Phân tích nhân vật Thị Nở trong
Chí Phèo của Nam Cao
Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao thẳng cánh hạ bút những
dòng này: "Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái
ngẩn ngơ của mình, mà thlại chỉ có ba cái ấy". Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba
mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị
Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà
văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế
ban đầu" này?
Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của
con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã
hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa
có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn
đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể
một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm
áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là
đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ
con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc.
đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó.
Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng
tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ
nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).$pageOut $pageIn
Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu
nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm
đắm trong cơn đam mê tộtng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy
mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định
kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại
quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên
hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng
tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng đng đậy, đòi được thể
hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn
tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất,
triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến
vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh
phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã
khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ
ấm.
Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột,
tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "ngoay ngoáy cái
mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn
tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong ni đau phụ
bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va
đụng vào con người xã hội Chí Phèo vlợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan
hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ
lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần
cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu
mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy
"thèm lương thiện, muốnm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở
đường cho hắn.
Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh
thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng
nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc
đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó
những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi
rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những
bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước
chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại ch dao đi...
Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả,
người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!
Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một
- đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả
mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự
kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba
truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt ca ThNở trong cuộc đời C
(tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng
đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì
đáng nói đáng bàn lắm.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể,
Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản
thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất
nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt
bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng. Thế mới biết Nam
Cao thương nhân vật của mình biết mấy!$pageOut $pageIn
Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và ngẩn
ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi, hoặc không xấu tí nào cũng
được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả diện
mạo lẫn tâm hồn?
Thi pháp truyện truyền thng khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo
nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một tính cách: ngoại hình và phẩm
hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ... Cô Tấm đã đẹp là đẹp
hết từ trong ra ngoài. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu
trong Bước đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử chỉ, điệu
bộ, lời nói đã xấu xa thì phẩm cách cũng không ra gì... Nhưng đến Nam Cao,
ông tiến hành ngược hẳn, và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng
tâm hồn đẹp (mLợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được
che đậy bởi mã ngoài khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong
Điếu văn...), hoặc chỉ nội một phương diện tâm hồn thôi cũng vừa có đẹp,
vừa có xấu (Điền, Hộ, Thứ - các nhân vật trí thức)... Ông đã nhận thức con
người với tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo
nguyên tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên - loại nhân vật là một
khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam Cao đã triệt để
đi theo nguyên tắc này.
Thêm nữa, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không chỉ nhận thức thực tại qua