
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ già hoá dân số với tốc độ ngày càng
nhanh, tỷ lệ người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên tăng từ 9,4% (năm 2010) lên 11,58% (năm
2015) và dự báo là 16,04% năm 2029; 20,41% tính đến năm 2039 (GSO, 2019). Bảo
hiểm xã hội (BHXH) tại Việt Nam, là hệ thống hưu trí mà quyền lợi hưu trí của những
người nghỉ hưu được chi trả từ nguồn đóng góp của chính họ khi còn đang làm việc
(PAYG1), đang có nguy cơ bị cạn kiệt nguồn chi trả và tài chính quỹ BHXH thiếu tính
bền vững. Sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt Nam chịu tác động
của rất nhiều nhân tố. Thứ nhất, tỷ lệ phụ thuộc dân số của hệ thống đang có xu hướng
gia tăng nhanh, đến năm 2020, vẫn còn gần 70% lực lượng lao động trong độ tuổi chưa
tiếp cận chính sách BHXH (ILO, 2022). Thứ hai, tỷ lệ đóng góp hiện tại thấp hơn so
với tỷ lệ chi trả BHXH (hay còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG) dẫn đến quỹ có thể bị cạn
kiệt; tỷ lệ số người đóng BHXH so với số người hưởng BHXH đang giảm dần, năm
2011, cứ 9,4 người tham gia đóng BHXH để chi trả cho 1 người hưởng thì đến năm
2016 giảm còn 8 người và đến năm 2020 tỷ lệ này tiếp tục giảm còn 7,8 người (ILO và
ILSSA, 2022). Thứ ba, tỷ lệ tham gia có xu hướng giảm xuống do (i) sự thu hẹp của
khu vực nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước; (ii) sự dịch chuyển của người
lao động (NLĐ) sắp xếp lại từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại không
tham gia BHXH, (iii) tỷ lệ tham gia của khu vực tư nhân còn quá thấp và (iv) sự gia
tăng của số người hưởng BHXH một lần ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực mở rộng
phạm vi bao phủ của BHXH, mặt khác tác động tiêu cực đối với NLĐ trong duy trì
nguồn thu nhập ổn định cuộc sống khi gặp phải những rủi ro, cú sốc như thất nghiệp,
tai nạn, ốm đau, tuổi già. Thứ tư, mức hưởng được chỉ số hoá theo mức lương tối thiểu
vẫn còn lớn, gắn liền với thời gian hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và tuổi
thọ có xu hướng tăng lên.
Phát triển hệ thống hưu trí nhằm hướng đến mục tiêu ổn định tài chính, duy trì
sự công bằng giữa các thế hệ trước sức ép dân số già hoá cũng là vấn đề của nhiều quốc
gia trên thế giới, điển hình như New Zealand, Ấn Độ,.. Qua nghiên cứu thực tiễn, mô
hình quỹ HTTN đang trở thành xu hướng chung và phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và kém phát triển, các quỹ HTTN đã và
đang khẳng định vai trò quan trọng của quỹ trong việc trở thành kênh cung cấp nguồn
trợ cấp hưu trí bổ sung cho NLĐ khi về hưu bên cạnh các kênh hỗ trợ tài chính hưu trí
khác. Tại Việt Nam, hệ thống hưu trí tự nguyện hiện nay có 2 mô hình chính gồm: quỹ
HTTN được quản lý bởi DN BHNT và quỹ HTTN được quản lý bởi doanh nghiệp quản
1 PAYG: hệ thống hưu trí mà quyền lợi hưu trí của những người nghỉ hưu được chi trả từ nguồn đóng góp của chính họ
khi còn đang làm việc.