BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Quan Văn Út
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỈNH BẠC LIÊU: TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh –2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Quan Văn Út
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỈNH BẠC LIÊU: TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành : Địa Lý Học : 60 31 05 01 Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH DUY OÁNH
Thành phố Hồ Chí Minh –2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận
văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Quan Văn Út
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành quyển luận văn này, ngoài những nổ lực hết mình của bản thân tác giả.
Bên cạnh đó, còn có sự giúp đỡ và hỗ trợ từ nhiều cá nhân, tập thể và các đơn vị, nhân đây
tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành của bản thân đến:
Lời đầu tiên, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS.
Trịnh Duy Oánh – Giảng viên trường Đại học Sài Gòn – Người hướng dẫn khoa học đã
nhiệt tình góp ý, chỉ bảo, chỉnh sửa và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tác giả trong suốt
quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Địa Lý, trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, cùng các thầy cô đã trực tiếp giảng dạy tác giả trong chương trình
sau đại học, đã nhiệt tình hướng dẫn, hỗ trợ và giúp đỡ, cũng như định hướng luận văn.
Xin cảm ơn Phòng sau đại học, thư viện nhà trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu, công trình
nghiên cứu của các cơ quan, đơn vị và các tác giả khác. Xin chân thành cảm ơn tất cả các
tác giả của các tài liệu tôi đã tham khảo. Bên cạnh đó, tôi vô cùng cảm kích và cảm ơn các
đơn vị: Cục thống kê Bạc Liêu; Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu; Sở Nông
nghiệp tỉnh Bạc Liêu; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bạc Liêu; Sở Kế hoạch và Đầu
tư tỉnh Bạc Liêu;… đã nhiệt tình cung cấp thông tin tư liệu và số liệu, tạo mọi điều kiện
giúp tác giả thu thập thông tin hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã giúp
đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn
Chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Quan Văn Út
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................................... 6
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 7
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 8
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8
4. Những công trình nghiên cứu liên quan ....................................................................... 9
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 10
6. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN 15
1.1. Một số quan niệm và khái niệm về biển .................................................................. 15
1.1.1. Biển và đại dương ................................................................................................. 15
1.1.2. Phạm vị không gian biển ....................................................................................... 17
1.1.3. Quan niệm về vùng ven biển ................................................................................. 17
1.2. Kinh tế biển ................................................................................................................ 19
1.2.1. Khái niệm kinh tế biển .......................................................................................... 19
1.2.2. Cơ cấu kinh tế biển ................................................................................................ 22
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển ............................................... 32
1.2.4. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến kinh tế biển và vùng ven biển ........................... 34
1.2.5. Tổ chức lãnh thổ (không gian) kinh tế biển .......................................................... 37
1.2.6. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế biển ........................................ 39
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển quốc gia và vùng .......................................... 40
1.3.1. Phát triển kinh tế biển Việt Nam ........................................................................... 40
1.3.2. Phát triển kinh tế biển vùng đồng bằng sông Cửu Long ....................................... 46
CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỈNH BẠC LIÊU ....................................................................................................... 51
2.1. Khái quát chung về tỉnh Bạc Liêu ............................................................................ 51
2.2. Tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu .................................................... 55
2.2.1. Tiềm năng về vị trí địa lí vùng biển và ven biển ................................................... 55
2.2.2. Tiềm năng về tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ................................................. 56
3
2.2.3. Tiềm năng về kinh tế - xã hội ................................................................................ 66
2.2.4. Đánh giá về điều kiện và tiềm năng phát triển ...................................................... 70
2.3. Thực trạng phát triển một số ngành kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu ........................... 72
2.3.1. Ngành thủy hải sản ................................................................................................ 72
2.3.2. Khai thác khoáng sản biển .................................................................................... 84
2.3.3. Ngành lâm nghiệp ................................................................................................. 88
2.3.4. Ngành dịch vụ, du lịch .......................................................................................... 90
2.3.5. Ngành giao thông vận tải biển............................................................................... 93
2.4. Vị trí kinh tế biển trong nền kinh tế tỉnh Bạc Liêu ................................................ 96
2.5. Một số vấn đề liên quan trong phát triển kinh tế biển và vùng ven biển tỉnh Bạc Liêu ..................................................................................................................................... 99
2.5.1. Vấn đề khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven biển .......................................... 99
2.5.2. Phòng chống thiên tài, bảo vệ môi trường biển và ven biển ................................. 99
2.5.3. Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển ..................... 100
2.5.4. Về bảo vệ an ninh – quốc phòng vùng biển ........................................................ 101
2.5.5. Vấn đề ứng phó với BĐKH tác động đến kinh tế biển và VBVBBL ................. 101
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỈNH BẠC LIÊU ..................................................................................................... 103
3.1. Cơ sở khoa học xây dựng định hướng và giải pháp ............................................. 103
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước ........................................................................... 103
3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam đến năm 2020 105
3.1.3. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của tỉnh Bạc Liêu ...................... 106
3.2. Các định hướng phát triển kinh tế biển chung ..................................................... 107
3.2.1. Tổ chức không gian phát triển kinh tế biển ......................................................... 107
3.2.2. Định hướng phát triển các ngành kinh tế biển .................................................... 108
3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực .................................................................................... 118
3.2.4. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và dân cư ven biển ............................ 118
3.2.5. Khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ............................................. 119
3.2.6. Xây dựng hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và dự báo phát triển kinh tế biển, vùng biển ven biển tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 ................................................................... 120
3.2.7. Quốc phòng, an ninh ........................................................................................... 120
3.3. Các giải pháp chủ yếu .............................................................................................. 121
3.3.1. Quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế biển .................... 121
3.3.2. Hoàn thiện chính sách và hệ thống quản lí và khai thác biển ............................. 121
3.3.3. Huy động nguồn vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh ................................................ 122
4
3.3.4. Về phát triển khoa học, công nghệ ...................................................................... 122
3.3.5. Xúc tiến đầu tư và mở rộng thị trường ................................................................ 123
3.3.6. Về môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu ................................. 124
3.3.7. Gắn phát triến kinh tế biển với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đảm bảo an sinh xã hội ............................................................................................................................. 125
3.4. Kiến nghị ................................................................................................................... 126
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 130
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 132
5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ viết đầy đủ
BĐKH Biến đổi khí hậu
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DWT Đơn vị đo năng lực vận tải an toàn của tàu thủy
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
EU Liên minh châu Âu
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NTTS Nuôi trồng thủy sản
QL1A Quốc lộ 1A
TP Thành phố
CTCN Chất thải công nghiệp
UBND Uỷ ban nhân dân
USAID Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
VBVBBL Các huyện thị ven biển Bạc Liêu
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi diện tích lục địa ngày càng thu hẹp, nguồn tài nguyên trên
lục địa đang bị khai thác một cách kiệt huệ, thì biển và đại dương chính là lối thoát cho bế
tắc về nơi sinh sống, nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu cho con người. Nhiều nhà kinh tế
học cho rằng “nền kinh tế tương lai của loài người trước hết là nền kinh tế gắn với biển”.
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là “Thế kỷ của đại dương”. Chính vì vậy mà ngày
nay, hầu như tất cả các quốc gia có biển (kể cả các quốc gia không có biển) cũng đều chú ý
đến việc nghiên cứu, khai thác nguồn lợi từ biển trong quá trình phát triển kinh tế đất nước,
nhằm hội nhập chung với xu hướng quốc tế.
Nằm trên bán đảo Đông Dương, rìa phía Tây của biển Đông, Việt Nam là một quốc gia biển. Vùng biển Việt Nam trên biển Đông rộng khoảng 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền. Bờ biển Việt Nam dài hơn 3260 km, trung bình 100 km2 đất liền thì có 1 km đường
bờ biển (cao gấp 6 lần tỉ lệ này của thế giới). Ven bờ biển có hơn 3000 đảo lớn nhỏ các loại, với tổng diện tích 1720 km2. Vùng biển Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển và là
địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng cả về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng. Với vị
trí chiến lược địa chính trị vô cùng quan trọng trong giao lưu và hợp tác quốc tế, thuận lợi
trong thu hút đầu tư. Các tài nguyên ở biển và ven biển khá phong phú và đa dạng. Trong đó,
một số tiềm năng lớn như dầu khí, hải sản, điều kiện xây dựng cảng, tài nguyên du lịch…là
những nguồn lợi quan trọng. Tất cả các yếu tố đó đã giúp cho Việt Nam có nhiều thế mạnh
để phát triển kinh tế biển. Đã từ bao đời nay, biển đã là cái nôi gắn bó mật thiết và chặt chẽ
với mọi hoạt động sống và sản xuất của dân tộc ta và ngay nay biển chính là động lực to lớn
thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước hội nhập quốc tế.
Bạc Liêu là tỉnh được tái thành lập từ tỉnh Minh Hải, chính thức thành lập vào ngày
01/01/2007. Vùng biển và ven biển tỉnh Bạc Liêu nằm trong khu vực bán đảo Cà Mau nối
liền với vịnh Thái Lan, tiếp giáp với vùng biển của nhiều nước Đông Nam Á có vị trí chiến
lược quan trọng trong phát triển kinh tế và củng cố an ninh quốc phòng. Bạc Liêu có bờ
biển dài 56 km từ xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu (giáp huyện Vĩnh Châu, Sóc
Trăng) đến thị trấn Gành Hào huyện Đông Hải (giáp tỉnh Cà Mau); nội thủy khoảng 3645 km2, vùng lãnh hải khoảng 1136 km2. Bạc Liêu có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển vì
nằm giữa hai vùng sinh thái mặn và ngọt. Trong Nghị quyết của tỉnh ủy đã xác định phát
7
triển kinh tế biển là trọng tâm của thế kỷ XXI, phấn đấu trong 10 năm tới tỉnh sẽ có thế
mạnh về kinh tế biển và làm giàu từ biển. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh nhiều năm qua
đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ, trong đó có sự đóng góp của các ngành kinh tế
biển và vùng ven biển. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế biển của tỉnh chỉ mới được khởi
động và còn nhiều vấn đề bất cập trong quá trình phát triển. Kinh tế biển trong cơ cấu kinh
tế của tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của biển. Nhận thức được tầm quan trọng
và vai trò của kinh tế biển tỉnh nhà trong tương lai, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Phát
triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu: Tiềm năng, thực trạng và giải pháp” nhằm góp phần nhỏ
những hiểu biết của tôi cho sự quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian
tới.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Vận dụng những cơ sở lý luận về biển và phát triển kinh tế biển trên thế giới và Việt
Nam vào nghiên cứu phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu, nhằm đạt những mục tiêu sau:
- Khảo sát và đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bạc Liêu.
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển các ngành kinh tế biển của tỉnh Bạc Liêu
giai đoạn 2002 – 2011.
- Đưa ra định hướng và những giải pháp phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu trong
thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan cơ sở lý luận và những nội dung có liên quan đến phát triển kinh tế biển
được đúc kết trên thế giới và Việt Nam.
- Thu thập thông tin, số liệu, tư liệu và khảo sát thực tế để đánh giá tiềm năng làm cơ
sở cho việc phân tích và đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bạc Liêu.
- Căn cứ vào những phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc
Liêu, tìm ra những hạn chế và bất cập trong phát triển chưa tương xứng với tiềm năng kinh
tế biển. Từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp tốt và khả thi.
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: được xác định là vùng biển và tiếp giáp với biển của tỉnh
Bạc Liêu bao gồm các đơn vị hành chính cấp huyện (TP): TP Bạc Liêu, huyện Hòa Bình,
huyện Đông Hải.
8
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu kinh tế biển của tỉnh Bạc
Liêu giai đoạn 2002 – 2011.
- Nội dung nghiên cứu: đánh giá tiềm năng và phân tích thực trạng khai thác tiềm
năng để phát triển các ngành kinh tế biển. Đánh giá những lợi thế so sánh về điều kiện phát
triển và những kết quả đạt được và những khó khăn hạn chế trong quá trình phát triển các
ngành kinh tế biển làm cơ sở cho xây dựng định hướng phát triển một số ngành kinh tế biển
mũi nhọn của tỉnh: ngành thủy sản, ngành du lịch, nghề muối biển, công nghiệp khai thác và
chế biến và các lĩnh vực liên quan.
4. Những công trình nghiên cứu liên quan
Kinh tế biển là một bộ phận có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế của các quốc
gia có biển, trong đó có Việt Nam, đồng thời là xu hướng phát triển của thời đại. Vì vậy,
kinh tế biển ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan nhưng chủ
yếu là mang tầm vĩ mô. Những công trình nghiên cứu này sẽ là cơ sở và tài liệu tham khảo
để tác giả hoàn thành đề tài này.
- Ở Việt Nam: Kinh tế biển đã được chính phủ xác định là chiến lược phát triển và
có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy, việc nghiên
cứu phát triển kinh tế biển những năm gần đây rất được chú trọng, có thể kể ra những công
trình nghiên cứu liên quan như: “Kinh tế biển và khoa học kỹ thuật về biển ở nước ta” của
Võ Nguyên Giáp; Nghiên cứu về “Địa lí biển Đông” của Nguyễn Văn Âu; “Tìm hiểu về
nguồn lợi sinh vật biển Đông” của Vũ Trọng Tạng … Hoặc các nghiên cứu mang tính chất
ngành kinh tế biển có thể kể đến “Biển và cảng biển thế giới” của Phạm Văn Giáp; “Rừng -
biển và kinh tế thủy sản” của Quang Luyện …
Ở nghiên cứu cấp quốc gia có thể kể đến các đề tài, công trình nghiên cứu có ý nghĩa
quan trọng như “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển và các hải đảo Việt Nam đến
năm 2010” của Viện Chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đề tài này đánh giá
các nguồn lực và thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 1995 và đưa ra
phương hướng, giải pháp quy hoạch phát triển cho từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế biển và
tổ chức không gian kinh tế biển đến năm 2010. Thứ hai là đề tài “Cơ sở khoa học cho việc
phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một số
khu vực trọng điểm”, cũng của Viện Chiến lược phát triển, năm 2004. Đề tài này cũng phân
tích vai trò, vị trí, nguồn lực và thực trạng phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển Việt Nam,
9
từ đó đưa ra các phương hướng, giải pháp và các mô hình phát triển điển hình cho các vùng
trọng điểm của dải ven biển nước ta đến năm 2015, tầm nhìn 2020. Thứ ba là “Hội thảo
phát triển kinh tế biển ở Việt Nam”, được tổ chức từ năm 2000 với rất nhiều bài tham luận
của các tác giả là lãnh đạo các cấp, các ngành và các nhà nghiên cứu trong cả nước đã trình
bày rất nhiều vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế biển Việt Nam với nhiều quan điểm và
hướng tiếp cận khác nhau. Thứ tư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam tổ chức hội thảo “Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy
sản Việt Nam”, năm 2007. Trong kỷ yếu hội thảo này tập trung nhiều ý kiến phân tích, đóng
góp của các tác giả đối với phát triển kinh tế biển, tổ chức không gian và tập trung phân tích
các định hướng và giải pháp phát triển ngành thủy sản.
Về phía Chính phủ cũng đã ban hành nhiều nghị quyết và chỉ thị liên quan đến phát
triển kinh tế biển của đất nước như: Ngày 06/05/1995 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 03-
NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt; Ngày
22/09/1997 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X đã thông qua Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020,
phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển…
- Đối với tỉnh Bạc Liêu: Kinh tế biển đã được xác định là lợi thế và mục tiêu phát
triển của tỉnh nhà. Năm 2008, UBND tỉnh Bạc Liêu đã ban hành “Đề án phát triển kinh tế
biển tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020”. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy cũng đã ban hành “chương trình
số 23”, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành “Nghị quyết số 04”, tất cả các văn bản nhằm cụ
thể hóa Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và cũng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế
biển và vùng ven biển Bạc Liêu.
Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu tham khảo rất hữu ích và có giá trị cho
việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài của tác giả. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về
kinh tế biển còn rất ít, đặc biệt là kinh tế biển Bạc Liêu vẫn chưa có đề tài nào được thực
hiện.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
5.1.1. Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
10
Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin là
phương pháp luận khoa học. Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế biển cần có sự xem xét trong sự phát triển của lĩnh vực khoa học này với sự
phát triển của các lĩnh vực khoa học. Từ đó, xem xét các lĩnh vực này có liên quan trong sự
vận động, phát triển kinh tế - xã hội theo những quy luật khách quan và trong mối quan hệ
biện chứng qua lại, gắn kết chặt chẽ với nhau.
5.1.2. Quan điểm hệ thống
Địa lý kinh tế học nghiên cứu tổng hợp thể lãnh thổ sản xuất trong một hệ thống, các
mối quan hệ tác động qua lại với môi trường xung quanh. Quan niệm hệ thống được sử
dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Trước hết, kinh tế biển là một bộ phận của nền
kinh tế nói chung, nó có quan hệ với nhiều ngành khoa học khác. Mặt khác, bản thân kinh tế
biển cũng bao gồm nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau hợp thành và trong nội bộ
của nó cũng có sự liên kết và gắn bó chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Bên cạnh đó, kinh tế biển
chỉ phát triển khi có sự gắn kết giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế chung lại với nhau
thành một hệ thống thống nhất. Vì vậy, khi nghiên cứu chúng ta phải đặt vấn đề phát triển
trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại của các yếu tố tạo thành một hệ thống hoàn
chỉnh, phải coi việc phát triển kinh tế biển như là một hệ thống thành phần nằm trong hệ
thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển.
5.1.3. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Trong thực tế, các sự vật và hiện tượng luôn luôn có sự phân hóa theo không gian làm
cho chúng có sự khác biệt nhau giữa khu vực này và khu vực khác. Nghiên cứu kinh tế biển
tỉnh Bạc Liêu cũng vậy, cần chú ý mối quan hê liên ngành và mối quan hệ không gian tổ
chức của các ngành kinh tế biển để có sự phát triển đồng bộ. Bên cạnh đó, việc phát triển
kinh tế biển của tỉnh Bạc Liêu cũng không thể tách rời vấn đề phát triển kinh tế biển của
vùng đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước.
5.1.4. Quan điển lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật không ngừng vận động và biến đổi. Sự phát triển kinh tế - xã hội và kinh tế
biển trong quá khứ, hiện tại có ảnh hưởng lớn đến kinh tế - xã hội và kinh tế biển trong
tương lai. Trong từng giai đoạn khác nhau, có thể ngành kinh tế biển này giữ vai trò chủ đạo
nhưng trong giai đoạn khác ngành kinh tế biển khác đóng vai trò quyết định sự phát triển
kinh tế biển nói riêng và kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung. Do đó, nghiên cứu kinh tế biển
phải đặc biệt chú ý mối quan hệ quá khứ - hiện tại để có cơ sở vững chắc để định hướng cho
11
tương lai, làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo tính logic,
khoa học và chính xác khi nghiên cứu.
5.1.5. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Nghiên cứu vấn đề biển phải dựa trên quan niệm sinh thái và phát triển bền vững.
Nguồn tài nguyên biển như hải sản, các tài nguyên du lịch biển, rừng,... không phải là vô
tận. Phát triển kinh tế biển phải đi đôi với sử dụng hợp lý kết hợp với bảo vệ và tái tạo tài
nguyên, chống gây ô nhiễm môi trường, có sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người không chỉ trong
hiện tại mà phải không làm ảnh hưởng đến thế hệ tương lai.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Để hoàn thành luận vặn tốt nghiệp này, tác giả phải thu thập nguồn tài liệu, số liệu từ
nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, tạp chí, báo cáo, văn kiện, cơ sở dữ liệu của các
ngành, các cấp,… có liên quan. Nguồn tư liệu thu thập được rất nhiều và đa dạng nên khi sử
dụng vào luận văn phải có tính chọn lọc các tư liệu phù hợp với mục đích và nội dung
nghiên cứu. Đồng thời, tác giả phải thường xuyên cập nhật thông tin, tư liệu mới để tăng
tính thực tế khách quan và hiệu quả nghiên cứu của đề tài.
5.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, sau khi thu thập tài liệu việc vận dụng phương pháp
phân tích tổng hợp một cách thuần thục sẽ mang lại nhiều lợi ích và hiệu quả thiết thực cho
đề tài. Vì việc dựa trên phân tích tài liệu đã có cũng như thực tế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn
toàn diện và khách quan về vấn đề nghiên cứu. Sau khi phân tích tài liệu, chúng ta rút ra
được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất và khái quát nhất, nhằm đáp ứng được
những nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài đã đặt ra.
5.2.3. Phương pháp khảo sát thực địa
Thực địa là phương pháp truyền thống và rất quan trọng trong nghiên cứu địa lí. Trong
quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, độ tin
cậy giữa lý thuyết từ các nguồn tài liệu đã thu thập được và thực tế. Từ đó, giúp tác giả có
cái nhìn khách quan hơn về vấn đề nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và điều
kiện cho phép, tác giả đã tiến hành thực địa, thực hiện các phương pháp quan sát, mô tả, ghi
chép sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển trên địa bàn 3 huyện có biển của
tỉnh Bạc Liêu.
12
5.2.4. Phương pháp biểu đồ - bản đồ
Phương pháp biểu đồ - bản đồ là phương pháp đặc thù của khoa học địa lí, bởi vì mọi
nghiên cứu địa lí kinh tế - xã hội đều có sử dụng phương pháp này. Ý nghĩa to lớn của nó là
góp phần giải quyết nhiều nội dung nghiên cứu như đánh giá các nguồn lực, phân tích thực
trạng theo ngành và theo lãnh thổ. Biểu đồ - bản đồ là cơ sở thể hiện một cách trực quan,
khoa học mối quan hệ về thời gian, không gian, sự thay đổi và phát triển của các đối tượng
và yếu tố liên quan trong phát triển kinh tế biển. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn
đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Ngày nay, bản đồ được hoàn thiện
và đem lại hiệu quả cao trong nghiên cứu nhờ kỹ thuật viễn thám và hệ thống thông tin địa lí
(GIS).
5.2.5. Phương pháp toán học
Phương pháp toán học rất quan trọng, vì trên cơ sở thu thập được những số liệu liên
quan đến nội dung nghiên cứu, chúng ta phải xử lý số liệu thông qua tính toán, so sánh…
Từ đó, rút ra được những đặc điểm về tình hình phát triển kinh tế biển của tỉnh thông qua
các số liệu thống kê, cũng nhờ đó mà chúng ta có thể nhìn nhận và đánh giá chính xác mối
quan hệ giữa kinh tế biển và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu.
5.2.6. Phương pháp sử dụng hệ thông tin địa lí
Hệ thống thông tin địa lí (GIS) là hệ thống đa dạng dùng để lưu trữ, xử lý, phân tích,
tổng hợp, điều hành và quản lý những dữ liệu không gian. Đồng thời cho phép lấy và trình
bày thông tin dưới dạng dễ tiếp nhận, trao đổi và sử dụng. Các phần mềm và ứng dụng GIS là
công cụ đắc lực cho việc số hóa bản đồ, xây dựng các lớp dữ liệu thuộc tính và không gian,
thành lập các bản đồ chuyên đề phù hợp với việc thể hiện các nguồn lực phát triển, thực trạng
phát triển các ngành và định hướng phát triển các ngành kinh tế biển của tỉnh Bạc Liêu trong
hiện tại và tương lai.
5.2.7. Phương pháp dự báo
Phương pháp dự báo được sử dụng dựa trên cơ sở xem xét, tính toán từ các số liệu và
nguồn tư liệu đã thu thập được và sự phát triển có tính quy luật của các sự vật và hiện tương
phát triển kinh tế biển của tỉnh trong quá khứ đến hiện tại và dự báo cho tương lai.
6. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn được chia làm 3 phần:
13
Phần mở đầu
Phần nội dung: Bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về biển và phát triển kinh tế biển
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu
Phần kết luận
14
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ BIỂN
1.1. Một số quan niệm và khái niệm về biển
1.1.1. Biển và đại dương
Trái đất là một hành tinh nước, vì biển và các đại dương chiếm khoảng 71% diện tích
bề mặt của nó. Biển và đại dương đã được các nhà khoa học công nhận là cội nguồn của sự
sống trên Trái đất, bởi lẽ biển và đại dương có nhiều chức năng quan trọng liên quan tới sự
sống trên Trái đất. Như đã biết, biển và đại dương chứa đựng nhiều hệ thống tự nhiên ở
những cấp độ và qui mô khác nhau. Vì vậy, hiểu biết chính xác khái niệm về chúng giúp các
nhà nghiên cứu và quản lý biết đúng đối tượng nghiên cứu và quản lý của mình ngay từ khi
bắt đầu công việc.
Theo sự tưởng tượng của người Babylon và người Ai Cập cổ thì tên gọi “đại dương”
bắt nguồn từ tên riêng của con sông thần thoại Okêan. Con sông này bao quanh các vùng đất
nổi mà hình dạng như một cái dĩa bằng phẳng. Tuy nhiên, với sự phát triển của ngành hàng
hải dần dần cho thấy rằng, rõ ràng “đại dương” không phải là một con sông bao quanh các
lục địa mà đó chính là biển. Ngày nay, đã có sự phân biệt và cách hiểu rõ ràng về biển và
đại dương. Để hiểu rõ hơn vấn đề trước hết ta cần biết về khái niệm thủy vực.
