ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ MINH ANH

PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM THU NHËP

§èI VíI NG¦êI CAO TUæI ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ MINH ANH

PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM THU NHËP

§èI VíI NG¦êI CAO TUæI ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Minh Anh

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO

HIỂM THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI ....................... 8

1.1. Ngƣời cao tuổi và bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ........ 8

1.1.1. Ngƣời cao tuổi ...................................................................................... 8

1.1.2. Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ......................................... 12

1.2. Pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ............... 20

1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với

ngƣời cao tuổi ..................................................................................... 20

1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với

ngƣời cao tuổi ..................................................................................... 24

1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ..... 27

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................ 38

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

VỀ BẢO HIỂM THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI ......... 39

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu

nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội bắt buộc và

thực tiễn thực hiện ............................................................................. 39

2.1.1. Đối tƣợng áp dụng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc ......... 39

2.1.2. Điều kiện hƣởng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc .......... 44

2.1.3. Mức lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................... 48

2.1.4. Điều chỉnh lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................ 52

2.2. Thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm

thu nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội tự nguyện

và thực tiễn thực hiện ....................................................................... 54

2.2.1. Đối tƣợng áp dụng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện ......... 55

2.2.2. Điều kiện hƣởng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện .......... 57

2.2.3. Mức lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội tự nguyện ................................ 58

2.2.4. Điều chỉnh lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................... 59

2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu

nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm hƣu trí bổ sung và

thực tiễn thực hiện ............................................................................ 61

2.3.1. Đối tƣợng áp dụng bảo hiểm hƣu trí bổ sung .................................... 62

2.3.2. Điều kiện hƣởng bảo hiểm hƣu trí bổ sung ........................................ 63

2.3.3. Mức hƣởng bảo hiểm hƣu trí bổ sung ................................................ 64

2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về khiếu nại, tố

cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với

ngƣời cao tuổi.................................................................................... 65

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................ 68

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BẢO HIỂM THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI Ở

VIỆT NAM ........................................................................................ 69

3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao

tuổi ở Việt Nam ................................................................................. 69

3.1.1. Khắc phục những bất cập trong quy định hiện hành về bảo hiểm

thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ......................................................... 69

3.1.2. Bảo đảm phù hợp với nhu cầu và đời sống của ngƣời cao tuổi ......... 69

3.1.3. Bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà

nƣớc trong giai đoạn hiện nay ............................................................ 70

3.1.4. Bảo đảm phù hợp với pháp luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới .... 73

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập

đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam .................................................. 74

3.2.1. Mở rộng đối tƣợng tham gia bảo hiểm xã hội .................................... 74

3.2.2. Điều chỉnh cách tính lƣơng hƣu theo nguyên tắc công bằng, bình

đẳng, chia sẻ và bền vững .................................................................. 79

3.2.3. Cần bổ sung các quy định liên quan đến việc tạo điều kiện hỗ trợ

việc làm cho ngƣời cao tuổi ............................................................... 81

3.2.4. Xây dựng các quy định hồi tố áp dụng cho các trƣờng hợp ngƣời

tham gia bảo hiểm sau khi đã thực hiện hƣởng bảo hiểm một lần

nhƣng vẫn có nguyện vọng và nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH

để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu .................................................................. 82

3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam

hiện nay ............................................................................................. 83

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................ 86

KẾT LUẬN .................................................................................................... 87

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

An sinh xã hội ASXH

Bảo hiểm hƣu trí BHHT

Bảo hiểm thất nghiệp BHTN

Bảo hiểm xã hội BHXH

Bảo hiểm y tế BHYT

Bộ LĐ-TB&XH Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội

Công nghệ thông tin CNTT

Hợp đồng lao động HĐLĐ

Tổ chức Lao động quốc tế ILO

Khả năng lao động KNLĐ

Ngƣời cao tuổi NCT

Ngân sách Nhà nƣớc NSNN

Nghị quyết số 21- NQ/TW

Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT

Nghị quyết số 28- NQ/TW

Nghị quyết số ghị quyết số 28-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12 về cải cách chính sách BHXH

NLĐ Ngƣời lao động

NSDLĐ Ngƣời sử dụng lao động

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo quy luật của tự nhiên, do tác động của quá trình lão hóa khiến con

ngƣời sẽ già yếu, sức khỏe suy giảm, bệnh tật ngày một nhiều... dẫn đến việc

con ngƣời sẽ dần mất đi khả năng lao động và không đảm bảo đƣợc thu nhập.

Trong khi đó nhu cầu sinh hoạt, khám chữa bệnh... không những không giảm

mà còn có chiều hƣớng gia tăng. Nếu không có tiền bạc, của cải tích lũy khi

còn trẻ hoặc không đƣợc sự giúp đỡ từ gia đình, con cái và cộng đồng thì

NCT khó bảo đảm đƣợc cuộc sống hàng ngày. Cùng với đó khoa học - công

nghệ ngày càng phát triển, dẫn tới những thành tựu vƣợt bậc về kinh tế, xã

hội, cùng với những tiến bộ của nền y học làm cho tuổi thọ trung bình của con

ngƣời đã và đang tăng nhanh. Nếu không có thu nhập ổn định khi về già,

ngƣời lao động sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc bảo đảm và duy trì đƣợc

cuộc sống hàng ngày.

Ngƣời cao tuổi là một trong những đối tƣợng yếu thế dễ bị tổn thƣơng

nhất do những thay đổi về sức khỏe thể chất và tinh thần, sự thay đổi về tâm

sinh lý, lao động - thu nhập, quan hệ xã hội và cuộc sống gặp nhiều khó khăn.

Chính vì vậy, việc gia tăng số lƣợng ngƣời cao tuổi sẽ tác động rất lớn đến

các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhƣ hệ thống chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm

hƣu trí, việc làm, tâm lý,... Trƣớc tình trạng đó, các tổ chức quốc tế cũng nhƣ

các quốc gia, từ lâu đã chú trọng ban hành các chính sách pháp luật về BHXH

nhằm giải quyết kịp thời và phù hợp với nhu cầu bảo đảm thu nhập, bảo đảm

cuộc sống cho ngƣời cao tuổi.

Do quá trình lão hóa sâu, sức khỏe ngày càng suy giảm, nên trong các

nhu cầu của NCT thì nhu cầu về thu nhập và bảo đảm đời sống rất quan trọng.

Bảo hiểm thu nhập nắm vai trò vô cùng quan trọng, nó là cơ sở đảm bảo cuộc

1

sống cho NCT khi họ đã hết tuổi lao động với nguồn lƣơng hƣu hàng tháng,

NCT có thu nhập, ổn định cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, giảm bớt gánh

nặng cho gia đình và xã hội. Với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất

nƣớc, các chính sách bảo đảm thu nhập nói chung và chế độ hƣu trí nói riêng

đã từng bƣớc đƣợc xây dựng, ngày càng hoàn thiện, phù hợp với thực tế đất

nƣớc và thông lệ quốc tế, dần khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột

chính của hệ thống ASXH. Đặc biệt với sự ra đời của Luật BHXH năm 2014

với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với các quy định trƣớc đó. Mặc dù vậy,

qua hơn 2 năm triển khai thực hiện, một số quy định về bảo hiểm hƣu trí đã

bộc lộ một số bất cập hạn chế, chƣa tạo đƣợc sự đồng thuận cao của xã hội

nhƣ: Việc mở rộng đối tƣợng tham gia vào hệ thống BHXH còn dƣới mức

tiềm năng, độ bao phủ BHXH tăng chậm; việc thay đổi công thức tính

lƣơng hƣu đối với lao động nữ nghỉ hƣu trong năm 2018 tạo tâm lý so sánh

giữa lao động nữ và lao động nam, giữa lao động nữ nghỉ hƣu trƣớc và sau

ngày 01/01/2018; việc điều chỉnh tăng lƣơng hƣu qua các năm còn phát

sinh nhiều bất cập mới cần nghiên cứu xử lý sớm; lƣơng hƣu của một số

nhóm đối tƣợng thấp hơn mức tiền lƣơng cơ sở, khoảng cách giữa ngƣời có

mức lƣơng hƣu thấp nhất và cao nhất quá xa, ngoài ra còn có sự phân biệt

trong cách tính lƣơng hƣu của khu vực trong và ngoài nhà nƣớc; quỹ hƣu

trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.

Việc đánh giá khách quan, toàn diện về bảo hiểm thu nhập đối với

ngƣời cao tuổi thông qua các loại hình BHXH ở nƣớc ta hiện nay, tìm ra

những bất cập, hạn chế trong thực tiễn triển khai, từ đó đề xuất những giải

pháp góp phần hoàn thiện chính sách trong dài hạn, ổn định dƣ luận xã hội,

tạo lòng tin trong nhân dân đang là mối quan tâm rất lớn của các cơ quan xây

dựng, tổ chức thực hiện chính sách BHXH, chính vì vậy tôi chọn đề tài “Pháp

luật về bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi ở Việt Nam” làm đề tài

luận văn thạc sỹ của mình.

2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trƣớc đến nay ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình khoa học

nghiên cứu về lĩnh vực BHXH, trong đó tác giả đƣợc biết đến một số đề án,

đề tài, cụ thể là:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành“Thực trạng đời sống người

nghỉ hưu, những giải pháp về cung cấp các dịch vụ xã hội nhằm cải thiện

đời sống vật chất, tinh thần người nghỉ hưu” do Tiến sĩ Phạm Đình Thành,

Viện khoa học BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm (năm 2013). Đề tài đã hệ

thống hóa những vấn đề cơ bản về ngƣời cao tuổi, ngƣời nghỉ hƣu và hệ

thống cung cấp dịch vụ xã hội đối với ngƣời cao tuổi, ngƣời nghỉ hƣu. Làm

rõ vị trí, vai trò cũng nhƣ nhu cầu dịch vụ của ngƣời cao tuổi. Qua kết quả

điều tra, khảo sát, đề tài đã phân tích nhu cầu của ngƣời cao tuổi về việc

làm, thu nhập, chăm sóc sức khỏe… Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn

thiện chính sách và phát triển các dịch vụ xã hội nhằm cải thiện đời sống cho

ngƣời nghỉ hƣu ở Việt Nam.

- Đề án cải cách chính sách BHXH do Chính phủ giao Bộ LĐ-TB&XH

chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các chuyên gia xây dựng trình Hội

nghị Trung ƣơng 7, khóa XII tháng 5/2018 với nhiều điểm mới tiến bộ mang

tính đột phá, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc

nhƣ xây dựng hệ thống BHXH đa tầng, hƣớng tới phổ cập toàn dân, tuân thủ

nguyên tắc đóng- hƣởng và chia sẻ rủi ro; điều chỉnh tuổi nghỉ hƣu nhằm ứng

phó với quá trình già hóa dân số; rút ngắn điều kiện thời gian tham gia BHXH

để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu; thu hẹp khoảng cách chênh lệch lƣơng hƣu giữa

các nhóm đối tƣợng thông qua không điều chỉnh theo một tỷ lệ đồng đều; đảm

bảo an toàn quỹ BHXH trong dài hạn. Đề án đã đƣợc Hội nghị trung ƣơng 7,

khóa XII thông qua bằng việc ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW...

3

- “Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội”, TS.

Bùi Ngọc Thanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2013

- “Cải cách Luật bảo hiểm xã hội để mở rộng bảo hiểm hưu trí đối với

người cao tuổi”, Đặng Nhƣ Lợi, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12/2014

- Luận văn “Chế độ hưu trí trong quy định Luật Bảo hiểm xã hội. Thực

trạng tại thành phố Hà Nội”, Th.S Nguyễn Thế Mừng, Khoa Luật – ĐHQG

Hà Nội, 2015.

- Luận văn “Chế độ hưu trí theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 ở Việt

Nam hiện nay”, Th.S Hà Thị Hiền, Học viện khoa học xã hội, 2018...

Tất cả những công trình trên đây đều tập trung nghiên cứu về vấn đề

chế độ hƣu trí trong Luật bảo hiểm xã hội các thời kỳ. Tuy nhiên, ở góc độ

nào đó chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và

sâu sắc về vấn đề bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi trong Luật Bảo

hiểm xã hội năm 2014, từ đó làm cơ sở để hoàn thiện hơn chế độ hƣu trí

trong Luật bảo hiểm xã hội. Nhƣ vậy việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về

bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam” là cần thiết cả về

vấn đề lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận

về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi, đánh giá toàn diện thực trạng

quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời

cao tuổi và thực tiễn thực hiện bảo hiểm thu nhập, từ đó đề xuất một số kiến

nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề sau:

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm thu nhập đối

4

với ngƣời cao tuổi; pháp luật về bảo hiểm đảm bảo thu nhập đối với NCT của

một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam;

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực

hiện các quy định về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở nƣớc ta

- Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng

nhƣ nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với

ngƣời cao tuổi ở nƣớc ta

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định hiện hành của pháp

luật Việt Nam về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi, cụ thể là các quy

định trong Bộ luật lao động năm 2012, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và các

văn bản hƣớng dẫn. Bên cạnh đó luận văn còn nghiên cứu một số quy định

của ILO và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về bảo hiểm thu nhập

đối với ngƣời cao tuổi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Bảo hiểm thu nhập đối với NCT trong luận văn đƣợc nghiên cứu dƣới

góc độ pháp lý về các quy định trong các nội dung của BHXH bắt buộc,

BHXH tự nguyện, BHXH bổ sung, các quy định về khiếu nại, tố cáo và xử lý

vi phạm về bảo hiểm thu nhập đối với NCT;

- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi các

quy định của pháp luật BHXH Việt Nam. Bên cạnh đó nhằm làm rõ nội dung

nghiên cứu, luận văn nghiên cứu một số quy định của pháp luật quốc tế và

một số quốc gia trên thế giới có các điểm tiến bộ và đã thực hiện thành công

chế độ bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi.

- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật

hiện hành, so sánh một số nội dung của pháp luật hiện hành với các quy định

ở các giai đoạn trƣớc đây về vấn đề bảo hiểm thu nhập đối với NCT

5

- Phạm vi nội dung: pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT bao gồm

tổng hợp các quy định của Nhà nƣớc về đối tƣợng tham gia, mức đóng, mức

hƣởng, các chế độ, quyền lợi, các quy định về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi

phạm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với NCT

Luận văn không nghiên cứu về trình tự thủ tục thực hiện bảo hiểm, giải

quyết tranh chấp về bảo hiểm thu nhập đối với NCT.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin về duy vật lịch sử và duy

vật biện chứng, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, đặc biệt là các

chính sách về bảo hiểm thu xã hội trong đó có bảo hiểm thu nhập đối với NCT.

- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể của ngành luật

học nhƣ các phƣơng pháp lịch sử, phân tích, so sánh, so sánh luật học, chứng

minh, tổng hợp, dự báo khoa học.

Trong quá trình triển khai thực hiện luận văn, tuỳ từng yêu cầu nội dung

vấn đề đặt ra mà có thể kết hợp đan xen các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa khoa học

Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi đang là vấn đề đƣợc các quốc

gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Nghiên cứu này góp phần làm rõ một số

vấn đề lý luận về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi. Cụ thể là nêu rõ

hơn khái niệm về bảo hiểm thu nhập đối với NCT, khái niệm pháp luật bảo

hiểm thu nhập đối với NCT; luận giải rõ hơn khái niệm NCT, đặc điểm NCT,

vai trò cùng với các nguyên tắc cơ bản và nội dung điều chỉnh của pháp luật

về bảo hiểm thu nhập đối với NCT.

Làm mới hơn một số khái niệm, luận giải rõ hơn nội dung pháp luật về

bảo hiểm thu nhập, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực

tiễn thực hiên, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật

Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu nhập.

6

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao việc thực hiện

các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm thu nhập đối với NCT. Các

kiến nghị có giá trị tham khảo đối với các đề xuất về sửa đổi, bổ sung, hoạch

định chính sách, pháp luật, cũng nhƣ việc thực hiện các quy định của pháp

luật BHXH nói chung, pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của Luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm thu nhập đối

với ngƣời cao tuổi

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu

nhập đối với ngƣời cao tuổi.

Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam.

7

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THU NHẬP

ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI

1.1. Ngƣời cao tuổi và bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi

1.1.1. Người cao tuổi

1.1.1.1. Khái niệm

Trên thế giới có rất nhiều thuật ngữ về ngƣời cao tuổi. Thuật ngữ dùng

để mô tả ngƣời cao tuổi khá đa dạng, kể cả trong các tài liệu quốc tế, bao gồm:

“người cao tuổi”, “người già”, “người già cả”, “thế hệ thứ ba” “người c

tuổi” "older persons", "the aged", "the elderly", "the third age", "the ageing").

Tuy nhiên, thuật ngữ “ngƣời cao tuổi” (older person), đƣợc sử dụng trong các

Nghị quyết 47/5 và 48/98 của Đại hội đồng, đƣợc sử dụng rộng rãi nhất và

thƣờng dùng chỉ những ngƣời từ 60 tuổi trở lên [13], sau đó đã đƣợc phổ biến

trong các văn kiện của các tổ chức quốc tế cũng nhƣ các quốc gia trên thế giới.

Trên phƣơng diện y học, ngƣời già là một ngƣời có sự suy thoái tự nhiên

của các tế bào nhƣ: tóc bạc, da nhăn nheo, cơ bắp giảm nhƣng những trí nhớ

dài hạn vẫn ở mức độ cao; các chức năng của cơ thể bị suy giảm nhiều. Theo

định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới (WHO), ngƣời cao tuổi là những ngƣời từ

65 tuổi trở lên [45].

Có thể thấy mặc dù ngƣời cao tuổi là những ngƣời có thể lực bị suy

giảm, nhƣng họ là những ngƣời có tri thức, kỹ năng chuyên môn và kinh

nghiệm sống cao. Đó đƣợc xem là những ƣu điểm cơ bản vẫn đƣợc duy trì và

phát huy bởi ngƣời cao tuổi, điều này đƣợc Liên hợp quốc nhận định: “...

nghiên cứu khoa học đang bác bỏ nhiều định kiến về những suy giảm hiển

nhiên và không thể đảo ngƣợc gắn với tuổi tác” và cần đƣợc “đánh giá cao sự

đóng góp của ngƣời cao tuổi cho xã hội” [34]. Trong Bình luận chung số 6

năm 1995 về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của ngƣời cao tuổi xác

8

định ngƣời cao tuổi từ 60 tuổi [6]. Tuy nhiên trong Công ƣớc số 128 năm

1967 về trợ cấp khuyết tật, trợ cấp tuổi già và trợ cấp ngƣời sống sót

(Convertion C128 – Invalidity, Old-Age and Survivor‟ Benefits Convention,

1967), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) lại xác định tuổi già là 65 [44]. Cụ

thể tại Điều 15 của Công ƣớc số 128 năm 1967: “Độ tuổi quy định không

quá 65. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền có thể quy định một độ tuổi

cao hơn, theo các chỉ tiêu về nhân khẩu, kinh tế và xã hội thích hợp đƣợc

số liệu thống kê chứng minh”.

Ngƣời cao tuổi là những ngƣời nằm trong độ tuổi đƣợc pháp luật về

ngƣời cao tuổi xác định. Việc xác định độ tuổi ngƣời cao tuổi còn phụ thuộc

vào điều kiện phát triển của từng quốc gia. Đối với các nƣớc phát triển, do

điều kiện phúc lợi xã hội cũng nhƣ sự phát triển của y học, thêm vào đó là

những lợi thế khác về môi trƣờng xã hội nên ngƣời dân có thể có sức khỏe tốt

hơn và vẫn có thể đóng góp cho xã hội kể cả trong độ tuổi khá cao. Còn đối

với các nƣớc đang phát triển thì độ tuổi đƣợc xem là “ngƣời cao tuổi” đang có

xu hƣớng cao hơn các nƣớc phát triển. Chẳng hạn, ở nhiều nƣớc châu Âu quy

định ngƣời cao tuổi là những ngƣời từ 65 tuổi trở lên; trong khi đó ở một số

nƣớc châu Phi đƣợc xem là ngƣời cao tuổi chỉ vào khoảng 50 tuổi trở lên.

Còn ở các nƣớc đang phát triển ví dụ nhƣ Việt Nam, Trung Quốc,...quy định

ngƣời cao tuổi từ 60 tuổi trở lên.

Ở hầu hết các nƣớc phát triển, từ 65 tuổi trở lên đƣợc coi là ngƣời cao

tuổi. Nhƣng đối với nhiều nƣớc đang phát triển thì mốc tuổi này lại không

phù hợp. Hiện tại chƣa có một tiêu chuẩn thống nhất về độ tuổi của ngƣời cao

tuổi đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, Tổ chức Liên hợp

quốc chấp nhận mốc để các định dân số già là từ 60 tuổi trở lên, trong đó phân

thành ba nhóm: Sơ lão (từ 60 đến 69 tuổi), trung lão (từ 70 đến 79 tuổi) và đại

lão (từ 80 tuổi trở lên) [2].

9

Ở Việt Nam, khái niệm về ngƣời cao tuổi đƣợc sử dụng và hiểu khác

nhau giữa các ngành. Cụ thể, trong Bộ luật lao động năm 2012 sử dụng thuật

ngữ “ngƣời lao động cao tuổi”, theo đó ngƣời lao động cao tuổi là ngƣời tiếp

tục lao động sau độ tuổi 60 đối với nam và sau 55 tuổi đối với nữ [7]. Còn

theo phạm vi luật chuyên ngành về ngƣời cao tuổi đƣợc pháp luật Việt Nam

quy định tại Luật Ngƣời cao tuổi năm 2009. Theo đó, khái niệm của ngƣời

cao tuổi đƣợc quy định tại Điều 2: “Ngƣời cao tuổi là công dân Việt Nam từ

đủ 60 tuổi trở lên”.

Nhƣ vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì ngƣời cao tuổi là

ngƣời có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt tôn giáo, giới tính, dân tộc, thành

phần xã hội,... và đủ 60 tuổi trở lên. Việc sử dụng thuật ngữ và mốc tuổi này,

Luật Ngƣời cao tuổi năm 2009 về cơ bản phù hợp với quy định của Tổ chức

Liên hợp quốc và các đặc điểm sinh học, quá trình lão hóa, tuổi thọ và đời sống

của ngƣời Việt Nam hiện nay, là cơ sở về mặt lý luận để Đảng và Nhà nƣớc định

hƣớng và đề ra các chính sách về bảo hiểm xã hội phù hợp hợp nhằm bảo về

quyền lợi cho ngƣời cao tuổi. Với mục đích trên, khái niệm “ngƣời cao tuổi”

trong Luật Ngƣời cao tuổi năm 2009 khác với các khái niệm trong các ngành

luật khác nhƣ ngƣời lao động cao tuổi, ngƣời già, ngƣời già yếu,...

1.1.1.2. Đặc điểm của người cao tuổi

Xét về phương diện y học, người cao tuổi là người bước vào giai đoạn

lão hóa sâu. Thể chất của con ngƣời trong giai đoạn này sẽ bị suy giảm, hạn

chế về các chức năng, nguy cơ đau ốm cũng theo đó mà ngày càng tăng, phần

lớn tình trạng suy giảm này của ngƣời cao tuổi phụ thuộc nhiều vào tuổi tác,

tuổi càng cao thì thể trạng của ngƣời cao tuổi sẽ càng kém đi, tỷ lệ mắc các

bệnh càng lớn. Hiện nay, ngƣời cao tuổi bên cạnh phải chịu các bệnh do quá

trình lão hóa gây ra thì NCT cũng đang phải chịu các bệnh phát sinh do thay

đổi lối sống dƣới tác động của sự phát triển kinh tế xã hội. Qua nghiên cứu

10

cho thấy, NCT thƣờng mắc các bệnh về xƣơng khớp, tim mạch, huyết áp...,

các bệnh phát sinh do thay đổi lối sống nhƣ tinh thần bị sa sút, trầm cảm; và

khi NCT mắc bệnh thì việc điều trị cũng lâu hơn các nhóm tuổi khác. Bên

cạnh đó, khi tuổi của NCT ngày càng tăng thì nguy cơ khuyết tật cùng sẽ

tăng, trong đó khuyết tật thƣờng thấy nhất ở NCT đó là thị lực bị giảm hoặc bị

mất thị lực, thính lực cũng bị giảm rất nhiều. Tình trạng này có thể làm cho

NCT cảm thấy tự ti và giảm đi sự giao tiếp xã hội.

Ở Việt Nam, thể chất của NCT vẫn chƣa thật sự đƣợc khỏe mạnh nhƣ

mong muốn. Theo báo cáo năm 2006 về việc đánh giá về sức khỏe của bản

thân ngƣời cao tuổi thì khá tốt mới dừng lại 5,7%, còn đánh giá sức khỏe kém

lên đến 22,9% [43]. Tuổi thọ trung bình của NCT Việt Nam khá cao tuy nhiên

sức khỏe lại khá thấp, có khoảng 67,2% NCT có tình trạng sức khỏe yếu và

rất yếu, có nhiều ngƣời mắc bệnh nan y... Khoảng 95% NCT có bệnh, chủ yếu

là các bệnh mãn tính không lây truyền; trung bình 1 ngƣời cao tuổi Việt Nam

mắc 3 bệnh [22].

Xét về phương diện tâm lý, người cao tuổi thường c tâm lý không ổn

định. Bên cạnh việc chăm sóc thể chất cho ngƣời cao tuổi thì vấn đề về tâm lý

ngƣời cao tuổi cũng cần đƣợc quan tâm chú ý. Khi tuổi càng cao, ngƣời cao

tuổi càng suy nghĩ nhiều, từ đó mang theo những nỗi lo lắng ảnh hƣởng

không tốt đến sức khỏe ngƣời già. Ngƣời cao tuổi thƣờng có tâm lý không ổn

định. Khi cơ thể già yếu, các cơ quan bộ bận trong cơ thể bị lão hóa, đi kèm

theo đó là tinh thần cũng bị lão hóa, có những biểu hiện thay đổi rõ rệt trong

suy nghĩ, lối sống cũng nhƣ cách giải quyết vấn đề. Trạng thái tâm lý của

ngƣời cao tuổi không chỉ phụ thuộc vào bản thân của họ mà còn phụ thuộc

vào môi trƣờng xã hội, quan trọng nhất là môi trƣờng gia đình. Theo các

nghiên cứu về tâm lý học ở NCT, khi bƣớc sang giai đoạn tuổi già, ngƣời

cao tuổi thƣờng thay đổi tâm sinh lý thất thƣờng nhƣ hay hoài niệm quá khứ,

11

dễ tủi thân, lo lắng... Chính vì vậy, gia đình và xã hội cần quan tâm, lo lắng

cho ngƣời cao tuổi hơn, thƣờng xuyên trò chuyện, có các chính sách chăm

lo, bảo đảm các quyền lợi cho ngƣời cao tuổi.

