0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
VŨ ĐÌNH HÒA
PHÁT TRIỂN HÀNH LANG KINH TẾ QUỐC LỘ 18
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Địa lý học
Mã số: 62.31.05.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Lê Thu Hoa
HÀ NỘI, 2013
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, việc hình thành các lãnh thổ trọng
điểm giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược tổ chức không gian (TCKG)
kinh tế - xã hội. Việc hình thành và phát triển các lãnh thổ trọng điểm sẽ tạo
ra các mối liên kết kinh tế - xã hội trở thành động lực phát triển vùng thông
qua các tác động lan tỏa lôi kéo các vùng phụ cận cùng phát triển. Kinh
nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới chỉ ra rằng các nước đang ở
giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) phải
có các chiến lược TCKG hợp lý với các lãnh thổ trọng điểm thích hợp nhằm
tận dụng tối đa nguồn lực và tạo cơ sở tích lũy cho sự phát triển kinh tế.
Với mục tiêu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH,
trong đó việc lựa chọn một số địa bàn có lợi thế vượt trội để hình thành lãnh
thổ đầu tàu phát triển được coi là một khâu then chốt và là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia. Chủ trương này đã được thể hiện rõ trong Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội quốc gia được thông qua tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ XI (từ 12 - 19/01/2011) là “Hình thành và phát triển các hành
lang, vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng có ý nghĩa đối với cả nước và
liên kết trong khu vực” (mục 4.6).
Việc thực hiện mục tiêu chiến lược đã đưa tới việc hình thành nhiều hình
thức tổ chức lãnh thổ (TCLT) kinh tế mới ở nước ta, trong đó hành lang kinh
tế (HLKT) được xem là một hiện tượng kinh tế - xã hội. HLKT hình thành
dựa trên việc giao lưu kinh tế sống động của một tuyến trục giao thông huyết
mạch do có sự tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ gắn với các đô thị
dọc hai bên tuyến trục đó. Việc phát triển tập trung các cơ sở kinh tế, nhờ lợi
2
dụng triệt để việc vận chuyển thuận lợi nên các hoạt động kinh tế đem lại hiệu
quả cao hơn.
Ở Việt Nam trong khoảng 10 năm qua đã có nhiều HLKT được hình
thành, trong đó tiêu biểu là các hành lang (HL): Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng; Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và HL Đông - Tây
(Việt Nam). Hiệu quả của việc hình thành và phát triển HLKT ở nước ta đã
bước đầu thể hiện là một hình thức TCLT có triển vọng. Các HLKT đóng vai
trò to lớn trong việc đóng góp vào tăng trưởng giá trị sản xuất của các địa
phương đi qua; đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội; tạo ra
mối liên hệ cả theo chiều dọc và chiều ngang thúc đẩy trao đổi hàng hóa, giao
lưu kinh tế, tăng cường mối liên kết giữa các địa phương trên toàn tuyến trục
với các khu vực xung quanh; tăng cường đảm bảo anh ninh - quốc phòng của
vùng/ quốc gia.
Tuy nhiên, sự phát triển trong thời gian qua của hình thức này cũng bộc
lộ không ít hạn chế về hiệu quả liên kết giữa các trung tâm kinh tế và các tác
động phân cực đòi hỏi phải nghiên cứu hoàn thiện. Làm thế nào để phát huy
được các giá trị thực tiễn của việc tổ chức các HLKT, góp phần đắc lực vào
công cuộc phát triển kinh tế đất nước trong thời kì CNH, HĐH là một vấn đề
đáng quan tâm cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Quốc lộ 18 (QL18) là một trong những tuyến giao thông huyết mạch ở
phía Bắc Việt Nam. Với những lợi thế về vị trí địa lý, các điểm đầu mút là các
cửa vào - ra (sân bay quốc tế Nội Bài, cảng nước sâu Cái Lân, cửa khẩu quốc
tế Móng Cái) cùng sự phát triển sôi động của các trung tâm kinh tế trong vùng
kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) Bắc Bộ đã làm cho QL18 có nhiều tiềm năng
phát triển thành HLKT. Việc phát triển HLKT QL18 sẽ tạo ra những tác động
lan tỏa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của các địa
phương có HLKT đi qua và của cả VKTTĐ Bắc Bộ gắn với vùng phía Nam
3
Trung Quốc. Tuy vậy, thời gian qua sự phát triển và liên kết của các trung
tâm kinh tế dọc theo QL18 còn hạn chế; các tác động lan tỏa từ sự phát triển
do lợi ích của tuyến trục giao thông huyết mạch trong vùng chưa thực sự
tương xứng với tiềm năng và vai trò của nó. Vì vậy, việc nghiên cứu để phát
triển QL18 trở thành HLKT trở nên cấp bách.
Xuất phát từ những lí do nêu trên tác giả chọn vấn đề "Phát triển
hành lang kinh tế quốc lộ 18 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam" làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích
Xác lập cơ sở khoa học cho việc xây dựng và phát triển HLKT ở Việt
Nam trong quá trình CNH, HĐH; vận dụng nghiên cứu HLKT QL18 nhằm
làm sáng tỏ các điều kiện và yếu tố hình thành HL cũng như các định hướng
và đề xuất giải pháp phát triển của HLKT QL18 trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ
Tổng quan có chọn lọc và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực
tiễn về xây dựng và phát triển HLKT trong điều kiện đẩy mạnh CNH,
HĐH ở Việt Nam và vận dụng nghiên cứu trường hợp HLKT QL18;
Đánh giá điều kiện hình thành và phát triển HLKT QL18 trong quá
trình CNH, HĐH đất nước;
Đề xuất định hướng và giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả phát triển bền
vững HLKT QL18 đến năm 2020 và 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là HLKT QL18, trong đó tập trung
nghiên cứu cơ sở khoa học, các điều kiện hình thành và phát triển HLKT
4
QL18 trong quá trình CNH, HĐH; hệ thống các giải pháp phát triển hiệu quả
và bền vững HLKT QL18.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học, điều
kiện hình thành, định hướng và giải pháp phát triển HLKT QL18.
- Phạm vi không gian: Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, sự
phát triển theo tuyến trục không phụ thuộc vào lãnh thổ - hành chính
mà phụ thuộc vào ảnh hưởng (gồm sức hút và ảnh hưởng lan tỏa) của
chính tuyến trục. Tuy nhiên, việc thu thập, xử lý và phân tích số liệu,
đặc biệt là các số liệu định lượng trong nghiên cứu của luận án sẽ giới
hạn đến các lãnh thổ cấp huyện thỏa mãn điều kiện (i) nằm dọc theo
tuyến trục; (ii) toàn bộ hoặc phần lớn diện tích lãnh thổ thuộc phạm vi
ảnh hưởng của tuyến trục. Do các lãnh thổ cấp huyện phù hợp với đơn
vị kinh tế - hành chính nhỏ nhất ở Việt Nam, việc giới hạn phạm vi
lãnh thổ trong nghiên cứu như vậy thể hiện tính khái quát cao nhưng
vẫn bảo đảm tính khách quan đối với sự phát triển HLKT.
Như vậy, phạm vi không gian nghiên cứu HLKT QL18 được giới
hạn từ sân bay quốc tế Nội Bài tới cửa khẩu quốc tế Móng Cái cùng với
vùng ảnh hưởng giữa HL với hai bên quốc lộ (QL) (được giới hạn theo
đơn vị hành chính huyện, thị xã, thành phố) có QL18 đi qua thuộc các
tỉnh, thành phố Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh bao
gồm: Sóc Sơn (Hà Nội); Yên Phong, TP.Bắc Ninh, Quế Võ (Bắc
Ninh); TP.Chí Linh (Hải Dương); Đông Triều, TP.Uông Bí, Yên Hưng,
TP.Hạ Long, TP.Cẩm Phả, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, TP.Móng Cái
(Quảng Ninh). Luận án có chú ý so sánh với VKTTĐ Bắc Bộ và các
lãnh thổ lân cận.
5
- Phạm vi thời gian: Việc phân tích, đánh giá điều kiện hình thành và phát
triển của HLKT QL18 được thực hiện cho giai đoạn chủ yếu từ năm 2000
đến 2010; dự báo định hướng phát triển và đề xuất giải pháp thực hiện cho
giai đoạn đến năm 2020 và 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
- Phạm vi về số liệu: các số liệu được tác giả sử dụng trong nghiên cứu,
phân tích tới cấp huyện (quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh).
Trong một số trường hợp do hạn chế về thống kê, tác giả sử dụng các số
liệu ở cấp tỉnh để minh họa cho các nhận định trong luận án.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án đã làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về HLKT và
khẳng định HLKT là một hiện tượng khách quan, được phát triển dựa trên cơ sở
lý luận khoa học vững chắc. Luận án cũng đề xuất quy trình tiếp cận nghiên cứu
và các tiêu chí đánh giá điều kiện hình thành và phát triển các HLKT.
- Về mặt thực tiễn:
Luận án đã phân tích, đánh giá toàn diện, khách quan và khoa
học các điều kiện dẫn đến sự hình thành và phát triển lãnh thổ
dọc QL18 thành HLKT ở phía Bắc.
Luận án đã đề xuất định hướng phát triển HLKT QL18 và kiến
nghị những giải pháp cơ bản nhằm phát triển và phát huy vai trò
của HLKT này trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Luận án cung cấp các căn cứ khoa học cho các địa phương dọc
theo QL18 để cùng phối hợp, liên kết hành động phát huy vai trò
của QL18 và các thế mạnh của địa phương trong phát triển kinh
tế - xã hội.
Luận án cung cấp thông tin và là tài liệu tham khảo hữu ích cho
các cơ quan quản lý, các nhà hoạch định và thực thi chính sách
trong lĩnh vực tổ chức không gian kinh tế - xã hội đồng thời là tài
6
liệu tham khảo tốt cho nghiên cứu và đào tạo đại học/ sau đại học
khối ngành địa lý kinh tế - xã hội.
5. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận án được cấu trúc thành 4 chương chính:
Chương 1. Tổng quan các công trình và phương pháp nghiên cứu về
hành lang kinh tế
Chương 2. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển hành lang
kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chương 3. Điều kiện hình thành và phát triển hành lang kinh tế quốc lộ 18
Chương 4. Định hướng và giải pháp phát triển hành lang kinh tế quốc
lộ 18 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
7
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH LANG KINH TẾ
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH LANG
KINH TẾ
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Phát triển HLKT ở nhiều quốc gia trên thế giới được xem là một xu thế
tất yếu không chỉ trong nội bộ một vùng, một quốc gia mà đã mở rộng trên
phạm vi liên quốc gia, quốc tế. Sự hình thành và phát triển các HLKT là yêu
cầu khách quan nội tại của các quốc gia, các địa phương có tuyến giao thông
huyết mạch kết nối các cực phát triển, các điểm mút vào - ra nhằm tận dụng
những lợi thế của tuyến trục để hợp tác đẩy nhanh tốc độ phát triển, thực hiện
giảm tỷ lệ đói nghèo, tạo các điều kiện để hoà nhập vào xu thế phát triển
chung của quốc gia và quốc tế.
Hình thức tổ chức HLKT xuất hiện đầu tiên ở các nước thuộc khu vực
Bắc Mỹ và châu Âu. Nhiều nghiên cứu cho rằng, ý tưởng về HLKT được xuất
phát từ ý tưởng cải cách của Abraham Lincoln trong giai đoạn 1861 - 1876,
khi cho xây dựng các tuyến đường sắt xuyên lục địa của nước Mỹ gắn với
phát triển các thành phố, các trung tâm công nghiệp, văn hóa, chính trị dọc
theo tuyến đường. Lincoln đã xác định mối quan hệ giữa hệ thống đường sắt
xuyên lục địa và việc phát triển kinh tế tại các khu vực phụ cận có tuyến
đường sắt ngang qua.
Trong khi đó, theo nhiều học giả nghiên cứu ở châu Á, ý tưởng manh
nha về HLKT xuất phát từ con đường tơ lụa nối giữa Trung Quốc và các quốc
gia Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi. Các thương nhân trên con đường này đã
vận chuyển buôn bán hương liệu từ Trung Quốc tới các vùng và vận chuyển
8
hàng hóa từ các vùng về Trung Quốc, hình thành nên con đường buôn bán
sầm uất trong nhiều thập kỷ.
Theo tìm hiểu của tác giả, trên thế giới vấn đề HLKT thường được đề cập
trong các nghiên cứu chung về TCKG kinh tế và một số công trình nghiên cứu
cụ thể. Tổng hợp các tài liệu được công bố của các nhà khoa học và quản lý
trong lĩnh vực liên quan, tác giả đúc rút được từ một số công trình nghiên cứu về
HLKT tiêu biểu như sau:
- Chính sách phát triển vùng: trường hợp nghiên cứu tại Venezuela của
tác giả J.Friedmann (1966) [64]. Trong nghiên cứu này Friedmann đã
đưa ra những quan niệm cơ sở về HLKT. Ông cho rằng HLKT là một
khu vực hẹp dọc theo tuyến đường quan trọng kết nối giữa hai cửa "vào
- ra" của tuyến trục. HLKT là một dải đất liên tục rộng khoảng 100km,
trung tâm là một tuyến đường giao thông chính (chẳng hạn như một
tuyến đường sắt, hoặc tuyến đường ô tô), với các hệ thống cơ sở hạ
tầng phụ cận bao gồm đường dây điện, đường ống dẫn nhiên liệu, cáp
quang, đường cung cấp nước (xem hình 1.1)
Hình 1.1. Sơ đồ mô phỏng cấu trúc một hành lang kinh tế theo J.Friedmann
9
Tuy nhiên, các vấn đề lý thuyết về HLKT do J.Friedmann đưa ra mới
chỉ dừng ở mức khái quát về quan niệm và một số điều kiện hình thành
của HLKT, chưa nghiên cứu cụ thể về vai trò và đặc điểm của việc tổ
chức phát triển HLKT.
- Trong nghiên cứu Quan niệm và phân loại về trục phát triển, Geyer,
H.S (1988) [66] đã đề cập đến khái niệm trục phát triển - một khái niệm
tương đương đương với HLKT theo cách hiểu hiện nay. Theo Geyer
điều kiện tiên quyết để hình thành trục phát triển là dựa trên một tuyến
trục giao thông có sẵn, và các điểm mút "vào - ra" - các trung tâm kinh
tế của tuyến trục, tạo nên các lực hút cho sự phát triển của toàn tuyến.
Các trung tâm kinh tế trên toàn tuyến trục trải qua ba giai đoạn sơ khai,
tập trung - phát triển, bão hòa và suy thoái.
- Nghiên cứu Hướng tới một lý thuyết chung về sự phát triển HL ở Nam
Phi của các tác giả Brian Marrian, Freeman, Ziv (2001) [60]. Các tác
giả đã xác định HLKT là một khu vực lãnh thổ nhất định dọc theo một
tuyến trục giao thông nối các hạt nhân với nhau. Sự liên kết giữa các
trung tâm (hạt nhân) tạo nên động lực thúc đẩy kinh tế theo chiều lan tỏa
từ trung tâm hạt nhân ra các khu vực liền kề. Không gian của HLKT
được xác định là khu vực rộng khoảng 2 km về mỗi bên của tuyến trục
giao thông chính. Tuyến trục này phát triển kết nối các mạng lưới giao
thông trong toàn bộ khu vực. Hoạt động của HL tạo điều kiện phát triển
kinh tế, nâng cao dân trí và đời sống của cư dân vùng phụ cận. HLKT
kết nối các nút hoạt động đi qua các đô thị xung quanh một trục giao
thông chính có khả năng tiếp cận với các vùng phụ cận có mật độ dân
số cao và nguồn cung cấp nguyên liệu lớn. Nhìn chung, công trình này
đã chỉ ra được các yếu tố cần và đủ cho việc hình thành và phát triển
HLKT đó là các tuyến trục giao thông chính liên kết các điểm dân cư
10
và các khu vực kinh tế. Nghiên cứu này cũng đề cập một số nhân tố ảnh
hưởng cơ bản trong việc hình thành và phát triển của HLKT. Tuy vậy,
nghiên cứu chưa đề cập đến vai trò của các điểm “vào”, “ra” và chỉ giới
hạn mức độ tác động của HL trong khoảng 2 km từ tuyến trục trung tâm.
- Nghiên cứu của hai tác giả Campbell MM và Meades EE về Khả năng
tồn tại của HLPT giữa Bloemfontein và Welkom (2005) [61] đã đề cập
đến thuật ngữ HLPT trong nghiên cứu về HLKT. Theo Campbell và
Meades , HLPT là một tuyến trục đáp ứng được bốn yêu cầu sau đây: (1)
Hai đầu mối giao thông phải được liên kết của một trục giao thông; (2)
Các trung tâm phải phụ thuộc lẫn nhau; (3) Sự tương tác phải đòi hỏi
tiềm năng để phát triển hơn nữa; (4) Trục phải tăng trưởng về kinh tế và
nội lực.