Thủy vực (water - body) là một vùng trũng bất kỳ trên bề mặt Trái đất có chứa nước
thường xuyên bất kể nước ngọt, nước lợ hoặc nước mặn, với các hình thái và qui mô khác
nhau.
Đại dương thế giới (word ocean) là toàn bộ các thủy vực có chứa nước mặn của Trái
đất và không phân biệt ranh giới. Như vậy, trên hành tinh chúng ta chỉ tồn tại một đại dương
thế giới.
Đại dương (ocean) là những thủy vực nước mặn có qui mô lớn trong đại dương thế
giới. Nó cũng là những bộ phận quan trọng của đại dương thế giới và được phân định tương
đối bởi ranh giới “nhân tạo”. Thông thường, ranh giới về phía lục địa của đại dương được
phân định với các vùng biển phía trong bởi các hệ thống đảo, tương ứng với các đới phá hủy
cấu trúc địa chất của rìa lục địa ở phía dưới.
Trước kia, dựa vào truyền thuyết người ta đã chia ra thành 7 đại dương là: Bắc Băng
Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Đại Tây Dương, Nam Đại Tây Dương, Bắc Thái Bình Dương,
15
Nam Thái Bình Dương và Đại Dương Nam Cực. Đến năm 1845, tên của 3 đại dương: Đại
Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương mới được thừa nhận chính thức. Đến nay,
người ta chia ra và thừa nhận 4 đại dương chính: Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ
Dương và Bắc Băng Dương.
Biển (sea) là một loại hình thủy vực nước mặn của đại dương thế giới, nằm sát các đại
lục và ngăn cách với đại dương ở phía ngoài bởi hệ thống đảo, bán đảo và ở phía trong bởi
bờ lục địa (còn gọi là bờ biển - shoreline). Do nằm sát lục địa và chịu ảnh hưởng của các
quá trình lục địa (chủ yếu thông qua hệ thống sông ngòi), nước biển thường có thành phần
và tính chất khác với nước đại dương. Cho nên trong các văn liệu, người ta còn gọi chúng là
các biển rìa (marginal sea).
Theo thuật ngữ Địa lí (Nguyễn Dược - Nguyễn Trung Hải, NXBGD - 2001) đã đưa ra
khái niệm biển như sau: “Biển là bộ phận của đại dương, nằm gần hoặc xa đất liền nhưng có
những đặc điểm riêng khác với vùng nước của đại dương bao quanh (như nhiệt độ, độ mặn,
chế độ thủy văn, các vật liệu trầm tích đáy, các sinh vật…)”.
Ngày nay, theo cách hiểu thông thường có thể thấy biển là một bộ phận biệt lập của
đại dương, nó được phân biệt bởi những đặc điểm tự nhiên, chủ yếu là bởi những đặc điểm
thủy văn và khí hậu. Biển có thể nằm giữa hai lục địa, ăn sâu vào lục địa hoặc tách ra khỏi
đại dương bởi các bán đảo, đảo và địa hình ngầm.
Điểm khác nhau cơ bản giữa biển và đại dương là kích thước, biển thì nhỏ hơn đại
dương. Biển thường là phần mở rộng của đại dương và là phần nối của đại dương và đất liền,
khi biển rời xa hẳn khỏi đất liền thì lúc đó người ta gọi là đại dương.
Tùy thuộc vào đặc tính của sự tiếp xúc giữa lục địa và đại dương, các biển được phân
chia thành ba nhóm:
- Các biển trong lục địa: các biển này ăn sâu vào trong lục địa, nằm ở thềm lục địa và
có độ sâu không lớn.
- Các biển rìa lục địa: các biển này được tách ra khỏi đại dương bởi các quần đảo hay
bán đảo, được nối với các đại dương trên những tuyến rộng. Các biển này được bố trí hoặc
là ở thềm lục địa với độ sâu nhỏ, hoặc là ở sườn lục địa với sự tăng nhanh đến độ sâu của
đại dương.
- Các biển giữa các lục địa: các biển này được bố trí giữa hai lục địa. Cần chú ý rằng
các biển giữa các lục địa nằm ở các vòng đai đứt gãy của vỏ Trái đất, cho nên những nét đặc
16
trưng của các biển này là sự chia cắt mạnh mẽ của đường bờ, sự chênh lệch rõ rệt của độ
sâu, hoạt động địa chấn và hoạt động núi lửa mạnh mẽ.
Như vậy, dù có nhiều cách hiểu dựa trên quan điểm tiếp cận về biển và đại dương khác
nhau nhưng nó vẫn là khối nước khổng lồ bao quanh các lục địa. Ngày nay, biển và đại
dương cung cấp cho con người một kho tàng khổng lồ về thực phẩm, khí đốt, hóa chất, vật
liệu, điều hòa môi trường, phát triển du lịch và giải trí là nền tảng để phát triển kinh tế - xã
hội và tạo dựng nền văn minh cho loài người.
1.1.2. Phạm vị không gian biển
Năm 1973, Hội nghị Liên hợp quốc lần thứ 3 về Luật biển (Third United Nations
Conference on the Law of the Sea) được tổ chức tại New York, với hơn 160 nước tham gia.
Cuối cùng một Công ước về luật biển hay Hiệp ước về luật biển được hình thành, sau nhiều
lần chỉnh sửa cho đến năm 1982. Kết quả là một công ước có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11
năm 1994. Nội dung Công ước bao gồm một loạt điều khoản. Những điều khoản quan trọng
nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và
các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng
lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn
xếp các tranh chấp. Công ước đặt ra giới hạn cho các khu vực, tính từ đường cơ sở (baseline)
được định nghĩa rõ ràng, bao gồm các bộ phận:
- Nội thủy
- Lãnh hải
- Vùng tiếp giáp lãnh hải
- Vùng đặc quyền kinh tế
- Thềm lục địa
Ngoài ra, còn có vùng biển quốc tế (vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế của
các quốc gia ven biển). Ở vùng biển quốc tế, các quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, tự
do hàng không, đặt dây cáp và ống ngầm, đánh bắt cá, nghiên cứu khoa học... nhưng phải
tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như tuân thủ các quy định có liên quan đến
công ước Luật biển năm 1982.
1.1.3. Quan niệm về vùng ven biển
Vùng ven biển (hay còn gọi là dải ven biển, đới bờ, dải ven bờ, hoặc dải bờ biển…) là
một thực thể tự nhiên hoàn chỉnh cấp hành tinh, có đặc trưng riêng về nguồn gốc phát sinh,
17
về hình thái, cấu trúc, về cơ cấu tài nguyên và quá trình phát triển, tiến hóa… Mặc dù đã
được nghiên cứu từ lâu nhưng cho đến nay, khái niệm về vùng ven biển vẫn còn chưa được
thống nhất, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học cả trong khoa học tự nhiên và trong
khoa học kinh tế. Theo các tài liệu nước ngoài, có các thuật ngữ sau:
- Nga: Vùng duyên hải
- Pháp: Vùng ven biển (Littoral hoặc Côte).
- Anh: Vùng ven biển (Coastal zone)
- Trung Quốc: Vùng diên hải hay Vùng duyên hải.
Như vậy, quan niệm việc phân định và tiêu chí để xác định ranh giới vùng ven biển
của mỗi nước cũng khác nhau. Dưới đây là một số khái niệm về vùng ven biển được chọn
lọc từ nhiều quốc gia và từng lĩnh vực khoa học cụ thể.
Trong “Từ điển bách khoa các thuật ngữ Địa lí tự nhiên (bốn thứ tiếng Nga, Anh,
Pháp, Đức)” – NXB Tiến bộ, Maxcơva 1980, vùng ven biển được định nghĩa như sau:
“Vùng ven biển là dải ranh giới giữa đất liền và biển, đặc trưng bởi sự có mặt phổ biến của
các dạng địa hình bờ biển cổ và hiện đại. Ở dạng đầy đủ hơn, bao gồm khái niệm vùng
duyên hải – là dải lục địa có các thềm biển cổ, dải bờ - nơi có các dạng bờ hiện đại, và ven
bờ biển hoặc là nơi có các dạng bờ cổ bị chìm ngập”. Định nghĩa này phù hợp với nghiên
cứu môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nhưng hạn chế khi nghiên cứu về địa lí, nhân
khẩu học và kinh tế học, không nêu được những ảnh hưởng của biển đến các hoạt động kinh
tế biển.
Tại Hội thảo Khoa học quốc gia “Nghiên cứu và quản lý vùng ven biển Việt Nam” tháng
12 năm 1992, Giáo sư Joe Baker của viện khoa học biển Autralia đã đưa ra định nghĩa: “Vùng
ven biển là vùng đất – biển kéo dài từ giới hạn phía trên của lưu vực các con sông, suối…
chảy vào biển, tới giới hạn ảnh hưởng của lục địa”. Định nghĩa này đề cập đến tương tác biển
và lục địa nhưng vẫn còn hạn chế khi nghiên cứu về các tác động kinh tế - xã hội trong quá
trình khai thác lợi thế của biển.
Trong nghiên cứu hỗ trợ cho lĩnh vực môi trường ở Việt Nam, Tổ chức bảo tồn thiên
nhiên Quốc tế IUCN cho rằng: “Việc xác định thế nào là vùng ven biển rất khó, song có thể
nói đó là vùng tính sâu vào nội địa tới điểm ảnh hưởng của thủy triều lên các con sông, suối
và các vùng đất ngập nước, hoặc tính sâu vào nội địa 10 km, tùy theo khoảng cách nào lớn
hơn”. Định nghĩa này tương đối phù hợp với hướng nghiên cứu những vấn đề về điều kiện tự
nhiên và tài nguyên vùng ven biển. Song, đối với nghiên cứu vấn đề về dân cư, kinh tế - xã
18
hội của lãnh thổ này lại gặp nhiều khóa khăn trong việc thu thập và tính toán các số liệu thống
kê.
Trong báo cáo khoa học của Ủy ban Quốc gia về biển của Việt Nam (IOC), GS. TSKH
Đặng Ngọc Thanh, chủ nhiệm các Chương trình điều tra nghiên cứu biển của Việt Nam từ
năm 1997 - 2000 đã đưa ra khái niệm vùng ven biển như sau: “Vùng ven biển Việt Nam chạy
dài trên 3200 km bờ biển của đất nước, bao gồm 24 trên 50 tỉnh và thành phố, 100/400 huyện
với số dân chiếm ¼ dân số cả nước…”. Với cách hiểu như trên thì vùng ven biển nước ta
được xác định bởi ranh giới hành chính các huyện có bờ biển, điều này thuận lợi cho thu thập
tài liệu, số liệu cho các nghiên cứu về kinh tế - xã hội và dân cư.
Khi phân tích các tác động kinh tế - xã hội và môi trường của phần lãnh thổ sát biển với
các vùng bị nhiễm mặn cho thấy các hoạt động kinh tế - xã hội của dân cư mang những sắc
thái đặc thù gắn với nguồn lợi ven biển. Quá trình khai thác thềm lục địa, phát triển các lĩnh
vực kinh tế hướng tới mở rộng kinh tế đối ngoại qua đường hàng hải của dân cư các quốc gia
có biển cho thấy các định nghĩa chung về vùng ven biển phải đề cập không chỉ đến những tiêu
chí khách quan về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên vùng ven biển, mà còn phải
phản ánh được các vấn đề về dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội. Đồng thời, phải tuân
thủ những điều luật quốc tế và quốc gia về xác định chủ quyền, ranh giới và các vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia trên biển. Như vậy, có thể phân định vùng ven biển là toàn bộ đất
liền ven biển và các hải đảo trên phần biển hải phận và vùng đặc quyền kinh tế của một quốc
gia. Đó là không gian để bố trí các hoạt động kinh tế - xã hội hướng biển.
Tóm lại, vùng ven biển là vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển. Vùng ven biển ngày
càng giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, và hội nhập quốc tế
của quốc gia trên biển. Thực tiễn phát triển kinh tế biển nước ta cho thấy, vùng ven biển bao
gồm dải các đơn vị hành chính lãnh thổ có biển, vùng đảo và nội thủy thuộc đơn vị hành
chính quản lí tương ứng và có mối liên hệ không gian như mạng lưới giao thông, thông tin
liên lạc, các cảng biển, đồng thời là cơ sở hậu cần cho quản lí và khai thác các đảo - quần đảo
xa bờ và ngoài khơi.
1.2. Kinh tế biển
1.2.1. Khái niệm kinh tế biển
Kinh tế biển là một bộ phận của nền kinh tế chung, các ngành kinh tế biển ngày càng
có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người. Cho đến nay, việc xác định
19
khái niệm và nội dung kinh tế biển vẫn là vấn đề nhiều tranh cãi. Hiện nay, có nhiều quan
niệm khác nhau về kinh tế biển, tùy theo hướng tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu của các tác
giả, dưới đây là một số quan niệm về kinh tế biển:
Theo Giáo sư Nguyễn Văn Hường (Tạp chí hoạt động khoa học kỹ thuật – số 5 năm
1996) đã viết: “Kinh tế biển là một lĩnh vực bao trùm gồm nhiều ngành hoạt động liên quan
đến biển như: thủy sản, du lịch, giao thông vận tải, dầu khí,… nhằm khai thác toàn bộ lợi
ích mà biển có thể mang lại để phát triển đất nước”.
Hiện nay thế giới thống nhất kinh tế biển là nền kinh tế tổng thành của các ngành công
nghiệp do môi trường biển đem lại. Môi trường biển được định nghĩa là những vùng biển có
chủ quyền: mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế. Môi trường biển là một chức
năng gồm cả công nghiệp và địa lí. Ngày nay, khi xem xét kinh tế biển, người ta thường đề cập
đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ cần thiết, để có một khái niệm mang tính quy ước khi
phân tích.
Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa hẹp: “Kinh tế biển bao gồm toàn bộ hoạt động kinh
tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); hải
sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); khai thác dầu khí ngoài khơi; du lịch biển; làm muối;
dịch vụ tiềm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; kinh tế đảo”.
Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa rộng (quan niệm hiện nay thường dùng trong phân
tích kinh tế biển): “Bao gồm cả các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển kể trên và các hoạt
động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: đóng
và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải);
công nghiệp chế biến dầu, khí; công nghiệp chế biến thủy, hải sản; cung cấp dịch vụ biển;
thông tin liên lạc (biển); nghiên cứu khoa học – công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ
phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên biển – môi trường biển”.
Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa rộng cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ
trong thống kê hàng năm về kinh tế biển của Trung Quốc cũng bao gồm: hàng hải, khai thác
dầu và khí thiên nhiên ngoài khơi, các bãi biển, công nghiệp muối, đóng tàu biển, viễn
thông và vận tải biển, du lịch biển, giáo dục và khoa học biển,… Như vậy, quan niệm kinh
tế biển theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng đã chỉ ra các ngành nghề, các hoạt động của kinh
tế biển.
Từ các quan niệm về kinh tế biển như đã nêu cho chúng ta thấy đặc điểm của kinh tế
biển khác so với một số lĩnh vực kinh tế khác đó là:
20
- Kinh tế biển là một lĩnh vực kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực. Bao gồm nhiều ngành,
nghề khác nhau, có quan hệ và tác động lẫn nhau.
- Quá trình phát triển của kinh tế biển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện về vị trí địa
lí, tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển, các nhân tố khí hậu… Kinh tế biển chịu sự
tác động rất lớn của thiên nhiên, bão lũ…
- Kinh tế biển phát triển chủ yếu nhờ vào việc khai thác tài nguyên, khoáng sản là
chính. Ví dụ như khai thác dầu khí, đánh bắt thủy sản, du lịch,…
- Kinh tế biển là lĩnh vực kinh tế mà ở đó mọi hoạt động chủ yếu diễn ra trên biển và
ven biển. Do vậy, tác động rất lớn đến môi trường sinh thái biển.
- Trong kinh tế biển các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò đầu tàu trong một số ngành
trọng yếu của kinh tế biển như tìm kiếm, khai thác, chế biến dầu khí; khai thác khoáng sản
biển và ven biển; cảng biển… Với vốn đầu tư lớn, sử dụng lao động và công nghệ chất lượng
cao, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, nhiệm vụ mở đường, hỗ trợ cho các ngành kinh tế
phát triển, khai thác có hiệu quả tài nguyên biển.
- Hoạt động kinh tế biển mang tính liên vùng, biểu hiện thông qua vận tải biển, khai
thác đánh bắt thủy sản… không chỉ dừng lại trong phạm vi vùng biển của địa phương mà
diễn ra trên phạm vi thềm lục địa thuộc chủ quyền quốc gia có biển.
Mối quan hệ kinh tế biển và kinh tế vùng ven biển:
Trong đề án: “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và các hải
đảo Việt Nam đến năm 2010” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì (1995 – 1996), các tác giả
cho rằng: “Kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và
các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển, trong đó biển chủ yếu đóng vai trò vùng
khai thác nguyên liệu, là môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch biển,… còn toàn bộ
các hoạt động sản xuất và phục vụ khai thác biển lại nằm trên dải đất liền ven biển. Do vậy,
khi nói đến kinh tế biển không thể tách vùng biển với vùng ven biển và ngược lại”. Khái
niệm này đã chỉ ra các hoạt động kinh tế biển và không gian của kinh tế biển bao gồm cả hai
bộ phận là không gian biển và không gian dải đất liền ven biển. Như vậy trong phát triển
kinh tế biển không thể tách rời với vùng ven biển, việc tách rời kinh tế biển và vùng ven
biển thành hai lĩnh vực riêng biệt là vô cùng khó khăn trong phát triển. Có thể hiểu đơn giản
như các khái niệm trên, môi trường biển cung cấp nguyên liệu và là môi trường cho một số
ngành gắn trực tiếp với biển phát triển như hàng hải và du lịch trên biển đảo, nhưng các hoạt
động sản xuất, phục vụ khai thác, dịch vụ hỗ trợ cho các ngành trên phát triển đều nằm trên
21
dải đất liền ven biển. Bên cạnh đó có nhiều ngành có lien quan gián tiếp đến biển như đóng
tàu, lọc dầu, ….
Tóm lại, kinh tế biển và kinh tế ven biển không thể hoàn toàn tách biệt nhau, có chăng
thì sự khác nhau cơ bản của hai khái niệm này chính là về không gian phát triển, từ đó sẽ có
cơ cấu ngành kinh tế khác nhau, sẽ có những ngành chung của hai lĩnh vực này và có những
ngành mang tính đặc thù của một không gian nhất định.
Theo đó, đối với lãnh thổ Việt Nam, kinh tế biển và vùng ven biển là các hoạt động
kinh tế ở dải ven biển, có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hoặc
cũng có thể là các tỉnh ven biển – có biên giới đất liền tiếp giáp với biển, bao gồm các các
lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên phạm vi địa bàn lãnh thổ này.
1.2.2. Cơ cấu kinh tế biển
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có mối quan hệ hữu cơ
tương đối ổn định hợp thành. Từ định nghĩa này có thể nhấn mạnh đến hai nội dung chủ yếu:
thứ nhất, đó là tổng thể các bộ phận (thành phần) hợp thành; thứ hai, chúng có mối quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định. Cơ cấu nền kinh tế có 3 bộ phận hợp thành: cơ cấu ngành kinh tế,
cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ kinh tế.
Đối với cơ cấu kinh tế biển, từ nhiều nghiên cứu quốc tế về biển đã đi đến tổng kết cấu
trúc kinh tế biển thường người ta phân chia chủ yếu theo cơ cấu ngành kinh tế biển và phân
chia cơ cấu lãnh thổ (không gian) kinh tế biển.
1.2.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế biển
Cơ cấu ngành (lĩnh vực) kinh tế là một bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế quốc
dân. Đây là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của nền kinh tế được sắp xếp theo một tương
quan tỉ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu ngành thể hiện số lượng, tỉ trọng của các ngành
(lĩnh vực) tạo nên nền kinh tế và giữa chúng có mối quan hệ tương quan, thể hiện trình độ
phát triển của nền kinh tế.
Có rất nhiều ngành tạo thành nền kinh tế. Về đại thể, chúng được phân thành ba nhóm
ngành sau đây: Khu vực 1 bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; Khu vực 2 bao
gồm công nghiệp và xây dựng; Khu vực 3 là dịch vụ. Cần chú ý thêm, trong nền kinh tế có
cơ cấu ngành thì trong bản thân từng ngành cũng tồn tại cơ cấu đó. Chẳng hạn, cơ cấu
ngành của ngư nghiệp là tương quan tỷ trọng giữa đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản,…
22
Cơ cấu kinh tế biển ngày nay được các nhà khoa học về biển trong nhiều đề tài khác
nhau đã coi kinh tế biển là một bộ phận của nền kinh tế chung của các quốc gia, vùng lãnh
thổ có biển. Đồng thời, bản thân kinh tế biển là một ngành kinh tế tổng hợp gồm nhiều bộ
phận cấu thành và giữa các bộ phận đó có mối quan hệ tương quan chặt chẽ với nhau.
Xét về cơ cấu ngành kinh tế biển có rất nhiều cách phân chia khác nhau nhưng nhìn
chung nội dung thì tương tự nhau, tùy theo cách sắp xếp các nhóm ngành. Các nhóm ngành
chính của kinh tế biển bao gồm: 1. Kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); 2.
Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. Khai thác dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển;
5. Làm muối.
Hiện nay, tùy theo tiềm năng và thế mạnh của từng quốc gia, khu vực có biển có thể
bổ sung thêm các ngành kinh tế biển khác như ngành kinh tế đảo, ngành kinh tế lấn biển.
Những ngành này chủ yếu đáp ứng cho nhu cầu về du lịch và tạo thêm nhiều diện tích cư trú
thêm cho loài người trên Trái đất.
Cơ cấu ngành kinh tế biển thể hiện trình độ sự phân công lao động xã hội của kinh tế
biển, đồng thời thể hiện trình độ phát triển về kinh tế biển của các quốc gia, vùng lãnh thổ
có biển trên cơ sở phát triển mạnh các ngành thiên về khai thác tài nguyên hay các ngành
thiên về yếu tố khoa học, kỹ thuật. Nhìn chung, các ngành kinh tế biển nói chung đã có sự
phát triển mạnh mẽ qua các giai đoạn cho đến nay.
Kinh tế hàng hải: Ngành hàng hải ra đời, biển chẳng những là cầu nối giữa các
châu lục, các quốc gia mà còn là tài sản vô giá của Trái đất. Từ sau những cuộc phát kiến
địa lí lớn, ngành hàng hải mới chính thức ra đời và phát triển khá nhanh cùng với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, với sự trao đổi hàng hóa giữa chính quốc và các nước thuộc địa,
giữa các nước có nền kinh tế phát triển và các nước kém phát triển.
Vận tải biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ thế kỷ thứ V
trước công nguyên, con người đã biết lợi dụng biển làm các tuyến đường giao thông để giao
lưu các vùng miền, các quốc gia với nhau trên thế giới. Cho đến nay, vận tải biển được phát
triển mạnh và trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển không lớn, nhưng vì đường dài nên
hiện nay đường biển đảm đường tới 3/5 khối lượng luân chuyển hàng hóa của tất cả các
phương tiện vận tải trên thế giới. Không chỉ có các tuyến viễn dương có ý nghĩa quan trọng,
mà cả các tuyến vận tải ven bờ cũng có ý nghĩa đối với các nước có đường bờ biển.
23
Đại dương bao la nhưng các tuyến đường hàng hải lại chỉ tập trung ở một số tuyến
quan trọng: Bắc Đại Tây Dương nối châu Âu với Bắc Mỹ, Địa Trung Hải – châu Âu qua
kênh đào Suez; thông qua kênh Panama nối châu Âu và bờ Đông Hoa Kỳ và châu Á; đường
biển Nam Phi nối châu Âu qua châu Mỹ với châu Phi; đường biển Nam Mỹ nối châu Âu và
Bắc Mỹ với Nam Mỹ; đường Biển Bắc Thái Bình Dương nối Tây Hoa Kỳ với Nhật Bản và
Trung Quốc, đường biển Nam Thái Bình Dương từ Tây Hoa Kỳ đến Ôxtrâylia, Niu Dilân,
Inđônêxia và Nam Á; đường biển từ vùng vịnh Pecxich qua mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến
châu Âu và châu Mỹ danh tiếng cho các tàu chở dầu khổng lồ không đi qua được kênh đào
Suez.