Xét về phương diện kinh tế - xã hội, có thể thấy nguồn sống của NCT

Việt Nam khá đa dạng, từ lao động của chính bản thân NCT (30%), lƣơng

hƣu trợ cấp và của cải tích lũy từ khi còn trẻ và do con cháu chu cấp (39,3%).

Có sự khác biệt đáng kể giữa NCT thành thị và nông thôn về nguồn sống từ

lƣơng hƣu, trợ cấp hoặc tự lao động để kiếm sống. Lƣơng hƣu hoặc trợ cấp là

nguồn sống chính của 35,6% NCT ở thành phố, trong khi chỉ có 21,9% NCT

ở nông thôn đƣợc hƣởng lƣơng hƣu hoặc trợ cấp. Tự lao động để kiếm sống là

cách của 35,2% NCT ở nông thôn, khi chỉ có 17,5% NCT ở thành phố phải

làm nhƣ vậy. NCT thành thị có lƣơng hƣu/trợ cấp và tích lũy cao hơn 1,5 lần

so với NCT nông thôn, ngƣợc lại nguồn sống của NCT nông thôn từ lao động

của chính mình cao hơn gấp 2 lần NCT thành thị [27]. Tuy nhiên dù là NCT ở

thành thị hay ở nông thôn thì, qua các đặc điểm về sinh lý cũng nhƣ tâm lý đã

nói ở trên có thể thấy đƣợc ở độ tuổi này NCT sẽ bị suy giảm dần khả năng

lao động. Thể lực cùng với trí lực giảm sút, không còn đƣợc minh mẫn khiến

NCT gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các công việc lao động sản xuất

kinh doanh. Theo đó, khi tuổi càng tăng thì thu nhập của NCT ngày càng thấp

hoặc không có thu nhập. Chính vì vậy, vấn đề đảm bảo thu nhập cho NCT

luôn là vấn đề đƣợc các quốc gia trên thế giới quan tâm.

1.1.2. Bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi

1.1.2.1. Khái niệm bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi

Con ngƣời sinh ra đã có các nhu cầu cơ bản nhƣ ăn, mặc, ở... và nhằm

thỏa mãn các nhu cầu cơ bản đó, con ngƣời phải lao động để làm ra những

sản phẩm cần thiết phục vụ các nhu cầu của bản thân. Đặc biệt, khi con ngƣời

già yếu, bị suy giảm hoặc không còn khả năng lao động, thu nhập của họ sẽ bị

12

giảm sút nhƣng các nhu cầu thiết yếu không bởi vì thế mà mất đi, ngƣợc lại

có thể tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm các nhu cầu mới nhƣ chi phí

khám chữa bệnh. Chính vì vậy việc đảm bảo đƣợc thu nhập cho họ trong giai

đoạn này là điều vô cùng quan trọng. Với mục đích trên mà trong lịch sử phát

triển của các hình thức đảm bảo thu nhập cho ngƣời cao tuổi trong đó có

BHXH thì Bảo hiểm hƣu trí là một trong những chế độ đƣợc quan tâm và

thực hiện sớm nhất.

Với mục đích nhằm khắc phục những rủi ro, giảm bớt khó khăn cho

bản thân và gia đình thì ngoài việc tự bản thân khắc phục thì bên cạnh đó

ngƣời lao động còn cần đƣợc nhận sự bảo trợ của xã hội, sự bảo đảm của Nhà

nƣớc. Sự tƣơng trợ dần đƣợc mở rộng và phát triển dƣới nhiều hình thức khác

nhau. Trong quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng

công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển.

Quá trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ ngƣời làm công ăn lƣơng tăng

lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê

đem lại. Sự hụt hẫng về tiền lƣơng trong các trƣờng hợp bị ốm đau, tai nạn,

rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với

cuộc sống bình thƣờng của những ngƣời không có nguồn thu nhập nào khác

ngoài tiền lƣơng. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng

ngày đã buộc những ngƣời làm công ăn lƣơng tìm cách khắc phục bằng

những hành động tƣơng thân, tƣơng ái (lập các quỹ tƣơng tế, các hội đoàn…);

đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nƣớc phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống

cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau

và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì

bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới

thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trƣờng hợp

rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã

13

mở ra hƣớng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ ngƣời lao động đóng

góp mà giới chủ và Nhà nƣớc cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế

ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này đƣợc thể hiện rõ nét: mọi ngƣời,

không phân biệt già – trẻ, nam – nữ, lao động phổ thông – lao động kỹ thuật,

ngƣời khoẻ – ngƣời yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích

chung. Năm 1883, họ tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm tai nạn lao

động sau đó là đạo luật về hƣu trí với sự đóng góp của 3 bên (NLĐ, NSDLĐ

và Nhà nƣớc) nhằm bảo vệ NLĐ trong các trƣờng hợp rủi ro [5].

Mô hình BHXH của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nƣớc

Mỹ Latin và rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nƣớc giành đƣợc

độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe; sau đó dần lan rộng ra các nƣớc

trên thế giới.

Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề

của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã

hội, cùng với trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của ngƣời lao

động ngày càng đƣợc nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những

sự kiện hoặc không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy

nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng nhƣ

những khó khăn mới đƣợc giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất.

Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài ngƣời trong quá

trình phát triển: sự chia sẻ. BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của

ngƣời lao động và đƣợc thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một

trong những quyền lợi của con ngƣời nhƣ trong Tuyên ngôn nhân quyền của

Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nêu.

Với tƣ cách là cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc trong lĩnh vực

lao động, ILO cũng rất quan tâm đến vấn đề về an sinh xã hội, trong đó có

14

vấn đề liên quan đến Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi. Theo quan

niệm của ILO thì an sinh xã hội có thể đƣợc hiểu là: “An sinh xã hội là sự

cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà

nước hoặc tập thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức

sống thấp”. Định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh bảo hiểm xã hội và mở

rộng tạo việc làm cho những đối tƣợng ở khu vực kinh tế không chính thức.

Bản chất của an sinh xã hội là tạo ra mạng lƣới nhiều tầng, nhiều lớp

cho tất cả các thành viên trong xã hội khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao

động hay các rủi ro khác trong cuộc sống. Chính sách ASXH là chính sách

của các quốc gia nhằm thực hiện chức năng đảm bảo, khắc phục các rủi ro,

bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội.

Trong tất cả nội dung của an sinh xã hội thì bảo hiểm thu nhập quan trọng

không chỉ liên quan đến trợ cấp tuổi già là vấn đề quan tâm của tất cả ngƣời

lao động khi tham gia quan hệ lao động mà còn do hầu hết ngƣời lao động

tham gia trong quan hệ bảo hiểm xã hội đều là đối tƣợng của trợ cấp này. Bất

kể ngƣời lao động nào cũng sẽ đến lúc già yếu, bị giảm hoặc mất khả năng lao

động nhƣng vẫn cần có thu nhập để đảm bảo nhu cầu cuộc sống và lƣơng hƣu

chính là nguồn thu nhập chính và thiết yếu của ngƣời lao động trong giai đoạn

này. Chính vì thế mà trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội, việc đảm bảo

thu nhập cho NCT là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội đƣợc thực hiện

sớm nhất. ILO xác định đây là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội bắt

buộc mà các quốc gia phải thực hiện trong hệ thống an sinh xã hội của mình.

Ở Việt Nam, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, luật BHXH sửa đổi

đƣợc thông qua sáng ngày 20/11/2014. Việc sửa đổi Luật BHXH đã cơ bản

đáp ứng mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện pháp luật về BHXH nhằm đáp

ứng yêu cầu phát triển hệ thống ASXH phù hợp nền kinh tế thị trƣờng định

hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế trong tình hình mới, khắc phục

15

những hạn chế trong chính sách, pháp luật BHXH hiện hành và tháo gỡ

những khó khăn, bất cập trong tổ chức thực hiện, tiến tới BHXH cho mọi

NLĐ. Bên cạnh đó, Luật BHXH 2014 có thêm nhiều quy định mới, đặc biệt là

chế độ hƣu trí nhƣ về điều kiện nghỉ hƣu, công thức tính lƣơng hƣu, mức bình

quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH để tính lƣơng hƣu, trợ cấp một lần, điều

chỉnh lƣơng hƣu, trợ cấp một lần khi nghỉ hƣu.

Qua đây có thể thấy, bảo hiểm thu nhập cho NLĐ, đặc biệt đối với

NCT là một trong những biện pháp ASXH đƣợc các quốc gia trên thế giới,

trong đó có Việt Nam đang hết sức quan tâm, là một bộ phận quan trọng

trong hệ thống an sinh xã hội, là công cụ quan trọng để các quốc gia phòng

tránh, hạn chế, khắc phục các rủi ro, khó khăn cho mọi thành viên trong xã

hội, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng luôn có sự thay đổi.

Nhƣ vậy, có thể hiểu bảo hiểm thu nhập đối với NCT là sự bảo vệ của

nhà nƣớc và xã hội đối với NCT nhằm làm giảm thiểu rủi ro về kinh tế và sức

khỏe, bảo đảm mức sống và chống đói nghèo, góp phần phát triển ổn định,

bền vững kinh tế xã hội của đất nƣớc: Bảo hiểm thu nhập đối với người cao

tuổi bao gồm các hình thức như hưu trí, trợ giúp xã hội, bảo hiểm nhân thọ và

sự bảo đảm của Nhà nước nhằm thực hiện bảo hiểm thu nhập thông qua việc

đ ng g p từ thu nhập hàng tháng của NCT trong thời gian đi làm, vào quỹ tài

chính tập trung, để khi hết khả năng lao động NCT vẫn c thu nhập để đảm

bảo cuộc sống.

1.1.2.2. Sự cần thiết của bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi

Đối với NCT: Khi bƣớc vào giai đoạn nghỉ hƣu, nhu cầu tài chính lớn

nhất đối với mỗi ngƣời là đảm bảo cuộc sống sau nghỉ hƣu với mức sống

tƣơng đƣơng hoặc gần tƣơng đƣơng so với trƣớc khi nghỉ hƣu cũng nhƣ theo

kịp mức sống chung của xã hội. Đáng chú ý, trong điều kiện lạm phát cao thì

nhu cầu tài chính đảm bảo cuộc sống càng là nhu cầu trọng yếu và chiếm tỷ

16

trọng ngày càng lớn trong tổng nhu cầu tài chính giai đoạn này. Thêm vào đó,

khi đời sống xã hội đƣợc nâng cao, nhu cầu du lịch, giải trí, theo đuổi sở thích

cá nhân, thăm viếng bạn bè, ngƣời thân… cũng chiếm một phần khá lớn trong

nhu cầu tài chính sau tuổi nghỉ hƣu. Đặc biệt, nhu cầu chăm sóc sức khỏe và

chữa bệnh là một nhu cầu rất lớn và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng

nhu cầu tài chính sau tuổi nghỉ hƣu vì khi độ tuổi ngày càng cao thì sức khỏe

ngày càng suy giảm, sự lão hóa gia tăng và bệnh tật phát triển trong khi chi

phí cho các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ ngày càng tăng. Trong giai

đoạn cuối đời, có thể phát sinh nhu cầu tài chính rất lớn cho sự chăm sóc đặc

biệt, và tiếp đến là chi phí mai táng, hậu sự. Hiện nay, tỷ lệ ngƣời cao tuổi

ngày càng gia tăng. Khi tỷ lệ NCT ngày càng cao trong tổng số dân số đồng

nghĩa với tỷ lệ lực lƣợng tham gia lao động có xu hƣớng giảm đi, dẫn đến

việc làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có chiều hƣớng giảm đi và tỷ lệ

ngƣời thụ hƣởng có xu hƣớng gia tăng, quỹ hƣu trí cũng phải chi lƣơng hƣu

nhiều hơn. Bên cạnh đó, ở các nƣớc có thu nhập trung bình và thu nhập thấp,

NCT đang phải đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, hàng triệu ngƣời cao tuổi

sống dƣới mức đói nghèo. Thực trạng này đã đặt ra những yêu cầu lớn đối với

cả cộng đồng quốc tế đó là làm thế nào để bảo đảm đời sống và chăm sóc sức

khoẻ cho bộ phận cƣ dân này là câu hỏi dành chung cho mọi quốc gia trên thế

giới, không có ngoại lệ.

Ở Việt Nam, NCT đƣợc pháp luật quy định là những ngƣời từ đủ 60 tuổi

trở lên. Trong khoảng 30 năm trở lại đây tỷ lệ ngƣời cao tuổi ngày càng tăng

lên. Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam chính thức bƣớc

vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và hiện có khoảng 10,1 triệu ngƣời

cao tuổi, chiếm 11% dân số. Riêng số ngƣời từ 80 tuổi trở lên khoảng 2 triệu

ngƣời. Dự báo đến năm 2030, tỷ trọng ngƣời cao tuổi Việt Nam chiếm 17% và

năm 2050 là 25% [22].

17

Hiện nay tỷ lệ ngƣời cao tuổi tham gia các hình thức bảo đảm thu nhập

ở Việt Nam còn rất thấp so với các quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo của

ILO hiện nay ở Việt Nam, trong khoảng hơn 11 triệu ngƣời cao tuổi, có 2.3

triệu ngƣời đang hƣởng chế độ hƣu trí, 1.3 triệu ngƣời hƣởng trợ cấp xã hội

và khoảng 6-7 triệu ngƣời cao tuổi không có thu nhập [16]. Trong đó phần lớn

ngƣời cao tuổi ở Việt Nam sống ở nông thôn [15]. Bên cạnh đó, còn nhiều

ngƣời cao tuổi từ 70 - 80 tuổi từng tham gia kháng chiến, phục vụ cách mạng

nên không có thời gian tích lũy tiền bạc, chuẩn bị cuộc sống về già. Thực tế

rất nhiều ngƣời trong số họ khá khó khăn về kinh tế, trong khi đó lại thƣờng

xuyên bị ốm đau, bệnh tật.

Bởi vậy, thách thức trong giải quyết đời sống của ngƣời cao tuổi sẽ rất

lớn khi Việt Nam rơi vào tình trạng “già trƣớc khi giàu” nhƣ hiện nay. Nếu

không có chiến lƣợc đối phó với tình trạng này thì nhà nƣớc sẽ phải có những

khoản chi tiêu rất lớn, và từ đó sẽ tác động tiêu cực đến ngân sách cũng nhƣ

sự bền vững dài hạn của nền kinh tế quốc dân.

Trên phương diện quyền con người: Ngày nay, dân số thế giới đang già

đi, tỉ lệ ngƣời lớn tuổi trong cơ cấu dân số của toàn thế giới đang tăng, điều

này đặt ra một thực tế là cần phải quan tâm ngày một nhiều hơn đến các

quyền của đối tƣợng này. Hiện nay, theo ƣớc tính, có gần 20% ngƣời cao tuổi

trên toàn thế giới đƣợc hƣởng tiền trợ cấp. Điều này có nghĩa là có khoảng

607 triệu ngƣời tuổi từ 60 trở lên thiếu sự đảm bảo về thu nhập [32]. Nhiều

ngƣời cao tuổi vẫn phải làm các công việc nặng nhọc để kiếm sống, nhiều

ngƣời bị bỏ rơi trong các nhà dƣỡng lão thiếu các tiện nghi chăm sóc cá nhân.

Thậm chí, tại nhiều nơi cũng không có nhà dƣỡng lão để đảm bảo chăm sóc

đối tƣợng ngƣời cao tuổi và nhiều ngƣời cao tuổi vẫn phải sống trong tình

trạng không nhà cửa, lang thang kiếm sống.

Trƣớc tình hình ở nhiều nơi, nhiều nƣớc trên thế giới, vai trò của ngƣời

18

cao tuổi đã không đƣợc nhìn nhận đúng đắn và đƣợc quan tâm. Đồng thời

ngƣời cao tuổi cũng là những đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng do vấn đề về sức

khỏe và thu nhập. Nhiều nƣớc cũng đã có những đề xuất sửa đổi pháp luật

nhằm bảo vệ quyền của ngƣời cao tuổi, xác định rõ hơn rằng những ngƣời trẻ

tuổi phải có bổn phận thăm nom và chăm sóc cho cha mẹ mình.

Cao ủy Nhân quyền Liên hiệp quốc Navi Pillay cũng cho rằng, với việc

2/3 số ngƣời cao tuổi trên thế giới sống ở các nƣớc có thu nhập thấp và trung

bình, chính phủ các nƣớc cần đƣa ra các chƣơng trình lƣơng hƣu cho ngƣời già

cũng nhƣ các biện pháp phù hợp trong các lĩnh vực nhà ở, y tế, giao thông, nƣớc

sạch để đảm bảo rằng họ không bị bỏ rơi và phân biệt đối xử. Dự kiến, đến năm

2050, số ngƣời cao tuổi trên toàn thế giới sẽ tăng lên 2 tỷ ngƣời [12].

Đã đến lúc các nƣớc trên thế giới cần đƣa ra các biện pháp tài chính,

xã hội và luật pháp nhằm giúp hàng triệu ngƣời cao tuổi thoát khỏi cảnh

nghèo đói, đảm bảo quyền có cuộc sống khỏe mạnh và đƣợc tôn trọng.

Những ngƣời này đều có quyền đƣợc tiếp cận các dịch vụ xã hội; các nƣớc

cần đƣa ra các chƣơng trình lƣơng hƣu cho ngƣời cao tuổi, xây dựng hệ

thống pháp luật và chính sách nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử về tuổi

tác và giới tính tại nơi làm việc.

Trên phương diện về an sinh xã hội: Một trong những mối quan tâm

hàng đầu của ngƣời cao tuổi trên toàn thế giới đó là đảm bảo thu nhập. Đây

cũng chính là thách thức lớn nhất mà các quốc gia đang phải đối mặt trong

qua trình dân số già hóa. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho áp lực về tài

chính thêm trầm trọng và khó khăn trong việc đảm bảo cả kinh tế và tiếp cận

các dịch vụ y tế cho ngƣời cao tuổi.

Đầu tƣ cho hệ thống bảo hiểm thu nhập cho ngƣời cao tuổi đƣợc xem là

một trong những biện pháp quan trọng nhất đảm bảo độc lập về mặt kinh tế và

giảm nghèo cho ngƣời cao tuổi. Ở các quốc gia phát triển, mối quan tâm

19

chính là làm thế nào để suy trì tính bền vững của hệ thống này. Trong khi đó,

tại các nƣớc đang phát triển, khả năng bao phủ của hệ thống an sinh xã hội và

trợ cấp hƣu trí cho ngƣời cao tuổi đang là thách thức lớn, khi mà phần lớn lực

lƣợng lao động làm việc trong các môi trƣờng không chính thức.

Bảo hiểm thu nhập cho ngƣời cao tuổi nói riêng và bảo hiểm xã hội nói

chung là trụ cột của an sinh xã hội. An sinh xã hội phải thực hiện tốt để đảm

bảo thu nhập cho ngƣời cao tuổi ổn định cuộc sống cũng nhƣ có thể tiếp cận

các dịch vụ xã hội và y tế thiết yếu.

1.2. Pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi

1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối

với người cao tuổi

Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với NCT: Bảo hiểm thu

nhập đối với ngƣời cao tuổi luôn là một trong những nội dung quan trọng

đƣợc pháp luật các quốc gia trên thế giới ghi nhận và điều chỉnh. Bên cạnh sự

phát triển không ngừng của kinh tế xã hội, khoa học y tế dẫn đến việc tuổi thọ

con ngƣời cũng đang ngày càng tăng lên, số lƣợng NCT ngày càng tăng. Theo

quy luật tự nhiên, con ngƣời ở độ tuổi này khả năng lao động của họ sẽ bị suy

giảm, đi kèm theo đó là những rủi ro về sức khỏe, nếu không đƣợc bảo đảm

trong đời sống và chăm sóc sức khỏe thì ngƣời cao tuổi sẽ gặp rất nhiều khó

khăn và khó có thể duy trì đƣợc sự sống. Chính thực trạng khách này luôn đặt

ra yêu cầu phải có những quy định pháp luật phù hợp để điều chỉnh.

Sự điều chỉnh của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao

tuổi đƣợc thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền cơ bản của con ngƣời. Thông

qua các quy định này, các quyền về bảo vệ thu nhập, chăm sóc sức khỏe và

các quyền khác của ngƣời cao tuổi sẽ đƣợc đảm bảo một cách ổn định và lâu

dài, chứ không còn đơn thuần là vì mục đích nhân đạo thuần túy của các quan

hệ xã hội. Đồng thời, với chức năng xã hội của mình, nhà nƣớc là chủ thể

20

chính, thông qua các cơ quan do nhà nƣớc thành lập, tổ chức thực hiện các

quy định, nhằm hiện thực hóa các quy định về bảo hiểm thu nhập cho ngƣời

cao tuổi trong thực tế. Các khoản lƣơng hƣu, trợ cấp, hỗ trợ về vật chất cho

NCT đƣợc thực hiện theo hƣớng công bằng, trong tƣơng quan phát triển kinh

tế - xã hội chung của cộng đồng. Mục đích của các quy định pháp luật là

nhằm giúp NCT và gia đình họ giảm bớt khó khăn, gánh nặng về kinh tế do

không còn khả năng lao động dẫn đến không đảm bảo thu nhập và chi phí

khám chữa bệnh ngày càng tăng thêm. Từ đó có thể khuyến khích, động viên

ngƣời cao tuổi phát huy những kinh nghiệm quý báu của bản thân nhằm góp

phần và việc giáo dục thế hệ trẻ, đóng góp vào sự phát triển của đất nƣớc.

Hiện nay, pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi đƣợc

các quốc gia quy định ở các hình thức khác nhau. Có quốc gia quy định trong

luật riêng về ngƣời cao tuổi, có quốc gia lại quy định trong hệ thống pháp luật

an sinh xã hội (bao gồm các luật về xã hội nhƣ Luật bảo hiểm xã hội, Luật

bảo hiểm y tế...). Mặc dù quy định trong Bộ luật chung hay quy định riêng

trong luật chuyên ngành, thì có thể thấy đƣợc điểm chung trong việc tiếp cận

các vấn đề về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là Nhà nƣớc thực hiện

các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho đối

tƣợng này. Để phù hợp với thực tế đời sống mới, pháp luật bảo hiểm thu nhập

đối với ngƣời cao tuổi ngày càng đƣợc hoàn thiện và phát triển; đảm bảo đƣợc

đời sống cho ngƣời cao tuổi sau một quá trình lao động lâu dài thông qua các

hình thức về bảo đảm thu nhập, trong đó có bảo hiểm hƣu trí.

Từ những nghiên cứu trên, có thể hiểu pháp luật về bảo hiểm thu nhập

đối với ngƣời cao tuổi là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các

hình thức tham gia, điều kiện và mức hƣởng cho những ngƣời tham gia bảo

hiểm thu nhập khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao

động, nhằm giảm thiểu rủi ro về kinh tế và sức khỏe, đảm bảo mức sống và

21

chống đói nghèo cho ngƣời cao tuổi, góp phần phát triển ổn định, bền vững

kinh tế xã hội của đất nƣớc.

Vai trò của pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT: Trong các hình

thức bảo hiểm thu nhập, hƣu trí là chế độ quan trọng hàng đầu, nhằm đảm bảo

và ổn định cuộc sống lâu dài của ngƣời lao động khi họ bị suy giảm khả năng

lao động, khi hết tuổi lao động, không còn tạo ra thu nhập để đảm bảo cuộc

sống; khi từ trần, thân nhân của họ còn đƣợc hƣởng trợ cấp mai táng, trợ cấp

tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần thể hiện tính nhân văn sâu sắc của

chính sách BHXH. Mặt khác, vì tính chất quan trọng và mục đích an sinh xã

hội lâu dài của chế độ hƣu trí mà pháp luật của Việt Nam đã bắt buộc ngƣời sử

dụng lao động đóng 14% trong tổng số 22% tiền lƣơng, tiền công của ngƣời lao

động và số tiền trích đóng của ngƣời sử dụng lao động vào quỹ BHXH.

Bên cạnh đó pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi có

vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với ngƣời cao tuổi mà còn đối với sự

phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Cụ thể nhƣ sau:

(1) Vai trò đối với xã hội: Pháp luật về bảo hiểm thu nhập cho ngƣời

cao tuổi thể hiện rõ trách nhiệm tích cực của Nhà nƣớc, của xã hội đối với

những ngƣời đã có một quá trình lao động, đóng góp vào sự phát triển chung

của đất nƣớc, nay khả năng lao động đã bị giảm hoặc không còn khả năng lao

động, gặp nhiều hạn chế về sức khỏe. Sự tồn tại ổn định về thu nhập cũng nhƣ

cuộc sống của ngƣời cao tuổi trong xã hội thể hiện sự tiến bộ trong chính

sách, pháp luật của một quốc gia. Và thực tiễn đã chứng minh đƣợc pháp luật

về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi có vai trò rất quan trọng trong

việc đảm bảo ổn định xã hội. Bên cạnh đó, vƣợt qua khỏi những rào cản về

chính trị, địa lý, bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi còn phản ánh rõ

các giá trị xã hội, tính nhân văn, nhân đạo của con ngƣời đối với con ngƣời.

Khi những khó khăn về thu nhập, sức khỏe phát sinh khi con ngƣời về già

22

đƣợc mọi tầng lớp trong xã hội cùng nhau chia sẻ, không những giúp ngƣời

cao tuổi vƣợt qua khó khăn trƣớc mắt mà còn tạo ra sự gắn kết giữa thế hệ sau

với các thế hệ đi trƣớc, tạo thành nếp truyền thống văn hóa tốt đẹp. Chính nhờ

sự chia sẻ của cả Nhà nƣớc và cộng đồng xã hội, giúp cho ngƣời cao tuổi cảm

thấy bản thân họ còn có giá trị, không phải vô dụng hay bị tách biệt khỏi cuộc

sống cộng đồng.

(2) Vai trò đối với sự phát triển kinh tế: Ở góc độ này có thể thấy, phần

lớn tiền đóng BHXH của NLĐ, NSDLĐ là đóng vào quỹ hƣu trí nhằm chi trả

lƣơng hƣu cho ngƣời nghỉ hƣu nên quỹ có số thu lớn hơn rất nhiều so với các

quỹ thành phần khác. Số tiền hàng năm từ quỹ có thể đầu tƣ một phần vào các

hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH. Cũng từ

góc độ này cho thấy, bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi còn có ý nghĩa

là công cụ phân phối tiền bạc, của cải cho ngƣời cao tuổi, thu hẹp dần sự

chênh lệch về mức sống trong xã hội. Bên cạnh đó, việc thực hiện các quy

định pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi còn góp phần xây

dựng, phát triển và giáo dục ý thức của từng cá nhân con ngƣời trong xã hội

về việc lo cho tuổi già khi bản thân còn trẻ. Việc tích lũy tiền bạc, của cải cho

mình cũng là thể hiện trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, xã hội và các

thế hệ trẻ trong tƣơng lai.

