ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ MINH ANH
PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM THU NHËP
§èI VíI NG¦êI CAO TUæI ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ MINH ANH
PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM THU NHËP
§èI VíI NG¦êI CAO TUæI ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ DUNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Minh Anh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO
HIỂM THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI ....................... 8
1.1. Ngƣời cao tuổi và bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ........ 8
1.1.1. Ngƣời cao tuổi ...................................................................................... 8
1.1.2. Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ......................................... 12
1.2. Pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ............... 20
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với
ngƣời cao tuổi ..................................................................................... 20
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với
ngƣời cao tuổi ..................................................................................... 24
1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ..... 27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................ 38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ BẢO HIỂM THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI ......... 39
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu
nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội bắt buộc và
thực tiễn thực hiện ............................................................................. 39
2.1.1. Đối tƣợng áp dụng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc ......... 39
2.1.2. Điều kiện hƣởng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc .......... 44
2.1.3. Mức lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................... 48
2.1.4. Điều chỉnh lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................ 52
2.2. Thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm
thu nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội tự nguyện
và thực tiễn thực hiện ....................................................................... 54
2.2.1. Đối tƣợng áp dụng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện ......... 55
2.2.2. Điều kiện hƣởng bảo hiểm hƣu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện .......... 57
2.2.3. Mức lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội tự nguyện ................................ 58
2.2.4. Điều chỉnh lƣơng hƣu của bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................... 59
2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu
nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm hƣu trí bổ sung và
thực tiễn thực hiện ............................................................................ 61
2.3.1. Đối tƣợng áp dụng bảo hiểm hƣu trí bổ sung .................................... 62
2.3.2. Điều kiện hƣởng bảo hiểm hƣu trí bổ sung ........................................ 63
2.3.3. Mức hƣởng bảo hiểm hƣu trí bổ sung ................................................ 64
2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về khiếu nại, tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với
ngƣời cao tuổi.................................................................................... 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................ 68
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI Ở
VIỆT NAM ........................................................................................ 69
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao
tuổi ở Việt Nam ................................................................................. 69
3.1.1. Khắc phục những bất cập trong quy định hiện hành về bảo hiểm
thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ......................................................... 69
3.1.2. Bảo đảm phù hợp với nhu cầu và đời sống của ngƣời cao tuổi ......... 69
3.1.3. Bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà
nƣớc trong giai đoạn hiện nay ............................................................ 70
3.1.4. Bảo đảm phù hợp với pháp luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới .... 73
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập
đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam .................................................. 74
3.2.1. Mở rộng đối tƣợng tham gia bảo hiểm xã hội .................................... 74
3.2.2. Điều chỉnh cách tính lƣơng hƣu theo nguyên tắc công bằng, bình
đẳng, chia sẻ và bền vững .................................................................. 79
3.2.3. Cần bổ sung các quy định liên quan đến việc tạo điều kiện hỗ trợ
việc làm cho ngƣời cao tuổi ............................................................... 81
3.2.4. Xây dựng các quy định hồi tố áp dụng cho các trƣờng hợp ngƣời
tham gia bảo hiểm sau khi đã thực hiện hƣởng bảo hiểm một lần
nhƣng vẫn có nguyện vọng và nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH
để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu .................................................................. 82
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................. 83
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................ 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
An sinh xã hội ASXH
Bảo hiểm hƣu trí BHHT
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN
Bảo hiểm xã hội BHXH
Bảo hiểm y tế BHYT
Bộ LĐ-TB&XH Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội
Công nghệ thông tin CNTT
Hợp đồng lao động HĐLĐ
Tổ chức Lao động quốc tế ILO
Khả năng lao động KNLĐ
Ngƣời cao tuổi NCT
Ngân sách Nhà nƣớc NSNN
Nghị quyết số 21- NQ/TW
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT
Nghị quyết số 28- NQ/TW
Nghị quyết số ghị quyết số 28-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12 về cải cách chính sách BHXH
NLĐ Ngƣời lao động
NSDLĐ Ngƣời sử dụng lao động
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy luật của tự nhiên, do tác động của quá trình lão hóa khiến con
ngƣời sẽ già yếu, sức khỏe suy giảm, bệnh tật ngày một nhiều... dẫn đến việc
con ngƣời sẽ dần mất đi khả năng lao động và không đảm bảo đƣợc thu nhập.
Trong khi đó nhu cầu sinh hoạt, khám chữa bệnh... không những không giảm
mà còn có chiều hƣớng gia tăng. Nếu không có tiền bạc, của cải tích lũy khi
còn trẻ hoặc không đƣợc sự giúp đỡ từ gia đình, con cái và cộng đồng thì
NCT khó bảo đảm đƣợc cuộc sống hàng ngày. Cùng với đó khoa học - công
nghệ ngày càng phát triển, dẫn tới những thành tựu vƣợt bậc về kinh tế, xã
hội, cùng với những tiến bộ của nền y học làm cho tuổi thọ trung bình của con
ngƣời đã và đang tăng nhanh. Nếu không có thu nhập ổn định khi về già,
ngƣời lao động sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc bảo đảm và duy trì đƣợc
cuộc sống hàng ngày.
Ngƣời cao tuổi là một trong những đối tƣợng yếu thế dễ bị tổn thƣơng
nhất do những thay đổi về sức khỏe thể chất và tinh thần, sự thay đổi về tâm
sinh lý, lao động - thu nhập, quan hệ xã hội và cuộc sống gặp nhiều khó khăn.
Chính vì vậy, việc gia tăng số lƣợng ngƣời cao tuổi sẽ tác động rất lớn đến
các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhƣ hệ thống chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm
hƣu trí, việc làm, tâm lý,... Trƣớc tình trạng đó, các tổ chức quốc tế cũng nhƣ
các quốc gia, từ lâu đã chú trọng ban hành các chính sách pháp luật về BHXH
nhằm giải quyết kịp thời và phù hợp với nhu cầu bảo đảm thu nhập, bảo đảm
cuộc sống cho ngƣời cao tuổi.
Do quá trình lão hóa sâu, sức khỏe ngày càng suy giảm, nên trong các
nhu cầu của NCT thì nhu cầu về thu nhập và bảo đảm đời sống rất quan trọng.
Bảo hiểm thu nhập nắm vai trò vô cùng quan trọng, nó là cơ sở đảm bảo cuộc
1
sống cho NCT khi họ đã hết tuổi lao động với nguồn lƣơng hƣu hàng tháng,
NCT có thu nhập, ổn định cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, giảm bớt gánh
nặng cho gia đình và xã hội. Với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc, các chính sách bảo đảm thu nhập nói chung và chế độ hƣu trí nói riêng
đã từng bƣớc đƣợc xây dựng, ngày càng hoàn thiện, phù hợp với thực tế đất
nƣớc và thông lệ quốc tế, dần khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột
chính của hệ thống ASXH. Đặc biệt với sự ra đời của Luật BHXH năm 2014
với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với các quy định trƣớc đó. Mặc dù vậy,
qua hơn 2 năm triển khai thực hiện, một số quy định về bảo hiểm hƣu trí đã
bộc lộ một số bất cập hạn chế, chƣa tạo đƣợc sự đồng thuận cao của xã hội
nhƣ: Việc mở rộng đối tƣợng tham gia vào hệ thống BHXH còn dƣới mức
tiềm năng, độ bao phủ BHXH tăng chậm; việc thay đổi công thức tính
lƣơng hƣu đối với lao động nữ nghỉ hƣu trong năm 2018 tạo tâm lý so sánh
giữa lao động nữ và lao động nam, giữa lao động nữ nghỉ hƣu trƣớc và sau
ngày 01/01/2018; việc điều chỉnh tăng lƣơng hƣu qua các năm còn phát
sinh nhiều bất cập mới cần nghiên cứu xử lý sớm; lƣơng hƣu của một số
nhóm đối tƣợng thấp hơn mức tiền lƣơng cơ sở, khoảng cách giữa ngƣời có
mức lƣơng hƣu thấp nhất và cao nhất quá xa, ngoài ra còn có sự phân biệt
trong cách tính lƣơng hƣu của khu vực trong và ngoài nhà nƣớc; quỹ hƣu
trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.
Việc đánh giá khách quan, toàn diện về bảo hiểm thu nhập đối với
ngƣời cao tuổi thông qua các loại hình BHXH ở nƣớc ta hiện nay, tìm ra
những bất cập, hạn chế trong thực tiễn triển khai, từ đó đề xuất những giải
pháp góp phần hoàn thiện chính sách trong dài hạn, ổn định dƣ luận xã hội,
tạo lòng tin trong nhân dân đang là mối quan tâm rất lớn của các cơ quan xây
dựng, tổ chức thực hiện chính sách BHXH, chính vì vậy tôi chọn đề tài “Pháp
luật về bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi ở Việt Nam” làm đề tài
luận văn thạc sỹ của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trƣớc đến nay ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về lĩnh vực BHXH, trong đó tác giả đƣợc biết đến một số đề án,
đề tài, cụ thể là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành“Thực trạng đời sống người
nghỉ hưu, những giải pháp về cung cấp các dịch vụ xã hội nhằm cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần người nghỉ hưu” do Tiến sĩ Phạm Đình Thành,
Viện khoa học BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm (năm 2013). Đề tài đã hệ
thống hóa những vấn đề cơ bản về ngƣời cao tuổi, ngƣời nghỉ hƣu và hệ
thống cung cấp dịch vụ xã hội đối với ngƣời cao tuổi, ngƣời nghỉ hƣu. Làm
rõ vị trí, vai trò cũng nhƣ nhu cầu dịch vụ của ngƣời cao tuổi. Qua kết quả
điều tra, khảo sát, đề tài đã phân tích nhu cầu của ngƣời cao tuổi về việc
làm, thu nhập, chăm sóc sức khỏe… Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện chính sách và phát triển các dịch vụ xã hội nhằm cải thiện đời sống cho
ngƣời nghỉ hƣu ở Việt Nam.
- Đề án cải cách chính sách BHXH do Chính phủ giao Bộ LĐ-TB&XH
chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các chuyên gia xây dựng trình Hội
nghị Trung ƣơng 7, khóa XII tháng 5/2018 với nhiều điểm mới tiến bộ mang
tính đột phá, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc
nhƣ xây dựng hệ thống BHXH đa tầng, hƣớng tới phổ cập toàn dân, tuân thủ
nguyên tắc đóng- hƣởng và chia sẻ rủi ro; điều chỉnh tuổi nghỉ hƣu nhằm ứng
phó với quá trình già hóa dân số; rút ngắn điều kiện thời gian tham gia BHXH
để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu; thu hẹp khoảng cách chênh lệch lƣơng hƣu giữa
các nhóm đối tƣợng thông qua không điều chỉnh theo một tỷ lệ đồng đều; đảm
bảo an toàn quỹ BHXH trong dài hạn. Đề án đã đƣợc Hội nghị trung ƣơng 7,
khóa XII thông qua bằng việc ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW...
3
- “Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội”, TS.
Bùi Ngọc Thanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2013
- “Cải cách Luật bảo hiểm xã hội để mở rộng bảo hiểm hưu trí đối với
người cao tuổi”, Đặng Nhƣ Lợi, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12/2014
- Luận văn “Chế độ hưu trí trong quy định Luật Bảo hiểm xã hội. Thực
trạng tại thành phố Hà Nội”, Th.S Nguyễn Thế Mừng, Khoa Luật – ĐHQG
Hà Nội, 2015.
- Luận văn “Chế độ hưu trí theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 ở Việt
Nam hiện nay”, Th.S Hà Thị Hiền, Học viện khoa học xã hội, 2018...
Tất cả những công trình trên đây đều tập trung nghiên cứu về vấn đề
chế độ hƣu trí trong Luật bảo hiểm xã hội các thời kỳ. Tuy nhiên, ở góc độ
nào đó chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và
sâu sắc về vấn đề bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi trong Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2014, từ đó làm cơ sở để hoàn thiện hơn chế độ hƣu trí
trong Luật bảo hiểm xã hội. Nhƣ vậy việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về
bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam” là cần thiết cả về
vấn đề lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi, đánh giá toàn diện thực trạng
quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời
cao tuổi và thực tiễn thực hiện bảo hiểm thu nhập, từ đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm thu nhập đối
4
với ngƣời cao tuổi; pháp luật về bảo hiểm đảm bảo thu nhập đối với NCT của
một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực
hiện các quy định về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở nƣớc ta
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng
nhƣ nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với
ngƣời cao tuổi ở nƣớc ta
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi, cụ thể là các quy
định trong Bộ luật lao động năm 2012, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và các
văn bản hƣớng dẫn. Bên cạnh đó luận văn còn nghiên cứu một số quy định
của ILO và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về bảo hiểm thu nhập
đối với ngƣời cao tuổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bảo hiểm thu nhập đối với NCT trong luận văn đƣợc nghiên cứu dƣới
góc độ pháp lý về các quy định trong các nội dung của BHXH bắt buộc,
BHXH tự nguyện, BHXH bổ sung, các quy định về khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm về bảo hiểm thu nhập đối với NCT;
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi các
quy định của pháp luật BHXH Việt Nam. Bên cạnh đó nhằm làm rõ nội dung
nghiên cứu, luận văn nghiên cứu một số quy định của pháp luật quốc tế và
một số quốc gia trên thế giới có các điểm tiến bộ và đã thực hiện thành công
chế độ bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành, so sánh một số nội dung của pháp luật hiện hành với các quy định
ở các giai đoạn trƣớc đây về vấn đề bảo hiểm thu nhập đối với NCT
5
- Phạm vi nội dung: pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT bao gồm
tổng hợp các quy định của Nhà nƣớc về đối tƣợng tham gia, mức đóng, mức
hƣởng, các chế độ, quyền lợi, các quy định về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với NCT
Luận văn không nghiên cứu về trình tự thủ tục thực hiện bảo hiểm, giải
quyết tranh chấp về bảo hiểm thu nhập đối với NCT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin về duy vật lịch sử và duy
vật biện chứng, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, đặc biệt là các
chính sách về bảo hiểm thu xã hội trong đó có bảo hiểm thu nhập đối với NCT.
- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể của ngành luật
học nhƣ các phƣơng pháp lịch sử, phân tích, so sánh, so sánh luật học, chứng
minh, tổng hợp, dự báo khoa học.
Trong quá trình triển khai thực hiện luận văn, tuỳ từng yêu cầu nội dung
vấn đề đặt ra mà có thể kết hợp đan xen các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi đang là vấn đề đƣợc các quốc
gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Nghiên cứu này góp phần làm rõ một số
vấn đề lý luận về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi. Cụ thể là nêu rõ
hơn khái niệm về bảo hiểm thu nhập đối với NCT, khái niệm pháp luật bảo
hiểm thu nhập đối với NCT; luận giải rõ hơn khái niệm NCT, đặc điểm NCT,
vai trò cùng với các nguyên tắc cơ bản và nội dung điều chỉnh của pháp luật
về bảo hiểm thu nhập đối với NCT.
Làm mới hơn một số khái niệm, luận giải rõ hơn nội dung pháp luật về
bảo hiểm thu nhập, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực
tiễn thực hiên, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu nhập.
6
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao việc thực hiện
các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm thu nhập đối với NCT. Các
kiến nghị có giá trị tham khảo đối với các đề xuất về sửa đổi, bổ sung, hoạch
định chính sách, pháp luật, cũng nhƣ việc thực hiện các quy định của pháp
luật BHXH nói chung, pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm thu nhập đối
với ngƣời cao tuổi
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu
nhập đối với ngƣời cao tuổi.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam.
7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THU NHẬP
ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI
1.1. Ngƣời cao tuổi và bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi
1.1.1. Người cao tuổi
1.1.1.1. Khái niệm
Trên thế giới có rất nhiều thuật ngữ về ngƣời cao tuổi. Thuật ngữ dùng
để mô tả ngƣời cao tuổi khá đa dạng, kể cả trong các tài liệu quốc tế, bao gồm:
“người cao tuổi”, “người già”, “người già cả”, “thế hệ thứ ba” “người c
tuổi” "older persons", "the aged", "the elderly", "the third age", "the ageing").
Tuy nhiên, thuật ngữ “ngƣời cao tuổi” (older person), đƣợc sử dụng trong các
Nghị quyết 47/5 và 48/98 của Đại hội đồng, đƣợc sử dụng rộng rãi nhất và
thƣờng dùng chỉ những ngƣời từ 60 tuổi trở lên [13], sau đó đã đƣợc phổ biến
trong các văn kiện của các tổ chức quốc tế cũng nhƣ các quốc gia trên thế giới.
Trên phƣơng diện y học, ngƣời già là một ngƣời có sự suy thoái tự nhiên
của các tế bào nhƣ: tóc bạc, da nhăn nheo, cơ bắp giảm nhƣng những trí nhớ
dài hạn vẫn ở mức độ cao; các chức năng của cơ thể bị suy giảm nhiều. Theo
định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới (WHO), ngƣời cao tuổi là những ngƣời từ
65 tuổi trở lên [45].
Có thể thấy mặc dù ngƣời cao tuổi là những ngƣời có thể lực bị suy
giảm, nhƣng họ là những ngƣời có tri thức, kỹ năng chuyên môn và kinh
nghiệm sống cao. Đó đƣợc xem là những ƣu điểm cơ bản vẫn đƣợc duy trì và
phát huy bởi ngƣời cao tuổi, điều này đƣợc Liên hợp quốc nhận định: “...
nghiên cứu khoa học đang bác bỏ nhiều định kiến về những suy giảm hiển
nhiên và không thể đảo ngƣợc gắn với tuổi tác” và cần đƣợc “đánh giá cao sự
đóng góp của ngƣời cao tuổi cho xã hội” [34]. Trong Bình luận chung số 6
năm 1995 về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của ngƣời cao tuổi xác
8
định ngƣời cao tuổi từ 60 tuổi [6]. Tuy nhiên trong Công ƣớc số 128 năm
1967 về trợ cấp khuyết tật, trợ cấp tuổi già và trợ cấp ngƣời sống sót
(Convertion C128 – Invalidity, Old-Age and Survivor‟ Benefits Convention,
1967), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) lại xác định tuổi già là 65 [44]. Cụ
thể tại Điều 15 của Công ƣớc số 128 năm 1967: “Độ tuổi quy định không
quá 65. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền có thể quy định một độ tuổi
cao hơn, theo các chỉ tiêu về nhân khẩu, kinh tế và xã hội thích hợp đƣợc
số liệu thống kê chứng minh”.
Ngƣời cao tuổi là những ngƣời nằm trong độ tuổi đƣợc pháp luật về
ngƣời cao tuổi xác định. Việc xác định độ tuổi ngƣời cao tuổi còn phụ thuộc
vào điều kiện phát triển của từng quốc gia. Đối với các nƣớc phát triển, do
điều kiện phúc lợi xã hội cũng nhƣ sự phát triển của y học, thêm vào đó là
những lợi thế khác về môi trƣờng xã hội nên ngƣời dân có thể có sức khỏe tốt
hơn và vẫn có thể đóng góp cho xã hội kể cả trong độ tuổi khá cao. Còn đối
với các nƣớc đang phát triển thì độ tuổi đƣợc xem là “ngƣời cao tuổi” đang có
xu hƣớng cao hơn các nƣớc phát triển. Chẳng hạn, ở nhiều nƣớc châu Âu quy
định ngƣời cao tuổi là những ngƣời từ 65 tuổi trở lên; trong khi đó ở một số
nƣớc châu Phi đƣợc xem là ngƣời cao tuổi chỉ vào khoảng 50 tuổi trở lên.
Còn ở các nƣớc đang phát triển ví dụ nhƣ Việt Nam, Trung Quốc,...quy định
ngƣời cao tuổi từ 60 tuổi trở lên.
Ở hầu hết các nƣớc phát triển, từ 65 tuổi trở lên đƣợc coi là ngƣời cao
tuổi. Nhƣng đối với nhiều nƣớc đang phát triển thì mốc tuổi này lại không
phù hợp. Hiện tại chƣa có một tiêu chuẩn thống nhất về độ tuổi của ngƣời cao
tuổi đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, Tổ chức Liên hợp
quốc chấp nhận mốc để các định dân số già là từ 60 tuổi trở lên, trong đó phân
thành ba nhóm: Sơ lão (từ 60 đến 69 tuổi), trung lão (từ 70 đến 79 tuổi) và đại
lão (từ 80 tuổi trở lên) [2].
9
Ở Việt Nam, khái niệm về ngƣời cao tuổi đƣợc sử dụng và hiểu khác
nhau giữa các ngành. Cụ thể, trong Bộ luật lao động năm 2012 sử dụng thuật
ngữ “ngƣời lao động cao tuổi”, theo đó ngƣời lao động cao tuổi là ngƣời tiếp
tục lao động sau độ tuổi 60 đối với nam và sau 55 tuổi đối với nữ [7]. Còn
theo phạm vi luật chuyên ngành về ngƣời cao tuổi đƣợc pháp luật Việt Nam
quy định tại Luật Ngƣời cao tuổi năm 2009. Theo đó, khái niệm của ngƣời
cao tuổi đƣợc quy định tại Điều 2: “Ngƣời cao tuổi là công dân Việt Nam từ
đủ 60 tuổi trở lên”.
Nhƣ vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì ngƣời cao tuổi là
ngƣời có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt tôn giáo, giới tính, dân tộc, thành
phần xã hội,... và đủ 60 tuổi trở lên. Việc sử dụng thuật ngữ và mốc tuổi này,
Luật Ngƣời cao tuổi năm 2009 về cơ bản phù hợp với quy định của Tổ chức
Liên hợp quốc và các đặc điểm sinh học, quá trình lão hóa, tuổi thọ và đời sống
của ngƣời Việt Nam hiện nay, là cơ sở về mặt lý luận để Đảng và Nhà nƣớc định
hƣớng và đề ra các chính sách về bảo hiểm xã hội phù hợp hợp nhằm bảo về
quyền lợi cho ngƣời cao tuổi. Với mục đích trên, khái niệm “ngƣời cao tuổi”
trong Luật Ngƣời cao tuổi năm 2009 khác với các khái niệm trong các ngành
luật khác nhƣ ngƣời lao động cao tuổi, ngƣời già, ngƣời già yếu,...
1.1.1.2. Đặc điểm của người cao tuổi
Xét về phương diện y học, người cao tuổi là người bước vào giai đoạn
lão hóa sâu. Thể chất của con ngƣời trong giai đoạn này sẽ bị suy giảm, hạn
chế về các chức năng, nguy cơ đau ốm cũng theo đó mà ngày càng tăng, phần
lớn tình trạng suy giảm này của ngƣời cao tuổi phụ thuộc nhiều vào tuổi tác,
tuổi càng cao thì thể trạng của ngƣời cao tuổi sẽ càng kém đi, tỷ lệ mắc các
bệnh càng lớn. Hiện nay, ngƣời cao tuổi bên cạnh phải chịu các bệnh do quá
trình lão hóa gây ra thì NCT cũng đang phải chịu các bệnh phát sinh do thay
đổi lối sống dƣới tác động của sự phát triển kinh tế xã hội. Qua nghiên cứu
10
cho thấy, NCT thƣờng mắc các bệnh về xƣơng khớp, tim mạch, huyết áp...,
các bệnh phát sinh do thay đổi lối sống nhƣ tinh thần bị sa sút, trầm cảm; và
khi NCT mắc bệnh thì việc điều trị cũng lâu hơn các nhóm tuổi khác. Bên
cạnh đó, khi tuổi của NCT ngày càng tăng thì nguy cơ khuyết tật cùng sẽ
tăng, trong đó khuyết tật thƣờng thấy nhất ở NCT đó là thị lực bị giảm hoặc bị
mất thị lực, thính lực cũng bị giảm rất nhiều. Tình trạng này có thể làm cho
NCT cảm thấy tự ti và giảm đi sự giao tiếp xã hội.
Ở Việt Nam, thể chất của NCT vẫn chƣa thật sự đƣợc khỏe mạnh nhƣ
mong muốn. Theo báo cáo năm 2006 về việc đánh giá về sức khỏe của bản
thân ngƣời cao tuổi thì khá tốt mới dừng lại 5,7%, còn đánh giá sức khỏe kém
lên đến 22,9% [43]. Tuổi thọ trung bình của NCT Việt Nam khá cao tuy nhiên
sức khỏe lại khá thấp, có khoảng 67,2% NCT có tình trạng sức khỏe yếu và
rất yếu, có nhiều ngƣời mắc bệnh nan y... Khoảng 95% NCT có bệnh, chủ yếu
là các bệnh mãn tính không lây truyền; trung bình 1 ngƣời cao tuổi Việt Nam
mắc 3 bệnh [22].
Xét về phương diện tâm lý, người cao tuổi thường c tâm lý không ổn
định. Bên cạnh việc chăm sóc thể chất cho ngƣời cao tuổi thì vấn đề về tâm lý
ngƣời cao tuổi cũng cần đƣợc quan tâm chú ý. Khi tuổi càng cao, ngƣời cao
tuổi càng suy nghĩ nhiều, từ đó mang theo những nỗi lo lắng ảnh hƣởng
không tốt đến sức khỏe ngƣời già. Ngƣời cao tuổi thƣờng có tâm lý không ổn
định. Khi cơ thể già yếu, các cơ quan bộ bận trong cơ thể bị lão hóa, đi kèm
theo đó là tinh thần cũng bị lão hóa, có những biểu hiện thay đổi rõ rệt trong
suy nghĩ, lối sống cũng nhƣ cách giải quyết vấn đề. Trạng thái tâm lý của
ngƣời cao tuổi không chỉ phụ thuộc vào bản thân của họ mà còn phụ thuộc
vào môi trƣờng xã hội, quan trọng nhất là môi trƣờng gia đình. Theo các
nghiên cứu về tâm lý học ở NCT, khi bƣớc sang giai đoạn tuổi già, ngƣời
cao tuổi thƣờng thay đổi tâm sinh lý thất thƣờng nhƣ hay hoài niệm quá khứ,
11
dễ tủi thân, lo lắng... Chính vì vậy, gia đình và xã hội cần quan tâm, lo lắng
cho ngƣời cao tuổi hơn, thƣờng xuyên trò chuyện, có các chính sách chăm
lo, bảo đảm các quyền lợi cho ngƣời cao tuổi.
Xét về phương diện kinh tế - xã hội, có thể thấy nguồn sống của NCT
Việt Nam khá đa dạng, từ lao động của chính bản thân NCT (30%), lƣơng
hƣu trợ cấp và của cải tích lũy từ khi còn trẻ và do con cháu chu cấp (39,3%).
