng

của các biến số vĩ mô có liên quan như tỷ giá, cung tiền, lãi suất, giá bất động sản, và

chứng khoán. Kiểm định quan hệ nhân quả giữa các biến số kinh tế dựa ý tưởng của

Clive Granger (Nobel Kinh tế 2003), cụ thể, giá vàng được xem là có tác động lên

lạm phát nếu giá vàng của các tháng trước đó giúp dự báo lạm phát của tháng này tốt

hơn. Hai biến số này có tác động qua lại theo cơ chế phản hồi nếu tăng giá vàng giúp

dự báo lạm phát đồng thời lạm phát cũng giúp dự báo giá vàng. Khi giá vàng của một

kỳ giải thích được lạm phát của cùng kỳ thì ta có quan hệ nhân quả tức thời. Giá

vàng và lạm phát tạo thành vòng xoáy tăng giá. Tuy nhiên, qua kết quả kiểm định

thực tế quan hệ nhân quả giữa tỷ giá USD/VND và lạm phát không có ý nghĩa thống

92

kê; tuy nhiên USD tăng giá so với VND ảnh hưởng tức thời lên giá vàng. Vậy tỷ giá

chỉ có tác động gián tiếp lên lạm phát, thông qua giá vàng.

Trong giới hạn của đề tài chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và giá

vàng, từ đó đưa ra hướng giải quyết để bình ổn thị trường vàng để kiềm chế lạm

phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên, lạm phát cao ngoài sự tác động của giá vàng còn có

tác động của các biến số vĩ mô khác, đặc biệt là sự tác động mạnh của cung tiền. Do

đó, khuyến nghị chính phủ nên cương quyết thực hiện chính sách tài khóa và chính

sách tiền tệ thắt chặt đi kèm với việc kiểm soát thị trường vàng./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Các nguồn tài liệu in

[1] Nguyễn Duệ. Chính sách mục tiêu lạm phát, Nhà xuất bản thống kê Thành

phố Hồ Chí Minh, năm 2000

[2] Nguyễn Đăng Dờn. Tiền tệ ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê Thành phố

Hồ Chí Minh, năm 2005.

[3] David Begg. Kinh tế học vĩ mô, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, năm 2008.

[4] Nguyễn Trọng Hoài. Dự báo và phân tích dữ liệu trong kinh tế và tài

chính, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, năm 2009.

[5] Phạm Minh Quang. “Giải pháp kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế

bền vững,” Tạp chí Diễn đàn nghiên cứu về thị trường tiền tệ, trang 26-28,

tháng 7 năm 2013.

II. Các nguồn tài liệu điện tử

[6] Trần Trọng Quốc Khanh. “Nhiều hệ lụy khi giá vàng tăng cao.” Internet

http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/nhieu-he-luy-khi-gia-vang-tang-

cao-2708348.html , ngày 23 tháng 10 năm 2010.

[7] Thu Phương. “Năm 2013 tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô kiểm soát lạm

phát.” Internet http://www.tinmoi.vn/thu-tuong-nam-2013-tiep-tuc-on-dinh-

kinh-te-vi-mo-kiem-soat-lam-phat-01958632.html, ngày 04 tháng 07 năm

2012

[8] Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vàng bạc đá quý Sài Sòn

SJC. Website http://www.sjc.com.vn.

[9] Giá vàng thế giới. Website http://www.sjc.com.vn

[10] Tổng cục Thống kê Việt Nam Website http://www.gso.gov.vn

[11] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Website http://www.sbv.gov.vn

III. Các nguồn tài liệu khác

[12] Đặng Thị Tường Vân. “Các giải pháp kinh doanh vàng tại Việt Nam,”

Thạc sỹ, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008.

[13] Đinh Thị Ngọc Mai. “Một số giải pháp nhằm ổn định thị trường vàng và

phát triển đầu tư vàng tại Việt Nam,” Thạc sỹ, Trường đại học kinh tế Thành

phố Hồ Chí Minh, năm 2010.

[14] Hoàng Ngọc Hà. “Các giải pháp kiềm chế lạm phát tại Việt Nam,” Thạc

sỹ, Trường đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010.