Vận tải đường biển là loại phương tiện vận tải hàng hóa chủ yếu nhất trong thương
mại quốc tế. Trước khi thế giới bước vào kỷ nguyên của các chuyến bay liên lục địa thì vận
chuyển hành khách bằng tàu biển khá quan trọng, nhất là ở Bắc Đại Tây Dương, nối châu
Âu và Bắc Mỹ. Vào năm 1838, vượt Đại Tây Dương hết 15,5 ngày (tàu Great Western), thì
đến đầu thế kỷ XX chỉ còn 4,5 ngày (tàu Mauritania, 1907) và đến năm 1952 chỉ còn 3,5
ngày (tàu United States). Nhưng cũng từ thời điểm đó, vận tải hàng không đã chiếm mất vị
trí độc tôn của tàu vận tải khách xuyên Đại Tây Dương. Hiện nay, chỉ còn một số tàu chở
khách viễn dương nhằm mục đích du lịch, các phà biển (ferries) hay các tàu chở khách nhỏ
như các nước quần đảo Inđônêxia, Philippin, các nước vùng Caribê. Trong khi việc chuyên
chở hành khách bằng đường biển giảm sút thì việc chuyên chở dầu mỏ, các hàng hóa khác
lại tăng lên nhanh chóng. Việc chuyên chở các loại khoáng sản, gỗ, ngũ cốc,… vẫn còn
chiếm một khối lượng lớn, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, việc chuyên chở các loại hàng
chế biến ngày càng tăng mạnh.
Khoảng ½ khối lượng hàng vận chuyển trên đường biển quốc tế là dầu mỏ và các sản
phẩm dầu mỏ. Việc chở dầu bằng các tanke luôn đe dọa ô nhiễm môi trường. Toàn thế giới có
hàng nghìn tàu chở dầu có trọng tải trên 100 nghìn tấn đang hoạt động. Tàu chở dầu chở tới
hơn 300 loại sản phẩm dầu mỏ và mỡ. Mỗi khi lấy hàng, người ta xả nước vào các khoang để
rửa sạch tàu rồi trút nước và cận bẩn xuống biển.
Hiện nay, có khoảng 100.000 tàu biển có tải trọng trên 100 tấn đang hoạt động khắp
Thế giới, trong đó ½ làm nhiệm vụ vận tải, còn ½ làm nhiệm vụ dịch vụ. Cùng với sự mở
rộng buôn bán quốc tế, đội tàu biển đã tăng lên cả về số lượng và trọng tải trung bình.
Đối với địa lí vận tải đường biển, mạng lưới các cảng biển có ý nghĩa căn bản. Cảng
biển là nơi tàu biển đỗ tiện lợi và an toàn, nơi có thể tiến hành bốc dỡ hàng hóa và xếp hàng
24
mới. Thông thường các cảng tự nhiên được xây dựng ở bờ vịnh nước sâu hay ở các cửa
sông. Người ta thường phân loại các cảng thành cảng địa phương, cảng khu vực hay cảng
quốc tế, cảng chuyển tải, cảng bách hóa hay cảng chuyên dụng.
Lịch sử của ngành đường biển thế giới cho thấy kinh tế biển luôn được coi là ngành
mũi nhọn, trong đó vai trò chủ đạo là cảng biển. Nơi nào có cảng biển, nơi đó sẽ là thành
phố với kinh tế, công nghiệp và giao thương phát triển. Cảng biển phồn vinh, kinh tế biển
càng mạnh.
Cảng biển là kết cấu hạ tầng quan trọng của kinh tế hàng hải, nó phải đi trước một
bước để thúc đẩy các ngành kinh tế biển khác phát triển. Vì vậy, cần phải có một quy hoạch
cụ thể, phù hợp vì hoạt động của một cảng biển tồn tại đến hàng trăm năm hoặc lâu hơn thế.
Chẳng hạn cảng Rotterdam của Hà Lan hình thành từ những năm 1860 đến nay đã hơn 150
mà vẫn còn sầm uất, hiện nay vẫn là cảng lớn nhất châu Âu và còn nhiều cảng khác như:
cảng London của Anh, cảng Hamburg của Đức, cảng Antwerp của Bỉ cũng tương đồng ý
nghĩa đó.
Cảng nằm trong một hệ thống phân phối hàng hóa. Vì vậy, để phân tích sự phát triển
và hoạt động của cảng, người ta phải quan tâm đến hậu phương (hinterland) và vùng trước
cảng (foreland). Vùng trước cảng xác định sự tham gia của cảng vào nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, thế giới có khoảng 6000 – 7000 cảng đang hoạt động, nhưng chỉ khoảng 100 cảng
có ý nghĩa toàn cầu.
Ngành kinh tế đóng tàu luôn bị lôi kéo bởi kinh tế cảng, vì kinh tế cảng là khách hàng
của kinh tế đóng tàu và đây cũng là một nhân tố quan trọng trong phát triển ngành hàng hải
thế giới. Thế giới có hơn 50 nước có ngành công nghiệp đóng tàu và đứng đầu những nước
này là Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Brasil… với số lượng tàu đóng mới ngày càng
nhiều và trọng tải ngày càng lớn. Nhật Bản là cường quốc số một thế giới về ngành công
nghiệp đóng tàu, với sản lượng chiếm khoảng 50% thế giới, vượt cả các nước phát triển khu
vực Tây Âu.
Thành tựu đóng tàu của thế giới trong những năm gần đây có sự dao động không lớn về
cả số lượng tàu mới và tổng trọng tải của chúng. Loại tàu đóng mới rất đa dạng: cả tàu biển và
tàu sông, riêng tàu biển có 4 loại chính:
+ Tàu chở hàng: hàng chất đốt, hàng rời, tàu dầu, tàu container…
+ Tàu kỹ thuật: cầu nối, tàu nạo vét, tàu kéo đẩy, tàu khoan,…
+ Tàu đánh cá: tàu đánh cá xa bờ, tàu đánh cá gần bờ, tàu chế biến…
25
+ Tàu khách: tàu khách vượt đại dương, tàu khách nội địa…
Nhìn chung, ngành công nghiệp đóng tàu từ năm 1960 trở lại đây có rất nhiều đột phá:
về mặt trọng tải tới 500.000 – 600.000 DWT, về mặt thể loại rất đa dạng như tàu phá băng
nguyên tử, tàu ngầm, tàu chiến hạm, tàu đánh cá xa bờ 1000 CV… Đây cũng chính là
nguyên nhân xuất hiện nhiều cảng siêu sâu trên thế giới.
Hải sản: nguồn lợi hải sản là thế mạnh đặc trưng của biển và khi nói về kinh tế biển
không thể không nhắc đến vai trò, vị trí của nó. Ngành hải sản bao gồm các lĩnh vực như:
khai thác, nuôi trồng, chế biến.
Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn thế giới có hơn 160 quốc gia làm kinh tế thủy
sản, trong đó có hơn 20 quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm thuộc
châu Á, châu Âu, châu Mỹ.
Sản lượng khai thác thủy sản từ nửa sau thế kỷ XX cho đến này ngày càng tăng nhanh.
Vào những năm 1950, sản lượng khai thác gần 20 triệu tấn thì đến những năm đầu thế kỷ
XXI, sản lượng khai thác đạt gần 100 triệu tấn. Các nước có sản lượng đánh bắt thủy sản lớn
nhất thế giới là Trung Quốc (gần 18 triệu tấn), Pêru (gần 8 triệu tấn), Hoa Kỳ (5 triệu tấn),
Nhật Bản (4,8 triệu tấn), Inđônêxia (4,3 triệu tấn), Chilê (4 triệu tấn), Ấn Độ (3,9 triệu tấn),
Liên Bang Nga (3,7 triệu tấn), Thái Lan (2,9 triệu tấn) và Na Uy (2,8 triệu tấn). Đến năm
2009, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng khai thác hải sản
trên biển, xếp thứ 12 trên thế giới về năng lực đánh bắt với sản lượng luôn ổn định ở mức 1,5
– 1,8 triệu tấn/năm.
Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu của thế giới là Biển Bắc, Đông Bắc Đại
Tây Dương, Tây Bắc Đại Tây Dương, Trung Tâm Tây Đại Tây Dương, Tây Nam Đại Tây
Dương, Bắc Địa Trung Hải, Đông Ấn Độ Dương, Tây Bắc Thái Bình Dương, Đông và
Đông Bắc Thái Bình Dương, Tây Nam Thái Bình Dương.
Ngành khai thác thủy sản đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ. Cần phải có
đội tàu đánh cá lớn với tàu chế biến đi kèm, lưới tốt, thiết bị hiện đại thăm dò luồng cá, các
cảng cá, xí nghiệp sửa chữa tàu, chế tạo ngư cụ, các cơ sở hậu cần dịch vụ…
Tuy nhiên, việc khai thác thủy sản quá mức ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi thủy sản. Vì
vậy, vấn đề khai thác hợp lý kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thủy sản có ý
nghĩa to lớn. Một số ngư trường, chẳng hạn bãi cá thu Grand Banks ngoài khơi phía đông
Canada, đã bị khai thác vượt quá khả năng phục hồi. Đánh bắt cá quá mức đã trở thành một
vấn đề lớn. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, hơn 25% ngư trường trên thế giới bị khai
26
thác quá mức, 50% bị đánh bắt hết công suất và 75% cần được cấm hoặc giảm tốc độ đánh
bắt ngay lặp tức để đảm bảo nguồn cá cho tương lai. Tuy nhiên đánh bắt từ biển vẫn cung
cấp cho thế giới tới 2/3 sản lượng thủy sản.
Ngành nuôi trồng đã và đang phát triển nhanh chóng với vị thế ngày càng cao. Rõ
ràng, nguồn tài nguyên biển là có giới hạn, lại đang bị con người khai thác quá mức. Để đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của thế giới, việc phát triển nuôi trồng thủy sản có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng của thế giới từ năm 1950 đến nay tăng gấp 3 lần, đạt
trên 48 triệu tấn. Các loại thủy sản được nuôi ở các vùng nước lợ và nước mặn ngày càng
phổ biến với nhiều loài có giá trị cao về thực phẩm, về kinh tế đã trở thành đối tượng nuôi
trồng để xuất khẩu như tôm (tôm sú, tôm hùm,…), cua, cá…
Ngành nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh ở các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn
Độ, Nhật Bản, Philippin, Việt Nam… Ngoài ra còn có các nước khác như Bănglađet, Hàn
Quốc, Chilê,…
Hoạt động chế biến thủy hải sản, đây là biện pháp tốt nhất nhằm bảo quản các sản
phẩm thủy hải sản từ hoạt động đánh bắt và nuôi trồng, mặt khác nó cũng làm nâng cao giá
trị sản phẩm. Nguồn nguyên liệu hải sản dồi dào cung cấp cho các ngành công nghiệp chế
biến, tạo một bước khởi đầu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phát
triển. Trên thế giới, ngành công nghiệp chế biến hải sản rất phát triển và ngày càng có vai
trò quan trọng trong cuộc sống con người, góp phần tăng giá trị của các nguồn tài nguyên
trong lòng biển cả.
Khai thác dầu khí ngoài khơi: trong điều kiện thuận lơi, trải qua những biến đổi
địa chất, dầu mỏ được hình thành và tích tụ ở các lớp đá phù hợp (côlectơ) có độ nứt nẻ hay
có độ rỗng và có khả năng chứa dầu. Tập hợp các vỉa dầu ở một khu vực nhất định của vỏ
Trái đất tạo nên mỏ dầu. Người ta khai thác dầu từ các giếng với lỗ khoan hẹp khoan trong
đá cho tới vỉa chứa dầu. Sau khi được khoan tới vỉa chứa dầu, dầu thô được hút lên mặt đất.
Khi vỉa dầu còn đủ áp lực thì dầu theo giếng đi lên và tràn ra mặt đất. Khi áp suất trong vỉa
tuột xuống, giếng không tự phun được, người ta phải dùng bơm. Dầu từ vỉa được hút và
bơm lên các bể chứa rồi được vận chuyển bằng đường ống tới các trung tâm lọc, hóa dầu.
Dầu mỏ và các sản phẩm của nó được dùng làm nhiên liệu chiếm vị trí số một trong số
các loại nhiên liệu do dễ sử dụng, vận chuyển và có khả năng sinh nhiệt cao (10.000 –
11.500 kcal/kg). Dầu mỏ, khí đốt là nguồn năng lượng mới, chỉ thực sự được sử dụng nhiều
27
vào nửa sau thế kỷ XX, từ 2% năm 1860 lên 4% năm 1900, đến 26% năm 1940 và 44%
năm 1960 rồi đạt cực đại vào thập kỷ 80 gắn liền với sự phát triển của ngành giao thông vận
tải, công nghiệp hóa chất, đặc biệt là hóa dầu… Dầu mỏ được coi là “vàng đen” của nhân
loại.
Khí thiên nhiên trong một thời gian dài bị coi thường. Khí đồng hành ở các mỏ dầu đã
bị đốt đi một cách phí phạm. Ngày nay, khí thiên nhiên là nhiên liệu sạch, có hiệu quả, ít
gây ô nhiễm môi trường hơn so với việc sử dụng than và dầu nên được tận dụng một cách
triệt để.
Tây Nam Á là khu vực có tiềm năng cực lớn về dầu mỏ và chiếm tới 65% trữ lượng
của Thế giới. Tiếp theo với trữ lượng nhỏ hơn nhiều là châu Phi (9,3%), Liên Xô cũ và
Đông Âu (7,9%), Trung và Nam Mỹ (7,2%). Nếu phân theo nhóm nước thì hơn 80% trữ
lượng dầu mỏ toàn cầu tập trung ở các nước đang phát triển. Trữ lượng khí đốt nhiều nhất
cũng thuộc về Tây Nam Á, Liên Xô cũ và Đông Âu, châu Phi, Viễn Đông – ASEAN.
Nhờ những tiến bộ về khoa học kỹ thuật mà con người ngày càng phát hiện thêm nhiều
mỏ dầu – khí mới, làm cho trữ lượng của chúng tăng lên đáng kể. Theo đánh giá của các
chuyên gia, trữ lượng ước tính của dầu mỏ từ 400 đến 500 tỉ tấn, còn trữ lượng chắc chắn khoảng 140 tỉ tấn và khoảng 190 nghìn tỉ m3 khí đốt.
Công tác thăm dò, khai thác và lọc hóa dầu đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao,
vốn đầu tư lớn, khả năng quản lý giỏi về kinh tế. Vì thế, việc điều hành quản lý công tác
thăm dò khai thác và chế biển dầu hiện nay là độc quyền của một số công ty và tâp đoàn dầu
khí lớn như Exxon, Shell, Mobil, BP,… Các nước đang phát triển giàu nguồn tài nguyên
này đều phải hợp tác, liên doanh và chia sẻ quyền lợi với các công ty dầu mỏ hàng đầu thế
giới.
Dầu khí là tài nguyên mũi nhọn, có ưu thế nổi trội nhất của biển. Hiện nay, tại các khu
vực có tiềm năng dầu khí lớn, đang có các hoạt động khai thác với quy mô ngày càng lớn,
góp phần quan trọng vào việc thay đổi cơ cấu năng lượng của thế giới. Bên cạnh đó, khí
thiên nhiên cũng là một nguồn tài nguyên to lớn, có thể đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng
lượng của các ngành công nghiệp.
Du lịch biển: theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO, 1994): “Du lịch là một
tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên quan đến việc di chuyển tạm thời của con
người ra khỏi nơi ở thường xuyên của họ nhằm mục đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, văn hóa,
dưỡng sức,… và nhìn chung là vì những lí do không phải để kiếm sống”.
28
Du lịch biển là ngành du lịch nhằm tận dụng các cảnh quan và sinh thái vùng ven biển
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của du khách. Các tài nguyên phục vụ hoạt động du lịch biển
bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên (các bãi biển, hệ thống các đảo và quần đảo, nguồn
nước, tài nguyên sinh vật,…) và tài nguyên du lịch nhân văn (các lễ hội, hoạt động thể
thao…), có thể khai thác, phát triển nhiều loại hình du lịch tham quan, nghĩ dưỡng, chữa
bệnh, nghiên cứu, giải trí, thể thao,…
Kiểu địa hình ven bờ, đặc biệt là các bãi cát ven biển, đảo thường được gọi là các bãi
biển. Địa hình tự nhiên đa dạng của dải ven biển tạo ra những thắng cảnh đẹp. Các bãi biển,
hệ thống các đảo và quần đảo đóng một vai trò quan trọng trong việc sử dụng tiềm năng tự
nhiên của biển vào mục đích nghỉ ngơi và du lịch biển.
Các bãi biển hấp dẫn du khách và thuận lợi phát triển các loại hình du lịch tắm biển, lặn
biển, thể thao biển, nghỉ dưỡng chữa bệnh cần có các điều kiện: có bãi cát trắng, mịn, chiều dài và chiều rộng lớn, có độ dốc từ 1 – 30, nước biển có độ trong suốt cao từ 3 – 5 m, độ mặn
từ 2,5 – 4 %, đảm bảo các tiêu chuẩn lý hóa sinh không bị ô nhiễm, độ sâu của bãi tắm không
quá 1,5 m, độ sâu của các vùng ven bờ phát triển du lịch lặn biển thường từ 20 – 30 m. Những bãi biển có độ dốc lớn hơn 30, độ sâu trên 1,5 m, độ mặn trên 4% hoặc nhỏ hơn 2,5%,
sóng cao trên 1,5 m, độ trong suốt dưới 0,5 m, nước bị ô nhiễm đều không thuận lợi cho hoạt
động tắm biển.
Ngoài ra, để phát triển du lịch biển nhân tố khí hậu cũng rất quan trọng. Khí hậu ấm
áp, nhiều nắng thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Khí hậu vùng ven biển thường là môi
trường nghỉ dưỡng an toàn cho du khách. Chính sự phân bố các vùng khí hậu khác nhau đã
tạo ra mức độ thuận lợi khác nhau trong việc sử dụng các bãi biển vào mục đích nghỉ ngơi
và du lịch. Theo các nhà khí hậu học, vùng ven biển có khí hậu rất thuận lợi cho hoạt động
du lịch vì nhiệt độ ở đây cũng không quá nóng và cũng không quá lạnh như ở lục địa.
Tài nguyên sinh vật vùng ven biển đa dạng, phong phú, là tiền đề phát triển loại hình
du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học như: hệ thống rừng ngập mặn, san hô,…
Bên cạnh đó, các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội, các làng nghề truyền thống đã gắn
chặt với đời sống người dân vùng biển đang là một lợi thế khai thác du lịch biển, nhất là nghệ
thuật ẩm thực vùng ven biển, một sắc thái rất riêng của vùng biển là một tài nguyên du lịch
tạo sức hấp dẫn và lôi cuốn du khách một cách mạnh mẽ.
Tài nguyên nước ở vùng ven biển cho phép khai thác nhiều loại hình du lịch tùy thuộc
vào lưu lượng dòng chảy, chế độ sóng có thể khai thác các loại hình du lịch như tắm biển
29
(loại hình phổ biến nhất), lặn, tham quan đáy biển hoặc các hoạt động thể thao diễn ra trên
biển như thuyền buồm, lướt ván, du thuyền,…
Hiện nay, du lịch biển đang trở thành một chiến lược phát triển của ngành du lịch, đem
lại nguồn thu lợi lớn, góp phần tăng thu nhập cho người dân cũng như nguồn ngân sách.
Theo UNWTO (Tổ chức du lịch thế giới), có hơn 70% số khách rất thích đi du lịch biển.
Khai thác muối biển: là một nghề truyền thống và giữ vị trí quan trọng đối với
đời sống nhân dân vùng ven biển. Muối thu được từ nước biển có các tinh thể nhỏ hoặc lớn
hơn muối mỏ. Trong tự nhiên, muối có thể thu được bằng cách cho bay hơi nước biển dưới
ánh nắng trong các ruộng muối.
Tài nguyên muối và các hóa phẩm biển chủ yếu là các loại muối như: NaCl, MaCl,
MgSO, CaSO, CaCO,… Trong đó, chủ yếu là NaCl là nguồn thực phẩm tối cần thiết của
cuộc sống và nguyên liệu để điều chế các hóa phẩm công nghệ khác từ nước biển như
Magiê, Clo, Brôm, Kali hay sản xuất axit clohydric,…
Kinh tế lấn biển: toàn bộ bề mặt đất có 510 triệu km2, trong đó có 149 triệu km2
tức khoảng 29,2% là đất liền được sử dụng làm không gian sống cho con người. Dân số thế
giới ngày càng tăng và tăng rất nhanh, diện tích bề mặt đất sử dụng cho mục đích là không
gian sống của con người ngày càng bị thu hẹp bởi những mục đích khác nhau. Vì vậy, diện
tích đất bình quân trên đầu người ngày càng bị thu hẹp. Lúc này con người phải tiến ra biển
để khai thác 71% diện tích còn lại trên Trái đất cho sự sống của toàn nhân loại. Vì vậy, lấn
biển là xu thế tất yếu của thời đại.
Trên thế giới đã có rất nhiều quốc gia thực hiện chính sách lấn biển. Các công trình lấn
biển đã góp phần đáp ứng nhu cầu về nhà ở và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong
khi chinh phục tự nhiên, con người cũng phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn về môi
trường và xã hội.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều dự án lấn biển đã và đang được đưa vào sử dụng,
những dự án này được diễn ra những nước phát triển và cả những nước đang phát triển.
Hiện nay, có hai biện pháp lấn biển được sử dụng là:
- Quai đê hạ thấp mực nước, làm khô đất, cải tạo đất trên khô với nhiều chất xúc tác
hóa học khác nhau.
- Quai đê ngăn mặn, cải tạo đất bằng hệ thống nước ngọt.
Cường quốc lấn biển số một thế giới là Hà Lan, 1/3 diện tích của nước này có được là
do lấn biển. Điển hình cho những dự án lấn biển đó là những công trình phục vụ cho việc
30
phát triển kinh tế biển như dịch vụ, xây dựng cảng biển, tạo ra diện tích trồng trọt, nuôi trồng
thủy sản, xây dựng công trình đô thị, cơ sở hạ tầng, lấy đất sử dụng cho mục đích sinh sống
của con người. Chính phủ Hàn Quốc bỏ nhiều tiền cho công trình lấn biển ở Saemageaum. Đất nước nhỏ bé Monaco chỉ vỏn vẹn với diện tích 2 km2 cũng tìm cách mở rộng diện tích
bằng cách lấn ra biển Địa Trung Hải thêm 15 ha với các giải pháp tôn trọng hệ sinh thái biển.
Tại Singapo khoảng 20% diện tích mới của dải này là đất lấn biển, sân bay quốc tế Kansai là
sân bay đầu tiên trên thế giới được xây dựng trên đất lấn biển từ năm 1987…
Ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, hiện có rất nhiều dự án lấn biển được
tiến hành. Đa số các hoạt động lấn biển trong thời gian qua chủ yếu phát triển cơ sở hạ tầng
để hình thành các khu dân cư đô thị và khu giải trí cao cấp ven biển: khu đô thị lấn biển Hải
Âu – Kiên Giang, khu đô thị lấn biển Đa Phước – Đà Nẵng, dự án quai đê lấn biển Tiên
Lãng – Hải Phòng.
Lấn biển đã và đang đem lại những hiệu quả kinh tế cho toàn nhân loại. Tuy nhiên,
vấn đề này đã tác động rất lớn đến môi trường tự nhiên, cần phải có chiến lược phát triển
được xét trong cái tổng thể, có mối liên hệ với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất về kinh tế, môi trường, xã hội.
1.2.2.2. Cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển
Theo định nghĩa về kinh tế biển, cơ cấu lãnh thổ hay không gian kinh tế biển bao gồm
hai bộ phận là không gian trên biển và lãnh thổ của dải đất liền ven biển. Theo đó, không
gian trên biển chủ yếu đóng vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là môi trường cho các hoạt
động vận tải, du lịch biển,… phạm vi dải đất liền ven biển là không gian tổ chức các hoạt
động sản xuất và phục vụ khai thác biển.
Tuy nhiên, cũng có cách quan niệm khác về cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển. Theo đó,
lãnh thổ kinh tế biển tập trung chủ yếu vào các mảng không gian: 1. không gian ven bờ (ven
biển và ven bờ); 2. không gian biển; 3. không gian đảo; và 4. không gian đại dương. Đối với
kinh tế biển nói chung, cả bốn mảnh không gian này đều rất quan trọng vì nó cung cấp
những tiềm năng với lợi thế khác nhau cho phát triển kinh tế.
Không gian vùng bờ: bao gồm hai bộ phận là không gian vùng ven biển và
không gian vùng ven bờ có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế biển. Không gian
vùng ven biển là “bàn đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động trên biển thông
qua các trung tâm kinh tế đảo. Không gian vùng ven bờ là mảng không gian cực kì quan
trọng để phát triển kinh tế biển, đặc biệt là đối với phát triển thủy sản. Vùng này là nơi cư
31
trú tự nhiên, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của nhiều thủy sinh vật (90% các loài thủy hải
sản sống ở vùng thềm lục địa và biển xa có tập tính gắn bó với vùng ven bờ). Các hệ sinh
thái quan trọng (rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng nhập mặn,…) đều tập trung ở vùng này,
cung cấp tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học biển và nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề
khai thác, nuôi trồng thủy hải sản.
Không gian biển: là một không gian rộng lớn để phát triển các hoạt động hàng
hải và khai thác mỏ (chủ yếu là dầu khí). Đó là không gian phát triển ngành khai thác hải
sản, không gian bố trí các công trình biển như giàn khoan dầu khí, các công trình biển khác
để xúc tiến nuôi trồng thủy sản; là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế.