Có sự khác biệt đáng kể giữa NCT thành thị và nông thôn về nguồn sống từ
lƣơng hƣu, trợ cấp hoặc tự lao động để kiếm sống. Lƣơng hƣu hoặc trợ cấp là
nguồn sống chính của 35,6% NCT ở thành phố, trong khi chỉ có 21,9% NCT
ở nông thôn đƣợc hƣởng lƣơng hƣu hoặc trợ cấp. Tự lao động để kiếm sống là
cách của 35,2% NCT ở nông thôn, khi chỉ có 17,5% NCT ở thành phố phải
làm nhƣ vậy. NCT thành thị có lƣơng hƣu/trợ cấp và tích lũy cao hơn 1,5 lần
so với NCT nông thôn, ngƣợc lại nguồn sống của NCT nông thôn từ lao động
của chính mình cao hơn gấp 2 lần NCT thành thị [27]. Tuy nhiên dù là NCT ở
thành thị hay ở nông thôn thì, qua các đặc điểm về sinh lý cũng nhƣ tâm lý đã
nói ở trên có thể thấy đƣợc ở độ tuổi này NCT sẽ bị suy giảm dần khả năng
lao động. Thể lực cùng với trí lực giảm sút, không còn đƣợc minh mẫn khiến
NCT gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các công việc lao động sản xuất
kinh doanh. Theo đó, khi tuổi càng tăng thì thu nhập của NCT ngày càng thấp
hoặc không có thu nhập. Chính vì vậy, vấn đề đảm bảo thu nhập cho NCT
luôn là vấn đề đƣợc các quốc gia trên thế giới quan tâm.
1.1.2. Bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi
1.1.2.1. Khái niệm bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi
Con ngƣời sinh ra đã có các nhu cầu cơ bản nhƣ ăn, mặc, ở... và nhằm
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản đó, con ngƣời phải lao động để làm ra những
sản phẩm cần thiết phục vụ các nhu cầu của bản thân. Đặc biệt, khi con ngƣời
già yếu, bị suy giảm hoặc không còn khả năng lao động, thu nhập của họ sẽ bị
12
giảm sút nhƣng các nhu cầu thiết yếu không bởi vì thế mà mất đi, ngƣợc lại
có thể tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm các nhu cầu mới nhƣ chi phí
khám chữa bệnh. Chính vì vậy việc đảm bảo đƣợc thu nhập cho họ trong giai
đoạn này là điều vô cùng quan trọng. Với mục đích trên mà trong lịch sử phát
triển của các hình thức đảm bảo thu nhập cho ngƣời cao tuổi trong đó có
BHXH thì Bảo hiểm hƣu trí là một trong những chế độ đƣợc quan tâm và
thực hiện sớm nhất.
Với mục đích nhằm khắc phục những rủi ro, giảm bớt khó khăn cho
bản thân và gia đình thì ngoài việc tự bản thân khắc phục thì bên cạnh đó
ngƣời lao động còn cần đƣợc nhận sự bảo trợ của xã hội, sự bảo đảm của Nhà
nƣớc. Sự tƣơng trợ dần đƣợc mở rộng và phát triển dƣới nhiều hình thức khác
nhau. Trong quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng
công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển.
Quá trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ ngƣời làm công ăn lƣơng tăng
lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê
đem lại. Sự hụt hẫng về tiền lƣơng trong các trƣờng hợp bị ốm đau, tai nạn,
rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với
cuộc sống bình thƣờng của những ngƣời không có nguồn thu nhập nào khác
ngoài tiền lƣơng. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng
ngày đã buộc những ngƣời làm công ăn lƣơng tìm cách khắc phục bằng
những hành động tƣơng thân, tƣơng ái (lập các quỹ tƣơng tế, các hội đoàn…);
đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nƣớc phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống
cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau
và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì
bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới
thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trƣờng hợp
rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã
13
mở ra hƣớng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ ngƣời lao động đóng
góp mà giới chủ và Nhà nƣớc cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế
ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này đƣợc thể hiện rõ nét: mọi ngƣời,
không phân biệt già – trẻ, nam – nữ, lao động phổ thông – lao động kỹ thuật,
ngƣời khoẻ – ngƣời yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích
chung. Năm 1883, họ tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm tai nạn lao
động sau đó là đạo luật về hƣu trí với sự đóng góp của 3 bên (NLĐ, NSDLĐ
và Nhà nƣớc) nhằm bảo vệ NLĐ trong các trƣờng hợp rủi ro [5].
Mô hình BHXH của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nƣớc
Mỹ Latin và rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nƣớc giành đƣợc
độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe; sau đó dần lan rộng ra các nƣớc
trên thế giới.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề
của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã
hội, cùng với trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của ngƣời lao
động ngày càng đƣợc nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những
sự kiện hoặc không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy
nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng nhƣ
những khó khăn mới đƣợc giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất.
Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài ngƣời trong quá
trình phát triển: sự chia sẻ. BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của
ngƣời lao động và đƣợc thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một
trong những quyền lợi của con ngƣời nhƣ trong Tuyên ngôn nhân quyền của
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nêu.
Với tƣ cách là cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc trong lĩnh vực
lao động, ILO cũng rất quan tâm đến vấn đề về an sinh xã hội, trong đó có
14
vấn đề liên quan đến Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi. Theo quan
niệm của ILO thì an sinh xã hội có thể đƣợc hiểu là: “An sinh xã hội là sự
cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà
nước hoặc tập thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức
sống thấp”. Định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh bảo hiểm xã hội và mở
rộng tạo việc làm cho những đối tƣợng ở khu vực kinh tế không chính thức.
Bản chất của an sinh xã hội là tạo ra mạng lƣới nhiều tầng, nhiều lớp
cho tất cả các thành viên trong xã hội khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hay các rủi ro khác trong cuộc sống. Chính sách ASXH là chính sách
của các quốc gia nhằm thực hiện chức năng đảm bảo, khắc phục các rủi ro,
bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội.
Trong tất cả nội dung của an sinh xã hội thì bảo hiểm thu nhập quan trọng
không chỉ liên quan đến trợ cấp tuổi già là vấn đề quan tâm của tất cả ngƣời
lao động khi tham gia quan hệ lao động mà còn do hầu hết ngƣời lao động
tham gia trong quan hệ bảo hiểm xã hội đều là đối tƣợng của trợ cấp này. Bất
kể ngƣời lao động nào cũng sẽ đến lúc già yếu, bị giảm hoặc mất khả năng lao
động nhƣng vẫn cần có thu nhập để đảm bảo nhu cầu cuộc sống và lƣơng hƣu
chính là nguồn thu nhập chính và thiết yếu của ngƣời lao động trong giai đoạn
này. Chính vì thế mà trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội, việc đảm bảo
thu nhập cho NCT là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội đƣợc thực hiện
sớm nhất. ILO xác định đây là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội bắt
buộc mà các quốc gia phải thực hiện trong hệ thống an sinh xã hội của mình.
Ở Việt Nam, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, luật BHXH sửa đổi
đƣợc thông qua sáng ngày 20/11/2014. Việc sửa đổi Luật BHXH đã cơ bản
đáp ứng mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện pháp luật về BHXH nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển hệ thống ASXH phù hợp nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế trong tình hình mới, khắc phục
15
những hạn chế trong chính sách, pháp luật BHXH hiện hành và tháo gỡ
những khó khăn, bất cập trong tổ chức thực hiện, tiến tới BHXH cho mọi
NLĐ. Bên cạnh đó, Luật BHXH 2014 có thêm nhiều quy định mới, đặc biệt là
chế độ hƣu trí nhƣ về điều kiện nghỉ hƣu, công thức tính lƣơng hƣu, mức bình
quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH để tính lƣơng hƣu, trợ cấp một lần, điều
chỉnh lƣơng hƣu, trợ cấp một lần khi nghỉ hƣu.
Qua đây có thể thấy, bảo hiểm thu nhập cho NLĐ, đặc biệt đối với
NCT là một trong những biện pháp ASXH đƣợc các quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam đang hết sức quan tâm, là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống an sinh xã hội, là công cụ quan trọng để các quốc gia phòng
tránh, hạn chế, khắc phục các rủi ro, khó khăn cho mọi thành viên trong xã
hội, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng luôn có sự thay đổi.
Nhƣ vậy, có thể hiểu bảo hiểm thu nhập đối với NCT là sự bảo vệ của
nhà nƣớc và xã hội đối với NCT nhằm làm giảm thiểu rủi ro về kinh tế và sức
khỏe, bảo đảm mức sống và chống đói nghèo, góp phần phát triển ổn định,
bền vững kinh tế xã hội của đất nƣớc: Bảo hiểm thu nhập đối với người cao
tuổi bao gồm các hình thức như hưu trí, trợ giúp xã hội, bảo hiểm nhân thọ và
sự bảo đảm của Nhà nước nhằm thực hiện bảo hiểm thu nhập thông qua việc
đ ng g p từ thu nhập hàng tháng của NCT trong thời gian đi làm, vào quỹ tài
chính tập trung, để khi hết khả năng lao động NCT vẫn c thu nhập để đảm
bảo cuộc sống.
1.1.2.2. Sự cần thiết của bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi
Đối với NCT: Khi bƣớc vào giai đoạn nghỉ hƣu, nhu cầu tài chính lớn
nhất đối với mỗi ngƣời là đảm bảo cuộc sống sau nghỉ hƣu với mức sống
tƣơng đƣơng hoặc gần tƣơng đƣơng so với trƣớc khi nghỉ hƣu cũng nhƣ theo
kịp mức sống chung của xã hội. Đáng chú ý, trong điều kiện lạm phát cao thì
nhu cầu tài chính đảm bảo cuộc sống càng là nhu cầu trọng yếu và chiếm tỷ
16
trọng ngày càng lớn trong tổng nhu cầu tài chính giai đoạn này. Thêm vào đó,
khi đời sống xã hội đƣợc nâng cao, nhu cầu du lịch, giải trí, theo đuổi sở thích
cá nhân, thăm viếng bạn bè, ngƣời thân… cũng chiếm một phần khá lớn trong
nhu cầu tài chính sau tuổi nghỉ hƣu. Đặc biệt, nhu cầu chăm sóc sức khỏe và
chữa bệnh là một nhu cầu rất lớn và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nhu cầu tài chính sau tuổi nghỉ hƣu vì khi độ tuổi ngày càng cao thì sức khỏe
ngày càng suy giảm, sự lão hóa gia tăng và bệnh tật phát triển trong khi chi
phí cho các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ ngày càng tăng. Trong giai
đoạn cuối đời, có thể phát sinh nhu cầu tài chính rất lớn cho sự chăm sóc đặc
biệt, và tiếp đến là chi phí mai táng, hậu sự. Hiện nay, tỷ lệ ngƣời cao tuổi
ngày càng gia tăng. Khi tỷ lệ NCT ngày càng cao trong tổng số dân số đồng
nghĩa với tỷ lệ lực lƣợng tham gia lao động có xu hƣớng giảm đi, dẫn đến
việc làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có chiều hƣớng giảm đi và tỷ lệ
ngƣời thụ hƣởng có xu hƣớng gia tăng, quỹ hƣu trí cũng phải chi lƣơng hƣu
nhiều hơn. Bên cạnh đó, ở các nƣớc có thu nhập trung bình và thu nhập thấp,
NCT đang phải đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, hàng triệu ngƣời cao tuổi
sống dƣới mức đói nghèo. Thực trạng này đã đặt ra những yêu cầu lớn đối với
cả cộng đồng quốc tế đó là làm thế nào để bảo đảm đời sống và chăm sóc sức
khoẻ cho bộ phận cƣ dân này là câu hỏi dành chung cho mọi quốc gia trên thế
giới, không có ngoại lệ.
Ở Việt Nam, NCT đƣợc pháp luật quy định là những ngƣời từ đủ 60 tuổi
trở lên. Trong khoảng 30 năm trở lại đây tỷ lệ ngƣời cao tuổi ngày càng tăng
lên. Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam chính thức bƣớc
vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và hiện có khoảng 10,1 triệu ngƣời
cao tuổi, chiếm 11% dân số. Riêng số ngƣời từ 80 tuổi trở lên khoảng 2 triệu
ngƣời. Dự báo đến năm 2030, tỷ trọng ngƣời cao tuổi Việt Nam chiếm 17% và
năm 2050 là 25% [22].
17
Hiện nay tỷ lệ ngƣời cao tuổi tham gia các hình thức bảo đảm thu nhập
ở Việt Nam còn rất thấp so với các quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo của
ILO hiện nay ở Việt Nam, trong khoảng hơn 11 triệu ngƣời cao tuổi, có 2.3
triệu ngƣời đang hƣởng chế độ hƣu trí, 1.3 triệu ngƣời hƣởng trợ cấp xã hội
và khoảng 6-7 triệu ngƣời cao tuổi không có thu nhập [16]. Trong đó phần lớn
ngƣời cao tuổi ở Việt Nam sống ở nông thôn [15]. Bên cạnh đó, còn nhiều
ngƣời cao tuổi từ 70 - 80 tuổi từng tham gia kháng chiến, phục vụ cách mạng
nên không có thời gian tích lũy tiền bạc, chuẩn bị cuộc sống về già. Thực tế
rất nhiều ngƣời trong số họ khá khó khăn về kinh tế, trong khi đó lại thƣờng
xuyên bị ốm đau, bệnh tật.
Bởi vậy, thách thức trong giải quyết đời sống của ngƣời cao tuổi sẽ rất
lớn khi Việt Nam rơi vào tình trạng “già trƣớc khi giàu” nhƣ hiện nay. Nếu
không có chiến lƣợc đối phó với tình trạng này thì nhà nƣớc sẽ phải có những
khoản chi tiêu rất lớn, và từ đó sẽ tác động tiêu cực đến ngân sách cũng nhƣ
sự bền vững dài hạn của nền kinh tế quốc dân.
Trên phương diện quyền con người: Ngày nay, dân số thế giới đang già
đi, tỉ lệ ngƣời lớn tuổi trong cơ cấu dân số của toàn thế giới đang tăng, điều
này đặt ra một thực tế là cần phải quan tâm ngày một nhiều hơn đến các
quyền của đối tƣợng này. Hiện nay, theo ƣớc tính, có gần 20% ngƣời cao tuổi
trên toàn thế giới đƣợc hƣởng tiền trợ cấp. Điều này có nghĩa là có khoảng
607 triệu ngƣời tuổi từ 60 trở lên thiếu sự đảm bảo về thu nhập [32]. Nhiều
ngƣời cao tuổi vẫn phải làm các công việc nặng nhọc để kiếm sống, nhiều
ngƣời bị bỏ rơi trong các nhà dƣỡng lão thiếu các tiện nghi chăm sóc cá nhân.
Thậm chí, tại nhiều nơi cũng không có nhà dƣỡng lão để đảm bảo chăm sóc
đối tƣợng ngƣời cao tuổi và nhiều ngƣời cao tuổi vẫn phải sống trong tình
trạng không nhà cửa, lang thang kiếm sống.
Trƣớc tình hình ở nhiều nơi, nhiều nƣớc trên thế giới, vai trò của ngƣời
18
cao tuổi đã không đƣợc nhìn nhận đúng đắn và đƣợc quan tâm. Đồng thời
ngƣời cao tuổi cũng là những đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng do vấn đề về sức
khỏe và thu nhập. Nhiều nƣớc cũng đã có những đề xuất sửa đổi pháp luật
nhằm bảo vệ quyền của ngƣời cao tuổi, xác định rõ hơn rằng những ngƣời trẻ
tuổi phải có bổn phận thăm nom và chăm sóc cho cha mẹ mình.
Cao ủy Nhân quyền Liên hiệp quốc Navi Pillay cũng cho rằng, với việc
2/3 số ngƣời cao tuổi trên thế giới sống ở các nƣớc có thu nhập thấp và trung
bình, chính phủ các nƣớc cần đƣa ra các chƣơng trình lƣơng hƣu cho ngƣời già
cũng nhƣ các biện pháp phù hợp trong các lĩnh vực nhà ở, y tế, giao thông, nƣớc
sạch để đảm bảo rằng họ không bị bỏ rơi và phân biệt đối xử. Dự kiến, đến năm
2050, số ngƣời cao tuổi trên toàn thế giới sẽ tăng lên 2 tỷ ngƣời [12].
Đã đến lúc các nƣớc trên thế giới cần đƣa ra các biện pháp tài chính,
xã hội và luật pháp nhằm giúp hàng triệu ngƣời cao tuổi thoát khỏi cảnh
nghèo đói, đảm bảo quyền có cuộc sống khỏe mạnh và đƣợc tôn trọng.
Những ngƣời này đều có quyền đƣợc tiếp cận các dịch vụ xã hội; các nƣớc
cần đƣa ra các chƣơng trình lƣơng hƣu cho ngƣời cao tuổi, xây dựng hệ
thống pháp luật và chính sách nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử về tuổi
tác và giới tính tại nơi làm việc.
Trên phương diện về an sinh xã hội: Một trong những mối quan tâm
hàng đầu của ngƣời cao tuổi trên toàn thế giới đó là đảm bảo thu nhập. Đây
cũng chính là thách thức lớn nhất mà các quốc gia đang phải đối mặt trong
qua trình dân số già hóa. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho áp lực về tài
chính thêm trầm trọng và khó khăn trong việc đảm bảo cả kinh tế và tiếp cận
các dịch vụ y tế cho ngƣời cao tuổi.
Đầu tƣ cho hệ thống bảo hiểm thu nhập cho ngƣời cao tuổi đƣợc xem là
một trong những biện pháp quan trọng nhất đảm bảo độc lập về mặt kinh tế và
giảm nghèo cho ngƣời cao tuổi. Ở các quốc gia phát triển, mối quan tâm
19
chính là làm thế nào để suy trì tính bền vững của hệ thống này. Trong khi đó,
tại các nƣớc đang phát triển, khả năng bao phủ của hệ thống an sinh xã hội và
trợ cấp hƣu trí cho ngƣời cao tuổi đang là thách thức lớn, khi mà phần lớn lực
lƣợng lao động làm việc trong các môi trƣờng không chính thức.
Bảo hiểm thu nhập cho ngƣời cao tuổi nói riêng và bảo hiểm xã hội nói
chung là trụ cột của an sinh xã hội. An sinh xã hội phải thực hiện tốt để đảm
bảo thu nhập cho ngƣời cao tuổi ổn định cuộc sống cũng nhƣ có thể tiếp cận
các dịch vụ xã hội và y tế thiết yếu.
1.2. Pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối
với người cao tuổi
Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với NCT: Bảo hiểm thu
nhập đối với ngƣời cao tuổi luôn là một trong những nội dung quan trọng
đƣợc pháp luật các quốc gia trên thế giới ghi nhận và điều chỉnh. Bên cạnh sự
phát triển không ngừng của kinh tế xã hội, khoa học y tế dẫn đến việc tuổi thọ
con ngƣời cũng đang ngày càng tăng lên, số lƣợng NCT ngày càng tăng. Theo
quy luật tự nhiên, con ngƣời ở độ tuổi này khả năng lao động của họ sẽ bị suy
giảm, đi kèm theo đó là những rủi ro về sức khỏe, nếu không đƣợc bảo đảm
trong đời sống và chăm sóc sức khỏe thì ngƣời cao tuổi sẽ gặp rất nhiều khó
khăn và khó có thể duy trì đƣợc sự sống. Chính thực trạng khách này luôn đặt
ra yêu cầu phải có những quy định pháp luật phù hợp để điều chỉnh.
Sự điều chỉnh của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao
tuổi đƣợc thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền cơ bản của con ngƣời. Thông
qua các quy định này, các quyền về bảo vệ thu nhập, chăm sóc sức khỏe và
các quyền khác của ngƣời cao tuổi sẽ đƣợc đảm bảo một cách ổn định và lâu
dài, chứ không còn đơn thuần là vì mục đích nhân đạo thuần túy của các quan
hệ xã hội. Đồng thời, với chức năng xã hội của mình, nhà nƣớc là chủ thể
20
chính, thông qua các cơ quan do nhà nƣớc thành lập, tổ chức thực hiện các
quy định, nhằm hiện thực hóa các quy định về bảo hiểm thu nhập cho ngƣời
cao tuổi trong thực tế. Các khoản lƣơng hƣu, trợ cấp, hỗ trợ về vật chất cho
NCT đƣợc thực hiện theo hƣớng công bằng, trong tƣơng quan phát triển kinh
tế - xã hội chung của cộng đồng. Mục đích của các quy định pháp luật là
nhằm giúp NCT và gia đình họ giảm bớt khó khăn, gánh nặng về kinh tế do
không còn khả năng lao động dẫn đến không đảm bảo thu nhập và chi phí
khám chữa bệnh ngày càng tăng thêm. Từ đó có thể khuyến khích, động viên
ngƣời cao tuổi phát huy những kinh nghiệm quý báu của bản thân nhằm góp
phần và việc giáo dục thế hệ trẻ, đóng góp vào sự phát triển của đất nƣớc.
Hiện nay, pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi đƣợc
các quốc gia quy định ở các hình thức khác nhau. Có quốc gia quy định trong
luật riêng về ngƣời cao tuổi, có quốc gia lại quy định trong hệ thống pháp luật
an sinh xã hội (bao gồm các luật về xã hội nhƣ Luật bảo hiểm xã hội, Luật
bảo hiểm y tế...). Mặc dù quy định trong Bộ luật chung hay quy định riêng
trong luật chuyên ngành, thì có thể thấy đƣợc điểm chung trong việc tiếp cận
các vấn đề về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là Nhà nƣớc thực hiện
các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho đối
tƣợng này. Để phù hợp với thực tế đời sống mới, pháp luật bảo hiểm thu nhập
đối với ngƣời cao tuổi ngày càng đƣợc hoàn thiện và phát triển; đảm bảo đƣợc
đời sống cho ngƣời cao tuổi sau một quá trình lao động lâu dài thông qua các
hình thức về bảo đảm thu nhập, trong đó có bảo hiểm hƣu trí.
Từ những nghiên cứu trên, có thể hiểu pháp luật về bảo hiểm thu nhập
đối với ngƣời cao tuổi là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các
hình thức tham gia, điều kiện và mức hƣởng cho những ngƣời tham gia bảo
hiểm thu nhập khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao
động, nhằm giảm thiểu rủi ro về kinh tế và sức khỏe, đảm bảo mức sống và
21
chống đói nghèo cho ngƣời cao tuổi, góp phần phát triển ổn định, bền vững
kinh tế xã hội của đất nƣớc.
Vai trò của pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT: Trong các hình
thức bảo hiểm thu nhập, hƣu trí là chế độ quan trọng hàng đầu, nhằm đảm bảo
và ổn định cuộc sống lâu dài của ngƣời lao động khi họ bị suy giảm khả năng
lao động, khi hết tuổi lao động, không còn tạo ra thu nhập để đảm bảo cuộc
sống; khi từ trần, thân nhân của họ còn đƣợc hƣởng trợ cấp mai táng, trợ cấp
tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần thể hiện tính nhân văn sâu sắc của
chính sách BHXH. Mặt khác, vì tính chất quan trọng và mục đích an sinh xã
hội lâu dài của chế độ hƣu trí mà pháp luật của Việt Nam đã bắt buộc ngƣời sử
dụng lao động đóng 14% trong tổng số 22% tiền lƣơng, tiền công của ngƣời lao
động và số tiền trích đóng của ngƣời sử dụng lao động vào quỹ BHXH.
Bên cạnh đó pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi có
vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với ngƣời cao tuổi mà còn đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Cụ thể nhƣ sau:
(1) Vai trò đối với xã hội: Pháp luật về bảo hiểm thu nhập cho ngƣời
cao tuổi thể hiện rõ trách nhiệm tích cực của Nhà nƣớc, của xã hội đối với
những ngƣời đã có một quá trình lao động, đóng góp vào sự phát triển chung
của đất nƣớc, nay khả năng lao động đã bị giảm hoặc không còn khả năng lao
động, gặp nhiều hạn chế về sức khỏe. Sự tồn tại ổn định về thu nhập cũng nhƣ
cuộc sống của ngƣời cao tuổi trong xã hội thể hiện sự tiến bộ trong chính
sách, pháp luật của một quốc gia. Và thực tiễn đã chứng minh đƣợc pháp luật
về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi có vai trò rất quan trọng trong
việc đảm bảo ổn định xã hội. Bên cạnh đó, vƣợt qua khỏi những rào cản về
chính trị, địa lý, bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi còn phản ánh rõ
các giá trị xã hội, tính nhân văn, nhân đạo của con ngƣời đối với con ngƣời.
Khi những khó khăn về thu nhập, sức khỏe phát sinh khi con ngƣời về già
22
đƣợc mọi tầng lớp trong xã hội cùng nhau chia sẻ, không những giúp ngƣời
cao tuổi vƣợt qua khó khăn trƣớc mắt mà còn tạo ra sự gắn kết giữa thế hệ sau
với các thế hệ đi trƣớc, tạo thành nếp truyền thống văn hóa tốt đẹp. Chính nhờ
sự chia sẻ của cả Nhà nƣớc và cộng đồng xã hội, giúp cho ngƣời cao tuổi cảm
thấy bản thân họ còn có giá trị, không phải vô dụng hay bị tách biệt khỏi cuộc
sống cộng đồng.
(2) Vai trò đối với sự phát triển kinh tế: Ở góc độ này có thể thấy, phần
lớn tiền đóng BHXH của NLĐ, NSDLĐ là đóng vào quỹ hƣu trí nhằm chi trả
lƣơng hƣu cho ngƣời nghỉ hƣu nên quỹ có số thu lớn hơn rất nhiều so với các
quỹ thành phần khác. Số tiền hàng năm từ quỹ có thể đầu tƣ một phần vào các
hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH. Cũng từ
góc độ này cho thấy, bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi còn có ý nghĩa
là công cụ phân phối tiền bạc, của cải cho ngƣời cao tuổi, thu hẹp dần sự
chênh lệch về mức sống trong xã hội. Bên cạnh đó, việc thực hiện các quy
định pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi còn góp phần xây
dựng, phát triển và giáo dục ý thức của từng cá nhân con ngƣời trong xã hội
về việc lo cho tuổi già khi bản thân còn trẻ. Việc tích lũy tiền bạc, của cải cho
mình cũng là thể hiện trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, xã hội và các
thế hệ trẻ trong tƣơng lai.