(3) Vai trò đối với NCT: Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là

sự đảm bảo cho ngƣời cao tuổi trong việc thực hiện các quyền và lợi ích chính

đáng của họ sau khoảng thời gian lao động. Đây là kết quả họ nhận đƣợc sau

khoảng thời gian tích lũy trong suốt quá trình lao động thông qua việc đóng

góp vào quỹ BHXH, và đây chính là khoản thu nhập chủ yếu để đảm bảo

cuộc sống của ngƣời cao tuổi cả về tinh thần lẫn vật chất trong quãng đời còn

lại sau quá trình lao động. Có thể khi về già, NCT có các khoản tích lũy, có

con cháu là chỗ dựa, tuy nhiên phần lớn NCT vẫn trông cậy vào các khoản trợ

23

cấp hƣu trí. Ngƣời cao tuổi sẽ cảm thấy yên tâm trong cuộc sống khi họ đƣợc

đảm bảo thu nhập, không bị mặc cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội.

1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với

người cao tuổi

Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi cũng tuân thủ theo các

nguyên tắc chung của BHXH nhƣ: Mức hƣởng BHXH đƣợc tính trên cơ sở

mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những ngƣời tham gia

BHXH; Mức đóng BHXH bắt buộc đƣợc tính trên cơ sở tiền lƣơng tháng của

NLĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện đƣợc tính trên cơ sở mức thu nhập tháng

do NLĐ lựa chọn; NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời

gian đóng BHXH tự nguyện đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí và chế độ tử tuất trên

cơ sở thời gian đã đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã đƣợc tính hƣởng

BHXH một lần thì không tính vào thời gian làm cơ sở tính hƣởng các chế độ

BHXH; Quỹ BHXH đƣợc quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh

bạch; đƣợc sử dụng đúng mục đích và đƣợc hạch toán độc lập theo các quỹ

thành phần, các nhóm đối tƣợng thực hiện chế độ tiền lƣơng do Nhà nƣớc quy

định và chế độ tiền lƣơng do ngƣời SDLĐ quyết định; Việc thực hiện BHXH

phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của

ngƣời tham gia BHXH.

Bên cạnh các nguyên tắc chung đã nêu trên, bảo hiểm thu nhập đối với

ngƣời cao tuổi còn có một số nguyên tắc riêng ngoài các nguyên tắc chung

của BHXH, đó là:

Thứ nhất, nguyên tắc ưu đãi đối với một số ngành nghề, lĩnh vực đặc

thù nhất định

Nguyên tắc này xuất phát từ lý do điều kiện làm việc của NLĐ trong

một số ngành nghề có tính chất nặng nhọc, độc hại, ở những nơi xa xôi, hẻo

lánh hoặc trong những lĩnh vực quan trọng nhƣ an ninh quốc phòng có sự

24

khác nhau. Đồng thời nó cũng khuyến khích NLĐ vào làm việc trong các

ngành nghề, lĩnh vực này tạo sự phân công lao động đồng đều giữa các ngành,

các vùng với nhau. Những NLĐ phải làm việc trong điều kiện lao động không

thuận lợi hoặc làm những công việc mà tầm quan trọng của nó đối với an ninh

đất nƣớc có thể ảnh hƣởng đến cuộc sống bình thƣờng của họ thì sẽ đƣợc

hƣởng những chế độ ƣu đãi đặc biệt. Trong chế độ hƣu trí, sự ƣu đãi này đƣợc

thể hiện ở việc luật pháp cho phép họ đƣợc nghỉ hƣu ở tuổi sớm hơn so với

quy định chung nhƣng không phải trừ tỷ lệ lƣơng hƣu vì thời gian nghỉ sớm

đó. Pháp luật Việt Nam quy định NLĐ làm trong những công việc nặng nhọc

độc hại, làm việc ở những vũng sâu, vùng xa hoặc làm việc trong lực lƣợng

vũ trang, nhìn chung sẽ đƣợc nghỉ hƣu sớm hơn so với những NLĐ khác 5

tuổi. Nguyên tắc này cũng có thể là hợp lý ở giai đoạn này nhƣng có thể thay

đổi ở giai đoạn khác, khi điều kiện làm việc thay đổi do sự phát triển của khoa

học kỹ thuật hiện đại.

Thứ hai, nguyên tắc khi tuổi thọ của người lao động và mức sống của

người lao động được nâng cao thì độ tuổi hưởng bảo hiểm thu nhập đối với

người cao tuổi có thể được nâng lên

Trên thực tế nhiều nƣớc phát triển cho thấy, khi nền kinh tế đạt trình độ

phát triển tƣơng đối cao thì mức sống của NLĐ, ngƣời dân (đƣợc thể hiện dựa

trên GDP/đầu ngƣời) và tuổi thọ cũng không ngừng đƣợc nâng cao, cấu trúc dân

số sẽ có sự biến đổi. Chính vì vậy, trong các trƣờng hợp này tuổi về hƣu của

NLĐ có thể kéo dài, ví dụ nam đến 63 và 65 tuổi, nữ 58 và 60 tuổi. Đối với việc

tăng tuổi về hƣu này nhằm làm tăng khả năng cống hiến của NLĐ khi sức khỏe

của họ còn tốt, tăng khả năng sử dụng nguồn nhân lực xã hội hiệu quả trong

hoàn cảnh nguồn cung lao động đang ngày càng ít đi, trƣớc nhu cầu phát triển

của xã hội và ở khía cạnh kinh tế là tạo điều kiện tăng thu nhập cho NLĐ.

Hơn nữa, khi vấn đề già hóa dân số diễn ra, tuổi thọ trung bình của con

25

ngƣời đƣợc nâng lên, số ngƣời cao tuổi cũng ngày càng tăng đồng nghĩa với

thời gian hƣởng lƣơng hƣu kéo dài trong khi việc mở rộng đối tƣợng tham gia

BHXH gặp khó khăn do tỷ lệ sinh giảm, số lao động trẻ tham gia thị trƣờng

lao động ít, số ngƣời về hƣu ngày càng tăng làm cho việc chi trả chế độ hƣu

trí sẽ tăng ảnh hƣởng lớn đến sự đảm bảo cân đối thu chi quỹ BHXH trong

tƣơng lai lâu dài nếu không có sự điều chỉnh về mặt chính sách, và một trong

những giải pháp hiệu quả mà nhiều nƣớc trên thế giới đã đã áp dụng thành

công đó là việc tăng tuổi nghỉ hƣu (ví dụ Pháp, Nhật Bản, Hy Lạp).

Thứ ba, nguyên tắc về sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện

NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng

BHXH tự nguyện để đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở

thời gian đóng BHXH. Với nguyên tắc này, giữa BHXH bắt buộc và BHXH

tự nguyện có sự liên thông, đảm bảo cho ngƣời tham gia BHXH khi hết tuổi

lao động có nhiều cơ hội đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí do thời gian đóng BHXH

đƣợc tính bằng tổng thời gian đóng BHXH của 2 loại hình. Tuy nhiên theo

quy định của Luật BHXH thì trong cùng một thời điểm, NLĐ chỉ đƣợc tham

gia đóng BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện. Để đảm bảo mối tƣơng

quan trong tham gia BHXH với nguyên tắc liên thông giữa BHXH bắt buộc

và BHXH tự nguyện, chế độ hƣu trí cần đƣợc quy định cụ thể cho phù hợp.

Đối với ngƣời có toàn bộ thời gian tham gia BHXH tự nguyện: Tuổi nghỉ hƣu

phải đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ trở lên (không có quy định

nghỉ hƣu trƣớc tuổi) và lƣơng hƣu nếu thấp hơn tiền lƣơng tối thiểu chung thì

không bù cho bằng tiền lƣơng tối thiểu chung. Còn đối với ngƣời tham gia

BHXH tự nguyện mà trƣớc đó có thời gian đóng BHXH bắt buộc: Trƣờng

hợp đã có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên thì điều kiện hƣởng chế độ

hƣu trí hàng tháng đƣợc thực hiện nhƣ đối với ngƣời đang tham gia BHXH

bắt buộc (có 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm

hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên đƣợc

26

giảm 5 tuổi; có 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại,

nguy hiểm mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên đƣợc hƣởng

lƣơng hƣu với mức thấp hơn mà không phụ thuộc vào tuổi đời; đủ 50 tuổi trở

lên đối với nam, đủ 45 tuổi trở lên đối với nữ, bị suy giảm khả năng lao động từ

61% trở lên thì đƣợc hƣởng lƣơng hƣu với mức thấp hơn) và lƣơng hƣu nếu

thấp hơn tiền lƣơng tối thiểu chung thì đƣợc bù cho bằng tiền lƣơng tối thiểu

chung. Trƣờng hợp đã đóng BHXH bắt buộc dƣới 20 năm thì chế độ hƣu trí

thực hiện nhƣ đối với ngƣời có toàn bộ thời gian tham gia BHXH tự nguyện.

1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi

Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là nội dung quan trọng trong

pháp luật an sinh xã hội đối với ngƣời cao tuổi, bởi vì khi có thu nhập ổn định

thì ngƣời cao tuổi mới có đủ điều kiện để bảo đảm cuộc sống hàng ngày và

chăm sóc sức khỏe cho bản thân. Chính vì thế, hình thức thực hiện bảo hiểm

thu nhập thông qua việc đóng góp từ thu nhập hàng tháng của ngƣời lao động

sau một quá trình lao động nhất định vào quỹ tài chính tập trung, để khi họ hết

khả năng lao động vẫn đƣợc bảo đảm thu nhập. Hình thức bảo hiểm thu nhập

sau một quá trình lao động dài đƣợc gọi là bảo hiểm hƣu trí.

Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA)[10], nhằm

bảo đảm đời sống cho ngƣời cao tuổi, trong nội dung về bảo hiểm xã hội, các

quốc gia cần thực hiện nhiều hệ thống hƣu trí:

(1) Hệ thống hƣu trí thực thanh thực chi (PAY-AS-YOU-GO-PAYG)

hay còn gọi là hệ thống hƣu trí mà đóng góp của ngƣời lao động đƣợc đổ

chung vào một quỹ và quỹ này đƣợc sử dụng để chi trả cho ngƣời đang hƣởng

chế độ hƣu trí;

(2) Hệ thống hƣu trí tài khoản cá nhân tƣợng trƣng (NDC-NOTINONAL

DEFINED CONTIBUTION) là hệ thống hƣu trí đƣợc thiết kế với mức hƣởng

tính toán dựa trên mức đóng góp tích luỹ và kết quả đầu tƣ của quỹ hƣu trí;

27

(3) Hệ thống hƣu trí xã hội hay còn gọi là hệ thống hƣu trí không dựa

trên đóng góp (NCP-NON- CONTIBUTTORY PERNION), là hệ thống hƣu

trí mà ngƣời đƣợc hƣởng không phải đóng góp bất kỳ một khoản nào, ngƣời

đƣợc hƣởng phải thoả mãn một số điều kiện nhất định. Trong đó, tuỳ vào điều

kiện cụ thể mà các quốc gia ƣu tiên lựa chọn các hình thức bảo hiểm thu nhập

này đối với ngƣời lao động để khi về già, hết khả năng lao động họ đƣợc bảo

đảm đời sống.

Trên thế giới, vấn đề già hóa dân số đã và đang trở thành một vấn đề

lớn ở các nƣớc đang phát triển, nơi mà dân số sẽ bị già hóa nhanh chóng.

Hiện nay, các nƣớc đang phát triển sẽ là nơi có tỉ lệ ngƣời cao tuổi tăng cao

và tăng nhanh nhất. Giữa các nƣớc phát triển và các nƣớc đang phát triển có

sự khác nhau đáng kể trong các hoạt động chính sách BHXH đối với ngƣời

cao tuổi. BHXH ở Pháp thực hiện từ năm 1945 theo hình thức tọa thu – tọa

chi, hoạt động dựa trên nguyên tắc đoàn kết giữa các thế hệ. Chế độ hƣu trí

của Pháp gồm bảo hiểm hƣu trí cơ bản và bảo hiểm hƣu trí bổ sung, đều là

các chế độ bắt buộc, bao gồm 35 chế độ khác nhau, bao gồm: Chế độ hƣu trí

cơ bản (bắt buộc); Chế độ hƣu trí bổ sung (bắt buộc); Chế độ đặc biệt (dành

cho công chức và một số ngành đặc thù); Tiết kiệm cá nhân hoặc doanh

nghiệp (tự nguyện). Các chƣơng trình hƣu trí tại Pháp bao phủ hầu hết lực

lƣợng lao động. Nguồn tài chính cho các chƣơng trình hƣu trí từ đóng góp của

NLĐ, NSDLĐ, thuế và các khoản thu thông qua thuế. Pháp có hệ thống

ASXH toàn diện và đứng đầu Châu Âu về quy mô tài chính. Với mô hình đa

trụ cột, tại Pháp có nhiều tổ chức khác nhau tham gia quản lý các chƣơng

trình hƣu trí trong đó có các tổ chức chính là: Quỹ hƣu trí quốc gia, Quỹ hƣu

trí dành cho ngƣời tự tạo việc làm, Hiệp hội quỹ hƣu trí bổ sung, cơ quan thu

đóng góp BHXH quốc gia…[46], [25]. Tuy nhiên có thể thấy hệ thống hƣu trí

của Pháp rất phức tạp do nhiều cơ quan thực hiện nên bị phân tán dẫn đến khó

28

quản lý, khó có khả năng cân đối thu chi, nguồn NSNN phải bù cho chi là rất

lớn và gia tăng hàng năm. Từ một số hạn chế trong hệ thống của nƣớc Pháp

cho thấy quỹ bảo hiểm hƣu trí cần đƣợc quản lý tập trung thống nhất độc lập

để giảm gánh nặng cho Nhà nƣớc. Còn hệ thống BHXH của Trung Quốc có 5

bộ phận cấu thành bao gồm bảo hiểm hƣu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm

y tế, bảo hiểm tai nạn lao động và bảo hiểm thai sản, trong đó bảo hiểm hƣu

trí là hạt nhân của chính sách ASXH của Trung Quốc. Cùng với chế độ

BHHT cán bộ, công chức, Trung Quốc đã thực hiện chế độ BHHT cho lao

động trong doanh nghiệp với một hệ thống riêng đƣợc thiết kế 3 tầng: Tầng

cơ bản, một phần đóng góp vào lƣơng hƣu chung, một phần đóng góp vào tài

khoản cá nhân; Tầng bổ sung và tầng dự trữ cá nhân thì đồng thời thực hiện

chế độ hƣu trí đối với lao động nông thôn....[20].

Vấn đề già hóa dân số đã và đang là một thách thức lớn mà các quốc

gia trên thế giới cũng nhƣ Việt Nam sẽ phải đối mặt trong thời gian sắp tới.

Do các thành tựu đã đạt đƣợc trong lĩnh vực y tế và kế hoạch hóa gia đình

khiến cho mức sinh của nƣớc ta giảm mạnh và tuổi thọ bình quân của Việt

Nam đƣợc nâng cao từ 68,6 tuổi năm 1999 lên 72,2 tuổi năm 2005, và dự kiến

sẽ là 75 tuổi vào năm 2020 [37]. Tình trạng dân số toàn cầu đang có xu hƣớng

già hóa làm ảnh hƣởng sâu sắc tới các khía cạnh của cá nhân, cộng đồng, của

từng quốc gia và cộng đồng quốc tế. Dân số già hóa nhanh sẽ làm gia tăng áp

lực cho hệ thống dịch vụ sức khỏe, tâm lý, lối sống cũng nhƣ hệ thống hƣu trí

cho ngƣời cao tuổi. Từ khuyến nghị của Quỹ Dân số Liên hợp quốc, hiện nay,

Việt Nam đang cùng lúc thực hiện cả 3 hình thức bảo hiểm bắt buộc, bảo

hiểm tự nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ sung. Tuy nhiên, trong nội dung về bảo

hiểm xã hội, pháp luật quy định các loại hình hƣu trí hàng tháng nhằm bao quát

mọi đối tƣợng có thu nhập đều có thể tham gia bảo hiểm hƣu trí để bảo đảm thu

nhập cho ngƣời lao động khi nghỉ hƣu. Đó là bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của

29

bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của bảo hiểm xã hội tự

nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ sung (Riêng hệ thống hƣu trí xã hội hay còn gọi

là hệ thống hƣu trí không dựa trên đóng góp (NCP-NON- CONTIBUTTORY

PERNION) thì ở Việt Nam lại không thuộc phạm vi của pháp luật bảo hiểm xã

hội mà thuộc phạm vi của trợ giúp/bảo trợ xã hội). Cụ thể:

1.2.3.1. Bảo hiểm thu nhập đối với NCT từ bảo hiểm xã hội bắt buộc

Nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho NCT khi hết khả năng lao

động, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng và thực hiện chế độ

bảo hiểm hƣu trí. Mục đích của chế độ bảo hiểm hƣu trí nhằm đảm bảo cho

ngƣời cao tuổi có đƣợc một khoản thu nhập thay thế cho tiền lƣơng, phù hợp

với thời gian làm việc và mức độ đóng góp của ngƣời cao tuổi trong suốt quá

trình lao động. Mức thu nhập này tuy thấp hơn so với mức tiền lƣơng lúc còn

làm việc nhƣng nó lại rất quan trọng và cần thiết, giúp cho ngƣời về hƣu ổn

định về mặt vật chất cũng nhƣ tinh thần trong cuộc sống, bảo đảm an sinh xã

hội của quốc gia. Trong Công ƣớc số 102 năm 1952, Tổ chức lao động quốc

tế (ILO) gọi bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là trợ cấp tuổi già và

cho rằng đây là chế độ quan trọng nhất trong các chế độ an sinh xã hội. Trong

Công ƣớc số 102 đã nêu rõ: “Trợ cấp tuổi già phải là chế độ chi trả định kỳ,

trừ một số trường hợp hy hữu thì các quỹ dự phòng quốc gia thực hiện việc

chi trả một lần”. Từ quy định trên của ILO, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế -

xã hội của từng quốc gia trên thế giới mà có các quy định khác nhau về bảo

hiểm thu nhập đối với NCT.

Bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình

bảo hiểm xã hội mà ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động phải tham gia

và đóng phí vào quỹ bảo hiểm xã hội để khi ngƣời lao động hết khả năng lao

động, đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì đƣợc hƣởng lƣơng hƣu hàng

tháng. Thời gian hƣởng lƣơng hƣu ổn định, lâu dài, từ khi ngƣời lao động nghỉ

30

hƣu cho đến khi họ qua đời. Trong một số trƣờng hợp vì điều kiện, môi trƣờng

làm việc, tính chất đặc thù của công việc, NLĐ có thể đƣợc nghỉ hƣu sớm hơn

từ 1-5 tuổi. NLĐ cũng có quyền đƣợc nghỉ hƣu sớm khi bị suy giảm khả năng

lao động ở một mức độ nhất định phù hợp với quy định của pháp luật.

Trên thế giới, Pháp đƣợc xem là quốc gia có hệ thống ASXH toàn diện

và đứng hàng đầu châu Âu về quy mô tài chính. Với mô hình đa trụ cột, tại

Pháp có nhiều tổ chức khác nhau tham gia quản lý các chƣơng trình hƣu trí

nhƣ Quỹ hƣu trí quốc gia, Hiệp đội quỹ hƣu trí bổ sung,... Trong hệ thống

BHXH của Pháp thì chế độ hƣu trí cơ bản đƣợc xem là hệ thống mang tính

tƣơng trợ cộng đồng rất cao. Tỷ lệ đóng BHXH năm 2016 là 15,45% trên

phần lƣơng trong giới hạn trần của ASXH; 2% trên tổng số lƣơng ngoài mức

trần. Khác với Việt Nam, tuổi nghỉ hƣu ở Pháp đƣợc quy định là 60 tuổi

chung cho nam và nữ. Mức lƣơng hƣu đƣợc tính dựa trên 3 yếu tố: lƣơng cơ

bản hoặc thu nhập trung bình hàng năm (đƣợc tính dựa trên cơ sở 25 năm có

thu nhập tốt nhất); tỷ lệ hƣởng và thời gian đóng vào hệ thống BHXH. Tỷ lệ

hƣởng lƣơng hƣu đƣợc tính mức tối đa là 50% giảm dần theo một tỷ lệ xác

định bằng chênh lệch giữa số quý thực tham gia bảo hiểm và số quý tham gia

bảo hiểm cần thiết để nhận tỷ lệ tối đa, cùng với việc xem xét tuổi của từng cá

nhân và tổng thời gian tham gia bảo hiểm. Tỷ lệ hƣởng tối thiểu là 37,5% đối

với cá nhân sinh ra từ năm 1953 trở về sau. Thời hạn tham gia bảo hiểm đƣợc

sử dụng để xác định tỷ lệ trả lƣơng hƣu giữa tuổi nghỉ hƣu tối thiểu và tuổi tự

động đƣợc hƣởng lƣơng hƣu đầy đủ (giữa 62 và 67 cho những ngƣời sinh sau

01/01/1955). Tỷ lệ đƣợc hƣởng đủ 50% đối với ngƣời có thời gian tham gia

bảo hiểm tổng cộng 160 - 172 quý (tùy theo năm sinh), tuổi trên 67 (đối với

những ngƣời sinh sau năm 1955) hoặc thuộc danh mục đặc biệt (ngƣời không

có khả năng làm việc, cựu chiến binh hay những tù nhân chiến tranh và ngƣời

lao động nữ đã có ít nhất ba con nhỏ).

31

1.2.3.2. Bảo hiểm thu nhập đối với NCT từ bảo hiểm xã hội tự nguyện

Bảo hiểm thu nhập từ bảo hiểm xã hội tự nguyện là hình thức bảo hiểm

mà ngƣời tham gia tự nguyện tham gia và đƣợc lựa chọn mức đóng, phƣơng

thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nƣớc có chính sách hỗ trợ

tiền đóng BHXH để ngƣời tham gia hƣởng chế độ hƣu trí. Cũng giống nhƣ loại

hình bảo hiểm thu nhập từ bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi đủ điều kiện về tuổi

đời và thời gian đóng BHXH thì NCT đƣợc nghỉ hƣu, lƣơng hƣu hàng tháng

của ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng ổn định và hƣởng lâu dài.

Tuy nhiên, NCT tham gia loại hình BHXH tự nguyện không đƣợc nghỉ hƣu

sớm do điều kiện lao động, tính chất công việc hoặc bị suy giảm KNLĐ.

BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm mang tính ƣu việt đối với

những lao động nông thôn, lao động tự do,... bởi ngƣời tham gia đƣợc lựa

chọn mức đóng, phƣơng pháp đóng phù hợp với thu nhập của mình nhƣng

vẫn đƣợc chia sẻ khó khăn, hỗ trợ thu nhập trong một số trƣờng hợp theo quy

định của pháp luật

Bảo hiểm hƣu trí tự nguyện là loại hình đang đƣợc đông đảo ngƣời lao

động trên thế giới lựa chọn nhằm đảm bảo an toàn về tài chính của bản thân

khi đã hết tuổi lao động. Bảo hiểm hƣu trí tự nguyện kết hợp giữa quyền lợi

hƣu trí và quyền lợi bảo hiểm rủi ro, đƣợc hoạt động theo cơ chế “đóng –

hƣởng”, ngƣời lao động và doanh nghiệp có thể thỏa thuận mức đóng góp để

đạt đƣợc quyền lợi hƣu trí sau khi nghỉ hƣu theo mong muốn mà không bị

ràng buộc mức đóng cố định và thời gian đóng tối thiểu. Bên cạnh đó, với

những ngƣời lao động không có mức lƣơng cao hoặc bị gián đoạn cho chuyển

việc thì vẫn có thể nhận quyền lợi hƣu trí tốt nếu tự xây dựng và đóng góp

vào kế hoạch hƣu trí của bản thân.

Hiện nay, đa số các nƣớc trên thế giới đều đẩy mạnh xây dựng hệ thống

an sinh xã hội đa tầng nhằm góp phần mang lại các lợi ích cụ thể cho chính

32

quyền, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Đối với ngƣời lao động,

bảo hiểm hƣu trí tự nguyện giúp họ cải thiện khả năng tài chính để có cuộc

sống tốt hơn sau khi hết khả năng lao động cũng nhƣ chủ động đối phó với

các rủi ro phát sinh trong cuộc sống. Còn đối với doanh nghiệp, loại hình bảo

hiểm này thể hiện đƣợc chính sách đãi ngộ, quan tâm tới ngƣời lao động.

Ngay cả ở những quốc gia có hệ thống an sinh xã hội rất tốt thì ngƣời

dân cũng luôn chủ động với các kế hoạch tài chính “đa tầng” để đảm bảo cuộc

sống cho mình đến cuối hành trình. Ở Mỹ, ngƣời về hƣu có 3 nguồn thu nhập:

Một là từ nguồn bảo hiểm hƣu trí (bắt buộc) với tỷ lệ đóng là 6,2%; Hai là từ

bảo hiểm hƣu trí tự nguyện do doanh nghiệp tổ chức dựa trên cơ sở thỏa thuận

giữa các bên và đƣợc đƣa vào thỏa ƣớc lao động hoặc hợp đồng lao động; Ba

là tiết kiệm hƣu trí cá nhân, đƣợc hình thành trên cơ sở ngƣời lao động mở

một tài khoản riêng và đóng tiền vào. Tại Canada - một trong những quốc gia

đƣợc xem là đáng sống nhất trên thế giới, hệ thống hƣu trí bao gồm “ba trụ

cột” gồm quỹ an sinh ngƣời cao tuổi (OAS), kế hoạch hƣu trí của Canada

(CPP) và kế hoạch hƣu trí Quebec (QPP), ngoài ra còn có các khoản trợ cấp

tự nguyện nhƣ RRSP. Ngƣời về hƣu ở Canada còn có tài sản bên ngoài quỹ

hƣu trí chính thức và mạng lƣới hỗ trợ của gia đình và bạn bè.

Hiện nay, một số nƣớc ở khu vực Châu Á nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan,

Hồng Kông... đều đẩy mạnh xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng góp

phần mang lại các lợi ích cụ thể cho chính quyền, ngƣời lao động và ngƣời sử

dụng lao động. Đối với ngƣời lao động, bảo hiểm tự nguyện giúp cải thiện

khả năng tài chính để có cuộc sống tốt hơn sau khi về hƣu cũng nhƣ chủ động

đối phó với các rủi ro phát sinh. Đối với doanh nghiệp, loại hình bảo hiểm này

thể hiện đƣợc chính sách đãi ngộ, quan tâm tới ngƣời lao động.