- Nghiên cứu của Campbell, Johan Maritz, Hauptfleisch; Jordan, (2009)
[62], Tác động của HL Maputo đối với lĩnh vực dịch vụ. Các tác giả đã
đề cập đến quan niệm, vai trò của việc hình thành và phát triển HLKT
nói chung và đối với khu vực Nam Phi nói riêng, trong đó nhấn mạnh
tác động lan tỏa mạnh mẽ của sự phát triển HL Maputo tới khu vực phụ
cận thông qua việc tăng cường liên kết các trung tâm phát triển, cơ sở
hạ tầng. Thông qua các số liệu thực nghiệm định lượng, nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng việc phát triển HLKT đã thúc đẩy tốc độ phát triển
kinh tế của các địa phương thuộc khu vực HL cao và nhanh hơn các
khu vực phụ cận ở xa phạm vi tác động của HL.
- Trong hai nghiên cứu thảo luận: Hiệu quả và các thách thức của ba
HLKT tiểu vùng sông Mê Kông, (2005) [69] và Vùng kinh tế đặc biệt và
HLKT, (2009) [70] của Masami Ishida, tác giả đã đề cập đến vai trò của
các HLKT trong phát triển kinh tế của các quốc gia ở khu vực Đông
Nam Á, đặc biệt các quốc gia thuộc khu vực tiểu vùng sông Mê Kông
11
với dự án HLKT của ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Masami
Ishida đã cho rằng phát triển HLKT tại các nước thuộc tiểu vùng sông
Mê Kông sẽ tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa ASEAN và Trung Quốc;
tạo cơ hội thuận lợi cho việc trao đổi lao động, phát triển thông thương,
du lịch giữa các quốc gia, giúp tăng cường thu nhập cải thiện đời sống
dân cư, đặc biệt là tại các vùng biên giới giữa các nước còn gặp nhiều
khó khăn.
Bên cạnh các học giả nghiên cứu trực tiếp về HLKT như đã nêu trên,
một số học giả khác khi nghiên cứu về tổ chức không gian và quy hoạch vùng
cũng đã đề cập ít nhiều đến các nội dung về lý luận cũng như thực tiễn nghiên
cứu HLKT. Có thể kể đến như sau:
- Glasson, (1978), Giới thiệu về quy hoạch vùng: khái niệm, lý thuyết
và thực hành (An introduction to regional planning: concepts, theory
and pracice) ấn bản thứ hai, London. Trong công trình này, Glasson
đã đề cập đến HLKT như là một hình thức TCLT cần được xem xét
trong quá trình lập và phát triển quy hoạch vùng.
- Chapman, Pratt, Larkam & Dickins, (2003), Quan điểm và định nghĩa
về HL: bằng chứng từ vùng trung du nước Anh (Concept and
definitions of corridors: Evidence from England's Midland's), Tạp chí
Địa lý Giao thông vận tải (Journal of Transport Geography). Các tác giả
đã đề cập đến quan niệm về HLKT và phân tích các lợi ích của việc
phát triển HLKT ở miền trung nước Anh.
- Romein, Trip & Vries, (2003), Tính phức tạp của quy hoạch cơ sở hạ
tầng: bằng chứng từ HL châu Âu Hà Lan - Phần Lan (The multi-scalar
complexity of infrastructure planning: evidence from the Dutch-
12
Flemish eurocorridor), Tạp chí Địa lý Giao thông vận tải (Journal of
Transport Geography).
- Hess & Rodrigue, (2006), Mạng lưới sản xuất toàn cầu và vai trò của
hậu cần và giao thông vận tải (Global production networks and the role
of logistics and transportation);
- Nathan Associates, (2008), Perkins, (2009), Báo cáo tóm tắt về vành
đai Maputo (Maputo corridor summary report) USAID; Chương trình
chính thức về sáng kiến phát triển không gian, Ngân hàng phát triển
Nam Phi (Offcial of the Regional Spatial Development initiative
Programe Unit of the Development Bank of South Africa). Báo cáo đã
khẳng định thành công của việc phát triển HLKT Maputo trên các
phương diện: (i) về mặt kinh tế: giảm chi phí công trong việc đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng; giảm sự lãng phí tài nguyên của các vùng lãnh
thổ lân cận; giảm chi phí giao thông cho cộng đồng dân cư nghèo; thu
hút nhiều nguồn vốn đầu tư, tăng cơ hội phát triển kinh tế; tăng hiệu
suất sử dụng trục giao thông; (ii) về mặt xã hội: giảm tỉ lệ đói nghèo,
tăng cơ hội việc làm cho cộng đồng; phát triển các dịch vụ công cộng;
(iii) về tổ chức đô thị: tái cấu trúc sự phân bố đô thị; phát triển thêm
nhiều đô thị mới dọc HLKT; (iv) về mặt môi trường: giảm ô nhiễm môi
trường phát thải từ các phương tiện giao thông; hạn chế rác thải... Bên
cạnh đó, báo cáo cũng đề xuất các định hướng phát triển về cơ sở hạ
tầng, mạng lưới logicstic và cơ chế chính sách để hành lang Maputo có
thể phát triển hơn nữa trong giai đoạn tiếp theo;
- Nghiên cứu về phát triển logistics của HLKT Bắc - Nam thuộc tiểu
vùng sông Mê Kông: tóm tắt, ADB, Manila, Philippines, Ruth
Banomyong (Logistics development study of the GMS North - South
economic corridor: summary, ADB, Manila, Philippines; Ruth
Banomyong) (2008);
13
- Chuẩn hoạt động hậu cần cho phát triển HL kinh tế: Quan sát
hoạt động biên giới tiểu vùng sông Mê Kông (Benchmarking
economic corridor logistics performance: a GMS boder crossing
observation) (2008).
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các học giả trên thế giới đã
đề cập đến vấn đề phát triển HLKT và coi nó như là một hình thức TCLT
quan trọng trong TCKG kinh tế - xã hội. Về cơ bản có thể rút ra một số luận
điểm chung từ các công trình nghiên cứu này như sau:
(i) HLKT là một khu vực lãnh thổ dọc hai bên tuyến trục giao thông
huyết mạch có độ rộng khác nhau, dao động từ 2 km tới 50 km, thậm chí tới
100 km có mật độ các hoạt động kinh tế dày đặc, với các hạt nhân kinh tế tạo
nên sự thịnh vượng chung.
(ii) Điều kiện hình thành một HLKT phải đảm bảo có một tuyến trục
giao thông huyết mạch (đường sắt, đường ô tô), kết nối các cực phát triển.
(iii) HLKT có vai trò to lớn đối trên các mặt kinh tế - xã hội và môi
trường thông qua việc tăng cường liên kết giữa các lãnh thổ, giảm chi phí và
thời gian vận chuyển, tạo cơ hội việc làm, trao đổi lao động và tài nguyên,
phát triển và mở rộng các đô thị.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, thời gian qua đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu
về lý thuyết và thực tiễn phát triển đối với hình thức TCLT HLKT:
Các công trình nghiên cứu về lý thuyết HLKT tiêu biểu có thể kể đến là:
- “Bàn về phát triển kinh tế - Nghiên cứu con đường dẫn tới giàu sang”
(2005) và “Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội: một số vấn đề lý luận và
ứng dụng” (2006) [41, 43] do PGS.TS Ngô Doãn Vịnh chủ biên, Nxb
Chính trị Quốc gia ấn hành. Trong hai công trình này tác giả đã đề cập
tới nội dung và các hình thức cơ bản của TCKG kinh tế - xã hội, trong
đó có đề cập tới HLKT (tr 422 - 425). Theo quan niệm của tác giả
14
“HLKT là kết quả một tuyến trục giao thông gắn với sự phân bố tập
trung các hoạt động kinh tế (có sự phối hợp chặt chẽ) dọc tuyến. Nhờ sự
phát triển và phân bố như vậy đã tạo ra các yếu tố thuận lợi cho sự phát
triển toàn tuyến, làm cho các hoạt động kinh tế của tuyến trở thành đầu
tàu lôi kéo sự phát triển chung”. Đồng thời tác giả cũng đề cập đến các
yếu tố cấu thành một HLKT bao gồm tuyến giao thông huyết mạch, các
cơ sở kinh tế và các điểm dân cư, các khu vực sản xuất bổ trợ.
- Trong bài viết “Hai HL và một vành đai kinh tế: từ ý tưởng đến hiện
thực” (2006) [17] của PGS.TS Nguyễn Văn Lịch, tác giả đã nêu khái
niệm về HLKT (là một tuyến nối liền các vùng lãnh thổ của một hoặc
nhiều quốc gia nhằm mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có
hiệu quả lợi thế so sánh của các khu vực địa - kinh tế nằm trên cùng
một dải theo trục giao thông thuận lợi nhất cho việc lưu thông hàng hóa
và liên kết kinh tế giữa các vùng bên trong, cũng như các vùng cận kề
với hành lang); và vành đai kinh tế (là một tuyến nối liền các vùng lãnh
thổ của một hoặc nhiều quốc gia nhằm mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn
nhau để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các khu vực địa - kinh
tế nằm trên cùng một dải bao quanh một khu vực (thành phố, vịnh,
v.v..). Xây dựng vành đai kinh tế không những phát triển được kinh tế
của những vùng nằm trên vành đai mà còn góp phần phát triển cả
những vùng xung quanh qua việc thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát
triển kết cấu hạ tầng giao thông); Tác giả Nguyễn Văn Lịch đồng thời
phân tích, so sánh điểm giống và khác nhau giữa HLKT và vành đai
kinh tế: Điểm giống nhau cùng là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa các
vùng lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia nhằm mục đích khai thác có
hiệu quả lợi thế so sánh. Điểm khác nhau là ở chỗ HLKT là tuyến liên
kết theo trục giao thông, thường nối giữa các điểm - đầu cuối và giữa
15
của sự liên kết kinh tế. Động lực của hợp tác HL là các điểm nhấn
(tỉnh, thành phố) nằm theo trục giao thông; còn vành đai kinh tế là
tuyến liên kết theo hình vòng cung hoặc vòng tròn bao quanh một khu
vực. Bài viết cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết, nội dung và định hướng
của việc xây dựng hai HL, một vành đai kinh tế ở Việt Nam.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện “Vị trí, vai trò của các HLKT đối
với phát triển kinh tế Việt Nam" (2009) do PGS.TS Ngô Doãn Vịnh
(Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì [47]. Có
thể nói đây là một công trình thể hiện tương đối đầy đủ các vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn bước đầu về nghiên cứu HLKT ở Việt Nam.
Đề tài đã đề cập đến các nội dung: quan niệm về HLKT; đặc điểm và
vai trò của HLKT (dưới góc độ lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội); các
điều kiện hình thành (bao gồm mức độ thuận lợi về trục giao thông; các
lãnh thổ tập trung hoạt động kinh tế; sự phối hợp của các đầu mút; sự
thừa nhận của nhà quản lý và sự ủng hộ của dân chúng); các nhân tố
ảnh hưởng (bao gồm các nhân tố về địa lý tự nhiên: địa hình, khí hậu,
khoáng sản, sinh vật, du lịch; và các nhân tố kinh tế - xã hội: dân cư -
nguồn lao động, cơ sở vật chất, kĩ thuật hạ tầng, đường lối chính sách,
nguồn vốn đầu tư, thị trường và các yếu tố liên kết vùng). Tuy vậy, đề
tài chưa đi sâu phân tích vai trò của HLKT đối với từng lĩnh vực kinh
tế, xã hội, an ninh và quốc phòng cũng như xác định các điều kiện hình
thành, phát triển và các tiêu chí định lượng để đánh giá, xem xét vai trò
của HLKT.
- Trong giáo trình “Tổ chức lãnh thổ kinh tế” của tác giả Ngô Thúy
Quỳnh (Học viện Chính sách và Phát triển), Nxb Chính trị Quốc gia ấn
hành năm 2010 [27], tác giả đã đề cập đến hình thức tổ chức HLKT khi
trình bày về nội dung các hình thức TCLT trên thế giới và Việt Nam
16
(trang 143 - 146). Kế thừa các công trình nghiên cứu của các chuyên
gia thuộc Viện chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) về
HLKT, tác giả đã xác định các yếu tố then chốt để hình thành một
HLKT bao gồm: tuyến giao thông huyết mạch kết nối các cực phát triển
hay trung tâm đô thị gắn với các khu công nghiệp hoặc các khu kinh tế;
các cơ sở kinh tế, nhất là các doanh nghiệp công nghiệp, du lịch,
thương mại hàng hóa, bán xăng dầu, dịch vụ thông tin, hội chợ và triển
lãm… phối hợp với nhau tạo nên tiềm lực kinh tế chung cho tuyến
hành lang. Các doanh nghiệp đó được lợi do có được điều kiện thuận
lợi về giao thông; các điểm dân cư và những khu vực sản xuất nông - lâm
nghiệp bổ trợ dọc tuyến được hỗ trợ phát triển. Tuy vậy, các khía cạnh
khác về HLKT như vai trò, những tác động tích cực, tiêu cực của việc
hình thành HLKT hay các tiêu chí để xác định vai trò của HLKT chưa
được tác giả đề cập đến.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về lý thuyết, các công trình nghiên
cứu thực tiễn cũng như quy hoạch về phát triển HLKT có thể kể đến là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Một số giải pháp phát triển
thương mại trên HLKT Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh” (2002) [51]
và “Nghiên cứu phát triển thương mại khu vực HLKT Hải Phòng - Lào
Cai - Côn Minh trong bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc” (2004) [52] của Viện Nghiên cứu Thương mại
(Bộ Thương mại nay là Bộ Công Thương). Đề tài đã làm rõ những luận
cứ khoa học của việc xây dựng HLKT Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội -
Hải Phòng; Phân tích những tác động của HLKT đối với việc hình
thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc; Dự báo những
tác động của việc hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(ACFTA) đối với phát triển thương mại trên HL; Đề xuất các giải pháp
17
thúc đẩy phát triển thương mại trên HL trong bối cảnh hình thành khu
vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Bên cạnh những kết quả
như đã trình bày, do đề tài nghiên cứu về lĩnh vực thương mại trên
HLKT nên quan niệm và vai trò của HLKT mới chủ yếu nghiên cứu và
phân tích dưới góc độ của hoạt động thương mại trong bối cảnh tự do
hóa thương mại như việc phát triển các liên kết theo HLKT làm giảm
chi phí lưu thông hàng hóa nội địa và xuất khẩu; thúc đẩy trao đổi hàng
hóa, giao lưu kinh tế trong vùng cũng như giữa vùng trên HL với các
vùng khác và quốc tế... do đó, đề tài chưa xác định đầy đủ vai trò và các
điều kiện, yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển HLKT trong
điều kiện CNH, HĐH ở Việt Nam.
- Báo cáo khoa học“HLKT Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng” của
PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng - Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
(2006) [29]. Tác giả đã đề cập đến quan niệm về HLKT cũng như một
số nhân tố quan trọng trong việc hình thành HLKT đó là tuyến trục
giao thông huyết mạch, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và phát triển
kinh tế.
- Báo cáo tổng hợp“Quy hoạch phát triển HLKT Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng và Quảng Ninh trong chương trình hợp tác phát triển HLKT
Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng đến năm 2020” (2006) [2]
và“Quy hoạch phát triển HLKT Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng và
Quảng Ninh trong chương trình hợp tác phát triển HLKT Nam Ninh -
Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng đến năm 2020” (2007) [4] do Viện
Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Cả hai báo cáo
quy hoạch đã trình bày quan niệm về HLKT tuy chưa đề cập chi tiết
các nhân tố ảnh hưởng, điều kiện hình thành hay đề cập đến vai trò của
HLKT trong quá trình CNH, HĐH đất nước nhưng cả hai đề tài là
những công trình nghiên cứu về thực tiễn phát triển của HLKT rất có
18
giá trị thông qua việc đánh giá các nguồn lực, hiện trạng phát triển kinh
tế của các địa phương dọc theo tuyến, đồng thời xác định các định
hướng và giải pháp phát triển đến năm 2020 cho toàn bộ tuyến HL.
- Trong đề án “Quy hoạch phát triển HL Lạng Sơn - Hà Nội - Thành phố
Hồ Chí Minh - Mộc Bài” do Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư thực hiện năm 2010 và 2011 [48]. Đây là công trình này có
giá trị cao về thực tiễn nghiên cứu HLKT trong điều kiện ở Việt Nam.
Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu các yếu tố, điều kiện để hình thành
HLKT Lạng Sơn - Hà Nội - TP Hồ Chí Minh - Mộc Bài; định hướng
phát triển và ý tưởng thiết kế tuyến hành lang kinh tế đến năm 2020 và
kiến nghị giải pháp đảm bảo sự phát triển của HLKT.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên, ở Việt Nam còn một
số học giả cũng đã bước đầu nghiên cứu về HLKT trong các bài báo, các
tham luận có thể kể đến như: PGS.TS Lê Văn Sang (Trung tâm kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương) - Vai trò của hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai -
Hải Phòng trong quá trình phát triển kinh tế miền Tây Bắc (Việt Nam) và
miền Tây Nam (Trung Quốc); ngoài ra còn một số bài báo của TSKH Trần
Khánh (Viện Nghiên cứu Đông Nam Á) - Tình hình phát triển HLKT Côn
Minh - Hải Phòng và tác động của nó đến quan hệ kinh tế Việt - Trung; TS.