(3) Vai trò đối với NCT: Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là
sự đảm bảo cho ngƣời cao tuổi trong việc thực hiện các quyền và lợi ích chính
đáng của họ sau khoảng thời gian lao động. Đây là kết quả họ nhận đƣợc sau
khoảng thời gian tích lũy trong suốt quá trình lao động thông qua việc đóng
góp vào quỹ BHXH, và đây chính là khoản thu nhập chủ yếu để đảm bảo
cuộc sống của ngƣời cao tuổi cả về tinh thần lẫn vật chất trong quãng đời còn
lại sau quá trình lao động. Có thể khi về già, NCT có các khoản tích lũy, có
con cháu là chỗ dựa, tuy nhiên phần lớn NCT vẫn trông cậy vào các khoản trợ
23
cấp hƣu trí. Ngƣời cao tuổi sẽ cảm thấy yên tâm trong cuộc sống khi họ đƣợc
đảm bảo thu nhập, không bị mặc cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với
người cao tuổi
Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi cũng tuân thủ theo các
nguyên tắc chung của BHXH nhƣ: Mức hƣởng BHXH đƣợc tính trên cơ sở
mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những ngƣời tham gia
BHXH; Mức đóng BHXH bắt buộc đƣợc tính trên cơ sở tiền lƣơng tháng của
NLĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện đƣợc tính trên cơ sở mức thu nhập tháng
do NLĐ lựa chọn; NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời
gian đóng BHXH tự nguyện đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí và chế độ tử tuất trên
cơ sở thời gian đã đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã đƣợc tính hƣởng
BHXH một lần thì không tính vào thời gian làm cơ sở tính hƣởng các chế độ
BHXH; Quỹ BHXH đƣợc quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh
bạch; đƣợc sử dụng đúng mục đích và đƣợc hạch toán độc lập theo các quỹ
thành phần, các nhóm đối tƣợng thực hiện chế độ tiền lƣơng do Nhà nƣớc quy
định và chế độ tiền lƣơng do ngƣời SDLĐ quyết định; Việc thực hiện BHXH
phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của
ngƣời tham gia BHXH.
Bên cạnh các nguyên tắc chung đã nêu trên, bảo hiểm thu nhập đối với
ngƣời cao tuổi còn có một số nguyên tắc riêng ngoài các nguyên tắc chung
của BHXH, đó là:
Thứ nhất, nguyên tắc ưu đãi đối với một số ngành nghề, lĩnh vực đặc
thù nhất định
Nguyên tắc này xuất phát từ lý do điều kiện làm việc của NLĐ trong
một số ngành nghề có tính chất nặng nhọc, độc hại, ở những nơi xa xôi, hẻo
lánh hoặc trong những lĩnh vực quan trọng nhƣ an ninh quốc phòng có sự
24
khác nhau. Đồng thời nó cũng khuyến khích NLĐ vào làm việc trong các
ngành nghề, lĩnh vực này tạo sự phân công lao động đồng đều giữa các ngành,
các vùng với nhau. Những NLĐ phải làm việc trong điều kiện lao động không
thuận lợi hoặc làm những công việc mà tầm quan trọng của nó đối với an ninh
đất nƣớc có thể ảnh hƣởng đến cuộc sống bình thƣờng của họ thì sẽ đƣợc
hƣởng những chế độ ƣu đãi đặc biệt. Trong chế độ hƣu trí, sự ƣu đãi này đƣợc
thể hiện ở việc luật pháp cho phép họ đƣợc nghỉ hƣu ở tuổi sớm hơn so với
quy định chung nhƣng không phải trừ tỷ lệ lƣơng hƣu vì thời gian nghỉ sớm
đó. Pháp luật Việt Nam quy định NLĐ làm trong những công việc nặng nhọc
độc hại, làm việc ở những vũng sâu, vùng xa hoặc làm việc trong lực lƣợng
vũ trang, nhìn chung sẽ đƣợc nghỉ hƣu sớm hơn so với những NLĐ khác 5
tuổi. Nguyên tắc này cũng có thể là hợp lý ở giai đoạn này nhƣng có thể thay
đổi ở giai đoạn khác, khi điều kiện làm việc thay đổi do sự phát triển của khoa
học kỹ thuật hiện đại.
Thứ hai, nguyên tắc khi tuổi thọ của người lao động và mức sống của
người lao động được nâng cao thì độ tuổi hưởng bảo hiểm thu nhập đối với
người cao tuổi có thể được nâng lên
Trên thực tế nhiều nƣớc phát triển cho thấy, khi nền kinh tế đạt trình độ
phát triển tƣơng đối cao thì mức sống của NLĐ, ngƣời dân (đƣợc thể hiện dựa
trên GDP/đầu ngƣời) và tuổi thọ cũng không ngừng đƣợc nâng cao, cấu trúc dân
số sẽ có sự biến đổi. Chính vì vậy, trong các trƣờng hợp này tuổi về hƣu của
NLĐ có thể kéo dài, ví dụ nam đến 63 và 65 tuổi, nữ 58 và 60 tuổi. Đối với việc
tăng tuổi về hƣu này nhằm làm tăng khả năng cống hiến của NLĐ khi sức khỏe
của họ còn tốt, tăng khả năng sử dụng nguồn nhân lực xã hội hiệu quả trong
hoàn cảnh nguồn cung lao động đang ngày càng ít đi, trƣớc nhu cầu phát triển
của xã hội và ở khía cạnh kinh tế là tạo điều kiện tăng thu nhập cho NLĐ.
Hơn nữa, khi vấn đề già hóa dân số diễn ra, tuổi thọ trung bình của con
25
ngƣời đƣợc nâng lên, số ngƣời cao tuổi cũng ngày càng tăng đồng nghĩa với
thời gian hƣởng lƣơng hƣu kéo dài trong khi việc mở rộng đối tƣợng tham gia
BHXH gặp khó khăn do tỷ lệ sinh giảm, số lao động trẻ tham gia thị trƣờng
lao động ít, số ngƣời về hƣu ngày càng tăng làm cho việc chi trả chế độ hƣu
trí sẽ tăng ảnh hƣởng lớn đến sự đảm bảo cân đối thu chi quỹ BHXH trong
tƣơng lai lâu dài nếu không có sự điều chỉnh về mặt chính sách, và một trong
những giải pháp hiệu quả mà nhiều nƣớc trên thế giới đã đã áp dụng thành
công đó là việc tăng tuổi nghỉ hƣu (ví dụ Pháp, Nhật Bản, Hy Lạp).
Thứ ba, nguyên tắc về sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện
NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện để đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở
thời gian đóng BHXH. Với nguyên tắc này, giữa BHXH bắt buộc và BHXH
tự nguyện có sự liên thông, đảm bảo cho ngƣời tham gia BHXH khi hết tuổi
lao động có nhiều cơ hội đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí do thời gian đóng BHXH
đƣợc tính bằng tổng thời gian đóng BHXH của 2 loại hình. Tuy nhiên theo
quy định của Luật BHXH thì trong cùng một thời điểm, NLĐ chỉ đƣợc tham
gia đóng BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện. Để đảm bảo mối tƣơng
quan trong tham gia BHXH với nguyên tắc liên thông giữa BHXH bắt buộc
và BHXH tự nguyện, chế độ hƣu trí cần đƣợc quy định cụ thể cho phù hợp.
Đối với ngƣời có toàn bộ thời gian tham gia BHXH tự nguyện: Tuổi nghỉ hƣu
phải đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ trở lên (không có quy định
nghỉ hƣu trƣớc tuổi) và lƣơng hƣu nếu thấp hơn tiền lƣơng tối thiểu chung thì
không bù cho bằng tiền lƣơng tối thiểu chung. Còn đối với ngƣời tham gia
BHXH tự nguyện mà trƣớc đó có thời gian đóng BHXH bắt buộc: Trƣờng
hợp đã có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên thì điều kiện hƣởng chế độ
hƣu trí hàng tháng đƣợc thực hiện nhƣ đối với ngƣời đang tham gia BHXH
bắt buộc (có 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên đƣợc
26
giảm 5 tuổi; có 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên đƣợc hƣởng
lƣơng hƣu với mức thấp hơn mà không phụ thuộc vào tuổi đời; đủ 50 tuổi trở
lên đối với nam, đủ 45 tuổi trở lên đối với nữ, bị suy giảm khả năng lao động từ
61% trở lên thì đƣợc hƣởng lƣơng hƣu với mức thấp hơn) và lƣơng hƣu nếu
thấp hơn tiền lƣơng tối thiểu chung thì đƣợc bù cho bằng tiền lƣơng tối thiểu
chung. Trƣờng hợp đã đóng BHXH bắt buộc dƣới 20 năm thì chế độ hƣu trí
thực hiện nhƣ đối với ngƣời có toàn bộ thời gian tham gia BHXH tự nguyện.
1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với người cao tuổi
Bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là nội dung quan trọng trong
pháp luật an sinh xã hội đối với ngƣời cao tuổi, bởi vì khi có thu nhập ổn định
thì ngƣời cao tuổi mới có đủ điều kiện để bảo đảm cuộc sống hàng ngày và
chăm sóc sức khỏe cho bản thân. Chính vì thế, hình thức thực hiện bảo hiểm
thu nhập thông qua việc đóng góp từ thu nhập hàng tháng của ngƣời lao động
sau một quá trình lao động nhất định vào quỹ tài chính tập trung, để khi họ hết
khả năng lao động vẫn đƣợc bảo đảm thu nhập. Hình thức bảo hiểm thu nhập
sau một quá trình lao động dài đƣợc gọi là bảo hiểm hƣu trí.
Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA)[10], nhằm
bảo đảm đời sống cho ngƣời cao tuổi, trong nội dung về bảo hiểm xã hội, các
quốc gia cần thực hiện nhiều hệ thống hƣu trí:
(1) Hệ thống hƣu trí thực thanh thực chi (PAY-AS-YOU-GO-PAYG)
hay còn gọi là hệ thống hƣu trí mà đóng góp của ngƣời lao động đƣợc đổ
chung vào một quỹ và quỹ này đƣợc sử dụng để chi trả cho ngƣời đang hƣởng
chế độ hƣu trí;
(2) Hệ thống hƣu trí tài khoản cá nhân tƣợng trƣng (NDC-NOTINONAL
DEFINED CONTIBUTION) là hệ thống hƣu trí đƣợc thiết kế với mức hƣởng
tính toán dựa trên mức đóng góp tích luỹ và kết quả đầu tƣ của quỹ hƣu trí;
27
(3) Hệ thống hƣu trí xã hội hay còn gọi là hệ thống hƣu trí không dựa
trên đóng góp (NCP-NON- CONTIBUTTORY PERNION), là hệ thống hƣu
trí mà ngƣời đƣợc hƣởng không phải đóng góp bất kỳ một khoản nào, ngƣời
đƣợc hƣởng phải thoả mãn một số điều kiện nhất định. Trong đó, tuỳ vào điều
kiện cụ thể mà các quốc gia ƣu tiên lựa chọn các hình thức bảo hiểm thu nhập
này đối với ngƣời lao động để khi về già, hết khả năng lao động họ đƣợc bảo
đảm đời sống.
Trên thế giới, vấn đề già hóa dân số đã và đang trở thành một vấn đề
lớn ở các nƣớc đang phát triển, nơi mà dân số sẽ bị già hóa nhanh chóng.
Hiện nay, các nƣớc đang phát triển sẽ là nơi có tỉ lệ ngƣời cao tuổi tăng cao
và tăng nhanh nhất. Giữa các nƣớc phát triển và các nƣớc đang phát triển có
sự khác nhau đáng kể trong các hoạt động chính sách BHXH đối với ngƣời
cao tuổi. BHXH ở Pháp thực hiện từ năm 1945 theo hình thức tọa thu – tọa
chi, hoạt động dựa trên nguyên tắc đoàn kết giữa các thế hệ. Chế độ hƣu trí
của Pháp gồm bảo hiểm hƣu trí cơ bản và bảo hiểm hƣu trí bổ sung, đều là
các chế độ bắt buộc, bao gồm 35 chế độ khác nhau, bao gồm: Chế độ hƣu trí
cơ bản (bắt buộc); Chế độ hƣu trí bổ sung (bắt buộc); Chế độ đặc biệt (dành
cho công chức và một số ngành đặc thù); Tiết kiệm cá nhân hoặc doanh
nghiệp (tự nguyện). Các chƣơng trình hƣu trí tại Pháp bao phủ hầu hết lực
lƣợng lao động. Nguồn tài chính cho các chƣơng trình hƣu trí từ đóng góp của
NLĐ, NSDLĐ, thuế và các khoản thu thông qua thuế. Pháp có hệ thống
ASXH toàn diện và đứng đầu Châu Âu về quy mô tài chính. Với mô hình đa
trụ cột, tại Pháp có nhiều tổ chức khác nhau tham gia quản lý các chƣơng
trình hƣu trí trong đó có các tổ chức chính là: Quỹ hƣu trí quốc gia, Quỹ hƣu
trí dành cho ngƣời tự tạo việc làm, Hiệp hội quỹ hƣu trí bổ sung, cơ quan thu
đóng góp BHXH quốc gia…[46], [25]. Tuy nhiên có thể thấy hệ thống hƣu trí
của Pháp rất phức tạp do nhiều cơ quan thực hiện nên bị phân tán dẫn đến khó
28
quản lý, khó có khả năng cân đối thu chi, nguồn NSNN phải bù cho chi là rất
lớn và gia tăng hàng năm. Từ một số hạn chế trong hệ thống của nƣớc Pháp
cho thấy quỹ bảo hiểm hƣu trí cần đƣợc quản lý tập trung thống nhất độc lập
để giảm gánh nặng cho Nhà nƣớc. Còn hệ thống BHXH của Trung Quốc có 5
bộ phận cấu thành bao gồm bảo hiểm hƣu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm tai nạn lao động và bảo hiểm thai sản, trong đó bảo hiểm hƣu
trí là hạt nhân của chính sách ASXH của Trung Quốc. Cùng với chế độ
BHHT cán bộ, công chức, Trung Quốc đã thực hiện chế độ BHHT cho lao
động trong doanh nghiệp với một hệ thống riêng đƣợc thiết kế 3 tầng: Tầng
cơ bản, một phần đóng góp vào lƣơng hƣu chung, một phần đóng góp vào tài
khoản cá nhân; Tầng bổ sung và tầng dự trữ cá nhân thì đồng thời thực hiện
chế độ hƣu trí đối với lao động nông thôn....[20].
Vấn đề già hóa dân số đã và đang là một thách thức lớn mà các quốc
gia trên thế giới cũng nhƣ Việt Nam sẽ phải đối mặt trong thời gian sắp tới.
Do các thành tựu đã đạt đƣợc trong lĩnh vực y tế và kế hoạch hóa gia đình
khiến cho mức sinh của nƣớc ta giảm mạnh và tuổi thọ bình quân của Việt
Nam đƣợc nâng cao từ 68,6 tuổi năm 1999 lên 72,2 tuổi năm 2005, và dự kiến
sẽ là 75 tuổi vào năm 2020 [37]. Tình trạng dân số toàn cầu đang có xu hƣớng
già hóa làm ảnh hƣởng sâu sắc tới các khía cạnh của cá nhân, cộng đồng, của
từng quốc gia và cộng đồng quốc tế. Dân số già hóa nhanh sẽ làm gia tăng áp
lực cho hệ thống dịch vụ sức khỏe, tâm lý, lối sống cũng nhƣ hệ thống hƣu trí
cho ngƣời cao tuổi. Từ khuyến nghị của Quỹ Dân số Liên hợp quốc, hiện nay,
Việt Nam đang cùng lúc thực hiện cả 3 hình thức bảo hiểm bắt buộc, bảo
hiểm tự nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ sung. Tuy nhiên, trong nội dung về bảo
hiểm xã hội, pháp luật quy định các loại hình hƣu trí hàng tháng nhằm bao quát
mọi đối tƣợng có thu nhập đều có thể tham gia bảo hiểm hƣu trí để bảo đảm thu
nhập cho ngƣời lao động khi nghỉ hƣu. Đó là bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của
29
bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của bảo hiểm xã hội tự
nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ sung (Riêng hệ thống hƣu trí xã hội hay còn gọi
là hệ thống hƣu trí không dựa trên đóng góp (NCP-NON- CONTIBUTTORY
PERNION) thì ở Việt Nam lại không thuộc phạm vi của pháp luật bảo hiểm xã
hội mà thuộc phạm vi của trợ giúp/bảo trợ xã hội). Cụ thể:
1.2.3.1. Bảo hiểm thu nhập đối với NCT từ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho NCT khi hết khả năng lao
động, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng và thực hiện chế độ
bảo hiểm hƣu trí. Mục đích của chế độ bảo hiểm hƣu trí nhằm đảm bảo cho
ngƣời cao tuổi có đƣợc một khoản thu nhập thay thế cho tiền lƣơng, phù hợp
với thời gian làm việc và mức độ đóng góp của ngƣời cao tuổi trong suốt quá
trình lao động. Mức thu nhập này tuy thấp hơn so với mức tiền lƣơng lúc còn
làm việc nhƣng nó lại rất quan trọng và cần thiết, giúp cho ngƣời về hƣu ổn
định về mặt vật chất cũng nhƣ tinh thần trong cuộc sống, bảo đảm an sinh xã
hội của quốc gia. Trong Công ƣớc số 102 năm 1952, Tổ chức lao động quốc
tế (ILO) gọi bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi là trợ cấp tuổi già và
cho rằng đây là chế độ quan trọng nhất trong các chế độ an sinh xã hội. Trong
Công ƣớc số 102 đã nêu rõ: “Trợ cấp tuổi già phải là chế độ chi trả định kỳ,
trừ một số trường hợp hy hữu thì các quỹ dự phòng quốc gia thực hiện việc
chi trả một lần”. Từ quy định trên của ILO, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế -
xã hội của từng quốc gia trên thế giới mà có các quy định khác nhau về bảo
hiểm thu nhập đối với NCT.
Bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình
bảo hiểm xã hội mà ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động phải tham gia
và đóng phí vào quỹ bảo hiểm xã hội để khi ngƣời lao động hết khả năng lao
động, đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì đƣợc hƣởng lƣơng hƣu hàng
tháng. Thời gian hƣởng lƣơng hƣu ổn định, lâu dài, từ khi ngƣời lao động nghỉ
30
hƣu cho đến khi họ qua đời. Trong một số trƣờng hợp vì điều kiện, môi trƣờng
làm việc, tính chất đặc thù của công việc, NLĐ có thể đƣợc nghỉ hƣu sớm hơn
từ 1-5 tuổi. NLĐ cũng có quyền đƣợc nghỉ hƣu sớm khi bị suy giảm khả năng
lao động ở một mức độ nhất định phù hợp với quy định của pháp luật.
Trên thế giới, Pháp đƣợc xem là quốc gia có hệ thống ASXH toàn diện
và đứng hàng đầu châu Âu về quy mô tài chính. Với mô hình đa trụ cột, tại
Pháp có nhiều tổ chức khác nhau tham gia quản lý các chƣơng trình hƣu trí
nhƣ Quỹ hƣu trí quốc gia, Hiệp đội quỹ hƣu trí bổ sung,... Trong hệ thống
BHXH của Pháp thì chế độ hƣu trí cơ bản đƣợc xem là hệ thống mang tính
tƣơng trợ cộng đồng rất cao. Tỷ lệ đóng BHXH năm 2016 là 15,45% trên
phần lƣơng trong giới hạn trần của ASXH; 2% trên tổng số lƣơng ngoài mức
trần. Khác với Việt Nam, tuổi nghỉ hƣu ở Pháp đƣợc quy định là 60 tuổi
chung cho nam và nữ. Mức lƣơng hƣu đƣợc tính dựa trên 3 yếu tố: lƣơng cơ
bản hoặc thu nhập trung bình hàng năm (đƣợc tính dựa trên cơ sở 25 năm có
thu nhập tốt nhất); tỷ lệ hƣởng và thời gian đóng vào hệ thống BHXH. Tỷ lệ
hƣởng lƣơng hƣu đƣợc tính mức tối đa là 50% giảm dần theo một tỷ lệ xác
định bằng chênh lệch giữa số quý thực tham gia bảo hiểm và số quý tham gia
bảo hiểm cần thiết để nhận tỷ lệ tối đa, cùng với việc xem xét tuổi của từng cá
nhân và tổng thời gian tham gia bảo hiểm. Tỷ lệ hƣởng tối thiểu là 37,5% đối
với cá nhân sinh ra từ năm 1953 trở về sau. Thời hạn tham gia bảo hiểm đƣợc
sử dụng để xác định tỷ lệ trả lƣơng hƣu giữa tuổi nghỉ hƣu tối thiểu và tuổi tự
động đƣợc hƣởng lƣơng hƣu đầy đủ (giữa 62 và 67 cho những ngƣời sinh sau
01/01/1955). Tỷ lệ đƣợc hƣởng đủ 50% đối với ngƣời có thời gian tham gia
bảo hiểm tổng cộng 160 - 172 quý (tùy theo năm sinh), tuổi trên 67 (đối với
những ngƣời sinh sau năm 1955) hoặc thuộc danh mục đặc biệt (ngƣời không
có khả năng làm việc, cựu chiến binh hay những tù nhân chiến tranh và ngƣời
lao động nữ đã có ít nhất ba con nhỏ).
31
1.2.3.2. Bảo hiểm thu nhập đối với NCT từ bảo hiểm xã hội tự nguyện
Bảo hiểm thu nhập từ bảo hiểm xã hội tự nguyện là hình thức bảo hiểm
mà ngƣời tham gia tự nguyện tham gia và đƣợc lựa chọn mức đóng, phƣơng
thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nƣớc có chính sách hỗ trợ
tiền đóng BHXH để ngƣời tham gia hƣởng chế độ hƣu trí. Cũng giống nhƣ loại
hình bảo hiểm thu nhập từ bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi đủ điều kiện về tuổi
đời và thời gian đóng BHXH thì NCT đƣợc nghỉ hƣu, lƣơng hƣu hàng tháng
của ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng ổn định và hƣởng lâu dài.
Tuy nhiên, NCT tham gia loại hình BHXH tự nguyện không đƣợc nghỉ hƣu
sớm do điều kiện lao động, tính chất công việc hoặc bị suy giảm KNLĐ.
BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm mang tính ƣu việt đối với
những lao động nông thôn, lao động tự do,... bởi ngƣời tham gia đƣợc lựa
chọn mức đóng, phƣơng pháp đóng phù hợp với thu nhập của mình nhƣng
vẫn đƣợc chia sẻ khó khăn, hỗ trợ thu nhập trong một số trƣờng hợp theo quy
định của pháp luật
Bảo hiểm hƣu trí tự nguyện là loại hình đang đƣợc đông đảo ngƣời lao
động trên thế giới lựa chọn nhằm đảm bảo an toàn về tài chính của bản thân
khi đã hết tuổi lao động. Bảo hiểm hƣu trí tự nguyện kết hợp giữa quyền lợi
hƣu trí và quyền lợi bảo hiểm rủi ro, đƣợc hoạt động theo cơ chế “đóng –
hƣởng”, ngƣời lao động và doanh nghiệp có thể thỏa thuận mức đóng góp để
đạt đƣợc quyền lợi hƣu trí sau khi nghỉ hƣu theo mong muốn mà không bị
ràng buộc mức đóng cố định và thời gian đóng tối thiểu. Bên cạnh đó, với
những ngƣời lao động không có mức lƣơng cao hoặc bị gián đoạn cho chuyển
việc thì vẫn có thể nhận quyền lợi hƣu trí tốt nếu tự xây dựng và đóng góp
vào kế hoạch hƣu trí của bản thân.
Hiện nay, đa số các nƣớc trên thế giới đều đẩy mạnh xây dựng hệ thống
an sinh xã hội đa tầng nhằm góp phần mang lại các lợi ích cụ thể cho chính
32
quyền, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Đối với ngƣời lao động,
bảo hiểm hƣu trí tự nguyện giúp họ cải thiện khả năng tài chính để có cuộc
sống tốt hơn sau khi hết khả năng lao động cũng nhƣ chủ động đối phó với
các rủi ro phát sinh trong cuộc sống. Còn đối với doanh nghiệp, loại hình bảo
hiểm này thể hiện đƣợc chính sách đãi ngộ, quan tâm tới ngƣời lao động.
Ngay cả ở những quốc gia có hệ thống an sinh xã hội rất tốt thì ngƣời
dân cũng luôn chủ động với các kế hoạch tài chính “đa tầng” để đảm bảo cuộc
sống cho mình đến cuối hành trình. Ở Mỹ, ngƣời về hƣu có 3 nguồn thu nhập:
Một là từ nguồn bảo hiểm hƣu trí (bắt buộc) với tỷ lệ đóng là 6,2%; Hai là từ
bảo hiểm hƣu trí tự nguyện do doanh nghiệp tổ chức dựa trên cơ sở thỏa thuận
giữa các bên và đƣợc đƣa vào thỏa ƣớc lao động hoặc hợp đồng lao động; Ba
là tiết kiệm hƣu trí cá nhân, đƣợc hình thành trên cơ sở ngƣời lao động mở
một tài khoản riêng và đóng tiền vào. Tại Canada - một trong những quốc gia
đƣợc xem là đáng sống nhất trên thế giới, hệ thống hƣu trí bao gồm “ba trụ
cột” gồm quỹ an sinh ngƣời cao tuổi (OAS), kế hoạch hƣu trí của Canada
(CPP) và kế hoạch hƣu trí Quebec (QPP), ngoài ra còn có các khoản trợ cấp
tự nguyện nhƣ RRSP. Ngƣời về hƣu ở Canada còn có tài sản bên ngoài quỹ
hƣu trí chính thức và mạng lƣới hỗ trợ của gia đình và bạn bè.
Hiện nay, một số nƣớc ở khu vực Châu Á nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan,
Hồng Kông... đều đẩy mạnh xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng góp
phần mang lại các lợi ích cụ thể cho chính quyền, ngƣời lao động và ngƣời sử
dụng lao động. Đối với ngƣời lao động, bảo hiểm tự nguyện giúp cải thiện
khả năng tài chính để có cuộc sống tốt hơn sau khi về hƣu cũng nhƣ chủ động
đối phó với các rủi ro phát sinh. Đối với doanh nghiệp, loại hình bảo hiểm này
thể hiện đƣợc chính sách đãi ngộ, quan tâm tới ngƣời lao động.
Có thể thấy, Mỹ, Canada hay các nƣớc trong khu vực Châu Á kể trên
đều là những nƣớc phát triển và có chính sách phúc lợi xã hội rất tốt nhƣng
33
ngƣời dân vẫn tham gia bảo hiểm tự nguyện cho thấy sự cần thiết của loại
hình bảo hiểm này và gần nhƣ nó đã trở thành xu thế tất yếu của thế giới.