Có thể thấy, Mỹ, Canada hay các nƣớc trong khu vực Châu Á kể trên

đều là những nƣớc phát triển và có chính sách phúc lợi xã hội rất tốt nhƣng

33

ngƣời dân vẫn tham gia bảo hiểm tự nguyện cho thấy sự cần thiết của loại

hình bảo hiểm này và gần nhƣ nó đã trở thành xu thế tất yếu của thế giới.

1.2.3.3. Bảo hiểm xã hội đối với NCT từ bảo hiểm hưu trí bổ sung

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, tác

động của quá trình tự do dịch chuyển lao động và áp lực già hóa dân số đối

với hệ thống an sinh xã hội của các quốc gia là rất lớn. Chính vì thế, xu hƣớng

chung của các nƣớc trên thế giới hiện nay là xây dựng hệ thống hƣu trí đa

tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ lẫn nhau nhằm bảo đảm cuộc sống tốt đẹp hơn

cho ngƣời lao động. Bảo hiểm hƣu trí bổ sung cùng với hƣu trí cơ bản bắt

buộc sẽ tạo ra sự đa dạng để ngƣời lao động tự lựa chọn, tăng cƣờng tiết kiệm

chi tiêu lúc trẻ làm “của để dành”, từ đó góp phần quan trọng bảo đảm an sinh

xã hội cho ngƣời lao động khi về già.

Theo nghiên cứu và tổng kết từ các nƣớc trên thế giới, bảo hiểm hƣu trí

bổ sung là một chƣơng trình BHXH tự nguyện (hoặc bắt buộc), có cơ chế tạo

lập quỹ từ sự đóng góp của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động dƣới

hình thức các tài khoản tiết kiệm cá nhân, đƣợc bảo toàn và tích lũy thông qua

hoạt động đầu tƣ trên thị trƣờng tài chính dƣới sự giám sát của các cơ quan

quản lý nhà nƣớc.

Các chuyên gia về bảo hiểm xã hội cho rằng, thu nhập từ hƣu trí cơ bản

của ngƣời nghỉ hƣu sẽ từng bƣớc giảm dần và thu nhập từ hƣu trí bổ sung sẽ

tăng dần khi kinh tế phát triển đang là xu hƣớng phổ biến trên thế giới. Ở

Cộng hoà Liên bang Đức, hệ thống bảo hiểm hƣu trí bao gồm: bảo hiểm hƣu

trí bắt buộc; bảo hiểm hƣu trí bổ sung (khoảng 50% ngƣời lao động tham gia);

và bảo hiểm hƣu trí tƣ nhân do ngƣời lao động tự nguyện mua. Tại Pháp,

lƣơng hƣu từ hƣu trí cơ bản chỉ chiếm từ 20% đến 25% và lƣơng hƣu từ hƣu

trí bổ sung chiếm từ 55% đến 60% nguồn thu nhập hƣu trí...[35]. Hƣu trí đa

tầng sẽ góp phần giải quyết những rủi ro có liên quan đến vấn đề già hóa dân

34

số, giúp đa dạng hóa nguồn lƣơng hƣu cho ngƣời lao động, giảm áp lực cho

nguồn lƣơng hƣu cơ bản và tốt hơn hệ thống hƣu trí đơn tầng.

Bảo hiểm hƣu trí bổ sung là chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện

mang tính chất tự nguyện nhằm bổ sung cho chế độ lƣơng hƣu trong bảo hiểm

xã hội bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng góp của ngƣời lao động và

ngƣời sử dụng lao động, tồn tại dƣới dạng các tài khoản cá nhân, đƣợc bảo

toàn và tích lũy thông qua hoạt động đầu tƣ, do các định chế tài chính trung

gian thực hiện và đƣợc quản lý bởi các cơ quan quản lý nhà nƣớc theo quy

định của pháp luật. Quỹ hƣu trí bổ sung đƣợc hình thành trên cơ sở đóng góp

của ngƣời lao động và hoặc ngƣời sử dụng lao động và sẽ đƣợc quản lý bởi

các công ty quản lý quỹ đƣợc Ban điều hành quỹ (gồm đại diện ngƣời lao

động và chủ lao động) chỉ định.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển đều đã

xây dựng một hệ thống chế độ hƣu trí đa tầng. Hệ thống bảo hiểm hƣu trí tại

Mỹ, ngoài hƣu trí cơ bản, ngƣời lao động còn tham gia hƣu trí bổ sung. Tùy

thuộc đối tƣợng tham gia, bảo hiểm hƣu trí bổ sung đƣợc chia làm 2 loại: Bảo

hiểm hƣu trí bổ sung doanh nghiệp, áp dụng cho ngƣời lao động làm việc tại

doanh nghiệp; Bảo hiểm hƣu trí bổ sung nghề nghiệp, áp dụng cho khối hành

chính sự nghiệp. Điểm chung của bảo hiểm hƣu trí bổ sung của Mỹ là NLĐ

và NSDLĐ cùng đóng góp vào quỹ, trong đó mức đóng góp của NSDLĐ

không thấp hơn mức đóng của NLĐ và có giới hạn mức trần đóng; Các khoản

đóng góp hai bên đƣợc trừ ra khỏi thuế thu nhập cá nhân; Thu nhập từ đầu tƣ

của quỹ hƣu trí không phải đóng thuế. Bảo hiểm hƣu trí bổ sung là sân chơi tự

nguyện nhƣng vẫn phải tuân thủ Luật đảm bảo hƣu trí nhằm bảo vệ ngƣời

tham gia với quy định về thời gian tham gia tối thiểu để đƣợc hƣởng, nghĩa vụ

của bên nhận ủy thác tài sản và mức đóng góp tối thiểu. Hệ thống bảo hiểm

hƣu trí ở Thái Lan cũng tƣơng tự nhƣ của Mỹ. Về bảo hiểm hƣu trí bổ sung,

35

chính sách nêu rõ mức đóng của mỗi bên giới hạn từ 3% đến 15% tiền lƣơng

tháng của NLĐ. Ở Pháp, chế độ hƣu trí bổ sung áp dụng cho công chức nhà

nƣớc làm việc trong khu vực công ngoài phần đóng BHXH cơ bản trên tiền

lƣơng chính còn phải đóng BHHT bổ sung bắt buộc tính trên các khoản: Tiền

thƣởng, phụ cấp lƣơng, làm thêm và các phúc lợi bằng hiện vật do hệ thống

hƣu trí bổ sung cho công chức thực hiện. Tổng số tiền đóng góp đƣợc NSDLĐ

kê khai hàng năm và đƣợc quy đổi thành điểm, giá trị sở hữu của điểm đƣợc

Hội đồng quản trị ấn định hàng năm, quyền lợi đƣợc tích lũy qua các năm. Mức

lƣơng hƣu trả cho NLĐ sẽ phụ thuộc vào số điểm tích lũy trong tổng thời gian

tham gia BHXH của NLĐ và độ tuổi mà họ nghỉ hƣu. Để tính lƣơng hƣu, số

điểm tích lũy đƣợc nhân với giá trị tại thời điểm tính lƣơng hƣu. Số tiền đƣợc

hƣởng tỷ lệ thuận với thu nhập trên tổng số thời gian tham gia BHXH.

Tuy nhiên bên cạnh việc thực hiện bảo hiểm hƣu trí bổ sung nhằm mở

rộng đối tƣợng tham gia, bổ sung thu nhập thì các quỹ hƣu trí bổ sung tiềm ẩn

nguy cơ mất cân đối nếu không có những cải cách thì gánh nặng sẽ thuộc về

ngân sách nhà nƣớc, phải chi trả rất lớn. Chính vì vậy cần nghiên cứu kĩ các

phƣơng pháp đóng hƣởng, công thức tính toán, các thủ tục hồ sơ, quản lý đối

tƣợng và chi trả chế độ...

Có thể thấy, phần lớn các quốc gia đều xây dựng một hệ thống bảo

hiểm hƣu trí đa tầng, trong đó có bảo hiểm hƣu trí bổ dung, thƣờng đƣợc thiết

kế với một số quy định cơ bản nhƣ tham gia tự nguyện; NLĐ và NSDLĐ

cùng đóng vào quỹ; có quy định giới hạn mức đóng, điều kiện đƣợc hƣởng;

mức hƣởng phụ thuộc mức đóng, thời gian đóng của từng ngƣời; mỗi ngƣời

có một tài khoản riêng; mức đóng, mức hƣởng và lãi suất thu đƣợc từ hoạt

động đầu tƣ của quỹ không phải chịu thuế thu nhập; thiết lập mô hình tổ chức

quản lý, giám sát quỹ chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời thụ hƣởng.

36

1.2.3.4. Khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thu

nhập đối với người cao tuổi

Trong những năm trở lại đây, các cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam

thực hiện nhiều cuộc giám sát, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho

ngƣời lao động. Việc tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa quan

trọng trong việc hạn chế những hành vi, quyết định sai phạm của ngƣời sử

dụng lao động mà ảnh hƣởng trực tiếp tới quyền lợi của ngƣời lao động dẫn

đến những khiếu nại về BHXH không đáng có. Nội dung công dân nộp đơn

khiếu nại chủ yếu về việc giải quyết chế độ hƣu trí, tố cáo đối tƣợng khai man

hồ sơ và thời gian công tác để hƣởng chế độ bảo hiểm xã hội. Về bản chất thì

ngƣời nào, cơ quan nào ra quyết định, hành vi hành chính về bảo hiểm xã hội

thì ngƣời đó, cơ quan đó sẽ giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi hành

chính của mình.

Ngoài ra, việc áp dụng các quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội một

cách chồng chéo của các cơ quan, doanh nghiệp đã dẫn tới những sai phạm về

bảo hiểm xã hội. Mặt khác, nhiều trƣờng hợp khiếu nại, tố cáo đã đƣợc các

cấp, các ngành và cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết đúng quy định của pháp

luật nhƣng công dân vẫn cố tình gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan Trung

ƣơng, gây phức tạp tình hình.

37

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Chƣơng 1 đã nghiên cứu và nêu rõ các vấn đề lý luận về bảo hiểm thu

nhập đối với ngƣời cao tuổi thông qua khái niệm, nguyên tắc, vai trò của bảo

hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi, đồng thời nêu một vài đặc điểm về bảo

hiểm hƣu trí ở một số nƣớc trên thế giới để so sánh, đồng thời rút ra đƣợc một

số kinh nghiệp đối với Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Chƣơng I đã làm

sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao

tuổi, đồng thời trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã làm rõ hơn một số nội dung

về nguyên tắc của bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi nhƣ nguyên tắc

nâng cao tuổi hƣởng chế độ hƣu trí khi tuổi thọ của NCT và mức sống đƣợc

nâng cao trong mối quan hệ với việc cân bằng quỹ BHXH.

38

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM

THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI

Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển (kể từ ngày thành lập BHXH

Việt Nam năm 1995), mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhƣng đƣợc sự quan

tâm của Đảng, Nhà nƣớc, Quốc hội, Chính phủ; sự hỗ trợ, phối hợp của các

bộ, ban, ngành ở Trung ƣơng và cấp ủy, chính quyền địa phƣơng; cùng với sự

nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và ngƣời lao động,

ngành BHXH Việt Nam đã đạt đƣợc những bƣớc tiến vững chắc, với những

kết quả khá toàn diện, nổi bật. Theo quy định của pháp luật, nội dung pháp

luật hiện hành về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam gồm:

bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của BHXH bắt buộc, bảo hiểm hƣu trí hàng

tháng của BHXH tự nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ sung.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập tới việc phân tích thực

trạng pháp luật đối với bảo hiểm thu nhập đối với NCT từ các khoản thu nhập

chủ yếu sau khi nghỉ hƣu và các quy định về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi

phạm. Các khoản thu nhập này bao gồm: lƣơng hƣu từ BHXH bắt buộc và tự

nguyện; bảo hiểm hƣu trí bổ sung.

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu nhập

đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện

2.1.1. Đối tượng áp dụng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc

So với Luật BHXH năm 2006, NLĐ thuộc đối tƣợng áp dụng BHXH

bắt buộc theo quy định của Luật BHXH năm 2014 đã đƣợc mở rộng nhiều

hơn, tiếp cận đƣợc hầu hết lực lƣợng lao động là công dân Việt Nam có tham

gia quan hệ lao động. Việc mở rộng đối tƣợng tham gia nhằm nâng cao độ

bao phủ BHXH lên các nhóm đối tƣợng trong xã hội, đảm bảo ASXH bền

39

vững nhất là an sinh tuổi già, phấn đấu đạt mục tiêu mà Đảng và Nhà nƣớc đã

đặt ra đối với BHXH tại Nghị quyết số 15-NQ/TW; Nghị quyết số 21-NQ/TW

“đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH” và

hƣớng tới bao phủ BHXH toàn dân theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW.

Cụ thể các đối tƣợng tham gia bảo hiểm hƣu trí đƣợc quy định tại Điều 2

Khoản 1 Luật BHXH năm 2014 [8].

Các đối tƣợng áp dụng BHXH bắt buộc nêu trên cũng là các đối tƣợng

áp dụng chế độ lƣơng hƣu và họ sẽ đƣợc hƣởng lƣơng hƣu khi đáp ứng đủ các

điều kiện pháp luật quy định.

Hiện nay, Việt Nam đang đứng trƣớc những thách thức to lớn của quá

trình già hóa dân số nhanh chóng. Tuổi thọ trung bình của nƣớc ta đã tăng từ

68,6 tuổi (năm 1999) lên 73,2 tuổi (năm 2014) và dự báo sẽ tăng lên tới 78

tuổi (2030) và 80,4 vào năm 2050. Tính đến hết năm 2017, cả nƣớc có trên 11

triệu ngƣời cao tuổi, chiếm khoảng 11,95% dân số. Trong đó, có khoảng gần

2 triệu ngƣời từ 80 tuổi trở lên. Dự báo, nƣớc ta sẽ chỉ mất không tới 20 năm

để tỷ lệ ngƣời từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% tổng dân số, tức là

chuyển từ giai đoạn “đang già” sang “già” – tốc độ thuộc hàng cao nhất thế

giới, thậm chí đến năm 2038, nhóm cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm đến 20%

tổng dân số [11]. Xu hƣớng này có thể đƣợc thành tựu của chính sách dân số

và điều kiện sống của ngƣời dân. Mặc dù vậy, khi tỷ lệ NCT ngày càng tăng

thì đồng nghĩa với việc gánh nặng về vấn đề chi trả lƣơng hƣu cho ngƣời cao

tuổi ngày càng lớn. Chính điều này đã đặt ra những thách thức lớn đối với

việc đảm bảo an sinh xã hội cho ngƣời cao tuổi. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã

hội đang ở mức rất thấp, số ngƣời đƣợc hƣởng lƣơng hƣu mới chỉ có khoảng

gần 2,3 triệu. Theo BHXH Việt Nam, 70% ngƣời cao tuổi không có tích lũy

vật chất; 2,3% gặp khó khăn, thiếu thốn. Trên 70% ngƣời cao tuổi vẫn tự lao

động kiếm sống cùng với sự hỗ trợ của con cháu và gia đình, chỉ có hơn

40

25,5% sống bằng lƣơng hƣu hay trợ cấp xã hội...[38]. Do vậy, vấn đề mở rộng

diện bao phủ bảo hiểm xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc đảm bảo

nguồn thu nhập chính cho ngƣời lao động khi đã hết độ tuổi lao động.

Có thể thấy cùng với sự phát triển của đất nƣớc, các chính sách BHXH

đã dần đƣợc mở rộng đối tƣợng tham gia vào hệ thống BHXH. Nếu trƣớc

năm 1995, đối tƣợng tham gia và hƣởng chế độ chỉ giới hạn đối với cán bộ,

công nhân, viên chức làm việc trong các khu vực Nhà nƣớc thì đến năm 1995

diện bao phủ đối tƣợng BHXH đã đƣợc mở rộng ra các doanh nghiệp có sử

dụng từ 10 lao động trở lên... Với sự ra đời của Luật BHXH năm 2006, chính

sách BHXH đã đƣợc mở rộng đến các lao động làm việc trong các hộ sản xuất

kinh doanh cá thể, hợp tác xã, tổ hợp tác. Đến năm 2014, Luật BHXH tiếp tục

đƣợc mở rộng đối tƣợng tham gia là NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài

theo hợp đồng; NLĐ làm việc theo HĐLĐ từ 1 tháng đến dƣới 3 tháng và đối

với NLĐ nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam.

Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam về việc mở rộng diện bao

phủ đối tƣợng tham gia BHXH trong thời gian qua có thể thấy số ngƣời tham

gia BHXH gia tăng theo từng năm. Theo báo cáo thẩm tra của Chính phủ về

tình hình thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, tính đến hết năm 2017, tổng

số đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc là 13.591.492 ngƣời, vƣợt kế hoạch đề

ra (theo kế hoạch đề ra là 13.443.392 ngƣời), tăng 5,76% so với năm 2016, tỷ

lệ tăng thấp hơn năm 2016 (6,45%) và mới chỉ bao phủ khoảng 24,8% lực

lƣợng lao động tử 15 tuổi trở lên (28.2% lực lƣợng lao động trong độ tuổi lao

động) [14]. Theo báo cáo kết quả công tác năm 2018 của BHXH Việt Nam,

cả nƣớc có số ngƣời tham gia BHXH bắt buộc là 14,45 triệu ngƣời [29], tăng

khoảng 6,3% so với năm 2017. Bên cạnh đó, năm 2017 số ngƣời về hƣởng

lƣơng hƣu hằng tháng là 144.822 ngƣời (tăng 19,82%) so với năm 2016 và

tăng chủ yếu tập trung nhóm bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên

41

nhằm tránh bị áp dụng công thức tính lƣơng hƣu theo quy định mới của Luật

Bảo hiểm xã hội. Số ngƣời hƣởng BHXH một lần là 666.955 ngƣời tăng

7,62% so với năm 2016 và gấp 4,6 lần số ngƣời hƣởng lƣơng hƣu hằng tháng,

điều này ảnh hƣởng lớn đến nỗ lực mở rộng độ bao phủ và mục tiêu bảo đảm

an sinh xã hội bền vững cho ngƣời lao động.

Tuy Luật BHXH đã bao phủ toàn bộ lực lƣợng lao động nhƣng việc

phát triển đối tƣợng tham gia BHXH trên thực tế lại còn đang rất hạn chế.

Thông qua các số liệu trên thì với tốc độ gia tăng đối tƣợng tham gia BHXH

các năm qua, nếu không có các giải pháp cải thiện thì khó đạt đƣợc chỉ tiêu

đến năm 2020 có khoảng 50% lực lƣợng lao động tham gia BHXH, và với tốc

độ già hóa dân số ở nƣớc ta hiện nay thì trong tƣơng lai sẽ có nhiều ngƣời cao

tuổi không có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho bản thân, tạo nên gánh nặng

cho gia đình và xã hội. Nguyên nhân của sự hạn chế này nhƣ trong Luật

BHXH năm 2014 vẫn chƣa áp dụng BHXH bắt buộc đối với: Chủ hộ kinh

doanh cá thể; ngƣời quản lý doanh nghiệp; ngƣời quản ký, điều hành hợp tác

xã không hƣởng lƣơng; ngƣời lao động làm việc theo chế độ linh hoạt. Hiện

nay có khoảng hơn 5 triệu thuộc nhóm đối tƣợng là chủ hộ kinh doanh cá thể,

trong đó có khoảng 3,7 triệu hộ có đăng ký kinh doanh nhƣng lại không thuộc

diện tham gia BHXH bắt buộc [19]. Nhu cầu tham gia BHXH của nhóm đối

tƣợng này là rất lớn, nên cần phải rà soát, mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH

bắt buộc đối với nhóm đối tƣợng trên. Ngoài ra, tính tuân thủ pháp luật về

BHXH của NSDLĐ, NLĐ chƣa thật sự cao, còn nhiều doanh nghiệp cố tình

trốn đóng hay đóng không đủ số lƣợng ngƣời tham gia BHXH bắt buộc. Cơ

quan BHXH cho biết, trong năm 2018, toàn ngành BHXH đã thanh tra

chuyên ngành tại hơn 8 nghìn đơn vị, doanh nghiệp và kiểm tra tại hơn 9

nghìn đơn vị. Cùng với đó, thanh kiểm ta liên ngành tại hơn 5 ngàn đơn vị

doanh nghiệp và phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về

42

BHXH, BHYT. Qua đó phát hiện 44.460 lao động thuộc đối tƣợng phải tham

gia BHXH, BHYT, BH thất nghiệp nhƣng chƣa tham gia hoặc đóng thiếu thời

gian; 47.393 lao động đóng thiếu mức quy định. Theo Tổng Liên đoàn lao

động Việt Nam, tình trạng doanh nghiệp chƣa tham gia BHXH còn rất lớn. Cả

nƣớc có khoảng tới 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động, nhƣng chỉ có hơn

235.000 doanh nghiệp đóng BHXH cho ngƣời lao động (đạt khoảng 47%).

Nhƣ vậy cũng đồng nghĩa hơn 250 ngàn doanh nghiệp đang hoạt động không

đóng BHXH cho ngƣời lao động [24].

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam về công tác thu BHXH, BHYT,

BHTN sáu tháng đầu năm cho thấy, BHXH các địa phƣơng trong cả nƣớc đã

có nhiều nỗ lực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển đối tƣợng tham gia

BHXH, BHYT... Tính đến ngày 30/6/2019, cả nƣớc phát triển đƣợc 14,483

triệu ngƣời tham gia BHXH bắt buộc, tăng 30.593 ngƣời so với tháng 12/2018.

Thông qua việc khai thác cơ sở dữ liệu do cơ quan thuế cung cấp, riêng trong

tháng 6/2019, cơ quan BHXH các địa phƣơng đã khai thác thêm đƣợc 2.997

đơn vị với 20.881 lao động tham gia BHXH, nâng tổng số sáu tháng đầu năm

có 44.323 đơn vị với 497.453 lao động tham gia BHXH bắt buộc [31].

Ngoài ra, sau khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, trên cơ

sở những quy định mới của Luật và các văn bản hƣớng dẫn, BHXH đã tập

trung hoàn thiện quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết các chế độ BHXH,

trong đó chú trọng đến vấn đề cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng CNTT,

tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tƣợng khi tham gia vào hệ thống BHXH.

Việc áp dụng CNTT vào công tác giải quyết các vấn đề về tham gia BHXH đã

kịp thời xử lý các tình trạng giải quyết chậm, muộn hoặc để tồn đọng hồ sơ

của các các nhân, tổ chức; đảm bảo quyền lợi đối với ngƣời tham gia BHXH,

tăng cƣờng công tác quản lý, nâng cao chất lƣợng phục vụ, đảm bảo quyền lợi

cho ngƣời hƣởng bảo hiểm ngày càng tăng.

43

2.1.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc

Các điều kiện quan trọng để NLĐ đƣợc hƣởng bảo hiểm là tuổi đời và

thời gian đóng bảo hiểm. Về nguyên tắc, bảo hiểm hƣu trí là bảo hiểm dành

cho những ngƣời già, không còn tham gia quan hệ lao động nữa, vì vậy mà

chỉ đến khi hết tuổi lao động, NLĐ mới đƣợc hƣởng chế độ này.

- Đối với NLĐ không bị suy giảm khả năng lao động từ 61%

Đối với NLĐ đủ tuổi và đủ năm tích lũy BHXH thì căn cứ theo Điều 54

Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định nhƣ sau: Về thời gian đóng BHXH để

đƣợc hƣởng lƣơng hƣu, NLĐ khi nghỉ việc phải có thời gian đóng BHXH từ đủ

20 năm trở lên. Về tuổi đời, những NLĐ làm việc trong điều kiện môi trƣờng

bình thƣờng thì độ tuổi đƣợc hƣởng lƣơng hƣu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55

tuổi. Còn đối với những NLĐ nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50

tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc

hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục

do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15

năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên; Riêng NLĐ đủ 20

năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc

khai thác than trong hầm lò đƣợc giảm tối đa 10 tuổi đời so với NLĐ làm việc

trong điều kiện lao động bình thƣờng (từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi);

Điều kiện về tuổi đời của những NLĐ thuộc lực lƣợng vũ trang nhân dân

thấp hơn 05 tuổi ở mỗi trƣờng hợp tƣơng ứng so với những NLĐ trong lực

lƣợng dân sự [8]; đƣợc quy định tại Điều 19 của Nghị định 103/2015/NĐ-CP

quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Công an nhân dân,

Luật Quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng 2016.

Quy định này đƣợc cho là hợp lý bởi so với lực lƣợng dân sự, điều kiện

làm việc của lực lƣợng vũ trang nhân dân vẫn đƣợc xem là khắt khe hơn, đòi

hỏi sự cống hiến, hy sinh của NLĐ cho xã hội nhiều hơn. Quy định nhƣ vậy

cũng thể hiện một phần chế độ ƣu đãi của Nhà nƣớc, của xã hội đối với lực

44

lƣợng lao động đặc biệt này. Tuy nhiên, do NLĐ trong lực lƣợng vũ trang đƣợc

quyền nghỉ hƣu sớm hơn so với NLĐ trong lực lƣợng dân sự nên họ đƣợc nhận

lƣơng hƣu với thời gian dài hơn nhóm lao động trong khu vực sản xuất kinh

doanh. Điều này dẫn đến việc Nhà nƣớc phải bù đắp một số tiền tƣơng đối lớn

mà nguy cơ sẽ gây mất an toàn tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội.

- Đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên

Luật BHXH năm 2014 có nhiều quy định mới về điều kiện hƣởng

lƣơng hƣu đối với những NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên,

nhất là điều kiện về tuổi đời của NLĐ.

Về thời gian đ ng BHXH, cũng giống nhƣ những NLĐ khác, NLĐ suy

giảm khả năng lao động từ 61% trở lên phải đóng BHXH đủ 20 năm trở lên

mới đƣợc xét hƣởng chế độ lƣơng hƣu.

Về tuổi đời và mức suy giảm khả năng lao động, những NLĐ thuộc lực

lƣợng dân sự phải thuộc một trong các trƣờng hợp đƣợc tính theo tỷ lệ quy

định tại Điều 55, Khoản 1 Luật BHXH 2014 [8].

Trƣờng hợp NLĐ thuộc lực lƣợng vũ trang nhân dân phải thuộc một

trong các trƣờng hợp sau đây: (1) Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi trở lên và bị

suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; (2) Bị suy giảm khả năng lao

động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt

nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thƣơng

binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành.