Nguyễn Trần Quế (Viện Kinh tế và Chính trị thế giới) - Xây dựng HLKT Côn
Minh - Hải Phòng: những thuận lợi, khó khăn và giải pháp… Hầu hết các tác
giả này đều khẳng định việc phát triển HLKT sẽ mang lại những lợi ích to lớn
trong việc tăng cường liên kết, thúc đẩy kinh tế - xã hội của các địa phương
có tuyến trục giao thông huyết mạch đi qua.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về quốc lộ 18
Đối với đối tượng nghiên cứu là QL18, đã có một số công trình nghiên
cứu, chủ yếu tập trung vào các vấn đề về TCLT du lịch và công nghiệp, giao
thông vận tải. Đáng lưu ý và có giá trị nhất trong các công trình nghiên cứu về
19
HLKT QL18 là công trình "Quy hoạch phát triển bền vững tuyến HL đường
18" thuộc dự án VIE/96/001do Viện Chiến lược phát triển trực thuộc Bộ Kế
hoạch và Đầu tư tiến hành dưới sự hỗ trợ của Chương trình phát triển Liên
Hợp Quốc (UNDP) (1997).
Báo cáo "Quy hoạch phát triển bền vững tuyến HL đường 18" đã phân
tích hiện trạng; làm rõ các mục tiêu phát triển, các chiến lược và phương án
phát triển tuyến HL đường 18; trên cơ sở đó đã xác định sơ bộ các khu vực ưu
tiên đầu tư. Đây là công trình nghiên cứu đầy đủ và chi tiết nhất về HLKT
QL18 tính đến thời điểm hiện tại. Tuy vậy, trong công trình nghiên cứu này
các chuyên gia mới chủ yếu đề cập đến các vấn đề về phát triển công nghiệp
(công nghiệp nặng) và hướng phát triển đô thị trên tuyến HL. Tuy nhiên, do
thực hiện cách đây 16 năm nên một số vấn đề kinh tế mới chưa đề cập cụ thể
trong bối cảnh mới của đất nước như việc phát triển du lịch mạnh mẽ trên
HLKT khi vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên
nhiên thế giới, dân ca Quan họ Kinh Bắc được công nhận là Kiệt tác phi vật
thể truyền khẩu của nhân loại; thêm vào đó các điểm mút vào - ra tại thời
điểm đó cũng chưa hình thành rõ rệt do cửa khẩu quốc tế Móng Cái còn rất sơ
khai, chưa hình thành KKT cửa khẩu quốc tế Móng Cái, cảng nước sâu Cái
Lân và việc xác định HLKT được tính từ Bắc Ninh chưa tính đến sự ảnh
hưởng của trung tâm kinh tế thủ đô Hà Nội.
Trong báo cáo, quy trình nghiên cứu HLKT được các tác giả áp dụng
bao gồm 03 bước: (1) xác định đặc điểm tiềm năng thế mạnh về tự nhiên,
kinh tế - xã hội theo các đặc trưng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội,
trong một số trường hợp đưa thêm các yếu tố về quan hệ quốc tế; (2) nghiên
cứu thực trạng (tình hình) phát triển kinh tế xã hội của các địa phương trên
HLKT đặc biệt nhấn mạnh đến vận tải, du lịch và công nghiệp dọc theo tuyến
20
giao thông; (3) kiến nghị định hướng phát triển chủ yếu về kinh tế dọc theo
tuyến trục với tư cách là HLKT.
Từ việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã có, có thể khẳng định
HLKT là một hình thức TCLT kinh tế triển vọng và được đề cập nghiên cứu
phổ biến cả ở trên thế giới và Việt Nam. Các công trình nghiên cứu đi trước
đã đề cập đến quan niệm, điều kiện, vai trò, đặc điểm của HLKT và nhìn
chung các công trình này đều đã thành công tại thời điểm của nó, đã cung cấp
những cách nhìn nhận/ giải quyết vấn đề ở các khía cạnh khác nhau. Tác giả
luận án đã tổng quan, kế thừa một cách có chọn lọc cơ sở khoa học về HLKT
để áp dụng phù hợp trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
1.2. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
LUẬN ÁN
1.2.1. Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án
Như đã trình bày ở trên, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án. Nhiều kết quả của
các công trình này sẽ được kế thừa trong thực hiện đề tài luận án. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về HLKT
ở Việt Nam nói chung, HLKT QL18 nói riêng; đặc biệt là về các điều kiện
hình thành, phát triển cũng như dự báo các phương án phát triển và đề xuất
các giải pháp cụ thể phát triển HLKT này. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Phát
triển hành lang kinh tế quốc lộ 18 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam” của luận án không trùng lặp với bất cứ công trình nào khác
đã công bố.
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, trên cơ sở
tổng quan tình hình nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài
nước có liên quan, tác giả xác định những vấn đề đặt ra mà luận án cần tập
trung giải quyết như sau:
21
Thứ nhất, luận giải và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về phát triển HLKT trong điều kiện CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay
Luận án cần làm rõ quan niệm về HLKT trong điều kiện CNH,
HĐH ở Việt Nam.
Luận án cần luận giải về đặc điểm, vai trò, sự cần thiết phát triển
HLKT trong điều kiện CNH, HĐH ở Việt Nam.
Luận giải về điều kiện hình thành và phát triển của HLKT trong
quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
Nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển HLKT trên thế
giới để từ đó rút ra bài học cho phát triển HLKT ở Việt Nam.
Tổng quan và đề xuất lựa chọn quy trình nghiên cứu và hệ
thống tiêu chí đánh giá vai trò, hiệu quả của HLKT trong quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
Thứ hai, phân tích và đánh giá các điều kiện hình thành và phát triển
HLKT trên tuyến QL18
Phân tích ý nghĩa về vị trí của QL18 trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương và vùng KTTĐ Bắc Bộ nhằm
minh chứng cho sự cần thiết và tất yếu khách quan của việc hình
thành và phát triển HLKT trên tuyến QL18.
Phân tích hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội của các lãnh
thổ trong phạm vi ảnh hưởng của tuyến trục QL18 nhằm làm
sáng tỏ bức tranh về điều kiện cơ sở cho việc hình thành và
phát triển HLKT.
22
Phân tích, đánh giá cụ thể, định tính và định lượng về vai trò và
các điều kiện cần và đủ đối với hình thành và phát triển HLKT
QL18 trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, xác định quan điểm, định hướng phát triển và đề xuất giải
pháp phát triển HLKT QL18 trong thời gian đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030
Xác định các quan điểm và định hướng phát triển HLKT QL18
nhằm đáp ứng mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia, phát triển VKTTĐ Bắc Bộ đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030.
Đề xuất và luận giải các giải pháp cần thiết, phù hợp và khả thi
nhằm phát triển HLKT QL18 trong quá trình CNH, HĐH đất nước
đến năm 2020.
1.2.2. Quy trình tiếp cận nghiên cứu phát triển hành lang kinh tế quốc lộ 18
Mục đích của việc nghiên cứu phát triển HLKT để tìm ra phương hướng
và giải pháp tổ chức, thực hiện phát triển tốt nhất, hiệu quả nhất và bền vững.
Để đạt được mục đích đó, áp dụng cho trường hợp HLKT QL18, tác giả đề
xuất quy trình tiếp cận nghiên cứu bao gồm các bước với các nội dung chủ yếu
như sau:
(1). Thống nhất quan điểm về sự cần thiết và các điều kiện phát triển
HLKT ở Việt Nam; lựa chọn các tiêu chí/ bộ chỉ tiêu đánh giá vai trò và mức
độ đáp ứng các điều kiện hình thành và phát triển của HLKT
Mục đích của bước này là, căn cứ vào các cơ sở lý luận và thực tiễn,
luận giải để đi đến thống nhất quan điểm về sự cần thiết khách quan phải phát
triển HLKT trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam; xác định các
23
điều kiện - cần và đủ, để HLKT có thể hình thành và phát triển. Trên cơ sở
đó, tiếp tục đề xuất lựa chọn bộ tiêu chí/ chỉ tiêu làm căn cứ đánh giá vai trò
và mức độ đáp ứng các điều kiện hình thành và phát triển của HLKT.
Nội dung này sẽ tác giả được thực hiện trong chương 2 của luận án.
(2). Phân tích, đánh giá các điều kiện hình thành, phát triển HLKT trên
tuyến trục giao thông đã xác định (QL18)
Mục đích của bước này là nhằm phân tích, đánh giá mức độ đáp ứng các
điều kiện hình thành và phát triển của HLKT trên tuyến trục giao thông
QL18. Trong bước này, các số liệu thực tế (thứ cấp và sơ cấp) về thực trạng
tự nhiên - kinh tế - xã hội của các lãnh thổ trong phạm vi nghiên cứu được thu
thập, được phân tích, tính toán theo các tiêu chí/ chỉ tiêu đã đề xuất để làm
sáng tỏ nhận định: các điều kiện cần và đủ cho sự hình thành và phát triển
HLKT đã được đáp ứng trong trường hợp HLKT QL18.
Các nội dung của bước 2 sẽ được tác giả thực hiện trong chương 3 của
luận án.
(3). Lựa chọn định hướng, phương án phát triển HLKT QL18 nhằm
cung cấp cơ sở khoa học cho các quyết định thực tiễn
Mục đích của bước này là làm rõ các quan điểm, xây dựng các định
hướng cụ thể cho sự phát triển HLKT QL18, bao gồm định hướng phát triển
giao thông trên cơ sở tính toán hiệu quả phát triển; định hướng tổ chức các
hoạt động kinh tế chính theo tuyến; định hướng tổ chức phối hợp liên kết
hành động, bảo vệ môi trường…
(4). Đề xuất biện pháp hiện thực hóa định hướng và các phương án phát
triển HLKT QL18
Đề xuất các giải pháp tổ chức, xây dựng, phát triển HLKT QL18 một
cách đồng bộ và hiệu quả bao gồm các nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách;
24
quy hoạch; thu hút vốn đầu tư, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao;
liên kết vùng; bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai; tổ chức quản lý
phát triển HL.
Các bước 3, 4 được tác giả thực hiện trong chương 4 của luận án.
Từ các phân tích và các nội dung ở trên, có thể khái quát về quy trình
(khung lý thuyết) nghiên cứu về HLKT, áp dụng cho HLKT QL18 như sau:
(1) Thống nhất quan điểm về sự cần thiết và các điều kiện phát
triển HLKT, lựa chọn các tiêu chí/ bộ chỉ tiêu đánh giá
(2) Phân tích, đánh giá các điều kiện hình thành, phát triển các
hoạt động kinh tế trên HLKT
(3) Lựa chọn định hướng, phương án phát triển HLKT nhằm
cung cấp cơ sở khoa học cho các quyết định thực tiễn
(4) Đề xuất biện pháp hiện thực hóa định hướng và các phương
án phát triển HLKT
Hình 1.2. Quy trình tiếp cận nghiên cứu phát triển hành lang kinh tế
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Để đáp ứng yêu cầu và mục đích nghiên cứu của luận án, tác giả lựa chọn
và sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống và hiện đại trên
nguyên tắc đảm bảo tính tổng hợp, tính hệ thống, tính hiện đại và sự phù hợp.
Khái quát về cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của luận án được minh
họa như trong hình 1.3 dưới đây:
25
Nghiên cứu
lý luận HLKT
Phương pháp chuyên gia
Khung lý
thuyết HLKT
Nghiên cứu
kinh nghiệm
QT về phát
triển HLKT
Phương pháp
dự báo
Khảo sát,
thu thập
tài liệu,
số liệu
Tiêu chí
đánh giá
hiệu quả
HLKT
Bài học kinh
nghiệm QT
về phát triển
HLKT
Phương pháp
bản đồ và GIS
Đánh giá các điều kiện hình
thành HLKT QL18
Đề xuất định hướng, giải pháp, kiến nghị
Hình 1.3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của luận án
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
1.2.3.1. Phương pháp phân tích hệ thống và tổng hợp
Phương pháp này đã được rất nhiều tác giả sử dụng khi nghiên cứu hệ
thống lãnh thổ. Theo quan điểm hệ thống, đối tượng nghiên cứu của luận án -
HLKT - là một hệ thống bao gồm nhiều phân hệ hay hệ thống con như các
trung tâm kinh tế, các đô thị dọc tuyến trục... có quan hệ tương tác, phụ thuộc
lẫn nhau; đồng thời, HLKT cũng là bộ phận của hệ thống lớn hơn là hệ thống
lãnh thổ vùng, quốc gia. Do đó việc nghiên cứu, phân tích HLKT phải đặt
trong mối quan hệ dọc và ngang theo lãnh thổ, để đảm bảo tính hiệu quả và
bền vững.
1.2.3.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
Trong thời gian từ 2010 - 2012, tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế tại
các địa phương Quế Võ, Chí Linh, Hạ Long, Móng Cái, trong đó tập trung
26
tìm hiểu về sự liên kết giữa các trung tâm kinh tế, các hoạt động sản xuất tại
KCN Quế Võ, Cái Lân, Thành phố Hạ Long, KKT cửa khẩu Móng Cái nhằm
mục đích thu thập các thông tin điều tra xã hội học và số liệu liên quan đến
các cửa “vào - ra”, các hoạt động sản xuất kinh tế, thương mại, du lịch chính
của các địa phương dọc theo QL18.
1.2.3.3. Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý (GIS)
Trong phân tích thông tin và mô hình hoá không gian đối với HLKT
QL18, nhằm thể hiện hiện trạng phát triển, các mối quan hệ không gian, cũng
như mô phỏng định hướng phát triển, tác giả luận án đã sử dụng các phần
mền Map Info; Arc View để thành lập các bản đồ về vị trí, hiện trạng, các
điều kiện hình thành và phát triển HLKT QL18 cũng như bản đồ định hướng
phát triển của khu vực nghiên cứu.
1.2.3.4. Phương pháp phân tích định lượng
Để đạt được các kết quả đáng tin cậy trong quá trình nghiên cứu và
phân tích thực trạng phát triển kinh tế của các địa phương trên HLKT QL 18,
tác giả đã sử dụng các hàm tính toán tỉ trọng, mức tăng trưởng, diễn biến của
giá trị theo thời gian để đánh giá các chỉ tiêu mà luận án đã đề cập. Cơ sở số
liệu để được sử dụng tính toán trong luận án được lấy từ nguồn chính thức của
Tổng cục Thống kê; Cục Thống kê tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Bắc Ninh,
Hải Dương và Quảng Ninh; đặc biệt là nguồn số liệu thống kê chi tiết tại các
Chi cục Thống kê của các huyện, thị xã, thành phố có QL 18 trực tiếp đi qua.
1.2.3.5. Phương pháp dự báo
Trên cơ sở phân tích các điều kiện, yếu tố hình thành HLKT QL18, căn
cứ vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, yêu cầu phát triển của
VKTTĐ Bắc Bộ và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội trong Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh đến năm 2020 và tham khảo
các phương án quy hoạch KCN, KKT, hệ thống đô thị, khu du lịch của cả
27
nước, tác giả dự báo định lượng các hoạt động kinh tế vào năm 2020 và 2025
trên địa bàn có HLKT đi qua (tốc độ tăng trưởng kinh tế, khối lượng vận
chuyển, tác động lan tỏa...) để từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp đảm bảo
cho HLKT phát triển, nhằm góp phần vào sự phát triển kinh tế nhanh, bền
vững của các địa phương dọc theo QL18.
1.2.3.5. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, tác giả đã gặp gỡ, trao đổi với các
chuyên gia trong các lĩnh vực điều hành chính sách; nghiên cứu chiến lược -
quy hoạch lãnh thổ; quản lý kinh tế, nghiên cứu xã hội, môi trường từ trung
ương đến địa phương nhằm tham khảo các nhận định, đánh giá hiện trạng
cũng như các ý kiến giúp củng cố đề xuất định hướng và giải pháp phát triển
của HLKT.
Nguồn số liệu:
Tác giả luận án đã sử dụng kết hợp cả hai loại số liệu thứ cấp và sơ cấp
trong quá trình thực hiện nghiên cứu, cụ thể:
Các số liệu thứ cấp: Các số liệu từ các ấn phẩm trong nước và quốc
tế; các số liệu báo cáo từ các cơ quan có liên quan của Nhà nước
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Viện Chiến lược phát
triển, Cục Thống kê từ các địa phương: Bắc Ninh, Hải Dương,
Quảng Ninh...); các kết quả đã công bố tại các hội nghị, hội thảo,
các cuộc điều tra, khảo sát và đề tài nghiên cứu khoa học do các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện.
Số liệu sơ cấp: Số liệu sơ cấp được tác giả luận án thu thập trực tiếp
từ các chuyến điều tra, khảo sát về thực trạng phát triển kinh tế - xã
hội của các địa phương dọc theo QL18, về ý kiến của cộng đồng dân
cư, cũng như sự quan tâm của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đối
với việc hình thành và phát triển của HLKT QL18.
28
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận án đã tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và Việt
Nam về HLKT, làm rõ “khoảng trống” trong nghiên cứu nhằm xác định cách
tiếp cận và phương pháp nghiên cứu về HLKT, áp dụng cho trường hợp
nghiên cứu HLKT QL18. Một số nhận định và đề xuất từ chương 1 bao gồm:
1. HLKT là một hiện tượng khách quan trong phát triển không gian
kinh tế - xã hội. Tuy tên gọi và việc xác định phạm vi cụ thể có thể
khác nhau trong một số trường hợp nhưng các nghiên cứu đều thống
nhất về quan niệm và sự cần thiết phát triển HLKT trong tổ chức
không gian kinh tế - xã hội. Theo đó, HLKT phải gắn liền với một
tuyến trục giao thông và các trung tâm kinh tế đóng vai trò là các cực
phát triển, tạo cơ sở để tăng trưởng và phát triển kinh tế - văn hóa -
xã hội của toàn khu vực.