1.2.3.3. Bảo hiểm xã hội đối với NCT từ bảo hiểm hưu trí bổ sung
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, tác
động của quá trình tự do dịch chuyển lao động và áp lực già hóa dân số đối
với hệ thống an sinh xã hội của các quốc gia là rất lớn. Chính vì thế, xu hƣớng
chung của các nƣớc trên thế giới hiện nay là xây dựng hệ thống hƣu trí đa
tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ lẫn nhau nhằm bảo đảm cuộc sống tốt đẹp hơn
cho ngƣời lao động. Bảo hiểm hƣu trí bổ sung cùng với hƣu trí cơ bản bắt
buộc sẽ tạo ra sự đa dạng để ngƣời lao động tự lựa chọn, tăng cƣờng tiết kiệm
chi tiêu lúc trẻ làm “của để dành”, từ đó góp phần quan trọng bảo đảm an sinh
xã hội cho ngƣời lao động khi về già.
Theo nghiên cứu và tổng kết từ các nƣớc trên thế giới, bảo hiểm hƣu trí
bổ sung là một chƣơng trình BHXH tự nguyện (hoặc bắt buộc), có cơ chế tạo
lập quỹ từ sự đóng góp của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động dƣới
hình thức các tài khoản tiết kiệm cá nhân, đƣợc bảo toàn và tích lũy thông qua
hoạt động đầu tƣ trên thị trƣờng tài chính dƣới sự giám sát của các cơ quan
quản lý nhà nƣớc.
Các chuyên gia về bảo hiểm xã hội cho rằng, thu nhập từ hƣu trí cơ bản
của ngƣời nghỉ hƣu sẽ từng bƣớc giảm dần và thu nhập từ hƣu trí bổ sung sẽ
tăng dần khi kinh tế phát triển đang là xu hƣớng phổ biến trên thế giới. Ở
Cộng hoà Liên bang Đức, hệ thống bảo hiểm hƣu trí bao gồm: bảo hiểm hƣu
trí bắt buộc; bảo hiểm hƣu trí bổ sung (khoảng 50% ngƣời lao động tham gia);
và bảo hiểm hƣu trí tƣ nhân do ngƣời lao động tự nguyện mua. Tại Pháp,
lƣơng hƣu từ hƣu trí cơ bản chỉ chiếm từ 20% đến 25% và lƣơng hƣu từ hƣu
trí bổ sung chiếm từ 55% đến 60% nguồn thu nhập hƣu trí...[35]. Hƣu trí đa
tầng sẽ góp phần giải quyết những rủi ro có liên quan đến vấn đề già hóa dân
34
số, giúp đa dạng hóa nguồn lƣơng hƣu cho ngƣời lao động, giảm áp lực cho
nguồn lƣơng hƣu cơ bản và tốt hơn hệ thống hƣu trí đơn tầng.
Bảo hiểm hƣu trí bổ sung là chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện
mang tính chất tự nguyện nhằm bổ sung cho chế độ lƣơng hƣu trong bảo hiểm
xã hội bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng góp của ngƣời lao động và
ngƣời sử dụng lao động, tồn tại dƣới dạng các tài khoản cá nhân, đƣợc bảo
toàn và tích lũy thông qua hoạt động đầu tƣ, do các định chế tài chính trung
gian thực hiện và đƣợc quản lý bởi các cơ quan quản lý nhà nƣớc theo quy
định của pháp luật. Quỹ hƣu trí bổ sung đƣợc hình thành trên cơ sở đóng góp
của ngƣời lao động và hoặc ngƣời sử dụng lao động và sẽ đƣợc quản lý bởi
các công ty quản lý quỹ đƣợc Ban điều hành quỹ (gồm đại diện ngƣời lao
động và chủ lao động) chỉ định.
Trên thế giới, nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển đều đã
xây dựng một hệ thống chế độ hƣu trí đa tầng. Hệ thống bảo hiểm hƣu trí tại
Mỹ, ngoài hƣu trí cơ bản, ngƣời lao động còn tham gia hƣu trí bổ sung. Tùy
thuộc đối tƣợng tham gia, bảo hiểm hƣu trí bổ sung đƣợc chia làm 2 loại: Bảo
hiểm hƣu trí bổ sung doanh nghiệp, áp dụng cho ngƣời lao động làm việc tại
doanh nghiệp; Bảo hiểm hƣu trí bổ sung nghề nghiệp, áp dụng cho khối hành
chính sự nghiệp. Điểm chung của bảo hiểm hƣu trí bổ sung của Mỹ là NLĐ
và NSDLĐ cùng đóng góp vào quỹ, trong đó mức đóng góp của NSDLĐ
không thấp hơn mức đóng của NLĐ và có giới hạn mức trần đóng; Các khoản
đóng góp hai bên đƣợc trừ ra khỏi thuế thu nhập cá nhân; Thu nhập từ đầu tƣ
của quỹ hƣu trí không phải đóng thuế. Bảo hiểm hƣu trí bổ sung là sân chơi tự
nguyện nhƣng vẫn phải tuân thủ Luật đảm bảo hƣu trí nhằm bảo vệ ngƣời
tham gia với quy định về thời gian tham gia tối thiểu để đƣợc hƣởng, nghĩa vụ
của bên nhận ủy thác tài sản và mức đóng góp tối thiểu. Hệ thống bảo hiểm
hƣu trí ở Thái Lan cũng tƣơng tự nhƣ của Mỹ. Về bảo hiểm hƣu trí bổ sung,
35
chính sách nêu rõ mức đóng của mỗi bên giới hạn từ 3% đến 15% tiền lƣơng
tháng của NLĐ. Ở Pháp, chế độ hƣu trí bổ sung áp dụng cho công chức nhà
nƣớc làm việc trong khu vực công ngoài phần đóng BHXH cơ bản trên tiền
lƣơng chính còn phải đóng BHHT bổ sung bắt buộc tính trên các khoản: Tiền
thƣởng, phụ cấp lƣơng, làm thêm và các phúc lợi bằng hiện vật do hệ thống
hƣu trí bổ sung cho công chức thực hiện. Tổng số tiền đóng góp đƣợc NSDLĐ
kê khai hàng năm và đƣợc quy đổi thành điểm, giá trị sở hữu của điểm đƣợc
Hội đồng quản trị ấn định hàng năm, quyền lợi đƣợc tích lũy qua các năm. Mức
lƣơng hƣu trả cho NLĐ sẽ phụ thuộc vào số điểm tích lũy trong tổng thời gian
tham gia BHXH của NLĐ và độ tuổi mà họ nghỉ hƣu. Để tính lƣơng hƣu, số
điểm tích lũy đƣợc nhân với giá trị tại thời điểm tính lƣơng hƣu. Số tiền đƣợc
hƣởng tỷ lệ thuận với thu nhập trên tổng số thời gian tham gia BHXH.
Tuy nhiên bên cạnh việc thực hiện bảo hiểm hƣu trí bổ sung nhằm mở
rộng đối tƣợng tham gia, bổ sung thu nhập thì các quỹ hƣu trí bổ sung tiềm ẩn
nguy cơ mất cân đối nếu không có những cải cách thì gánh nặng sẽ thuộc về
ngân sách nhà nƣớc, phải chi trả rất lớn. Chính vì vậy cần nghiên cứu kĩ các
phƣơng pháp đóng hƣởng, công thức tính toán, các thủ tục hồ sơ, quản lý đối
tƣợng và chi trả chế độ...
Có thể thấy, phần lớn các quốc gia đều xây dựng một hệ thống bảo
hiểm hƣu trí đa tầng, trong đó có bảo hiểm hƣu trí bổ dung, thƣờng đƣợc thiết
kế với một số quy định cơ bản nhƣ tham gia tự nguyện; NLĐ và NSDLĐ
cùng đóng vào quỹ; có quy định giới hạn mức đóng, điều kiện đƣợc hƣởng;
mức hƣởng phụ thuộc mức đóng, thời gian đóng của từng ngƣời; mỗi ngƣời
có một tài khoản riêng; mức đóng, mức hƣởng và lãi suất thu đƣợc từ hoạt
động đầu tƣ của quỹ không phải chịu thuế thu nhập; thiết lập mô hình tổ chức
quản lý, giám sát quỹ chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời thụ hƣởng.
36
1.2.3.4. Khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thu
nhập đối với người cao tuổi
Trong những năm trở lại đây, các cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam
thực hiện nhiều cuộc giám sát, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho
ngƣời lao động. Việc tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa quan
trọng trong việc hạn chế những hành vi, quyết định sai phạm của ngƣời sử
dụng lao động mà ảnh hƣởng trực tiếp tới quyền lợi của ngƣời lao động dẫn
đến những khiếu nại về BHXH không đáng có. Nội dung công dân nộp đơn
khiếu nại chủ yếu về việc giải quyết chế độ hƣu trí, tố cáo đối tƣợng khai man
hồ sơ và thời gian công tác để hƣởng chế độ bảo hiểm xã hội. Về bản chất thì
ngƣời nào, cơ quan nào ra quyết định, hành vi hành chính về bảo hiểm xã hội
thì ngƣời đó, cơ quan đó sẽ giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi hành
chính của mình.
Ngoài ra, việc áp dụng các quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội một
cách chồng chéo của các cơ quan, doanh nghiệp đã dẫn tới những sai phạm về
bảo hiểm xã hội. Mặt khác, nhiều trƣờng hợp khiếu nại, tố cáo đã đƣợc các
cấp, các ngành và cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết đúng quy định của pháp
luật nhƣng công dân vẫn cố tình gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan Trung
ƣơng, gây phức tạp tình hình.
37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chƣơng 1 đã nghiên cứu và nêu rõ các vấn đề lý luận về bảo hiểm thu
nhập đối với ngƣời cao tuổi thông qua khái niệm, nguyên tắc, vai trò của bảo
hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi, đồng thời nêu một vài đặc điểm về bảo
hiểm hƣu trí ở một số nƣớc trên thế giới để so sánh, đồng thời rút ra đƣợc một
số kinh nghiệp đối với Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Chƣơng I đã làm
sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao
tuổi, đồng thời trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã làm rõ hơn một số nội dung
về nguyên tắc của bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi nhƣ nguyên tắc
nâng cao tuổi hƣởng chế độ hƣu trí khi tuổi thọ của NCT và mức sống đƣợc
nâng cao trong mối quan hệ với việc cân bằng quỹ BHXH.
38
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM
THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI
Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển (kể từ ngày thành lập BHXH
Việt Nam năm 1995), mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhƣng đƣợc sự quan
tâm của Đảng, Nhà nƣớc, Quốc hội, Chính phủ; sự hỗ trợ, phối hợp của các
bộ, ban, ngành ở Trung ƣơng và cấp ủy, chính quyền địa phƣơng; cùng với sự
nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và ngƣời lao động,
ngành BHXH Việt Nam đã đạt đƣợc những bƣớc tiến vững chắc, với những
kết quả khá toàn diện, nổi bật. Theo quy định của pháp luật, nội dung pháp
luật hiện hành về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam gồm:
bảo hiểm hƣu trí hàng tháng của BHXH bắt buộc, bảo hiểm hƣu trí hàng
tháng của BHXH tự nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ sung.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập tới việc phân tích thực
trạng pháp luật đối với bảo hiểm thu nhập đối với NCT từ các khoản thu nhập
chủ yếu sau khi nghỉ hƣu và các quy định về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm. Các khoản thu nhập này bao gồm: lƣơng hƣu từ BHXH bắt buộc và tự
nguyện; bảo hiểm hƣu trí bổ sung.
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu nhập
đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện
2.1.1. Đối tượng áp dụng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc
So với Luật BHXH năm 2006, NLĐ thuộc đối tƣợng áp dụng BHXH
bắt buộc theo quy định của Luật BHXH năm 2014 đã đƣợc mở rộng nhiều
hơn, tiếp cận đƣợc hầu hết lực lƣợng lao động là công dân Việt Nam có tham
gia quan hệ lao động. Việc mở rộng đối tƣợng tham gia nhằm nâng cao độ
bao phủ BHXH lên các nhóm đối tƣợng trong xã hội, đảm bảo ASXH bền
39
vững nhất là an sinh tuổi già, phấn đấu đạt mục tiêu mà Đảng và Nhà nƣớc đã
đặt ra đối với BHXH tại Nghị quyết số 15-NQ/TW; Nghị quyết số 21-NQ/TW
“đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH” và
hƣớng tới bao phủ BHXH toàn dân theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW.
Cụ thể các đối tƣợng tham gia bảo hiểm hƣu trí đƣợc quy định tại Điều 2
Khoản 1 Luật BHXH năm 2014 [8].
Các đối tƣợng áp dụng BHXH bắt buộc nêu trên cũng là các đối tƣợng
áp dụng chế độ lƣơng hƣu và họ sẽ đƣợc hƣởng lƣơng hƣu khi đáp ứng đủ các
điều kiện pháp luật quy định.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trƣớc những thách thức to lớn của quá
trình già hóa dân số nhanh chóng. Tuổi thọ trung bình của nƣớc ta đã tăng từ
68,6 tuổi (năm 1999) lên 73,2 tuổi (năm 2014) và dự báo sẽ tăng lên tới 78
tuổi (2030) và 80,4 vào năm 2050. Tính đến hết năm 2017, cả nƣớc có trên 11
triệu ngƣời cao tuổi, chiếm khoảng 11,95% dân số. Trong đó, có khoảng gần
2 triệu ngƣời từ 80 tuổi trở lên. Dự báo, nƣớc ta sẽ chỉ mất không tới 20 năm
để tỷ lệ ngƣời từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% tổng dân số, tức là
chuyển từ giai đoạn “đang già” sang “già” – tốc độ thuộc hàng cao nhất thế
giới, thậm chí đến năm 2038, nhóm cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm đến 20%
tổng dân số [11]. Xu hƣớng này có thể đƣợc thành tựu của chính sách dân số
và điều kiện sống của ngƣời dân. Mặc dù vậy, khi tỷ lệ NCT ngày càng tăng
thì đồng nghĩa với việc gánh nặng về vấn đề chi trả lƣơng hƣu cho ngƣời cao
tuổi ngày càng lớn. Chính điều này đã đặt ra những thách thức lớn đối với
việc đảm bảo an sinh xã hội cho ngƣời cao tuổi. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã
hội đang ở mức rất thấp, số ngƣời đƣợc hƣởng lƣơng hƣu mới chỉ có khoảng
gần 2,3 triệu. Theo BHXH Việt Nam, 70% ngƣời cao tuổi không có tích lũy
vật chất; 2,3% gặp khó khăn, thiếu thốn. Trên 70% ngƣời cao tuổi vẫn tự lao
động kiếm sống cùng với sự hỗ trợ của con cháu và gia đình, chỉ có hơn
40
25,5% sống bằng lƣơng hƣu hay trợ cấp xã hội...[38]. Do vậy, vấn đề mở rộng
diện bao phủ bảo hiểm xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc đảm bảo
nguồn thu nhập chính cho ngƣời lao động khi đã hết độ tuổi lao động.
Có thể thấy cùng với sự phát triển của đất nƣớc, các chính sách BHXH
đã dần đƣợc mở rộng đối tƣợng tham gia vào hệ thống BHXH. Nếu trƣớc
năm 1995, đối tƣợng tham gia và hƣởng chế độ chỉ giới hạn đối với cán bộ,
công nhân, viên chức làm việc trong các khu vực Nhà nƣớc thì đến năm 1995
diện bao phủ đối tƣợng BHXH đã đƣợc mở rộng ra các doanh nghiệp có sử
dụng từ 10 lao động trở lên... Với sự ra đời của Luật BHXH năm 2006, chính
sách BHXH đã đƣợc mở rộng đến các lao động làm việc trong các hộ sản xuất
kinh doanh cá thể, hợp tác xã, tổ hợp tác. Đến năm 2014, Luật BHXH tiếp tục
đƣợc mở rộng đối tƣợng tham gia là NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài
theo hợp đồng; NLĐ làm việc theo HĐLĐ từ 1 tháng đến dƣới 3 tháng và đối
với NLĐ nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam về việc mở rộng diện bao
phủ đối tƣợng tham gia BHXH trong thời gian qua có thể thấy số ngƣời tham
gia BHXH gia tăng theo từng năm. Theo báo cáo thẩm tra của Chính phủ về
tình hình thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, tính đến hết năm 2017, tổng
số đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc là 13.591.492 ngƣời, vƣợt kế hoạch đề
ra (theo kế hoạch đề ra là 13.443.392 ngƣời), tăng 5,76% so với năm 2016, tỷ
lệ tăng thấp hơn năm 2016 (6,45%) và mới chỉ bao phủ khoảng 24,8% lực
lƣợng lao động tử 15 tuổi trở lên (28.2% lực lƣợng lao động trong độ tuổi lao
động) [14]. Theo báo cáo kết quả công tác năm 2018 của BHXH Việt Nam,
cả nƣớc có số ngƣời tham gia BHXH bắt buộc là 14,45 triệu ngƣời [29], tăng
khoảng 6,3% so với năm 2017. Bên cạnh đó, năm 2017 số ngƣời về hƣởng
lƣơng hƣu hằng tháng là 144.822 ngƣời (tăng 19,82%) so với năm 2016 và
tăng chủ yếu tập trung nhóm bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên
41
nhằm tránh bị áp dụng công thức tính lƣơng hƣu theo quy định mới của Luật
Bảo hiểm xã hội. Số ngƣời hƣởng BHXH một lần là 666.955 ngƣời tăng
7,62% so với năm 2016 và gấp 4,6 lần số ngƣời hƣởng lƣơng hƣu hằng tháng,
điều này ảnh hƣởng lớn đến nỗ lực mở rộng độ bao phủ và mục tiêu bảo đảm
an sinh xã hội bền vững cho ngƣời lao động.
Tuy Luật BHXH đã bao phủ toàn bộ lực lƣợng lao động nhƣng việc
phát triển đối tƣợng tham gia BHXH trên thực tế lại còn đang rất hạn chế.
Thông qua các số liệu trên thì với tốc độ gia tăng đối tƣợng tham gia BHXH
các năm qua, nếu không có các giải pháp cải thiện thì khó đạt đƣợc chỉ tiêu
đến năm 2020 có khoảng 50% lực lƣợng lao động tham gia BHXH, và với tốc
độ già hóa dân số ở nƣớc ta hiện nay thì trong tƣơng lai sẽ có nhiều ngƣời cao
tuổi không có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho bản thân, tạo nên gánh nặng
cho gia đình và xã hội. Nguyên nhân của sự hạn chế này nhƣ trong Luật
BHXH năm 2014 vẫn chƣa áp dụng BHXH bắt buộc đối với: Chủ hộ kinh
doanh cá thể; ngƣời quản lý doanh nghiệp; ngƣời quản ký, điều hành hợp tác
xã không hƣởng lƣơng; ngƣời lao động làm việc theo chế độ linh hoạt. Hiện
nay có khoảng hơn 5 triệu thuộc nhóm đối tƣợng là chủ hộ kinh doanh cá thể,
trong đó có khoảng 3,7 triệu hộ có đăng ký kinh doanh nhƣng lại không thuộc
diện tham gia BHXH bắt buộc [19]. Nhu cầu tham gia BHXH của nhóm đối
tƣợng này là rất lớn, nên cần phải rà soát, mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH
bắt buộc đối với nhóm đối tƣợng trên. Ngoài ra, tính tuân thủ pháp luật về
BHXH của NSDLĐ, NLĐ chƣa thật sự cao, còn nhiều doanh nghiệp cố tình
trốn đóng hay đóng không đủ số lƣợng ngƣời tham gia BHXH bắt buộc. Cơ
quan BHXH cho biết, trong năm 2018, toàn ngành BHXH đã thanh tra
chuyên ngành tại hơn 8 nghìn đơn vị, doanh nghiệp và kiểm tra tại hơn 9
nghìn đơn vị. Cùng với đó, thanh kiểm ta liên ngành tại hơn 5 ngàn đơn vị
doanh nghiệp và phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về
42
BHXH, BHYT. Qua đó phát hiện 44.460 lao động thuộc đối tƣợng phải tham
gia BHXH, BHYT, BH thất nghiệp nhƣng chƣa tham gia hoặc đóng thiếu thời
gian; 47.393 lao động đóng thiếu mức quy định. Theo Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam, tình trạng doanh nghiệp chƣa tham gia BHXH còn rất lớn. Cả
nƣớc có khoảng tới 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động, nhƣng chỉ có hơn
235.000 doanh nghiệp đóng BHXH cho ngƣời lao động (đạt khoảng 47%).
Nhƣ vậy cũng đồng nghĩa hơn 250 ngàn doanh nghiệp đang hoạt động không
đóng BHXH cho ngƣời lao động [24].
Theo báo cáo của BHXH Việt Nam về công tác thu BHXH, BHYT,
BHTN sáu tháng đầu năm cho thấy, BHXH các địa phƣơng trong cả nƣớc đã
có nhiều nỗ lực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển đối tƣợng tham gia
BHXH, BHYT... Tính đến ngày 30/6/2019, cả nƣớc phát triển đƣợc 14,483
triệu ngƣời tham gia BHXH bắt buộc, tăng 30.593 ngƣời so với tháng 12/2018.
Thông qua việc khai thác cơ sở dữ liệu do cơ quan thuế cung cấp, riêng trong
tháng 6/2019, cơ quan BHXH các địa phƣơng đã khai thác thêm đƣợc 2.997
đơn vị với 20.881 lao động tham gia BHXH, nâng tổng số sáu tháng đầu năm
có 44.323 đơn vị với 497.453 lao động tham gia BHXH bắt buộc [31].
Ngoài ra, sau khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, trên cơ
sở những quy định mới của Luật và các văn bản hƣớng dẫn, BHXH đã tập
trung hoàn thiện quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết các chế độ BHXH,
trong đó chú trọng đến vấn đề cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng CNTT,
tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tƣợng khi tham gia vào hệ thống BHXH.
Việc áp dụng CNTT vào công tác giải quyết các vấn đề về tham gia BHXH đã
kịp thời xử lý các tình trạng giải quyết chậm, muộn hoặc để tồn đọng hồ sơ
của các các nhân, tổ chức; đảm bảo quyền lợi đối với ngƣời tham gia BHXH,
tăng cƣờng công tác quản lý, nâng cao chất lƣợng phục vụ, đảm bảo quyền lợi
cho ngƣời hƣởng bảo hiểm ngày càng tăng.
43
2.1.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Các điều kiện quan trọng để NLĐ đƣợc hƣởng bảo hiểm là tuổi đời và
thời gian đóng bảo hiểm. Về nguyên tắc, bảo hiểm hƣu trí là bảo hiểm dành
cho những ngƣời già, không còn tham gia quan hệ lao động nữa, vì vậy mà
chỉ đến khi hết tuổi lao động, NLĐ mới đƣợc hƣởng chế độ này.
- Đối với NLĐ không bị suy giảm khả năng lao động từ 61%
Đối với NLĐ đủ tuổi và đủ năm tích lũy BHXH thì căn cứ theo Điều 54
Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định nhƣ sau: Về thời gian đóng BHXH để
đƣợc hƣởng lƣơng hƣu, NLĐ khi nghỉ việc phải có thời gian đóng BHXH từ đủ
20 năm trở lên. Về tuổi đời, những NLĐ làm việc trong điều kiện môi trƣờng
bình thƣờng thì độ tuổi đƣợc hƣởng lƣơng hƣu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55
tuổi. Còn đối với những NLĐ nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50
tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục
do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15
năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên; Riêng NLĐ đủ 20
năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc
khai thác than trong hầm lò đƣợc giảm tối đa 10 tuổi đời so với NLĐ làm việc
trong điều kiện lao động bình thƣờng (từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi);
Điều kiện về tuổi đời của những NLĐ thuộc lực lƣợng vũ trang nhân dân
thấp hơn 05 tuổi ở mỗi trƣờng hợp tƣơng ứng so với những NLĐ trong lực
lƣợng dân sự [8]; đƣợc quy định tại Điều 19 của Nghị định 103/2015/NĐ-CP
quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Công an nhân dân,
Luật Quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng 2016.
Quy định này đƣợc cho là hợp lý bởi so với lực lƣợng dân sự, điều kiện
làm việc của lực lƣợng vũ trang nhân dân vẫn đƣợc xem là khắt khe hơn, đòi
hỏi sự cống hiến, hy sinh của NLĐ cho xã hội nhiều hơn. Quy định nhƣ vậy
cũng thể hiện một phần chế độ ƣu đãi của Nhà nƣớc, của xã hội đối với lực
44
lƣợng lao động đặc biệt này. Tuy nhiên, do NLĐ trong lực lƣợng vũ trang đƣợc
quyền nghỉ hƣu sớm hơn so với NLĐ trong lực lƣợng dân sự nên họ đƣợc nhận
lƣơng hƣu với thời gian dài hơn nhóm lao động trong khu vực sản xuất kinh
doanh. Điều này dẫn đến việc Nhà nƣớc phải bù đắp một số tiền tƣơng đối lớn
mà nguy cơ sẽ gây mất an toàn tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội.
- Đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên
Luật BHXH năm 2014 có nhiều quy định mới về điều kiện hƣởng
lƣơng hƣu đối với những NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên,
nhất là điều kiện về tuổi đời của NLĐ.
Về thời gian đ ng BHXH, cũng giống nhƣ những NLĐ khác, NLĐ suy
giảm khả năng lao động từ 61% trở lên phải đóng BHXH đủ 20 năm trở lên
mới đƣợc xét hƣởng chế độ lƣơng hƣu.
Về tuổi đời và mức suy giảm khả năng lao động, những NLĐ thuộc lực
lƣợng dân sự phải thuộc một trong các trƣờng hợp đƣợc tính theo tỷ lệ quy
định tại Điều 55, Khoản 1 Luật BHXH 2014 [8].
Trƣờng hợp NLĐ thuộc lực lƣợng vũ trang nhân dân phải thuộc một
trong các trƣờng hợp sau đây: (1) Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi trở lên và bị
suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; (2) Bị suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thƣơng
binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành.