Theo quy định của Luật BHXH 2014, việc đánh giá chính xác mức độ

suy giảm khả năng lao động đối với NLĐ để làm căn cứ hƣởng lƣơng hƣu là vô

cùng quan trọng, là căn cứ giúp cơ quan BHXH xác định và giải quyết chế độ

hƣởng, bảo đảm quyền lợi cho NLĐ theo đúng quy định của pháp luật, đồng

thời giúp Nhà nƣớc quản lý, kiểm soát và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả,

chi trả đúng đối tƣợng, đảm bảo ASXH của đất nƣớc bền vững. Tuy nhiên, số

45

lƣợng NLĐ nghỉ hƣu trƣớc tuổi do suy giảm khả năng lao động đang có chiều

hƣớng gia tăng trong những năm gần đây. Đặc biệt, vào năm 2017 do lo lắng

về sự thay đổi chính sách tính lƣơng hƣu cho ngƣời nghỉ hƣu của năm 2018

thấp hơn so với 2017 nên tỷ lệ ngƣời nghỉ hƣu sớm trong năm 2017 đã tăng

khoảng 10% so với năm 2016 và đƣợc xem là năm có sự gia tăng đột biến của

đối tƣợng nghỉ hƣu sớm do suy giảm khả năng lao động. Vấn đề này đƣợc xem

là một trong những nguyên nhân tác động đến tuổi nghỉ hƣu trung bình thấp ở

Việt Nam, làm ảnh hƣởng đến sự cân đối của quỹ BHXH. Nguyên nhân gây ra

tình trạng trên do quy định chính sách còn chƣa chặt chẽ, công tác giám định y

khoa vẫn còn nhiều bất cập, nhiều trƣờng hợp mặc dù vẫn có thể tham gia lao

động bình thƣờng dù khám định suy giảm KNLĐ là 81%.

Nhìn chung các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện hƣởng chế

độ hƣu trí cơ bản không có gì thay đổi so với các quy định trƣớc, phù hợp với

thực tế và tƣơng đồng với pháp luật của một số nƣớc trên thế giới điểm mới

đối với nội dung này là việc mở rộng điều kiện hưởng lương hưu đối với lao

động nữ hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở cấp xã chỉ cần có

đủ 15 năm đ ng BHXH và đủ 55 tuổi). Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy ở

một số ngành thuộc khu vực hành chính sự nghiệp nhƣ nghiên cứu khoa học,

quản lý nhà nƣớc… tuy đến tuổi nghỉ hƣu nhƣng đa số NLĐ (đặc biệt là lao

động nữ) vẫn đủ sức khỏe để làm việc, đang phát huy đƣợc kinh nghiệm đã có

cho công việc. Một trong số đó sau khi về hƣu vẫn tiếp tục đi làm, vừa hƣởng

lƣơng theo hợp đồng, vừa hƣởng chế độ hƣu trí. Đây có thể là vấn đề cần xem

xét trong thời gian tới để có quy định phù hợp hơn, đáp ứng đƣợc nhu cầu của

đa số NLĐ, tránh lãng phí sức lao động và bội chi quỹ bảo hiểm.

Theo dự báo, đến năm 2050, tỷ lệ NCT ở nƣớc ta là khoảng 27 triệu

ngƣời, chiếm ¼ tổng dân số cả nƣớc. Với độ tuổi nghỉ hƣu nhƣ hiện nay, đang

còn rất nhiều NCT sức khỏe còn tốt và vẫn còn khả năng để làm những công

46

việc phù hợp nhằm mang lại thu nhập cho bản thân, gia đình và đóng góp một

phần lợi ích cho xã hội. Bên cạnh những ngƣời đƣợc hƣởng lƣơng hƣu thì còn có

một số lƣợng không nhỏ NCT không có lƣơng, không có nguồn thu nhập ổn

định nên cần có công việc để tạo ra thu nhập giúp họ đảm bảo đƣợc cuộc sống

và không cảm thấy trở thành gánh nặng cho xã hội. Theo thống kê, cứ khoảng 10

lao động lớn tuổi ở các đô thị thì có đến 7 lao động làm việc trong khu vực phi

chính thức bằng những công việc vất vả, có thu nhập thấp. Mặc dù vậy, để NCT

có thể tìm đƣợc công việc phù hợp với độ tuổi của họ không phải là điều dễ dàng

trong khi các quy định về lao động lớn tuổi ở nƣớc ta vẫn còn khá hạn chế, bên

cạnh đó thị trƣờng lao động dành riêng cho NCT chƣa đƣợc hình thành.

Theo nghiên cứu của Quỹ dân số Liên hợp quốc, 80% dân số sau khi

nghỉ hƣu đều có mong muốn tìm thêm việc làm, nhiều chủ doanh nghiệp cũng

mong muốn tìm kiếm những ngƣời nghỉ hƣu làm việc cho mình vì họ là

những ngƣời có nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên, để NCT tìm đƣợc việc làm là

không phải điều đơn giản, phần lớn công việc họ tìm đƣợc là do các mối quan

hệ quen biết hoặc đƣợc ngƣời thân giới thiệu, chƣa có kênh thông tin tuyển

dụng cho nhóm đối tƣợng lao động này. Trên các kênh thông tin tuyển dụng

chính thức hiện nay, độ tuổi mà các nhà tuyển dụng yêu cầu thƣờng từ 18 tuổi

đến 35 tuổi, từ 40 tuổi trở lên có rất ít sự lựa chọn, còn nhóm từ 60 tuổi trở

lên hầu nhƣ không có việc làm. Trên thế giới có rất nhiều nƣớc thực hiện tốt

các chính sách tạo việc làm cho NCT nhƣ Nhật Bản đã thiết lập các trung tâm

giới thiệu việc làm trên cả nƣớc và chỉ thu khoản phí rất nhỏ từ những ngƣời

đăng ký tìm việc. Nhiệm vụ của các trung tâm này là tìm và giới thiệu những

công việc đơn giản, giờ làm việc ngắn cho những NCT sống trong khu vực và

có trách nhiệm đóng tiền bảo hiểm cho các hội viên. Bên cạnh đó, chính

quyền địa phƣơng nơi NCT sinh sống cũng sẽ thuê lao động cao tuổi làm các

công việc phù hợp nhƣ bảo đảm an toàn cho học sinh trong khung giờ đi và

về, dọn vƣờn, cắt cỏ...

47

Thực tế cho thấy, các kinh nghiệm của lao động cao tuổi rất quý giá,

nhƣng để giải quyết việc làm cho đối tƣợng này vẫn đang là vấn đề khó khăn.

Độ tuổi nghỉ hƣu ở nƣớc ta hiện nay đang tạo cho nhiều ngƣời thói quen dựa

vào lƣơng hƣu mà không muốn tiếp tục làm việc dù sức khỏe và khả năng vẫn

còn; chỉ có một số ít ngƣời tự tìm đến công việc thì lại thiếu thông tin về thị

trƣờng lao động.

Ngoài ra quy định điều kiện về thời gian đóng BHXH để hƣởng lƣơng

hƣu còn tƣơng đối dài, khiến cho một bộ phận NLĐ không đủ khả năng tích

lũy đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu. Trong khi đó điều kiện hƣởng BHXH một

lần đƣợc quy định một cách rộng rãi, mức hƣởng BHXH một lần đƣợc tính

theo số năm đã đóng BHXH, bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lƣơng tháng

đóng BHXH trƣớc năm 2014; bằng 2 tháng mức bình quân tiền lƣơng tháng

đóng BHXH từ năm 2014 trở đi. Trƣờng hợp thời gian đóng BHXH chƣa đủ

1 năm thì mức hƣởng BHXH một lần bằng số tiền đã đóng, mức tối đa bằng 2

tháng mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH. Nhƣ vậy, việc tăng mức

hƣởng để đảm bảo quyền lợi cho ngƣời tham gia, tuy nhiên trong thực tế, điều

này làm cho tỷ lệ ngƣời nhận BHXH một lần đang có xu hƣớng gia tăng và

làm giảm diện bao phủ của BHXH.

2.1.3. Mức lương hưu của bảo hiểm xã hội bắt buộc

Mức lƣơng hƣu hằng tháng của NLĐ đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng lƣơng

hƣu hằng tháng nhân với mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH. Trong

đó, tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu phụ thuộc các yếu tố giới tính, tuổi, chức danh

nghề hoặc công việc, nơi làm việc, thời gian đã đóng BHXH. Cụ thể nhƣ sau:

- Đối với NLĐ không bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên

Luật BHXH năm 2014 chia thành hai giai đoạn với hai cách tính tỷ lệ

% lƣơng hƣu khác nhau (giai đoạn năm 2016 và năm 2017; giai đoạn từ năm

2018 trở đi) [8]. Theo Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, tại Điều 7 của

48

Nghị định này quy định về mức lƣơng hƣu hàng tháng: Mức lƣơng hƣu hàng

tháng của ngƣời lao động đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng

nhân với mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ hƣởng

lƣơng hƣu hàng tháng của ngƣời lao động đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu theo

quy định tại Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 [8].

So với Luật BHXH năm 2006, từ năm 2018 trở đi mức lƣơng hƣu của

NLĐ sẽ thay đổi một cách căn bản theo xu hƣớng NLĐ phải có thời gian

đóng BHXH dài hơn (đến 05 năm) thì mới đƣợc hƣởng đủ mức lƣơng hƣu tối

đa là 75%. Sự thay đổi này chủ yếu xuất phát từ nhu cầu cân đối quỹ BHXH

trên cơ sở tính toán tƣơng đối hợp lý khả năng đáp ứng của NLĐ về thời gian

đóng BHXH để có thể đƣợc hƣởng mức lƣơng hƣu tối đa (tính theo thời gian

đóng BHXH bình quân của những NLĐ hƣởng lƣơng hƣu), tuổi thọ trung

bình của những NLĐ hƣởng lƣơng hƣu, lƣợng tài chính đóng vào quỹ BHXH

và lƣợng tài chính phải chi trả lƣơng hƣu cho NLĐ... Hiện nay, việc điều

chỉnh công thức tính lƣơng hƣu là vấn đề cần thiết để thích ứng đƣợc với tình

trạng già hóa dân số đang diễn ra theo chiều hƣớng gia tăng, tiến tới cân bằng

quan hệ đóng – hƣởng và đảm bảo việc cân đối quỹ BHXH trong tƣơng lai.

Tuy nhiên, năng lực xây dựng phát triển các chính sách còn nhiều hạn chế,

khả năng phân tích dự báo tình trạng còn bất cập; việc khảo sát, đánh giá tình

hình triển khai còn chƣa thật sự phản ánh đúng với thực tiễn đang diễn ra; các

chỉ tiêu thống kê làm cơ sở cho việc phân tích, hoạch định chính sách còn

chƣa đầy đủ, thiếu chính xác, phƣơng pháp tính toán còn thủ công... Những

điều này đã làm ảnh hƣởng tới việc xây dựng công thức tính lƣơng hƣu đảm

bảo tính công bằng cho ngƣời hƣởng.

- Đối với NLĐ nghỉ hƣu trƣớc tuổi do bị suy giảm khả năng lao động

từ 61% trở lên:

Theo Luật BHXH năm 2014, từ ngày 01/01/2016 trở đi, cách tính tỷ lệ

49

% lƣơng hƣu của NLĐ nghỉ hƣu trƣớc tuổi do bị suy giảm khả năng lao động

từ 61% trở lên cũng có sự thay đổi cơ bản. Cụ thể, mức lƣơng hƣu hằng tháng

của những NLĐ này trƣớc hết cũng đƣợc tính nhƣ những ngƣời không bị suy

giảm khả năng lao động nhƣ trên, sau đó cứ mỗi năm NLĐ nghỉ hƣu trƣớc

tuổi quy định bị giảm 2% (theo quy định của Luật BHXH năm 2006 chỉ bị

giảm 1%). Mức lƣơng hƣu thấp nhất của NLĐ bằng mức lƣơng cơ sở, trừ hai

trƣờng hợp: Ngƣời hoạt động không chuyên trách ở xã, phƣờng, thị trấn; Lao

động nữ là ngƣời hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã,

phƣờng, thị trấn tham gia BHXH khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dƣới

20 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi.

Theo nghiên cứu của Viện khoa học BHXH, tuổi nghỉ hƣu trung bình

của ngƣời lao động Việt Nam chỉ đạt 54,29 tuổi. Trong đó, nam giới là 55,51

tuổi thấp hơn tuổi quy định là 4,5 tuổi; nữ giới là 53,08 thấp hơn tuổi quy định

là 1,2 tuổi; điều này đồng nghĩa với việc chƣa đạt ngƣỡng tuổi đƣợc coi là

NCT (nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi) tại Việt Nam [41]. Hiện nay, ngƣời nghỉ hƣu ở

Việt Nam đƣợc nhận lƣơng hƣu trung bình thêm 24,1 năm tính từ khi nghỉ

hƣu, do tuổi nghỉ hƣu sớm (hiện tuổi nghỉ hƣu thực tế là 55,6 tuổi đối với nam

và 52,6 tuổi đối với nữ), thấp hơn tuổi về hƣu theo quy định hiện hành là 55

tuổi đối với nữ và 60 tuổi với nam. Tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu của lao động ở

Việt Nam cao (mức lƣơng tối đa là 75% lƣơng bình quân khi ngƣời lao động

(NLĐ) còn làm việc) trong khi tỷ lệ trung bình ở các nƣớc Châu Âu chỉ 40-

50%. Tuy vậy giá trị tuyệt đối của lƣơng hƣu lại thấp, phổ biến ở mức 3-4

triệu đồng/tháng, hiện nay có hơn 3200 ngƣời có mức lƣơng dƣới 1,3

triệu/ngƣời/tháng. Mức lƣơng trên là quá thấp so với nhu cầu cuộc sống và

giá cả thị trƣờng hiện nay, khiến cho đời sống phần lớn ngƣời nghỉ hƣu gặp

nhiều khó khăn [30]. Do mức đóng và thời gian đóng ít nên nhiều ngƣời

trƣờng hợp lƣơng hƣu thấp hơn cả mức lƣơng cơ sở (Mức lƣơng cơ sở hiện

50

hành là 1.390.000 đồng (Từ ngày 01/07 đến 31/12/2019 dự kiến là 1.490.000

đồng/tháng đây là dự kiến trong tháng 11/2018 tại kỳ họp thứ 6) [9]. Thậm

chí mức lƣơng hƣu thấp nhất Việt Nam hiện nay chỉ 350.000 đồng/tháng, còn

lại đại đa số ngƣời về hƣu nhận mức lƣơng 3-4 triệu đồng/tháng. Mức lƣơng

trên là khá thấp so với nhu cầu cuộc sống nên đời sống phần đông ngƣời cao

tuổi gặp nhiều khó khăn. Điển hình là trƣờng hợp của cô giáo Trƣơng Thị Lan

ở Hà Tĩnh có mức lƣơng 1,3 triệu đồng/tháng sau 37 năm công tác. Mặc dù

37 năm công tác, nhƣng cô Lan mới có 22 năm 8 tháng đóng bảo hiểm xã hội.

Trong đó 17 năm là giáo viên hợp đồng, truy đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc

với mức tiền lƣơng làm căn cứ đóng bảo hiểm ở mức thấp nhất (chỉ từ

120.000 đến 830.000 đồng); 4 năm 8 tháng đƣợc tuyển dụng biên chế, đóng

bảo hiểm xã hội trên mức lƣơng 3,7-4,4 triệu đồng. Bình quân mức tiền lƣơng

tháng đóng bảo hiểm xã hội của cô Lan là 1,8 triệu đồng. Luật BHXH quy

định 15 năm đầu đóng bảo hiểm xã hội đƣợc tính bằng 45%, sau đó thêm một

năm đƣợc tính bằng 3% đối với nữ. Trƣờng hợp cô Lan có 22 năm 8 tháng

đóng bảo hiểm xã hội, tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng là 69%. Do chƣa đủ

số năm công tác để hƣởng lƣơng hƣu mức tối đa, bình quân tiền lƣơng tháng

đóng bảo hiểm xã hội thấp nên lƣơng hƣu của cô Lan chỉ là 1.262.000 đồng

(1,8 triệu x 69%), đƣợc bù thêm 37.000 để thành 1,3 triệu đồng [28].

Bên cạnh đó, theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì mức tiền

lƣơng quy định làm căn cứ đóng BHXH đối với đối tƣợng hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã là mức lƣơng cơ sở. Chính điều này đã dẫn đến sự bất

cập là những ngƣời hoạt động chuyên trách trƣớc đó có mức lƣơng, mức thu

nhập dùng làm căn cứ đóng BHXH cao hơn; nhƣng khi giải quyết việc hƣởng

lƣơng hƣu thì tính theo mức lƣơng của những năm cuối nên đối tƣợng này có

mức lƣơng hƣu thấp. Mặt khác, theo quy định của Luật BHXH năm 2014, cán

51

bộ không chuyên trách cấp xã khi nghỉ hƣu có mức lƣơng hƣu thấp hơn mức

lƣơng cơ sở thì lƣơng hƣu không đƣợc bù đủ bằng mức lƣơng cơ sở, trong khi

các đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc khác đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu

theo quy định có mức lƣơng hƣu hằng tháng thấp nhất bằng mức lƣơng cơ sở.

Đây là vấn đề bất cập trong tổ chức thực hiện, cần sớm sửa đổi, vì hiện tại,

mức lƣơng hƣu của ngƣời hoạt động không chuyên trách là thấp so với mức

lƣơng bình quân chung.

Có thể thấy tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu của NLĐ ở Việt Nam tối đa là 75%

trong khi trung bình ở các nƣớc châu Âu chỉ nằm ở mức 40-50%, nhƣng giá trị

tuyệt đối của lƣơng hƣu ở Việt Nam lại không cao, nguyên nhân là do mức đóng

và thời gian đóng ít nên nhiều ngƣời có mức lƣơng thấp hơn cả mức lƣơng cơ

sở. Tuy nhiên, thực tế trên đã phản ánh đúng nguyên tắc đóng BHXH: Đóng

nhiều hƣởng lƣơng nhiều, đóng ít hƣởng lƣơng ít. Nhiều NLĐ dù có thâm

niên công tác dài nhƣng mức đóng ít nên lƣơng hƣu sẽ thấp, mặc dù Việt

Nam đã thực hiện nhiêu lần điều chỉnh lƣơng hƣu. Nếu không tính thời

điểm điều chỉnh lƣơng hƣu năm 1993 thì từ năm 1995 đến năm 2017, trong

vòng 22 năm ở nƣớc ta đã thực hiện điều chỉnh lƣơng hƣu 16 lần. Từ năm

1995 đến năm 2017, mức điều chỉnh tăng lƣơng hƣu bình quân hằng năm là

11,06%/năm và mức điều chỉnh tăng lƣơng hƣu bình quân cho mỗi lần điều

chỉnh là 15,20% [23].

2.1.4. Điều chỉnh lương hưu của bảo hiểm xã hội bắt buộc

NLĐ thuộc đối tƣợng thực hiện chế độ tiền lƣơng do Nhà nƣớc quy

định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lƣơng này thì tính

bình quân tiền lƣơng tháng của số năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu. Số

năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu phụ thuộc vào thời điểm bắt đầu tham

gia BHXH.

52

Bảng 2.1. Số năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu để tính mức bình quân

Thời gian bắt đầu tham gia BHXH

Số năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu để tính mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH

Trƣớc 01/01/1995

05 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu

Từ ngày 01/01/1995 đến ngày 31/12/2000

06 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu

Từ ngày 01/01/2001 đến ngày 31/12/2006

08 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu

Từ ngày 01/01/2007 đến ngày 31/12/2015 Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2019

10 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu 15 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu

Từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/12/2024

20 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu

Từ ngày 01/01/2025 trở đi

Của toàn bộ thời gian

tiền lƣơng tháng đóng BHXH [26]

Đối với NLĐ tham gia đóng BHXH trƣớc ngày 01/01/2016 thì tiền

lƣơng đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lƣơng tháng

đóng BHXH đƣợc điều chỉnh theo mức lƣơng cơ sở tại thời điểm hƣởng chế

độ (bằng hệ số tiền lương nhân với mức lương tối thiểu chung nay là mức

lương cơ sở tại thời điểm hưởng lương hưu).

NLĐ bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 trở đi thì

việc điều chỉnh tiền lƣơng đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân

tiền lƣơng tháng đóng BHXH đƣợc điều chỉnh tƣơng tự nhƣ NLĐ có toàn bộ

thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lƣơng do ngƣời SDLĐ quyết định (trên

cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ).

NLĐ có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lƣơng do

NSDLĐ quyết định thì tính bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH của toàn

bộ thời gian đóng BHXH. Mức tiền lƣơng đã đóng BHXH đƣợc điều chỉnh

trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ.

NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tƣợng thực hiện chế độ

tiền lƣơng do Nhà nƣớc quy định, vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ

53

tiền lƣơng do NSDLĐ quyết định thì mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng

BHXH để tính lƣơng hƣu là mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH

chung của các thời gian nhƣ đã nêu ở trên.

Từ ngày 01 tháng 7 năm 2019, mức lƣơng hƣu, trợ cấp bảo hiểm xã hội

và trợ cấp hàng tháng của các đối tƣợng quy định tại Điều 1 Thông tƣ

10/2019/TT-BLĐTBXH đƣợc tăng thêm 7,19% so với mức lƣơng hƣu, trợ

cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng của tháng 6 năm 2019

Cụ thể nhƣ sau:

Mức lƣơng hƣu, trợ Mức lƣơng hƣu, trợ

cấp bảo hiểm xã hội, cấp bảo hiểm xã hội, = x 1,0719 trợ cấp hàng tháng từ trợ cấp tháng 6 năm

tháng 7 năm 2019 2019

Các quyền lợi khi tham gia BHXH: Bên cạnh việc đƣợc hƣởng lƣơng

hƣu để đảm bảo cho cuộc sống NCT khi bị hạn chế hoặc mất khả năng lao

động thì NCT tham gia bảo hiểm hƣu trí còn có một số quyền lợi khác nhƣ

đƣợc cấp thẻ BHYT miễn phí do quỹ BHXH chi; Cấp thẻ ATM miễn phí khi

lập thủ tục hƣu; Hƣởng chế độ tuất khi chết; Nhận lƣơng hƣu hàng tháng tại

nơi cƣ trú; Lƣơng hƣu đƣợc điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh họat của

từng thời kỳ; Mức lƣơng hƣu thấp nhất bằng mức lƣơng tối thiểu chung;

Đƣợc nhận trợ cấp 1 lần khi nghỉ hƣu nếu đóng BHXH từ năm 26 trở đi đối

với nữ và năm 31 trở đi đối với nam: Kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và

năm thứ 26 trở đi đối với nữ, cứ mỗi năm đóng BHXH đƣợc tính bằng ½

tháng mức bình quân tiền công, tiền lƣơng đóng BHXH

2.2. Thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu

nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn

thực hiện

Ở Việt Nam, đa phần ngƣời lao động chỉ có lƣơng hƣu của bảo hiểm xã

54

hội là nguồn thu nhập duy nhất về già. Chƣa kể đối với những lao động tự do

thì bảo hiểm hƣu trí khi về già vẫn còn là một thách thức lớn. Trƣớc thực trạng

đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tƣ số 115/2013/TT-BTC về việc hƣớng dẫn

Bảo hiểm hƣu trí và Quỹ hƣu trí tự nguyện áp dụng đối với các doanh nghiệp

bảo hiểm nhân thọ triển khai bảo hiểm hƣu trí tự nguyện tại Việt Nam. Thông

tƣ đƣợc đánh giá là cơ sở hành lang pháp lý quan trọng để các doanh nghiệp

bảo hiểm phát triển loại hình bảo hiểm hƣu trí tự nguyện.

Có thể thấy, bảo hiểm hƣu trí tự nguyện đang là một trong những xu

hƣớng đáng ghi nhận trong nỗ lực đƣa ra một giải pháp tài chính lâu dài, bền

vững. Việc tập trung phát triển một hệ thống an sinh xã hội - hƣu trí đa tầng,

mà cụ thể là bảo hiểm hƣu trí tự nguyện đƣợc xem là một chính sách góp

phần giúp Việt Nam bắt kịp xu thế chung của thế giới.

2.2.1. Đối tượng áp dụng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện

Theo quy định của Luật BHXH, ngƣời tham gia BHXH tự nguyện là

công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tƣợng tham gia

BHXH bắt buộc. Luật BHXH 2014 đã mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH tự

nguyện thông qua việc bỏ quy định khống chế trần tuổi tham gia; thay đổi quy

định mức sàn thu nhập tối thiểu đóng BHXH tự nguyện. Nhà nƣớc đã có

những chính sách hỗ trợ với một số nhóm đối tƣợng khi tham gia BHXH tự

nguyện; linh hoạt phƣơng thức đóng… Tuy nhiên, việc mở rộng đối tƣợng

tham gia BHXH hiện vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Một số nguyên nhân dẫn

đến tình trạng số ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đạt thấp là do nhiều ngƣời

vẫn chƣa hiểu đầy đủ về chính sách BHXH tự nguyện; thậm chí một bộ phận

dân cƣ còn chƣa biết có chính sách BHXH tự nguyện; thu nhập của ngƣời lao

động ở khu vực nông thôn còn thấp, không có sự ổn định; giai đoạn từ năm

2008 đến năm 2015 mức đóng BHXH tự nguyện còn cao so với thu nhập của

đa số ngƣời dân và trƣớc năm 2018 chƣa có sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nƣớc;

55

hạn chế ngay từ trong chính sách (chỉ có 2 chế độ hƣu trí và tử tuất, thời gian

đóng còn dài, chƣa linh hoạt nên không thu hút đƣợc ngƣời dân). Từ ngày

01/01/2018 ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ một phần

mức đóng; tuy nhiên, mức hỗ trợ này còn rất thấp, không thể thúc đẩy tăng

nhanh đối tƣợng tham gia, kể cả khi có hỗ trợ từ Nhà nƣớc; một phần nữa là

ngƣời lao động ở Việt Nam chƣa có thói quen tham gia BHXH khi trẻ để

hƣởng lƣơng hƣu khi tuổi già. Chính quyền một số địa phƣơng cũng chƣa

thực sự quan tâm đến chính sách BHXH tự nguyện; chƣa giao chỉ tiêu phát

triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện trong chỉ tiêu phát triển kinh tế -

xã hội, chƣa tổng kết, đánh giá, kiểm điểm những tồn tại, hạn chế nguyên

nhân chậm phát triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện.

Ngoài ra, việc số ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đạt thấp còn do

mạng lƣới đại lý thu BHXH tự nguyện còn ít, trình độ đại lý thu còn hạn chế,

nên chƣa thuận tiện cho ngƣời lao động tham gia (ngƣời muốn tham gia

BHXH tự nguyện nhƣng không biết tham gia nhƣ thế nào, đóng ở đâu, mức

đóng bao nhiêu, đƣợc hƣởng các quyền lợi gì,...); Sự phối hợp trong tổ chức

thực hiện chính sách BHXH tự nguyện của các cấp, các ngành ở địa phƣơng

với cơ quan BHXH chƣa thƣờng xuyên, thiếu quan tâm, có nơi coi đây là

nhiệm vụ của riêng cơ quan BHXH.