2. Ở Việt Nam TCLT HLKT vẫn đang là một nội dung tương đối mới.
Các nghiên cứu về HLKT đi trước ở nước ta thường mới chỉ đề cập
đến các khía cạnh riêng lẻ khác nhau của việc hình thành và phát
triển. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện cả
về lý luận và thực tiễn phát triển HLKT ở Việt Nam nói chung và
HLKT QL18 nói riêng.
3. Trên cơ sở đánh giá các kết quả của các công trình nghiên cứu đã có,
tác giả luận án đã xác định những nội dung mà luận án cần tập trung
nghiên cứu, gồm (i) luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phát triển HLKT trong điều kiện CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay,
(ii) phân tích và đánh giá các điều kiện hình thành và phát triển
HLKT trên tuyến QL18; và (iii) xác định quan điểm, định hướng phát
triển và đề xuất giải pháp phát triển HLKT QL18 trong thời gian đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
29
4. Để thực hiện các nội dung và đạt được các mục tiêu nghiên cứu về
phát triển HLKT nói chung, HLKT QL 18 nói riêng, tác giả luận án
đã đề xuất một quy trình tiếp cận nghiên cứu bao gồm 4 bước có liên
quan chặt chẽ và một hệ thống các phương pháp nghiên cứu kết hợp
truyền thống và hiện đại, định tính và định lượng, trong đó phải kể
tới như phương pháp phân tích hệ thống và tổng hợp; phương pháp
bản đồ và hệ thống thông tin địa lý (GIS); phương pháp phân tích
định lượng, phương pháp dự báo; phương pháp chuyên gia...
30
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN HÀNH LANG KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH LANG KINH TẾ
2.1.1. Quan niệm về hành lang kinh tế
Như đã trình bày trong chương 1, quan niệm HLKT đã được nhiều học
giả trong và ngoài nước đề cập và nghiên cứu. Tuy sử dụng các thuật ngữ cụ
thể khác nhau nhưng các học giả quốc tế cũng như Việt Nam đều thống nhất
điều kiện cần để một HLKT hình thành, phát triển cần phải đảm bảo hai yếu
tố cơ bản là có một tuyến trục giao thông và các trung tâm phân bố tập trung
các cơ sở kinh tế. Tuy nhiên, tác giả luận án cũng nhận thấy quan niệm về
HLKT cần bổ sung thêm nội dung về các trung tâm kinh tế dọc theo tuyến
trục phải có sự ràng buộc, tương tác lẫn nhau tạo ra sự các hiệu ứng lan tỏa,
tác động đến sự phát triển chung.
Kế thừa quan niệm của các nhà khoa học đi trước, kết hợp cùng nghiên
cứu của bản thân, tác giả luận án cho rằng: “HLKT là một không gian địa lý -
kinh tế, được hình thành trên cơ sở một tuyến trục giao thông huyết mạch gắn
với các trung tâm đô thị - kinh tế có quan hệ tương tác và có sự phân bố tập
trung các cơ sở kinh tế hai bên tuyến trục đó, nhờ thế mà có khả năng tạo ra
sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa đầu tàu lôi kéo khu vực lãnh
thổ xung quanh, phát huy ưu thế địa - kinh tế, đẩy nhanh hợp tác, tối đa hóa
tiềm lực kinh tế của lãnh thổ có tuyến trục giao thông đi qua”.
2.1.2. Đặc điểm của hành lang kinh tế
Theo nghiên cứu của tác giả luận án, đặc điểm của HLKT bộc lộ trên
cơ sở các mối quan hệ và liên kết kinh tế được thiết lập nhằm làm cho lợi ích
và sự phát triển có thể lan tỏa dọc theo HL một cách nhanh chóng và hiệu
31
quả. Các mối quan hệ này đảm bảo cho sự phân phối thu nhập theo lãnh thổ
trở nên công bằng hơn và tạo ra các điều kiện đảm bảo cho bản thân HL có
khả năng phát triển bền vững. Kế thừa các nghiên cứu đã có, tác giả luận án
đã bổ sung và làm rõ các đặc điểm của HLKT như sau:
2.1.2.1. Các hành lang kinh tế không có một ranh giới pháp lý cụ thể
Sự phát triển theo tuyến trục của HLKT không phụ thuộc vào lãnh thổ -
hành chính mà phụ thuộc vào ảnh hưởng (gồm sức hút và ảnh hưởng lan tỏa)
của chính tuyến trục. Phạm vi ảnh hưởng hay sức lan tỏa của HLKT phụ
thuộc nhiều vào dòng vận chuyển hàng hóa, dịch vụ trên tuyến trục cũng như
sức hút của các cực trung tâm nằm ở vị trí thích hợp trên tuyến HL đó. Vì
vậy, đặc điểm quan trọng cần nhấn mạnh đầu tiên: HLKT là một hình thức
TCLT kinh tế mang tính ước lệ. HLKT không giống như các hình thức TCLT
kinh tế khác là có phạm vi lãnh thổ nhất định. Phạm vi của HLKT thường có sự
biến đổi theo thời gian. Tuy vậy, tại một thời điểm nhất định chúng ta vẫn có thể
xác định được một cách tương đối phạm vi tác động và ảnh hưởng của chúng.
2.1.2.2. Hành lang kinh tế thường không có cơ quan Nhà nước quản lí
trực tiếp
Do các tuyến HL đi qua nhiều địa bàn khác nhau thuộc các địa phương
khác nhau trên một vùng lãnh thổ nào đó nên chủ thể quản lí (ban quản lí)
thường rất khó xác định. Mỗi địa phương mà tuyến HL đi qua chỉ quản lí một
phần nhất định của tuyến đó, vì vậy việc hình thành và phát triển các HLKT
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các địa phương thì mới có thể khai thác hiệu
quả và bền vững các HLKT.
2.1.2.3. Hành lang kinh tế là một hình thức tổ chức lãnh thổ mang
tính tổng hợp dựa trên sự liên quan và bổ sung lẫn nhau giữa các hoạt
động kinh tế - xã hội
Các HLKT lấy tuyến lôi cuốn điểm, lấy điểm nhân thành diện, liên
quan đến toàn bộ quá trình phát triển và hợp tác của các lãnh thổ, lôi cuốn
32
thúc đẩy kinh tế - xã hội của toàn bộ lãnh thổ nói chung phát triển chứ không
chỉ giới hạn ở một huyện, một tỉnh, một ngành nghề, một dự án nào đó. Các
HL này là liên huyện, liên tỉnh (có khi là liên quốc gia, liên khu vực) là chuỗi
ngành nghề, là tập hợp nhóm các dự án, quy mô và hiệu quả các HLKT cũng
mang tính toàn cục.
Các địa phương trên tuyến HL có mối quan hệ tương hỗ, cùng nhau
phát triển giữa các ngành nghề trong HLKT. Các ngành kinh tế phải dựa vào
nhau, chi phối và tương trợ lẫn nhau.
Các địa phương (các quốc gia) liên quan trong HLKT có sự khác biệt
về tài nguyên, điều kiện nhân lực, kĩ thuật, tài lực và thiết bị, chủ yếu thể hiện
qua việc mỗi bên đều có ưu thế và bất cập, có thể xây dựng HLKT để lấy dài
bù ngắn, bổ trợ cho nhau cùng phát triển.
2.1.2.4. Sự phát triển của hành lang kinh tế gắn chặt với các lãnh thổ
xung quanh tuyến trục trong chiến lược phát triển chung của quốc gia
Các HLKT không thể tồn tại độc lập và riêng rẽ, tách rời khỏi các lãnh
thổ bộ phận liền kề. Giữa HLKT và khu vực lãnh thổ xung quanh phải có sự
gắn kết, phân công, hợp tác để có sự phát triển đồng bộ đảm bảo khai thác tối
đa lợi ích kinh tế khi kết hợp với nhau, tránh đầu tư trùng lặp và giảm tối đa
lãng phí, từ đó làm tăng sức cạnh tranh của các vùng lãnh thổ trong chiến
lược phát triển chung của quốc gia.
2.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam với phát triển hành lang
kinh tế
2.1.3.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo các chuyên gia, CNH (industrialization) là quá trình biến đổi xã
hội và kinh tế từ một xã hội nông nghiệp (hay tiền công nghiệp), trong đó tích
lũy tư bản trên đầu người rất thấp, lên xã hội công nghiệp. Đó là một bộ phận
33
của quá trình hiện đại hóa rộng lớn hơn. Quá trình biến đổi xã hội và kinh tế
đó gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ, nhất là các cuộc cách mạng kĩ
thuật. Bên cạnh quan niệm về CNH, quan niệm về HĐH (modernization)
thường được hiểu là quá trình biến đổi xã hội thông qua CNH, đô thị hóa và
những biến đổi xã hội khác nhằm làm cơ sở cho thay đổi cuộc sống con
người. Đó là quá trình biến đổi xã hội từ trình độ nguyên sơ lên trình độ phát
triển và văn minh ngày càng cao hơn.
Đối với một nước có nền kinh tế còn kém phát triển như Việt Nam
CNH, HĐH là một tất yếu khách quan. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH là
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lí kinh tế - xã hội, từ dùng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên
tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Tại Việt Nam, quan điểm CNH, HĐH đã được Đảng và Nhà nước đề ra
trong Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng
01/1994) và tiếp tục được phát triển, bổ sung ở các Đại hội VIII, IX, X và XI
của Đảng:
- CNH gắn với HĐH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của CNH, HĐH.
- CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát huy nguồn lực con người, coi nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Khoa học công nghệ là nền tảng và là động lực của CNH, HĐH.
34
- Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa
dạng sinh học.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay, Đảng ta đã đề ra
quan điểm xây dựng nền kinh tế mở cả trong nước và với bên ngoài; đa dạng
hoá, đa phương hóa quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ
vững độc lập, chủ quyền; thúc đẩy mở cửa, khuyến khích các hình thức hợp
tác, liên doanh nhằm thu hút vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của nước ngoài.
2.1.3.2. Phát triển hành lang kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, được
thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, việc phát triển các vùng
lãnh thổ đặc biệt theo hướng CNH, HĐH đã được Đảng và Nhà nước ta xác
định là động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Điều này
minh chứng tại tiểu mục 6, phần IV - Định hướng phát triển kinh tế - xã hội,
đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế của Chiến lược đó là
“Hình thành và phát triển các hành lang, vành đai kinh tế và các cực tăng
trưởng có ý nghĩa đối với cả nước và liên kết trong khu vực: Tạo sự kết nối
đồng bộ về hệ thống kết cấu hạ tầng để hình thành trục kinh tế Bắc - Nam,
các hành lang kinh tế Đông - Tây, các hành lang kinh tế xuyên Á. Hình thành
các cụm, nhóm sản phẩm công nghiệp, dịch vụ, kết nối các đô thị trung tâm
dọc tuyến hành lang kinh tế. Xây dựng trung tâm hợp tác phát triển kinh tế
lớn tại các cửa khẩu trên các hành lang kinh tế”.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, các HLKT được coi như
các lãnh thổ kinh tế mang ý nghĩa động lực và vai trò đầu tàu để lôi kéo sự
35
phát triển chung của vùng rộng lớn nhờ có sự tập trung các tiềm lực kinh tế
dọc theo tuyến trục giao thông huyết mạch có sẵn mà nhận được kết quả phát
triển kinh tế có hiệu ứng cấp số nhân. Do vậy, việc phát triển HLKT cần phải
đáp ứng đồng bộ các yêu cầu của CNH, HĐH, cụ thể:
- Phát triển HLKT phải có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với chiến lược
phát triển cơ sở hạ tầng của cả nước, tận dụng lợi thế của các quốc gia đi sau
áp dụng công nghệ hiện đại, tiết kiệm, hiệu quả, thân thiện với môi trường.
Nâng cao hiệu quả và mức đóng góp của HLKT cho sự phát triển kinh tế của
đất nước thông qua việc đóng góp vào các mục tiêu tăng trưởng GDP, trong
tăng trưởng các hoạt động, lĩnh vực kinh tế…
- HĐH trong phát triển HLKT trên cơ sở đảm bảo tính đồng bộ, kết nối,
liên thông trong từng lĩnh vực, công trình và trong toàn hệ thống. Việc xây
dựng và phát triển HLKT phải phù hợp với xu thế phát triển của khoa học,
công nghệ, phát triển hạ tầng thông minh và bền vững.
- Phát triển HLKT phải gắn với giải quyết các vấn đề xã hội như xóa
đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh quốc gia và bảo vệ môi trường, gắn với tăng
trưởng kinh tế xanh và phát triển bền vững.
2.1.4. Vai trò và tác động của hành lang kinh tế trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo các chuyên gia kinh tế và chính sách, HLKT có vai trò và tác
động lớn đối với các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh - chính trị và môi
trường, thể hiện ở cả hai mặt tích cực (tác động lan tỏa) và tiêu cực (tác động
phân cực).
Theo các tác giả Richarson và Lê Thu Hoa [67, 13] tác động tích cực
hay tác động lan tỏa trong phát triển HLKT là những tác động tích cực góp
36
phần làm tăng thu nhập bình quân đầu người và chuyển dịch cơ cấu kinh tế -
xã hội theo hướng tiến bộ của các vùng lãnh thổ phụ cận trong phạm vi chịu
ảnh hưởng của của HLKT. Tác động lan tỏa thể hiện những ảnh hưởng tích
cực của các HLKT trong việc kích thích tăng trưởng và phát triển các vùng
lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình phân bố lại
các cơ sở kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, đóng góp ngân sách để bổ
sung nguồn vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng, lan truyền tiến bộ công nghệ,
văn hóa, xã hội... Cũng theo các tác giả này, tác động tiêu cực (hay tác động
phân cực) của phát triển HLKT là những tác động làm giảm cơ hội phát triển
của các lãnh thổ xung quanh HLKT do sự thu hút các nguồn lực cho sự phát
triển tại HLKT. Tác động phân cực tạo ra những chênh lệch đáng kể trong cơ
cấu lãnh thổ của nền kinh tế, tăng khoảng cách chênh lệch về tiềm lực kinh tế,
tổng thu nhập quốc dân (GDP) bình quân đầu người giữa vùng lãnh thổ thuộc
HLKT với các vùng khác.
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đã công
bố, tác giả luận án đã bổ sung và làm chi tiết các tác động này từ cả giác độ vĩ
mô (tác động tới nền kinh tế vùng và quốc gia, các địa phương dọc tuyến) và
giác độ vi mô (tác động tới các doanh nghiệp). Cụ thể các tác động tích cực
và tiêu cực của việc phát triển HLKT được thể hiện trên các khía cạnh sau:
2.1.4.1. Vai trò và tác động tích cực của hành lang kinh tế
Như đã trình bày ở trên, HLKT có tác động lớn đối với các vùng lãnh
thổ khác thông qua các tác động lan tỏa hay nói cách khác vai trò chủ đạo của
việc phát triển HLKT là tạo ra mối liên kết giữa các trung tâm nhằm đạt được
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này
được thể hiện tóm lược thông qua sơ đồ sau:
37
ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN HLKT
Phát triển và phân bố các
ngành công nghiệp mới
Tạo ra các ngoại ứng tới
các hoạt động kinh tế
Tăng việc làm
và dân số trong vùng
Cung cấp kết
cấu hạ tầng
tốt hơn cho
sản xuất và
đời sống
Nâng cao trình
độ của lao động
công nghiệp
Phát triển các ngành sản
xuất đáp ứng nhu cầu đầu
vào của công nghiệp
Tăng nguồn thu
cho ngân sách
Thu hút đầu tư
và sự phát triển các
doanh nghiệp mới
Mở rộng quy mô và phát
triển các ngành dịch vụ
Nâng cao
phúc lợi xã hội
cho các vùng
Hình 2.1. Tác động tích cực của hành lang kinh tế
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Các minh chứng thông qua các lĩnh vực kinh tế, an ninh - chính trị, xã hội
và môi trường được trình bày cụ thể sau đây sẽ bổ sung làm rõ cho sơ đồ trên.
38
a. Tác động tích cực đối với phát triển kinh tế
(i) Đối với nền kinh tế vùng và quốc gia
HLKT phát triển sẽ tạo ra tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng hiệu
suất sử dụng các tiềm năng kinh tế sẵn có lên mức cao nhất tại khu vực phát
triển mục tiêu. Động lực phía sau việc tạo ra các HLKT chính là nhận thức về
lợi ích thu được từ sự hợp tác toàn tuyến sẽ lớn hơn so với lợi ích có thể thu
được từ những hoạt động độc lập. Các HLKT phát triển cho phép các vùng
lãnh thổ hay quốc gia khắc phục hạn chế về lao động, công nghệ, tài nguyên,
đất đai và cơ sở hạ tầng thông qua việc dễ dàng liên kết các yếu tố đơn lẻ,
phân bố rời rạc trên lãnh thổ.
HLKT tạo dựng môi trường thuận lợi cho việc thu hút đầu tư, phát triển
các ngành sản xuất và dịch vụ, đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Sự phát
triển kinh tế trên HL làm rút ngắn khoảng cách của vùng trên HL và các vùng
lân cận khác. Điều này sẽ tạo điều kiện cho quá trình tự do hóa thương mại,
thúc đẩy trao đổi hàng hóa trên phạm vi lãnh thổ lớn hơn.