Theo quy định của Luật BHXH 2014, việc đánh giá chính xác mức độ
suy giảm khả năng lao động đối với NLĐ để làm căn cứ hƣởng lƣơng hƣu là vô
cùng quan trọng, là căn cứ giúp cơ quan BHXH xác định và giải quyết chế độ
hƣởng, bảo đảm quyền lợi cho NLĐ theo đúng quy định của pháp luật, đồng
thời giúp Nhà nƣớc quản lý, kiểm soát và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả,
chi trả đúng đối tƣợng, đảm bảo ASXH của đất nƣớc bền vững. Tuy nhiên, số
45
lƣợng NLĐ nghỉ hƣu trƣớc tuổi do suy giảm khả năng lao động đang có chiều
hƣớng gia tăng trong những năm gần đây. Đặc biệt, vào năm 2017 do lo lắng
về sự thay đổi chính sách tính lƣơng hƣu cho ngƣời nghỉ hƣu của năm 2018
thấp hơn so với 2017 nên tỷ lệ ngƣời nghỉ hƣu sớm trong năm 2017 đã tăng
khoảng 10% so với năm 2016 và đƣợc xem là năm có sự gia tăng đột biến của
đối tƣợng nghỉ hƣu sớm do suy giảm khả năng lao động. Vấn đề này đƣợc xem
là một trong những nguyên nhân tác động đến tuổi nghỉ hƣu trung bình thấp ở
Việt Nam, làm ảnh hƣởng đến sự cân đối của quỹ BHXH. Nguyên nhân gây ra
tình trạng trên do quy định chính sách còn chƣa chặt chẽ, công tác giám định y
khoa vẫn còn nhiều bất cập, nhiều trƣờng hợp mặc dù vẫn có thể tham gia lao
động bình thƣờng dù khám định suy giảm KNLĐ là 81%.
Nhìn chung các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện hƣởng chế
độ hƣu trí cơ bản không có gì thay đổi so với các quy định trƣớc, phù hợp với
thực tế và tƣơng đồng với pháp luật của một số nƣớc trên thế giới điểm mới
đối với nội dung này là việc mở rộng điều kiện hưởng lương hưu đối với lao
động nữ hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở cấp xã chỉ cần có
đủ 15 năm đ ng BHXH và đủ 55 tuổi). Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy ở
một số ngành thuộc khu vực hành chính sự nghiệp nhƣ nghiên cứu khoa học,
quản lý nhà nƣớc… tuy đến tuổi nghỉ hƣu nhƣng đa số NLĐ (đặc biệt là lao
động nữ) vẫn đủ sức khỏe để làm việc, đang phát huy đƣợc kinh nghiệm đã có
cho công việc. Một trong số đó sau khi về hƣu vẫn tiếp tục đi làm, vừa hƣởng
lƣơng theo hợp đồng, vừa hƣởng chế độ hƣu trí. Đây có thể là vấn đề cần xem
xét trong thời gian tới để có quy định phù hợp hơn, đáp ứng đƣợc nhu cầu của
đa số NLĐ, tránh lãng phí sức lao động và bội chi quỹ bảo hiểm.
Theo dự báo, đến năm 2050, tỷ lệ NCT ở nƣớc ta là khoảng 27 triệu
ngƣời, chiếm ¼ tổng dân số cả nƣớc. Với độ tuổi nghỉ hƣu nhƣ hiện nay, đang
còn rất nhiều NCT sức khỏe còn tốt và vẫn còn khả năng để làm những công
46
việc phù hợp nhằm mang lại thu nhập cho bản thân, gia đình và đóng góp một
phần lợi ích cho xã hội. Bên cạnh những ngƣời đƣợc hƣởng lƣơng hƣu thì còn có
một số lƣợng không nhỏ NCT không có lƣơng, không có nguồn thu nhập ổn
định nên cần có công việc để tạo ra thu nhập giúp họ đảm bảo đƣợc cuộc sống
và không cảm thấy trở thành gánh nặng cho xã hội. Theo thống kê, cứ khoảng 10
lao động lớn tuổi ở các đô thị thì có đến 7 lao động làm việc trong khu vực phi
chính thức bằng những công việc vất vả, có thu nhập thấp. Mặc dù vậy, để NCT
có thể tìm đƣợc công việc phù hợp với độ tuổi của họ không phải là điều dễ dàng
trong khi các quy định về lao động lớn tuổi ở nƣớc ta vẫn còn khá hạn chế, bên
cạnh đó thị trƣờng lao động dành riêng cho NCT chƣa đƣợc hình thành.
Theo nghiên cứu của Quỹ dân số Liên hợp quốc, 80% dân số sau khi
nghỉ hƣu đều có mong muốn tìm thêm việc làm, nhiều chủ doanh nghiệp cũng
mong muốn tìm kiếm những ngƣời nghỉ hƣu làm việc cho mình vì họ là
những ngƣời có nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên, để NCT tìm đƣợc việc làm là
không phải điều đơn giản, phần lớn công việc họ tìm đƣợc là do các mối quan
hệ quen biết hoặc đƣợc ngƣời thân giới thiệu, chƣa có kênh thông tin tuyển
dụng cho nhóm đối tƣợng lao động này. Trên các kênh thông tin tuyển dụng
chính thức hiện nay, độ tuổi mà các nhà tuyển dụng yêu cầu thƣờng từ 18 tuổi
đến 35 tuổi, từ 40 tuổi trở lên có rất ít sự lựa chọn, còn nhóm từ 60 tuổi trở
lên hầu nhƣ không có việc làm. Trên thế giới có rất nhiều nƣớc thực hiện tốt
các chính sách tạo việc làm cho NCT nhƣ Nhật Bản đã thiết lập các trung tâm
giới thiệu việc làm trên cả nƣớc và chỉ thu khoản phí rất nhỏ từ những ngƣời
đăng ký tìm việc. Nhiệm vụ của các trung tâm này là tìm và giới thiệu những
công việc đơn giản, giờ làm việc ngắn cho những NCT sống trong khu vực và
có trách nhiệm đóng tiền bảo hiểm cho các hội viên. Bên cạnh đó, chính
quyền địa phƣơng nơi NCT sinh sống cũng sẽ thuê lao động cao tuổi làm các
công việc phù hợp nhƣ bảo đảm an toàn cho học sinh trong khung giờ đi và
về, dọn vƣờn, cắt cỏ...
47
Thực tế cho thấy, các kinh nghiệm của lao động cao tuổi rất quý giá,
nhƣng để giải quyết việc làm cho đối tƣợng này vẫn đang là vấn đề khó khăn.
Độ tuổi nghỉ hƣu ở nƣớc ta hiện nay đang tạo cho nhiều ngƣời thói quen dựa
vào lƣơng hƣu mà không muốn tiếp tục làm việc dù sức khỏe và khả năng vẫn
còn; chỉ có một số ít ngƣời tự tìm đến công việc thì lại thiếu thông tin về thị
trƣờng lao động.
Ngoài ra quy định điều kiện về thời gian đóng BHXH để hƣởng lƣơng
hƣu còn tƣơng đối dài, khiến cho một bộ phận NLĐ không đủ khả năng tích
lũy đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu. Trong khi đó điều kiện hƣởng BHXH một
lần đƣợc quy định một cách rộng rãi, mức hƣởng BHXH một lần đƣợc tính
theo số năm đã đóng BHXH, bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lƣơng tháng
đóng BHXH trƣớc năm 2014; bằng 2 tháng mức bình quân tiền lƣơng tháng
đóng BHXH từ năm 2014 trở đi. Trƣờng hợp thời gian đóng BHXH chƣa đủ
1 năm thì mức hƣởng BHXH một lần bằng số tiền đã đóng, mức tối đa bằng 2
tháng mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH. Nhƣ vậy, việc tăng mức
hƣởng để đảm bảo quyền lợi cho ngƣời tham gia, tuy nhiên trong thực tế, điều
này làm cho tỷ lệ ngƣời nhận BHXH một lần đang có xu hƣớng gia tăng và
làm giảm diện bao phủ của BHXH.
2.1.3. Mức lương hưu của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Mức lƣơng hƣu hằng tháng của NLĐ đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng lƣơng
hƣu hằng tháng nhân với mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH. Trong
đó, tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu phụ thuộc các yếu tố giới tính, tuổi, chức danh
nghề hoặc công việc, nơi làm việc, thời gian đã đóng BHXH. Cụ thể nhƣ sau:
- Đối với NLĐ không bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên
Luật BHXH năm 2014 chia thành hai giai đoạn với hai cách tính tỷ lệ
% lƣơng hƣu khác nhau (giai đoạn năm 2016 và năm 2017; giai đoạn từ năm
2018 trở đi) [8]. Theo Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, tại Điều 7 của
48
Nghị định này quy định về mức lƣơng hƣu hàng tháng: Mức lƣơng hƣu hàng
tháng của ngƣời lao động đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng
nhân với mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ hƣởng
lƣơng hƣu hàng tháng của ngƣời lao động đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu theo
quy định tại Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 [8].
So với Luật BHXH năm 2006, từ năm 2018 trở đi mức lƣơng hƣu của
NLĐ sẽ thay đổi một cách căn bản theo xu hƣớng NLĐ phải có thời gian
đóng BHXH dài hơn (đến 05 năm) thì mới đƣợc hƣởng đủ mức lƣơng hƣu tối
đa là 75%. Sự thay đổi này chủ yếu xuất phát từ nhu cầu cân đối quỹ BHXH
trên cơ sở tính toán tƣơng đối hợp lý khả năng đáp ứng của NLĐ về thời gian
đóng BHXH để có thể đƣợc hƣởng mức lƣơng hƣu tối đa (tính theo thời gian
đóng BHXH bình quân của những NLĐ hƣởng lƣơng hƣu), tuổi thọ trung
bình của những NLĐ hƣởng lƣơng hƣu, lƣợng tài chính đóng vào quỹ BHXH
và lƣợng tài chính phải chi trả lƣơng hƣu cho NLĐ... Hiện nay, việc điều
chỉnh công thức tính lƣơng hƣu là vấn đề cần thiết để thích ứng đƣợc với tình
trạng già hóa dân số đang diễn ra theo chiều hƣớng gia tăng, tiến tới cân bằng
quan hệ đóng – hƣởng và đảm bảo việc cân đối quỹ BHXH trong tƣơng lai.
Tuy nhiên, năng lực xây dựng phát triển các chính sách còn nhiều hạn chế,
khả năng phân tích dự báo tình trạng còn bất cập; việc khảo sát, đánh giá tình
hình triển khai còn chƣa thật sự phản ánh đúng với thực tiễn đang diễn ra; các
chỉ tiêu thống kê làm cơ sở cho việc phân tích, hoạch định chính sách còn
chƣa đầy đủ, thiếu chính xác, phƣơng pháp tính toán còn thủ công... Những
điều này đã làm ảnh hƣởng tới việc xây dựng công thức tính lƣơng hƣu đảm
bảo tính công bằng cho ngƣời hƣởng.
- Đối với NLĐ nghỉ hƣu trƣớc tuổi do bị suy giảm khả năng lao động
từ 61% trở lên:
Theo Luật BHXH năm 2014, từ ngày 01/01/2016 trở đi, cách tính tỷ lệ
49
% lƣơng hƣu của NLĐ nghỉ hƣu trƣớc tuổi do bị suy giảm khả năng lao động
từ 61% trở lên cũng có sự thay đổi cơ bản. Cụ thể, mức lƣơng hƣu hằng tháng
của những NLĐ này trƣớc hết cũng đƣợc tính nhƣ những ngƣời không bị suy
giảm khả năng lao động nhƣ trên, sau đó cứ mỗi năm NLĐ nghỉ hƣu trƣớc
tuổi quy định bị giảm 2% (theo quy định của Luật BHXH năm 2006 chỉ bị
giảm 1%). Mức lƣơng hƣu thấp nhất của NLĐ bằng mức lƣơng cơ sở, trừ hai
trƣờng hợp: Ngƣời hoạt động không chuyên trách ở xã, phƣờng, thị trấn; Lao
động nữ là ngƣời hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã,
phƣờng, thị trấn tham gia BHXH khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dƣới
20 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi.
Theo nghiên cứu của Viện khoa học BHXH, tuổi nghỉ hƣu trung bình
của ngƣời lao động Việt Nam chỉ đạt 54,29 tuổi. Trong đó, nam giới là 55,51
tuổi thấp hơn tuổi quy định là 4,5 tuổi; nữ giới là 53,08 thấp hơn tuổi quy định
là 1,2 tuổi; điều này đồng nghĩa với việc chƣa đạt ngƣỡng tuổi đƣợc coi là
NCT (nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi) tại Việt Nam [41]. Hiện nay, ngƣời nghỉ hƣu ở
Việt Nam đƣợc nhận lƣơng hƣu trung bình thêm 24,1 năm tính từ khi nghỉ
hƣu, do tuổi nghỉ hƣu sớm (hiện tuổi nghỉ hƣu thực tế là 55,6 tuổi đối với nam
và 52,6 tuổi đối với nữ), thấp hơn tuổi về hƣu theo quy định hiện hành là 55
tuổi đối với nữ và 60 tuổi với nam. Tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu của lao động ở
Việt Nam cao (mức lƣơng tối đa là 75% lƣơng bình quân khi ngƣời lao động
(NLĐ) còn làm việc) trong khi tỷ lệ trung bình ở các nƣớc Châu Âu chỉ 40-
50%. Tuy vậy giá trị tuyệt đối của lƣơng hƣu lại thấp, phổ biến ở mức 3-4
triệu đồng/tháng, hiện nay có hơn 3200 ngƣời có mức lƣơng dƣới 1,3
triệu/ngƣời/tháng. Mức lƣơng trên là quá thấp so với nhu cầu cuộc sống và
giá cả thị trƣờng hiện nay, khiến cho đời sống phần lớn ngƣời nghỉ hƣu gặp
nhiều khó khăn [30]. Do mức đóng và thời gian đóng ít nên nhiều ngƣời
trƣờng hợp lƣơng hƣu thấp hơn cả mức lƣơng cơ sở (Mức lƣơng cơ sở hiện
50
hành là 1.390.000 đồng (Từ ngày 01/07 đến 31/12/2019 dự kiến là 1.490.000
đồng/tháng đây là dự kiến trong tháng 11/2018 tại kỳ họp thứ 6) [9]. Thậm
chí mức lƣơng hƣu thấp nhất Việt Nam hiện nay chỉ 350.000 đồng/tháng, còn
lại đại đa số ngƣời về hƣu nhận mức lƣơng 3-4 triệu đồng/tháng. Mức lƣơng
trên là khá thấp so với nhu cầu cuộc sống nên đời sống phần đông ngƣời cao
tuổi gặp nhiều khó khăn. Điển hình là trƣờng hợp của cô giáo Trƣơng Thị Lan
ở Hà Tĩnh có mức lƣơng 1,3 triệu đồng/tháng sau 37 năm công tác. Mặc dù
37 năm công tác, nhƣng cô Lan mới có 22 năm 8 tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Trong đó 17 năm là giáo viên hợp đồng, truy đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
với mức tiền lƣơng làm căn cứ đóng bảo hiểm ở mức thấp nhất (chỉ từ
120.000 đến 830.000 đồng); 4 năm 8 tháng đƣợc tuyển dụng biên chế, đóng
bảo hiểm xã hội trên mức lƣơng 3,7-4,4 triệu đồng. Bình quân mức tiền lƣơng
tháng đóng bảo hiểm xã hội của cô Lan là 1,8 triệu đồng. Luật BHXH quy
định 15 năm đầu đóng bảo hiểm xã hội đƣợc tính bằng 45%, sau đó thêm một
năm đƣợc tính bằng 3% đối với nữ. Trƣờng hợp cô Lan có 22 năm 8 tháng
đóng bảo hiểm xã hội, tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng là 69%. Do chƣa đủ
số năm công tác để hƣởng lƣơng hƣu mức tối đa, bình quân tiền lƣơng tháng
đóng bảo hiểm xã hội thấp nên lƣơng hƣu của cô Lan chỉ là 1.262.000 đồng
(1,8 triệu x 69%), đƣợc bù thêm 37.000 để thành 1,3 triệu đồng [28].
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì mức tiền
lƣơng quy định làm căn cứ đóng BHXH đối với đối tƣợng hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã là mức lƣơng cơ sở. Chính điều này đã dẫn đến sự bất
cập là những ngƣời hoạt động chuyên trách trƣớc đó có mức lƣơng, mức thu
nhập dùng làm căn cứ đóng BHXH cao hơn; nhƣng khi giải quyết việc hƣởng
lƣơng hƣu thì tính theo mức lƣơng của những năm cuối nên đối tƣợng này có
mức lƣơng hƣu thấp. Mặt khác, theo quy định của Luật BHXH năm 2014, cán
51
bộ không chuyên trách cấp xã khi nghỉ hƣu có mức lƣơng hƣu thấp hơn mức
lƣơng cơ sở thì lƣơng hƣu không đƣợc bù đủ bằng mức lƣơng cơ sở, trong khi
các đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc khác đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu
theo quy định có mức lƣơng hƣu hằng tháng thấp nhất bằng mức lƣơng cơ sở.
Đây là vấn đề bất cập trong tổ chức thực hiện, cần sớm sửa đổi, vì hiện tại,
mức lƣơng hƣu của ngƣời hoạt động không chuyên trách là thấp so với mức
lƣơng bình quân chung.
Có thể thấy tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu của NLĐ ở Việt Nam tối đa là 75%
trong khi trung bình ở các nƣớc châu Âu chỉ nằm ở mức 40-50%, nhƣng giá trị
tuyệt đối của lƣơng hƣu ở Việt Nam lại không cao, nguyên nhân là do mức đóng
và thời gian đóng ít nên nhiều ngƣời có mức lƣơng thấp hơn cả mức lƣơng cơ
sở. Tuy nhiên, thực tế trên đã phản ánh đúng nguyên tắc đóng BHXH: Đóng
nhiều hƣởng lƣơng nhiều, đóng ít hƣởng lƣơng ít. Nhiều NLĐ dù có thâm
niên công tác dài nhƣng mức đóng ít nên lƣơng hƣu sẽ thấp, mặc dù Việt
Nam đã thực hiện nhiêu lần điều chỉnh lƣơng hƣu. Nếu không tính thời
điểm điều chỉnh lƣơng hƣu năm 1993 thì từ năm 1995 đến năm 2017, trong
vòng 22 năm ở nƣớc ta đã thực hiện điều chỉnh lƣơng hƣu 16 lần. Từ năm
1995 đến năm 2017, mức điều chỉnh tăng lƣơng hƣu bình quân hằng năm là
11,06%/năm và mức điều chỉnh tăng lƣơng hƣu bình quân cho mỗi lần điều
chỉnh là 15,20% [23].
2.1.4. Điều chỉnh lương hưu của bảo hiểm xã hội bắt buộc
NLĐ thuộc đối tƣợng thực hiện chế độ tiền lƣơng do Nhà nƣớc quy
định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lƣơng này thì tính
bình quân tiền lƣơng tháng của số năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu. Số
năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu phụ thuộc vào thời điểm bắt đầu tham
gia BHXH.
52
Bảng 2.1. Số năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu để tính mức bình quân
Thời gian bắt đầu tham gia BHXH
Số năm đóng BHXH trƣớc khi nghỉ hƣu để tính mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH
Trƣớc 01/01/1995
05 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu
Từ ngày 01/01/1995 đến ngày 31/12/2000
06 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu
Từ ngày 01/01/2001 đến ngày 31/12/2006
08 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu
Từ ngày 01/01/2007 đến ngày 31/12/2015 Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2019
10 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu 15 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu
Từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/12/2024
20 năm cuối trƣớc khi nghỉ hƣu
Từ ngày 01/01/2025 trở đi
Của toàn bộ thời gian
tiền lƣơng tháng đóng BHXH [26]
Đối với NLĐ tham gia đóng BHXH trƣớc ngày 01/01/2016 thì tiền
lƣơng đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lƣơng tháng
đóng BHXH đƣợc điều chỉnh theo mức lƣơng cơ sở tại thời điểm hƣởng chế
độ (bằng hệ số tiền lương nhân với mức lương tối thiểu chung nay là mức
lương cơ sở tại thời điểm hưởng lương hưu).
NLĐ bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 trở đi thì
việc điều chỉnh tiền lƣơng đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân
tiền lƣơng tháng đóng BHXH đƣợc điều chỉnh tƣơng tự nhƣ NLĐ có toàn bộ
thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lƣơng do ngƣời SDLĐ quyết định (trên
cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ).
NLĐ có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lƣơng do
NSDLĐ quyết định thì tính bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH của toàn
bộ thời gian đóng BHXH. Mức tiền lƣơng đã đóng BHXH đƣợc điều chỉnh
trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ.
NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tƣợng thực hiện chế độ
tiền lƣơng do Nhà nƣớc quy định, vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ
53
tiền lƣơng do NSDLĐ quyết định thì mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng
BHXH để tính lƣơng hƣu là mức bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH
chung của các thời gian nhƣ đã nêu ở trên.
Từ ngày 01 tháng 7 năm 2019, mức lƣơng hƣu, trợ cấp bảo hiểm xã hội
và trợ cấp hàng tháng của các đối tƣợng quy định tại Điều 1 Thông tƣ
10/2019/TT-BLĐTBXH đƣợc tăng thêm 7,19% so với mức lƣơng hƣu, trợ
cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng của tháng 6 năm 2019
Cụ thể nhƣ sau:
Mức lƣơng hƣu, trợ Mức lƣơng hƣu, trợ
cấp bảo hiểm xã hội, cấp bảo hiểm xã hội, = x 1,0719 trợ cấp hàng tháng từ trợ cấp tháng 6 năm
tháng 7 năm 2019 2019
Các quyền lợi khi tham gia BHXH: Bên cạnh việc đƣợc hƣởng lƣơng
hƣu để đảm bảo cho cuộc sống NCT khi bị hạn chế hoặc mất khả năng lao
động thì NCT tham gia bảo hiểm hƣu trí còn có một số quyền lợi khác nhƣ
đƣợc cấp thẻ BHYT miễn phí do quỹ BHXH chi; Cấp thẻ ATM miễn phí khi
lập thủ tục hƣu; Hƣởng chế độ tuất khi chết; Nhận lƣơng hƣu hàng tháng tại
nơi cƣ trú; Lƣơng hƣu đƣợc điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh họat của
từng thời kỳ; Mức lƣơng hƣu thấp nhất bằng mức lƣơng tối thiểu chung;
Đƣợc nhận trợ cấp 1 lần khi nghỉ hƣu nếu đóng BHXH từ năm 26 trở đi đối
với nữ và năm 31 trở đi đối với nam: Kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và
năm thứ 26 trở đi đối với nữ, cứ mỗi năm đóng BHXH đƣợc tính bằng ½
tháng mức bình quân tiền công, tiền lƣơng đóng BHXH
2.2. Thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu
nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn
thực hiện
Ở Việt Nam, đa phần ngƣời lao động chỉ có lƣơng hƣu của bảo hiểm xã
54
hội là nguồn thu nhập duy nhất về già. Chƣa kể đối với những lao động tự do
thì bảo hiểm hƣu trí khi về già vẫn còn là một thách thức lớn. Trƣớc thực trạng
đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tƣ số 115/2013/TT-BTC về việc hƣớng dẫn
Bảo hiểm hƣu trí và Quỹ hƣu trí tự nguyện áp dụng đối với các doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ triển khai bảo hiểm hƣu trí tự nguyện tại Việt Nam. Thông
tƣ đƣợc đánh giá là cơ sở hành lang pháp lý quan trọng để các doanh nghiệp
bảo hiểm phát triển loại hình bảo hiểm hƣu trí tự nguyện.
Có thể thấy, bảo hiểm hƣu trí tự nguyện đang là một trong những xu
hƣớng đáng ghi nhận trong nỗ lực đƣa ra một giải pháp tài chính lâu dài, bền
vững. Việc tập trung phát triển một hệ thống an sinh xã hội - hƣu trí đa tầng,
mà cụ thể là bảo hiểm hƣu trí tự nguyện đƣợc xem là một chính sách góp
phần giúp Việt Nam bắt kịp xu thế chung của thế giới.
2.2.1. Đối tượng áp dụng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Theo quy định của Luật BHXH, ngƣời tham gia BHXH tự nguyện là
công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tƣợng tham gia
BHXH bắt buộc. Luật BHXH 2014 đã mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH tự
nguyện thông qua việc bỏ quy định khống chế trần tuổi tham gia; thay đổi quy
định mức sàn thu nhập tối thiểu đóng BHXH tự nguyện. Nhà nƣớc đã có
những chính sách hỗ trợ với một số nhóm đối tƣợng khi tham gia BHXH tự
nguyện; linh hoạt phƣơng thức đóng… Tuy nhiên, việc mở rộng đối tƣợng
tham gia BHXH hiện vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Một số nguyên nhân dẫn
đến tình trạng số ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đạt thấp là do nhiều ngƣời
vẫn chƣa hiểu đầy đủ về chính sách BHXH tự nguyện; thậm chí một bộ phận
dân cƣ còn chƣa biết có chính sách BHXH tự nguyện; thu nhập của ngƣời lao
động ở khu vực nông thôn còn thấp, không có sự ổn định; giai đoạn từ năm
2008 đến năm 2015 mức đóng BHXH tự nguyện còn cao so với thu nhập của
đa số ngƣời dân và trƣớc năm 2018 chƣa có sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nƣớc;
55
hạn chế ngay từ trong chính sách (chỉ có 2 chế độ hƣu trí và tử tuất, thời gian
đóng còn dài, chƣa linh hoạt nên không thu hút đƣợc ngƣời dân). Từ ngày
01/01/2018 ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ một phần
mức đóng; tuy nhiên, mức hỗ trợ này còn rất thấp, không thể thúc đẩy tăng
nhanh đối tƣợng tham gia, kể cả khi có hỗ trợ từ Nhà nƣớc; một phần nữa là
ngƣời lao động ở Việt Nam chƣa có thói quen tham gia BHXH khi trẻ để
hƣởng lƣơng hƣu khi tuổi già. Chính quyền một số địa phƣơng cũng chƣa
thực sự quan tâm đến chính sách BHXH tự nguyện; chƣa giao chỉ tiêu phát
triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện trong chỉ tiêu phát triển kinh tế -
xã hội, chƣa tổng kết, đánh giá, kiểm điểm những tồn tại, hạn chế nguyên
nhân chậm phát triển đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện.
Ngoài ra, việc số ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đạt thấp còn do
mạng lƣới đại lý thu BHXH tự nguyện còn ít, trình độ đại lý thu còn hạn chế,
nên chƣa thuận tiện cho ngƣời lao động tham gia (ngƣời muốn tham gia
BHXH tự nguyện nhƣng không biết tham gia nhƣ thế nào, đóng ở đâu, mức
đóng bao nhiêu, đƣợc hƣởng các quyền lợi gì,...); Sự phối hợp trong tổ chức
thực hiện chính sách BHXH tự nguyện của các cấp, các ngành ở địa phƣơng
với cơ quan BHXH chƣa thƣờng xuyên, thiếu quan tâm, có nơi coi đây là
nhiệm vụ của riêng cơ quan BHXH.