Trong một thời gian khá dài, ngƣời tham gia BHXH tự nguyện chỉ

đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí, tử tuất trong khi nhiều ngƣời dân có nhu cầu tham

gia nhiều chế độ hơn nhƣng chính sách BHXH chƣa đáp ứng đƣợc. Mặt khác,

Chính phủ có quy định về việc hỗ trợ ngƣời dân theo Nghị định số

134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính phủ về việc hỗ trợ tiền đóng

BHXH cho ngƣời tham gia BHXH tự nguyện, nhƣng với mức hỗ trợ này chƣa

thực sự hấp dẫn, chƣa thật sự khuyến khích đƣợc ngƣời dân tham gia BHXH

tự nguyện; trong khi đó thu nhập của đại bộ phận ngƣời nông dân đều thấp,

56

không ổn định và không có sự tích lũy để tham gia BHXH. Theo đánh giá của

Bộ LĐ – TB&XH, qua 09 năm thực hiện, mặc dù tỷ lệ tham gia BHXH tự

nguyện đã cao hơn nhƣng nhƣng con số tham gia vẫn còn rất hạn chế. Năm

2016 số ngƣời tham gia vào BHXH tự nguyện giảm 6% so với năm 2015.

Đến năm 2017, số lƣợng tham gia BHXH tự nguyện là 227.506 ngƣời, tăng

thêm 12% so với năm 2016, chỉ đạt 61% kế hoạch. Tuy nhiên tốc độ tăng vẫn

còn chƣa cao. Tính đến hết năm 2018 cả nƣớc mới có khoảng 270.000 ngƣời

tham gia bảo BHXH tự nguyện trong tổng số khoảng 34 triệu lao động chƣa

tham gia BHXH, tức chiếm tỷ lệ khoảng 0,8%. Đối với lao động Việt Nam di

cƣ sang nƣớc khác làm việc, hiện chúng ta có khoảng 500.000 ngƣời và mỗi

năm tăng khoảng hơn 100 nghìn ngƣời, họ thuộc nhóm đối tƣợng tham gia

BHXH tự nguyện nhƣng cũng mới chỉ có khoảng 6.000 ngƣời tham gia

BHXH [26]. Trong thực tế, mặc dù tốc độ tăng của BHXH tự nguyện bình

quân khá cao nhƣng số tuyệt đối chỉ tăng khoảng 30 nghìn ngƣời/ năm [41].

2.2.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện

Theo quy định tại Điều 73 Luật BHXH năm 2014, NLĐ đƣợc hƣởng

lƣơng hƣu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở

lên. Đối với trƣờng hợp NLĐ đã đủ điều kiện về tuổi theo quy định nhƣng

thời gian đóng BHXH chƣa đủ 20 năm thì đƣợc đóng cho đến khi đủ 20 năm

để hƣởng lƣơng hƣu.

Hiện nay, ngoài mức phí đóng của NLĐ do họ lựa chọn thì phụ thuộc

vào điều kiện phát triển của kinh tế xã hội, khả năng của ngân sách Nhà nƣớc

trong từng thời kỳ, pháp luật sẽ quy định mức hỗ trợ, đối tƣợng hỗ trợ và thời

điểm thực hiện chính sách hỗ trợ đối với NLĐ tham gia BHXH tự nguyện.

Căn cứ Điều 14, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính

phủ về việc hỗ trợ tiền đóng BHXH cho ngƣời tham gia BHXH tự nguyện áp

dụng thực hiện từ ngày 01/01/2018 thì mức hỗ trợ nhƣ sau: Bằng 30% đối với

57

ngƣời tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ nghèo; Bằng 25% đối với ngƣời

tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ cận nghèo; Bằng 10% đối với các đối

tƣợng khác. Thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham gia BHXH tự

nguyện thực tế của mỗi ngƣời nhƣng không quá 10 năm (120 tháng).

Ngoài ra có thể thấy quy định điều kiện nghỉ hƣu nhƣ hiện nay chƣa có

sự công bằng giữa ngƣời tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Luật

BHXH quy định ngƣời tham gia BHXH bắt buộc có thể nghỉ hƣu sớm từ 1

năm đến 5 năm đối với các ngành nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy

hiểm hoặc đặc biệt nguy hiểm, độc hại theo danh mục do Bộ LĐ – TB&XH,

Bộ Y tế ban hành; làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên; làm

việc khai thác than trong hầm lò. Những điều kiện đƣợc nghỉ hƣu sớm, nghỉ

hƣu do bị suy giảm khả năng lao động lại chỉ đƣợc áp dụng đối với BHXH

bắt buộc, chƣa có quy định áp dụng cho chế độ nghỉ hƣu đối với BHXH tự

nguyện; trong khi họ cũng lao động sản xuất ra vật chất cho xã hội, cũng bị

suy giảm khả năng lao động. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ vấn

đề xây dựng chính sách, khả năng dự báo cho những tác động của chính sách.

Bên cạnh đó ngƣời lao động tham gia BHXH tự nguyện tự tạo việc làm, khó

kiểm soát công việc, tính chất công việc thƣờng không ổn định, thu nhập bấp

bênh, rủi ro lao động cao và hoàn toàn tự quyết định theo ý chí của bản thân,

không phụ thuộc vào NSDLĐ nhƣ ngƣời tham gia BHXH bắt buộc. Chính vì

vậy mà một số quy định áp dụng cho ngƣời tham gia BHXH bắt buộc chƣa

thể áp dụng đƣợc đối với ngƣời tham gia BHXH tự nguyện.

2.2.3. Mức lương hưu của bảo hiểm xã hội tự nguyện

Mức đ ng BHXH tự nguyện: Mức đóng BHXH tự nguyện 2019 bằng

22% mức thu nhập do mình lựa chọn (khoản 1 Điều 87 Luật Bảo hiểm xã hội

2014). Mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng thấp nhất bằng mức chuẩn hộ

nghèo của khu vực nông thôn (700.000 đồng) và cao nhất bằng 20 lần mức

58

lƣơng cơ sở (27.800.000 đồng). Do đó, mức đóng BHXH tự nguyện thấp nhất

là 154.000 đồng/tháng và mức đóng cao nhất là 6.116.000 đồng/tháng. Bên

cạnh đó, căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội, khả năng ngân sách

Nhà nƣớc trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tƣợng hỗ trợ và thời

điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho ngƣời lao động khi

tham gia BHXH tự nguyện.

Mức hưởng bảo hiểm hiểm hưu trí tự nguyện: đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng

lƣơng hƣu hàng tháng nhân với mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.[8]

Mức bình quân thu nhập tháng đ ng BHXH: đƣợc tính bằng bình quân

các mức thu nhập tháng đã đóng BHXH của toàn bộ thời gian đóng BHXH.

Trong đó thu nhập tháng đã đóng BHXH đƣợc điều chỉnh trên cơ sở chỉ số

giá sinh hoạt tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ. Trƣờng

hợp ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đóng một lần cho những năm còn thiếu

theo quy định thì mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH đƣợc tính nhƣ

đã nêu ở trên, trong đó thu nhập tháng đã đóng BHXH theo phƣơng thức đóng

một lần cho những năm còn thiếu nhận mức điều chỉnh bằng 1 (một).

Ngoài ra còn một số quy định khác về hƣởng lƣơng hƣu nhƣ hƣởng bảo

hiểm xã hội một lần, bảo lƣu thời gian đóng BHXH, tạm dừng, hƣởng tiếp

lƣơng hƣu, đang hƣởng lƣơng hƣu ra nƣớc ngoài để định cƣ, điều chỉnh tiền

lƣơng, trợ cấp mai táng, trợ cấp tử tuất đƣợc quy định tƣơng tự nhƣ đối với

bảo hiểm hƣu trí bắt buộc.

2.2.4. Điều chỉnh lương hưu của bảo hiểm xã hội tự nguyện

Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là đối tƣợng không thuộc diện áp

dụng của pháp luật về BHXH bắt buộc. Theo khảo sát của BHXH tại một số

địa phƣơng, những ngƣời thuộc đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu

là ngƣời lao động tự do và nông dân, với đặc điểm là thu nhập bấp bênh,

không bền vững.

59

Điều kiện: Theo quy định của Luật BHXH năm 2014, NLĐ đƣợc

hƣởng lƣơng hƣu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng

BHXH trở lên. Đối với NLĐ đã đủ điều kiện về tuổi theo quy định nhƣng thời

gian đóng BHXH chƣa đủ 20 năm thì đƣợc đóng cho đến khi đủ 20 năm để

hƣởng lƣơng hƣu.

Quyền lợi đƣợc hƣởng khi tham gia BHXH tự nguyện:

Cách tính: Mức lƣơng hƣu hàng tháng của ngƣời tham gia BHXH tự

nguyện đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng nhân với mức

bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. Tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng

của ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 3

Nghị định số 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính phủ quy định

chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện.

Theo Thông tƣ số 01/2016/TT-BLĐTBXH ngày 18/2/2016 của Bộ LĐ-

TB&XH quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH

về BHXH tự nguyện, khi tính tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng nếu thời gian

đóng BHXH có tháng lẻ từ 1 tháng đến 6 tháng tính là nửa năm; từ 7 tháng

đến 11 tháng tính là 1 năm.

Quyền lợi: Thông thƣờng độ tuổi nhận bảo hiểm hƣu trí tự nguyện

cũng trùng với bảo hiểm hƣu trí bắt buộc. Chính vì vậy, ngƣời tham gia bảo

hiểm sẽ có thêm thu nhập tính thêm vào lƣơng hƣu để phục vụ cho các chi

tiêu của bản thân. Ngoài ra, phần lợi hƣu trí chƣa chi trả sữ đƣợc tính lãi tích

lũy. Các quyền lợi bảo hiểm sẽ giúp bảo vệ ngƣời tham gia bảo hiểm khỏi những

rủi ro, khó khăn, trong đó bao gồm quyền lợi trợ cấp mai táng và quyền lợi bảo

hiểm tử vong hoặc thƣơng tật toàn bộ vĩnh viễn. Ngƣời cao tuổi khi có bảo

hiểm hƣu trí tự nguyện sẽ không còn phải lo lắng về vấn đề tài chính khi họ bị

hạn chế hoặc mất khả năng lao động. Từ đó ngƣời tham gia bảo hiểm hƣu trí

có thể yên tâm, thoải mái trong cuộc sống. Bên cạnh việc ngƣời lao động

60

đƣợc nhận các quyền lợi cơ bản nhƣ đã nói trên thì họ còn có thể hƣởng thêm

các quyền lợi hỗ trợ, nhƣ quyền lợi bảo hiểm thất nghiệp, quyền lợi chăm sóc

y tế, quyền lợi bảo hiểm bệnh hiểm nghèo....

Với cách tính mức lƣơng khác nhau đƣợc tính toán cẩn thận về thời

gian đóng, mức đóng, chế độ hƣởng... nhằm đảm bảo sự ổn định lâu dài cho

quỹ, hƣớng đến mục đích tốt đẹp của BHXH trƣớc sự biến động về tình hình

kinh tế, xã hội. Việc điều chỉnh lƣơng hƣu đƣợc thực hiện thƣờng xuyên để có

thể bảo đảm quyền lợi cho NCT khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động,

phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.

2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu

nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm hƣu trí bổ sung và thực tiễn thực

hiện

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh trên thế

giới. Hệ thống BHXH, trong đó có bảo hiểm hƣu trí vẫn đang còn nhiều bất

cập nhƣ tỷ lệ ngƣời tham gia còn thấp, gia tăng đối tƣợng hƣởng hƣu tri, mất

cân bằng giữa mức đóng và mức hƣởng..., đòi hỏi cần phải cải cách hệ thống

hƣu trí nhằm đảm bảo sự bền vững của hệ thống. Trên cơ sở những kinh

nghiệm quốc tế về xây dựng mô hình hệ thống hƣu trí bổ dung ở một số quốc

gia, Việt Nam đang xây dựng mở rộng hệ thống hƣu trí thành hệ thống đa

tầng, đa trụ cột, từ đó giảm nguy cơ không bền vững của hệ thống, giảm gánh

nặng của quỹ bảo hiểm xã hội, tăng an sinh xã hội cho ngƣời dân. Tuy nhiên,

hiện nay, ở nƣớc ta, trong số ngƣời dân hết tuổi lao động, chỉ có một bộ phận

tham gia BHXH và đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu thông qua BHXH bắt buộc

hoặc BHXH tự nguyện; một bộ phận khác thuộc nhóm ngƣời cao tuổi không

hƣởng lƣơng hƣu đƣợc nhận trợ cấp xã hội hàng tháng. Bức tranh bảo hiểm

hƣu trí dự báo sẽ thay đổi với sự xuất hiện của hình thức hƣu trí bổ sung.

61

2.3.1. Đối tượng áp dụng bảo hiểm hưu trí bổ sung

Theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật BHXH thì bảo hiểm hƣu trí bổ

sung là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu bổ sung

cho chế độ hƣu trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng

góp của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Nhƣ vậy, đối tƣợng tham

gia bảo hiểm hƣu trí bổ sung là những ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao

động đang tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm các đối tƣợng đƣợc quy định

tại Điều 2 Nghị định 88/2016/NĐ-CP.

Cho tới nay, chƣa có một đánh giá khảo sát nào về nhu cầu của ngƣời

lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp, kể cả khu vực công và ngoài

nhà nƣớc thuộc dân sự, lực lƣợng vũ trang. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, đối

với ngƣời lao động đang tham gia BHXH bắt buộc thuộc khu vực hành chính

sự nghiệp, lực lƣợng vũ trang là những đối tƣợng hƣởng lƣơng từ ngân sách

Nhà nƣớc nên không áp dụng chính sách này; việc thực hiện chính sách đối

với ngƣời lao động (nếu có) sẽ đƣợc quy định riêng. Mặt khác, cần cân nhắc

việc có hay không quy định đối với ngƣời lao động đang tham gia BHXH bắt

buộc đƣợc tự tham gia bảo hiểm hƣu trí bổ sung trong trƣờng hợp ngƣời sử

dụng lao động không tham gia vào loại hình này.

Theo Bộ LĐ-TB&XH, do đây là một chính sách mới nên cần có lộ trình

và bƣớc đi thích hợp, trƣớc mắt chỉ áp dụng đối với ngƣời lao động và ngƣời sử

dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp đang tham gia BHXH bắt buộc

và ngƣời lao động tham gia bảo hiểm hƣu trí bổ sung phải thông qua ngƣời

sử dụng lao động (ngƣời sử dụng lao động đóng một phần hoặc toàn bộ) để

thể hiện trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động cũng nhƣ sự gắn kết trong

quan hệ lao động, khuyến khích ngƣời lao động làm việc lâu dài cho ngƣời

sử dụng lao động.

Theo Nghị định số 88/2016/NĐ-CP về chƣơng trình hƣu trí bổ sung tự

nguyện, bảo hiểm hƣu trí bổ sung tự nguyện là chính sách bảo hiểm xã hội

62

mang tính chất tự nguyện với mục tiêu bổ sung thu nhập cho ngƣời tham gia

quỹ hƣu trí bổ sung tự nguyện khi đến tuổi về hƣu dƣới hình thức tài khoản

hƣu trí các nhân, đƣợc đầu tƣ và tích lũy theo quy định của pháp luật. Quỹ

hƣu trí là quỹ tài chính để thực hiện chƣơng trình hƣu trí, đƣợc hình thành từ

sự đóng góp của NLĐ tham gia quỹ và NSDLĐ. Việc tham gia bảo hiểm hƣu

trí bổ sung tự nguyện của NLĐ và NSDLĐ trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.

Bảo hiểm hƣu trí bổ sung là loại hình bảo hiểm mới đối với NLĐ và NSDLĐ

đang tham gia BHXH bắt buộc. Qua khảo sát của Bộ lao động Thƣơng binh

Xã hội tiến hành vào năm 2010 với 700 doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần

kinh tế cho thấy, 70% doanh nghiệp có mong muốn và sẵn sàng tham gia bảo

hiểm hƣu trí bổ sung [33]. Hiện nay, chƣa có một cuộc khảo sát nào về nhu

cầu của NLĐ trong khu vực hành chính sự nghiệp, khu vực công và ngoài

Nhà nƣớc thuộc dân sự, lực lƣợng vũ trang. Sau một thời gian triển khai, đánh

giá và hoàn thiện, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của đất nƣớc, có thể

mở rộng đối tƣợng đối với bảo hiểm hƣu trí bổ sung.

2.3.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí bổ sung

Điều kiện để người tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung có thể hƣởng

quyền lợi từ quỹ bảo hiểm hƣu trí bổ sung, tùy từng trƣờng hợp cụ thể có thể

xuất phát từ các sự kiện nhƣ [36]: Ngƣời lao động đến tuổi nghỉ hƣu; Ngƣời

lao động chết hoặc bị thƣơng tật toàn bộ và vĩnh viễn; Ngƣời lao động tự

nguyện xin nghỉ việc sau ít nhất 5 năm làm việc cho Công ty; Ngƣời lao động

chuyển hẳn sang làm việc cho một Công ty khác; do Công ty yêu cầu chấm

dứt hợp đồng vì dƣ thừa lao động, thay đổi cơ cấu tổ chức hay do chuyển

nhƣợng đơn vị kinh doanh.

Ngƣời thụ hƣởng quyền lợi từ quỹ bảo hiểm hƣu trí bổ sung, ngoài bản

thân ngƣời lao động tham gia đóng góp quỹ, còn bao gồm cả thân nhân đƣợc

ngƣời lao động chỉ định làm ngƣời thụ hƣởng. Ngƣời lao động đƣợc quyền

63

chỉ định 1 hay nhiều ngƣời thụ hƣởng quyền lợi từ chƣơng trình, tuy nhiên

việc chỉ định ngƣời thụ hƣởng phải theo thứ tự ƣu tiên theo quy định của pháp

luật về thừa kế. Bên cạnh đó, việc chỉ định ngƣời thụ hƣởng chƣơng trình

phải đƣợc thực hiện theo quy định của Công ty, và phải đƣợc cập nhật thƣờng

xuyên nếu có thay đổi.

Phương thức tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung: Theo Nghị định

88/2016/NĐ-CP về bảo hiểm hƣu trí bổ sung quy định ngƣời lao động đƣợc

lựa chọn 2 phƣơng thức tham gia, bao gồm tham gia đóng góp chƣơng trình

hƣu trí thông qua NSDLĐ hoặc tham gia đóng góp trực tiếp vào chƣơng

trình hƣu trí [4].

Đối với phƣơng thức tham gia đóng góp thông qua NSDLĐ, căn cứ vào

yêu cầu quản lý lao động và khả năng tài chính, NSDLĐ có thể xây dựng

chƣơng trình hƣu trí và thực hiện đóng góp vào quỹ hƣu trí cho NLĐ của

doanh nghiệp mình theo phƣơng thức quy định tại Nghị định này. Quy trình

tham gia đóng góp nhƣ sau: NSDLĐ thông báo cho NLĐ về chƣơng trình hƣu

trí; NSDLĐ ký thỏa thuận bằng văn bản với NLĐ về việc tham gia chƣơng

trình hƣu trí theo hƣớng dẫn của Bộ LĐ – TB&XH

Khi tham gia đóng góp trực tiếp, NLĐ, cá nhân tự lựa chọn chƣơng

trình hƣu trí và phƣơng thức đóng góp, thực hiện ký hợp đồng với doanh

nghiệp quản lý quỹ hƣu trí theo mẫu hợp đồng quy định tại Nghị định này,

chuyển tiền đóng góp vào quỹ theo các điều khoản tại hợp đồng. Khoản đóng

góp này đƣợc trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế

thu nhập cá nhân.

2.3.3. Mức hưởng bảo hiểm hưu trí bổ sung

Đây là nội dung quan trọng quy định về điều kiện ngƣời lao động hƣởng

lƣơng hƣu, công thức tính lƣơng hƣu và mức hƣởng hàng tháng. Các quyền lợi

của ngƣời tham gia bảo hiểm đƣợc quy định tại Điều 11 Khoản 1 Nghị định

88/2016/NĐ-CP về bảo hiểm hƣu trí bổ sung [4].

64

Ngƣời tham gia quỹ bảo hiểm hƣu trí bổ sung đƣợc lựa chọn nhận chi

trả theo chế độ hàng tháng hoặc một lần. Nhà nƣớc khuyến khích ngƣời tham

gia nhận chi trả theo chế độ hàng tháng thông qua chính sách thuế quy định

tại Nghị định 88/2016/NĐ-CP và Thông tƣ 86/2017/TT-BTC hƣớng dẫn

thực hiện các quy định về bảo hiểm hƣu trí bổ sung. Thời gian nhận chi trả

hàng tháng khi ngƣời tham gia quỹ đến tuổi nghỉ hƣu tối thiểu là 10 năm.

Mức chi trả hàng tháng khi đến tuổi về hƣu do đối tƣợng nhận chi trả lựa

chọn nhƣng tối đa không vƣợt quá tổng giá trị tài Khoản hƣu trí cá nhân ở

thời điểm nghỉ hƣu chia cho 120 tháng. Sau 10 năm, ngƣời tham gia quỹ có

thể nhận chi trả một lần. Trƣờng hợp mức chi trả hàng tháng đƣợc xác định

theo quy định thấp hơn mức lƣơng cơ sở theo quy định hiện hành thì mức

chi trả hàng tháng tối đa không vƣợt quá mức lƣơng cơ sở cho đến khi tất

toán tài khoản hƣu trí cá nhân.

Qua đó có thể thấy việc tham gia bảo hiểm để đảm bảo thu nhập khi về

hƣu là rất cần thiết. Bên cạnh quỹ BHXH thì ngƣời lao động có thể chọn các

loại hình bảo hiểm hƣu trí của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Quỹ hƣu

trí có vai trò quan trọng trong sự phát triển và ổn định của thị trƣờng tài chính

nhờ quy mô tài sản của quỹ rất lớn, ổn định và dài hạn, mang lại sự cân bằng

và ổn định hơn cho thị trƣờng tài chính và nguồn vốn cho phát triển kinh tế.

2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về khiếu nại, tố cáo

và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi

Trong những năm trở lại đây, các cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam

thực hiện nhiều cuộc giám sát, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho

ngƣời lao động. Việc tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa quan

trọng trong việc hạn chế những hành vi, quyết định sai phạm của ngƣời sử

dụng lao động mà ảnh hƣởng trực tiếp tới quyền lợi của ngƣời lao động dẫn

đến những khiếu nại về BHXH không đáng có. Trong đó nội dung công dân

65

nộp đơn khiếu nại chủ yếu về việc giải quyết chế độ hƣu trí, tố cáo đối tƣợng

khai man hồ sơ và thời gian công tác để hƣởng chế độ bảo hiểm xã hội đƣợc

quy định tại Điều 118 Luật Bảo hiểm Xã hội 2014 có quy định về khiếu nại

về bảo hiểm xã hội [8].

Về bản chất, ngƣời nào, cơ quan nào ra quyết định, hành vi hành chính về

bảo hiểm xã hội thì ngƣời đó, cơ quan đó sẽ giải quyết khiếu nại về quyết định,

hành vi hành chính của mình. Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội

hiện hành thì thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục giải quyết khiếu nại bảo hiểm xã hội ở

mỗi lần sẽ có sự khác nhau.

Theo thống kê của cơ quan bảo hiểm xã hội, một trong những nguyên

nhân dẫn đến số lƣợng đơn khiếu nại, tố cáo nhiều là do việc sửa đổi bổ sung

mới các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, đối tƣợng, ngƣời thụ hƣởng

không hiểu đầy đủ và có những vƣớng mắc trong việc thụ hƣởng chế độ bảo

hiểm xã hội. Ngoài ra, việc áp dụng các quy định của pháp luật BHXH một cách

chồng chéo của các cơ quan, doanh nghiệp đã dẫn tới những sai phạm về

BHXH. Mặt khác, nhiều trƣờng hợp khiếu nại, tố cáo đã đƣợc các cấp, các

ngành và cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết đúng quy định của pháp luật

nhƣng công dân vẫn cố tình gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan Trung ƣơng,

gây phức tạp tình hình.

Tố cáo, giải quyết tố cáo đƣợc quy định tại Điều 120 Luật Bảo hiểm xã

hội 2014: “Việc tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo

hiểm xã hội đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo”. Thẩm

quyền xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả

đƣợc quy định tại Điều 121 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 bao gồm tổng

giám đốc, giám đốc hoặc cấp phó của cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Vấn đề xử lý vi phạm pháp luật đƣợc quy định tại Điều 122 Luật Bảo hiểm xã

hội năm 2014, đối với các hành vi vi phạm, tùy theo tính chất, mức độ vi

66

phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm

hình sự; và phải bồi thƣờng nếu gây ra thiệt hại.

Trong thực tế, công dân đến khiếu nại chủ yếu về việc giải quyết chế độ

hƣu trí; tố cáo đối tƣợng khai man hồ sơ và thời gian công tác để hƣởng chế

độ BHXH; kiến nghị phản ánh việc giải quyết chế độ chế độ thai sản, chế độ

tai nạn lao động, tính lại hệ số lƣơng hƣu, cộng nối thời gian công tác tính

hƣởng BHXH, thanh toán chế độ BHYT.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo là do việc sửa đổi bổ

sung mới các quy định của pháp luật về BHXH, đối tƣợng, ngƣời thụ hƣởng

không hiểu đầy đủ và có những vƣớng mắc trong việc thụ hƣởng chế độ BHXH.

Ngoài ra, nhiều trƣờng hợp khiếu nại, tố cáo đã đƣợc các cấp, các ngành và cơ

quan BHXH giải quyết đúng quy định của pháp luật nhƣng công dân vẫn cố tình

gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan Trung ƣơng, gây phức tạp tình hình.

Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết đơn thƣ

của ngành đã đạt đƣợc nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn còn một số tồn

tại, vƣớng mắc, đặc biệt là vƣớng mắc trong việc xử lý vi phạm hành chính về

đóng BHXH và hạn chế trong kỹ năng thực hiện tiếp công dân, kỹ năng xử lý,

giải quyết đơn thƣ.

Theo đó, BHXH sẽ giải quyết những vấn đề còn vƣớng mắc và trang bị

bổ sung kiến thức, đặc biệt là các kỹ năng mềm để cán bộ thanh tra - kiểm tra

thực hiện tốt nhiệm vụ; lấy ý kiến tham gia hoàn thiện, phát triển phần mềm

nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra nhằm đẩy mạnh hoạt động ứng dụng CNTT

trong lĩnh vực này theo chỉ đạo của lãnh đạo Ngành.