Phát triển không gian biển phải gắn chặt với kinh tế đảo, các trung tâm kinh tế vùng ven
biển, đồng thời bảo vệ môi trường biển.
Không gian đảo: là nơi quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi thủy
sản, phát triển nghề cá, nuôi trồng thủy hải sản (các đầm phá nông quanh các đảo, quần đảo)
và du lịch sinh thái biển. Để sử dụng không gian hợp lý cho phát triển kinh tế cần xác định
chức năng theo thế mạnh của từng đảo để tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế hải đảo.
Trên thế giới có 10 đảo được xếp hạng “đắt nhất”, trong khi đó Việt Nam chưa tận dụng tốt
không gian này để phát triển kinh tế.
Không gian đại dương: là nơi diễn ra các hoạt động viễn dương, khai thác đại
dương,… có ý nghĩa rất quan trọng nếu không nói là quyết định trong nền kinh tế biển của
các nước trên thế giới. Ở nước ta, việc khai thác không gian đại dương còn nhiều hạn chế.
Như vậy, mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ, tùy theo thế mạnh về tài nguyên biển, trình
độ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ khác nhau sẽ có thế mạnh và chính
sách khai thác các mảng không gian biển khác nhau. Đối với các nước phát triển thì mảng
không gian đảo và đại dương sẽ là phương hướng lựa chọn hàng đầu trong tương lai. Hai
mảng không gian này rất rộng lớn, lại có nhiều tiềm năng và các nước này có đủ tiềm lực về
tài chính và khoa học kỹ thuật để khai thác chúng. Ngược lại, các nước đang phát triển sẽ
chú trọng mảng không gian vùng bờ và vùng biển hơn vì nó dễ khai thác hơn và phù hợp
với chính sách đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước này.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển
Kinh tế biển là một phức hợp các ngành, các lĩnh vực và bộ phận kinh tế gắn với biển
có liên quan và tương tác lẫn nhau trong quá trình phát triển. Việc phát triển kinh tế biển có
32
mang lại hiệu quả kinh tế cao hay không còn tùy thuộc vào nhiều nhân tố, có thể tổng hợp
các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế biển như sau:
Vị trí địa lí: đối với phát triển kinh tế biển, vị trí địa lí là điều kiện hết sức cần
thiết cho mọi quốc gia. Vị trí này được xét ở hai góc độ, một là vị trí có biển hay gần biển,
nếu có biển là điều kiện để phát triển trực tiếp các ngành kinh tế biển, còn chỉ gần biển thì
sẽ xây dựng định hướng hợp tác với quốc gia có chủ quyền biển đó. Hai là, vị trí địa lí –
kinh tế biển chiến lược, một quốc gia có vị trí biển chiến lược sẽ là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu cho phát triển kinh tế biển. Vị trí địa lí là nhân tố địa lợi cho quá trình
phát triển vận tải biển và cảng biển phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tài nguyên biển và vùng ven biển: là điều kiện cần thiết cho mọi quốc gia trong
phát triển kinh tế biển. Có thể nói, tài nguyên biển và vùng ven biển có vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển các ngành, nghề, tạo ra nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu cuộc
sống cho con người, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đóng góp
cho tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần phải đánh thức các tiềm năng tài nguyên của biển và
ven biển mang lại, đưa ra giải pháp, chiến lược khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên quý
giá mà thiên nhiên ban tặng phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong tài nguyên biển và vùng ven biển có thể kể đến quy mô và chất lượng của tài nguyên.
Nếu quốc gia có bờ biển dài, diện tích lãnh hải thuộc chủ quyền rộng, khả năng tiếp cận dễ
dàng đến các đại dượng, tài nguyên thiên nhiên giàu có, nhiều bãi biển đẹp, nhiều vịnh nước
sâu… Đó là điều kiện tốt cho phát triển tổng hợp kinh tế biển.
Nguồn nhân lực: làm tăng năng suất lao động, tạo ra giá trị sản phẩm hàng hóa. Do
vậy, nguồn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói
chung và kinh tế biển nói riêng. Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định kết
quả khai thác tiềm năng nguồn lợi biển và vùng ven biển.
Cơ chế chính sách phát triển: có thể thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự phát triển kinh
tế - xã hội, trong đó có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, chính sách phát
triển của nhà nước trong công tác nghiên cứu, tổ chức quy hoạch phát triển kinh tế biển:
Đây có thể coi là nhân tố “đủ” để phát triển kinh tế biển và quyết định thành công của kinh
tế biển.
Vốn và trình độ khoa học – công nghệ: là đòn bẩy của quá trình sản xuất và
kinh doanh, nâng cao năng suất và hiệu quả, sức cạnh tranh của sản xuất, kinh doanh, có vai
trò rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
33
Vốn có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế biển. Để khai thác tiềm năng thế mạnh
từ biển góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng và sớm
đưa đất nước có biển thành nước công nghiệp, giàu lên từ biển.
Khoa học – công nghệ trong lĩnh vực biển rất quan trọng. Phát triển kinh tế biển không
thể tách rời với khoa học, công nghệ vì nó là điều kiện để khai thác tốt các tiềm năng kinh tế
biển, giữ vững chủ quyền biển – đảo. Như vậy, quốc gia có lợi thế về biển và được đầu tư
tốt khoa học, công nghệ sẽ khai thác tốt hơn, hiệu quả cao hơn,…
Thị trường: là nhân tố thúc đẩy ngành thương mại phát triển, đặc biệt là hoạt động
ngoại thương có vai trò rất quan trong trong xu thế hội nhập hiện nay. Mở rộng thị trưởng tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước hợp tác kinh doanh, mở rộng đầu tư phát
triển, thúc đẩy nền kinh tế đất nước tăng trưởng và phát triển. Nhờ có thị trường, các sản phẩm
hàng hóa của quốc gia có điều kiện xâm nhập và cạnh tranh ở thị trường thế giới. Do vậy, thị
trường có vai trò rất quan trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nói chung
và của kinh tế biển nói riêng.
Hoạt động kinh tế đối ngoại: việc phát triển kinh tế biển không chỉ phụ thuộc
vào những nhân tố sẵn có của vùng lãnh thổ có biển, các điều kiện bên trong chỉ mới là điều
kiện “cần”. Hiện nay, để kinh tế biển phát triển thì các điều kiện bên ngoài, đặc biệt là hoạt
động đối ngoại có ảnh hưởng rất lớn và được xem là điều kiện “đủ”. Điều này được thể hiện
rất rõ từ việc đầu tư ban đầu cho phát triển kinh tế biển cũng cần vốn ngoại tệ và khoa học
công nghệ tiên tiến từ các quốc gia phát triển, đến các sản phẩm tạo ra của kinh tế biển cũng
được tiêu thụ thông qua hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài. Vì vậy, hiện nay kinh tế đối
ngoại được xem là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển.
Như vậy, phát triển kinh tế biển cần xem xét dưới nhiều gốc độ khác nhau và cần phân
tích mối liên hệ của các nhân tố ảnh hưởng, nhằm đưa ra giải pháp quy hoạch thích hợp
nhất, mang lại hiệu quả tối ưu nhất.
1.2.4. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến kinh tế biển và vùng ven biển
Biến đổi khí hậu (BĐKH), với biểu hiện chính là sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu và mực
nước biển dâng, được coi là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ
21. Những tác động tiềm tàng của BĐKH đối với các quốc gia đang nhận được sự quan tâm
trên phạm vi toàn cầu. Trong đó, sự ảnh hưởng của BĐKH đến vùng ven biển và kinh tế
biển là rất to lớn vì đây là vùng môi trường nhạy cảm và chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.
34
Thách thức ngày càng tăng về BĐKH toàn cầu đòi hỏi thế giới hành động ngay bây giờ. Để
ứng phó với BĐKH, thế giới đang thực hiện cùng một lúc hai hành động là giảm thiểu và
thích ứng với BĐKH.
Khái niệm: hiện nay có rất nhiều khái niệm được đưa ra về BĐKH, trong giới hạn
nội dung đề tài, tác giả xin được trích dẫn hai khái niệm có nội dung khá bao quát về BĐKH
trên thế giới và trong nước.
Theo Điều 1, điểm 2 của Công ước khung của LHQ về BĐKH (UNFCCC) năm 2002,
“là sự biến đổi của khí hậu do hoạt động của con người gây ra một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và do sự biến động tự nhiên của khí
hậu quan sát được trong những thời kỳ có thể so sánh được.” (United Nations, 1992).
Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam (2008) định nghĩa BĐKH “là sự biến đổi
trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc sự giao động của khí hậu duy trì trong một
khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn”.
Nguyên nhân gây BĐKH: khí hậu biến đổi do hai nhóm nguyên nhân
Nhóm nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên) bao gồm sự biến động
các hoạt động của mặt trời, sự thay đổi quỹ đạo trái đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các
châu lục, sự biến đổi của các dòng hải lưu và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí
quyển.
Nhóm nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người) xuất phát từ sự thay đổi
mục đích sử dụng đất và nguồn nước và sự gia tăng lượng phát thải khí CO2 và các khí nhà
kính khác từ các hoạt động của con người.
Tác động của BĐKH đến kinh tế biển và vùng ven biển: trong bối cảnh BĐKH,
sinh kế của hàng trăm triệu người dân trên toàn thế giới sẽ bị đe dọa nghiêm trọng bởi
những hệ quả của BĐKH. Từ đó gây ra các tác động nghiêm trọng đến cuộc sống của người
nghèo và những người cận nghèo ở các vùng núi và đồng bằng và đặc biệt là vùng ven biển
trên phạm vi toàn cầu.
Với lợi thế về vị trí địa lí và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái ven biển, vùng ven
biển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế
giới. Các hệ sinh thái ven biển tồn tại ở phần tiếp giáp giữa môi trường đất liền và môi
trường biển, do đó chúng rất đa dạng và năng động nhất trên Trái đất. Vì vậy, vùng ven biển
được xem là vùng địa lí môi trường dễ bị tổn thương nhất. Bên cạnh đó, vùng ven biển là
một cực quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội bởi sự tập trung đông dân cư và các
35
hoạt động kinh tế. Hiện nay, tính trên toàn thế giới, có khoảng 2,7 tỷ người sinh sống ở
vùng ven biển, chiếm khoảng 40% dân số thế giới (USAID, 2009). Kinh tế biển đã trở thành
một bộ phận quan trọng không thể thiếu của nhiều quốc gia trên thế giới bởi những đóng
góp to lớn của vùng ven biển vào nền kinh tế trên các khía cạnh như thương mại, du lịch,
phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, giải trí và tạo việc làm. Điều này cho thấy vùng
ven biển có vai trò rất to lớn cả về mặt sinh thái và kinh tế - xã hội đối với nhiều quốc gia
trên thế giới. Ngay cả khi không phải đối mặt với BĐKH, vùng ven biển đã phải đối mặt với
những áp lực hiện tại.
BĐKH toàn cầu đã, đang và sẽ tác động đến cộng đồng ven biển và hệ sinh thái biển
trên nhiều khía cạnh khác nhau. Các tác động của BĐKH sẽ tiếp tục làm khuếch đại và trầm
trọng hơn những áp lực hiện tại đối với vùng ven biển, từ đó làm tăng thêm thách thức về
quản lý bền vững vùng ven biển trong bối cảnh nguồn lực có hạn.
Những ảnh hưởng chính của BĐKH lên vùng ven biển, bao gồm sự gia tăng mực nước
biển, sự thay đổi nhiệt độ bề mặt nước biển, sự gia tăng tần suất các hiện tượng thời tiết cực
đoan, sự thay đổi lượng mưa và hiện tượng axít hóa đại dương, đang đặt ra những mối đe
dọa nghiêm trọng đến các quốc gia có mức tập trung cao về dân số và các hoạt động kinh tế
ven biển. Vùng ven biển dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH là các đảo thấp và
các đồng bằng ven biển ở các nước phải gánh chịu ảnh hưởng của các cơn bão biển và nước
biến dâng.
Nhìn chung, BĐKH sẽ gây ảnh hưởng lên vùng ven biển và các hoạt động kinh tế biển
trên 2 phương diện là hệ sinh thái ven biển và các hoạt động kinh tế - xã hội của con người.
- Tác động đến các hệ sinh thái ven biển: các hệ sinh thái ven biển bao gồm rừng ngập
mặn, rạn san hô, cửa sông, thảm cỏ biển, cồn cát là những hệ sinh thái có tính đa dạng sinh
học cao và chức năng sinh thái vô cùng quan trọng với con người. Các hệ sinh thái này đang
chịu các áp lực ngày càng gia tăng bởi những thay đổi bất thường của khí hậu. BĐKH sẽ
gây ra hệ quả chung là sự phân bố, tính đa dạng sinh học và năng suất của các hệ sinh thái
sẽ bị suy giảm. Khi các chức năng sinh thái này suy giảm, các hệ sinh thái ven biển trở nên
bị suy yếu và ít có khả năng phục hồi trước những tác động ngày càng tăng của BĐKH.
- Tác động của BĐKH lên các hoạt động kinh tế - xã hội của con người: sự suy giảm
chức năng sinh thái và hệ sinh thái biển sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe, các hoạt động kinh tế - xã hội và phúc lợi của hàng tỷ người dân ven biển sống phụ
thuộc vào các hàng hóa và dịch vụ mà các hệ sinh thái này cung cấp. Tất cả các hoạt động
36
kinh tế biển sẽ chịu tác động chung của BĐKH. Ví dụ, BĐKH làm cho ảnh hưởng đến các
ngư trường đánh bắt và sản lượng đánh bắt của ngư dân. Tình trạng nước xâm nhập mặn
vào các tầng nước ngầm ven biển một mặt gây ảnh hưởng đến hoạt động nông nghiệp (đất
bị nhiễm mặn), mặt khác gây ảnh hưởng đến các hoạt động nuôi trồng (do môi trường sống
của thủy sinh thay đổi). Có thể thấy rằng, những tác động của BĐKH, kết hợp với những áp
lực hiện tại về phát triển và sự suy yếu trong quản lý, sẽ làm cho các cộng đồng ven biển dễ
bị tổn thương nhiều hơn.
1.2.5. Tổ chức lãnh thổ (không gian) kinh tế biển
Theo sách “Địa lí kinh tế - xã hội: Từ điển khái niệm – thuật ngữ” (1983) của
E.B.Alaev đã đưa ra nhận thức chung của các nhà Địa lí Xô Viết về tổ chức lãnh thổ kinh tế -
xã hội như sau: “Tổ chức kinh tế - xã hội trong nghĩa rộng của từ này bao gồm các vấn đề
liên quan đến phân công lao động theo lãnh thổ, phân bố các lực lượng sản xuất, các sự
khác biệt về vùng trong quan hệ tương hỗ giữa xã hội và thiên nhiên, cũng như các vấn đề
chính sách vùng về kinh tế - xã hội. Ở một nghĩa hẹp hơn, nó bao gồm các phạm trù như tổ
chức lãnh thổ hành chính của Nhà nước, quản lý vùng về sản xuất, sự hình thành các thành
tạo lãnh thổ về tổ chức kinh tế, sự xác định các khách thể vùng của quản lý, sự phân vùng về
kinh tế - xã hội…”.
Các nhà khoa học phương Tây, theo hướng kinh tế thị trường thường sử dụng thuật
ngữ “tổ chức không gian kinh tế - xã hội” thì cho rằng. Có thể hiểu tổ chức không gian kinh
tế - xã hội là sự sắp xếp và phối hợp các đối tượng trong mối quan hệ liên ngành, liên vùng
nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh tế, chính
trị và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ được tạo dựng để đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao
và năng cao mức sống dân cư, đảm bảo sự phát triển bền vững của một lãnh thổ.
Tổ chức lãnh thổ (không gian) kinh tế biển với tư cách là một bộ phận của tổ chức
không gian kinh tế - xã hội, nó có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường đất nước. Ngoài ra, không gian biển là không
gian đặc biệt chiến lược quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
Việt Nam đang trong giai đoạn tiến ra biển lớn, việc tổ chức lãnh thổ (không gian)
kinh tế biển trước hết thể hiện sự tương tác kinh tế lãnh thổ - lãnh hải diễn ra chủ yếu và
trực tiếp ở vùng ven biển. Với đường bờ biển dài như nước ta, cùng với sự hình thành mạng
37
lưới cảng biển và hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt ven biển nối liền các vùng miền
trong nước và các nước láng giềng như Lào và Campuchia… Nó cũng tạo cho chúng ta tổ
chức phát triển không gian biển một cách tối ưu khoa học, trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế về
nguồn lợi từ biển để phát triển kinh tế - xã hội trên từng vùng lãnh thổ.
Khác với trên đất liền, không gian kinh tế biển rộng mở, tiềm năng không gian biển cho
phát triển còn rất lớn, tập trung chủ yếu vào các mảng, không gian vùng bờ (ven biển và ven
bờ), không gian biển, không gian đảo, không gian đại dương. Với chiến lược phát triển kinh tế
biển Việt Nam đến năm 2020, dưới đây chỉ đề cập đến ba mảng không gian vùng bờ gắn với
sự phát triển kinh tế biển Quốc gia.
Vùng biển và ven biển phía Bắc (Móng Cái – Ninh Bình) là cửa ngõ ra biển của
các tỉnh phía Bắc, gồm 23 huyện của 5 tỉnh có biển từ Quảng Ninh đến hết bờ biển tỉnh Ninh Bình, diện tích 9083 km2, dân số năm 2010 là hơn 5 triệu người. Trong bối cảnh hiện nay, với
vị thế quan trọng của vùng biển phía Bắc, nơi tiếp giáp trực tiếp với Trung Quốc đang có
nhiều biến động. Tiểu vùng này sẽ chú ý đầu tư để tổ chức phát triển không gian kinh tế biển
và vùng ven biển theo hướng có thể làm đối trọng với các thị trường trong khu vực. Đồng
thời, khai thác có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực của vùng như cảng biển, vận tải biển, du
lịch, dịch vụ hàng không.
Vùng biển và ven biển Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ (từ Thanh Hóa –
Bình Thuận). Bao gồm 73 huyện của 14 tỉnh có biển từ Thanh Hóa đến hết bờ biển tỉnh Bình Thuận, diện tích 36.078 km2, dân số năm 2011 gần 13 triệu người. Hướng tổ chức
không gian của tiểu vùng là phát triển có trọng điểm, tạo ra những mũi đột phá, những trục
động lực từ phía biển, từ đó tạo đà đi lên cho cả miền Trung. Cụ thể là xây dựng thành phố
Đà Nẵng thành trung tâm kinh tế biển mạnh của vùng và là một trong ba trung tâm kinh tế
biển nước ta.
Vùng biển và ven biển Đông Nam Bộ với 9 huyện, thị thuộc 2 tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và TP Hồ Chí Minh, diện tích 2279,5 km2, dân số 1,9 triệu người (2005). Với định
hướng phát triển thành phố Vũng Tàu thành trung tâm kinh tế hướng ra biển, xây dựng hành
lang kinh tế, các khu công nghiệp, đặc biệt là tuyến quốc lộ 51.
Vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ là cửa ngõ của các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long, với 33 huyện, thị thuộc 7 tỉnh, kéo dài từ Tiền Giang đến Cà Mau và Hà Tiên (Kiên Giang). Diện tích 14.923,6 km2, dân số 5,6 triệu người (2005). Định hướng xây dựng Phú
Quốc thành trung tâm kinh tế lớn, là bàn đạp hướng ra biển của tiểu vùng, hướng đến năm
38
2020, Phú Quốc trở thành trung tâm giao thương quốc tế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh khai thác,
nuôi trồng thủy sản, phát triển công nghiệp xi măng, công nghiệp khí – điện – đạm, du lịch
biển – đảo, nghiên cứu khoa học – công nghiệp biển, đào tạo nhân lực và phát triển các lĩnh
vực liên quan đến biển. Hình thành các hành lang kinh tế ven biển phía Tây và phía Đông.
Như vậy, tổ chức lãnh thổ (không gian) kinh tế biển là một bộ phận của tổ chức lãnh
thổ kinh tế - xã hội, bộ phận này càng có vai trò quan trọng và to lớn hơn khi không gian
kinh tế nội địa ngày càng chật hẹp và nó ảnh hưởng sâu sắc trở lại đến không gian kinh tế -
xã hội chung.
1.2.6. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế biển
Tình trạng ô nhiễm môi trường biển: Ô nhiễm môi trường nói chung hay ô nhiễm
môi trường biển nói riêng là hậu quả của các cuộc Cách mạng công nghiệp từ giữa thế kỷ
thế XVIII đến nay, mức độ ô nhiễm ngày càng trầm trọng, phạm vi ô nhiễm ngày càng mở
rộng trên toàn cầu. Nhiều vùng biển đang lâm vào tình trạng kêu cứu, có nguy cơ trở thành
những vùng “biển chết”.
Nguồn gây ô nhiễm cho biển và đại dương rất đa dạng, chúng được chuyển từ lục địa
hoặc xâm nhập vào từ không khí và do hoạt động của con người ngay trên mặt biển và đại
dượng. Hầu hết, như toàn bộ nước thải sinh hoạt và công nghiệp không được xử lý từ các
thành phố, vùng dân cư, khu công nghiệp ven biển… đều đổ trực tiếp ra biển. Sự cố dầu mỏ
và các sản phẩm dầu mỏ ngày càng gây ra sự ô nhiễm trầm trọng trên biển và đại dương.
Những nguồn ô nhiễm này là mối đe dọa lớn cho đời sống sinh vật biển cũng như làm chất
lượng môi trường nước ngày càng suy giảm ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh tế
biển.
Tình trạng giảm sút nguồn lợi sinh vật biển: Biển cung cấp cho con người nguồn
thực phẩm phong phú, đa dạng từ sinh vật biển. Cá biển là nguồn lợi cung cấp đạm động vật
bổ sung quan trọng cho dân cư ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các nguồn nguyên liệu
hải sản còn dùng để chế biến thức ăn gia súc, phân bón, chất béo, dược liệu và mỹ phẩm…
Tình trạng khai thác hải sản quá mức và phương thức khai thác hủy diệt như dùng chất
nổ làm suy giảm nguồn lợi và đe dọa nhiều giống loài trước nguy cơ tuyệt chủng. Các nhà
khoa học tính rằng trên thế giới có gần 20 nghìn loài cá, trong đó khoảng 9 nghìn loài đang
được khai thác, nhưng chỉ có khoảng 22 loài được đánh bắt thường xuyên với khối lượng
lớn. Việc khai thác nguồn lợi sinh vật biển quá sức tải sinh học cho phép hiện đang làm suy
39
giảm trầm trọng nguồn lợi hải sản, và nhiều loài sinh vật biển đang đứng trước nguy cơ
tuyệt chủng. Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường biển cũng tác động kép gây ảnh hưởng xấu
đến đời sống sinh vật.
Tình trạng suy giảm các hệ sinh thái ven biển: trong sử dụng tài nguyên biển và
vùng ven biển, vấn đề nóng bỏng nhất là ở các vùng nước ven bờ, tính từ bờ biển đến
khoảng 200 hải lý. Các hệ sinh thái ở các vùng nước này chiếm đến ½ năng suất sinh học
của cá biển và cung cấp gần như toàn bộ sản lượng cá biển của thế giới. Đối với đời sống
con người, các hệ sinh thái ven biển rất quan trọng như hệ sinh thái đầm lầy ngập mặn vùng
ôn đới, rừng ngập mặn vùng nhiệt đới, các hệ sinh thái cửa sông và các hệ sinh thái san hô.
Các hệ sinh thái này có vai trò to lớn và chính là môi trường tồn tại của nhiều loài sinh vật.
Hiện nay các hệ sinh thái ven biển đang bị đe dọa xuống cấp do hoạt động kinh tế của
con người ngày càng tập trung ra vùng ven biển, cùng với sức ép của sự gia tăng dân số ở
vùng ven biển. Việc “khai hoang ven biển” để xây dựng, mở rộng đô thị ven biển, các cảng
biển, khai thác khoáng sản… đã phá hủy một số kiểu hệ sinh thái như thảm cỏ biển, rừng
ngập mặn, rạn san hô. Môi trường sinh thái ven biển đã và đang bị tổn thương nghiêm trọng,
đây sẽ là nguy cơ tác động tiêu cực ngược lại với cuộc sống của con người trong tương lai.
Tóm lại, đối với kinh tế biển, việc phát triển bền vững đòi hỏi thực hiện đồng bộ nhiều
yếu tố. Trước hết, dựa trên những lợi thế về biển khai thác một cách tổng hợp kinh tế biển
nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ môi trường được môi trường. Tiếp đến là bảo
vệ môi trường biển vì môi trường này là một thể thống nhất không chia cắt với vùng bờ và
vùng nước xung quanh, nên nếu một phần biển nào bị ô nhiễm sẽ gây thiệt hại đến các vùng
khác. Trong quá trình khai thác tổng hợp kinh tế biển phải chú ý đến môi trường đảo vì đây
là nơi có diện tích không lớn, lại tách rời đất liền, nó rất nhạy cảm với những thay đổi. Cuối
cùng là cần có sự phối hợp giữa các quốc gia láng giềng có vùng biển chung về phát triển
kinh tế biển nhằm bảo vệ môi trường biển đạt kết quả tốt, tạo nên sự phát triển bền vững
chung.