Trong một thời gian khá dài, ngƣời tham gia BHXH tự nguyện chỉ
đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí, tử tuất trong khi nhiều ngƣời dân có nhu cầu tham
gia nhiều chế độ hơn nhƣng chính sách BHXH chƣa đáp ứng đƣợc. Mặt khác,
Chính phủ có quy định về việc hỗ trợ ngƣời dân theo Nghị định số
134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính phủ về việc hỗ trợ tiền đóng
BHXH cho ngƣời tham gia BHXH tự nguyện, nhƣng với mức hỗ trợ này chƣa
thực sự hấp dẫn, chƣa thật sự khuyến khích đƣợc ngƣời dân tham gia BHXH
tự nguyện; trong khi đó thu nhập của đại bộ phận ngƣời nông dân đều thấp,
56
không ổn định và không có sự tích lũy để tham gia BHXH. Theo đánh giá của
Bộ LĐ – TB&XH, qua 09 năm thực hiện, mặc dù tỷ lệ tham gia BHXH tự
nguyện đã cao hơn nhƣng nhƣng con số tham gia vẫn còn rất hạn chế. Năm
2016 số ngƣời tham gia vào BHXH tự nguyện giảm 6% so với năm 2015.
Đến năm 2017, số lƣợng tham gia BHXH tự nguyện là 227.506 ngƣời, tăng
thêm 12% so với năm 2016, chỉ đạt 61% kế hoạch. Tuy nhiên tốc độ tăng vẫn
còn chƣa cao. Tính đến hết năm 2018 cả nƣớc mới có khoảng 270.000 ngƣời
tham gia bảo BHXH tự nguyện trong tổng số khoảng 34 triệu lao động chƣa
tham gia BHXH, tức chiếm tỷ lệ khoảng 0,8%. Đối với lao động Việt Nam di
cƣ sang nƣớc khác làm việc, hiện chúng ta có khoảng 500.000 ngƣời và mỗi
năm tăng khoảng hơn 100 nghìn ngƣời, họ thuộc nhóm đối tƣợng tham gia
BHXH tự nguyện nhƣng cũng mới chỉ có khoảng 6.000 ngƣời tham gia
BHXH [26]. Trong thực tế, mặc dù tốc độ tăng của BHXH tự nguyện bình
quân khá cao nhƣng số tuyệt đối chỉ tăng khoảng 30 nghìn ngƣời/ năm [41].
2.2.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Theo quy định tại Điều 73 Luật BHXH năm 2014, NLĐ đƣợc hƣởng
lƣơng hƣu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở
lên. Đối với trƣờng hợp NLĐ đã đủ điều kiện về tuổi theo quy định nhƣng
thời gian đóng BHXH chƣa đủ 20 năm thì đƣợc đóng cho đến khi đủ 20 năm
để hƣởng lƣơng hƣu.
Hiện nay, ngoài mức phí đóng của NLĐ do họ lựa chọn thì phụ thuộc
vào điều kiện phát triển của kinh tế xã hội, khả năng của ngân sách Nhà nƣớc
trong từng thời kỳ, pháp luật sẽ quy định mức hỗ trợ, đối tƣợng hỗ trợ và thời
điểm thực hiện chính sách hỗ trợ đối với NLĐ tham gia BHXH tự nguyện.
Căn cứ Điều 14, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính
phủ về việc hỗ trợ tiền đóng BHXH cho ngƣời tham gia BHXH tự nguyện áp
dụng thực hiện từ ngày 01/01/2018 thì mức hỗ trợ nhƣ sau: Bằng 30% đối với
57
ngƣời tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ nghèo; Bằng 25% đối với ngƣời
tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ cận nghèo; Bằng 10% đối với các đối
tƣợng khác. Thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham gia BHXH tự
nguyện thực tế của mỗi ngƣời nhƣng không quá 10 năm (120 tháng).
Ngoài ra có thể thấy quy định điều kiện nghỉ hƣu nhƣ hiện nay chƣa có
sự công bằng giữa ngƣời tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Luật
BHXH quy định ngƣời tham gia BHXH bắt buộc có thể nghỉ hƣu sớm từ 1
năm đến 5 năm đối với các ngành nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm hoặc đặc biệt nguy hiểm, độc hại theo danh mục do Bộ LĐ – TB&XH,
Bộ Y tế ban hành; làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên; làm
việc khai thác than trong hầm lò. Những điều kiện đƣợc nghỉ hƣu sớm, nghỉ
hƣu do bị suy giảm khả năng lao động lại chỉ đƣợc áp dụng đối với BHXH
bắt buộc, chƣa có quy định áp dụng cho chế độ nghỉ hƣu đối với BHXH tự
nguyện; trong khi họ cũng lao động sản xuất ra vật chất cho xã hội, cũng bị
suy giảm khả năng lao động. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ vấn
đề xây dựng chính sách, khả năng dự báo cho những tác động của chính sách.
Bên cạnh đó ngƣời lao động tham gia BHXH tự nguyện tự tạo việc làm, khó
kiểm soát công việc, tính chất công việc thƣờng không ổn định, thu nhập bấp
bênh, rủi ro lao động cao và hoàn toàn tự quyết định theo ý chí của bản thân,
không phụ thuộc vào NSDLĐ nhƣ ngƣời tham gia BHXH bắt buộc. Chính vì
vậy mà một số quy định áp dụng cho ngƣời tham gia BHXH bắt buộc chƣa
thể áp dụng đƣợc đối với ngƣời tham gia BHXH tự nguyện.
2.2.3. Mức lương hưu của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Mức đ ng BHXH tự nguyện: Mức đóng BHXH tự nguyện 2019 bằng
22% mức thu nhập do mình lựa chọn (khoản 1 Điều 87 Luật Bảo hiểm xã hội
2014). Mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng thấp nhất bằng mức chuẩn hộ
nghèo của khu vực nông thôn (700.000 đồng) và cao nhất bằng 20 lần mức
58
lƣơng cơ sở (27.800.000 đồng). Do đó, mức đóng BHXH tự nguyện thấp nhất
là 154.000 đồng/tháng và mức đóng cao nhất là 6.116.000 đồng/tháng. Bên
cạnh đó, căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội, khả năng ngân sách
Nhà nƣớc trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tƣợng hỗ trợ và thời
điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho ngƣời lao động khi
tham gia BHXH tự nguyện.
Mức hưởng bảo hiểm hiểm hưu trí tự nguyện: đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng
lƣơng hƣu hàng tháng nhân với mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.[8]
Mức bình quân thu nhập tháng đ ng BHXH: đƣợc tính bằng bình quân
các mức thu nhập tháng đã đóng BHXH của toàn bộ thời gian đóng BHXH.
Trong đó thu nhập tháng đã đóng BHXH đƣợc điều chỉnh trên cơ sở chỉ số
giá sinh hoạt tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ. Trƣờng
hợp ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đóng một lần cho những năm còn thiếu
theo quy định thì mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH đƣợc tính nhƣ
đã nêu ở trên, trong đó thu nhập tháng đã đóng BHXH theo phƣơng thức đóng
một lần cho những năm còn thiếu nhận mức điều chỉnh bằng 1 (một).
Ngoài ra còn một số quy định khác về hƣởng lƣơng hƣu nhƣ hƣởng bảo
hiểm xã hội một lần, bảo lƣu thời gian đóng BHXH, tạm dừng, hƣởng tiếp
lƣơng hƣu, đang hƣởng lƣơng hƣu ra nƣớc ngoài để định cƣ, điều chỉnh tiền
lƣơng, trợ cấp mai táng, trợ cấp tử tuất đƣợc quy định tƣơng tự nhƣ đối với
bảo hiểm hƣu trí bắt buộc.
2.2.4. Điều chỉnh lương hưu của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là đối tƣợng không thuộc diện áp
dụng của pháp luật về BHXH bắt buộc. Theo khảo sát của BHXH tại một số
địa phƣơng, những ngƣời thuộc đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu
là ngƣời lao động tự do và nông dân, với đặc điểm là thu nhập bấp bênh,
không bền vững.
59
Điều kiện: Theo quy định của Luật BHXH năm 2014, NLĐ đƣợc
hƣởng lƣơng hƣu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng
BHXH trở lên. Đối với NLĐ đã đủ điều kiện về tuổi theo quy định nhƣng thời
gian đóng BHXH chƣa đủ 20 năm thì đƣợc đóng cho đến khi đủ 20 năm để
hƣởng lƣơng hƣu.
Quyền lợi đƣợc hƣởng khi tham gia BHXH tự nguyện:
Cách tính: Mức lƣơng hƣu hàng tháng của ngƣời tham gia BHXH tự
nguyện đƣợc tính bằng tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng nhân với mức
bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. Tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng
của ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 3
Nghị định số 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện.
Theo Thông tƣ số 01/2016/TT-BLĐTBXH ngày 18/2/2016 của Bộ LĐ-
TB&XH quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH
về BHXH tự nguyện, khi tính tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu hàng tháng nếu thời gian
đóng BHXH có tháng lẻ từ 1 tháng đến 6 tháng tính là nửa năm; từ 7 tháng
đến 11 tháng tính là 1 năm.
Quyền lợi: Thông thƣờng độ tuổi nhận bảo hiểm hƣu trí tự nguyện
cũng trùng với bảo hiểm hƣu trí bắt buộc. Chính vì vậy, ngƣời tham gia bảo
hiểm sẽ có thêm thu nhập tính thêm vào lƣơng hƣu để phục vụ cho các chi
tiêu của bản thân. Ngoài ra, phần lợi hƣu trí chƣa chi trả sữ đƣợc tính lãi tích
lũy. Các quyền lợi bảo hiểm sẽ giúp bảo vệ ngƣời tham gia bảo hiểm khỏi những
rủi ro, khó khăn, trong đó bao gồm quyền lợi trợ cấp mai táng và quyền lợi bảo
hiểm tử vong hoặc thƣơng tật toàn bộ vĩnh viễn. Ngƣời cao tuổi khi có bảo
hiểm hƣu trí tự nguyện sẽ không còn phải lo lắng về vấn đề tài chính khi họ bị
hạn chế hoặc mất khả năng lao động. Từ đó ngƣời tham gia bảo hiểm hƣu trí
có thể yên tâm, thoải mái trong cuộc sống. Bên cạnh việc ngƣời lao động
60
đƣợc nhận các quyền lợi cơ bản nhƣ đã nói trên thì họ còn có thể hƣởng thêm
các quyền lợi hỗ trợ, nhƣ quyền lợi bảo hiểm thất nghiệp, quyền lợi chăm sóc
y tế, quyền lợi bảo hiểm bệnh hiểm nghèo....
Với cách tính mức lƣơng khác nhau đƣợc tính toán cẩn thận về thời
gian đóng, mức đóng, chế độ hƣởng... nhằm đảm bảo sự ổn định lâu dài cho
quỹ, hƣớng đến mục đích tốt đẹp của BHXH trƣớc sự biến động về tình hình
kinh tế, xã hội. Việc điều chỉnh lƣơng hƣu đƣợc thực hiện thƣờng xuyên để có
thể bảo đảm quyền lợi cho NCT khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động,
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.
2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thu
nhập đối với ngƣời cao tuổi từ bảo hiểm hƣu trí bổ sung và thực tiễn thực
hiện
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh trên thế
giới. Hệ thống BHXH, trong đó có bảo hiểm hƣu trí vẫn đang còn nhiều bất
cập nhƣ tỷ lệ ngƣời tham gia còn thấp, gia tăng đối tƣợng hƣởng hƣu tri, mất
cân bằng giữa mức đóng và mức hƣởng..., đòi hỏi cần phải cải cách hệ thống
hƣu trí nhằm đảm bảo sự bền vững của hệ thống. Trên cơ sở những kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng mô hình hệ thống hƣu trí bổ dung ở một số quốc
gia, Việt Nam đang xây dựng mở rộng hệ thống hƣu trí thành hệ thống đa
tầng, đa trụ cột, từ đó giảm nguy cơ không bền vững của hệ thống, giảm gánh
nặng của quỹ bảo hiểm xã hội, tăng an sinh xã hội cho ngƣời dân. Tuy nhiên,
hiện nay, ở nƣớc ta, trong số ngƣời dân hết tuổi lao động, chỉ có một bộ phận
tham gia BHXH và đủ điều kiện hƣởng lƣơng hƣu thông qua BHXH bắt buộc
hoặc BHXH tự nguyện; một bộ phận khác thuộc nhóm ngƣời cao tuổi không
hƣởng lƣơng hƣu đƣợc nhận trợ cấp xã hội hàng tháng. Bức tranh bảo hiểm
hƣu trí dự báo sẽ thay đổi với sự xuất hiện của hình thức hƣu trí bổ sung.
61
2.3.1. Đối tượng áp dụng bảo hiểm hưu trí bổ sung
Theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật BHXH thì bảo hiểm hƣu trí bổ
sung là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu bổ sung
cho chế độ hƣu trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng
góp của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Nhƣ vậy, đối tƣợng tham
gia bảo hiểm hƣu trí bổ sung là những ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao
động đang tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm các đối tƣợng đƣợc quy định
tại Điều 2 Nghị định 88/2016/NĐ-CP.
Cho tới nay, chƣa có một đánh giá khảo sát nào về nhu cầu của ngƣời
lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp, kể cả khu vực công và ngoài
nhà nƣớc thuộc dân sự, lực lƣợng vũ trang. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, đối
với ngƣời lao động đang tham gia BHXH bắt buộc thuộc khu vực hành chính
sự nghiệp, lực lƣợng vũ trang là những đối tƣợng hƣởng lƣơng từ ngân sách
Nhà nƣớc nên không áp dụng chính sách này; việc thực hiện chính sách đối
với ngƣời lao động (nếu có) sẽ đƣợc quy định riêng. Mặt khác, cần cân nhắc
việc có hay không quy định đối với ngƣời lao động đang tham gia BHXH bắt
buộc đƣợc tự tham gia bảo hiểm hƣu trí bổ sung trong trƣờng hợp ngƣời sử
dụng lao động không tham gia vào loại hình này.
Theo Bộ LĐ-TB&XH, do đây là một chính sách mới nên cần có lộ trình
và bƣớc đi thích hợp, trƣớc mắt chỉ áp dụng đối với ngƣời lao động và ngƣời sử
dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp đang tham gia BHXH bắt buộc
và ngƣời lao động tham gia bảo hiểm hƣu trí bổ sung phải thông qua ngƣời
sử dụng lao động (ngƣời sử dụng lao động đóng một phần hoặc toàn bộ) để
thể hiện trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động cũng nhƣ sự gắn kết trong
quan hệ lao động, khuyến khích ngƣời lao động làm việc lâu dài cho ngƣời
sử dụng lao động.
Theo Nghị định số 88/2016/NĐ-CP về chƣơng trình hƣu trí bổ sung tự
nguyện, bảo hiểm hƣu trí bổ sung tự nguyện là chính sách bảo hiểm xã hội
62
mang tính chất tự nguyện với mục tiêu bổ sung thu nhập cho ngƣời tham gia
quỹ hƣu trí bổ sung tự nguyện khi đến tuổi về hƣu dƣới hình thức tài khoản
hƣu trí các nhân, đƣợc đầu tƣ và tích lũy theo quy định của pháp luật. Quỹ
hƣu trí là quỹ tài chính để thực hiện chƣơng trình hƣu trí, đƣợc hình thành từ
sự đóng góp của NLĐ tham gia quỹ và NSDLĐ. Việc tham gia bảo hiểm hƣu
trí bổ sung tự nguyện của NLĐ và NSDLĐ trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.
Bảo hiểm hƣu trí bổ sung là loại hình bảo hiểm mới đối với NLĐ và NSDLĐ
đang tham gia BHXH bắt buộc. Qua khảo sát của Bộ lao động Thƣơng binh
Xã hội tiến hành vào năm 2010 với 700 doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần
kinh tế cho thấy, 70% doanh nghiệp có mong muốn và sẵn sàng tham gia bảo
hiểm hƣu trí bổ sung [33]. Hiện nay, chƣa có một cuộc khảo sát nào về nhu
cầu của NLĐ trong khu vực hành chính sự nghiệp, khu vực công và ngoài
Nhà nƣớc thuộc dân sự, lực lƣợng vũ trang. Sau một thời gian triển khai, đánh
giá và hoàn thiện, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của đất nƣớc, có thể
mở rộng đối tƣợng đối với bảo hiểm hƣu trí bổ sung.
2.3.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí bổ sung
Điều kiện để người tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung có thể hƣởng
quyền lợi từ quỹ bảo hiểm hƣu trí bổ sung, tùy từng trƣờng hợp cụ thể có thể
xuất phát từ các sự kiện nhƣ [36]: Ngƣời lao động đến tuổi nghỉ hƣu; Ngƣời
lao động chết hoặc bị thƣơng tật toàn bộ và vĩnh viễn; Ngƣời lao động tự
nguyện xin nghỉ việc sau ít nhất 5 năm làm việc cho Công ty; Ngƣời lao động
chuyển hẳn sang làm việc cho một Công ty khác; do Công ty yêu cầu chấm
dứt hợp đồng vì dƣ thừa lao động, thay đổi cơ cấu tổ chức hay do chuyển
nhƣợng đơn vị kinh doanh.
Ngƣời thụ hƣởng quyền lợi từ quỹ bảo hiểm hƣu trí bổ sung, ngoài bản
thân ngƣời lao động tham gia đóng góp quỹ, còn bao gồm cả thân nhân đƣợc
ngƣời lao động chỉ định làm ngƣời thụ hƣởng. Ngƣời lao động đƣợc quyền
63
chỉ định 1 hay nhiều ngƣời thụ hƣởng quyền lợi từ chƣơng trình, tuy nhiên
việc chỉ định ngƣời thụ hƣởng phải theo thứ tự ƣu tiên theo quy định của pháp
luật về thừa kế. Bên cạnh đó, việc chỉ định ngƣời thụ hƣởng chƣơng trình
phải đƣợc thực hiện theo quy định của Công ty, và phải đƣợc cập nhật thƣờng
xuyên nếu có thay đổi.
Phương thức tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung: Theo Nghị định
88/2016/NĐ-CP về bảo hiểm hƣu trí bổ sung quy định ngƣời lao động đƣợc
lựa chọn 2 phƣơng thức tham gia, bao gồm tham gia đóng góp chƣơng trình
hƣu trí thông qua NSDLĐ hoặc tham gia đóng góp trực tiếp vào chƣơng
trình hƣu trí [4].
Đối với phƣơng thức tham gia đóng góp thông qua NSDLĐ, căn cứ vào
yêu cầu quản lý lao động và khả năng tài chính, NSDLĐ có thể xây dựng
chƣơng trình hƣu trí và thực hiện đóng góp vào quỹ hƣu trí cho NLĐ của
doanh nghiệp mình theo phƣơng thức quy định tại Nghị định này. Quy trình
tham gia đóng góp nhƣ sau: NSDLĐ thông báo cho NLĐ về chƣơng trình hƣu
trí; NSDLĐ ký thỏa thuận bằng văn bản với NLĐ về việc tham gia chƣơng
trình hƣu trí theo hƣớng dẫn của Bộ LĐ – TB&XH
Khi tham gia đóng góp trực tiếp, NLĐ, cá nhân tự lựa chọn chƣơng
trình hƣu trí và phƣơng thức đóng góp, thực hiện ký hợp đồng với doanh
nghiệp quản lý quỹ hƣu trí theo mẫu hợp đồng quy định tại Nghị định này,
chuyển tiền đóng góp vào quỹ theo các điều khoản tại hợp đồng. Khoản đóng
góp này đƣợc trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
thu nhập cá nhân.
2.3.3. Mức hưởng bảo hiểm hưu trí bổ sung
Đây là nội dung quan trọng quy định về điều kiện ngƣời lao động hƣởng
lƣơng hƣu, công thức tính lƣơng hƣu và mức hƣởng hàng tháng. Các quyền lợi
của ngƣời tham gia bảo hiểm đƣợc quy định tại Điều 11 Khoản 1 Nghị định
88/2016/NĐ-CP về bảo hiểm hƣu trí bổ sung [4].
64
Ngƣời tham gia quỹ bảo hiểm hƣu trí bổ sung đƣợc lựa chọn nhận chi
trả theo chế độ hàng tháng hoặc một lần. Nhà nƣớc khuyến khích ngƣời tham
gia nhận chi trả theo chế độ hàng tháng thông qua chính sách thuế quy định
tại Nghị định 88/2016/NĐ-CP và Thông tƣ 86/2017/TT-BTC hƣớng dẫn
thực hiện các quy định về bảo hiểm hƣu trí bổ sung. Thời gian nhận chi trả
hàng tháng khi ngƣời tham gia quỹ đến tuổi nghỉ hƣu tối thiểu là 10 năm.
Mức chi trả hàng tháng khi đến tuổi về hƣu do đối tƣợng nhận chi trả lựa
chọn nhƣng tối đa không vƣợt quá tổng giá trị tài Khoản hƣu trí cá nhân ở
thời điểm nghỉ hƣu chia cho 120 tháng. Sau 10 năm, ngƣời tham gia quỹ có
thể nhận chi trả một lần. Trƣờng hợp mức chi trả hàng tháng đƣợc xác định
theo quy định thấp hơn mức lƣơng cơ sở theo quy định hiện hành thì mức
chi trả hàng tháng tối đa không vƣợt quá mức lƣơng cơ sở cho đến khi tất
toán tài khoản hƣu trí cá nhân.
Qua đó có thể thấy việc tham gia bảo hiểm để đảm bảo thu nhập khi về
hƣu là rất cần thiết. Bên cạnh quỹ BHXH thì ngƣời lao động có thể chọn các
loại hình bảo hiểm hƣu trí của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Quỹ hƣu
trí có vai trò quan trọng trong sự phát triển và ổn định của thị trƣờng tài chính
nhờ quy mô tài sản của quỹ rất lớn, ổn định và dài hạn, mang lại sự cân bằng
và ổn định hơn cho thị trƣờng tài chính và nguồn vốn cho phát triển kinh tế.
2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi
Trong những năm trở lại đây, các cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam
thực hiện nhiều cuộc giám sát, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho
ngƣời lao động. Việc tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa quan
trọng trong việc hạn chế những hành vi, quyết định sai phạm của ngƣời sử
dụng lao động mà ảnh hƣởng trực tiếp tới quyền lợi của ngƣời lao động dẫn
đến những khiếu nại về BHXH không đáng có. Trong đó nội dung công dân
65
nộp đơn khiếu nại chủ yếu về việc giải quyết chế độ hƣu trí, tố cáo đối tƣợng
khai man hồ sơ và thời gian công tác để hƣởng chế độ bảo hiểm xã hội đƣợc
quy định tại Điều 118 Luật Bảo hiểm Xã hội 2014 có quy định về khiếu nại
về bảo hiểm xã hội [8].
Về bản chất, ngƣời nào, cơ quan nào ra quyết định, hành vi hành chính về
bảo hiểm xã hội thì ngƣời đó, cơ quan đó sẽ giải quyết khiếu nại về quyết định,
hành vi hành chính của mình. Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội
hiện hành thì thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục giải quyết khiếu nại bảo hiểm xã hội ở
mỗi lần sẽ có sự khác nhau.
Theo thống kê của cơ quan bảo hiểm xã hội, một trong những nguyên
nhân dẫn đến số lƣợng đơn khiếu nại, tố cáo nhiều là do việc sửa đổi bổ sung
mới các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, đối tƣợng, ngƣời thụ hƣởng
không hiểu đầy đủ và có những vƣớng mắc trong việc thụ hƣởng chế độ bảo
hiểm xã hội. Ngoài ra, việc áp dụng các quy định của pháp luật BHXH một cách
chồng chéo của các cơ quan, doanh nghiệp đã dẫn tới những sai phạm về
BHXH. Mặt khác, nhiều trƣờng hợp khiếu nại, tố cáo đã đƣợc các cấp, các
ngành và cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết đúng quy định của pháp luật
nhƣng công dân vẫn cố tình gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan Trung ƣơng,
gây phức tạp tình hình.
Tố cáo, giải quyết tố cáo đƣợc quy định tại Điều 120 Luật Bảo hiểm xã
hội 2014: “Việc tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo”. Thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
đƣợc quy định tại Điều 121 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 bao gồm tổng
giám đốc, giám đốc hoặc cấp phó của cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Vấn đề xử lý vi phạm pháp luật đƣợc quy định tại Điều 122 Luật Bảo hiểm xã
hội năm 2014, đối với các hành vi vi phạm, tùy theo tính chất, mức độ vi
66
phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; và phải bồi thƣờng nếu gây ra thiệt hại.
Trong thực tế, công dân đến khiếu nại chủ yếu về việc giải quyết chế độ
hƣu trí; tố cáo đối tƣợng khai man hồ sơ và thời gian công tác để hƣởng chế
độ BHXH; kiến nghị phản ánh việc giải quyết chế độ chế độ thai sản, chế độ
tai nạn lao động, tính lại hệ số lƣơng hƣu, cộng nối thời gian công tác tính
hƣởng BHXH, thanh toán chế độ BHYT.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo là do việc sửa đổi bổ
sung mới các quy định của pháp luật về BHXH, đối tƣợng, ngƣời thụ hƣởng
không hiểu đầy đủ và có những vƣớng mắc trong việc thụ hƣởng chế độ BHXH.
Ngoài ra, nhiều trƣờng hợp khiếu nại, tố cáo đã đƣợc các cấp, các ngành và cơ
quan BHXH giải quyết đúng quy định của pháp luật nhƣng công dân vẫn cố tình
gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan Trung ƣơng, gây phức tạp tình hình.
Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết đơn thƣ
của ngành đã đạt đƣợc nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn còn một số tồn
tại, vƣớng mắc, đặc biệt là vƣớng mắc trong việc xử lý vi phạm hành chính về
đóng BHXH và hạn chế trong kỹ năng thực hiện tiếp công dân, kỹ năng xử lý,
giải quyết đơn thƣ.
Theo đó, BHXH sẽ giải quyết những vấn đề còn vƣớng mắc và trang bị
bổ sung kiến thức, đặc biệt là các kỹ năng mềm để cán bộ thanh tra - kiểm tra
thực hiện tốt nhiệm vụ; lấy ý kiến tham gia hoàn thiện, phát triển phần mềm
nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra nhằm đẩy mạnh hoạt động ứng dụng CNTT
trong lĩnh vực này theo chỉ đạo của lãnh đạo Ngành.