67

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Chƣơng 2 luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Luật

BHXH năm 2014 về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi thông qua bảo

hiểm hƣu trí bắt buộc, bảo hiểm hƣu trí tự nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ

sung với các nội dung: Đối tƣợng áp dụng, điều kiện hƣởng, mức hƣởng và có

những so sánh với các quy định trƣớc đó và phân tích, đánh giá thực trạng,

thực tiễn của các quy định về bảo hiểm xã hội đối với ngƣời cao tuổi. Ngoài

ra còn nêu lên thực trạng pháp luật về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp

luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi. Bên cạnh việc chỉ ra những

điểm mới tiến bộ của chính sách BHXH và những điểm bất cập hạn chế của

chính sách trong các quy định và thực tế thực hiện pháp luật.

68

Chƣơng 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THU NHẬP

ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM

3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam

3.1.1. Khắc phục những bất cập trong quy định hiện hành về bảo

hiểm thu nhập đối với người cao tuổi

Hiện nay, các quy định về chế độ bảo hiểm thu nhập đối với NCT hiện

nay ở Việt Nam vẫn còn những bất cập nhƣ: Chƣa bao phủ hết nhóm đối

tƣợng có nhu cầu và khả năng tham gia BHXH bắt buộc; số ngƣời hƣởng

BHXH một lần tăng nhanh; do tỷ lệ ngƣời cao tuổi ngày càng tăng dẫn đến

việc quỹ hƣu trí có nguy cơ mất cân đối do số ngƣời hƣởng tăng nhanh, số

ngƣời mới tham gia tăng chậm, mức hƣởng lƣơng hƣu cao và thời gian hƣởng

lƣơng hƣu quá dài trong mối tƣơng quan về thời gian đóng và mức đóng. Tuổi

nghỉ hƣu chậm đƣợc sửa đổi để thích ứng với quá trình già hóa dân số và tăng

tuổi thọ. Chính sách BHXH còn nặng về đóng - hƣởng, nhẹ về chia sẻ và thu

hẹp khoảng cách về thu nhập, chƣa tạo niềm tin cho ngƣời tham gia BHXH.

Việc điều chỉnh tiền lƣơng hƣu thƣờng đƣợc tiến hành đồng thời với điều

chỉnh tiền lƣơng khu vực hành chính nhà nƣớc tạo áp lực cho NSNN và quỹ

BHXH. Những bất cập của pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT hiện

hành cần phải sớm khắc phục nhằm đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực

hiện, tạo sự đồng thuận cao của nhân dân.

3.1.2. Bảo đảm phù hợp với nhu cầu và đời sống của người cao tuổi

Với xu thế tuổi thọ ngày càng gia tăng đi kèm theo đó là gánh nặng đối

với quỹ bảo hiểm xã hội, ngân sách nhà nƣớc và toàn xã hội cũng ngày càng

69

lớn. Ngoài ra, ngƣời cao tuổi cũng gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, đầu

tƣ tiền bạc, tài sản để đảm bảo cho cuộc sống của bản thân. Khi độ tuổi của

con ngƣời tăng cao thì đi kèm với đó là sức khỏe, trí tuệ cũng giảm dần dẫn

tới khả năng quản lý và thực hiện đầu tƣ tài sản cũng bị giảm dần đi. Điều này

khiến cho ngƣời nghỉ hƣu khó có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu tài chính để đảm

bảo cuộc sống cho bản thân.

Các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, kết quả khảo sát cho

thấy ngƣời lao động rất quan tâm tới vấn đề làm thế nào để đối mặt với an

sinh hƣu trí trong tƣơng lai. Hiện nay chỉ có khoảng 1/5 số ngƣời lao động

Việt Nam đƣợc bảo đảm sẽ có thu nhập từ tài sản chính khi họ nghỉ hƣu. Vì

vậy việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo

hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam là rất quan trọng, giúp

ngƣời lao động yên tâm bản thân khi nghỉ hƣu sẽ đƣợc bảo đảm cuộc sống

cũng nhƣ sức khỏe của bản thân.

3.1.3. Bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và

Nhà nước trong giai đoạn hiện nay

An sinh xã hội đối với ngƣời cao tuổi là những can thiệp của Nhà nƣớc

và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi

ro cho đối tƣợng này. Trong những năm qua, bảo đảm an sinh xã hội cho

ngƣời cao tuổi ở Việt Nam ngày càng đƣợc hoàn thiện và phát triển. Đến nay,

đã có nhiều chính sách, chƣơng trình dành cho ngƣời cao tuổi theo các nhóm

đối tƣợng khác nhau, nhƣng tập trung nhất là các nhóm chính sách về BHXH,

BHYT và trợ cấp xã hội.

Hơn 30 năm đổi mới đất nƣớc theo đƣờng lối phát triển kinh tế thị

trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, cùng với những thành tựu đạt đƣợc về

kinh tế, nhƣ kinh tế tăng trƣởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo

hƣớng ngày càng hợp lý, thu nhập bình quân đầu ngƣời ngày càng tăng, đời

70

sống nhân dân từng bƣớc đƣợc nâng lên,... Đảng và Nhà nƣớc cũng ban hành

nhiều chính sách nhằm thực hiện tốt quyền đƣợc hƣởng an sinh xã hội của

nhân dân. Trong các kỳ đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam thƣờng xuyên nhấn

mạnh vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội và quyết tâm của Đảng trong

việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. Chăm sóc và phát huy vai trò của

ngƣời cao tuổi trong đời sống xã hội luôn là những định hƣớng chính sách mà

Đảng và Nhà nƣớc quan tâm và thực hiện trong các giai đoạn phát triển của

đất nƣớc. Điều đó đã đƣợc thể hiện rất rõ từ Hiến pháp năm 1946 cho đến

Hiến pháp năm 2013. Ngày 27/09/1995, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng Khóa

VII đã ban hành Chỉ thị số 59-CT/TW, nhấn mạnh: “Ngƣời cao tuổi có công

sinh thành, nuôi dạy con cháu giữ gìn và phát triển giống nòi, giáo dục các thế

hệ thanh niên Việt Nam về nhân cách, phẩm chất và lòng yêu nƣớc; một bộ

phận đông đảo ngƣời cao tuổi Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng

vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” nên việc chăm sóc đời sống vật

chất và tinh thần của ngƣời cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, Nhà nƣớc và

của toàn xã hội. Nhà nƣớc cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã

hội, trong đó có vấn đề chăm sóc ngƣời cao tuổi. Sau hơn 14 năm thực hiện

Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27/01/2010, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ra

Thông báo kết luận số 305 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW về

chăm sóc ngƣời cao tuổi và những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong thời

gian tới. Ngày 28/04/2000, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh

Ngƣời cao tuổi và sau đó là Luật Ngƣời cao tuổi có hiệu lực thi hành từ

01/07/2010. Bên cạnh những định hƣớng chung này, hàng loạt các luật, chính

sách đƣợc thông qua nhằm đảm bảo đời sống kinh tế, đời sống xã hội và chăm

sóc sức khỏe cho ngƣời cao tuổi cũng đã đƣợc ban hành và thực hiện.

Trong những năm gần đây, chính sách bảo hiểm xã hội đã và đang từng

bƣớc khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh

71

xã hội, là sự bảo đảm thay thế, hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngƣời lao

động khi họ gặp rủi ro, khó khăn trong cuộc sống. Ngày 23/5/2018, Ban Chấp

hành Trung ƣơng Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải

cách chính sách BHXH, trong đó xác định một trong những mục tổng quát đó

là hƣớng tới BHXH toàn dân, đồng thời đề ra nhiệm vụ, giải pháp quan trọng

để đạt đƣợc mục tiêu là sửa đổi, bổ sung pháp luật về BHXH liên quan đến

chính sách đóng - hƣởng nhằm khắc phục những bất hợp lý của chế độ hƣu trí,

đảm bảo bền vững quỹ hƣu trí nhƣ về điều kiện thời gian đóng BHXH tối thiểu

để hƣởng chế độ hƣu trí, hạn chế hƣởng BHXH một lần; điều chỉnh lƣơng hƣu

độc lập; điều chỉnh cách tính lƣơng hƣu hài hòa các nguyên tắc đóng, hƣởng,

công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nhƣ vậy, việc hoàn thiện pháp luật

về BHHT là phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về ASXH nói

chung và BHXH nói riêng. Trong thời gian tới, Bộ LĐ-TB&XH tiếp tục đẩy

mạnh thực hiện Luật NCT, Chƣơng trình hành động quốc gia về NCT giai

đoạn 2012-2020. Đánh giá tổng kết việc thực hiện Luật NCT, Chƣơng trình

hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2012-2020. Đề xuất sửa đổi, bổ sung

Luật NCT theo hƣớng tăng cƣờng các giải pháp phát huy vai trò NCT. Đẩy

mạnh xã hội hóa phát triển các dịch vụ công tác xã hội, hỗ trợ NCT sinh sống

tại gia đình, cộng đồng và tăng cƣờng an sinh xã hội đối với NCT ở vùng sâu,

vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu việc sắp

xếp lại các Quỹ hỗ trợ NCT bảo đảm hoạt động hiệu quả, phù hợp với các quy

định pháp luật. Để chăm sóc tốt cho NCT, nhiều ý kiến cho rằng, Nhà nƣớc cần

đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của ngƣời dân, cơ quan,

tổ chức và gia đình về trách nhiệm kính trọng, giúp đỡ, chăm sóc và phát huy

vai trò NCT; Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội công lập theo hƣớng

đẩy mạnh xã hội hóa, tạo lập môi trƣờng thân thiện, hòa nhập giữa các nhóm

đối tƣợng và với xã hội. Đồng thời ƣu tiên đầu tƣ nguồn lực nhà nƣớc và huy

72

động nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản

bảo đảm các nhóm dân số đặc thù nhƣ trẻ em, ngƣời khuyết tật, ngƣời bị di

chứng chiến tranh, đồng bào dân tộc ít ngƣời, ngƣời di cƣ.

3.1.4. Bảo đảm phù hợp với pháp luật quốc tế và các quốc gia trên

thế giới

Theo thông lệ quốc tế, với mô hình bảo hiểm nhƣ ở Việt Nam hiện nay,

để hƣởng lƣơng hƣu trong 20 năm thì thời gian đóng góp bình quân ít nhất 40

năm mới đủ bảo đảm cân đối quỹ hƣu trí. Nhƣng trên thực thế, bình quân

ngƣời tham gia BHXH đóng góp trong 28 năm với tỷ lệ 22% vào quỹ hƣu trí

nhƣng hƣởng lƣơng hƣu bình quân 25 năm với tỷ lệ lên tới 70,1%. Bên cạnh

đó, theo thống kê của BHXH Việt Nam cũng cho thấy, tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu

trên số năm đóng khá cao (cao nhất hƣởng 75% - tƣơng ứng tỷ lệ tích luỹ

2,14% cho mỗi năm đóng góp với nam và 2,5% đối với nữ) và tỷ lệ này cao

hơn nhiều so các nƣớc trong khu vực và trên thế giới, đƣợc ILO đánh giá thuộc

loại “hào phóng” nhất thế giới [40]. Hơn nữa, hiện mức trần đóng BHXH quá

cao bởi mức tiền lƣơng tháng đóng BHXH tối đa bằng 20 lần mức lƣơng cơ sở

(tƣơng đƣơng 6 lần mức tiền lƣơng trung bình tháng đóng BHXH).

Trong khi đó, mức đóng theo khuyến nghị của ILO nên ở mức không

quá 10 lần mức lƣơng cơ sở nhƣ một số quốc gia khác trong khu vực. Do đó,

khoản thu BHXH hiện nay là khoản nợ tiềm ẩn trong tƣơng lai, với sự mất

cân đối đóng - hƣởng; mức đóng càng cao, gánh nặng Nhà nƣớc trong tƣơng

lai càng lớn [18]. Đặc biệt, trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra ở nhiều quốc

gia trên thế giới, để bù đắp thiếu hụt của thị trƣờng lao động, cũng nhƣ góp

phần đảm bảo cân đối quỹ BHXH, điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hƣu là một xu

thế tất yếu đƣợc nhiều nƣớc thực hiện và Việt Nam không nằm ngoài xu thế

đó. Ngoài ra, trƣớc yêu cầu hội nhập quốc tế, NLĐ nƣớc ngoài vào làm việc

tại Việt Nam cũng thuộc đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định,

73

Việt Nam đang chuẩn bị ký kết các hiệp định về BHXH với nhiều quốc gia

nhƣ Đức, Hàn Quốc, tiến tới là Nhật Bản và mục tiêu liên thông BHXH giữa

5 nƣớc: Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan, Việt Nam. Vì vậy, các quy định

về BHXH nói chung, bảo hiểm hƣu trí của Việt Nam nói riêng cần phải sửa

đổi cho phù hợp với các quy định của quốc tế và xu thế hội nhập nhằm đảm

bảo tính khả thi trong việc tổ chức thực hiện.

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập

đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam

3.2.1. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội

Cùng với sự phát triển và hội nhập thế giới của đất nƣớc, BHXH Việt

Nam đã và đang từng bƣớc mở rộng đối tƣợng tham gia vào chế độ bảo hiểm

hƣu trí. Có thể thấy việc mở rộng diện bao phủ tham gia BHXH nói chung và

bảo hiểm hƣu trí nói riêng là mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta, điều này

đƣợc thể hiện rõ thông qua các văn kiện của Đảng qua từng thời kỳ phát triển

BHXH. Tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, mục tiêu mở rộng đối tƣợng tham gia

BHXH tiếp tục đƣợc đặt ra: Phấn đấu đến năm 2021 đạt khoảng 35% lực

lƣợng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và

lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng

1% lực lƣợng lao động trong độ tuổi; giai đoạn đến năm 2025, phấn đấu đạt

khoảng 45% lực lƣợng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông

dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm

khoảng 2,5% lực lƣợng lao động trong độ tuổi; Giai đoạn đến năm 2030, phấn

đấu đạt khoảng 60% lực lƣợng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong

đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện

chiếm khoảng 5% lực lƣợng lao động trong độ tuổi. Để có thể đạt đƣợc những

mục tiêu đã đề ra nhƣ trên cần phải thực hiện những biện pháp sau:

- Xây dựng hệ thống BHXH đa tầng:

Không chỉ là một trong những vấn đề quan trọng, mà "BHXH đa tầng"

74

còn là khái niệm khá mới, đƣợc xem là bƣớc đi căn bản trong cải cách hệ

thống BHXH tại Việt Nam thời gian tới. Thực tế, trên thế giới chƣa có khái

niệm thống nhất về BHXH đa tầng, một số tổ chức quốc tế mới đƣa ra các

khái niệm, nhƣ sàn an sinh xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hệ

thống hƣu trí đa trụ cột của Ngân hàng Thế giới (WB) hoặc hệ thống hƣu trí

đa tầng của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) để khuyến nghị

các quốc gia xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội nói chung và

BHXH nói riêng.

 Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organization for Economic

Cooperation and Development - OECD), mô hình một hệ thống hƣu trí có thể

đƣợc khái quát theo 3 tầng cơ bản đƣợc trình bày dƣới đây [39]:

Tầng 1 – Hệ thống an sinh xã hội: Hệ thống an sinh xã hội đƣợc xây

dựng với mục tiêu tái phân phối thu nhập và đảm bảo thu nhập tối thiểu cho

đại bộ phận dân cƣ.

Tầng 2 – Hệ thống hƣu trí bắt buộc: mục tiêu tiết kiệm, đảm bảo mức

thu nhập khi về hƣu của ngƣời lao động đạt tỷ lệ tƣơng đối so với mức thu

nhập trong giai đoạn làm việc.

Tầng 3 – Hệ thống hƣu trí tự nguyện: mục tiêu bổ sung cho thu nhập

tầng 2 nhằm đảm bảo mức sống cao hơn cho ngƣời cao tuổi, phần đóng góp

mang tính tự nguyện. Hệ thống hƣu trí tự nguyện cho phép có sự tham gia của

lao động tự do.

 Mô hình đa trụ cột do Ngân hàng Thế giới xây dựng (WB)

Nhằm phát triển mô hình hệ thống hƣu trí với mục tiêu đảm bảo an toàn

tài chính cho ngƣời cao tuổi, năm 1994, WB đƣa ra mô hình “mẫu” với 3 trụ cột:

Hƣu trí Bảo hiểm Xã hội (Trụ cột 1), Hƣu trí nghề nghiệp (Trụ cột 2), Tiết kiệm/

Hƣu trí tự nguyện (Trụ cột 3). Năm 2005, WB tiếp tục bổ sung thêm hai trụ cột

vào mô hình: Phúc lợi xã hội (Trụ cột 0) và các chƣơng trình hỗ trợ phi tài chính

75

của Chính phủ (Trụ cột 4). Hiện tại, ngày càng có nhiều quốc gia cải cách hệ

thống hƣu trí hƣớng tới mô hình đa trụ cột do WB xây dựng.

Hiện nay nhiều nƣớc trên thế giới và trong khu vực đã xây dựng hệ

thống BHXH đa tầng nhƣ Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp....

Qua thời gian xây dựng và phát triển, chính sách BHXH Việt Nam

cũng đã từng bƣớc đƣợc bổ sung và hoàn thiện, đáp ứng đƣợc yêu cầu và

điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nƣớc qua từng thời kỳ. Tuy

nhiên cho đến nay, chính sách BHXH nói riêng và hệ thống chính sách an

sinh xã hội nói chung vẫn mang tính đơn lẻ và thiếu tính kết nối, từ đó dẫn

tới hệ quả là trên thực tế vẫn còn nhiều những khoảng trống chính sách mà

ở đó các đối tƣợng ngƣời dân chƣa nhận đƣợc sự bảo vệ, sự đảm bảo an

toàn và an ninh thu nhập từ hệ thống an sinh xã hội của Nhà nƣớc. Trong

76

cải cách chính sách BHXH lần này, hệ thống BHXH đa tầng đƣợc xác

định, những nội hàm của BHXH đa tầng đã đƣợc đề cập khá rõ tại Nghị

quyết 28-NQ/TW. Theo đó, hệ thống hƣớng tới bao gồm ba tầng cơ bản là:

Trợ cấp hƣu trí xã hội; BHXH cơ bản, bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH

tự nguyện; bảo hiểm hƣu trí bổ sung. Cụ thể [48]:

Tầng thứ nhất là tầng trợ cấp hưu trí xã hội: Trong đó, ngân sách nhà

nƣớc cung cấp một khoản bảo đảm về thu nhập cho ngƣời cao tuổi không có

lƣơng hƣu, hoặc BHXH hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn lực

xã hội đóng thêm để các đối tƣợng này có mức hƣởng cao hơn. Đồng thời, vó

lộ trình mở rộng bao phủ bằng cách điều chỉnh giảm dần độ tuổi hƣởng lƣơng

hƣu xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách và lộ trình tăng tuổi nghỉ hƣu

trong từng thời kỳ.

Tầng thứ hai là BHXH cơ bản bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự

nguyện): Trong đó, BHXH bắt buộc (với các chế độ hƣu trí, tử tuất, tai nạn lao

động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của

ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. BHXH tự nguyện (với các chế độ

hƣu trí, tử tuất hiện nay và từng bƣớc mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên

đóng góp của ngƣời lao động không có quan hệ lao động, có sự hỗ trợ thích

đáng từ ngân sách nhà nƣớc cho nông dân, ngƣời nghèo, ngƣời có thu nhập

thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện bao phủ BHXH; từng

bƣớc hình thành văn hóa đóng - hƣởng để tự bảo đảm an sinh cho bản thân.

Tầng thứ ba là tầng Bảo hiểm hưu trí bổ sung: Đây là chế độ hƣu trí tự

nguyện theo nguyên tắc thị trƣờng, tạo điều kiện cho ngƣời sử dụng lao động

và ngƣời lao động có thêm lựa chọn tham gia đóng góp để đƣợc hƣởng mức

lƣơng hƣu cao hơn.

Nhƣ vậy, khi thực hiện hệ thống BHXH đa tầng sẽ giúp ngƣời dân tiếp

cận chính sách BHXH một cách toàn diện, đầy đủ các chế độ và tiến tới mọi

77

ngƣời cao tuổi đều có lƣơng hƣu hoặc từ ngân sách nhà nƣớc, hoặc từ quỹ

BHXH. Không có ngƣời cao tuổi nào bị bỏ rơi lại phía sau.

(1) Kiểm tra, rà soát, mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc đối

với các nhóm chủ hộ kinh doanh, ngƣời quản lý doanh nghiệp, ngƣời điều

hành hợp tác xã không hƣởng tiền lƣơng, NLĐ làm việc theo chế độ linh hoạt.

(2) Xem xét sửa đổi các quy định về điều kiện về tham gia đóng

BHXH để hƣởng bảo hiểm hƣu trí theo hƣớng linh hoạt: Hiện nay điều kiện

tối thiểu về thời gian đóng BHXH để hƣởng lƣơng hƣu còn khá dài (20 năm)

nên một bộ phận NLĐ không đủ điều kiện để tích lũy hoặc tâm lý chờ đợi lâu

dẫn đến muốn nhận BHXH một lần, điều này đồng nghĩa với việc họ rời khỏi

hệ thống và làm giảm diện bao phủ BHXH, ảnh hƣởng đến mục tiêu ASXH

bền vững của Đảng và Nhà nƣớc. Do đó, cần phải xem xét giảm điều kiện tối

thiểu về thời gian đóng BHXH để hƣởng lƣơng hƣu xuống mức thấp hơn (có

thể chỉ cần đóng BHXH 10 năm là đƣợc hƣởng lƣơng hƣu nhƣ kinh nghiệm

của Trung Quốc); đặc biệt là những ngƣời ở độ tuổi trên 40, 50 bắt đầu tham

gia BHXH hoặc có thời gian gián đoạn nhiều năm không có điều kiện tham

gia khi hết tuổi lao động cũng có thể đóng bù để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu. Tuy

nhiên, về công thức tính lƣơng hƣu cần phải điều chỉnh lại để đảm bảo

nguyên tắc đóng hƣởng, công bằng và chia sẻ, nhƣ vậy sẽ có nhiều ngƣời

đƣợc đảm bảo ASXH hơn. Nghị quyết số 28-NQ/TW đã đƣa ra định hƣớng

cải cách về nội dung này nhƣ sau: Sửa đổi điều kiện hƣởng chế độ hƣu trí theo

hƣớng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để đƣợc hƣởng chế độ

hƣu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hƣớng tới còn 10 năm với mức hƣởng đƣợc

tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho NLĐ cao tuổi, có số năm tham gia

bảo hiểm xã hội thấp đƣợc tiếp cận và thụ hƣởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.

Ban hành các Nghị định về BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân

nƣớc ngoài vào làm việc tại Việt Nam; Nghị định quy định về quản lý nợ

78

BHXH, BHTN, BHYT để nhanh chóng kịp thời tổ chức triển khai thực hiện

các quy định mới của pháp luật về BHXH. Đẩy mạnh đàm phán, ký kết các

hiệp định song phƣơng về BHXH. Ngoài ra, cần sớm sửa đổi và hoàn thiện

các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BHXH.

3.2.2. Điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc công bằng,

bình đẳng, chia sẻ và bền vững

Từ ngày 1/1/2018, việc điều chỉnh công thức tính lƣơng hƣu trong Luật

Bảo hiểm xã hội năm 2014 bên cạnh một số ƣu điểm, quy định thay đổi cách

tính lƣơng hƣu đối với lao động nữ đã làm phát sinh sự so sánh giữa lao động

nữ với lao động nam, giữa lao động nữ nghỉ sau với lao động nữ nghỉ trƣớc

thời điểm ngày 1/1/2018, cụ thể: Do quy định công thức tính lƣơng hƣu của

nam đƣợc áp dụng nhƣng có lộ trình thay đổi dần trong thời gian 5 năm còn

của nữ thì áp dụng thay đổi ngay trong năm 2018 nên dẫn đến một số lao

động nữ nghỉ hƣu năm 2018 có tỷ lệ lƣơng hƣu thấp hơn hẳn so với ngƣời có

cùng thời gian đóng bảo hiểm xã hội nghỉ hƣu năm 2017 (từ 1% đến 10%).

Đồng thời, cũng tạo ra tâm lý so sánh giữa lao động nữ và lao động nam (lao

động nam chỉ giảm 1% đến 2%).

Theo số liệu dự báo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, với việc áp dụng

công thức tính lƣơng hƣu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì

số lao động nữ bắt đầu hƣởng lƣơng hƣu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm

2021 sẽ có mức lƣơng hƣu bị thiệt hơn trong mối tƣơng quan với lao động nam

và lần lƣợt là 20,5 nghìn ngƣời vào năm 2018; 22 nghìn ngƣời vào năm 2019;

23,5 nghìn ngƣời vào năm 2020 và 25,1 nghìn ngƣời vào năm 2021 [37].

Mặc dù Luật BHXH năm 2014 đã có lộ trình thay đổi cách tính mức

bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH đối với NLĐ thuộc khu vực nhà

nƣớc theo thời điểm tham gia BHXH nhằm tiến tới sự bình đẳng trong khu

vực công và tƣ (tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 01 năm 2025 trở đi thì tính

79

bình quân của tiền lương tháng đ ng BHXH của toàn bộ thời gian). Tuy

nhiên từ nay đến khi kết thúc lộ trình, sự chênh lệch về mức lƣơng hƣu bình

quân giữa hai khu vực vẫn đang diễn ra, ảnh hƣởng đến tâm lý NLĐ tham gia

BHXH và cản trở việc khuyến khích mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH vì

khu vực tiềm năng để có thể mở rộng thêm ngƣời tham gia BHXH là khu vực

ngoài nhà nƣớc, nhƣng họ lại chƣa đƣợc đối xử công bằng.

Qua đó để thấy đƣợc Nhà nƣớc cần sửa đổi, hoàn thiện cách tính

lƣơng hƣu, bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nƣớc và

khu vực ngoài nhà nƣớc, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hƣởng và

chia sẻ giữa ngƣời có mức lƣơng cao với ngƣời có mức lƣơng thấp để thu

hẹp khoảng cách về thu nhập trong các đối tƣợng hƣởng chế độ bảo hiểm

hƣu trí. Để làm đƣợc điều đó Nhà nƣớc cần điều chỉnh lƣơng hƣu đối với lao

động nữ nghỉ hƣu trong giai đoạn từ 01/01/2018 đến 31/12/2021 theo hƣớng

sẽ đƣợc hỗ trợ phần lƣơng hƣu bị giảm do thay đổi công thức tính lƣơng hƣu

để đảm bảo lộ trình hài hòa giữa lao động nam và lao động nữ, giữa các lao

động nữ nghỉ hƣu trƣớc và sau thời điểm 01/01/2018 theo nguyên tắc điều

chỉnh trực tiếp vào lƣơng hƣu. Mức lƣơng hƣu sau khi điều chỉnh là căn cứ

để tính điều chỉnh lƣơng hƣu ở những lần điều chỉnh lƣơng hƣu tiếp theo.