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển quốc gia và vùng
1.3.1. Phát triển kinh tế biển Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kinh tế biển đóng góp khoảng 47 - 48%
GDP giai đoạn 2000 – 2008, trong đó GDP của riêng các ngành kinh tế biển chiếm khoảng
22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn
40
ra trên biển chiếm tới 98%, trong đó khai thác dầu khí chiếm 64%; hải sản chiếm 14%; hàng
hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển) hơn 11%; du lịch biển hơn 9% . Các ngành kinh tế có
liên quan trực tiếp tới khai thác biển chiếm quy mô còn rất nhỏ, chỉ khoảng 2%. Quy mô
kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD, trong khi sản lượng kinh tế biển của
thế giới ước đạt 1.300 tỷ USD, Nhật Bản 468 tỷ USD, Hàn Quốc 33 tỷ USD. Nhìn chung,
kinh tế biển Việt Nam còn nhiều yếu kém, chưa được đầu tư phát triển. Quy mô kinh tế biển
chưa tương xứng với tiềm năng, giá trị tổng sản phẩm còn nhỏ bé, chỉ bằng 1/20 của Trung
Quốc, 1/94 của Nhật Bản, 1/7 của Hàn Quốc và 1/20 của thế giới.
1.3.1.1. Ngành hải sản
Hải sản là ngành nghề truyền thống của ngư dân ven biển, đóng vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế và ổn định đời sống dân cư ven biển. Kể từ khi đổi mới nền kinh tế
cho đến nay, ngành hải sản đã trở thành một trong những ngành có bước phát triển toàn diện
cả về khai thác, nuôi trồng và chế biến, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8.8%/năm. Sản
lượng thủy sản không ngừng tăng lên, năm 2000 đạt 2.250 nghìn tấn, đến năm 2005 đạt
3.465 nghìn tấn và năm 2009 tăng lên 4.847 nghìn tấn. Trong 10 năm thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển, sản lượng thủy sản tăng 7,7%/năm, sản lượng khai thác tăng bình
quân 5%/năm.
Lĩnh vực đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho hơn 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và
10 vạn lao động dịch vụ nghề cá. Hệ thống hậu cần nghề cá đã có những chuyển biến đáng kể,
đặt biệt là hệ thống cảng cá được xây dựng suốt dọc bờ biển. Riêng trong lĩnh vực đánh bắt xa
bờ, từ năm 1997 đến nay, Nhà nước đã đầu tư 1.300 tỷ đồng đóng 1.292 chiếc tàu đánh bắt xa
bờ trong “Chương trình đánh cá xa bờ”. Theo số liệu thống kê, đến năm 2007, cả nước đã có 21.130 tàu đánh bắt xa bờ (tăng 593 chiếc so với năm 2005) với tổng công suất là 3.091x103 CV (tăng 209,5x103 CV so với năm 2005). Do đó, sản lượng đánh bắt xa bờ liên tục tăng lên.
Giá trị khai thác hải sản đã đạt được khoảng trên 28 ngàn tỷ đồng (tăng 5,5% so với năm 2005
và 13 ngàn tỷ đồng so với năm 2001). Đến năm 2009, sản lượng khai thác đạt 2277,7 tấn,
chiếm 47% tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng. Trong đó, 2086,7 nghìn tấn là khai thác
biển. Tất cả các tỉnh giáp biển đều đẩy mạnh đánh bắt hải sản, nhưng nghề cá ở các tỉnh Nam
Trung Bộ và Nam Bộ có vai trò lớn hơn. Các tỉnh dẫn đầu về sản lượng đánh bắt là Kiên
Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Định, Ninh Thuận và Cà Mau. Riêng 5 tỉnh này chiếm 50%
sản lượng thủy sản khai thác của cả nước.
41
Nghề nuôi trồng hải sản được phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa phương ven biển. Sản
lượng nuôi trồng hải sản nước lợ, nước mặn liên tục tăng. Các hình thức và chủng loại nuôi
trồng cũng trở nên đa dạng hơn (nuôi tôm, cua, cá trong đầm; trong lồng, bè – đối với một
số cá đặc sản và tôm hùm; nuôi các loại thân mền như ốc hương, vẹm xanh, tu hài,
ngao,…). Phương thức nuôi cũng ngày càng hiện đại hơn, từ nuôi quảng canh sang thâm
canh và nuôi công nghiệp. Do đó, các sản phẩm đạt chất lượng cao hơn và được xuất khẩu
rộng rãi hơn thông qua chế biến. Hiện nay, tỉ trọng nuôi trồng cũng tăng trong cơ cấu ngành
hải sản, năm 2009 chiếm 53% với sản lượng đạt 2569,9 nghìn tấn. Trong đó các tỉnh ven
biển đều có sản lượng nuôi biển lớn như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre, Kiên
Giang,…
Chế biến thủy hải sản những năm gần đây cũng được đầu tư phát triển cả về chất
lượng và chủng loại mặt hàng phù hợp với thị hiếu tiêu dùng trong và ngoài nước. Đến nay,
đã có hơn 390 nhà máy chế biến thủy hải sản. Trong đó, hàng trăm nhà máy được công nhận
đạt chuẩn và 60% cơ sở chế biến được công nhận tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của
ngành. Đặc biệt chế biến hải sản xuất khẩu phát triển mạnh. Trong năm 2010, kim ngạch
xuất khẩu thủy sản có bước phát triển mạnh, đạt 4,94 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ
năm 2009. Về thị trường xuất khẩu năm 2010 vẫn chủ yếu là những thị trường truyền thống:
EU, Mỹ, Nhật, Nga và một số thị trường mới là Trung Đông và Nam Mỹ. Sản phẩm thủy
sản Việt Nam đã có mặt tại hơn 300 quốc gia và vùng lãnh thổ và đang dần dần xâm nhập
vào các thị trường mới. Cơ cấu thị trường chuyển biến theo hướng tích cực. Dẫn đầu vẫn là
thị trường Nhật Bản (842,6 triệu USD) chiếm tỷ trọng 25,09%. Thị trường EU (723,5 triệu
USD) đã vượt lên vị trí thứ hai, chiếm 21,55% thị phần; Mỹ (664,3 triệu USD) lùi xuống vị
trí thứ ba với tỷ trọng 19,78%. Các thị trường lớn tiếp tục theo phải kể là Hàn Quốc (210,3
triệu USD), Ôxtrâylia (126,5 triệu USD), Nga (126,4 triệu USD).
1.3.1.2. Ngành hàng hải
Ngành hàng hải Việt Nam đã có những bước phát triển khá đồng bộ trong 20 năm qua
cả về hệ thống cảng biển, về đội tàu và hoạt động vận tải, góp phần rất quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế biển nói riêng và kinh tế cả nước nói chung theo hướng mở cửa.
Đồng thời, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển, nhất là kinh tế đối ngoại.
Về hệ thống cảng biển: quy mô cảng ngày càng tăng về số lượng và chất lượng,
cuối năm 2009 nước ta có hơn 149 cảng biển phân bố dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam.
Bên cạnh đó còn có trên 10 khu chuyển tải để tăng cường khả năng thông qua của hàng hóa
42
và tạo điều kiện cho những tàu có trọng tải lớn ra vào cảng dễ dàng, an toàn. Trong đó có 4
cảng có công suất lớn hơn 10 triệu tấn là cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng,
cảng Cái Lân; 14 cảng có công suất trên 1 triệu tấn, còn lại là cảng có quy mô nhỏ, khả năng
neo đậu tàu bè 3.000 tấn trở xuống. Hệ thống cảng biển nước ta được chia thành 6 nhóm: 1–
Nhóm cảng biển phía Bắc (cảng Hải Phòng, Cái Lân, Cửa Ông, Hòn Gai,…); 2 – Nhóm
cảng biển Bắc Trung Bộ (các cảng quan trọng như Nghi Sơn, Vũng Áng); 3 – Nhóm cảng
biển Trung Trung Bộ (từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi gồm các cảng chính Hòn La, Chân
Mây, Đà Nẵng, Dung Quất); 4 – Nhóm cảng biển Nam Trung Bộ (từ Bình Định đến Bình
Thuận có cảng Quy Nhơn, Nha Trang, tương lai là Vân Phong); 5 – Nhóm cảng biển Đông
Nam Bộ (cảng Sài Gòn, Vũng Tàu – Thị Vải và cảng Cái Mép đang xây dựng) và 6 – nhóm
cảng đồng bằng sông Cửu Long. Khối lượng hàng hóa qua cảng tăng nhanh, năm 2010 tổng
công suất qua cảng của Việt Nam hơn 100.000 tấn/năm, tốc độ tăng bình quân 17%/năm.
Bước đầu hiện đại hóa trang thiết bị xếp dỡ, qui hoạch và sắp xếp lại kho bãi, xây dựng và
nâng cấp hệ thống cầu cảng nên năng lực xếp dỡ được nâng cao, giải phóng tàu nhanh. So
với quốc tế, nhìn chung hệ thống cảng biển còn nhỏ nhưng thời gian qua hệ thống cảng biển
Việt Nam đã đảm nhiệm hầu hết hàng hóa ngoại thương của nước ta và hỗ trợ một phần
việc trung chuyển hàng xuất khẩu của Lào. Hơn 80% khối lượng hàng hóa nhập khẩu được
vận chuyển thông qua hệ thống cảng biển.
Về đội tàu: cùng với sự tăng nhanh khối lượng hàng hóa vận chuyển, đội tàu biển
Việt Nam cũng từng bước được đổi mới và phát triển. Hiện nay nước ta có trên 1.000 tàu
với tổng vận tải lớn hơn là 3,5 triệu DWT. Nòng cốt của đội tàu biển quốc gia là đội tàu của
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), với số lượng đội tàu trọng tải khoảng
1.125.159 DWT, chiếm khoảng 50% tổng trọng tải của đội tài quốc gia. Đội tàu không chỉ
tăng năng lực vận tải mà còn có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu, chất lượng, tạo thêm thị
trường và trực tiếp tham gia thị trường khu vực, khách hàng nước ngoài đã sử dụng trên
50% năng lực đội tàu Việt Nam.
Trình độ và năng lực đóng, sửa chữa tàu biển so với trước đây đã có tiến bộ vượt bậc,
hiện đại hóa một bước theo hướng tập trung quy mô lớn, bước đầu có phân công chuyên
môn hóa, vượt ra đóng tàu cỡ lớn, chuyên dùng đạt chất lượng đăng kiểm quốc tế.
1.3.1.3. Khai thác khoáng sản biển
43
Ngành dầu khí: trên biển nước ta còn rất trẻ và có tấn dầu đầu tiên vào năm 1986.
Đến này, gần 25 năm ngành công nghiệp dầu khí đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng
và có giá trị đóng góp cao nhất trong các ngành kinh tế biển, chiếm tới 64% tổng GDP.
khí. Qua thăm dò, đã xác định được các mỏ dầu khí
Về tìm kiếm, thăm dò dầu khí trên toàn thềm lục địa Việt Nam. Đã xác định tiềm năng và trữ lượng dầu khí của Việt Nam khoảng 3 – 4 tỷ m3 dầu quy đổi, trong đó 0,9 đến 1,2 tỷ m3 đầu vào và 2.100 – 2.800 tỷ m3
thương mại như Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Sư tử đen, Sư tử vàng,
Lan Tây, Lan Đỏ, Hải Thạch, Rồng Đôi, Rồng Đôi Tây, Cái Nước, Bunga – Kekwa;… Phần
lớn trữ lượng tiềm năng còn lại tập trung chủ yếu ở vùng nước sâu, xa bờ. Việt Nam có trữ
lượng khí thiên nhiên lớn hơn dầu, nếu so sánh trữ lượng xác minh về dầu khí thì Việt Nam
đứng thứ ba ở khu vực Đông Nam Á, sau Inđônêsia và Malaysia.
Về khai thác dầu khí với mức khai thác ngày càng tăng, năm 1986 đạt sản lượng 0,4
triệu tấn, đến năm 1999 đạt 7 triệu tấn và năm 2005 đạt sản lượng 18,8 triệu tấn dầu thô và 6,89 tỷ m3 khí. Sản phẩm dầu thô hầu như được xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất khẩu đạt
7,44 tỷ USD, là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế biển hiện nay.
Về xây dựng công nghiệp lọc dầu và sử dụng khí đã đầu tư hoàn thành hệ thống thu
gom và vận hành khí đồng hành các mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông. Hiện nay, hệ thống này vận chuyển vào bờ khoảng 5,5 triệu m3 khí/ngày (khoảng 2 tỷ m3/năm), cung cấp trên 5 triệu m3
khí khô/ngày cho các nhà máy điện ở Bà Rịa, Phú Mỹ,… Đường ống dầu khí Nam Côn Sơn với công suất tối đa 7 tỷ m3 khí/năm. Các dự án khí – điện – đạm Cà Mau gồm đường ống dẫn khí từ khu vực biển chồng lấn với Malaysia về Cà Mau với công suất 2 tỷ m3/năm, nhà
máy phân đạm Cà Mau công suát 800.000 tấn/năm đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Hiện
tại, nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi đã đi vào hoạt động với công suất lọc 6,5 tấn
dầu thô/năm. Sản phẩm nhà máy bao gồm: LPG, xăng không chì, dầu hỏa, nhiên liệu phản
lực, diezen (DO), nhiên liệu đốt lò (FO) và propylene với chất lượng đạt tiêu chuẩn Việt
Nam. Hiện nay, tập đoàn dầu khí Việt Nam đang triển khai thêm hai nhà máy lọc dầu tại
Nghi Sơn (Thanh Hóa) và Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu), sẽ đưa vào vận hành năm 2015.
Khai thác khoáng sản: các khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn ở vùng ven
biển nước ta là than, sắt, cát thủy tinh và vật liệu xây dựng khác… Những mỏ đang khai
thác là Quảng Xương, Thanh Hoá (trữ lượng Ti: 80.198 tấn, Zn: 2.298 tấn), mỏ Cẩm Hoà
(trữ lượng Ti: 2.500.000 tấn, Zn: 85.995 tấn), mỏ Kẻ Ninh (trữ lượng Ti: 443.475 tấn, Zn:
35.126 tấn), mỏ Kẻ Sung (trữ lượng Ti: 3.370.000 tấn, Zn: 100.000 tấn), mỏ Đề Gi (trữ
44
lượng Ti: 1.749.599 tấn, Zn: 78.978 tấn), mỏ Hàm Tân (trữ lượng Ti: 1.300.000 tấn, Zn:
442.198 tấn).
Than đá phân bố dọc biển Hòn Gai – Cẩm Phả và kéo dài ra các đảo. Trữ lượng than
đá ven biển Quảng Ninh khoảng 3 tỷ tấn, cho phép khai thác hàng chục triệu tấn/năm. Than
nâu phân bố ở độ sâu 300 – 1000m thuộc đồng bằng sông Hồng và kéo dài ra biển với trữ
lượng dự đoán hàng trăm tỷ tấn. Than bùn phân bố dọc ven biển các tỉnh Khánh Hòa,
Quảng Bình Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Cà Mau,… tập trung lớn ở U Minh
với trữ lượng trên 100 triệu tấn.
Titan phân bố rất phổ biến dọc bờ biển với trữ lượng dự đoán khoảng 13 triệu tấn, tập
trung ở Bình Ngọc, Sầm Sơn, Kỳ Anh, Cát Khánh, Hàm Tân.
Cát thủy tinh là khoảng sản ven biển có tiềm năng lớn nhất với trữ lượng dự đoán hàng
trăm tỷ tấn. Các mỏ thủy tinh lớn và quan trọng như Vân Hải, Ba Đồn, Nam Ô, Thủy Triều,
Hồn Gốm,… Mặt khác, còn nhiều khoáng sản khác phân bố rộng khắp dọc theo bờ biển và
các đảo của nước ta.
Nghề muối: Nước ta có 120 xã thuộc 20 tỉnh thành ven biển sản xuất muối với tổng
diện tích khoảng 15.000 ha và trên 80 nghìn lao động nghề muối, liên quan cuộc sống của 250
nghìn người dân. Đã sản xuất được bình quân 1 triệu tấn/năm (năm thấp nhất 600 ngàn tấn,
cao nhất 1,5 triệu tấn). Các tỉnh có nghề muối phát triển mạnh hiện nay là Quảng Ngãi, Ninh
Thuận, Bình Thuân, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu,… Hiện nay, ngành muối Việt Nam đang
tích cực triển khai các biện pháp tích cực để nâng cao sản lượng và chất lượng muối. Như đầu
tư cải thiện công nghệ mới, chuyển hướng sản xuất muối thủ công mang tính nhỏ lẻ sang sản
xuất công nghiệp, nhằm đạt mục tiêu đáp ứng được khoảng 70% tổng sản lượng muối tiêu
thụ.
1.3.1.4. Du lịch biển
Vùng biển và ven biển nước ta có nhiều cảnh quan du lịch đẹp, tập trung ba bộ phận du
lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề của cả nước. Trong thời gian gần đây, nhiều
địa phương trên cả nước có biển đã chọn du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn, tăng nguồn
thu cho ngân sách của tỉnh, đồng thời giải quyết công ăn việc làm, là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế biển nói riêng và kinh tế nói chung. Trong các ngành kinh tế thì du lịch
biển chiếm tỷ trọng lên đến 9%, du lịch biển đã tạo việc làm gián tiếp cho hơn 60 vạn lao
động là cư dân ven biển.
45
Hàng năm, ngành du lịch nước ta đã thu hút 73% số lượt khách quốc tế, với tốc độ tăng
trưởng bình quân khoảng 12,6%/năm. Năm 1997, số lượng khách quốc tế đến biển đạt 2,1
triệu người, năm 2000 lượng khách đạt 3,29 triệu người, trong năm 2005 ngành du lịch đón 5,3
triệu lượt khách, năm 2010 đón hơn 7 triệu lượt khách. Khách du lịch quốc tế đến các khu vực
trọng điểm tăng nhanh, riêng khu vực Quảng Ninh – Hải Phòng và Huế - Đà Nẵng tăng
41%/năm; Bà Rịa Vũng Tàu tăng 22,6%/năm.
Tuy nhiên, theo Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch, du lịch biển Việt Nam trong thời
gian qua vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch, mặc du tài nguyên
phát triển du lịch được đánh gia phong phú, đa dạng. Nguyên nhân kể đến đầu tiên là chúng
ta có tàu chuyên biệt cho du lịch, công tác quảng bá chưa được quan tâm, chưa tạo ra được
những sản phẩm du lịch biển đặc thù, độc đáo riêng. Để hoạt động du lịch biển đạt khoảng
14 – 15% GDP của kinh tế biển vào năm 2020, ngành du lịch Việt Nam cần có những giải
pháp đồng bộ trong quy hoạch và quản lý du lịch.
1.3.2. Phát triển kinh tế biển vùng đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSCL là vùng duy nhất của cả nước tiếp giáp 3 mặt biển: Đông, Tây, Nam với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% bờ biển quốc gia, vùng biển rộng hơn 360.000 km2, có gần 200
đảo và quần đảo, trong đó có đảo lớn nhất nước là Phú Quốc. Đất Chín Rồng không chỉ là
vựa lúa, trái cây, thủy sản của cả nước, mà còn có tiềm năng kinh tế biển rất lớn. Nói đến
tiềm năng biển ĐBSCL, có 2 lợi thế quan trọng. Một là, tiềm năng tự nhiên với bờ biển dài,
diện tích lãnh hải thuộc chủ quyền rộng, tài nguyên, nguồn lợi tự nhiên phong phú, đa dạng
(thủy sản, khoáng sản, dầu khí, cảnh quan biển, đảo…). Hai là, có vị trí địa – kinh tế - chiến
lược do vùng nằm gần tuyến đường hàng hải Đông – Tây, hiện diện nhiều nền kinh tế lớn
của thế giới, là một cửa ngõ quan trọng xét trên nhiều mặt, nhất là trong thời đại bùng nổ
phát triển của châu Á – Thái Bình Dương.
Phát triển mạnh kinh tế biển với các ngành chủ yếu là dầu khí, hàng hải, hải sản, du
lịch biển và kinh tế hải đảo. Trong hai ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta là dầu khí và
thủy sản, đạt kim ngạch hàng tỉ USD/năm, thì ĐBSCL đóng góp quan trọng với 52% sản
lượng, khoảng 66% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
Nhìn chung kinh tế biển vùng ĐBSCL chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chỉ
mới được xác định là trọng điểm phát triển trong thời gian gần đây, có thể điểm qua thực
trạng phát triển các ngành kinh tế biển chủ yếu:
46
• Ngành thủy hải sản: là nghề truyền thống vốn có từ lâu đời của nhân dân ven biển
Nam Bộ. Trong 10 năm gần đây, sản lượng hải sản khai thác trung bình 5%/năm. Tuy vậy
năng suất và sản lượng khai thác ở khu vực gần bờ (có độ sâu dưới 30m nước) và khu vực
ven bờ (có độ sâu dưới 20m nước) đã giảm rõ rệt. Việc khai thác thủy sản xa bờ tới các ngư
trường xa trên biển Đông đã được chú trọng và phát triển trong những năm gần đây, toàn
vùng cung cấp khoảng 52% sản lượng thủy sản đánh bắt của cả nước; Về nuôi trồng phát
triển mạnh, hằng năm diện tích nuôi trồng thủy sản đều tăng, năm 2011 có 795.000 ha (tăng
gần 600.000 ha so với năm 2001), trở thành vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất (chiếm 70%
diện tích nuôi trồng và 58% sản lượng thủy sản cả nước); Về chế biến thủy hải sản được
phát triển mạnh và có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực và nổi tiếng của thủy sản nước ta
như tôm đông lạnh, cá basa. Nghề chế biến hải sản nổi tiếng với thương hiệu nước mắm Phú
Quốc, chế tác các sản phẩm mỹ nghệ, trang sức đắt tiền như đồi mồi, ngọc trai. Mỗi năm
ĐBSCL đóng góp 70% kim ngạch xuất khẩu thủy sản, đem lại một nguồn thu ngoại tệ lớn
cho đất nước.
• Ngành khai thác dầu khí: ở thềm lục địa vùng biển Nam Bộ có tầm quan trọng và
quy mô lớn nhất cả nước. Các hoạt động tìm kiếm, thăm do và khai thác luôn diễn ra và có
xu hướng mở rộng, phát triển vì ngành dầu khí đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Đồng thời, ngành dầu khí phát triển cũng có tác động trực tiếp đến sự phát
triển của nhiều ngành sản xuất trong vùng và khu vực, đến môi trường tự nhiên. Hiện tại các
dự án trọng điểm như Trung tâm khí – điện – đạm Cà Mau, đường ống dẫn khí lô B – Ô
Môn dài gần 400 km khi hoàn thành hoàn chỉnh sẽ đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế
của vùng.
• Giao thông vận tải biển: nhìn chung chưa có sự phát triển mạnh trong thời gian qua
do chưa có sự đầu tư. Theo quy hoạch cảng biển Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến
năm 2030, vùng có 14 cảng biển: cảng loại II có cảng Đồng Tháp, Mỹ Thới (An Giang),
Vĩnh Long, Mỹ Tho (Tiền Giang), Năm Căn, Hòn Chông, Bình Trị (Kiên Giang)...; Cảng
Cần Thơ là cảng tổng hợp đầu mối khu vực. Như vậy bình quân mỗi tỉnh có hơn một cảng,
trong tương lai nếu hệ thống cảng biển được đầu tư thì khối lượng hàng hóa xuất khẩu
không cần quá cảng vùng Đông Nam Bộ, tạo điều kiện quan trọng cho kinh tế vùng phát
triển.
• Du lịch biển: ĐBSCL nổi tiếng với các sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch miệt
vườn, du lịch sông nước. Thời gian gần đây, du lịch biển vùng đã có bước khởi sắc, trong đó 47
đảo Phú Quốc đã và đang trở thành khu du lịch biển có tầm cỡ quốc gia và quốc tế, tạo đà
phát triển cho những bước phát triển mới cho du lịch Nam Bộ. Nếu được đầu tư và tạo mối
liên kết trong tương lai không xa du lịch biển sẽ có đóng góp lớn trong cơ cấu kinh tế biển
của vùng và cả nước nói chung.
Tóm lại, hòa chung với xu thế của cả nước là đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Từ các
vùng miền, đến các tỉnh thành trong cả nước đều đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế biển,
vùng ĐBSCL đang được sự quan tâm đầu tư của chính phủ cho phát triển nhanh kinh tế
biển. Đây sẽ là điều kiện tốt cho các tỉnh thành có biển có vùng tận dụng cơ hội để đưa ra
những chiến lược riêng của địa phương để hòa vào xu thế chung, thúc đẩy kinh tế biển địa
phương phát triển và hội nhập với xu thế nhân loại./.