[15] Lê Trương Hải Hiếu. “Các nguyên nhân và giải pháp kiềm chế lạm phát

trong năm 2012 và trung hạn đến năm 2015.” Thạc sỹ kinh tế, Trường Đại

học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012

IV. Các văn bản pháp lý

[1] Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999, Về việc quản lý hoạt động

kinh doanh vàng

[2] Nghị định 86/1999/ NĐ-CP ngày 30/08/1999 Về Quản lý dự trữ ngoại hối

Nhà nước

[3] Quyết định 432/2000/QĐ-NHNN ngày 03/10/2000, Về nghiệp vụ huy

động và sử dụng vốn bằng vàng, bằng VNĐ bảo đảm giá trị theo giá vàng của

các tổ chức tín dụng.

[4] Nghị định 64/2003/NĐ-CP ngày 11/06/2003, về việc sửa đổi bổ sung Nghị

định 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999, Về việc quản lý hoạt động kinh

doanh vàng

[5] Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 Về việc kinh doanh

vàng trên tài khoản ở nước ngoài

[6] Thông báo 369/TB-VPCP ngày 30/12/2009 – Kết luận của Thủ tướng

Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp thường trực chính phủ về quản lý nhà nước

đối với hoạt động kinh doanh vàng.

[7] Thông tư 01/2010/TT-NHNN ngày 06/01/2010 Bãi bỏ Quyết định số

03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản

ở nước ngoài và Quyết định số 11/2007/QĐ-NHNN ngày 15/03/2007 về việc

sửa đổi, bổ sung Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN

[8] Thông tư 10/2010/TT-NHNN ngày 26/03/2010 Về việc sửa đổi khoản 2,

khoản 3 Điều 2 Thông tư 01/2010/TT-NHNN ngày 06/01/2010 về việc Kinh

doanh vàng trên tài khoản và Quyết định 11/2007/QĐ-NHNN ngày

15/03/2007 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN

[9] Thông tư 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010 về việc quy định về cho

vay và huy động vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.

[10] Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày 29/04/2011, Quy định về chấm dứt

huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.

[11] Thông tư 32/2011/TT-NHNN ngày 06/10/2011, Sửa đổi bổ sung một số

điều của Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày 29/04/2011 của Ngân hàng nhà

nước Việt Nam quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng

của tổ chức tín dụng.

[12] Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011, về việc những giải pháp chủ yếu

tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

[13] Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/04/2012 Về quản lý hoạt động kinh

doanh vàng

[14] Quyết định 1623/QĐ-NHNN ngày 23/08/2012 Về việc tổ chức và quản

lý sản xuất vàng miếng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

[15] Thông tư 06/2013/TT-NHNN ngày 12/03/2013 Hướng dẫn hoạt động

mua bán vàng miếng trên thị trường trong nước của ngân hàng nhà nước

Việt Nam.

PHỤ LỤC 1 : KIỂM ĐỊNH SỰ ĐỒNG LIÊN KẾT GIỮA GIÁ VÀNG,LẠM PHÁT VÀ TỶ GIÁ

Mẫu kiểm định: 2000M06 2012M12 Số quan sát: 151 Xu hướng giả định : Xu hướng xác định tuyến tính Biến kiểm định: P G USD Độ trễ: 1 to 4

Kiểm định đồng liên kết (Trace)

Giả thuyết Vectơ đặc trưng Giá trị tới han 0.05

Không * Tối đa 1 * Tối đa 2 * 0.320556 0.221933 0.07652 Thống kê Trace 108.2713 49.9129 12.02059 29.79707 15.49471 3.841466 Xác suất 0 0 0.0005

PHỤ LỤC 2: KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT TỶ GIÁ USD/VND TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT

Biến phụ thuộc : P Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Sai số chuẩn Giá trị của thống kê t