Mức điều chỉnh bảo đảm nguyên tắc hỗ trợ số tiền chênh lệch lƣơng hƣu nếu

tính theo quy định (hỗ trợ phần bị thiệt từ 1-10% so với ngƣời về hƣu ở năm

2017). Ngoài ra đối việc điều chỉnh lƣơng hƣu theo hƣớng chia sẻ cần điều

chỉnh thỏa đáng đối với đối tƣợng có mức lƣơng hƣu thấp thì mức điều

chỉnh lƣơng hƣu có thể phân theo mức hƣởng lƣơng hƣu của các nhóm đối

tƣợng, trong đó nhóm đối tƣợng có mức lƣơng hƣu thấp đƣợc điều chỉnh với

mức cao hơn nhƣng vẫn đảm bảo nguyên tắc đóng – hƣởng; cần quan tâm

đến ngƣời nghỉ hƣu trƣớc năm 1995.

80

3.2.3. Cần bổ sung các quy định liên quan đến việc tạo điều kiện hỗ

trợ việc làm cho người cao tuổi

Theo Bộ LĐ-TB&XH, độ tuổi nghỉ hƣu đối với nữ hiện nay là 55 tuổi

và năm là 60 tuổi. Từ độ tuổi này trở lên khi tiếp tục tham gia lao động thì

đƣợc coi là lao động cao tuổi. Khi tham gia vào thị trƣờng lao động, họ có

một vị trí đặc biệt. Bởi họ là những ngƣời có kinh nghiệm và các kỹ năng để

làm việc tốt nhất đã đƣợc tích lũy qua thời gian. Bên cạnh đó là ý thức chấp

hành, sự am hiểu pháp luật tốt hơn; đồng thời ít bị tai nạn lao động hơn. Mặt

khác, việc thỏa thuận sử dụng lao động ở nhóm đối tƣợng này cũng dễ dàng

hơn các nhóm lao động khác.

Ở Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nƣớc khác trên thế giới có riêng

chƣơng trình sử dụng ngƣời lao động cao tuổi để hỗ trợ cho ngƣời cao tuổi

tìm việc, hỗ trợ cho chủ lao động là ngƣời cao tuổi. Thậm chí rất nhiều doanh

nghiệp chỉ tuyển ngƣời cao tuổi. Hiện nay, chính phủ Nhật Bản đang đề xuất

một dự thảo hƣớng tới mục tiêu trở thành “Xã hội không tuổi”. Theo dự thảo

mới này, cho phép ngƣời dân trì hoãn thời điểm nghỉ hƣu đến 70 tuổi. Bên

cạnh đó, chính phủ Nhật Bản cũng khuyến khích ngƣời dân tiếp tục lao động

ngay cả khi đã nghỉ hƣu nhƣng sức khỏe vẫn cho phép. Một số nƣớc nhƣ Úc,

Phần Lan, Anh đã thực hiện các chiến dịch thông tin so chính phủ tài trợ quy

mô lớn nhằm khắc phục tình trạng miễn cƣơng của NSDLĐ khi thuê và giữ

lại ngƣời cao tuổi. Ngoài ra, một số chính phủ đã thúc đẩy việc làm cho ngƣời

cao tuổi bằng cách thông qua luật chống phân biệt tuổi tác để nhằm loại bỏ

rào cản về tuổi tác.

Ở Việt Nam, tỷ lệ ngƣời lao động cao tuổi muốn tiếp tục làm việc vẫn

rất cao. Báo cáo Đánh giá tác động của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, có tới 60%

ngƣời cao tuổi trong độ tuổi 60-69 đang làm việc. Nhƣng tỷ lệ làm việc của

nhóm tuổi 70-79 và từ 80 tuổi trở lên giảm rất nhanh so với nhóm tuổi 60-69

81

(chỉ tƣơng ứng là 30% và 11%). Tỷ lệ đi làm ở nam giới (45,3%) cao hơn nữ

giới (34,9%). Có rất nhiều công việc ngƣời cao tuổi làm đƣợc mà không ảnh

hƣởng tới ngƣời trẻ. Họ tham gia làm việc tại các đơn vị, doanh nghiệp từ

cổng vào nhƣ bảo vệ đến những công việc hành chính, phục vụ, kho, quản

lý… Thậm chí, trong nhiều nhà máy của các doanh nghiệp, những dây chuyền

sản xuất có sự tham gia của ngƣời lao động cao tuổi. Dù chỉ làm những công

việc giản đơn, nhƣng họ làm rất tỉ mỉ. Chính vì thế, nhiều doanh nghiệp cho

biết, trong tƣơng lai nhu cầu sử dụng lao động cao tuổi còn có thể nhiều hơn.

3.2.4. Xây dựng các quy định hồi tố áp dụng cho các trường hợp

người tham gia bảo hiểm sau khi đã thực hiện hưởng bảo hiểm một lần

nhưng vẫn có nguyện vọng và nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH để được

hưởng lương hưu

Trong thời gian qua, có nhiều NLĐ sau khi nghỉ việc đã nhận trợ cấp

BHXH một lần thay vì tích lũy thời gian đóng BHXH để đƣợc hƣởng lƣơng

hƣu khi hết tuổi lao động. Sau một thời gian không ít ngƣời đã ân hận, có

mong muốn đƣợc hoàn trả lại song không đƣợc chấp nhận do không có quy

định nào về vấn đề này. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, nhiều trƣờng

hợp sau khi nhận đã liên hệ với cơ quan BHXH xin “trả lại”, thậm chí đề

nghị đƣợc hoàn trả cả lãi, nhƣng đối chiếu theo quy định tại Điều 5 Luật

BHXH 2014 không quy định NLĐ đƣợc trả lại tiền BHXH một lần đã nhận

nên cơ quan BHXH không có cơ sở xem xét cũng nhƣ giải quyết theo đề

nghị của ngƣời dân.

Một trong những lý do khiến NLĐ muốn nhận BHXH một lần là do

điều điều kiện hƣởng đơn giản, chỉ cần nghỉ việc một năm không tiếp tục

tham gia là đƣợc hƣởng. Trong khi đó, điều kiện tối thiểu về thời gian đóng

BHXH để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu dài (20 năm) làm cho một số ngƣời tham

gia nản lòng... Việc giải quyết BHXH một lần tuy tạo điều kiện cho NCT có

82

thêm thu nhập trang trải cuộc sống trƣớc mắt, nhƣng một thời gian sau không

có lƣơng hƣu sẽ khó khăn cho bản thân NCT, gia đình và xã hội. Nhƣ vậy,

“về một cục” đối với NCT sẽ thiệt nhiều hơn lợi.

Hiện nay có không ít ngƣời sau khi hƣởng BHXH một lần có nguyện

vọng muốn xin nộp lại số tiền đã nhận để hƣởng lƣơng hƣu. Tuy nhiên do

hiện nay trong các quy định hiện nay của nƣớc ta chƣa có quy định hồi tố cho

vấn đề này. Do vậy, Nghị quyết 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH đặt

ra yêu cầu phải chặt chẽ hơn trong các quy định hƣởng chế độ BHXH một

lần. Bên cạnh đó, để đảm bảo an sinh xã hội cho ngƣời dân sau khi họ đã

nhận ra lợi ích của chính sách BHXH, cần xem xét, nghiên cứu bổ sung điều

kiện hồi tố đối với những trƣờng hợp đã hƣởng BHXH một lần mà có nhu cầu

tiếp tục tham gia BHXH.

3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam hiện nay

Nhằm đƣa các quy định của pháp luật bảo hiểm hiểm thu nhập đối với

ngƣời cao tuổi đi vào đời sống góp phần giúp cho NCT có thể vƣợt qua những

khó khăn, sống khỏe mạnh, không trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội,

chƣơng này đề xuất một số kiến nghị về việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi Việt Nam hiện nay nhƣ sau:

Thứ nhất, Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc về

BHXH nói chung và chế độ hƣu trí nói riêng. Nâng cao năng lực, hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nƣớc về BHXH, nhất là trong việc hoạch định chiến

lƣợc phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật BHXH. Tăng

cƣờng sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phƣơng trong lãnh đạo, chỉ

đạo tổ chức thực hiện chính sách BHXH, kịp thời xử lý những khó khăn,

vƣớng mắc phát sinh. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về BHXH thông qua

thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tƣ pháp để tăng số ngƣời

83

tham gia BHXH, đi đôi với chú trọng tăng số ngƣời thụ hƣởng quyền lợi

BHXH, đặc biệt là chế độ hƣu trí. Thực hiện bàn giao các chỉ tiêu phát triển

đối tƣợng tham gia BHXH cho các địa phƣơng.

Bên cạnh đó, tăng cƣờng công tác quản lý trong khám giám định y

khoa. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp

luật về BHXH, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các

hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền BHXH. Tăng cƣờng công

tác phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nƣớc

về đầu tƣ, tài chính, thuế, lao động để nâng cao hiệu quả quản lý đối tƣợng

tham gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu

quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn BHXH (Tổng kết, đánh

giá việc thực hiện Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/06/2015 của Quốc

Hội về việc thực hiện chính sách hƣởng BHXH đối với NLĐ). Xây dựng cơ

sở dữ liệu về BHXH, bộ tiêu chí đánh giá mức độ hài lòng của tổ chức, cá

nhân về kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lƣợng cung ứng dịch vụ của cơ

quan BHXH và cơ quan quản lý nhà nƣớc. Rà soát, đánh giá, hoàn thiện mô

hình tài chính quỹ BHXH; xây dựng phƣơng pháp, công cụ tính toán dự báo

cân đối quỹ BHXH phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của Việt

Nam. Nghiên cứu ban hành quy định hƣớng dẫn về thống kê BHXH phục vụ

yêu cầu quản lý quỹ BHXH.

Thức hai, Nâng cao năng lực quản trị và tổ chức thực hiện có hiệu quả

các chính sách BHXH nói chung và chế độ hƣu trí nói riêng. Hoàn thiện bộ

máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH theo hƣớng tinh gọn, hiệu lực, hiệu

quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian nhƣ: Thực hiện sát nhập đầu mối đơn

vị là BHXH cấp quận, huyện; cấp Vụ, Ban, giảm đơn vị cấp phòng; giảm cấp

phó, tinh giản biên chế; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện giao

dịch điện tử đạt 100%, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả

84

các lĩnh vực BHXH, BHTN; giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với

doanh nghiệp đạt ASEAN 4; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc

gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt

công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách;

Tiếp tục hiện đại hoá quản lý BHXH, đầu tƣ phát triển công nghệ và phƣơng

pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH.

Thứ ba, Tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền,

phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm thu nhập phù hợp đối với NCT.

Đây là một trong những hoạt động cần thiết nhằm giúp đỡ cho ngƣời dân, gia

đình NCT hiểu rõ các chính sách, quy định của pháp luật; giúp cho bản thân

NCT có thể tự chăm lo cho bản thân, tham gia các hoạt động lao động sản xuất

khi còn sức khỏe, tích lũy tiền bạc để lo cho mình khi về già và có quyền lựa

chọn cơ sở chăm sóc cho mình trong trƣờng hợp cô đơn, không nơi nƣơng tựa.

85

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Việc xây dựng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác tổ

chức thực hiện BHXH nó chung và Bảo hiểm hƣu trí nói riêng là việc làm vô

cùng quan trọng. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về BHXH cần đƣợc sửa

đổi, phát triển theo hƣớng phù hợp với các chính sách và định hƣớng phát

triển của Đảng và Nhà nƣớc. Nội dung chƣơng 3 đã nêu ra những yêu cầu cần

thiết trong việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nhƣ phải

khắc phục đƣợc những bất cập trong quy định hiện hành, phải phù hợp với

nhu cầu đời sống của NCT... Từ những yêu cầu đó để đƣa ra các kiến nghị

nhằm hoàn thiện và giúp nâng cao công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bảo

hiểm thu nhập đối với NCT ở Việt Nam.

86

KẾT LUẬN

BHXH đối với ngƣời cao tuổi là chính sách quan trọng đối với mỗi

quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các chính sách BHXH ra đời nhằm bảo đảm

cuộc sống, thu nhập cho ngƣời cao tuổi khi họ bị suy giảm hoặc hết khả năng

lao động. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau mà các quốc gia

trên thế giới có những quy định pháp luật khác nhau, tuy nhiên điểm chung là

đều cụ thể hóa các nội dung về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi khi

họ hết khả năng lao động.

Ở Việt Nam, BHXH đƣợc xem là một trong những chính sách lớn

của Đảng và Nhà nƣớc ta luôn đƣợc quan tâm và ghi nhận trong các văn

kiện của Đảng, Hiến pháp qua các thời kỳ. Nghị quyết số 21-NQ/TW

khẳng định“Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội

quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống ASXH”. Pháp luật về bảo hiểm

thu nhập đối với NCT đƣợc cụ thể hóa trong nhiều đạo luật và các bản

pháp luật có liên quan, thông qua các hình thức BHXH bắt buộc, BHXH tự

nguyện và BHXH bổ sung. Các quy định về bảo hiểm thu nhập đối với

NCT về cơ bản là phù hợp với điều kiện cụ thể của ngƣời cao tuổi ở nƣớc

ra và các quy định của pháp luật quốc tế.

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc, sự nỗ lực của

các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phƣơng, các bộ ngành, các tổ chức chính trị

xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và NLĐ; sự hỗ trợ, hợp tác hiệu quả của các

quốc gia, tổ chức quốc tế, chính sách BHXH nói chung, chế độ hƣu trí nói

riêng đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống chính sách pháp luật

ngày càng phát triển, phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội

chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ đảm bảo ASXH, phát triển bền

vững đất nƣớc.

87

Hiện nay, số lƣợng NCT đang ngày càng gia tăng, trong khi đó kinh tế

đất nƣớc còn đang gặp nhiều khó khăn, kinh nghiệm giải quyết tình trạng của

các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền chƣa cao, các dự báo về tình trạng NCT

chƣa thật sự sát với thực tế... làm dẫn đến các quy định của pháp luật về bảo

hiểm thu nhập đối với NCT trong nền kinh tế thị trƣờng không còn phù hợp với

thực tế nhƣ độ bao phủ BHXH còn nhiều hạn chế, tỷ lệ tham gia BHXH và

hƣởng lƣơng hƣu còn thấp, số lƣợng NCT không có nguồn thu nhập còn khá

lớn... gây hạn chế và ảnh hƣởng lớn đến đời sống tinh thần, vật chất của NCT.

Thực trạng này đòi hỏi Đảng và Nhà nƣớc ta cần phải quan tâm, nghiên

cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật BHXH nói chung và bảo

hiểm thu nhập đối với NCT nói riêng cho phù hợp với nhu cầu thực tế, nhằm

chủ động đối phó với những thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội đất nƣớc

trong tiến trình hội nhập, già hóa dân số; cần có một chiến lƣợc BHXH bền

vững, đổi mới, hội nhập. Ngoài ra, cần tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến pháp

luật về bảo hiểm thu nhập đối với NCT trong cộng đồng, ngƣời dân và gia đình

NCT; đẩy mạnh đầu tƣ các cơ sở vật chất; nâng cao năng lực quản lý,...

Để các chính sách BHXH ngày càng đi vào cuộc sống trong đó chính

sách bảo đảm thu nhập cho NCT là cốt lõi, lâu dài đòi hỏi phải có sự nghiên

cứu, tổng kết, đánh giá từ lý luận đến thực tiễn đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ

của các tổ chức quốc tế, bài học kinh nghiệm thành công, thất bại của các

nƣớc trên thế giới để vận dụng sáng tạo vào Việt Nam, đặc biệt việc xây

dựng, hoàn thiện chính sách cần bám sát quan điểm, mục tiêu của Đảng và

Nhà nƣớc về cải cách chính sách BHXH, phấn đấu thực hiện BHXH toàn dân,

đảm bảo quyền công dân về BHXH quy định tại Điều 34 Hiến pháp nƣớc

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Công dân có quyền đƣợc bảo đảm an

sinh xã hội”./.

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Chính trị (2018), Báo cáo số 75-BC/BCT ngày 25/6/2018 về kết quả

05 năm thực hiện Nghị quyết số21-NQ/TW của Bảo hiểm xã hội Việt

Nam, Hà Nội.

2. Bộ Y tế, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2009), Báo cáo tổng quan về chính

sách chăm s c người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam,

Hà Nội.

3. Chính phủ (2015), Trừ trường hợp Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt

Nam, Luật công an nhân dân, Luật cơ yếu c quy định khác. Nghị định

103/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của

Luật Công an nhân dân, Luật Quân nhân chuyên nghiệp và công nhân,

viên chức quốc phòng 2016, Hà Nội.

4. Chính phủ (2016), Nghị định 88/2016/NĐ-CP về chương trình hưu trí bổ

sung tự nguyện, Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Định (Chủ biên) (2012), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Nxb

Đại học kinh tế quốc dân.

6. Vũ Công Giao (2018), “Một số vấn đề lí luận, pháp lí, thực tiễn về quyền của

ngƣời cao tuổi”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 34, (3), tr.43-53.

7. Quốc hôi (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội.

8. Quốc hội (2014), Luật BHXH, Hà Nội.

9. Quốc hội khóa XIV (2018), Quốc hội khóa XIV thông qua Nghị quyết về

dự toán ngân sách nhà nước năm 2019, Hà Nội.

10. Quỹ dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2011), Già hoá dân số và

người cao tuổi Việt Nam - thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị

chính sách, Hà Nội, tháng 7/2011.

89

11. Quỹ dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2011), Già hoá dân số và

người cao tuổi Việt Nam- thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị

chính sách, Hà Nội, tháng 7/2011.

12. Thông tấn xã Việt Nam, Liên hợp quốc kêu gọi các nước tăng cường hỗ

trợ người già.

13. Tổ chức Liên hợp quốc (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền

con người, Tập 2, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

14. Tổng cục Thống kê (2017), LLLĐ từ 15 tuổi trở lên cả nước năm 2017

ước tính 54,8 triệu người; Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động

của cả nước năm 2017 ước tính 48,2 triệu người, Hà Nội.

15. Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và

chăm s c người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb Hồng Đức.

II. Tài liệu Website

16. Báo cáo An sinh xã hội thế giới 2017-2019, “ILO: 4 tỷ ngƣời trên thế

giới chƣa tiếp cận với an sinh xã hội”,

http://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/newsit

ems/WCMS_607477/lang--vi/index.htm

17. Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc ngƣời già,

http://www.gopfp.gov.vn/documents/18/24354/TQCS-NCT.pdf.

18. Bảo đảm quỹ BHXH: Sẽ tăng mức đóng hoặc tăng tuổi nghỉ hƣu?,

https://vov.vn/xa-hoi/bao-dam-quy-bhxh-se-tang-muc-dong-hoac-tang-

tuoi-nghi-huu-607955.vov.

19. Nguyễn Bình, “Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội: Gỡ “nút thắt” về

chính sách”, http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/mo-rong-dien-bao-phu-

bao-hiem-xa-hoi-go-nut-that-ve-chinh-sach-300788.html

20. Bộ Nội vụ (2017), Báo cáo nghiên cứu về chế độ, chính sách đối với

công chức tại Trung Quốc, “Trung Quốc: Cải cách hệ thống hƣu trí”,

http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/trung-quoc-cai-cach-he-thong-

huu-tri-13844.

90

21. Cần bình đẳng tuổi nghỉ hƣu giữa nam và nữ,

http://baobaohiemxahoi.vn/vi/tin-chi-tiet-can-binh-dang-tuoi-nghi-huu-

giua-nam-va-nu-825afff1.aspx.

22. Lê Xuân Cử, Phạm Hải Hƣng (2018), Xu thế già hóa dân số ở nƣớc ta

hiện nay và yêu cầu nâng cao chất lƣợng sống của ngƣời cao tuổi,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/chuong-trinh-

1125/2018/52239/Xu-the-gia-hoa-dan-so-o-nuoc-ta-hien-nay-va.aspx

23. Đảm bảo an sinh xã hội cho Ngƣời cao tuổi: thành tựu và thách thức,

http://www.dansokhhgd.soctrang.gov.vn/index.php/dan-s-va-phat-tri-n/kinh-t-

2/103-d-m-b-o-an-sinh-xa-h-i-cho-ngu-i-cao-tu-i-thanh-t-u-va-thach-th-c.

24. Gần 50 ngàn ngƣời lao động bị „xù‟ tiền BHXH,

https://baomoi.com/gan-50-ngan-nguoi-lao-dong-bi-xu-tien-

bhxh/c/29477217.epi.

25. Lê Hà, “Chính sách hƣu trí – bài toán đau đầu của Chính phủ Pháp,

https://baotintuc.vn/the-gioi/chinh-sach-huu-tri-bai-toan-dau-dau-cua-

chinh-phu-phap-20130309102534518.htm

26. Lý Hà, “Bảo hiểm xã hội cho lao động di cƣ”,

https://www.nhandan.com.vn/cuoituan/item/40004802-bao-hiem-xa-hoi-

cho-lao-dong-di-cu.html.

27. Nguyễn Thế Huệ, “Đảm bảo an sinh xã hội cho Ngƣời cao tuổi: thành tựu và

thách thức”, http://www.dansokhhgd.soctrang.gov.vn/index.php/dan-s-va-phat-

tri-n/kinh-t-2/103-d-m-b-o-an-sinh-xa-h-i-cho-ngu-i-cao-tu-i-thanh-t-u-va-

thach-th-c

28. Đức Hùng, “Vì sao lƣơng hƣu cô giáo mầm non Hà Tĩnh chỉ 1,3 triệu

đồng?”, https://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/vi-sao-luong-huu-co-giao-

mam-non-ha-tinh-chi-1-3-trieu-dong-3663563.html.

29. Thảo Miên, “Tổng thu BHXH hơn 332 nghìn tỷ đồng”,

http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2019-01-

05/tong-thu-bhxh-hon-332-nghin-ty-dong-66291.aspx.

91

30. Nguyễn Văn Minh, “Làm gì để tăng lƣơng cho ngƣời nghỉ hƣu?”,

http://www.qdnd.vn/cung-ban-luan/lam-gi-de-tang-luong-cho-nguoi-

nghi-huu-533191.

31. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội: Gỡ “nút thắt” về chính sách,

http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/mo-rong-dien-bao-phu-bao-hiem-xa-

hoi-go-nut-that-ve-chinh-sach-300788.html.

32. Một số xu hƣớng mới về quyền con ngƣời, http://tks.edu.vn/thong-tin-

khoa-hoc/chi-tiet/120/169.

33. Nhiều doanh nghiệp muốn tham gia Quỹ Hƣu trí bổ sung,

http://kinhtedothi.vn/nhieu-doanh-nghiep-muon-tham-gia-quy-huu-tri-

bo-sung-163037.html.

34. Những nguyên tắc của Liên hợp quốc về ngƣời cao tuổi, 1991,

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Nguyen-tac-cua-Lien-

hop-quoc-ve-nguoi-cao-tuoi-1991-275804.aspx.

35. Phạm Đỗ Nhật Tân (2018), “Bảo hiểm hƣu trí bổ sung theo quy định của

Luật BHXH”, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tap-chi-so/bao-hiem-

huu-tri-bo-sung-theo-quy-dinh-cua-luat-bhxh-211.

36. Tạp chí Tài chính - bảo hiểm, số 3/ 2013,

https://www.baoviet.com.vn/Uploads/Library/Document/Tap%20chi%20

BV/tapchi%20TC-BHso3%202013.pdf.

37. Phạm Thắng, Đỗ Thị Khánh Hỷ, “Báo cáo tổng quan về chính sách chăm

sóc ngƣời già, thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam”,

http://www.gopfp.gov.vn/documents/18/24354/TQCS-NCT.pdf.

38. Kim Thanh, “Tốc độ già hóa dân số Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới”,

http://dangcongsan.vn/xa-hoi/toc-do-gia-hoa-dan-so-viet-nam-thuoc-

hang-cao-nhat-the-gioi-511255.html.

92

39. Trần Phƣơng Thảo, Nguyễn Anh Tuấn (2013), "Hệ thống hƣu trí trên

thếgiới: Kinh nghiệm quốc tế và xu hƣớng cải cách", Tạp chí Tài chính -

Bảo hiểm, (tháng 3),

http://tcnn.vn/news/detail/5420/He_thong_huu_tri_tren_the_gioi_Kinh_

nghiem_quoc_te_va_xu_huong_cai_cachall.html

40. Anh Thu, “Cần sớm điều chỉnh chính sách bảo hiểm xã hội dài hạn”,

https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/36315202-can-som-dieu-chinh-

chinh-sach-bao-hiem-xa-hoi-dai-han.html,%2006/05/2018.

41. Anh Thu, “Thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện”,

https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/37228602-thuc-hien-hieu-qua-

chinh-sach-bao-hiem-xa-hoi-tu-nguyen.html.

42. Lƣu Viết Tĩnh, “Sức khỏe, khả năng lao động của ngƣời cao tuổi và vấn

đề tuổi nghỉ hƣu dƣới góc độ y học”,

http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/suc-khoe-kha-nang-lao-dong-

cua-nguoi-cao-tuoi-va-van-de-tuoi-nghi-huu-duoi-goc-do-y-hoc-18515.

43. Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (2006), “Hiện trạng công tác chăm

sóc ngƣời cao tuổi”, Tạp chí Dân số & Phát triển, (1), www.gopfp.gov.vn.

44. UNFPA (2012), Báo cáo tóm tắt “Già h a trong thế kỷ 21: thành tựu và thách

thức”, tr. 3-5, tại https://www.unfpa.org/sites/default/files/pubpdf/UNFPA-Exec-

Summary_VN.pdf.

45. Nguyễn Thanh Vân (2014), Dân số già nhanh, Việt Nam cần làm gì, Tạp chí

Dân số và Phát triển, 11(152), http://www.gopfp.gov.vn/vi/so-11-152.

46. Tƣờng Vân (2016), “Hệ thống hƣu trí của Cộng hòa Pháp”,

http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tap-chi-so/he-thong-huu-tri-cua-cong-

hoa-phap-291.

93

47. Xây dựng bảo hiểm hƣu trí bổ sung: Hình thành hệ thống hƣu trí đa tầng,

http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/xay-dung-bao-hiem-huu-tri-bo-

sung-hinh-thanh-he-thong-huu-tri-da-tang-9827.

48. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng nhằm đảm bảo an sinh xã

hội lâu dài, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/xay-dung-he-thong-

bhxh-da-tang-nham-dam-bao-an-sinh-xa-hoi-lau-dai-19392.

94