48
50
CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ BIỂN TỈNH BẠC LIÊU
2.1. Khái quát chung về tỉnh Bạc Liêu
Vị trí địa lí
Bạc Liêu là tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền đất cực Nam của Tổ Quốc, nằm trải dài từ 105014’15” đến 105051’54” kinh độ Đông và từ 9000’32” đến 9038’09” vĩ độ Bắc. Phía Bắc giáp các tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang, phía
Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau, phía Đông
và Đông Nam giáp biển Đông.
Toàn tỉnh Bạc Liêu có diện tích tự nhiên là 2.541,9 km2, đứng hàng thứ 8 trong 13
tỉnh, thành của vùng đồng bằng sông Cửu Long (lớn hơn diện tích của các tỉnh Tiền Giang,
Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh và Hậu Giang).
Ngày 1/1/1997 Bạc Liêu được tái lập với 4 đơn vị hành chính bao gồm thị xã Bạc Liêu
và 3 huyện là Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai. Hiện nay, Bạc Liêu gồm các đơn vị hành chính
là thành phố Bạc Liêu và 6 huyện: Hồng Dân, Phước Long, Vĩnh Lợi, Giá Rai, Đông Hải và
Hòa Bình.
Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
- Địa hình: Bạc Liêu là vùng đất bồi trẻ, địa hình tương đối bằng phẳng và thấp,
hướng nghiêng chính từ Đông Bắc xuống Tây Nam; cao độ mặt đất bình quân từ 0,3 đến
+0,5 m. Độ dốc trung bình toàn tỉnh từ 1-1,5 cm/km.
- Khí hậu – thủy văn: Bạc Liêu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, thời tiết chia
thành 2 mùa khô và mùa mưa rõ rệt. Lượng mưa bình quân cả năm khoảng 1867,8 mm, nhiệt độ không khí trung bình 26,50C, số giờ nắng trong năm khoảng 2300 giờ, lượng bức xạ bình quân 2410 Kcal/cm2, độ ẩm không khí trung bình 80%.
Bạc Liêu không bị ảnh hưởng trực tiếp của lũ lụt hệ thống sông Cửu Long, nhưng chịu
ảnh hưởng của chế độ thủy triều biển Đông và một phần chế độ nhật triều biển Tây.
- Tài nguyên đất: quỹ đất của tỉnh Bạc Liêu có nhiều biến động do bồi và lở ven
biển, trong đó diện tích bồi lớn hơn lở. Đất Bạc Liêu chia thành 5 nhóm chính là nhóm đất
phèn 124.804 ha (chiếm 51,74% quỹ đất); nhóm đất mặn 95.698 ha (chiếm 38,44%); nhóm
51
đất nhân tác 11.330 ha (chiếm 4,55%); nhóm đất phù sa (chiếm 2,03% quỹ đất); nhóm đất
cát 452 ha (chiếm 3,24% quỹ đất). Phần lớn diện tích đất trong tỉnh là đất phù sa lâu năm và
ổn định, lượng mùn và đạm cao.
- Tài nguyên nước: trữ lượng nước của tỉnh nhìn chung đủ đáp ứng cho nhu cầu phát
triển công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt.
- Tài nguyên biển: vùng biển Bạc Liêu rộng trên 20.000 km2, trữ lượng hải sản lớn,
phong phú về chủng loại. Đường bờ biển dài 56 km, với 3 cửa biển lớn là Gành Hào, Nhà
Mát và Cái Cùng. Ven biển Bạc Liêu có rừng phòng hộ và bãi bồi, tiềm năng lớn cho phát
triển nghề nuôi trồng và du lịch.
- Tài nguyên rừng: chủ yếu là rừng ngập mặn và phèn, có năng suất sinh học cao, giá
trị phòng hộ và môi trường lớn. Diện tích rừng và đất rừng chiếm khoảng 2,1% diện tích tự
nhiên. Hệ động thực vật rừng cũng khá phong phú, đặc biệt là các loài chim về đây cư trú,
làm tổ. Bạc Liêu nổi tiếng với các sân chim có diện tích khá lớn và tính đa dạng sinh học
khá cao.
- Tài nguyên khoáng sản: theo các tài liệu địa chất, Bạc Liêu hầu như không có tài
nguyên khoáng sản nào đáng kể, nhất là trữ lượng công nghiệp. Gần đây, qua khảo sát đã
xác định được vài mỏ sét nhưng khả năng khai thác rất thấp.
Tình hình phát triển kinh tế
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, kinh tế của tỉnh gặp nhiều khó khăn trong phát triển. Giai
đoạn 10 năm trở lại đây, kinh tế tăng trưởng ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo
hướng hiện đại, cơ sở hạ tầng đang được đầu tư và đang phát huy tác dụng, đời sống của
nhân dân từng bước cải thiện và nâng cao.
Bảng 2.1: GDP tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2002 – 2011 (đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2002 2004 2006 2008 2011
GDP (giá hiện hành) 4.690,1 6.702,3 8.832,2 12.338,2 21.290,5
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2005,2011 [5].
GDP (giá so sánh 1994) 3.318 4.535 5.656 7.045 9.826
Giá trị GDP (theo giá hiện hành) tăng trưởng liên tục, năm 2002 đạt 4.690 tỷ đồng đến
năm 2011 đạt 21.690 tỷ đồng, tăng 17.000 tỷ đồng. Theo báo cáo kinh tế - xã hội của tỉnh
năm 2011, thì tốc độ tăng trưởng GDP đạt 12%, thấp hơn những năm trước nhưng vẫn đạt
52
mức tăng hợp lý trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có nhiều biến động.
Nguồn:Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu, 2002 – 2011 [5].
Hình 2.1: Biểu đồ cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2002 – 2011
Về cơ cấu kinh tế giai đoạn 2002 – 2011, đã có sự chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa với sự gia tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng trong tổng sản phẩm của
tỉnh (từ 20,6% năm 2002 lên 24,52% năm 2011); tỷ trọng nông – lâm – thủy sản giảm tương
ứng từ 59,6% năm 2002 xuống còn 51,70% năm 2011; tỷ trọng ngành dịch vụ tăng không
đáng kể từ 19,8% năm 2002 lên 23,28% năm 2011.
Thu nhập bình quân đầu người tăng lên đáng kể, năm 2011 đạt 24,8 triệu đồng/người
so với năm 2006 đạt 10,7 triệu đồng/người, tăng gấp 2,32 lần. Tuy nhiên, mức thu nhập
bình quân vẫn còn thấp hơn mức trung bình cả nước.
Thu ngân sách liên tục tăng trong giai đoạn 2002 – 2011 và vượt chỉ tiêu dự báo. Năm
2002 thu ngân sách trên địa bàn đạt 633,23 tỷ đồng, đến năm 2011 đã tăng lên 1.617 tỷ
đồng, đạt 131,46% dự toán, trong vòng 10 năm tăng lên 2,55 lần.
Chi ngân sách cũng tăng lên đáng kể, năm 2002 chi 687,39 tỷ đồng thì năm 2011 tăng
lên 2.490 tỷ đồng (tăng gấp 3,62 lần). Như vậy chi ngân sách luôn lớn hơn thu ngân sách,
song tỷ lệ thu chi ngân sách có sự tăng dần quá các năm.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2011 lên đến 284 triệu USD, tăng 29,68% so cùng kỳ.
Các đơn vị trong nước xuất khẩu đạt 234,3 triệu USD, tăng 30,21%; đơn vị có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 49,6 triệu USD, tăng 27,24%.
53
Tình hình dân cư và xã hội:
- Về dân số: Bạc Liêu có quy mô dân số trung bình. Năm 2011, số dân đạt 873.293 (chiếm khoảng 1,1% dân số cả nước), mật độ dân số là 340 người/km2 (bằng 79,6% mức
bình quân chung của đồng bằng sông Cửu Long và gấp 1,28 lần mật độ trung bình của cả
nước).
Trong những năm qua, tỉnh Bạc Liêu đã quán triệt và thực hiện tốt chương trình dân số
và kế hoạch hóa gia đình. Năm 2011, tốc độ gia tăng dân số tự nhiên chỉ còn 1,2%, chất
lượng dân số được nâng cao rõ rệt. Tổng tỷ suất sinh đã giảm mạnh và đã gần đạt mức sinh
thay thế, năm 2011 đạt 1,63%.
Dân số khu vực thành thị năm 2011 là 234.679 người, chiếm 26,87%, khu vực nông
thôn là 638.614 người, chiếm 73,13%. Nhìn tổng thể ta thấy tỉ lệ dân thành thị vẫn còn thấp,
Bạc Liêu vẫn là một tỉnh “thuần nông”. Như vậy tỉ lệ dân thành thị của tỉnh Bạc Liêu so với
dân số chung thấp hơn so với bình quân toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước
(22,8% và 29,6%), tốc độ đô thị hóa của tỉnh diễn ra còn rất chậm so với cả nước.
Dân cư phân bố không đều, trừ các thị trấn và trục đường quốc lộ 1A, dân cư tập trung
hình thành các cụm và theo tuyến khá tập trung, còn lại phân tán thành rất nhiều cụm và
tuyến dân cư nhỏ. (thành phố Bạc Liêu mật độ dân số gấp 2,5 lần mật độ trung bình của
tỉnh, các huyện Giá Rai và Vĩnh Lợi có mật độ dân số cao hơn mức trung bình của tỉnh (hơn 50 người/km2), các huyện còn lại có mật độ dân số thấp hơn mức trung bình của tỉnh).
Thành phần dân tộc, Bạc Liêu là nơi sinh sống chủ yếu của 3 dân tộc anh em, Kinh –
Hoa – Khmer cùng sinh sống trong cộng đồng rất hòa thuận, dân tộc Kinh chiếm đa số gần
89% dân số, số hộ gia đình dân tộc Hoa chiếm gần 3%, còn lại là dân tộc Khmer, các dân
tộc khác chiếm chưa tới 0.02%.
- Về nguồn lao động: Bạc Liêu có nguồn lao động dồi dào, một cơ cấu “dân số
vàng”, số người trong độ tuổi có khả năng lao động chiếm số lượng lớn (năm 2011 chiếm
khoảng 63% dân số toàn tỉnh). Trong đó lao động nam chiếm 54,4%, lao động nữ chiếm
45,6%. Chất lượng nguồn lao động của tỉnh Bạc Liêu đã có những sự cải thiện đáng kể, số
lượng lao động qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cũng được bổ sung thêm vào nguồn lao
động của tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động, đây là một động lực lớn thúc
54
đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh.
2.2. Tiềm năng phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu
2.2.1. Tiềm năng về vị trí địa lí vùng biển và ven biển
Bạc Liêu nằm ở rìa phía Đông bán đảo Cà Mau thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long
và là tỉnh giáp với biển Đông. Vùng biển và ven biển Bạc Liêu (VBVBBL) có đường bờ
biển dài 56 km và bao gồm các đơn vị hành chính: huyện Hòa Bình, huyện Đông Hải, thành
phố Bạc Liêu với các tiếp giáp như sau:
- Phía Bắc giáp với huyện Vĩnh Lợi – tỉnh Bạc Liêu.
- Phía Tây Bắc giáp với huyện Phước Long và Giá Rai – tỉnh Bạc Liêu.
- Phía Đông Nam giáp với biển Đông.
- Phía Tây và Tây Nam giáp với tỉnh Cà Mau.
- Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng.
Vùng biển thuộc chủ quyền của tỉnh Bạc Liêu rộng khoảng hơn 20.000 km2, một vùng
biển giàu tiềm năng, nguồn lợi hải sản rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, ven biển là 1
dải bãi bồi kéo dài theo đường bờ biển và hệ thống rừng phòng hộ, đây sẽ là môi trường
sinh thái thuận lợi để nghề nuôi trồng thủy hải sản phát triển.
VBVBBL có trục QL1A đi ngang và nằm song song với đường bờ biển, từ đó có thể
xây dựng các tuyến giao thông nối vùng biển với QL1A như hình xương cá, thuận lợi cho
việc giao lưu kinh tế giữa vùng biển với các huyện khác trong tỉnh, cũng như giao lưu với
các tỉnh khác trong vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Hiện nay việc xác định hợp lý ranh giới vùng biển và ven biển Bạc Liêu là vấn đề rất
quan trọng để có thể khai thác và quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên biển. Việc phân
vùng kinh tế của tỉnh trong các quy hoạch không ăn khớp với địa giới hành chính các huyện
(chia tỉnh ra thành hai vùng kinh tế là vùng phía Bắc Quốc lộ 1A và vùng phía Nam Quốc lộ
1A). Vấn đề này đã gây ra khó khăn rất lớn trong điều tra, thống kê các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và tình hình kinh tế - xã hội. Cũng như quá trình quản lý, khai thác và so sánh
các chỉ số phát triển của VBVBBL với các địa bàn khác trong tỉnh, đặc biệt là so sánh về
phát triển kinh tế biển với phát triển kinh tế chung của tỉnh hay với kinh tế biển của các tỉnh
khác trong cả nước. Vì vậy, theo quan điểm quán triệt của đề tài thì ranh giới VBVBBL là
địa giới hành chính của ba huyện thị ven biển gồm thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình và
55
huyện Đông Hải.
Tóm lại, với vị trí địa lí và ranh giới VBVBBL như trên, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các ngành kinh tế biển phát triển thông qua việc khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên
sẵn có, và thông qua giao lưu kinh tế với các tỉnh trong vùng đồng bằng Sông Cửu Long,
vùng Đông Nam Bộ theo Quốc lộ 1A.
2.2.2. Tiềm năng về tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.2.2.1. Tự nhiên
- Khí tượng, thủy văn: nằm trong vùng bán đảo Cà Mau của vùng đồng bằng sông
Cửu Long nên khí hậu vùng ven biển mang những đặc trưng điển hình của khí hậu nhiệt đới
ẩm cận xích đạo, đồng thời chịu ảnh hưởng rõ rệt của biển. Một năm có 2 mùa là mùa mưa
bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 11 dương lịch, mùa khô bắt đầu từ tháng 12 và kết
thúc vào tháng 4 năm sau. Tuy nhiên, khí hậu trong những năm gần đây không còn phân
mùa rõ rệt như trước, vào các tháng mùa mưa thường xuất hiện những đợt nắng hạn kéo dài
hoặc xuất hiện nhiều con mưa lớn vào các tháng mùa khô.
56
- Nhiệt độ không khí: chế độ nhiệt cao và ít biến động. Nhiệt độ trung bình năm là 27,20C. Nhiệt độ cao nhất năm 2011 là 28,50C (vào tháng 5), nhiệt độ thấp nhất năm 2011 là 25,70C (vào tháng 1).
57
- Lượng mưa: trung bình năm có sự thay đổi giữa các năm và phân bố không đều theo
mùa, lượng mưa năm 2006 là 2374,8 mm và đến năm 2011 là 1.553 mm. Lượng mưa phân
bố không đều trong các tháng và có sự khác biệt giữa các khu vực trong tỉnh. Lượng mưa
vào các tháng mùa mưa cũng có sự thay đổi phức tạp, năm 2006 chiếm 94,4% lượng mưa cả
năm, đến năm 2011 chỉ chiếm khoảng 80% lượng mưa cả năm.
- Độ ẩm không khí: trung bình trong năm 2011 là 82%, có sự biến đổi theo mùa và
theo chế độ gió mùa. Các tháng mùa khô độ ẩm không khí trung bình 79,7%, các tháng mùa
mưa trung bình 83,7%.
- Tổng số giờ nắng: trong năm 2011 là 2.642,8 giờ. Tháng có số giờ nắng cao nhất
năm 2011 vào tháng 3 với 282,6 giờ và tháng có số giờ nắng thấp nhất năm 2011 vào tháng
9 với 142 giờ.
- Gió: có hai hướng chính là gió Đông và Đông Bắc thổi vào mùa khô, gió Tây và Tây
Nam thổi vào mùa mưa. Bạc Liêu nằm trong vùng ít chịu ảnh hưởng của bão lũ. Tuy nhiên
năm 1997, do tác động của cơn bão số 5 đã gây nhiều thiệt hại đối với sản xuất nông nghiệp,
nước triều vào sâu trong nội đồng làm thay đổi độ mặn trong đất của tỉnh làm nhiều khu vực
không thể trồng lúa hoặc không cho thu hoạch.
- Thủy văn: VBVBBL có hệ thống kênh rạch tương đối dày đặc, có nhiều cửa sông,
kênh rạch chính như sau:
+ Các sông chính tự nhiên: sông Gành Hào ở phía Tây Nam của tỉnh, là ranh giới giữa
tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau, nối từ thành phố Cà Mau đến cửa Gành Hào và ăn thông ra
biển; sông Rạch Gốc ở huyện Đông Hải.
+ Các kênh chính: kênh Bạc Liêu – Cà Mau: chạy dọc từ phía Đông sang phía Tây của
tỉnh, kênh Hòa Bình, kênh Gành Hào – Hộ Phòng – Chủ Chí, kênh Cái Cùng; kênh 30/4;
kênh Chùa Phật…
+ Chế độ thủy văn: nguồn nước mặt và chế độ thủy văn trên sông rạch của toàn tỉnh
chịu tác động của 4 yếu tố chính là địa hình, lượng mưa tại chỗ, nguồn nước sông Hậu đưa
về và chế độ thủy triều biển Đông và biển Tây.
VBVBBL bị ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều biển Đông nên phần lớn đất đai bị
nhiễm mặn (trừ một phần nhỏ diện tích đất nông nghiệp vùng gò cao thuộc xã Vĩnh Mỹ A,
huyện Hòa Bình). Khu vực này hiện đang thực hiện mô hình nuôi tôm công nghiệp và bán
58
công nghiệp, nuôi tôm quãng canh, quãng canh cải tiến kết hợp, tôm – rừng, làm muối và
phát triển rừng ngập mặn ven biển. Một số diện tích đất trồng lúa 1 vụ sử dụng nước mưa tại
chỗ.
Do tác động của các dòng hải lưu đã gây ra tình trạng xói lở và bồi lắng không đều dọc
theo bờ biển. Bạc Liêu nằm trong khu vực chịu tác động của sóng và thủy triều biển Đông,
dưới tác động của sóng, triều, dòng chảy ven bờ cả trong mùa gió Đông Bắc lẫn Tây Nam
nên hình thái bờ biển luôn luôn biến đổi bởi hiện tượng bồi, lở. Điều kiện địa chất bờ biển ở
Bạc Liêu yếu, cường độ chịu lực kém, tính nén lún thấp. Khi chịu tác động của sóng vỗ và
của dòng nước dễ bị hoá lỏng sinh ra bùn, cát chảy, gây sạt lở, sụp đổ làm mất ổn định
đường bờ biển.
Bảng 2.2: Mực nước bình quân tháng tại trạm Gành Hào năm 2011
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu [15].
Mực nước (cm) 44 34 37 19 5 -2 -2 6 7 37 53 52
- Đặc điểm địa hình, đường bờ:
+ Đặc điểm địa hình: Bạc Liêu là vùng đất bồi trẻ, địa hình tương đối thấp; hướng
nghiêng chính từ Đông Bắc xuống Tây Nam; cao độ mặt đất bình quân từ +0,2 m đến +0,5
m. VBVBBL có địa hình cao hơn các vùng khác, cao độ mặt đất bình quân từ +0,4 m đến
+0,8 m. Do có những giồng cát biển không liên tục, tạo nên khu vực có địa hình cao ven
biển hướng nghiêng thấp dần từ biển vào nội địa.
+ Đặc điểm đường bờ: Bạc Liêu có 56 km bờ biển, toàn bộ là bờ biển bùn và có rừng
ngập mặn phân bố dọc khu vực bãi bồi ven biển từ giáp tỉnh Sóc Trăng đến cửa sông Gành
Hào. Vùng ven biển Bạc Liêu có thể chia thành các khu vực như sau:
Những đoạn bờ biển đã và đang bị xói lở quanh năm, đoạn từ giáp ranh Sóc Trăng đến
gần kênh 30/4 với chiều dài khoảng 13 km (khu vực thành phố Bạc Liêu gồm xã Vĩnh Trạch
Đông, xã Hiệp Thành và phường Nhà Mát). Đoạn cuối từ kênh số 3 cũ của thị trấn Gành
Hào đến cửa biển Gành Hào có chiều dài khoảng 4km (Khu vực thị trấn Gành Hào, huyện
Đông Hải). Tốc độ xói lở bình quân hàng năm từ 20 – 30 m theo chiều ngang và 0,5 m theo
phương thẳng đứng.
Những đoạn bờ biển có những tháng lở và những tháng bồi, đoạn từ kênh 30/4 (Nhà
Mát, thành phố Bạc Liêu) đến kênh số 4 (xã Vĩnh Thịnh, huyện Hoà Bình) với chiều dài
khoảng 18 km và đoạn gần kênh cầu Cháy (xã Điền Hải, huyện Đông Hải) đến kênh số 3 cũ
59
của thị trấn Gành Hào với chiều dài khoảng 3 km.
Những đoạn bờ biển được bồi quanh năm, đoạn từ kênh số 4 (xã Vĩnh Thịnh, huyện
Hòa Bình) đến gần kênh cầu Cháy (xã Điền Hải, huyện Đông Hải) với tổng chiều dài 24
km.
Kết quả tính toán từ ảnh vệ tinh giai đoạn 1968 – 1998, cửa sông Gành Hào bị xói lở
từ 0,1 – 0,5 km, đoạn bờ biển huyện Đông Hải được bồi đắp 0,5 – 1,5 km và đoạn bờ biển
huyện Hòa Bình được bồi đắp từ 0,36 – 0,73 km.
Bảng 2.3: Tình trạng biến động bờ biển tỉnh Bạc Liêu (giai đoạn 1968-1998)
Vị trí quan trắc Biến động Quy mô biến động (km)
Cửa sông Gành Hào Bị xói lở 0,1 – 0,5 (a)
Bờ biển huyện Đông Hải Được bồi đắp 0,5 – 1,5 (b)
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu [15].
Bờ biển huyện Hòa Bình Được bồi đắp 0,36 – 0,73 (b)
(a) Chiều rộng bị xói mòn vào sâu đất liền (tối thiểu–tối đa), tính từ đường bờ biển
năm 1968 đến 1988.
(b) Chiều rộng được bồi đắp ra phía biển (tối thiểu – tối đa) tính từ đường bờ biển năm
1968 đến năm 1998.
2.2.2.2. Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên đất: Bạc Liêu có 5 nhóm đất chính với 31 loại đất, với tổng diện tích đất
tự nhiên là 246.872 ha. Ngoài ra còn có 10.022 ha đất có mặt nước ven biển. Phần lớn các
loại đất trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu là đất ngập nước (trừ đất cát giồng ven biển, và đất nhân
tác).
Bảng 2.4: Diện tích các loại đất tỉnh Bạc Liêu năm 2011
TT Tên đất Diện Tích (ha) Tỉ lệ(%)
I Bãi cát, cồn cát và đất cát biển 450 0,18
II Đất mặn 91.792 37,18
III Đất phèn 118.008 47,80
1. Đất phèn tiềm tàng 24.905 10,09
2. Đất phèn hoạt động bị thủy phân 40.225 16,29
IV Đất phù sa 7.601 3,08
60
V Đất nhân tác 22.625 9,16
TT Tên đất Diện Tích (ha) Tỉ lệ(%)
VI Sông 6.396 2,59
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN 246.872 100,00
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu [14].
Đất có mặt nước ven biển 10.022
Bảng trên là diện tích các loại đất trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, riêng đối với VBVBBL
có các nhóm đất chính sau:
+ Nhóm đất cát: diện tích 450 ha (chiếm tỷ lệ 0,18%), phân bố dọc theo bờ biển
thuộc địa bàn thành phố Bạc Liêu và huyện Hòa Bình (khu vực giồng nhãn và giồng giữa
của xã Hiệp Thành, Vĩnh Trạch Đông, phường Nhà Mát của thành phố Bạc Liêu và xã Vĩnh
Hậu A của huyện Hòa Bình), trên địa hình cao nghiêng thoải vào trong đất liền. Đặc điểm lý
hóa tính nổi bật của nhóm đất này là thành phần cơ giới nhẹ, tỷ lệ cát cao, mùn, đạm và các
chất dinh dưỡng thấp, khả năng giữ nước kém, nhưng đất tơi xốp, dễ thoát nước, trên địa
hình cao không bị mặn, nếu đưa tầng đất bên dưới bị mặn lên trên tầng mặt thì khả năng rửa
mặn rất nhanh, nên thuận lợi cho trồng các loại cây trồng cạn như rau, màu và các loại cây
ăn quả có giá trị nếu có khả năng đầu tư tốt.
+ Nhóm đất mặn: diện tích 91.792 ha (chiếm 37,18%), chịu ảnh hưởng mặn của nước
biển do thủy triều hoặc mặn ngầm mao dẫn. Trong đó, căn cứ vào độ mặn chia thành 4 loại
là đất mặn sú vẹt nước, đất mặn nhiều, đất mặn trung bình và đất mặn ít. Tùy theo độ mặn
của các loại đất trên sẽ hình thành nên các vùng thích nghi khác nhau để phục vụ sản xuất
nông – lâm – ngư nghiệp và diêm nghiệp.