Từ phân tích ở trên, có thể nhận thấy những biểu hiện cụ thể về lợi ích
kinh tế do sự phát triển HLKT mang lại trên phạm vi một vùng hoặc một quốc
gia, đặc biệt trong giai đoạn CNH, HĐH là:
- Góp phần bảo đảm cho kinh tế quốc gia và vùng có tốc độ tăng trưởng
cao nhất và bền vững;
- Tạo ra năng suất lao động cao nhất với chi phí vốn đầu tư và các chi
phí nguồn lực khác (tài nguyên thiên nhiên, lao động…) thấp nhất;
- Tạo ra sự dịch chuyển CCKT theo hướng CNH, HĐH;
- Đạt được hiệu quả đầu tư cao và lớn nhất;
- Đạt được tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất;
- Bảo đảm tạo ra GDP bình quân đầu người cao nhất, trên cơ sở đó làm
giảm nhanh chóng tỷ lệ đói nghèo;
- Đảm bảo nguồn thu cao và tăng không ngừng cho ngân sách quốc gia,
góp phần củng cố tiềm lực tài chính của Chính phủ;
39
- Tỷ lệ sử dụng tổng hợp tài nguyên (nguyên liệu cơ bản, nhiên liệu,
năng lượng…) cao nhất, có hiệu quả nhất;
- Ổn định xã hội và giữa các địa phương trên HL tạo tiền đề vững chắc
cho tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia;
- Làm giảm chi phí lưu thông hàng hóa nội địa và xuất khẩu thông qua
việc hoàn thiện, nâng cấp hệ thống hạ tầng theo trục và xung quanh
khu vực HL.
(ii) Đối với các địa phương dọc tuyến
Ngoài việc mang lại ý nghĩa chung cho nền kinh tế của cả nước và
vùng, đối với các địa phương có HLKT đi qua, phát triển HLKT cũng có một
vai trò hết sức quan trọng:
- Việc xây dựng các HL tạo ra mối liên kết kinh tế của các địa phương
nhất định với những vùng khác, do vậy tạo điều kiện cho các địa
phương có HL đi qua mở rộng thị trường, thúc đẩy giao lưu kinh tế,
thương mại. Giúp các địa phương tận dụng cơ hội phát triển, đồng thời
cùng nương tựa vào nhau để phát triển về kinh tế - xã hội.
- Tạo việc làm thông qua sự chuyển dịch lao động giữa các vùng, cơ hội
chuyên môn hóa và đào tạo kĩ năng lao động.
- Tạo ra các liên kết về kinh tế và xã hội, phát triển các cộng đồng địa
phương theo một mục tiêu chung mà vẫn giữ nguyên bản sắc của từng
cộng đồng dân cư.
(iii) Đối với doanh nghiệp
Phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ là một nội dung quan trọng của
HLKT. Việc hình thành và phát triển HLKT sẽ tạo điều kiện để giảm chi phí
vận chuyển, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ, do đó có tác
dụng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ và hiệu quả trao đổi
thương mại, dịch vụ giữa các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện liên kết dọc giữa các doanh nghiệp và được tối ưu hóa
theo chiều ngang lãnh thổ, tạo điều kiện hình thành các cụm tương hỗ phát
40
triển công nghiệp nhờ vào hiệu quả kinh tế do quy mô, các liên kết về công
nghệ từ khâu khai thác, chế biến đến mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
b. Tác động tích cực đối với an ninh - chính trị
Bên cạnh vai trò về kinh tế đối với các quốc gia và địa phương, xét trên
bình diện tổng thể HLKT còn có vai trò lớn về an ninh - chính trị. HLKT có ý
nghĩa trong việc củng cố hòa bình và an ninh trong khu vực. Để đưa HLKT
vào thực tế hoạt động, sự hợp tác và cân đối các chính sách như hải quan,
thuế quan, cũng như ngân hàng, tài chính không chỉ dừng lại ở tầm quốc gia,
mà còn phát triển theo chiều sâu thành các mối quan hệ chính thức của chính
quyền địa phương. Bằng cách tạo ra sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau của các nền
kinh tế địa phương, vũ lực sẽ là giải pháp ít có thể được lựa chọn nhất trong
giải quyết tranh chấp do những tác động mà nó gây ra có thể phá vỡ các hoạt
động kinh tế mang lại hiệu quả và ổn định cho các quốc gia và vùng lãnh thổ.
HLKT cũng giúp giữ gìn an ninh trong nội bộ các quốc gia nhờ lợi ích
kinh tế mà nó mang lại. Đối với các quốc gia có tuyến HL đi qua các vùng
biên giới nơi cư trú chủ yếu của các dân tộc ít người, với điều kiện kinh tế còn
khó khăn đây là bộ phận người dân có thể có những xung đột với Chính phủ.
Do đó phát triển HLKT sẽ mang lại hiệu quả kinh tế giúp phát triển vùng
biên, góp phần cải thiện mức sống người dân, đem lại thu nhập cao hơn cho
họ. Từ đó có thể giải quyết được phần lớn tranh chấp bắt nguồn từ kinh tế
giữa người dân với nhau và giữa họ với chính quyền địa phương góp phần
đảm bảo an ninh, trật tự xã hội cũng như các vấn đề chính trị khác nảy sinh.
c. Tác động tích cực đối với phát triển xã hội
Đối với việc phát triển xã hội, HLKT có vai trò to lớn trong việc giải
quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Việc phát triển các
hoạt động kinh tế dọc HL góp phần tạo ra nhiều cơ sở sản xuất, nhiều doanh
nghiệp trong việc tạo thêm cơ hội việc làm và thu nhập cho người dân. Bên
cạnh đó, việc phát triển HLKT sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cho các địa
41
phương, góp phần tạo nguồn vốn xây dựng các cơ sở phúc lợi xã hội; kèm
theo việc nâng cao chất lượng giáo dục, y tế và củng cố an toàn xã hội, thực
hiện xóa đói giảm nghèo…
d. Tác động tích cực đối với vấn đề môi trường
Phát triển HLKT bên cạnh các lợi ích về kinh tế, xã hội, an ninh - quốc
phòng, còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề môi trường.
Việc hợp tác giữa các địa phương, các doanh nghiệp nơi có HL đi qua, tạo
điều kiện cho việc phối hợp cùng giải quyết các vấn đề liên quan đến môi
trường của khu vực, chẳng hạn việc hỗ trợ nhau trong quy trình sản xuất và sử
dụng đầu ra của các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ góp phần
làm giảm lượng chất thải được tạo ra từ các hoạt động kinh tế.
Kết hợp các khía cạnh kinh tế - xã hội - môi trường, việc phát triển
HLKT có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục tiêu phát triển
bền vững và ổn định.
e. Tác động tích cực đối với tổ chức không gian
Phát triển mạng lưới giao thông
nhánh tạo "khung" kết cấu hạ tầng
Phát triển hệ thống
đô thị vệ tinh
HLKT
Phát triển các hoạt
động kinh tế tập
trung theo ngành
Mở rộng không gian
liên kết liên vùng và quốc tế
Hình 2.2. Vai trò của hành lang kinh tế trong tổ chức không gian kinh tế - xã hội
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Một trong những nguyên tắc cơ bản của TCKG kinh tế - xã hội là phải đảm
bảo sự hài hoà, tương tác, hỗ trợ cùng phát triển nhằm đem lại hiệu quả kinh
42
tế cho tổng thể. Phát triển, TCKG các HLKT hợp lí sẽ tạo ra sự thỏa mãn các
yếu tố đáp ứng cả đầu vào và đầu ra nhằm đem lại lợi ích kinh tế, xã hội và
môi trường cho con người. Sự hài hòa trong phát triển giữa các phần tử trên
HLKT sẽ tạo ra sự phát triển nhịp nhàng cho lãnh thổ, đây là điều tối quan
trọng trong TCKG nói chung và tổ chức phát triển các HLKT nói riêng. Theo
lý thuyết vị trí trung tâm của W. Christaller và A. Losch cũng như kết quả
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, tiêu biểu như PGS.TS Ngô Doãn Vịnh,
PGS.TS Lê Thu Hoa và cộng sự, tác giả nhận thấy trong TCKG, HLKT có vai
trò quan trọng thể hiện thông qua việc:
- Phát triển mạng lưới giao thông nhánh tạo "khung" kết cấu hạ tầng;
- Phát triển mạng lưới đô thị với các hạt nhân phát triển và hệ thống các đô
thị vệ tinh lôi kéo sự phát triển; Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thương
mại và đầu tư giữa các vùng, miền liền kề.
- Tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong phát triển và nâng
cao tính cạnh tranh của HLKT;
- Phát triển các hoạt động kinh tế, thực hiện giảm nghèo, phát triển khu
vực nông nghiệp và nông thôn, tăng cường thu nhập cho các nhóm thu
nhập thấp, dễ bị tổn thương, tạo cơ hội việc làm cho phụ nữ, thúc đẩy
phát triển du lịch giữa các vùng ảnh hưởng;
- Mở rộng không gian liên kết liên vùng và quốc tế. Trong điều kiện tự
do hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, hình thành khuôn khổ
hiện thực hoá các hiệp định thương mại song phương, đa phương tiểu
khu vực và đa phương rộng lớn hơn.
Như vậy, có thể thấy do ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở như: giao
thông, năng lượng, thông tin và du lịch, HLKT góp phần hình thành một
43
không gian địa lý mở để tối đa hoá các tác động đến phát triển kinh tế - xã hội
và theo đó, là tối thiểu hoá về các phí tổn.
2.1.4.2. Những tác động tiêu cực của việc phát triển HLKT
Bên cạnh những tác động tích cực như đã phân tích ở trên, phát triển
HLKT trong bối cảnh CNH, HĐH cũng không tránh khỏi một số tác động tiêu
cực, chủ yếu gây ra do tập trung hóa về lãnh thổ, bao gồm:
Thứ nhất, đối với hoạt động kinh tế dễ xảy ra sự phân cực và mất cân
đối trong phát triển giữa các địa phương, gây nên tình trạng phân hóa ảnh
hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng và doanh nghiệp tham gia sản xuất,
kinh doanh trên địa bàn.
Do sự di chuyển tập trung các nguồn lực như vốn đầu tư, lao động,
công nghệ…) tới các vùng chịu sự tác động trực tiếp của HL nên tạo ra sự
phát triển kinh tế không đồng đều giữa HLKT với các lãnh thổ vùng phụ cận.
Các địa phương có HLKT trực tiếp chạy qua do có nhiều ưu thế về vận
chuyển, lưu thông hàng hóa thu hút được nhiều nguồn lực phát triển sẽ có
hiệu quả kinh tế cao, hiệu suất kinh tế lớn dẫn đến có bình quân GDP/người
tốt. Các địa phương nằm xa vùng tác động của HLKT thiếu các nguồn lực
phát triển có tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn và mức bình quân
GDP/người về cơ bản cũng đạt giá trị thấp hơn. Do đó, có thể các tác động
tiêu cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế của vùng có HL đi
qua nói chung, của cơ cấu ngành trên HL nói riêng.
Bên cạnh đó việc phát triển các HLKT có thể xung đột trong mục đích
sử dụng đất do làm suy giảm diện tích cho các mục đích kinh tế khác như
nông nghiệp hay quỹ đất phúc lợi xã hội. Việc thu hồi đất nông nghiệp trong
quá trình xây dựng và phát triển các HLKT sẽ trực tiếp làm cho một bộ phận
lao động nông nghiệp ở các khu vực này bị mất việc làm. Khi HLKT mới
được hình thành từ việc thu hồi đất ở và đất nông nghiệp, nhiều gia đình nông
44
dân đã bị mất vườn ruộng và đất đai canh tác. Một bộ phận khá lớn nông dân
bị mất việc làm truyền thống chưa kịp chuyển đổi nghề nghiệp, chưa tìm được
việc làm mới, đời sống gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ thất nghiệp và các vấn đề xã
hội khác gia tăng nhanh chóng.
Thứ hai, về khía cạnh xã hội, việc phát triển các hoạt động kinh tế quá
tập trung vào bộ phận lãnh thổ dọc HL có thể làm tăng chênh lệch về mức
sống và tình trạng nghèo đói, thu hẹp diện tích đất nông nghiệp do tốc độ đô
thị hóa nhanh, dân cư từ các vùng phụ cận di cư đến các thành phố, các cực
phát triển trên HL. Đối với phần lớn lao động tại khu vực được chuyển đổi
thành HLKT, chủ yếu là các lao động nông nghiệp giản đơn, tích lũy kinh
nghiệm theo kiểu cha truyền con nối mà chưa hề được đào tạo nghề bao giờ.
Do vậy, họ rất khó có thể kiếm được việc làm tốt, có thu nhập tương đối cao
và ổn định đủ để đáp ứng các nhu cầu của bản thân và gia đình.
Ngoài ra, nếu không được quản lý tốt, việc tập trung quá đông dân cư
vào các đô thị, các cực phát triển của HLKT dễ gây ra các ùn ứ trong di
chuyển; gia tăng tệ nạn xã hội; tai nạn giao thông do sự lưu thông quá lớn của
các phương tiện vận chuyển.
Thứ ba, đối với vấn đề an ninh, quốc phòng đặc biệt là các HLKT có sự
thông thương với các quốc gia láng giềng có thể xảy ra các bất ổn về kinh tế -
xã hội - chính trị. Tại các cửa thông thương với quốc tế có thể xảy ra các xung
đột về lợi ích giữa các bộ phận dân cư, kinh doanh; một số phần tử xấu có thể
lợi dụng gây rối loạn làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia
cũng như quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
Thứ tư, đối với môi trường, việc phát triển tập trung theo trục dẫn đến
việc khai thác quá mức tài nguyên tại các địa phương có HL đi qua, gia tăng
mức ô nhiễm không khí, nguồn nước, tiếng ồn do các hoạt động vận tải và sự
tập trung quá đông của các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX);
45
đồng thời lượng chất thải từ các khu vực sản xuất và dân cư cũng là những
vấn đề đáng lo ngại cần được tính toán và nghiên cứu kĩ các phương án giải
quyết các vấn đề về môi trường khi xây dựng và phát triển các HLKT.
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN HÀNH LANG KINH TẾ
2.2.1. Kinh nghiệm phát triển hành lang kinh tế trên thế giới
2.2.1.1. Sự hình thành và phát triển
Theo nghiên cứu của tác giả, nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới đã
tiến hành phát triển các HLKT và các HL này đã trở thành nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội các khu vực địa lí có HL đi qua. Tại khu
vực châu Âu và Bắc Mỹ, HLKT đã được manh nha hình thành từ thế kỷ XIX
thông qua việc khai thác mở rộng các tuyến giao thông vận chuyển nguyên
liệu và hàng hóa do sự phát triển của các cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật.
Hiện nay, các HLKT phát triển ở khắp châu Âu và Bắc Mỹ nhiều trong số các
HL này có quy mô rất lớn tạo thành các siêu HL.
(Nguồn: Priemus & Zonneveld 2003: tr 171)
Hình 2.3. Bảy siêu hành lang quan trọng nhất tại Tây Bắc châu Âu
46
Tại khu vực Tây Bắc châu Âu đã hình thành 7 siêu HL quan trọng (xem
hình 2.3) là: 1.Randstad - Flemish Diamond; 2.Randstad - Rhein - Ruhr;
3.Rhein - Ruhr - Flemish Diamond; 4.Flemish Diamond - Lille; 5.Lille -
Paris; 6.Lille - London; 7.London - West Midlands.
Tại khu vực Bắc Mỹ từ những năm 1980 trở lại đây đã hình thành
nhiều HLKT, điển hình các HL này được phát triển mạnh ở Hoa Kì và
Canada. Tại Canada, HLKT Tây nam là tuyến trục quan trọng nhất nối liền
bốn tỉnh miền Tây nam Canada với Thái Bình Dương thông qua các hải cảng
nước sâu tại các tỉnh Prince Rupert, Kitimat và Stewart.
Nghiên cứu về vấn đề phát triển HLKT tại các quốc gia tại khu vực
châu Âu và Bắc Mỹ, tác giả nhận thấy kinh nghiệm then chốt trong phát triển
HLKT tại khu vực này là:
- Thứ nhất, lựa chọn tuyến trục giao thông huyết mạch có khả năng liên
kết cao các trung tâm kinh tế, tạo ra hiệu quả kinh tế lớn
Tại Canada, Chính phủ đã chọn tuyến đường cao tốc Yellowhead 16.
Tuyến trục này trải dài gần một nửa lãnh thổ của Canada: từ các đảo Haida
Gwaii/Queen Charlotte tới vùng trung tâm phía Bắc của British Columbia,
Alberta, Saskatchewan và vùng phía Tây của tỉnh Manitoba để phát triển
thành tuyến HL động lực phát triển kinh tế. Tuyến cao tốc này có các công
trình kết cấu hạ tầng giao thông tương đối đồng bộ bao gồm một mạng lưới
các đường cao tốc, đường xe lửa, ống dẫn dầu, thuỷ điện, thông tin liên lạc,
các cảng hàng không và cảng biển cung cấp khả năng giao thông vận tải và
liên lạc thuận lợi với các nhà sản xuất và thị trường tiêu dùng ở Bắc Mỹ, châu
Á và Nam Mỹ.