Hệ số hồi qui 0.692461 0.067688 0.204636 -0.181756 -0.07361 -0.001349 -0.050212 -0.026392 0.01102 0.027516 0.001453 0.017851 -0.051006 0.013172 -0.115974 -0.040292 -0.034995 -0.049186 59.38017 0.096522 0.114252 0.11507 0.126415 0.128374 0.106447 0.018501 0.018896 0.019059 0.018703 0.018929 0.01857 0.050935 0.054766 0.055491 0.05599 0.055396 0.052088 22.10172 7.174131 0.592444 1.778362 -1.437772 -0.573403 -0.012669 -2.713991 -1.396665 0.578194 1.471219 0.076755 0.96131 -1.00139 0.240514 -2.089951 -0.719621 -0.631723 -0.944292 2.686677

0.540833 Trung bình biến phụ thuộc 0.477742 Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ thuộc 0.924939 Tiêu chuẩn Akaike 112.0721 Tiêu chuẩn Schwarz -190.9788 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn 8.572189 Thống kê Durbin-Watson Xác suất 0 0.5546 0.0777 0.1529 0.5674 0.9899 0.0075 0.1649 0.5641 0.1436 0.9389 0.3382 0.3185 0.8103 0.0386 0.473 0.5287 0.3468 0.0082 101.22 1.2799 2.7997 3.1811 2.9546 1.992

P(-1) P(-2) P(-3) P(-4) P(-5) P(-6) G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6) USD(-1) USD(-2) USD(-3) USD(-4) USD(-5) USD(-6) C Hệ số xác định R2 Hệ số xác định điều chỉnh R2 Sai số chuẩn của ước lượng Tổng bình phương các phần dư Ln hàm hợp lý Thống kê F P(F>giá trị thống kê F) 0

PHỤ LỤC 3 : KIỂM ĐỊNH LR CHO GIẢ THUYẾT TỶ GIÁ USD/VND TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT

Biến thừa :USD(-1) USD(-2) USD(-3) USD(-4) USD(-5) USD(-6)

Xác suất

Giá trị 1.179859 7.894467 Sai phân (6, 131) 6 Thống kê F Tỷ số ln hàm hợp lý 0.321 0.2459

Kết quả kiểm định Biến phụ thuộc : P Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Xác suất Sai số chuẩn

Giá trị của thống kê t 7.1842 0.6895 2.0313 -1.8184 -0.2656 -0.2789 -3.2882 -1.1339 -0.0664 1.5364 -0.1465 0.7796 3.7853 0.095095 0.11188 0.112521 0.12367 0.126932 0.105982 0.017688 0.01836 0.018456 0.018169 0.01823 0.017861 9.108701 0 0.4917 0.0442 0.0712 0.791 0.7807 0.0013 0.2588 0.9471 0.1268 0.8837 0.437 0.0002

Hệ số hồi qui 0.68318 0.077144 0.228565 -0.22488 -0.03371 -0.02956 -0.05816 -0.02082 -0.00123 0.027914 -0.00267 0.013924 34.47928

101.2216 0.51602 Trung bình biến phụ thuộc

Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ thuộc

P(-1) P(-2) P(-3) P(-4) P(-5) P(-6) G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6) C Hệ số xác định R2 Hệ số xác định điều chỉnh R2

Sai số chuẩn của ước lượng Tổng bình phương các phần dư

Ln hàm hợp lý

Thống kê F

1.279884 2.772348 0.473628 0.928575 Tiêu chuẩn Akaike

118.1284 Tiêu chuẩn Schwarz -194.926 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn 12.17247 Thống kê Durbin-Watson

P(F>giá trị thống kê F)

3.033269 2.878352 1.980196 0

PHỤ LỤC 4: KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT TỶ GIÁ USD/VND TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ VÀNG

Biến phụ thuộc : G Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Xác suất Sai số chuẩn Giá trị của thống kê t

0.099457 0.101581 0.102458 0.10054 0.101759 0.099825 0.518876 0.614189 0.618586 0.679575 0.690107 0.572231 0.273813 0.294408 0.298306 0.300988 0.297795 0.280011 118.813 -1.687325 -0.96751 0.500448 0.427956 -0.327979 -0.278588 1.967276 0.34054 -1.347881 0.013645 -0.677735 -0.251243 -1.099658 0.627069 -0.582681 -0.960057 -0.171615 0.742269 1.586227 0.0939 0.3351 0.6176 0.6694 0.7435 0.781 0.0513 0.734 0.18 0.9891 0.4991 0.802 0.2735 0.5317 0.5611 0.3388 0.864 0.4593 0.1151