67
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Chƣơng 2 luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Luật
BHXH năm 2014 về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi thông qua bảo
hiểm hƣu trí bắt buộc, bảo hiểm hƣu trí tự nguyện và bảo hiểm hƣu trí bổ
sung với các nội dung: Đối tƣợng áp dụng, điều kiện hƣởng, mức hƣởng và có
những so sánh với các quy định trƣớc đó và phân tích, đánh giá thực trạng,
thực tiễn của các quy định về bảo hiểm xã hội đối với ngƣời cao tuổi. Ngoài
ra còn nêu lên thực trạng pháp luật về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi. Bên cạnh việc chỉ ra những
điểm mới tiến bộ của chính sách BHXH và những điểm bất cập hạn chế của
chính sách trong các quy định và thực tế thực hiện pháp luật.
68
Chƣơng 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THU NHẬP
ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam
3.1.1. Khắc phục những bất cập trong quy định hiện hành về bảo
hiểm thu nhập đối với người cao tuổi
Hiện nay, các quy định về chế độ bảo hiểm thu nhập đối với NCT hiện
nay ở Việt Nam vẫn còn những bất cập nhƣ: Chƣa bao phủ hết nhóm đối
tƣợng có nhu cầu và khả năng tham gia BHXH bắt buộc; số ngƣời hƣởng
BHXH một lần tăng nhanh; do tỷ lệ ngƣời cao tuổi ngày càng tăng dẫn đến
việc quỹ hƣu trí có nguy cơ mất cân đối do số ngƣời hƣởng tăng nhanh, số
ngƣời mới tham gia tăng chậm, mức hƣởng lƣơng hƣu cao và thời gian hƣởng
lƣơng hƣu quá dài trong mối tƣơng quan về thời gian đóng và mức đóng. Tuổi
nghỉ hƣu chậm đƣợc sửa đổi để thích ứng với quá trình già hóa dân số và tăng
tuổi thọ. Chính sách BHXH còn nặng về đóng - hƣởng, nhẹ về chia sẻ và thu
hẹp khoảng cách về thu nhập, chƣa tạo niềm tin cho ngƣời tham gia BHXH.
Việc điều chỉnh tiền lƣơng hƣu thƣờng đƣợc tiến hành đồng thời với điều
chỉnh tiền lƣơng khu vực hành chính nhà nƣớc tạo áp lực cho NSNN và quỹ
BHXH. Những bất cập của pháp luật bảo hiểm thu nhập đối với NCT hiện
hành cần phải sớm khắc phục nhằm đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực
hiện, tạo sự đồng thuận cao của nhân dân.
3.1.2. Bảo đảm phù hợp với nhu cầu và đời sống của người cao tuổi
Với xu thế tuổi thọ ngày càng gia tăng đi kèm theo đó là gánh nặng đối
với quỹ bảo hiểm xã hội, ngân sách nhà nƣớc và toàn xã hội cũng ngày càng
69
lớn. Ngoài ra, ngƣời cao tuổi cũng gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, đầu
tƣ tiền bạc, tài sản để đảm bảo cho cuộc sống của bản thân. Khi độ tuổi của
con ngƣời tăng cao thì đi kèm với đó là sức khỏe, trí tuệ cũng giảm dần dẫn
tới khả năng quản lý và thực hiện đầu tƣ tài sản cũng bị giảm dần đi. Điều này
khiến cho ngƣời nghỉ hƣu khó có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu tài chính để đảm
bảo cuộc sống cho bản thân.
Các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, kết quả khảo sát cho
thấy ngƣời lao động rất quan tâm tới vấn đề làm thế nào để đối mặt với an
sinh hƣu trí trong tƣơng lai. Hiện nay chỉ có khoảng 1/5 số ngƣời lao động
Việt Nam đƣợc bảo đảm sẽ có thu nhập từ tài sản chính khi họ nghỉ hƣu. Vì
vậy việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo
hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam là rất quan trọng, giúp
ngƣời lao động yên tâm bản thân khi nghỉ hƣu sẽ đƣợc bảo đảm cuộc sống
cũng nhƣ sức khỏe của bản thân.
3.1.3. Bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay
An sinh xã hội đối với ngƣời cao tuổi là những can thiệp của Nhà nƣớc
và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi
ro cho đối tƣợng này. Trong những năm qua, bảo đảm an sinh xã hội cho
ngƣời cao tuổi ở Việt Nam ngày càng đƣợc hoàn thiện và phát triển. Đến nay,
đã có nhiều chính sách, chƣơng trình dành cho ngƣời cao tuổi theo các nhóm
đối tƣợng khác nhau, nhƣng tập trung nhất là các nhóm chính sách về BHXH,
BHYT và trợ cấp xã hội.
Hơn 30 năm đổi mới đất nƣớc theo đƣờng lối phát triển kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, cùng với những thành tựu đạt đƣợc về
kinh tế, nhƣ kinh tế tăng trƣởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hƣớng ngày càng hợp lý, thu nhập bình quân đầu ngƣời ngày càng tăng, đời
70
sống nhân dân từng bƣớc đƣợc nâng lên,... Đảng và Nhà nƣớc cũng ban hành
nhiều chính sách nhằm thực hiện tốt quyền đƣợc hƣởng an sinh xã hội của
nhân dân. Trong các kỳ đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam thƣờng xuyên nhấn
mạnh vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội và quyết tâm của Đảng trong
việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. Chăm sóc và phát huy vai trò của
ngƣời cao tuổi trong đời sống xã hội luôn là những định hƣớng chính sách mà
Đảng và Nhà nƣớc quan tâm và thực hiện trong các giai đoạn phát triển của
đất nƣớc. Điều đó đã đƣợc thể hiện rất rõ từ Hiến pháp năm 1946 cho đến
Hiến pháp năm 2013. Ngày 27/09/1995, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng Khóa
VII đã ban hành Chỉ thị số 59-CT/TW, nhấn mạnh: “Ngƣời cao tuổi có công
sinh thành, nuôi dạy con cháu giữ gìn và phát triển giống nòi, giáo dục các thế
hệ thanh niên Việt Nam về nhân cách, phẩm chất và lòng yêu nƣớc; một bộ
phận đông đảo ngƣời cao tuổi Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” nên việc chăm sóc đời sống vật
chất và tinh thần của ngƣời cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, Nhà nƣớc và
của toàn xã hội. Nhà nƣớc cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã
hội, trong đó có vấn đề chăm sóc ngƣời cao tuổi. Sau hơn 14 năm thực hiện
Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27/01/2010, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ra
Thông báo kết luận số 305 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW về
chăm sóc ngƣời cao tuổi và những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong thời
gian tới. Ngày 28/04/2000, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh
Ngƣời cao tuổi và sau đó là Luật Ngƣời cao tuổi có hiệu lực thi hành từ
01/07/2010. Bên cạnh những định hƣớng chung này, hàng loạt các luật, chính
sách đƣợc thông qua nhằm đảm bảo đời sống kinh tế, đời sống xã hội và chăm
sóc sức khỏe cho ngƣời cao tuổi cũng đã đƣợc ban hành và thực hiện.
Trong những năm gần đây, chính sách bảo hiểm xã hội đã và đang từng
bƣớc khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh
71
xã hội, là sự bảo đảm thay thế, hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngƣời lao
động khi họ gặp rủi ro, khó khăn trong cuộc sống. Ngày 23/5/2018, Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải
cách chính sách BHXH, trong đó xác định một trong những mục tổng quát đó
là hƣớng tới BHXH toàn dân, đồng thời đề ra nhiệm vụ, giải pháp quan trọng
để đạt đƣợc mục tiêu là sửa đổi, bổ sung pháp luật về BHXH liên quan đến
chính sách đóng - hƣởng nhằm khắc phục những bất hợp lý của chế độ hƣu trí,
đảm bảo bền vững quỹ hƣu trí nhƣ về điều kiện thời gian đóng BHXH tối thiểu
để hƣởng chế độ hƣu trí, hạn chế hƣởng BHXH một lần; điều chỉnh lƣơng hƣu
độc lập; điều chỉnh cách tính lƣơng hƣu hài hòa các nguyên tắc đóng, hƣởng,
công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nhƣ vậy, việc hoàn thiện pháp luật
về BHHT là phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về ASXH nói
chung và BHXH nói riêng. Trong thời gian tới, Bộ LĐ-TB&XH tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Luật NCT, Chƣơng trình hành động quốc gia về NCT giai
đoạn 2012-2020. Đánh giá tổng kết việc thực hiện Luật NCT, Chƣơng trình
hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2012-2020. Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Luật NCT theo hƣớng tăng cƣờng các giải pháp phát huy vai trò NCT. Đẩy
mạnh xã hội hóa phát triển các dịch vụ công tác xã hội, hỗ trợ NCT sinh sống
tại gia đình, cộng đồng và tăng cƣờng an sinh xã hội đối với NCT ở vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu việc sắp
xếp lại các Quỹ hỗ trợ NCT bảo đảm hoạt động hiệu quả, phù hợp với các quy
định pháp luật. Để chăm sóc tốt cho NCT, nhiều ý kiến cho rằng, Nhà nƣớc cần
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của ngƣời dân, cơ quan,
tổ chức và gia đình về trách nhiệm kính trọng, giúp đỡ, chăm sóc và phát huy
vai trò NCT; Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội công lập theo hƣớng
đẩy mạnh xã hội hóa, tạo lập môi trƣờng thân thiện, hòa nhập giữa các nhóm
đối tƣợng và với xã hội. Đồng thời ƣu tiên đầu tƣ nguồn lực nhà nƣớc và huy
72
động nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản
bảo đảm các nhóm dân số đặc thù nhƣ trẻ em, ngƣời khuyết tật, ngƣời bị di
chứng chiến tranh, đồng bào dân tộc ít ngƣời, ngƣời di cƣ.
3.1.4. Bảo đảm phù hợp với pháp luật quốc tế và các quốc gia trên
thế giới
Theo thông lệ quốc tế, với mô hình bảo hiểm nhƣ ở Việt Nam hiện nay,
để hƣởng lƣơng hƣu trong 20 năm thì thời gian đóng góp bình quân ít nhất 40
năm mới đủ bảo đảm cân đối quỹ hƣu trí. Nhƣng trên thực thế, bình quân
ngƣời tham gia BHXH đóng góp trong 28 năm với tỷ lệ 22% vào quỹ hƣu trí
nhƣng hƣởng lƣơng hƣu bình quân 25 năm với tỷ lệ lên tới 70,1%. Bên cạnh
đó, theo thống kê của BHXH Việt Nam cũng cho thấy, tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu
trên số năm đóng khá cao (cao nhất hƣởng 75% - tƣơng ứng tỷ lệ tích luỹ
2,14% cho mỗi năm đóng góp với nam và 2,5% đối với nữ) và tỷ lệ này cao
hơn nhiều so các nƣớc trong khu vực và trên thế giới, đƣợc ILO đánh giá thuộc
loại “hào phóng” nhất thế giới [40]. Hơn nữa, hiện mức trần đóng BHXH quá
cao bởi mức tiền lƣơng tháng đóng BHXH tối đa bằng 20 lần mức lƣơng cơ sở
(tƣơng đƣơng 6 lần mức tiền lƣơng trung bình tháng đóng BHXH).
Trong khi đó, mức đóng theo khuyến nghị của ILO nên ở mức không
quá 10 lần mức lƣơng cơ sở nhƣ một số quốc gia khác trong khu vực. Do đó,
khoản thu BHXH hiện nay là khoản nợ tiềm ẩn trong tƣơng lai, với sự mất
cân đối đóng - hƣởng; mức đóng càng cao, gánh nặng Nhà nƣớc trong tƣơng
lai càng lớn [18]. Đặc biệt, trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra ở nhiều quốc
gia trên thế giới, để bù đắp thiếu hụt của thị trƣờng lao động, cũng nhƣ góp
phần đảm bảo cân đối quỹ BHXH, điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hƣu là một xu
thế tất yếu đƣợc nhiều nƣớc thực hiện và Việt Nam không nằm ngoài xu thế
đó. Ngoài ra, trƣớc yêu cầu hội nhập quốc tế, NLĐ nƣớc ngoài vào làm việc
tại Việt Nam cũng thuộc đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định,
73
Việt Nam đang chuẩn bị ký kết các hiệp định về BHXH với nhiều quốc gia
nhƣ Đức, Hàn Quốc, tiến tới là Nhật Bản và mục tiêu liên thông BHXH giữa
5 nƣớc: Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan, Việt Nam. Vì vậy, các quy định
về BHXH nói chung, bảo hiểm hƣu trí của Việt Nam nói riêng cần phải sửa
đổi cho phù hợp với các quy định của quốc tế và xu thế hội nhập nhằm đảm
bảo tính khả thi trong việc tổ chức thực hiện.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thu nhập
đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam
3.2.1. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
Cùng với sự phát triển và hội nhập thế giới của đất nƣớc, BHXH Việt
Nam đã và đang từng bƣớc mở rộng đối tƣợng tham gia vào chế độ bảo hiểm
hƣu trí. Có thể thấy việc mở rộng diện bao phủ tham gia BHXH nói chung và
bảo hiểm hƣu trí nói riêng là mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta, điều này
đƣợc thể hiện rõ thông qua các văn kiện của Đảng qua từng thời kỳ phát triển
BHXH. Tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, mục tiêu mở rộng đối tƣợng tham gia
BHXH tiếp tục đƣợc đặt ra: Phấn đấu đến năm 2021 đạt khoảng 35% lực
lƣợng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và
lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng
1% lực lƣợng lao động trong độ tuổi; giai đoạn đến năm 2025, phấn đấu đạt
khoảng 45% lực lƣợng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông
dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm
khoảng 2,5% lực lƣợng lao động trong độ tuổi; Giai đoạn đến năm 2030, phấn
đấu đạt khoảng 60% lực lƣợng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong
đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện
chiếm khoảng 5% lực lƣợng lao động trong độ tuổi. Để có thể đạt đƣợc những
mục tiêu đã đề ra nhƣ trên cần phải thực hiện những biện pháp sau:
- Xây dựng hệ thống BHXH đa tầng:
Không chỉ là một trong những vấn đề quan trọng, mà "BHXH đa tầng"
74
còn là khái niệm khá mới, đƣợc xem là bƣớc đi căn bản trong cải cách hệ
thống BHXH tại Việt Nam thời gian tới. Thực tế, trên thế giới chƣa có khái
niệm thống nhất về BHXH đa tầng, một số tổ chức quốc tế mới đƣa ra các
khái niệm, nhƣ sàn an sinh xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hệ
thống hƣu trí đa trụ cột của Ngân hàng Thế giới (WB) hoặc hệ thống hƣu trí
đa tầng của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) để khuyến nghị
các quốc gia xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội nói chung và
BHXH nói riêng.
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organization for Economic
Cooperation and Development - OECD), mô hình một hệ thống hƣu trí có thể
đƣợc khái quát theo 3 tầng cơ bản đƣợc trình bày dƣới đây [39]:
Tầng 1 – Hệ thống an sinh xã hội: Hệ thống an sinh xã hội đƣợc xây
dựng với mục tiêu tái phân phối thu nhập và đảm bảo thu nhập tối thiểu cho
đại bộ phận dân cƣ.
Tầng 2 – Hệ thống hƣu trí bắt buộc: mục tiêu tiết kiệm, đảm bảo mức
thu nhập khi về hƣu của ngƣời lao động đạt tỷ lệ tƣơng đối so với mức thu
nhập trong giai đoạn làm việc.
Tầng 3 – Hệ thống hƣu trí tự nguyện: mục tiêu bổ sung cho thu nhập
tầng 2 nhằm đảm bảo mức sống cao hơn cho ngƣời cao tuổi, phần đóng góp
mang tính tự nguyện. Hệ thống hƣu trí tự nguyện cho phép có sự tham gia của
lao động tự do.
Mô hình đa trụ cột do Ngân hàng Thế giới xây dựng (WB)
Nhằm phát triển mô hình hệ thống hƣu trí với mục tiêu đảm bảo an toàn
tài chính cho ngƣời cao tuổi, năm 1994, WB đƣa ra mô hình “mẫu” với 3 trụ cột:
Hƣu trí Bảo hiểm Xã hội (Trụ cột 1), Hƣu trí nghề nghiệp (Trụ cột 2), Tiết kiệm/
Hƣu trí tự nguyện (Trụ cột 3). Năm 2005, WB tiếp tục bổ sung thêm hai trụ cột
vào mô hình: Phúc lợi xã hội (Trụ cột 0) và các chƣơng trình hỗ trợ phi tài chính
75
của Chính phủ (Trụ cột 4). Hiện tại, ngày càng có nhiều quốc gia cải cách hệ
thống hƣu trí hƣớng tới mô hình đa trụ cột do WB xây dựng.
Hiện nay nhiều nƣớc trên thế giới và trong khu vực đã xây dựng hệ
thống BHXH đa tầng nhƣ Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp....
Qua thời gian xây dựng và phát triển, chính sách BHXH Việt Nam
cũng đã từng bƣớc đƣợc bổ sung và hoàn thiện, đáp ứng đƣợc yêu cầu và
điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nƣớc qua từng thời kỳ. Tuy
nhiên cho đến nay, chính sách BHXH nói riêng và hệ thống chính sách an
sinh xã hội nói chung vẫn mang tính đơn lẻ và thiếu tính kết nối, từ đó dẫn
tới hệ quả là trên thực tế vẫn còn nhiều những khoảng trống chính sách mà
ở đó các đối tƣợng ngƣời dân chƣa nhận đƣợc sự bảo vệ, sự đảm bảo an
toàn và an ninh thu nhập từ hệ thống an sinh xã hội của Nhà nƣớc. Trong
76
cải cách chính sách BHXH lần này, hệ thống BHXH đa tầng đƣợc xác
định, những nội hàm của BHXH đa tầng đã đƣợc đề cập khá rõ tại Nghị
quyết 28-NQ/TW. Theo đó, hệ thống hƣớng tới bao gồm ba tầng cơ bản là:
Trợ cấp hƣu trí xã hội; BHXH cơ bản, bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH
tự nguyện; bảo hiểm hƣu trí bổ sung. Cụ thể [48]:
Tầng thứ nhất là tầng trợ cấp hưu trí xã hội: Trong đó, ngân sách nhà
nƣớc cung cấp một khoản bảo đảm về thu nhập cho ngƣời cao tuổi không có
lƣơng hƣu, hoặc BHXH hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn lực
xã hội đóng thêm để các đối tƣợng này có mức hƣởng cao hơn. Đồng thời, vó
lộ trình mở rộng bao phủ bằng cách điều chỉnh giảm dần độ tuổi hƣởng lƣơng
hƣu xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách và lộ trình tăng tuổi nghỉ hƣu
trong từng thời kỳ.
Tầng thứ hai là BHXH cơ bản bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện): Trong đó, BHXH bắt buộc (với các chế độ hƣu trí, tử tuất, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của
ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. BHXH tự nguyện (với các chế độ
hƣu trí, tử tuất hiện nay và từng bƣớc mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên
đóng góp của ngƣời lao động không có quan hệ lao động, có sự hỗ trợ thích
đáng từ ngân sách nhà nƣớc cho nông dân, ngƣời nghèo, ngƣời có thu nhập
thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện bao phủ BHXH; từng
bƣớc hình thành văn hóa đóng - hƣởng để tự bảo đảm an sinh cho bản thân.
Tầng thứ ba là tầng Bảo hiểm hưu trí bổ sung: Đây là chế độ hƣu trí tự
nguyện theo nguyên tắc thị trƣờng, tạo điều kiện cho ngƣời sử dụng lao động
và ngƣời lao động có thêm lựa chọn tham gia đóng góp để đƣợc hƣởng mức
lƣơng hƣu cao hơn.
Nhƣ vậy, khi thực hiện hệ thống BHXH đa tầng sẽ giúp ngƣời dân tiếp
cận chính sách BHXH một cách toàn diện, đầy đủ các chế độ và tiến tới mọi
77
ngƣời cao tuổi đều có lƣơng hƣu hoặc từ ngân sách nhà nƣớc, hoặc từ quỹ
BHXH. Không có ngƣời cao tuổi nào bị bỏ rơi lại phía sau.
(1) Kiểm tra, rà soát, mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc đối
với các nhóm chủ hộ kinh doanh, ngƣời quản lý doanh nghiệp, ngƣời điều
hành hợp tác xã không hƣởng tiền lƣơng, NLĐ làm việc theo chế độ linh hoạt.
(2) Xem xét sửa đổi các quy định về điều kiện về tham gia đóng
BHXH để hƣởng bảo hiểm hƣu trí theo hƣớng linh hoạt: Hiện nay điều kiện
tối thiểu về thời gian đóng BHXH để hƣởng lƣơng hƣu còn khá dài (20 năm)
nên một bộ phận NLĐ không đủ điều kiện để tích lũy hoặc tâm lý chờ đợi lâu
dẫn đến muốn nhận BHXH một lần, điều này đồng nghĩa với việc họ rời khỏi
hệ thống và làm giảm diện bao phủ BHXH, ảnh hƣởng đến mục tiêu ASXH
bền vững của Đảng và Nhà nƣớc. Do đó, cần phải xem xét giảm điều kiện tối
thiểu về thời gian đóng BHXH để hƣởng lƣơng hƣu xuống mức thấp hơn (có
thể chỉ cần đóng BHXH 10 năm là đƣợc hƣởng lƣơng hƣu nhƣ kinh nghiệm
của Trung Quốc); đặc biệt là những ngƣời ở độ tuổi trên 40, 50 bắt đầu tham
gia BHXH hoặc có thời gian gián đoạn nhiều năm không có điều kiện tham
gia khi hết tuổi lao động cũng có thể đóng bù để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu. Tuy
nhiên, về công thức tính lƣơng hƣu cần phải điều chỉnh lại để đảm bảo
nguyên tắc đóng hƣởng, công bằng và chia sẻ, nhƣ vậy sẽ có nhiều ngƣời
đƣợc đảm bảo ASXH hơn. Nghị quyết số 28-NQ/TW đã đƣa ra định hƣớng
cải cách về nội dung này nhƣ sau: Sửa đổi điều kiện hƣởng chế độ hƣu trí theo
hƣớng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để đƣợc hƣởng chế độ
hƣu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hƣớng tới còn 10 năm với mức hƣởng đƣợc
tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho NLĐ cao tuổi, có số năm tham gia
bảo hiểm xã hội thấp đƣợc tiếp cận và thụ hƣởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
Ban hành các Nghị định về BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân
nƣớc ngoài vào làm việc tại Việt Nam; Nghị định quy định về quản lý nợ
78
BHXH, BHTN, BHYT để nhanh chóng kịp thời tổ chức triển khai thực hiện
các quy định mới của pháp luật về BHXH. Đẩy mạnh đàm phán, ký kết các
hiệp định song phƣơng về BHXH. Ngoài ra, cần sớm sửa đổi và hoàn thiện
các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BHXH.
3.2.2. Điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc công bằng,
bình đẳng, chia sẻ và bền vững
Từ ngày 1/1/2018, việc điều chỉnh công thức tính lƣơng hƣu trong Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2014 bên cạnh một số ƣu điểm, quy định thay đổi cách
tính lƣơng hƣu đối với lao động nữ đã làm phát sinh sự so sánh giữa lao động
nữ với lao động nam, giữa lao động nữ nghỉ sau với lao động nữ nghỉ trƣớc
thời điểm ngày 1/1/2018, cụ thể: Do quy định công thức tính lƣơng hƣu của
nam đƣợc áp dụng nhƣng có lộ trình thay đổi dần trong thời gian 5 năm còn
của nữ thì áp dụng thay đổi ngay trong năm 2018 nên dẫn đến một số lao
động nữ nghỉ hƣu năm 2018 có tỷ lệ lƣơng hƣu thấp hơn hẳn so với ngƣời có
cùng thời gian đóng bảo hiểm xã hội nghỉ hƣu năm 2017 (từ 1% đến 10%).
Đồng thời, cũng tạo ra tâm lý so sánh giữa lao động nữ và lao động nam (lao
động nam chỉ giảm 1% đến 2%).
Theo số liệu dự báo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, với việc áp dụng
công thức tính lƣơng hƣu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì
số lao động nữ bắt đầu hƣởng lƣơng hƣu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm
2021 sẽ có mức lƣơng hƣu bị thiệt hơn trong mối tƣơng quan với lao động nam
và lần lƣợt là 20,5 nghìn ngƣời vào năm 2018; 22 nghìn ngƣời vào năm 2019;
23,5 nghìn ngƣời vào năm 2020 và 25,1 nghìn ngƣời vào năm 2021 [37].
Mặc dù Luật BHXH năm 2014 đã có lộ trình thay đổi cách tính mức
bình quân tiền lƣơng tháng đóng BHXH đối với NLĐ thuộc khu vực nhà
nƣớc theo thời điểm tham gia BHXH nhằm tiến tới sự bình đẳng trong khu
vực công và tƣ (tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 01 năm 2025 trở đi thì tính
79
bình quân của tiền lương tháng đ ng BHXH của toàn bộ thời gian). Tuy
nhiên từ nay đến khi kết thúc lộ trình, sự chênh lệch về mức lƣơng hƣu bình
quân giữa hai khu vực vẫn đang diễn ra, ảnh hƣởng đến tâm lý NLĐ tham gia
BHXH và cản trở việc khuyến khích mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH vì
khu vực tiềm năng để có thể mở rộng thêm ngƣời tham gia BHXH là khu vực
ngoài nhà nƣớc, nhƣng họ lại chƣa đƣợc đối xử công bằng.
Qua đó để thấy đƣợc Nhà nƣớc cần sửa đổi, hoàn thiện cách tính
lƣơng hƣu, bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nƣớc và
khu vực ngoài nhà nƣớc, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hƣởng và
chia sẻ giữa ngƣời có mức lƣơng cao với ngƣời có mức lƣơng thấp để thu
hẹp khoảng cách về thu nhập trong các đối tƣợng hƣởng chế độ bảo hiểm
hƣu trí. Để làm đƣợc điều đó Nhà nƣớc cần điều chỉnh lƣơng hƣu đối với lao
động nữ nghỉ hƣu trong giai đoạn từ 01/01/2018 đến 31/12/2021 theo hƣớng
sẽ đƣợc hỗ trợ phần lƣơng hƣu bị giảm do thay đổi công thức tính lƣơng hƣu
để đảm bảo lộ trình hài hòa giữa lao động nam và lao động nữ, giữa các lao
động nữ nghỉ hƣu trƣớc và sau thời điểm 01/01/2018 theo nguyên tắc điều
chỉnh trực tiếp vào lƣơng hƣu. Mức lƣơng hƣu sau khi điều chỉnh là căn cứ
để tính điều chỉnh lƣơng hƣu ở những lần điều chỉnh lƣơng hƣu tiếp theo.