+ Nhóm đất nhân tác: có diện tích 22.625 ha, chiếm 9,16% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh, phân bố dọc theo các kênh rạch, các trục lộ giao thông lớn và các khu dân cư tập trung,
bao gồm: đất thổ cư, đất xây dựng cơ bản, đất lập liếp trồng cây lâu năm. Do tác động của
con người, lớp phủ thổ nhưỡng bị xáo trộn và đặc điểm lý hóa tính có nhiều thay đổi.
+ Đất có mặt nước ven biển: VBVBBL còn có hơn 10.022 ha diện tích đất có mặt
nước ven biển, đây chính là phần diện tích đất bãi bồi và có sự biến động hằng năm do hiện
tượng bồi lở ven biển. Vùng đất này là môi trường sinh thái thuận lợi cho các hoạt động
thủy hải sản phát triển, đặc biệt là hoạt động nuôi trồng hải sản (nhất là các loài nhuyễn thể).
- Tài nguyên nước: Bạc Liêu là tỉnh có điều kiện khó khăn về nguồn nước ngọt, các
61
nguồn nước chính của tỉnh nói chung và VBVBBL nói riêng gồm:
+ Nước mưa: là một tài nguyên quý giá cung cấp nguồn nước ngọt. Với lượng mưa
trung bình năm khá cao (giai đoạn 2000 – 2011 đạt 2.128,6 mm) và mùa mưa kéo dài trong
6 tháng tạo điều kiện thuận lợi cho ngành nông nghiệp của tỉnh, nhất là VBVBBL vì chưa
có điều kiện phát triển hệ thống thủy lợi nội đồng. Ngoài ra nước mưa còn là nguồn nước
được đa số người dân nông thôn tích trữ, sử dụng làm nước uống trong mùa khô.
+ Nước mặt: bao gồm 2 loại chính là nước mặn và nước ngọt. Cụ thể, nước mặn phần
lớn địa bàn tỉnh Bạc Liêu chịu ảnh hưởng trực tiếp của triều biển Đông và biển Tây và có hệ
thống kênh rạch chằng chịt ăn thông với nhau, nên nguồn nước mặn rất dồi dào và luôn có
khuynh hướng lấn át nguồn nước ngọt. Tuy nhiên, do biển Đông và biển Tây vừa là nguồn
cấp nước mặn, vừa là nơi nhận nước tiêu cho khu vực ĐBSCL, nên việc kiểm soát chất
lượng nước và khống chế khi có dịch bệnh tôm xảy ra hết sức khó khăn và là một thách đố
lớn đối với công tác quản lý và khai thác nguồn nước này. Nguồn nước mặn VBVBBL đang
được khai thác sử dụng chủ yếu cho nuôi trồng thủy sản mặn/lợ, làm muối và bảo vệ các
khu rừng ngập mặn; Nguồn nước ngọt VBVBBL chủ yếu như nêu trên là do nước mưa tại
chỗ và một phần thông qua các hệ thống kênh dẫn nước từ sông Hậu và nguồn nước ngầm.
Hiện nay, lượng nước ngọt đủ cho mùa mưa, riêng mùa khô vùng thiếu nước cho hoạt động
sản xuất nông nghiệp.
+ Nước ngầm: phân bố trên diện rộng toàn tỉnh và kéo ra cả bên ngoài tỉnh Bạc Liêu. Tổng trữ lượng khai thác nước ngầm của tỉnh là 1.573.792 m3/ngày (trong đó trữ lượng tĩnh trọng lực được đánh giá là 1.569.993 m3/ngày và trữ lượng tĩnh đàn hồi là 3.784 m3/ngày).
Về mặt chất lượng nước thì cũng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất công nghiệp. Ngoài ra
một số nơi còn khai thác nước ngầm để tưới rau, màu hoặc pha loãng nước mặn cho nuôi
thủy sản. Hiện nay, do khai thác quá mức và xâm nhập mặn nên nguồn nước ngầm
VBVBBL đang trong tình trạng hạ thấp mức nước tĩnh khoảng 10 – 20 m và bị nhiễm mặn.
Đây là một thực tế đáng báo động, cần có biện pháp quản lý chặt chẽ việc khai thác nước
ngầm.
- Tài nguyên sinh vật biển và nguồn thủy sản: Vùng đặc quyền kinh tế biển của Bạc Liêu rộng trên 20.700 km2, trữ lượng hải sản lớn, phong phú về chủng loại, trong đó nhiều
loại có trữ lượng và giá trị kinh tế cao như tôm biển các loại, cá Hồng, cá Gộc, cá Sao, cá
Thu, cá Chim, cá Đường. Ngoài ra, ở vùng biển Bạc Liêu còn nhiều loài hải sản khác có thể
62
khai thác hàng hóa như mực, nghêu, sò huyết…
Với 3 cửa biển lớn là Gành Hào, Nhà Mát và Cái Cùng, tỉnh Bạc Liêu có thể phát triển
mạnh ngành vận tải và du lịch biển, trong đó thị trấn Gành Hào có khả năng phát triển thành
Khu kinh tế biển lớn của tỉnh cũng như của vùng ven biển phía Đông của Nam bộ (khu vực
từ Mũi Dinh đến Cà Mau), cung cấp các dịch vụ cho đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Các
cửa biển nối với mạng lưới đường bộ, trong đó có QL1A và 2 tuyến quốc lộ khác sẽ được
xây dựng trong những năm tới sẽ là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất nông, lâm,
diêm nghiệp và thủy sản của tỉnh phát triển.
+ Nguồn lợi tôm, cá và nhuyễn thể: vùng ven biển có chất lượng tương đối tốt, thủy
sinh vật làm thức ăn cho tôm, cá khá phong phú, nên các thành phần loài cá và tôm ở các
thuỷ vực trong tỉnh khá phong phú và đa dạng.
Nguồn lợi cá biển có trên 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài có giá trị kinh tế và
phân bố như sau: cá tầng đáy chiếm 80%, cá nổi chiếm 20%; cá sống vùng biển gần bờ
chiếm 80%, xa bờ chiếm 20%. Cá biển ở Bạc Liêu đa dạng về giống loài, có chu kỳ sống
ngắn, nhiều loài có giá trị và sản lượng cao như: Cá hồng, cá nhụ, cá chim, cá đù đù,…
Nguồn lợi tôm do diện tích tiếp giáp với biển rộng, hàng năm nguồn lợi tôm tự nhiên
cung cấp khoảng vài tỷ con giống các loại. Theo thống kê đã tìm thấy khoảng 33 loài tôm ở
các thuỷ vực tỉnh Bạc Liêu, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao như: sú, thẻ, đất,
chì, sắt, bạc…; Nguồn lợi tôm biển: họ tôm he chiếm ưu thế với 6 giống và 16 loài. Ngoài
ra, còn 01 loài thuộc họ tôm vỗ, 01 loài thuộc họ tôm tít, 01 loài thuộc họ tôm gai, 01 loài
thuộc họ tôm lửa.
Nguồn lợi mực đã phát hiện được 23 loài: Mực nang, mực ống, mực tuột, mực sim….
trong số 53 loài có ở vùng biển Việt Nam.
+ Nguồn lợi ven bờ: nguồn lợi hải sản ven bờ của tỉnh Bạc Liêu chưa có số liệu thống
kê đầy đủ. Theo đánh giá của các nhà khoa học và nhà quản lý cho thấy sản lượng thủy sản
khai thác đã vượt mức khai thác cho phép từ năm 1991 cho đến nay và sức ép khai thác ở
vùng ven bờ vẫn ngày càng gia tăng vì số lượng tàu nhỏ tăng không ngừng, dẫn đến nguồn
lợi hải sản bị khai thác quá mức và suy giảm nghiêm trọng. Nguồn lợi từ nhuyễn thể hai
mảnh vỏ một vài năm trở lại đây đã xuất hiện trên vùng bãi bồi ven biển của tỉnh (có xuất
hiện nhưng mật độ còn thưa, nằm rải rác dọc bờ biển), chủ yếu là nghêu, sò giống; Bạc Liêu
thành lập các hợp tác xã để quản lý, khoanh nuôi, bảo vệ nguồn lợi và cải thiện đời sống cho
63
người dân nghèo ven biển.
- Tài nguyên rừng: theo số liệu thống kê của Sở NN&PTNT tỉnh Bạc Liêu, tổng diện
tích đất lâm nghiệp năm 2011 của toàn tỉnh Bạc Liêu là 5.840,40 ha, riêng VBVBBL là
5.167,0 ha (trong đó diện tích có rừng 3.362,6 ha; diện tích đất nuôi trồng thủy sản và đất
chuyên dùng là 899,9 ha; đất bãi bồi quy hoạch phát triển rừng và vùng đệm rừng đặc dụng
là 913,5 ha ); Diện tích rừng được chăm sóc, bảo vệ của toàn tỉnh là 4.926,90 ha, riêng
VBVBBL là 4.262,5 ha; Tỷ lệ độ che phủ rừng tập trung của toàn tỉnh chiếm 1,63% diện
tích tự nhiên toàn tỉnh, riêng của VBVBBL là 3,31% diện tích tự nhiên của vùng. Rừng
VBVBBL có thể chia ra các dạng sau:
+ Rừng đặc dụng Bạc Liêu thuộc loại khu bảo tồn thiên nhiên: (khu bảo tồn loài hoặc
sinh cảnh) với 254,7 ha vùng lõi (trong đó diện tích có rừng 201,2 ha; đất nuôi trồng thủy
sản, đất chuyên dùng 53,5 ha) và 500 ha vùng đệm hiện đang nuôi trồng thủy sản, trong đó
bao gồm: Vườn chim Bạc Liêu, thuộc địa bàn phường Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu có diện
tích 126,7 ha; Khu rừng đặc dụng thuộc địa bàn ấp Canh Điền, xã Long Điền Tây, huyện
Đông Hải có diện tích 128 ha.
+ Rừng phòng hộ ven biển Bạc Liêu: thuộc loại rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển.
Từ kết quả giải đoán ảnh viễn thám kết hợp với thực tế điều tra, khảo sát thực địa đã phân
lập được các loại rừng chủ yếu bao gồm: rừng tự nhiên, rừng trồng, đất rừng kết hợp nuôi
trồng thủy sản và đất chuyên dùng. Tổng diện tích đất rừng phòng hộ 4.401,6 ha. Nhìn
chung rừng phòng hộ ven biển chủ yếu là rừng non, trữ lượng rừng phòng hộ ven biển được
cải thiện đáng kể, hệ sinh thái rừng được bảo tồn và phát triển.
+ Đất nuôi trồng thủy sản có rừng: tập trung ở khu vực từ đê biển trở vào (mô hình
tôm – rừng) với quy mô diện tích 7.317,3 ha (trong đó diện tích có rừng 2.194 ha, chiếm
30% diện tích và diện tích nuôi trồng thủy sản 5.123,3 ha, chiếm 70% diện tích). Mô hình
tôm – rừng phân theo địa bàn huyện cụ thể như sau: huyện Hòa Bình 1.960 ha (trong đó xã
Vĩnh Hậu 1.000 ha, Vĩnh Hậu A 413 ha, xã Vĩnh Thịnh 547 ha) và huyện Đông Hải
5.357,3 ha (trong đó xã Long Điền Tây 1.970 ha, xã Long Điền Đông 1.150 ha, xã An Phúc
1.100 ha, xã Long Điền 650 ha, xã Điền Hải 337,3 ha và thị trấn Gành Hào 150 ha).
- Tài nguyên khoáng sản: của tỉnh nói chung và VBVBBL nói riêng nghèo nàn. Gần
đây qua khảo sát phát hiện chủ yếu là các mỏ đất sét nằm rải rác trên địa bàn tỉnh, ngoài ra
còn có cát biển tích tụ ven bờ vùng biển Bạc Liêu… Đây là tài nguyên không tái tạo và với
trữ lượng thấp nên chưa được cơ quan chuyên môn điều tra, thăm dò đánh giá tiềm năng từ
64
đó hoạt động khai thác tài nguyên còn rất hạn chế. Có thể kể đến một số mỏ sét VBVBBL
như mỏ sét ấp 14, xã Vĩnh Mỹ B, huyện Hòa Bình, quy mô vừa, trữ lượng tiềm năng khoảng 3.200 nghìn m3; mỏ sét thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình trữ lượng tiềm năng 510 nghìn m3. Các mỏ còn lại có quy mô nhỏ và nằm rải rác trong vùng.
- Tài nguyên động, thực vật: do chủ yếu là hệ sinh thái ngập mặn ven biển nên tài
nguyên động thực vật cũng mang tính đặc trưng của rừng ngập mặn, có sự đa dạng sinh học
cao.
+ Thực vật: theo kết quả điều tra của dự án “quản lý bền vững hệ sinh thái rừng ven
biển tỉnh Bạc Liêu” đã xác định được 49 loài, trong đó có 15 loài (chiếm 31%) là cây rừng
ngập mặn thực sự và 34 loài (chiếm 69%) cây gia nhập rừng ngập mặn thuộc 27 họ.
+ Động vật: Khu hệ chim, hiện tại theo thống kê được có khoảng 102 loài chim được
ghi nhận trong các nghiên cứu, trong đó có 9 loài chim có nguy cơ tuyệt chủng được ghi
trong sách đỏ Việt Nam; Khu hệ giáp xác như tôm cua cũng rất phong phú về loài và sản
lượng, có 21 loài tôm, 25 loài cua; Khu hệ bò sát, có khoảng 26 loài thường thấy trên địa
bàn; Lớp thú có khoảng 16 loài, trong đó có 4 loài có nguy cơ tuyệt chủng; Thủy sinh vật
trong vùng ven biển chủ yếu làm thức ăn cho tôm, cá phong phú về thành phần loài: có 133
loài thực vật nổi, 24 loài động vật nổi và 61 loài động vật đáy. Sinh lượng thực vật nổi trong nước đạt từ 172.000 – 221.000 cá thể/lít, động vật nổi từ 4.940 – 8.550 con/m3, động vật đáy từ 7,14 – 7,64 g/m3.
- Tài nguyên phát triển du lịch: nói về tiềm năng du lịch của Bạc Liêu và VBVBBL
có thể kể đến các tiềm năng đã và đang được đầu tư phát triển như sau:
+ Tài nguyên du lịch tự nhiện: Khu bảo tồn vườn chim Bạc Liêu là khu vực có quy
mô, có sự đa dạng về loài quý hiếm, có cảnh quan thiên nhiên đẹp và đặc biệt có hệ thống
cơ sở vật chất được đầu tư tương đối tốt… là những điểm tài nguyên có đủ điều kiện để khai
thác phát triển thành các khu du lịch sinh thái hấp dẫn du khách với các hoạt động xem chim
kết hợp nghỉ dưỡng, sinh thái, tham quan rừng ngập mặn...
Vườn nhãn Bạc Liêu cách thành phố Bạc Liêu 6 km với diện tích hơn 50 ha. Điểm nổi
bật ở nơi đây là những vườn nhãn với những gốc nhãn cổ thụ có cây lên đến hàng trăm năm.
Thêm vào đó là một khung cảnh đồng quê tạo thành một không gian sinh thái nông nghiệp
hấp dẫn có thể tổ chức các hoạt động du lịch đa dạng như nghỉ cuối tuần, văn hóa, sinh thái,
ẩm thực….
Dải rừng ngập mặn ven biển từ TP Bạc Liêu đến cửa Gành Hào, nét độc đáo của hệ sinh
65
thái ngập mặn như cảnh quan rừng ngập mặn với kênh rạch chằng chịt, các sản vật phong phú,
có giá trị cao, hệ thống các trang trại, các khu nuôi trồng thủy sản… Những khu vực này có thể
khai thác phát triển du lịch theo hình thức các khu du lịch nghỉ dưỡng, nghỉ cuối tuần… gắn
với sinh thái nông nghiệp, du lịch đồng quê… Những điểm có khả năng phát triển như khu du
lịch Nhà Mát – TP Bạc Liêu, cửa biển Gành Hào, dải bờ dọc tuyến đê biển thuộc huyện Hòa
Bình và huyện Đông Hải.
+ Tài nguyên du lịch nhân văn: có thể coi là thế mạnh so với các địa phương trong
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các giá trị văn hóa lịch sử về giai thoại Công tử Bạc Liêu
có khả năng phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù như tour du lịch theo phong cách tiêu
khiển của Công tử Bạc Liêu, các sản phẩm quà lưu niệm gắn với giai thoại; Các giá trị văn
hóa lịch sử từ Dạ cổ hoài lang của cố nhạc sỹ Cao Văn Lầu (1919). Dạ cổ hoài lang chính là
sự kết tinh của những giá trị nhân văn, nghệ thuật và lịch sử xứng đáng được công nhận là
Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Hiện nay, Bạc Liêu có khu lưu niệm cố nhạc sỹ và lễ
hội Dạ cổ hoài lang tổ chức hàng năm.
Bạc Liêu có những tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh có phạm vi ảnh hưởng lớn đối
với dân cư vùng đồng bằng sông Cửu Long như, Quán âm Phật Đài ở phường Nhà Mát,
thành phố Bạc Liêu thờ Quán âm Nam Hải; Tục thờ cá Ông tại Gành Hào, huyện Đông Hải
và Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình; Lễ hội nghinh ông Gành Hào là một sự kiện văn hóa lớn,
nổi tiếng thu hút rất đông người tham dự.
Hệ thống di tích lịch sử văn hóa với 31 di tích lịch sử trong đó có 10 di tích cấp quốc
gia, như Di tích lịch sử Chùa Kom Phi Sakor Prêkchou (chùa Xiêm Cán); Di tích kiến trúc
nghệ thuật Phước Đức cổ miếu (chùa Bang); Lăng cá ông - thị trấn Gành Hào, huyện Đông
Hải… Bên cạnh đó, là những lễ hội và nét ẩm thực độc đáo của sự hòa nguyện 3 dân tộc
Kinh – Hoa – Khmer tạo nên sự hấp dẫn về tài nguyên du lịch cho Bạc Liêu.
2.2.3. Tiềm năng về kinh tế - xã hội
2.2.3.1. Dân cư và nguồn lao động
Bảng 2.5: Dân số VBVBBL giai đoạn 2002 – 2011
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Toàn tỉnh (người) 823.829 835.771 847.547 856.829 867.777 873.293
VBVBBL (người) 384.363 389.750 395.211 399.530 404.496 406.780
66
Tỷ lệ so sánh (%) 46,65 46,63 46,63 46,63 46,61 46,58
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2006 – 2011 [5].
VBVBBL là địa bàn có dân cư tập trung đông đúc. Năm 2011, số dân của vùng là
406.780 người (chiếm 46,58% dân số toàn tỉnh; trong đó, thành phố Bạc Liêu chiếm
37,23% dân số của vùng, huyện Hòa Bình chiếm 26,77% dân số của vùng và huyện Đông
Hải chiếm 36% dân số của vùng). Tỷ lệ giới tính của dân số nam so với dân số nữ khá cân
bằng (99,03%). Tỷ lệ dân số thành thị của vùng khá cao (chiếm 36,86% dân số của toàn
vùng), điều này dễ hiểu vì thành phố Bạc Liêu là đô thị loại ba nên có dân số tập trung đông
đúc hơn rất nhiều so với các huyện khác. Mật độ dân số trung bình là 363 người/km2, cao
hơn mật độ dân số trung bình toàn tỉnh gần 1,1 lần; trong đó, thành phố Bạc Liêu có mật độ
dân số cao nhất là 865 người /km2, kế đến là huyện Hòa Bình là 290 người/km2 và cuối
cùng là huyện Đông Hải với 257 người/km2.
Như vậy, dân cư VBVBBL chiếm tỷ lệ tương đối lớn và có xu hướng giảm nhẹ do tỷ
lệ gia tăng tự nhiên giảm (năm 2006 là 46,65% đến năm 2011 là 46,58%).
2.2.3.2. Đường lối, chính sách kinh tế - xã hội
Việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển Việt Nam đã được thể hiện rất rõ trong “Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020”, và để cụ thể hóa và triển khai Nghị quyết này ở tỉnh
nhà, Tỉnh ủy Bạc Liêu đã xây dựng và thực hiện “Chương trình số 23, ngày 6/6/2007”, từ đó
đến nay nghề khai thác biển và nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh đã có sự phát triển đáng kể, và
trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Để thực hiện tốt chương trình của Tỉnh ủy Bạc
Liêu, UBND tỉnh Bạc Liêu đã xây dựng nhiều kế hoạch cụ thể và phối hợp với các Sở triển
khai nhiều dự án đầu tư có liên quan đến phát triển kinh tế biển tỉnh nhà. Các chương trình
phát triển hạ tầng nông thôn và phát triển đô thị, chương trình giáo dục nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chương trình phát triển thủy sản, chương trình phát triển thương mại du
lịch…
Đến nay, tỉnh đã đưa vào quy hoạch tổng thể phát triển các ngành có liên quan đến
kinh tế biển như “Quy hoạch tổng thể phát triển nông, lâm, thủy hải sản tỉnh Bạc Liêu đến
năm 2020”; “Quy hoạch phát triển dự án điện gió tỉnh Bạc Liêu”; “Quy hoạch phát triển du
lịch tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020” và sắp tới tỉnh sẽ cho thực hiện đề án “Quy hoạch phát
triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 và tầm nhìn 2030”. Bên cạnh đó, còn rất
nhiều đề án được triển khai đồng loạt. Tất cả các quy hoạch, đề án, chương trình, kế
hoạch…phát triển kinh tế biển của tỉnh đã góp phần trong việc định hướng, tạo bộ khung 67
cho sự phát triển kinh tế biển Bạc Liêu theo hướng phù hợp, nhằm khai thác hiệu quả tiềm
năng biển của tỉnh.
2.2.3.3. Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật
Giao thông vận tải: dịch vụ vận tải của tỉnh Bạc Liêu không ngừng phát triển cả về số -
lượng và chất lượng phục vụ, các đơn vị chú trọng trang bị phương tiện, máy móc hiện
đại, mở thêm luồng tuyến vận tải, đưa doanh thu, sản lượng liên tục tăng trưởng và đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Năm 2011, doanh thu vận tải đạt
1.517,4 tỷ đồng, tăng 10,85% so với năm 2010.
Về phát triển cơ sở hạ tầng giao thông VBVBVL nói riêng và cả tỉnh nói chung, đến
nay mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh đảm bảo đáp ứng tốt cho nhu cầu đi lại và thông
thương, mua bán, vận tải hàng hóa thông suốt. Tuy nhiên để tạo ra nhiều động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh đã ưu tiên đầu tư mở rộng, nâng cấp các tuyến đường quan
trọng như đường Nguyễn Thái Học, đường Nguyễn Tất Thành (thành phố Bạc Liêu), Hộ
Phòng – Chủ Chí, Giá Rai – Cạnh Đền (huyện Đông Hải), Lộc Ninh – Ninh Thạnh Lợi,
Vĩnh Mỹ (huyện Hòa Bình) - Phước Long, Giá Rai – Gành Hào (huyện Đông Hải), Giồng
Nhãn (thành phố Bạc Liêu) – Gành Hào (huyện Đông Hải),… Đối với hệ thống giao thông
nông thôn và các tuyến đường thông xe bốn bánh đến trung tâm xã đã và đang được tỉnh
chú trọng đầu tư hoàn thiện.
Cơ sở vật chất kỹ thuật: nhìn chung cơ sở vật chất cả tỉnh đều được đầu tư phát triển, -
trong đó cơ sở vật chất các ngành nghề kinh tế biển cũng được đầu tư cải tiến. Số
phương tiện đánh bắt thủy sản trên biển được bổ sung không ngừng, đồng thời thiết bị
trên tàu cũng được hiện đại hóa hơn tạo điều kiện đánh bắt tốt hơn, đặc biệt là đánh bắt
xa bờ. Bên cạnh đó, yêu cầu đầu tư hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá là rất cần thiết.
Hiện nay, cảng cá Gành Hào giai đoạn 1 đã hoàn thành và tiếp tục nâng cấp thành
cảng cá loại I vào năm 2015. Các dịch vụ khác như vựa thu mua hải sản, trạm xăng
dầu, dịch vụ khuân vác, vận chuyển, cơ sở sản xuất nước đá, sữa chữa tàu thuyền…
bước đầu đáp ứng được yêu cầu. Hiện tại, tỉnh cũng đang xây dựng kế hoạch để xây
dựng nhiều công trình liên quan phục vụ phát triển kinh tế biển trong thời gian tới.
Bưu chính viễn thông: mạng lưới bưu chính đảm bảo phục vụ tốt công tác truyền gửi -
thư tính, báo chí, công văn, tài liệu, bưu phẩm, bưu kiện,… đáp ứng kịp thời về nhu
68
cầu trao đổi, tiếp nhận tin tức đến các đối tượng cá nhân và cơ quan, đơn vị trên khắp
địa bàn tỉnh, đặc biệt là đến được với vùng sâu vùng xa ven biển. Với dịch vụ viễn
thông, các đơn vị liên tục đưa ra nhiều hình thức khuyến mãi hấp dẫn bằng hòa mạng
miễn phí, giảm giá thuê bao, phí lắp đặt, tăng thêm giá trị tài khoản, nhằm chiếm lĩnh
thị phần đã thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng đổi mới, nâng cấp chất lượng dịch
vụ để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu
thông tin của xã hội.