101.6446

G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6) P(-1) P(-2) P(-3) P(-4) P(-5) P(-6) USD(-1) USD(-2) USD(-3) USD(-4) USD(-5) USD(-6) C Hệ số xác định R2 Hệ số xác định điều chỉnh R2 Hệ số hồi qui -0.16782 -0.09828 0.051275 0.043027 -0.03338 -0.02781 1.020773 0.209156 -0.83378 0.009273 -0.46771 -0.14377 -0.3011 0.184614 -0.17382 -0.28897 -0.05111 0.207844 188.4643 0.120135 Trung bình biến phụ thuộc Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ thuộc

Sai số chuẩn của ước lượng Tổng bình phương các phần dư

Ln hàm hợp lý

Thống kê F

-0.00076 4.972229 Tiêu chuẩn Akaike 4.970335 6.163509

P(F>giá trị thống kê F)

3238.72 Tiêu chuẩn Schwarz -443.263 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn 0.993695 Thống kê Durbin-Watson 0.471099 6.544856 6.318438 1.993775

PHỤ LỤC 5 : KIỂM ĐỊNH LR CHO GIẢ THUYẾT TỶ GIÁ USD/VND TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ VÀNG

Biến thừa :USD(-1) USD(-2) USD(-3) USD(-4) USD(-5) USD(-6)

Sai phân

Giá trị 0.390205 2.541736 (6, 137) 6 Xác suất 0.8843 0.8638 Thống kê F Tỷ số ln hàm hợp lý

Kết quả kiểm định Biến phụ thuộc : G Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Xác suất Sai số chuẩn

G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6) P(-1) P(-2) P(-3) P(-4) P(-5) P(-6) C Hệ số hồi qui -0.21342 -0.078 0.033598 0.023467 -0.04844 -0.00555 1.11596 0.116213 -0.82916 -0.00401 -0.36697 -0.24137 152.0496 Giá trị của thống kê t -2.264394 -0.797289 0.341647 0.242388 -0.498653 -0.058342 2.202305 0.194935 -1.382905 -0.006084 -0.542563 -0.427397 3.132685 0.09425 0.097831 0.098342 0.096814 0.09714 0.095171 0.506724 0.596165 0.599578 0.658986 0.676367 0.564736 48.53653 0.0251 0.4267 0.7331 0.8088 0.6188 0.9536 0.0293 0.8457 0.1689 0.9952 0.5883 0.6698 0.0021

Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ thuộc

0.088784 Trung bình biến phụ thuộc 101.6446

0.008969

4.970335 6.118521

Hệ số xác định R2 Hệ số xác định điều chỉnh R2 Sai số chuẩn của ước lượng 4.947995 Tiêu chuẩn Akaike Tổng bình phương các phần dư Ln hàm hợp lý Thống kê F P(F>giá trị thống kê F)

3354.123 Tiêu chuẩn Schwarz -445.889 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn 1.112375 Thống kê Durbin-Watson 0.355026 6.379443 6.224525 1.996076

PHỤ LỤC 6: MA TRẬN HIỆP PHƯƠNG SAI GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT

LẠM PHÁT GIÁ VÀNG

LẠM PHÁT GIÁ VÀNG 1.634038 2.212843 2.212843 23.73118

PHỤ LỤC 7: HỆ SỐ TƯƠNG QUAN GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT

LẠM PHÁT GIÁ VÀNG

LẠM PHÁT GIÁ VÀNG 1 0.355353 0.355353 1

PHỤ LỤC 8: KIỂM ĐỊNH SỰ ĐỒNG LIÊN KẾT GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT

Mẫu kiểm định: 2000M06 2012M12 Số quan sát: 151 Xu hướng giả định : Xu hướng xác định tuyến tính Biến kiểm định: P G Độ trễ: 1 to 4

Giá trị tới han 0.05 Xác suất

Giả thuyết Kiểm định đồng liên kết (Trace) Vectơ đặc trưng Thống kê Trace

Không * Tối đa 1 * 0.21741 0.077864 49.2577 12.24051 15.4947 3.84147 0 0.0005

PHỤ LỤC 9 : KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT GIÁ VÀNG TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT

Biến phụ thuộc : P Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Xác suất Sai số chuẩn Hệ số hồi qui Giá trị của thống kê t

0.095095 7.184166

P(-1) P(-2) P(-3) 0 0.11188 0.689525 0.4917 0.112521 2.031312 0.0442

P(-4) 0.12367

P(-5) 0.126932 0.791

P(-6) 0.68318 0.077144 0.228565 - 0.224884 - 0.033712 - 0.029559 0.105982

G(-1) 0.017688

G(-2) 0.01836 - 1.818424 0.0712 - 0.265589 - 0.278909 0.7807 - 3.288176 0.0013 - 1.133906 0.2588

G(-3) G(-4) -0.06642 0.9471 0.018456 0.018169 1.536354 0.1268

0.01823

0.51602 Trung bình biến phụ thuộc

G(-5) G(-6) C -0.05816 - 0.020818 - 0.001226 0.027914 - 0.002671 0.013924 34.47928 -0.14651 0.8837 0.017861 0.779572 0.437 9.108701 3.785313 0.0002

Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ 0.473628 thuộc 0.928575 Tiêu chuẩn Akaike

101.22

Hệ số xác định R2 Hệ số xác định điều chỉnh R2 Sai số chuẩn của ước lượng Tổng bình phương các phần dư

118.1284 Tiêu chuẩn Schwarz

1.2799 2.7723

-

194.9261 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn 12.17247 Thống kê Durbin-Watson

Ln hàm hợp lý Thống kê F P(F>giá trị thống kê F)

0

3.0333

2.8784 1.9802

PHỤ LỤC 10 : KIỂM ĐỊNH LR CHO GIẢ THUYẾT GIÁ VÀNG TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT

Biến thừa : G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6)

Giá trị Xác suất

Sai phân (6, 137) 6 Thống kê F Tỷ số ln hàm hợp lý 2.45028 15.2903 0.0278 0.0181

Kết quả kiểm định Biến phụ thuộc : G Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Xác suất Sai số chuẩn

0.084581 0.097023 0.098457 Giá trị của thống kê t 6.779003 0.526888 2.216564 0 0.5991 0.0282 P(-1) P(-2) P(-3)

0.105851 -0.677313 0.4993 P(-4)

0.464084 Trung bình biến phụ thuộc

Hệ số xác định R2 Hệ số xác định điều chỉnh R2

0.441598

Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ thuộc

0.95641 Tiêu chuẩn Akaike

Sai số chuẩn của ước lượng Tổng bình phương các phần dư

130.805 Tiêu chuẩn Schwarz

-

Ln hàm hợp lý

202.5712 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn

Hệ số hồi qui 0.57337 0.05112 0.21824 - 0.07169 - 0.08896 0.01827 30.3557 0.106495 0.09038 8.959204 -0.835345 0.202113 3.388212 0.4049 0.8401 0.0009 P(-5) P(-6) C

Thống kê F P(F>giá trị thống kê F)

20.63878 Thống kê Durbin-Watson

0

101.221 6 1.27988 4 2.79428 3 2.93477 9 2.85136 2 1.97995 7

PHỤ LỤC 11 : KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT LẠM PHÁT TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ VÀNG

Biến phụ thuộc : G Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Xác suất Sai số chuẩn

Hệ số xác định R2

Hệ số hồi qui -0.21342 -0.078 0.033598 0.023467 -0.04844 -0.00555 1.11596 0.116213 -0.82916 -0.00401 -0.36697 -0.24137 152.0496 Giá trị của thống kê t -2.264394 -0.797289 0.341647 0.242388 -0.498653 -0.058342 2.202305 0.194935 -1.382905 -0.006084 -0.542563 -0.427397 3.132685 0.09425 0.097831 0.098342 0.096814 0.09714 0.095171 0.506724 0.596165 0.599578 0.658986 0.676367 0.564736 48.53653 0.0251 0.4267 0.7331 0.8088 0.6188 0.9536 0.0293 0.8457 0.1689 0.9952 0.5883 0.6698 0.0021 G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6) P(-1) P(-2) P(-3) P(-4) P(-5) P(-6) C

Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ 0.008969 thuộc Hệ số xác định điều chỉnh R2 4.947995 Tiêu chuẩn Akaike Sai số chuẩn của ước lượng Tổng bình phương các phần dư 3354.123 Tiêu chuẩn Schwarz Ln hàm hợp lý Thống kê F P(F>giá trị thống kê F)

0.088784 Trung bình biến phụ thuộc 101.6446

4.970335 6.118521 6.379443 6.224525 1.996076 -445.889 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn 1.112375 Thống kê Durbin-Watson 0.355026

PHỤ LỤC 12 : KIỂM ĐỊNH LR CHO GIẢ THUYẾT LẠM PHÁT TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ VÀNG

Biến thừa :P(-1) P(-2) P(-3) P(-4) P(-5) P(-6)

Xác suất

Giá trị 1.787348 11.3048 Sai phân (6, 137) 6 Thống kê F Tỷ số ln hàm hợp lý 0.1061 0.0794

Kết quả kiểm định Biến phụ thuộc : P Phương pháp : Bình phương nhỏ nhất Số thứ tự của các quan sát :2000M07 2012M12 Số quan sát : 150

Biến số Xác suất Sai số chuẩn Giá trị của thống kê t

Hệ số xác định R2

Hệ số hồi qui -0.089007 -0.050214 -0.018572 0.024146 -0.076948 -0.032662 126.3642 0.083764 0.083753 0.083836 0.08401 0.084343 0.084291 23.10028 -1.062597 -0.599543 -0.221531 0.287425 -0.912319 -0.387486 5.470243 0.2898 0.5498 0.825 0.7742 0.3631 0.699 0 G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6) C

0.017455 Trung bình biến phụ thuộc 101.6446

Độ lệch tiêu chuẩn của biến phụ -0.02377 thuộc 5.029061 Tiêu chuẩn Akaike

4.970335 6.113886

6.254382 6.170965 1.99816

Hệ số xác định điều chỉnh R2 Sai số chuẩn của ước lượng Tổng bình phương các phần dư Ln hàm hợp lý Thống kê F P(F>giá trị thống kê F)

3616.677 Tiêu chuẩn Schwarz -451.5415 Tiêu chuẩn Hannan-Quinn 0.423413 Thống kê Durbin-Watson 0.862469

PHỤ LỤC 13 : KIỂM ĐỊNH QUAN HỆ NHÂN QUẢ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT

Giả thuyết Độ trễ Thống kê F

2

3

4

5

Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát Xác suất 2.31471 0.1023 5.29827 0.006 3.24934 0.0537 2.88362 0.0379 2.60214 0.0485 3.76685 0.0061 2.21939 0.0557 2.92447 0.0153 1.78735 0.1061 2.45028 0.0278

6

PHỤ LỤC 14 : GIÁ VÀNG VIỆT NAM, TỶ GIÁ USD/VND, GIÁ VÀNG THẾ GIỚI VÀ TỶ LỆ LẠM PHÁT VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2012

THÁNG CPI TỶ GIÁ USD/VND GIÁ VÀNG VN (Đồng/lượng) GIÁ VÀNG THẾ GiỚI (USD/Ounce)

01/2000 4,734,000 14,128 283.3

02/2000 4,744,000 14,098 293.7

03/2000 4,801,000 14,080 276.8

04/2000 4,761,000 14,098 275.1

05/2000 4,725,000 14,115 272.3

06/2000 4,697,000 14,186 288.2

07/2000 4,702,000 14,170 276.8

08/2000 4,694,000 14,158 277.0

09/2000 4,678,000 14,210 273.7

10/2000 4,671,000 14,358 264.5

11/2000 4,633,000 14,546 269.1

12/2000 4,583,000 14,639 274.5

01/2001 4,616,000 14,552 264.5

02/2001 4,600,000 14,602 266.7

03/2001 4,580,000 14,625 257.7

04/2001 4,540,000 14,577 263.2

05/2001 4,527,000 14,584 267.5

06/2001 4,587,000 14,692 270.6

07/2001 100.40 101.60 98.90 99.30 99.40 99.50 99.40 100.10 99.80 100.10 100.90 100.10 100.30 100.40 99.30 99.50 99.80 100.00 99.80 4,606,000 14,910 265.9