Cùng với kết cấu hạ tầng tiện lợi, các lãnh thổ dọc tuyến cao tốc này
còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào cho sự phát triển kinh tế bao
gồm các mỏ dầu và khí ở phía bắc Alberta, than, vàng, kim cương và uranium
47
ở British Columbia. Bên cạnh đó, tuyến giao thông này còn kết nối nhiều đô
thị lớn của Canada như Vancouver, Edmonton, Saskatoon, Winninpig… Các
trung tâm này là các đô thị đồng thời cũng là những trung tâm kinh tế lớn của
quốc gia này.
- Thứ hai, ưu tiên trong cơ chế, chính sách phát triển HLKT
Để đẩy mạnh phát triển các tuyến HLKT, Chính phủ các nước châu Âu
như Anh, Pháp, Thụy Điển, Phần Lan, Canada và Hoa Kì đã thực hiện triển
khai đồng loạt một số chính sách ưu tiên hỗ trợ HLKT như: thành lập ủy ban
trực thuộc Chính phủ chỉ đạo chuyên trách về phát triển HLKT (Canada);
khuyến khích và kêu gọi các nhà đầu tư của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ
tầng tuyến trục (Phần Lan); tăng cường đầu tư vào các hạng mục giao thông
quan trọng; hiện đại hóa các phương tiện kiểm soát giám sát hoạt động; tạo cơ
chế phối hợp cho các địa phương có tuyến HLKT đi qua; hỗ trợ và quảng bá
những thế mạnh có liên quan đến các hoạt động kinh doanh, trình độ kỹ năng,
thông tin liên lạc và du lịch thông qua những nỗ lực quảng cáo chung.
Bằng các cơ chế thông thoáng, các tuyến HL tại khu vực này đã mang
lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là tại các điểm vào ra trên toàn tuyến trục
thông qua các cảng biển và sân bay tại Vancouver (Canada), Nordic (Phần
Lan), St Petersburg (Liên bang Nga)…
Tại khu vực châu Phi từ đầu những năm 90 trở lại đây với sự giúp đỡ
của Ngân hàng phát triển Châu Phi, khu vực này đã hình thành hai dự án quan
trọng về phát triển HLKT là HLKT Nacala và Maputo. Mục tiêu chính của 02
HLKT này tập trung vào các khía cạnh (1) Phát triển năng lực vận tải, truyền
thông và các hệ thống năng lượng để các HL có thể trở thành một khu vực
đầu tư cạnh tranh; để giúp tăng trưởng kinh tế; (2) Gia tăng hoạt động kinh tế
thông qua việc xúc tiến thương mại và đảm bảo tính phát triển bền vững của
HL; (3) Tối đa hoá tác động đối với sự phát triển của các vùng thuộc HLKT,
48
đặc biệt là phát triển các cộng đồng địa phương gặp khó khăn; (4) Bảo đảm sự
tăng trưởng bền vững nhờ vào các chính sách, chiến lược và khung khổ phát
triển bảo đảm sự tham gia rộng rãi của người dân và bảo vệ môi trường sống.
Nghiên cứu tình hình phát triển HLKT khu vực châu Phi tác giả nhận
thấy các quốc gia trong khu vực đã có nhiều chính sách và chủ trương đẩy
mạnh phát triển các tuyến động lực tạo ra tác động lan tỏa tới các khu vực
xung quanh. Các kinh nghiệm ở đây có thể khái quát:
- Một là, lựa chọn tuyến giao thông nối các cửa vào - ra huyết mạch
HL Nalaca (dài 1.033km) là tuyến trục huyết mạch nối từ cảng Nacala
(Mozambique) tới Lusaca (Zambia). Tuy nhiên, các trục giao thông ở đây đều
đã được xây dựng từ thập niên 70 của thế kỉ XX, nhận thức được tầm quan
trọng của tuyến trục Chính phủ các nước đặc biệt là Chính phủ Mozambique
đã đầu tư nâng cấp tuyến đường N13 từ Nampula đến Cuamba để tăng cường
khả năng liên kết và năng lực vận chuyển của các phương tiện giao thông.
Bên cạnh đó, Chính phủ các quốc gia khu vực này đã nhận thấy lợi thế của
việc thông thương từ vùng nội địa Zambia tới cảng Nacala là rất lớn nên họ đã
tập trung đầu tư nâng cấp và phát triển cụm cảng Nacala trở thành cảng quốc
tế, đầu tư phát triển KCN, các khu thương mại tự do nhằm thúc đẩy giao lưu
kinh tế giữa các quốc gia từ nội địa của khu vực tới khu vực ven biển.
Đối với HL Maputo, mạng lưới đường bộ, đường sắt và cảng biển được
Chính phủ các nước Nam Phi đầu tư nâng cấp cải tạo. Đặc biệt là tuyến
đường N4 được khánh thành vào năm 2004 với 4 làn xe nối cảng Naputo của
Mozambique với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, mạng lưới đường
sắt tại đây cũng được đầu tư nâng cấp với tổng mức đầu tư trên 20 triệu
USD (số liệu năm 2007). Hai cảng Maputo và Matola được xác định là cửa
vào - ra đã được Mozambique và Nam Phi chú trọng cải tạo. Đặc biệt cảng
49
Maputo được nạo với với luồng tầu sâu 10,3m và có thể đón các tầu có
trọng tải tới 60.000 DWT.
- Hai là, tăng cường hợp tác, kêu gọi hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế và
các tổ chức trong khu vực
Nhằm tạo điều kiện cho các HLKT phát triển, Chính phủ các quốc gia
trong khu vực đã có nhiều chính sách nhằm tăng cường hỗ trợ cũng như kêu
gọi sự đóng góp của các bên liên quan và cộng đồng quốc tế để hỗ trợ nguồn
lực phát triển phát triển kinh tế khu vực châu Phi.
HLKT Nacala kết quả sáng kiến hợp tác của ba Chính phủ
Mozambique, Malawia và Zambia vào năm 2000. Từ năm 2000 cho đến nay
các nước này đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm thu hút đầu tư và nguồn vốn
hỗ trợ từ bên ngoài. Theo báo cáo của Ngân hàng phát triển Châu Phi HLKT
Nacala được các nước đầu tư phát triển và chia làm hai giai đoạn đầu tư. Hiện
nay số tổng vốn đầu tư vào tuyến này là khoảng 80 triệu USD trong đó 80%
số vốn do Ngân hàng phát triển Châu Phi cung cấp, số còn lại do các quốc gia
tự đóng góp.
HL Maputo với sự quan tâm và đầu tư lớn của các quốc gia, hiện nay
nguồn vốn đầu tư để phát triển toàn bộ tuyến vào khoảng 250 triệu USD, nguồn
vốn được hỗ trợ chủ yếu từ World Bank và Ngân hàng phát triển Châu Phi.
Tại châu Á, ý tưởng về phát triển HLKT do tổ chức Ngân hàng Phát
triển châu Á đề xuất trong các hội nghị kinh tế của khu vực (Đông Á,
ASEAN) từ những năm 90 của thế kỷ XX. Thực hiện các ý tưởng phát triển,
đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Á từ những năm 2000 trở lại đây các
HLKT liên kết trong tiểu vùng sông Mê Kông (HL Đông - Tây; HL Bắc -
Nam) đã bắt đầu được thực hiện và mang lại hiệu quả bước đầu cho các nước
trong khu vực. Bên cạnh các quốc gia ở Đông Nam Á, các quốc gia Đông Á
như Trung Quốc, Hàn Quốc cũng đã có các ý tưởng về việc thiết lập các
50
HLKT để tạo động lực cho việc phát triển kinh tế với các HLKT ở Trung
Quốc như HLKT Cáp Nhĩ Tân - Đại Khánh - Tề Tề Cáp Nhĩ; HLKT Trung
Quốc - Việt Nam…
2.2.1.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam
Qua nghiên cứu một số nước và khu vực trên thế giới về phát triển
HLKT giúp chúng ta nhận thức được rằng, không có một mô hình chuẩn nào
cho sự phát triển, tổ chức HLKT ở mỗi nước. Muốn có được hướng phát triển
HLKT tốt và đưa ra các giải pháp để HLKT phát triển đúng đắn phải tổ chức
nghiên cứu cẩn thận. Nhìn chung trong quá trình CNH, HĐH các quốc gia
đều nghiên cứu, phát triển các hình thức TCLT kinh tế phù hợp với đất nước
mình theo mục tiêu và định hướng nhất định, trong đó hình thức HLKT có vai
trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển các vùng lãnh thổ đầu tàu cho
quốc gia. Từ thực tiễn phát triển HLKT ở một số châu lục và quốc gia trên thế
giới, có thể rút ra một số vấn đề có tính gợi mở đối với việc hình thành và
phát triển HLKT ở Việt Nam như sau:
- Thứ nhất, về việc lựa chọn lãnh thổ phát triển HLKT
Việc lựa chọn các tuyến QL để phát triển trở thành HLKT phải hội đủ
các yếu tố thuận lợi để bảo đảm sự phát triển bền vững của bản thân HL, đồng
thời thuận lợi cho việc phát huy được hiệu ứng lan tỏa, vai trò động lực đối
với nền kinh tế. Các quốc gia thường chọn những các trục giao thông huyết
mạch, có điều kiện phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế với bên trong và
bên ngoài; có khả năng tiếp cận và hoà nhập nhanh chóng vào các thị trường
hàng hoá và dịch vụ để lập các trọng điểm phát triển công nghiệp và thương
mại, tạo mũi đột phá trong phát triển lãnh thổ. Điển hình như Canada khi
chọn HLKT Tây bắc trải dài gần một nửa lãnh thổ của Canada: từ các đảo
51
Haida Gwaii/ Queen Charlotte tới vùng trung tâm phía Bắc của British
Columbia, Alberta, Saskatchewan và vùng phía Tây của tỉnh Manitoba. Các
công trình kết cấu hạ tầng ở vùng này rất tốt, bao gồm một mạng lưới các
đường cao tốc, đường xe lửa, ống dẫn dầu, thuỷ điện, thông tin liên lạc, các
cảng hàng không và cảng biển cung cấp khả năng giao thông vận tải và liên
lạc thuận lợi với các nhà sản xuất và thị trường tiêu dùng ở Bắc Mỹ, châu Á
và Nam Mỹ.
- Thứ hai, về các cơ chế chính sách đối với các HLKT
Để thực hiện thành công định hướng phát triển các HLKT cần thực thi
đồng bộ, đầy đủ và toàn diện các giải pháp, trong đó giải pháp về cơ chế,
chính sách, giải pháp đầu tư và hỗ trợ phát triển, giải pháp phát triển kết cấu
hạ tầng và các giải pháp điều hành thực hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Để tăng tính hấp dẫn về mặt lãnh thổ, các quốc gia đều thiết lập và thực
thi các cơ chế, chính sách ưu đãi phù hợp, linh hoạt theo từng HL, từng giai
đoạn phát triển. Với cơ chế phân cấp quản lý, sự kiểm soát của Chính phủ
trung ương đối với các HLKT/ địa phương được nới lỏng hơn, tăng thêm tính
chủ động và quyền tự quyết cho địa phương trong quá trình giải quyết các vấn
đề kinh tế như: ủy quyền phê duyệt các dự án đầu tư lớn, chuyển giao nhiều
doanh nghiệp trung ương cho các HL/ địa phương quản lý, cho phép HL/ địa
phương tham gia xây dựng các chính sách ngành của HL/ địa phương và sử
dụng các nguồn lực của các tổ chức tài chính, lập kế hoạch sản xuất, định giá
và quản lý ngoại thương.
Tất cả các quốc gia đều sử dụng chính sách tài chính như một công cụ
đắc lực để khuyến khích và kêu gọi đầu tư trong nước và nước ngoài, đặc biệt
là FDI. Sự ưu đãi về thuế rất linh hoạt, có nhiều dạng và nhiều mức ưu đãi
khác nhau như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu hay
52
thuế VAT, miễn thuế cho các dự án trong những năm đầu hoạt động, các chế
độ hoàn thuế, kỳ chuyển lỗ…. Chính sách thuế còn khuyến khích các nhà đầu
tư chú trọng vào khâu tái đầu tư phát triển thông qua chế độ hoàn thuế cho
phần lợi nhuận tái đầu tư.
Ngoài các chính sách trợ giúp và đầu tư cho kết cấu hạ tầng "cứng" như
các hệ thống giao thông, thông tin liên lạc…, thì đầu tư vào kết cấu hạ tầng
"mềm" như cung cấp thông tin, các hoạt động hỗ trợ thông qua các dịch vụ tư
vấn, giáo dục đào tạo hay thúc đẩy chuyển giao công nghệ cũng có một vị trí
vô cùng quan trọng trong sách lược kêu gọi và khuyến khích đầu tư.
Việc tăng cường cơ chế, chính sách cho HL là một bài học đáng quý
cho Việt Nam, dựa trên các khung khổ pháp lí, các địa phương, các ban ngành
sẽ xây dựng các quy hoạch, chiến lược phù hợp tăng cường mối liên kết, thúc
đẩy hoạt động kinh tế, xã hội mang lại lợi ích chung cho toàn bộ nền kinh tế.
- Thứ ba, về vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển HLKT
Các quốc gia đã thực hiện thành công chiến lược phát triển có trọng điểm
theo lãnh thổ đều đã không hoàn toàn thả nổi cho “bàn tay vô hình” của thị
trường điều khiển sự phát triển vùng mà đều thông qua “bàn tay hữu hình” -
sự can thiệp của Nhà nước để định hướng và xúc tiến phát triển các HLKT.
Thực tế thành công của các nước đã chỉ ra rằng Nhà nước đóng vai trò
quan trọng trong việc hoạch định chủ trương, chính sách và kế hoạch phát
triển các lãnh thổ trọng điểm nói chung, các HLKT nói riêng. Nhà nước tạo
môi trường vĩ mô thuận lợi thông qua các chính sách tài khóa và tiền tệ như
lãi suất, tiền lương, tỷ giá, trợ giá, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tín dụng…
Các giải pháp của Nhà nước nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp và cộng
đồng đối với phát triển các HLKT cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Mặt khác,
vai trò điều tiết và can thiệp của Nhà nước là rất cần thiết nhằm giải quyết tốt
mối quan hệ giữa các lãnh thổ trong việc phân chia lợi ích quốc gia, điều tiết
53
thu nhập giữa các vùng lãnh thổ, hạn chế kịp thời đối với các lãnh thổ có sự
phát triển nóng đồng thời có chính sách hỗ trợ các vùng còn khó khăn, kém
phát triển để các vùng này có thể vươn lên.
- Thứ tư, thành lập tổ chức trực thuộc Chính phủ điều hành trực tiếp việc
quy hoạch và triển khai phát triển HLKT
Trên thực tế, các quốc gia khi tiến hành tổ chức phát triển các HLKT
thường thành lập các ủy ban trực thuộc trung ương để tiến hành giám sát, thực
thi các văn bản pháp lí, các chính sách chủ trương được thông qua trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tại Canada, năm 1996 Bộ trưởng Giao thông Canada đã thành lập một
Tổ chuyên trách cao cấp nhằm phát triển một HLPT với nòng cốt là HLPT
Tây nam. Tổ chuyên trách này đã đưa ra các khuyến nghị thích hợp cho sự
phát triển của tuyến HL. Trong đó khuyến nghị quan trọng là thành lập Hội
đồng HLPT Tây nam. Hội đồng này có các nhiệm vụ chính: Xây dựng chiến
lược tổng hợp về sử dụng HL giao thông Tây nam phục vụ cho phát triển
thương mại và kinh tế của khu vực và của Canada; Điều phối các chính sách
giao thông và chính sách thương mại để tận dụng HL phát triển; Quảng bá và
thu hút đầu tư mới vào HL.
Trong khuôn khổ hợp tác của HL Mid Nordic - St. Petersburg giữa
Liên bang Nga và các quốc gia có liên quan đã thành lập một ủy ban quản lí,
điều phối chung là Uỷ ban Mid - Nordic. Ủy ban này là một tổ chức hợp tác
được tài trợ một phần từ nguồn ngân sách của các Chính phủ tham gia. Uỷ
ban này được hình thành năm 1972 và đã hình thành được một mạng lưới vận
hành tốt trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội. Uỷ ban có 10 khu vực thành
viên: Bắc - Nam tỉnh Trundelag của Na Uy, các tỉnh Jomtland và
Vosternorrland thuộc Thụy Điển, các tỉnh Ostrobothnia, Ostrobothnia trung
tâm, Nam Ostrobothnia, Trung tâm Phần Lan và Nam Savo thuộc Phần Lan.
54
Việc thành lập các ủy ban quản lí trên thực tế đã mang lại hiệu quả cao
cho việc vận hành, phát triển của các HL.
2.2.2. Thực tiễn phát triển hành lang kinh tế ở Việt Nam
Tại Việt Nam, ý tưởng về xây dựng và phát triển các HLKT đã được
nhiều nhà nghiên cứu đề xuất từ những năm 90 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, ý
tưởng xây dựng và phát triển các HLKT chỉ thực sự phát triển mạnh khi Bộ
trưởng các nước tiểu vùng sông Mê Kông lần thứ 8, họp tại thủ đô Manila
(Philippin) tháng 9/1998 do ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) chủ trì.