Mức điều chỉnh bảo đảm nguyên tắc hỗ trợ số tiền chênh lệch lƣơng hƣu nếu
tính theo quy định (hỗ trợ phần bị thiệt từ 1-10% so với ngƣời về hƣu ở năm
2017). Ngoài ra đối việc điều chỉnh lƣơng hƣu theo hƣớng chia sẻ cần điều
chỉnh thỏa đáng đối với đối tƣợng có mức lƣơng hƣu thấp thì mức điều
chỉnh lƣơng hƣu có thể phân theo mức hƣởng lƣơng hƣu của các nhóm đối
tƣợng, trong đó nhóm đối tƣợng có mức lƣơng hƣu thấp đƣợc điều chỉnh với
mức cao hơn nhƣng vẫn đảm bảo nguyên tắc đóng – hƣởng; cần quan tâm
đến ngƣời nghỉ hƣu trƣớc năm 1995.
80
3.2.3. Cần bổ sung các quy định liên quan đến việc tạo điều kiện hỗ
trợ việc làm cho người cao tuổi
Theo Bộ LĐ-TB&XH, độ tuổi nghỉ hƣu đối với nữ hiện nay là 55 tuổi
và năm là 60 tuổi. Từ độ tuổi này trở lên khi tiếp tục tham gia lao động thì
đƣợc coi là lao động cao tuổi. Khi tham gia vào thị trƣờng lao động, họ có
một vị trí đặc biệt. Bởi họ là những ngƣời có kinh nghiệm và các kỹ năng để
làm việc tốt nhất đã đƣợc tích lũy qua thời gian. Bên cạnh đó là ý thức chấp
hành, sự am hiểu pháp luật tốt hơn; đồng thời ít bị tai nạn lao động hơn. Mặt
khác, việc thỏa thuận sử dụng lao động ở nhóm đối tƣợng này cũng dễ dàng
hơn các nhóm lao động khác.
Ở Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nƣớc khác trên thế giới có riêng
chƣơng trình sử dụng ngƣời lao động cao tuổi để hỗ trợ cho ngƣời cao tuổi
tìm việc, hỗ trợ cho chủ lao động là ngƣời cao tuổi. Thậm chí rất nhiều doanh
nghiệp chỉ tuyển ngƣời cao tuổi. Hiện nay, chính phủ Nhật Bản đang đề xuất
một dự thảo hƣớng tới mục tiêu trở thành “Xã hội không tuổi”. Theo dự thảo
mới này, cho phép ngƣời dân trì hoãn thời điểm nghỉ hƣu đến 70 tuổi. Bên
cạnh đó, chính phủ Nhật Bản cũng khuyến khích ngƣời dân tiếp tục lao động
ngay cả khi đã nghỉ hƣu nhƣng sức khỏe vẫn cho phép. Một số nƣớc nhƣ Úc,
Phần Lan, Anh đã thực hiện các chiến dịch thông tin so chính phủ tài trợ quy
mô lớn nhằm khắc phục tình trạng miễn cƣơng của NSDLĐ khi thuê và giữ
lại ngƣời cao tuổi. Ngoài ra, một số chính phủ đã thúc đẩy việc làm cho ngƣời
cao tuổi bằng cách thông qua luật chống phân biệt tuổi tác để nhằm loại bỏ
rào cản về tuổi tác.
Ở Việt Nam, tỷ lệ ngƣời lao động cao tuổi muốn tiếp tục làm việc vẫn
rất cao. Báo cáo Đánh giá tác động của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, có tới 60%
ngƣời cao tuổi trong độ tuổi 60-69 đang làm việc. Nhƣng tỷ lệ làm việc của
nhóm tuổi 70-79 và từ 80 tuổi trở lên giảm rất nhanh so với nhóm tuổi 60-69
81
(chỉ tƣơng ứng là 30% và 11%). Tỷ lệ đi làm ở nam giới (45,3%) cao hơn nữ
giới (34,9%). Có rất nhiều công việc ngƣời cao tuổi làm đƣợc mà không ảnh
hƣởng tới ngƣời trẻ. Họ tham gia làm việc tại các đơn vị, doanh nghiệp từ
cổng vào nhƣ bảo vệ đến những công việc hành chính, phục vụ, kho, quản
lý… Thậm chí, trong nhiều nhà máy của các doanh nghiệp, những dây chuyền
sản xuất có sự tham gia của ngƣời lao động cao tuổi. Dù chỉ làm những công
việc giản đơn, nhƣng họ làm rất tỉ mỉ. Chính vì thế, nhiều doanh nghiệp cho
biết, trong tƣơng lai nhu cầu sử dụng lao động cao tuổi còn có thể nhiều hơn.
3.2.4. Xây dựng các quy định hồi tố áp dụng cho các trường hợp
người tham gia bảo hiểm sau khi đã thực hiện hưởng bảo hiểm một lần
nhưng vẫn có nguyện vọng và nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH để được
hưởng lương hưu
Trong thời gian qua, có nhiều NLĐ sau khi nghỉ việc đã nhận trợ cấp
BHXH một lần thay vì tích lũy thời gian đóng BHXH để đƣợc hƣởng lƣơng
hƣu khi hết tuổi lao động. Sau một thời gian không ít ngƣời đã ân hận, có
mong muốn đƣợc hoàn trả lại song không đƣợc chấp nhận do không có quy
định nào về vấn đề này. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, nhiều trƣờng
hợp sau khi nhận đã liên hệ với cơ quan BHXH xin “trả lại”, thậm chí đề
nghị đƣợc hoàn trả cả lãi, nhƣng đối chiếu theo quy định tại Điều 5 Luật
BHXH 2014 không quy định NLĐ đƣợc trả lại tiền BHXH một lần đã nhận
nên cơ quan BHXH không có cơ sở xem xét cũng nhƣ giải quyết theo đề
nghị của ngƣời dân.
Một trong những lý do khiến NLĐ muốn nhận BHXH một lần là do
điều điều kiện hƣởng đơn giản, chỉ cần nghỉ việc một năm không tiếp tục
tham gia là đƣợc hƣởng. Trong khi đó, điều kiện tối thiểu về thời gian đóng
BHXH để đƣợc hƣởng lƣơng hƣu dài (20 năm) làm cho một số ngƣời tham
gia nản lòng... Việc giải quyết BHXH một lần tuy tạo điều kiện cho NCT có
82
thêm thu nhập trang trải cuộc sống trƣớc mắt, nhƣng một thời gian sau không
có lƣơng hƣu sẽ khó khăn cho bản thân NCT, gia đình và xã hội. Nhƣ vậy,
“về một cục” đối với NCT sẽ thiệt nhiều hơn lợi.
Hiện nay có không ít ngƣời sau khi hƣởng BHXH một lần có nguyện
vọng muốn xin nộp lại số tiền đã nhận để hƣởng lƣơng hƣu. Tuy nhiên do
hiện nay trong các quy định hiện nay của nƣớc ta chƣa có quy định hồi tố cho
vấn đề này. Do vậy, Nghị quyết 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH đặt
ra yêu cầu phải chặt chẽ hơn trong các quy định hƣởng chế độ BHXH một
lần. Bên cạnh đó, để đảm bảo an sinh xã hội cho ngƣời dân sau khi họ đã
nhận ra lợi ích của chính sách BHXH, cần xem xét, nghiên cứu bổ sung điều
kiện hồi tố đối với những trƣờng hợp đã hƣởng BHXH một lần mà có nhu cầu
tiếp tục tham gia BHXH.
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
Nhằm đƣa các quy định của pháp luật bảo hiểm hiểm thu nhập đối với
ngƣời cao tuổi đi vào đời sống góp phần giúp cho NCT có thể vƣợt qua những
khó khăn, sống khỏe mạnh, không trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội,
chƣơng này đề xuất một số kiến nghị về việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi Việt Nam hiện nay nhƣ sau:
Thứ nhất, Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc về
BHXH nói chung và chế độ hƣu trí nói riêng. Nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nƣớc về BHXH, nhất là trong việc hoạch định chiến
lƣợc phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật BHXH. Tăng
cƣờng sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phƣơng trong lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện chính sách BHXH, kịp thời xử lý những khó khăn,
vƣớng mắc phát sinh. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về BHXH thông qua
thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tƣ pháp để tăng số ngƣời
83
tham gia BHXH, đi đôi với chú trọng tăng số ngƣời thụ hƣởng quyền lợi
BHXH, đặc biệt là chế độ hƣu trí. Thực hiện bàn giao các chỉ tiêu phát triển
đối tƣợng tham gia BHXH cho các địa phƣơng.
Bên cạnh đó, tăng cƣờng công tác quản lý trong khám giám định y
khoa. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật về BHXH, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các
hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền BHXH. Tăng cƣờng công
tác phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nƣớc
về đầu tƣ, tài chính, thuế, lao động để nâng cao hiệu quả quản lý đối tƣợng
tham gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu
quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn BHXH (Tổng kết, đánh
giá việc thực hiện Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/06/2015 của Quốc
Hội về việc thực hiện chính sách hƣởng BHXH đối với NLĐ). Xây dựng cơ
sở dữ liệu về BHXH, bộ tiêu chí đánh giá mức độ hài lòng của tổ chức, cá
nhân về kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lƣợng cung ứng dịch vụ của cơ
quan BHXH và cơ quan quản lý nhà nƣớc. Rà soát, đánh giá, hoàn thiện mô
hình tài chính quỹ BHXH; xây dựng phƣơng pháp, công cụ tính toán dự báo
cân đối quỹ BHXH phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của Việt
Nam. Nghiên cứu ban hành quy định hƣớng dẫn về thống kê BHXH phục vụ
yêu cầu quản lý quỹ BHXH.
Thức hai, Nâng cao năng lực quản trị và tổ chức thực hiện có hiệu quả
các chính sách BHXH nói chung và chế độ hƣu trí nói riêng. Hoàn thiện bộ
máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH theo hƣớng tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian nhƣ: Thực hiện sát nhập đầu mối đơn
vị là BHXH cấp quận, huyện; cấp Vụ, Ban, giảm đơn vị cấp phòng; giảm cấp
phó, tinh giản biên chế; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện giao
dịch điện tử đạt 100%, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả
84
các lĩnh vực BHXH, BHTN; giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với
doanh nghiệp đạt ASEAN 4; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc
gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt
công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách;
Tiếp tục hiện đại hoá quản lý BHXH, đầu tƣ phát triển công nghệ và phƣơng
pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH.
Thứ ba, Tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền,
phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm thu nhập phù hợp đối với NCT.
Đây là một trong những hoạt động cần thiết nhằm giúp đỡ cho ngƣời dân, gia
đình NCT hiểu rõ các chính sách, quy định của pháp luật; giúp cho bản thân
NCT có thể tự chăm lo cho bản thân, tham gia các hoạt động lao động sản xuất
khi còn sức khỏe, tích lũy tiền bạc để lo cho mình khi về già và có quyền lựa
chọn cơ sở chăm sóc cho mình trong trƣờng hợp cô đơn, không nơi nƣơng tựa.
85
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Việc xây dựng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác tổ
chức thực hiện BHXH nó chung và Bảo hiểm hƣu trí nói riêng là việc làm vô
cùng quan trọng. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về BHXH cần đƣợc sửa
đổi, phát triển theo hƣớng phù hợp với các chính sách và định hƣớng phát
triển của Đảng và Nhà nƣớc. Nội dung chƣơng 3 đã nêu ra những yêu cầu cần
thiết trong việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nhƣ phải
khắc phục đƣợc những bất cập trong quy định hiện hành, phải phù hợp với
nhu cầu đời sống của NCT... Từ những yêu cầu đó để đƣa ra các kiến nghị
nhằm hoàn thiện và giúp nâng cao công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bảo
hiểm thu nhập đối với NCT ở Việt Nam.
86
KẾT LUẬN
BHXH đối với ngƣời cao tuổi là chính sách quan trọng đối với mỗi
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các chính sách BHXH ra đời nhằm bảo đảm
cuộc sống, thu nhập cho ngƣời cao tuổi khi họ bị suy giảm hoặc hết khả năng
lao động. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau mà các quốc gia
trên thế giới có những quy định pháp luật khác nhau, tuy nhiên điểm chung là
đều cụ thể hóa các nội dung về bảo hiểm thu nhập đối với ngƣời cao tuổi khi
họ hết khả năng lao động.
Ở Việt Nam, BHXH đƣợc xem là một trong những chính sách lớn
của Đảng và Nhà nƣớc ta luôn đƣợc quan tâm và ghi nhận trong các văn
kiện của Đảng, Hiến pháp qua các thời kỳ. Nghị quyết số 21-NQ/TW
khẳng định“Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội
quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống ASXH”. Pháp luật về bảo hiểm
thu nhập đối với NCT đƣợc cụ thể hóa trong nhiều đạo luật và các bản
pháp luật có liên quan, thông qua các hình thức BHXH bắt buộc, BHXH tự
nguyện và BHXH bổ sung. Các quy định về bảo hiểm thu nhập đối với
NCT về cơ bản là phù hợp với điều kiện cụ thể của ngƣời cao tuổi ở nƣớc
ra và các quy định của pháp luật quốc tế.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc, sự nỗ lực của
các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phƣơng, các bộ ngành, các tổ chức chính trị
xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và NLĐ; sự hỗ trợ, hợp tác hiệu quả của các
quốc gia, tổ chức quốc tế, chính sách BHXH nói chung, chế độ hƣu trí nói
riêng đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống chính sách pháp luật
ngày càng phát triển, phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ đảm bảo ASXH, phát triển bền
vững đất nƣớc.
87
Hiện nay, số lƣợng NCT đang ngày càng gia tăng, trong khi đó kinh tế
đất nƣớc còn đang gặp nhiều khó khăn, kinh nghiệm giải quyết tình trạng của
các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền chƣa cao, các dự báo về tình trạng NCT
chƣa thật sự sát với thực tế... làm dẫn đến các quy định của pháp luật về bảo
hiểm thu nhập đối với NCT trong nền kinh tế thị trƣờng không còn phù hợp với
thực tế nhƣ độ bao phủ BHXH còn nhiều hạn chế, tỷ lệ tham gia BHXH và
hƣởng lƣơng hƣu còn thấp, số lƣợng NCT không có nguồn thu nhập còn khá
lớn... gây hạn chế và ảnh hƣởng lớn đến đời sống tinh thần, vật chất của NCT.
Thực trạng này đòi hỏi Đảng và Nhà nƣớc ta cần phải quan tâm, nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật BHXH nói chung và bảo
hiểm thu nhập đối với NCT nói riêng cho phù hợp với nhu cầu thực tế, nhằm
chủ động đối phó với những thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội đất nƣớc
trong tiến trình hội nhập, già hóa dân số; cần có một chiến lƣợc BHXH bền
vững, đổi mới, hội nhập. Ngoài ra, cần tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về bảo hiểm thu nhập đối với NCT trong cộng đồng, ngƣời dân và gia đình
NCT; đẩy mạnh đầu tƣ các cơ sở vật chất; nâng cao năng lực quản lý,...
Để các chính sách BHXH ngày càng đi vào cuộc sống trong đó chính
sách bảo đảm thu nhập cho NCT là cốt lõi, lâu dài đòi hỏi phải có sự nghiên
cứu, tổng kết, đánh giá từ lý luận đến thực tiễn đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ
của các tổ chức quốc tế, bài học kinh nghiệm thành công, thất bại của các
nƣớc trên thế giới để vận dụng sáng tạo vào Việt Nam, đặc biệt việc xây
dựng, hoàn thiện chính sách cần bám sát quan điểm, mục tiêu của Đảng và
Nhà nƣớc về cải cách chính sách BHXH, phấn đấu thực hiện BHXH toàn dân,
đảm bảo quyền công dân về BHXH quy định tại Điều 34 Hiến pháp nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Công dân có quyền đƣợc bảo đảm an
sinh xã hội”./.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Chính trị (2018), Báo cáo số 75-BC/BCT ngày 25/6/2018 về kết quả
05 năm thực hiện Nghị quyết số21-NQ/TW của Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
2. Bộ Y tế, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2009), Báo cáo tổng quan về chính
sách chăm s c người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam,
Hà Nội.
3. Chính phủ (2015), Trừ trường hợp Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt
Nam, Luật công an nhân dân, Luật cơ yếu c quy định khác. Nghị định
103/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của
Luật Công an nhân dân, Luật Quân nhân chuyên nghiệp và công nhân,
viên chức quốc phòng 2016, Hà Nội.
4. Chính phủ (2016), Nghị định 88/2016/NĐ-CP về chương trình hưu trí bổ
sung tự nguyện, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Định (Chủ biên) (2012), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Nxb
Đại học kinh tế quốc dân.
6. Vũ Công Giao (2018), “Một số vấn đề lí luận, pháp lí, thực tiễn về quyền của
ngƣời cao tuổi”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 34, (3), tr.43-53.
7. Quốc hôi (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội.
8. Quốc hội (2014), Luật BHXH, Hà Nội.
9. Quốc hội khóa XIV (2018), Quốc hội khóa XIV thông qua Nghị quyết về
dự toán ngân sách nhà nước năm 2019, Hà Nội.
10. Quỹ dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2011), Già hoá dân số và
người cao tuổi Việt Nam - thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị
chính sách, Hà Nội, tháng 7/2011.
89
11. Quỹ dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2011), Già hoá dân số và
người cao tuổi Việt Nam- thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị
chính sách, Hà Nội, tháng 7/2011.
12. Thông tấn xã Việt Nam, Liên hợp quốc kêu gọi các nước tăng cường hỗ
trợ người già.
13. Tổ chức Liên hợp quốc (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền
con người, Tập 2, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
14. Tổng cục Thống kê (2017), LLLĐ từ 15 tuổi trở lên cả nước năm 2017
ước tính 54,8 triệu người; Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động
của cả nước năm 2017 ước tính 48,2 triệu người, Hà Nội.
15. Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và
chăm s c người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb Hồng Đức.
II. Tài liệu Website
16. Báo cáo An sinh xã hội thế giới 2017-2019, “ILO: 4 tỷ ngƣời trên thế
giới chƣa tiếp cận với an sinh xã hội”,
http://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/newsit
ems/WCMS_607477/lang--vi/index.htm
17. Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc ngƣời già,
http://www.gopfp.gov.vn/documents/18/24354/TQCS-NCT.pdf.
18. Bảo đảm quỹ BHXH: Sẽ tăng mức đóng hoặc tăng tuổi nghỉ hƣu?,
https://vov.vn/xa-hoi/bao-dam-quy-bhxh-se-tang-muc-dong-hoac-tang-
tuoi-nghi-huu-607955.vov.
19. Nguyễn Bình, “Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội: Gỡ “nút thắt” về
chính sách”, http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/mo-rong-dien-bao-phu-
bao-hiem-xa-hoi-go-nut-that-ve-chinh-sach-300788.html
20. Bộ Nội vụ (2017), Báo cáo nghiên cứu về chế độ, chính sách đối với
công chức tại Trung Quốc, “Trung Quốc: Cải cách hệ thống hƣu trí”,
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/trung-quoc-cai-cach-he-thong-
huu-tri-13844.
90
21. Cần bình đẳng tuổi nghỉ hƣu giữa nam và nữ,
http://baobaohiemxahoi.vn/vi/tin-chi-tiet-can-binh-dang-tuoi-nghi-huu-
giua-nam-va-nu-825afff1.aspx.
22. Lê Xuân Cử, Phạm Hải Hƣng (2018), Xu thế già hóa dân số ở nƣớc ta
hiện nay và yêu cầu nâng cao chất lƣợng sống của ngƣời cao tuổi,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/chuong-trinh-
1125/2018/52239/Xu-the-gia-hoa-dan-so-o-nuoc-ta-hien-nay-va.aspx
23. Đảm bảo an sinh xã hội cho Ngƣời cao tuổi: thành tựu và thách thức,
http://www.dansokhhgd.soctrang.gov.vn/index.php/dan-s-va-phat-tri-n/kinh-t-
2/103-d-m-b-o-an-sinh-xa-h-i-cho-ngu-i-cao-tu-i-thanh-t-u-va-thach-th-c.
24. Gần 50 ngàn ngƣời lao động bị „xù‟ tiền BHXH,
https://baomoi.com/gan-50-ngan-nguoi-lao-dong-bi-xu-tien-
bhxh/c/29477217.epi.
25. Lê Hà, “Chính sách hƣu trí – bài toán đau đầu của Chính phủ Pháp,
https://baotintuc.vn/the-gioi/chinh-sach-huu-tri-bai-toan-dau-dau-cua-
chinh-phu-phap-20130309102534518.htm
26. Lý Hà, “Bảo hiểm xã hội cho lao động di cƣ”,
https://www.nhandan.com.vn/cuoituan/item/40004802-bao-hiem-xa-hoi-
cho-lao-dong-di-cu.html.
27. Nguyễn Thế Huệ, “Đảm bảo an sinh xã hội cho Ngƣời cao tuổi: thành tựu và
thách thức”, http://www.dansokhhgd.soctrang.gov.vn/index.php/dan-s-va-phat-
tri-n/kinh-t-2/103-d-m-b-o-an-sinh-xa-h-i-cho-ngu-i-cao-tu-i-thanh-t-u-va-
thach-th-c
28. Đức Hùng, “Vì sao lƣơng hƣu cô giáo mầm non Hà Tĩnh chỉ 1,3 triệu
đồng?”, https://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/vi-sao-luong-huu-co-giao-
mam-non-ha-tinh-chi-1-3-trieu-dong-3663563.html.
29. Thảo Miên, “Tổng thu BHXH hơn 332 nghìn tỷ đồng”,
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2019-01-
05/tong-thu-bhxh-hon-332-nghin-ty-dong-66291.aspx.
91
30. Nguyễn Văn Minh, “Làm gì để tăng lƣơng cho ngƣời nghỉ hƣu?”,
http://www.qdnd.vn/cung-ban-luan/lam-gi-de-tang-luong-cho-nguoi-
nghi-huu-533191.
31. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội: Gỡ “nút thắt” về chính sách,
http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/mo-rong-dien-bao-phu-bao-hiem-xa-
hoi-go-nut-that-ve-chinh-sach-300788.html.
32. Một số xu hƣớng mới về quyền con ngƣời, http://tks.edu.vn/thong-tin-
khoa-hoc/chi-tiet/120/169.
33. Nhiều doanh nghiệp muốn tham gia Quỹ Hƣu trí bổ sung,
http://kinhtedothi.vn/nhieu-doanh-nghiep-muon-tham-gia-quy-huu-tri-
bo-sung-163037.html.
34. Những nguyên tắc của Liên hợp quốc về ngƣời cao tuổi, 1991,
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Nguyen-tac-cua-Lien-
hop-quoc-ve-nguoi-cao-tuoi-1991-275804.aspx.
35. Phạm Đỗ Nhật Tân (2018), “Bảo hiểm hƣu trí bổ sung theo quy định của
Luật BHXH”, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tap-chi-so/bao-hiem-
huu-tri-bo-sung-theo-quy-dinh-cua-luat-bhxh-211.
36. Tạp chí Tài chính - bảo hiểm, số 3/ 2013,
https://www.baoviet.com.vn/Uploads/Library/Document/Tap%20chi%20
BV/tapchi%20TC-BHso3%202013.pdf.
37. Phạm Thắng, Đỗ Thị Khánh Hỷ, “Báo cáo tổng quan về chính sách chăm
sóc ngƣời già, thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam”,
http://www.gopfp.gov.vn/documents/18/24354/TQCS-NCT.pdf.
38. Kim Thanh, “Tốc độ già hóa dân số Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới”,
http://dangcongsan.vn/xa-hoi/toc-do-gia-hoa-dan-so-viet-nam-thuoc-
hang-cao-nhat-the-gioi-511255.html.
92
39. Trần Phƣơng Thảo, Nguyễn Anh Tuấn (2013), "Hệ thống hƣu trí trên
thếgiới: Kinh nghiệm quốc tế và xu hƣớng cải cách", Tạp chí Tài chính -
Bảo hiểm, (tháng 3),
http://tcnn.vn/news/detail/5420/He_thong_huu_tri_tren_the_gioi_Kinh_
nghiem_quoc_te_va_xu_huong_cai_cachall.html
40. Anh Thu, “Cần sớm điều chỉnh chính sách bảo hiểm xã hội dài hạn”,
https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/36315202-can-som-dieu-chinh-
chinh-sach-bao-hiem-xa-hoi-dai-han.html,%2006/05/2018.
41. Anh Thu, “Thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện”,
https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/37228602-thuc-hien-hieu-qua-
chinh-sach-bao-hiem-xa-hoi-tu-nguyen.html.
42. Lƣu Viết Tĩnh, “Sức khỏe, khả năng lao động của ngƣời cao tuổi và vấn
đề tuổi nghỉ hƣu dƣới góc độ y học”,
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/suc-khoe-kha-nang-lao-dong-
cua-nguoi-cao-tuoi-va-van-de-tuoi-nghi-huu-duoi-goc-do-y-hoc-18515.
43. Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (2006), “Hiện trạng công tác chăm
sóc ngƣời cao tuổi”, Tạp chí Dân số & Phát triển, (1), www.gopfp.gov.vn.
44. UNFPA (2012), Báo cáo tóm tắt “Già h a trong thế kỷ 21: thành tựu và thách
thức”, tr. 3-5, tại https://www.unfpa.org/sites/default/files/pubpdf/UNFPA-Exec-
Summary_VN.pdf.
45. Nguyễn Thanh Vân (2014), Dân số già nhanh, Việt Nam cần làm gì, Tạp chí
Dân số và Phát triển, 11(152), http://www.gopfp.gov.vn/vi/so-11-152.
46. Tƣờng Vân (2016), “Hệ thống hƣu trí của Cộng hòa Pháp”,
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tap-chi-so/he-thong-huu-tri-cua-cong-
hoa-phap-291.
93
47. Xây dựng bảo hiểm hƣu trí bổ sung: Hình thành hệ thống hƣu trí đa tầng,
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/xay-dung-bao-hiem-huu-tri-bo-
sung-hinh-thanh-he-thong-huu-tri-da-tang-9827.
48. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng nhằm đảm bảo an sinh xã
hội lâu dài, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/xay-dung-he-thong-
bhxh-da-tang-nham-dam-bao-an-sinh-xa-hoi-lau-dai-19392.
94