08/2001 4,634,000 14,965 273.0

09/2001 4,710,000 15,048 293.1

10/2001 4,930,000 15,012 278.8

11/2001 4,846,000 15,050 275.5

12/2001 4,850,000 15,106 276.5

01/2002 4,900,000 15,100 282.3

02/2002 6,420,000 15,448 296.9

03/2002 5,127,000 15,155 301.4

04/2002 5,300,000 15,205 308.2

05/2002 5,428,000 15,247 326.6

06/2002 5,648,000 15,284 318.5

07/2002 5,616,000 15,300 304.7

08/2002 5,618,000 15,330 312.8

09/2002 5,620,000 15,352 323.7

10/2002 5,721,000 15,358 316.9

11/2002 5,730,000 15,389 319.1

12/2002 5,780,000 15,400 347.2

01/2003 6,100,000 15,415 367.5

02/2003 6,420,000 15,448 347.5

03/2003 6,350,000 15,454 334.9

04/2003 6,150,000 15,473 336.8

05/2003 6,120,000 15,487 361.4

06/2003 100.00 100.50 100.00 100.20 101.00 101.10 102.20 99.20 100.00 100.30 100.10 99.90 100.10 100.20 100.30 100.30 100.30 100.90 102.20 99.40 100.00 99.90 99.70 6,382,000 15,492 346.0

07/2003 6,380,000 15,510 354.8

08/2003 6,380,000 15,530 375.6

09/2003 6,560,000 15,534 388.0

10/2003 6,790,000 15,568 386.3

11/2003 6,980,000 15,630 398.4

12/2003 7,328,000 15,757 416.3

01/2004 7,548,000 15,691 399.8

02/2004 7,467,000 15,739 395.9

03/2004 7,530,000 15,846 423.7

04/2004 7,690,000 15,820 388.5

05/2004 7,330,000 15,762 393.3

06/2004 7,185,000 15,767 395.8

07/2004 7,240,000 15,750 391.4

08/2004 7,250,000 15,762 407.3

09/2004 7,363,000 15,778 415.7

10/2004 7,480,000 15,770 425.6

11/2004 7,750,000 15,768 453.4

12/2004 8,180,000 15,790 435.6

01/2005 8,380,000 15,792 422.2

02/2005 8,210,000 15,803 435.5

03/2005 8,380,000 15,818 427.5

04/2005 8,320,000 15,830 435.7

05/2005 99.70 99.90 100.10 99.80 100.60 100.80 101.10 103.00 100.80 100.50 100.90 100.80 100.50 100.60 100.30 100.00 100.20 100.60 101.10 102.50 100.10 100.60 100.50 8,300,000 15,845 414.5

06/2005 8,170,000 15,866 437.1

07/2005 8,310,000 15,877 429.0

08/2005 8,290,000 15,888 433.3

09/2005 8,440,000 15,890 473.3

10/2005 8,790,000 15,902 470.8

11/2005 8,860,000 15,910 495.7

12/2005 9,480,000 15,921 513.0

01/2006 9,920,000 15,927 568.8

02/2006 10,470,000 15,937 556.0

03/2006 10,640,000 15,929 582.0

04/2006 11,100,000 15,940 644.0

05/2006 13,310,000 16,112 653.0

06/2006 12,710,000 16,046 613.5

07/2006 12,180,000 16,015 632.5

08/2006 12,530,000 16,019 623.5

09/2006 12,120,000 16,035 599.3

10/2006 11,840,000 16,079 603.8

11/2006 11,950,000 16,111 646.7

12/2006 12,330,000 16,110 632.0

01/2007 12,160,000 16,081 650.5

02/2007 12,420,000 16,061 664.2

03/2007 12,770,000 16,027 661.8

04/2007 100.40 100.40 100.40 100.80 100.40 100.40 100.80 101.20 102.10 99.50 100.20 100.60 100.40 100.40 100.40 100.30 100.20 100.60 100.50 101.10 102.20 99.80 100.50 12,900,000 16,040 677.0