Hiện nay, trên cả nước đã hình thành nhiều HLKT. Tiêu biểu trong số
đó phải kể đến các các HL được Chính phủ ký Quyết định và thông qua đó là
các HLKT: (i) Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và HLKT Lạng
Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh trong hợp tác phát triển Hai HL một
vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc1; (ii) QL9 và 1A (bộ phận của
HLKT Đông - Tây); (iii) QL51 (TP. Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu)2.
Mục tiêu chung của việc phát triển các HLKT ở Việt Nam đặc biệt là
các HL liên kết với Trung Quốc, liên kết xuyên Á là nhằm: (i) góp phần tăng
cường, mở rộng và nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại
giữa các địa phương/ quốc gia vì lợi ích và phồn thịnh; (ii) góp phần đẩy
nhanh quan hệ hợp tác giữa các địa phương, giữa Việt Nam với Trung Quốc
và các nước ASEAN; (iii) cho phép sử dụng có hiệu quả hơn các tiềm năng
sẵn có của các địa phương/ quốc gia trong các lĩnh vực như công nghiệp,
1Theo Công văn số 6743/VPCP-QHQT, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý phê duyệt nội dung bản ghi
nhớ về triển khai hợp tác "Hai hành lang một vành đai kinh tế" giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (ngày 15/11/2006).
2 Hành lang QL 51 (Hành lang thành phố Hồ Chí Minh - Bà Rịa - Vũng Tàu) được đề cập trong Quyết định
số: 06/2011/QĐ-TTg ngày 24/11/2011 về việc việc Phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030
nông nghiệp, thuỷ sản, phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên, du lịch.
55
Sự phát triển và hình thành các HLKT đã có những đóng góp tích cực
cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, biểu hiện cụ thể như sau:
- HLKT đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP của các địa
phương nơi nó đi qua. Theo các số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP của
các tỉnh, thành phố nằm trong HLKT thường cao hơn so với mức tăng trưởng
chung của nền kinh tế cả nước. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng
trung bình của các tỉnh, thành phố trong HL luôn đạt mức khoảng 8,0 -10,0%,
đặc biệt là tốc độ tăng của khu vực công nghiệp luôn đạt mức cao hơn so với
mức tăng trung bình. Quy mô GDP của các tỉnh, thành phố nằm trong các
HLKT hiện nay chiếm tỉ trọng tới trên 60% tổng GDP toàn quốc, trong đó nổi
bật lên một số tỉnh, thành phố có GDP lớn như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà
Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng... Đây cũng chính là những cực
phát triển quan trọng nhất của các tuyến HLKT trên lãnh thổ nước ta.
- HLKT góp phần tác động quan trọng trong việc hình thành và phát
triển các đô thị. Trên các HLKT đã hình thành ở nước ta hiện nay, mỗi HL
HLKT Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng kết nối các đô thị là TP Lào Cai
đều đã hình thành hệ thống các dải đô thị dọc theo các tuyến giao thông đó.
- TT. Bảo Thắng, TT. Bảo Yên (Lào Cai); TP Yên Bái (Yên Bái),
TT.Lục Yên, TT. Văn Yên, TT. Trấn Yên, TT. Yên Bình (Yên Bái); TP.
Việt Trì, TX. Phú Thọ, TT. Hạ Hòa, TT. Thanh Ba, TT. Cẩm Khê, TT.
Tam Nông, TX.Lâm Thao (Phú Thọ) và các đô thị dọc QL5 như TP. Hà
Nội - TT. Như Quỳnh - TT. Bần Yên Nhân (Hưng Yên) - TT. Lai Cách -
HLKT Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh kết nối các đô thị
TP. Hải Dương - TT. Kim Thành (Hải Dương) - TP. Hải Phòng.
dọc QL1 và QL5: TP Lạng Sơn - TP Bắc Giang - TP Bắc Ninh - TP Hạ
HLKT Đông - Tây (phần Việt Nam): kết nối các đô thị nằm trên QL9,
Long - TP Móng Cái và các đô thị dọc tuyến Hà Nội - Hải Phòng.
QL14 và QL1 như TT. Khe Sanh- TP. Đông Hà - TP. Quảng Trị -
56
TT. Hải Lăng (Quảng Trị) TT. Phong Điền - TP. Huế - TT. Phú Lộc
HLKT TP. Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu: kết nối các đô thị
(Thừa Thiên Huế) - TP. Đà Nẵng.
dọc QL 1A, xa lộ Hà Nội và QL51 là TP. Hồ Chí Minh - Biên Hòa -
Long Thành (Đồng Nai) - TT. Phú Mỹ - TP. Bà Rịa - TP. Vũng Tàu
(Bà Rịa - Vũng Tàu).
- HLKT có vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Do có nền
kinh tế phát triển, nhất là sản xuất công nghiệp nên các tỉnh, thành phố trong
HL chính là các địa phương chiếm tuyệt đại đa số tỉ trọng giá trị xuất khẩu
của nước ta. Hiện nay hầu hết các HLKT ở nước ta đều gắn với các cửa khẩu
hoặc các cảng quốc tế, trong đó nổi bật lên vai trò của một số cửa khẩu và
cảng biển như: Hữu Nghị, Lào Cai, Lao Bảo, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ
Chí Minh. Các HL cũng đóng góp tới trên 90% giá trị xuất khẩu của cả nước
trong những năm gần đây. Trong tương lai, với xu hướng mở cửa, hội nhập,
vai trò của các HLKT trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và xuất
khẩu nói riêng chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
- HLKT thúc đẩy hoạt động kinh doanh và tăng nguồn thu cho ngân
sách từ du lịch, HLKT cũng có vai trò quan trọng thúc đẩy khả năng mở rộng
kinh doanh đón khách và tăng nguồn thu cho ngân sách. Hiện nay ở nước ta
đã hình thành nhiều tuyến du lịch quan trọng như Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh, Hà Nội - Việt Trì - Yên Bái - Lào Cai - Sa Pa, Huế - Đà Nẵng -
Quảng Nam, TP. Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu... Các tuyến du lịch
này cũng được hình thành trên một hoặc 2 tuyến giao thông huyết mạch giống
như các HLKT... Ngoài ảnh hưởng trực tiếp thể hiện qua mạng lưới giao
thông và các điểm du lịch trong HL, sự phát triển của HLKT cũng giúp đời
57
sống người dân được cải thiện, làm tăng nhu cầu hưởng thụ các dịch vụ nói
chung và du lịch nói riêng.
- HLKT tạo cơ hội việc làm, phát huy lợi thế so sánh của các địa
phương và vùng lãnh thổ. Việc xây dựng HLKT sẽ khơi thông lĩnh vực hợp
tác kinh tế giữa các địa phương cũng như tăng cường sự liên kết giữa Việt
Nam và các nước trong khu vực, làm nảy sinh các hoạt động kinh tế thu hút
và tạo cơ hội việc làm cho người lao động, đồng thời giúp cho các nhân tố về
tài nguyên, sản xuất công nghiệp được luân chuyển dễ dàng phát huy lợi thế
so sánh tăng thêm giá trị thông qua sự hợp tác quốc tế về các lĩnh vực: mở
mang thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, khai khoáng, du lịch, dịch vụ,
xoá bỏ sự khó khăn để phát triển đi lên, hình thành cơ cấu kinh tế thương mại
lớn có các sở trường rõ rệt, bổ sung ưu thế cho nhau, lợi ích đều dựa vào nhau
để cùng nhau phát triển.
Tuy nhiên, việc phát triển các HLKT ở nước ta hiện nay chưa đi liền
với việc tổ chức quy hoạch chi tiết dẫn đến sự phát triển mất cân đối giữa các
lãnh thổ trong một HL cũng như việc tập trung quá mức các nhà máy, xí
nghiệp tại một vài địa phương trên HL dẫn đến những hậu quả xấu đối với tài
nguyên và môi trường.
Kết quả phát triển các HLKT ở Việt Nam trong những năm qua cho
chúng ta những bài học quan trọng đó là cần phải tăng cường chú trọng đến
chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo tính đồng bộ giữa các quy hoạch bộ
phận với quy hoạch tổng thể chung của toàn bộ nền kinh tế dọc tuyến. Công
tác quản lý, các cơ chế chính sách đối với các HLKT cũng cần sớm được hiện
đại hóa, tập trung nguồn lực vào việc phát triển một số HLKT chính, tránh
58
đầu tư dàn trải, tạo nhiều cơ chế chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp, các
thành phần kinh tế tham gia sản xuất.
2.3. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH
GIÁ HIỆU QUẢ, VAI TRÒ CỦA HÀNH LANG KINH TẾ TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.3.1. Điều kiện hình thành và phát triển hành lang kinh tế
Các công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và trên
thế giới chỉ ra rằng, để một HLKT có thể được hình thành và phát triển, cần
thỏa mãn một số điều kiện cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải có một tuyến trục giao thông huyết mạch kết nối các
trung tâm kinh tế với nhau.
Thứ hai, các trung tâm kinh tế dọc hai bên tuyến, nhất là các cơ sở công
nghiệp, du lịch, thương mại phối hợp với nhau để tạo nên tiềm lực kinh tế
chung cho toàn bộ HLKT.
Thứ ba, có các cửa vào - ra thông suốt trong quá trình giao thương phát
triển kinh tế.
Tác giả luận án đồng tình với các quan điểm trên. Tuy nhiên, từ việc
nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đối chiếu trong điều kiện thực tế của Việt
Nam, một số điều kiện bổ sung sau là không thể thiếu được đối với việc hình
thành và phát triển HLKT:
Trước hết, cần có chủ trương, sự chỉ đạo quan tâm, định hướng của các
cấp chính quyền từ trung ương tới các địa phương đối với sự phát triển của
HLKT thông qua việc ban hành các chính sách, quy hoạch, lập kế hoạch,
cung cấp nguồn vốn.
Tiếp đó, việc phát triển các HLKT cần phải được sự quan tâm ủng hộ
của các nhà đầu tư và cộng đồng dân cư sinh sống hai bên HL.
59
Đồng thời, để không xảy ra xung đột trong phát triển, việc xây dựng
và phát triển các HLKT cần phải diễn ra trên các vùng lãnh thổ không
(hoặc ít) tranh chấp với đất sản xuất nông nghiệp - đặc biệt là đất trồng lúa,
của các địa phương.
Ngoài ra, việc các lãnh thổ trong phạm vi phát triển HLKT có tiềm
năng phát triển, đặc biệt là tiềm năng kinh tế và đã phát triển ở mức độ nhất
định, bước đầu thể hiện được vai trò và tác động tích cực đến sự phát triển của
vùng và các lãnh thổ trong phạm vi ảnh hưởng của HLKT cũng là một điều
kiện quan trọng giúp cho quá trình phát triển HLKT nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Từ các ý kiến của các học giả/ chuyên gia trong và ngoài, kết hợp cùng
các nghiên cứu từ thực tiễn kinh nghiệm phát triển HLKT của các quốc gia và
khu vực trên thế giới, luận án đề xuất 2 nhóm điều kiện để hình thành và phát
triển HLKT trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam như sau:
(i) Điều kiện cần:
- Sự hiện diện của một tuyến trục giao thông huyết mạch kết nối các cực
phát triển và các cửa vào - ra quan trọng;
- Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và dân cư, lao động dọc theo
tuyến giao thông có nhiều thuận lợi cho việc hình thành và phát triển
HLKT;
- Sự hiện diện của các đô thị trung tâm và lãnh thổ có khả năng tập trung
hoạt động kinh tế dọc tuyến trục giao thông huyết mạch;
- Sự phát triển dọc theo tuyến trục bước đầu thể hiện được vai trò và tác
động tích cực đến sự phát triển của các lãnh thổ trong phạm vi ảnh hưởng;
- Sự phát triển trong hiện tại và trong tương lai của các lãnh thổ trong
phạm vi ảnh hưởng của tuyến trục không (hoặc ít) có khả năng gây ra
xung đột về sử dụng đất trong nông nghiệp.
60
(ii) Điều kiện đủ:
- Chủ trương, định hướng và sự quan tâm chỉ đạo của trung ương và các
cấp chính quyền địa phương;
- Sự quan tâm ủng hộ của nhà đầu tư, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư
sinh sống dọc theo tuyến trục giao thông.
Các điều kiện hình thành và phát triển HLKT được luận giải cụ thể
trong các phần tiếp sau đây.
2.3.1.1. Sự hiện diện của một tuyến trục giao thông huyết mạch kết nối
các cực phát triển và các cửa vào - ra quan trọng
Theo lý thuyết trục phát triển, các khu vực có lợi thế nổi bật về giao
thông và giáo dục, giá trị sản xuất, cùng các lợi thế cạnh tranh sẽ là khu vực
hấp dẫn đặt các doanh nghiệp và phát triển kinh tế [70]. Xét trong trường hợp
cụ thể là HLKT, sự hiện diện và mức độ thuận lợi của tuyến giao thông là yếu
tố quan trọng, là tiền đề để hình thành và phát triển HLKT. Nghĩa là, muốn
phát triển các HLKT thì cần phải tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phát
triển các tuyến giao thông cả về đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường
hàng không trong đó quan trọng vào tuyến giao thông đường bộ. Do đó,
không phải ngẫu nhiên mà khi bàn đến các HLKT trong hợp tác tiểu vùng
sông Mê Kông mở rộng, người ta nhấn mạnh đến phát triển các hạ tầng cơ sở
giao thông. Ví dụ, HLKT Đông Tây (East - West Ecnomic Corridor) kéo dài
từ Mawlamyine - Myawaddy (Myanmar) đi Thái Lan - Lào và đến Đà Nẵng
(Việt Nam) đã tập trung phát triển 04 dự án: a) Hành lang giao thông Đông
Tây; b) Phát triển giao thông thuỷ; c) Phát triển đường sắt; đ) Đường hàng
không. Cũng tương tự như vậy, HLKT phía Nam (Southern Economic
Corridor) bắt đầu từ Bangkok (Thái Lan) đến Vũng Tàu (Việt Nam) được tập
trung phát triển các tuyến giao thông thuỷ, bộ, hàng không trên trục giao
61
thông xuyên qua 3 nước Thái Lan - Campuchia và Việt Nam. Nổi bật là các
chương trình: a) Cải tạo đường bộ Bangkok - Phnompenh - Hồ Chí Minh -
Vũng Tàu; b) Tuyến đường ven biển phía Nam; c) Cải tạo đường bộ Sihanuc
ville (Campuchia) đến Nam Lào và d) Phát triển dự án hành lang Đông Tây
tại Trung Campuchia.
Sự phát triển của dân cư dọc tuyến cũng như phân công lao động theo
lãnh thổ lại đặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát triển tập trung, liên kết
lãnh thổ và phân bố ngành giao thông vận tải về các mặt như phương tiện vận
tải, tốc độ vận chuyển, mức độ an toàn, khả năng, năng lực vận chuyển trên
từng luồng vận chuyển. Ta thấy có sự phù hợp giữa sự phát triển của các
tuyến trục giao thông với sự phát triển, tập trung liên kết lãnh thổ.
Quy mô và cường độ vận tải giữa các trung tâm không ngừng được hoàn
thiện đã tạo điều kiện để tiêu thụ sản phẩm của những xí nghiệp chuyên môn
hóa lớn trên toàn lãnh thổ của đất nước hay sang các nước khác, cho phép chế
biến nguyên liệu xa nơi khai thác chúng, bảo đảm sự di chuyển của nguồn lao
động. Việc này đã góp phần mở rộng và làm sâu sắc thêm sự phân công lao
động theo lãnh thổ liên vùng và quốc tế. Hay nói cách khác, sự hiện diện của
một tuyến trục giao thông huyết mạch trên một vùng lãnh thổ (tuyến trục giao
thông chạy qua một vùng lãnh thổ có mức độ tập trung sản xuất lớn, có các
điểm dân cư tập trung hình thành các trung tâm đô thị, với các cửa "vào" -
"ra") có ý nghĩa quan trọng trong việc lôi kéo, cuốn hút các vùng lãnh thổ liền
kề vào việc cung cấp nguyên liệu cho sản xuất dọc tuyến, trở thành dải động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc của mạng lưới giao
thông có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển tập trung, liên kết lãnh thổ.
Các tuyến trục giao thông tăng cường ưu thế của vị trí địa lí kinh tế, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của các vùng chậm phát triển vào việc khai
khẩn các vùng mới (ví dụ như các vùng phía bắc Canada), và quy định sự
hình thành các "dải", các "HL" của sự phát triển.
62
Các HLKT hình thành và phát triển khi các điểm mút “đầu vào - đầu ra”
của tuyến trục giao thông xác định được lợi ích kinh tế khi tiến hành phối kết
hợp với nhau trong quá trình vận hành, tổ chức các hoạt động kinh tế. Bởi
việc hình thành HLKT dựa trên một cơ sở chung là lợi ích thu được từ sự
hợp tác dọc theo các tuyến trục giao thông quan trọng tới các cửa “vào - ra”
của một vùng sẽ lớn hơn so với lợi ích có thể thu được từ những hoạt động
độc lập riêng lẻ. Bên cạnh sự phối hợp chặt chẽ của các điểm mút vào - ra sự
tồn tại và phát triển của các đô thị dọc các tuyến giao thông với tư cách là các
trung điểm sẽ tạo điều kiện cho các tuyến trục đảm bảo sự kết nối thông suốt
dọc tuyến góp phần tăng thêm hiệu quả kinh tế cho lãnh thổ.
2.3.1.2. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và dân cư, lao
động dọc theo tuyến giao thông có nhiều thuận lợi cho việc hình thành và
phát triển hành lang kinh tế
Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên được coi là nền tảng
của sự phát triển kinh tế nói chung và HLKT nói riêng. Những đặc trưng về
điều kiện tự nhiên, sự phân bố tài nguyên thiên nhiên, qui mô, chất lượng tài
nguyên của lãnh thổ qui định đặc điểm cơ cấu lãnh thổ, cường độ và hướng di
chuyển các mối liên hệ thông qua lịch sử và truyền thống khai thác lãnh thổ.
Ở mỗi vùng lãnh thổ có một tập hợp tài nguyên riêng, nguồn lực tự nhiên
riêng biệt là cơ sở ban đầu để hình thành cơ cấu kinh tế lãnh thổ riêng.
Tài nguyên thiên nhiên là điều kiện thiết yếu để phát triển sản xuất trên
lãnh thổ. Không có tài nguyên tự nhiên cần thiết, nhất định không thể xuất
hiện các hoạt động sản xuất, các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, một loại tài
nguyên nào đó tại một vùng không nhất quyết sẽ có thể phát triển một hoạt
động sản xuất nào đó. Bởi vì việc phát triển một hoạt động sản xuất không chỉ
chịu sự quyết định của nhân tố tài nguyên thiên nhiên mà còn quyết định bởi
cơ sở kinh tế, điều kiện kĩ thuật và điều kiện cung - cầu của thị trường.
63
Con người là chủ thể tiến hành sản xuất, các hoạt động xã hội cải tạo và
sử dụng tự nhiên. Số lượng và chất lượng dân cư, sự hợp thành, di chuyển và
phân bố của dân số đều ảnh hưởng tới sự phát triển sản xuất, sự phân bố của
dân số đều ảnh hưởng tới phát triển sản xuất, sự phân bố cơ cấu kinh tế của
lãnh thổ.
Con người - được hiểu là lực lượng sản xuất và tiêu dùng. Dân số
trong sản xuất được hiểu là người lao động. Dân số lao động phải là dân số có
năng lực lao động (thể lực lao động kết hợp với trình độ và kinh nghiệm lao
động). Tuy dân số và lao động chỉ là một bộ phận của tổng thể số dân trong
vùng nhưng sản xuất của họ lại phục vụ cho tất cả số dân sống trên lãnh thổ.
Dân số ảnh hưởng tới phát triển HLKT được biểu hiện ở một số mặt như:
- Số lượng lao động của khu vực HLKT ảnh hưởng đến qui mô khai
thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, qui mô sản xuất của lãnh thổ.
- Số lượng lao động trong khu vực HLKT và tỉ lệ của nó trong tổng số
dân cư có ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô sản xuất, mức thu nhập bình
quân dân cư và mức độ tích luỹ đầu tư dùng để phát triển lãnh thổ.
Ngược lại, mức thu nhập bình quân của dân cư và mức độ tích lũy đầu
tư có ảnh hưởng đến qui mô phát triển sản xuất của lãnh thổ, ảnh
hưởng đến sự phát triển và tiến bộ xã hội của lãnh thổ.
- Chất lượng lao động là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng nguồn lao động (trình
độ văn hóa và trình độ chuyên môn) là nhân tố quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta, trình độ lao động có ý nghĩa quyết định
tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển
bền vững. Đối với HLKT, chất lượng lao động cao là điều kiện thuận
64
lợi cho phát triển của các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ
cao (điện tử, cơ khí chính xác, công nghiệp tin học…), là cơ sở để tạo
ra lợi thế so với các vùng lãnh thổ khác.
Bên cạnh đó, sự phân bố dân cư ảnh hưởng đến phân bố sản xuất lãnh
thổ. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên thường tập trung ở những nơi có
dân số đông, nguồn lao động dồi dào trước rồi mới lan rộng ra lãnh thổ xung
quanh. Việc mở rộng phạm vi khai thác tài nguyên sẽ dẫn đến sự di chuyển
của một bộ phận dân cư để mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất đồng thời mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, qua đó thúc đẩy sản xuất ở các những vùng
sâu, vùng xa kém phát triển, giảm sự chênh lệch vùng.
2.3.1.3. Sự hiện diện của các đô thị trung tâm và lãnh thổ có khả
năng tập trung hoạt động kinh tế dọc tuyến trục giao thông huyết mạch
Vào bất kì giai đoạn nào trong lịch sử phát triển xã hội của loài người,
thì các đô thị luôn được coi là nơi nắm giữ các quyền lực về chính trị, kinh tế
quan trọng của xã hội và có sức chi phối mạnh mẽ, ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của vùng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đóng góp
của đô thị về phương diện kinh tế là rất lớn. Các đô thị thường là nơi đóng
góp phần lớn giá trị GDP, giá trị ngành công nghiệp - dịch vụ, và giá trị tăng
trưởng của nền kinh tế tạo động lực cho sự phát triển chung.
Việc hình thành và xuất hiện các đô thị trung tâm đóng vai trò là các đô
thị hạt nhân thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh
thổ liên tỉnh hoặc của cả nước. Các điểm đô thị là cơ sở lôi cuốn tuyến phát
triển đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và nguyên liệu từ vùng tiêu thụ
đến vùng sản xuất và ngược lại. Các đô thị dọc tuyến có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, tương hỗ tạo sự phát triển. Đồng thời giữa các đô thị trên tuyến và
vùng lân cận có các khoảng không gian đủ rộng để xây dựng, phát triển các
65
cơ sở sản xuất lớn với mức độ tập trung các hoạt động kinh tế cao (các KCN,
KCX, các doanh nghiệp, các cơ sở dịch vụ kinh tế…). Khi lãnh thổ tập trung
nhiều các cơ sở kinh tế sẽ nảy sinh nhu cầu vận chuyển, trao đổi hàng hóa,
giao lưu kinh tế vì vậy mà các tuyến trục giao thông trong khu vực sẽ trở
thành cầu nối “huyết mạch” để các hoạt động kinh tế trong khu vực tồn tại và
phát triển.
Như vậy, sự hình thành các đô thị trung tâm và lãnh thổ có khả năng tập
trung hoạt động kinh tế vừa là kết quả của quá trình hình thành và phát triển
các HLKT nhưng đồng thời cũng là những động lực cần thiết cho sự phát
triển của các tuyến HL này.
2.3.1.4. Sự phát triển dọc theo tuyến trục bước đầu thể hiện được vai
trò và tác động tích cực đến sự phát triển của các lãnh thổ trong phạm vi
ảnh hưởng
Một khu vực lãnh thổ muốn trở thành vùng kinh tế động lực (cụ thể là
HLKT) tác động lan tỏa tới các khu vực xung quanh cần phải có các tiền đề
về phát triển kinh tế. Lãnh thổ được xác định có lợi thế hơn so với các vùng
khác khi nó tập trung năng lực sản xuất cao hơn các vùng phụ cận, cùng với
hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, đông dân cư, nguồn lao động có
kỹ thuật… các vùng lãnh thổ nói trên sẽ có nhiều khả năng tiếp tục thu hút
đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài để hình thành một số trọng điểm và
nhiều cực tăng trưởng trong tương lai.
Đối với các lãnh thổ ven tuyến trục giao thông huyết mạch, các tiền đề
về kinh tế thể hiện thông qua tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất, sự chuyển
dịch về cơ cấu kinh tế nhanh hơn các vùng phụ cận. Đồng thời, các cơ sở sản
xuất công nghiệp, các doanh nghiệp đã tập trung với mức độ tương đối. Việc
66
phát triển kinh tế của vùng xung quanh tuyến trục trong một chừng mực nhất
định đã có những tác động đến các vùng lãnh thổ ở xa phạm vi tác động của
tuyến trục trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phân bố các cơ sở kinh tế,
thu hút, giải quyết được việc làm cho nhiều lao động.
2.3.1.5. Sự phát triển trong hiện tại và trong tương lai của các lãnh
thổ trong phạm vi ảnh hưởng của tuyến trục không (hoặc ít) có khả năng
gây ra xung đột về sử dụng đất trong nông nghiệp
Trong điều kiện một nước sản xuất nông nghiệp như Việt Nam hiện
nay, diện tích đất dành cho canh tác lương thực, đảm bảo cung cấp lương thực
- thực phẩm cho các hoạt động sản xuất và đời sống là hết sức quan trọng.
Trên thực tế, nhiều hình thức TCLT khi phát triển đã có những “xung đột” với
các lãnh thổ sản xuất nông nghiệp, dẫn đến diện tích đất nông nghiệp thay đổi
theo hướng giảm dần gây ra những hậu quả lớn về kinh tế cũng như các tác
động lớn về xã hội và môi trường như thất nghiệp, chuyển đổi cơ cấu ngành
nghề lao động, ô nhiễm môi trường… Do đó, một tuyến trục muốn phát triển
trở thành một tuyến động lực cần phải được hình thành trên lãnh thổ không
hoặc ít tranh chấp với các vùng sản xuất lương thực - thực phẩm để vừa tận
dụng tốt nguồn nguyên liệu dành cho việc phát triển, duy trì sự năng động và
ổn định của toàn bộ tuyến trục.
2.3.1.6. Chủ trương, định hướng và sự quan tâm chỉ đạo của Nhà
nước và các cấp chính quyền địa phương
Việc hình thành các HLKT là một quá trình khách quan. Tuy vậy, nếu
không có các tác động chủ quan của con người, quá trình này sẽ diễn ra chậm
và kém hiệu quả. Vì vậy, chủ trương, chính sách của Nhà nước và chính
quyền địa phương có tuyến trục giao thông chạy qua được xác định như một
đòn bẩy cần thiết nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành và nâng cao hiệu quả
67
phát triển của HLKT. Như đã trình bày ở các phần trên, HLKT là một lãnh
thổ ước lệ, do đó sự phối hợp giữa các nhà quản lí là hết sức cần thiết. Khi các
nhà quản lí chưa nhận thức được tầm quan trọng của các HL - các tuyến trục
động lực phải có các nhà khoa học tiến hành các công trình nghiên cứu kiến
nghị với các cấp chính quyền địa phương để họ nhanh chóng nhận thức được
sự cần thiết khách quan, tầm quan trọng của việc phát triển các tuyến HLKT
trên lãnh thổ quản lí của mình, từ đó có các chính sách và giải pháp phù hợp
thúc đẩy phát triển HLKT.
Chủ trương, chính sách của Nhà nước và các cấp chính quyền địa
phương đối với việc hình thành và phát triển HLKT thể hiện trước hết bằng
quan điểm mục tiêu phát triển. Các nội dung này được thể hiện cụ thể trong
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HLKT; xoá bỏ các rào cản, tạo
điều kiện cho HLKT phát triển. Hay nói cách khác, chủ trương, chính sách
của Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương thể hiện qua việc định
hướng, hỗ trợ, điều tiết các chủ thể kinh tế trong việc hình thành cơ sở hạ tầng
giao thông liên kết các trung tâm kinh tế, các hạt nhân đô thị tạo nên chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đảm bảo phát triển HLKT bền vững.
Trên thực tế, việc hình thành các HLKT trên thế giới nói chung và ở
Việt Nam nói riêng đều bắt nguồn từ chủ trương của Nhà nước và các địa
phương liên quan có tuyến trục giao thông chạy qua. Minh chứng cụ thể,
trường hợp ở Việt Nam năm 2004, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo và
Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã thảo luận và nêu ra kiến nghị hai
nước Việt Nam và Trung Quốc xây dựng “Hai HL một vành đai”. Thực hiện
chủ trương được thông qua của hai Thủ tướng năm 2005, tổ chuyên gia hai
nước Trung Quốc và Việt Nam đã thống nhất nghiên cứu xây dựng hai HLKT
3Theo Công văn số 6743/VPCP-QHQT, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý phê duyệt nội dung bản ghi
nhớ về triển khai hợp tác "Hai hành lang một vành đai kinh tế" giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (ngày 15/11/2006).
là Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà
Nôi - Hải Phòng cùng vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ3.
68
2.3.1.7. Sự quan tâm ủng hộ của nhà đầu tư, doanh nghiệp và cộng
đồng dân cư sinh sống dọc theo tuyến trục giao thông
Việc hình thành và vận hành các HLKT cần có sự cộng nhận của các
cấp quản lí và sự ủng hộ của cộng đồng dân cư. Bởi sự thừa nhận của các cấp
chính quyền sẽ tạo ra điều kiện, cơ sở pháp lí trong việc tổ chức, phối hợp liên
kết các địa phương có HL đi qua. Sự quan tâm của các nhà đầu tư và dân
chúng sẽ tạo ra động lực, tiền đề để HL phát triển sinh động mang lại hiệu quả
cao về kinh tế - xã hội và môi trường.
Một HLKT muốn tồn tại và phát triển cần thu hút được sự quan tâm
của các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư, các doanh nghiệp là hạt nhân tạo dựng cơ
cấu kinh tế, hàng hóa của các địa phương trên HL. Sự quan tâm sẵn lòng đầu
tư và phát triển hoạt động của các nhà đầu tư/ các doanh nghiệp không những
đóng góp quan trọng vào việc tạo ra tăng trưởng kinh tế, gia tăng quy mô của
kinh tế và mức đóng góp của HL trong tổng GDP của địa phương có HL đi
qua mà còn tạo ra nhiều việc làm để giảm thất nghiệp, xóa đói nghèo. Sự quan
tâm của các nhà đầu tư - thể hiện cụ thể bằng việc đầu tư phát triển mạnh mẽ
của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh - là yếu tố cần thiết, thúc đẩy sự
hình thành và phát triển HLKT. Bởi các doanh nghiệp là tế bào cơ bản của
nền kinh tế quốc dân. Chúng quyết định chủ yếu đến kết quả và hiệu quả hoạt
động của nền kinh tế nói chung và của một HLKT nói riêng. Nó không những
trực tiếp tạo ra các sản phẩm đặc trưng của HL và quyết định tăng trưởng kinh
tế và phát triển kinh tế của HL mà còn giải quyết việc làm và nâng cao thu
nhập cho người lao động. Kết quả và hiệu quả kinh tế của một HL phần nhiều
chịu tác động bởi quyết định của các doanh nghiệp. Trên một HL có nhiều
doanh nghiệp và các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả thì chắc chắn HL sẽ có
tăng trưởng hiệu quả.
69
2.3.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả và vai trò của hành lang kinh tế
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong nhiều nghiên cứu về các hình thức TCLT kinh tế, các chuyên gia,
các nhà khoa học đã đề cập đến các tiêu chí đánh giá hiệu quả và vai trò của
các hình thức này đối với sự phát triển. Các tiêu chí được sử dụng phổ biến
nhất bao gồm: Tỉ lệ đóng góp vào tổng GDP của địa phương, tỉ lệ đóng góp
vào giá trị xuất khẩu, tỉ lệ đóng góp vào số việc làm trên địa bàn, hệ số tập
trung hóa, tổng doanh thu do các hình thức TCLT tạo ra, tỉ lệ tiết kiệm vốn lao
động do các hình thức TCLT tạo ra…Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên
cứu đi trước, vận dụng cơ sở lý luận về HLKT đã trình bày ở phần trên, đặc
biệt là cơ sở lý luận về vai trò và tác động của HLKT trong thời kỳ CNH,
HĐH, tác giả đề xuất cụ thể các tiêu chí đánh giá hiệu quả và vai trò của HLKT
trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam như sau:
2.3.2.1. Các tiêu chí đánh giá định tính
Vai trò và tác động của các vùng lãnh thổ nói chung và HLKT nói riêng
đối với nền kinh tế cả nước trước hết có thể được đánh giá thông qua các quan
hệ tỉ lệ và các liên hệ tương tác giữa các bộ phận lãnh thổ hợp thành hệ thống
kinh tế - xã hội lãnh thổ, tức là các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế lãnh thổ như:
- Các nguồn lực chủ yếu: các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, dân
số, lao động có kỹ thuật....
- Tiềm năng kinh tế và các đặc trưng kinh tế - xã hội khác: hệ thống kết
cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn, GDP, đóng góp cho ngân sách và
tăng trưởng kinh tế....
- Các mối liên hệ kinh tế, các luồng vật chất trao đổi giữa HL và các
lãnh thổ khác của nền kinh tế
- Các liên hệ văn hoá - xã hội khác.
70
Các HLKT chiếm tỉ trọng lớn, liên hệ kinh tế quan trọng sẽ có ý nghĩa
quan trọng chi phối sự phát triển của hệ thống kinh tế - xã hội lãnh thổ: một
sự thay đổi về quan hệ tỉ lệ hay liên hệ kinh tế của HLKT sẽ tạo ra các tác
động ảnh hưởng theo cấp số nhân tới nhiều vùng và toàn bộ nền kinh tế. Đó là
các tác động phân cực và tác động lan toả.
2.3.2.1. Các tiêu chí đánh giá định lượng
(i) Tỉ lệ đóng góp của hành lang kinh tế vào tổng giá trị sản xuất của các
địa phương có hành lang kinh tế đi qua (Tg)