05/2007 13,230,000 16,065 659.1

06/2007 12,930,000 16,100 650.5

07/2007 12,850,000 16,146 665.5

08/2007 13,071,000 16,157 672.0

09/2007 13,338,000 16,251 743.0

10/2007 14,150,000 16,167 789.5

11/2007 15,350,000 16,139 783.5

12/2007 15,640,000 16,090 833.8

01/2008 16,910,000 17,495 923.3

02/2008 17,480,000 16,036 971.5

03/2008 18,580,000 15,790 933.5

04/2008 18,310,000 16,058 871.0

05/2008 17,490,000 16,253 885.8

06/2008 18,320,000 17,340 930.3

07/2008 18,790,000 17,460 918.0

08/2008 18,440,000 17,784 833.0

09/2008 17,160,000 16,640 884.5

10/2008 17,810,000 16,644 730.8

11/2008 16,810,000 17,038 814.5

12/2008 16,800,000 17,325 869.8

01/2009 16,910,000 17,495 919.5

02/2009 18,460,000 17,684 952.0

03/2009 100.80 100.90 100.90 100.60 100.50 100.70 101.20 102.90 102.40 103.60 103.00 102.20 103.90 102.10 101.10 101.60 100.20 99.80 99.20 99.30 100.30 101.20 99.80 19,520,000 17,738 916.5

04/2009 19,750,000 17,885 883.3

05/2009 19,790,000 18,247 975.5

06/2009 20,910,000 18,250 934.5

07/2009 20,880,000 18,487 939.0

08/2009 21,270,000 18,440 955.5

09/2009 21,750,000 18,284 995.8

10/2009 22,274,000 18,313 1,040.0

11/2009 24,690,000 18,681 1,175.8

12/2009 27,960,000 19,531 1,087.5

01/2010 27,138,000 19,510 1,078.5

02/2010 26,587,000 19,574 1,108.3

03/2010 26,909,000 19,824 1,115.5

04/2010 26,693,000 19,769 1,179.3

05/2010 27,203,000 19,644 1,207.5

06/2010 28,043,000 19,611 1,244.0

07/2010 28,647,000 19,686 1,169.0

08/2010 28,395,000 19,780 1,246.0

09/2010 29,411,000 20,098 1,307.0

10/2010 31,726,000 20,219 1,346.8

11/2010 34,477,000 20,826 1,383.5

12/2010 36,348,000 21,421 1,405.5

01/2011 36,180,000 19,500 1,327.0

02/2011 100.40 100.40 100.60 100.50 100.20 100.60 100.40 101.60 98.90 101.40 102.00 100.80 100.10 100.30 100.20 100.10 100.20 101.30 101.10 101.90 102.00 101.74 102.09 38,150,000 20,880 1,411.0

37,660,000 20,910 1,439.0 03/2011

37,670,000 20,720 1,535.5 04/2011

37,780,000 20,600 1,536.5 05/2011

38,070,000 20,620 1,505.5 06/2011

40,000,000 20,610 1,628.5 07/2011

48,500,000 20,834 1,813.5 08/2011

47,350,000 21,011 1,620.0 09/2011

45,250,000 20,880 1,722.0 10/2011

44,750,000 21,011 1,746.0 11/2011

42,500,000 21,036 1,531.0 12/2011

43,250,000 21,036 1,744.0 01/2012

44,600,000 20,870 1,770.0 02/2012

44,070,000 20,860 1,662.5 03/2012

42,750,000 20,930 1,651.3 04/2012

41,320,000 20,890 1,558.0 05/2012

41,690,000 20,920 1,598.5 06/2012

41,510,000 20,885 1,622.0 07/2012

44,600,000 20,885 1,648.5 08/2012

47,050,000 20,900 1,776.0 09/2012

46,090,000 20,865 1,719.0 10/2012

11/2012 46,970,000 20,870 1,726.0

45,700,000 20,855 1,657.5 102.17 103.32 102.21 101.09 101.17 100.93 100.82 100.36 100.39 100.53 100.00 101.37 101.16 100.16 100.50 101.80 102.60 102.90 106.30 102.20 102.70 104.70 12/2012