Hệ thống điện, nước: từ khi tái lập tỉnh đến nay, cùng với sự phát triển của quá trình -
công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn, lĩnh vực sản xuất và phân phối điện, nước
của Bạc Liêu đã có bước đột phá và đạt được những kết quả đáng kể. Mạng lưới
đường dây tải điện và trạm biến áp ngày càng được mở rộng theo hướng hiện đại hóa,
tất cả các địa phương trên phạm vi địa bàn của tỉnh đều đã có điện phục vụ cho hoạt
động sản xuất và sinh hoạt.
Ngoài hệ thống cấp nước sạch ở thành phố và các thị trấn, Bạc Liêu đã hoàn thành và
đưa vào sử dụng các hệ thống cấp nước tập trung, cung cấp nước sinh hoạt cho người dân
nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, là đối với VBVBBL thì việc cung
cấp nước sinh hoạt có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Hiện
nay, toàn tỉnh có 97% hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó có 45% hộ sử dụng nước
qua xử lí và trên 93% hộ sử dụng điện. Định hướng đến năm 2015, tỉ lệ hộ gia đình nông
thôn sử dụng nước sạch đạt 65% trở lên, 100% hộ nông thôn có điện phục vụ cho sản xuất
và sinh hoạt.
2.2.3.4. Khoa học công nghệ
Khoa học – công nghệ có vai trò cực kỳ quan trọng, là động lực thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu sản xuất nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản. Hiện nay, khoa học – công nghệ đã
đóng góp khoảng 30 – 40% vào gia tăng sản lượng. Từ năm 2002 đến nay đã có nhiều đề tài
và dự án khoa học được nghiên cứu và áp dụng vào sản xuất trên nhiều lĩnh vực. Một số
công trình có ý nghĩa đối với phát triển các ngành kinh tế biển của tỉnh như Dự án điều tra,
quan trắc, dự báo tài nguyên – môi trường (môi trường nước mặt, nước biển ven bờ, nước
ngầm) phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh; Dự án quản lý bền vững
hệ sinh thái rừng ven biển tỉnh Bạc Liêu; thí điểm mô hình sản xuất muối chất lượng cao
bằng phương thức trải bạt mang lại hiệu quả cao; Thành quả trong công nghệ sinh học đã
69
tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản mới nhằm rút ngắn thời gian sản xuất nhưng
vẫn cho năng suất và sản lượng cao; các tiến bộ về chế phẩm sinh học trong sản xuất thuốc
thủy sản, xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản… Những ứng dụng khoa học – công nghệ đã
thúc đẩy sản xuất và đưa đến những thành công nhất định trong phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh và trong phát triển kinh tế biển.
2.2.3.5. Thu hút đầu tư
Tỉnh đã có nhiều chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư như chế độ miễn giảm thuế cho
doanh nghiệp, chính sách giao đất hoặc cho thuê đất, đào tạo nhân lực và xúc tiến quảng cáo
thương hiệu… Nhìn chung, vốn đầu tư thu hút từ các nguồn bên ngoài nhà nước đang ngày
càng được nâng lên. Hiện nay, về phát triển kinh tế biển tỉnh ưu tiên thu hút đầu tư vào các
dự án về lĩnh vực du lịch và công nghiệp, với các dự án trọng điểm kêu gọi như khu đô thị
cao cấp đường Hùng Vương (thành phố Bạc Liêu); khách sạn cao cấp Bạc Liêu; cầu dẫn và
cảnh quan nhân tạo biển Bạc Liêu khu du lịch văn hóa và resort nghỉ dưỡng, tuyến du lịch
sinh thái ven biển Bạc Liêu (thành phố Bạc Liêu); xây dựng khu kinh tế biển Gành Hào, xây
dựng cảng biển Gành Hào (huyện Đông Hải)… Với những ưu đãi đặc biệt mời gọi các nhà
đầu tư quan tâm, hy vọng trong thời gian tới sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư đến với tỉnh.
2.2.4. Đánh giá về điều kiện và tiềm năng phát triển
2.2.4.1. Tiềm năng và lợi thế
- Bạc Liêu là một tỉnh trong những tỉnh ở vùng ĐBSCL có điều kiện tự nhiên thuận
lợi, tài nguyên thiên nhiên khá đa dạng và phong phú như lượng mưa trung bình năm tương
đối lớn, đường bờ biển dài, diện tích đất mặn và bãi bồi ven biển có quy mô lớn nguồn nước
mặn dồi dào, rừng ngập mặn ven biển có năng suất sinh học cao. Vùng biển Bạc Liêu với
ngư trường giàu hải sản, đây là những nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế biển của tỉnh phát
triển, đặc biệt là các ngành như thủy hải sản, nghề muối,… Bên cạnh đó, Bạc Liêu có nguồn
nước ngọt tương đối lớn, được bổ sung từ nước mưa, nước ngầm và hệ thống sông Hậu,
không bị ảnh hưởng lũ… Đây là điều kiện để kết hợp phát triển các ngành nông – lâm
nghiệp trên các vùng đất thích nghi.
- Kinh tế của tỉnh những năm gần đây đạt mức tăng trưởng khá cao, cơ cấu kinh tế có
sự chuyển dịch đúng hướng, đặc biệt các lĩnh vực công nghiệp chế biến và xuất khẩu nông,
thủy sản, đang từng bước trở thành động lực quan trọng thúc đẩy các ngành kinh tế biển
70
phát triển.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển đang được nâng cấp và thay
đổi từng ngày, nhất là hệ thống giao thông đường bộ, hệ thống dịch vụ nghề cá, đã góp phần
hình thành các trung tâm kinh tế biển, đảm bảo cho kinh tế biển chuyển biến và đi vào phát
triển ổn định.
- Cùng với nguồn nhân lực dồi dào và ngày càng được nâng cao trình độ, cơ cấu lao
động của tỉnh đang có bước chuyển dịch tích cực từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ, từ sản xuất nông nghiệp sang thủy sản và làm muối (chuyển sang các ngành kinh
tế biển). Từ đó, thu nhập và tích lũy vốn của người dân nói riêng và đóng góp vào ngân sách
của tỉnh nói chung, tạo thêm sức mạnh nội lực cho đầu tư phát triển kinh tế biển.
2.2.4.2. Những khó khăn và hạn chế
- Tài nguyên vùng biển và ven biển được đánh giá thuận lợi cho phát triển kinh tế
biển, nhưng đã xuất hiện nhiều thách thức đối với tài nguyên và môi trường VBVBBL. Tình
trạng khai thác tài nguyên quá mức và lãng phí, nhất là khai thác ven bờ không theo chu kỳ
sinh thái của các loài sinh vật biển, làm cho nguồn tài nguyên sinh vật ngày càng bị hao
kiệt. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất và sinh hoạt của ngư dân vùng ven biển không chú
trọng đến vấn đề môi trường làm chất lượng môi trường biển và vùng ven biển ngày càng
suy giảm, đặc biệt là tại các vùng cửa sông, các khu vực cảng cá, vựa cá…
- Hệ thống công trình kiểm soát nước mặn và cung cấp nước ngọt cho VBVBBL chưa
được khép kín và đồng bộ, dẫn tới việc điều tiết nước mặn, nước ngọt giữa các khu vực
trong các thời điểm chưa chủ động, làm ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thủy sản và
sản xuất nông nghiệp ven biển.
- Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, chưa đủ sức khai thác tốt và hiệu quả nguồn
tài nguyên biển. Bên cạnh các vấn đề xã hội vùng ven biển cũng khá phức tạp, đời sống
nhiều ngư dân còn khó khăn và chịu nhiều rủi ro.
- Kết cấu hạ tầng vùng ven biển còn yếu kém, nhiều công trình hạ tầng thiết yếu như
đê biển, giao thông nông thôn ven biển, các khu vực cảng cá… chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển, các đô thị ven biển mới trong giai đoạn quy hoạch, các công trình nâng cấp cơ sở
hạ tầng, cảng cá, trung tâm thương mại… đầu tư chậm và kéo dài. Vì vậy, chưa hình thành
được trung tâm kinh tế ven biển để đảm bảo vai trò động lực tiến ra biển.
- Công tác điều tra cơ bản về biển, tài nguyên biển còn rất hạn chế, nhiều lĩnh vực
71
chưa có tài liệu, số liệu điều tra để làm cơ sở quy hoạch khai thác. Khoa học công nghệ về
biển còn yếu, sự cố tràn dầu đã xuất hiện, diện tích và trữ lượng rừng ven biển suy giảm về
chất lượng.
- Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống hạ tầng và cơ sở vật chất phục vụ phát triển kinh tế biển
là rất lớn, trong khi ngân sách tỉnh cũng như khả năng tích lũy và huy động đóng góp của
doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh còn hạn chế. Nếu không có sự hỗ trợ từ trung ương và
không thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài tỉnh thì khó có thể nâng cao được vị thế và vai
trò kinh tế biển của tỉnh.
2.2.4.3. Những cơ hội
- Việt Nam đang trên đường tiến ra biển lớn, chính sách Nhà Nước đầu tư cho phát
triển kinh tế biển đã được thể hiện rõ. Vùng ĐBSCL có những thế mạnh đặc trưng của biển.
Vì vậy, những quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển của cả nước nói chung và vùng
ĐBSCL nói riêng, sẽ giúp cho Bạc Liêu có cơ hội triển khai những đề án tiếp cận và phát
triển kinh tế biển của tỉnh.
- Kinh nghiệm trong phát triển kinh tế biển ngoài nước và các địa phương trong nước
đã được đúc kết thành những lý luận và thực tiễn cụ thể. Từ đó, tỉnh Bạc Liêu tiếp thu
những kinh nghiệm quý báu đó trong sự nghiệp tiến ra biển lớn, làm giàu nhờ kinh tế biển.
- Xu hướng hội nhập sâu rộng về kinh tế trong khu vực và thế giới, tạo thuận lợi cho
các sản phẩm các ngành kinh tế biển có thể phát triển, nhất là sản phẩm thủy hải sản, muối.
- Khả năng đầu tư hỗ trợ của Nhà Nước cho vùng bán đảo Cà Mau nói chung và cho
tỉnh Bạc Liêu nói riêng được tăng cường, nhất là đầu tư cho thủy lợi và giao thông, sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển của tỉnh.
2.3. Thực trạng phát triển một số ngành kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu
2.3.1. Ngành thủy hải sản
Bạc Liêu có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên và giàu tiềm năng để các hoạt động
ngành thủy hải sản phát triển. Thủy sản là một trong những ngành có vị trí quan trọng đóng
góp cho sự phát triển của tỉnh, đồng thời cũng là lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất của kinh
tế biển tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
Tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản năm 2011 của toàn tỉnh đạt 253.479
72
tấn, của VBVBBL đạt 176.299 tấn (trong đó tôm là 68.801 tấn, cá và thủy sản khác là
107.498 tấn). Tốc độ tăng trưởng thủy sản nuôi trồng và khai thác là 5,86% (giai đoạn 2006
- 2011).
2.3.1.1. Nuôi trồng thủy hải sản
Với những lợi thế về tiềm năng phục vụ cho NTTS, chính vì vậy trong những năm gần
đây, diện tích NTTS của tỉnh nói chung và của VBVBBL đã không ngừng tăng lên liên tục.
VBVBBL là những khu vực giàu tiềm năng, có diện tích nuôi và tốc độ tăng trưởng mạnh
nhất. Những khu vực này phổ biến tập trung nuôi các loại thủy sản nước mặn, nước lợ như
tôm sú, nghêu, tôm thẻ chân trắng,… và đa dạng hình thức nuôi như thâm canh, công
nghiệp, bán thâm canh, quảng canh cải tiến. Bên cạnh đó các địa phương còn kết hợp các
hình thức đa canh, xen canh giữa các loài, xen canh trên đất lúa,…
Bảng 2.6: Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản phân theo huyện ven biển
(Đơn vị: ha)
Năm 2002 2005 2007 2009 2010 2011
Toàn tỉnh 101.690 118.838 122.165 126.338 125.410 126.266
VBVBBL 61.195 62.919 62.167 60.653 61.638 -
TP Bạc Liêu 5.023 6.982 7.651 7.366 6.579 7.000
Hòa Bình 15.796 15.698 15.676 15.676 15.676 -
Đông Hải 39.066 38.417 39.570 39.125 38.398 38.962
Nguồn: Niên giám thống kê năm tỉnh Bạc Liêu từ năm 2002 – 2011 [5].
Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2002 là 101.690 ha, đến năm 2011 đạt 126.266 ha
(tốc độ tăng bình quân hàng năm 1,25 %). Diện tích nuôi trồng thủy sản phân bố tập trung ở
tất cả các huyện của tỉnh. Trong đó, VBVBBL có tổng diện tích 61.638 ha chiếm 48,81%
diện tích toàn tỉnh (năm 2011). Huyện có diện tích nuôi lớn nhất là huyện Đông Hải với
38.962 ha, chiếm 63,21% diện tích nuôi của vùng, tiếp đến là huyện Hòa Bình với 15.676
ha, chiếm 25,43% diện tích nuôi của vùng và cuối cùng là thành phố Bạc Liêu với khoảng
7.000 ha, chiếm 11,36% diện tích. Đối với VBVBBL, diện tích NTTS có sự biến động qua
các năm, cụ thể diện tích nuôi giảm nhẹ qua các năm, từ năm 2007 – 2011 giảm từ 62.919
xuống 61.638 ha, theo quy hoạch của tỉnh thì diện tích NTTS những năm tiếp theo sẽ giữ ổn
73
định và hướng phát triển nuôi trồng theo chiều sâu.
Bảng 2.7: Sản lượng thủy sản nuôi trồng phân theo các huyện ven biển
(Đơn vị: Tấn)
Năm 2002 2005 2007 2009 2011
Toàn tỉnh 48.953 110.466 129.620 149.281 154.979
VBVBBL - 74.264 85.990 86.333 92.554
TP Bạc Liêu 7.550 15.903 15.000 15.370 16.856
Hòa Bình - 24.713 22.000 21.126 20.610
Đông Hải - 33.648 48.990 49.837 55.088
Nguồn: Niên giám thống kê năm tỉnh Bạc Liêu từ năm 2002 – 2011 [5].
Từ chỗ xác định đúng lợi thế đưa vào sử dụng và khai thác hợp lý các tiềm năng, đã
đưa sản lượng thủy sản nuôi trồng của tỉnh Bạc Liêu tăng trưởng liên tục qua các năm, từ
48.953 tấn năm 2002, tăng lên 119.800 tấn năm 2006 và đạt 154.979 tấn vào năm 2011. Đối
với VBVBBL, sản lượng nuôi trồng thủy sản cũng tăng liên tục qua các năm, giai đoạn từ
năm 2005 – 2011, tăng từ 74.264 tấn lên 92.554, chiếm 59,72% sản lượng nuôi trồng toàn
tỉnh.
Trong các thủy sản nuôi, tôm là loại được nuôi trồng lớn nhất, kế đến là cá và các loại
thủy sản khác chiếm tỷ trọng nhỏ. Những năm gần đây, phong trào nuôi các loại thủy sản
mới ở Bạc Liêu (như cua, cá kèo, cá bống tượng, cá chình, ba ba, cá thác lác cườm...) xuất
hiện ngày một nhiều. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây sản lượng cá nuôi và các
loại thủy sản khác đang ngày càng gia tăng hơn so với những năm trước đó. Sản lượng tôm
nuôi toàn tỉnh năm 2011 đạt 72.400 tấn, sản lượng cá nuôi đạt 69.662 tấn, sản lượng các loại
thủy sản nuôi khác đạt sản lượng 12.917 tấn. VBVBBL trong năm 2011 có sản lượng tôm
nuôi đạt 50.801 tấn (chiếm 70,17% sản lượng tôm nuôi toàn tỉnh), sản lượng cá nuôi đạt
33.136 tấn (chiếm 47,57% sản lượng cá nuôi toàn tỉnh), sản lượng thủy sản nuôi khác chỉ
đạt giá trị thấp là 8.617 tấn (chiếm 66,71% sản lượng thủy sản nuôi khác của toàn tỉnh).
Mô hình nuôi thủy sản của tỉnh nói chung và của VBVBBL cũng khá đa dạng, mỗi
loại hình có những đặc điểm và lợi thế riêng, đối với nuôi quảng canh hoặc phương thức
nuôi thủy sản tỉa thưa thả bù ưu điểm của mô hình này là tỷ suất lợi nhuận cao, chi phí thấp,
có thể áp dụng đối với hộ có diện tích đất lớn, ít vốn, mà kỹ thuật nuôi không cao. Song
nhược điểm của loại hình này là năng suất tính trên một ha thấp, chỉ đạt khoảng 300 - 500 74
kg/ha/năm; Mô hình nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, ưu điểm của mô hình này là năng
suất sản lượng cao, giá trị hàng hóa lớn, tỷ suất lợi nhuận đạt ở mức hợp lý nhưng quy mô
lợi nhuận lớn. Song vẫn có nhược điểm là vốn đầu tư lớn, tiềm ẩn rủi ro cao, nếu kỹ thuật
của người nuôi tôm chưa vững chắc, thì đây chính là những nguy cơ dẫn đến thiệt hại trong
quá trình nuôi.
Bên cạnh nuôi thủy sản, VBVBBL còn có nghề nuôi hải sản biển, đây là mô hình nuôi
mới được phát triển gần đây và hiện đã được thí điểm ở các vùng bãi bồi của các huyện ven
biển với các hình thức nuôi nhuyễn thể như nghêu, sò huyết… đã bước đầu đem lại hiệu quả
kinh tế cao cho ngư dân vùng ven biển.
Về hiệu quả nuôi trồng thủy sản, đối với diện tích nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm
canh có 40% diện tích nuôi có lãi (60 – 150 triệu đồng/ha/vụ); 20% diện tích nuôi hòa vốn
và 40% diện tích nuôi bị lỗ (50 – 80 triệu đồng/ha/vụ); đối với diện tích nuôi tôm thẻ thâm
canh, bán thâm canh có 80% diện tích nuôi có lãi (80 – 170 triệu đồng/ha/vụ); 5% diện tích
nuôi hòa vốn và 15% diện tích nuôi bị lỗ (100 – 150 triệu đồng/ha/vụ); đối với diện tích
nuôi tôm kết hợp có 90% diện tích nuôi có lãi (40 – 80 triệu đồng/ha/năm) và 10% diện tích
nuôi hòa vốn.
2.3.1.2. Khai thác thủy hải sản
Vùng biển Bạc Liêu rộng lớn hơn 20.000 km2 có trữ lượng hơn 460.000 tấn thủy sản
các loại, hàng năm cho phép khai thác trên 100.000 tấn thủy sản với nhiều loại có giá trị
kinh tế cao, như tôm, cua, mực, cá thu, cá hồng ... Đặc biệt, dọc theo bờ biển của tỉnh có 3
cửa sông lớn rất thuận lợi cho việc khai thác hải sản, nhất là đánh bắt xa bờ. Bên cạnh đó,
rất thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá và neo đậu tàu thuyền.
- Năng lực tàu thuyền khai thác:
Tổng số tàu thuyền của tỉnh tăng từ 925 chiếc năm 2005, lên 1.153 chiếc năm 2010
(tăng 228 chiếc), trong đó tàu đánh bắt xa bờ (> 90 CV) có đăng kiểm tăng 29 chiếc và tàu
đánh bắt vùng lộng và ven bờ (< 90 CV) có đăng kiểm tăng 303 chiếc, tàu thuyền chưa đăng
kiểm giảm 104 chiếc; năm 2011 tăng lên 1.208 chiếc (tăng 55 chiếc), trong đó tàu thuyền
đánh bắt xa bờ ( > 90 CV) có đăng kiểm tăng 43 chiếc và tàu thuyền đánh bắt vùng lộng và
ven bờ 75- < 90 CV có đăng kiểm tăng 70 chiếc, các loại tàu còn lại giảm 58 chiếc. Như
75
vậy, xu hướng chung là tăng tàu thuyền có đăng kiểm, trong đó tàu thuyền đánh bắt xa bờ
và tàu thuyền đánh bắt vùng lộng, ven biển có công suất lớn tăng, chủ yếu do người dân
chuyển hướng sang khai thác xa bờ và vùng lộng theo Chương trình đầu tư của Nhà Nước.
Bảng 2.8: Số lượng và công suất tàu thuyền khai thác thủy hải sản qua các năm
Hạng mục Năm Tăng, giảm
Đơn vị tính 2005 2010 2011 2010/2005 2011/2010
SỐ LƯỢNG Chiếc 1.153 1.208 925 228 55
1. Có đăng kiểm Chiếc 1.088 1.143 756 332 55
> 90 CV Chiếc 373 416 344 29 43
75 - < 90 CV Chiếc 13 83 18 -5 70
50 - < 75 CV Chiếc 34 23 28 6 -11
< 50 CV Chiếc 668 621 366 302 -47
169 2. Chưa đăng kiểm Chiếc 65 65 -104 0
CÔNG SUẤT 1000 CV 111.988 125.870 142.252 13.882 16.382
Đánh bắt xa bờ 1000 CV 91.000 109.703 117.400 18.703 7.697
Đánh bắt gần bờ 1000 CV 20.988 16.167 24.852 -4.821 8.685
Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu [14].
Tổng công suất tàu thuyền khai thác thủy hải sản của tỉnh tăng từ 112,0 nghìn CV năm
2005 lên 125,9 nghìn CV năm 2010 (tăng 13,9 ngàn CV), năm 2011 đạt gần 142,3 nghìn
CV, tăng 16,4 nghìn CV so với năm 2010. Điều này chứng tỏ sự quan tâm và đầu tư từ phía
tỉnh trong phát triển khai thác thủy hải sản, đặc biệt là đánh bắt xa bờ.
- Sản lượng khai thác:
Bảng 2.9: Sản lượng thủy hải sản khai thác tỉnh Bạc Liêu qua các năm
(Đơn vị: Nghìn tấn)
2002
2005
2010
2011
Tăng, giảm SL
Hạng mục
SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
2005/
2010/
2011/
(%)
(%)
(%)
(%)
2002
2005
2010
Sản lượng
68,0
100
62,0
100
91,8
100
98,5
100
-6,0
29,8
6,7
57,1
84,0
44,7
72,1
60,9
66,4
69,4
70,5
-12,4
16,2
8,5
1. Cá
76
13,2
12,1
19,4
18,9
20,6
18,0
18,3
9,0
3,1
6,9
-0,9
2. Tôm
2,8
5,2
8,4
11,9
13,0
11,1
11,2
1,9
3,3
6,7
-0,9
3. TS khác
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2002 – 2011 [14].
Sản lượng thủy hải sản khai thác có sự biến động và tăng trưởng không liên tục trong
giai đoạn 2002 – 2011. Cụ thể giai đoạn 2002 – 2005 tổng sản lượng khai thác thủy hải sản
giảm nhẹ, từ 68,0 nghìn tấn năm 2002 chỉ còn 62,0 nghìn tấn năm 2005 (giảm 6,0 nghìn tấn).
Giai đoạn 2005 – 2011 sản lượng thủy hải sản khai thác tăng liên tục, đến năm 2010 sản
lượng đạt 91,8 nghìn tấn (tăng 29,8 nghìn tấn so với năm 2005); năm 2011 đạt 98,5 nghìn tấn,
tăng 6,7 nghìn tấn so với năm 2010.
Bảng 2.10: Sản lượng thủy hải sản khai thác phân theo huyện ven biển
(Đơn vị: tấn)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Toàn tỉnh 59.339 61.250 70.276 78.421 83.000 91.763 98.500
VBVBBL 53.360 51.793 59.600 66.500 69.165 78.689 83.745
8.310 8.493 14.500 15.200 17.051 17.250 18.078
TP Bạc Liêu
Hòa Bình 8.224 4.500 4.700 7.800 7.542 11.867 14.067
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2002 – 2011 [5].
Đông Hải 36.829 38.800 40.400 43.500 44.572 49.570 51.600
Sản lượng thủy hải sản khai thác của VBVBBL giai đoạn 2006 – 2011 tăng liên tục
với tốc độ tăng khá nhanh và ổn định, từ 51.793 tấn năm 2006 lên 83.754 tấn năm 2011
(tăng 31.961 tấn). Huyện có sản lượng khai thác lớn nhất là huyện Đông Hải (đạt 51.600 tấn
năm 2011), tiếp đến là thành phố Bạc Liêu (đạt 18.078 tấn năm 2011) và cuối cùng là huyện
77
Hòa Bình (đạt 14.067 tấn năm 2011).
Sản lượng cá chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thủy hải sản khai thác nhưng đang có xu
hướng giảm (năm 2002 có tỷ trọng là 84,0% đến 2011 giảm chỉ còn 70,5% trong tổng cơ
cấu
thủy
hải
sản
khai
thác).
Sản
lượng
tôm
và
thủy
sản khác chiếm tỷ trọng nhỏ và đang có xu hướng tăng lên (năm 2002, tỷ trọng tôm là
13,2%, thủy sản khác là 2,8% thì đến năm 2011 tỷ trọng tôm tăng lên 18,3%, thủy sản khác
tăng lên 11,1% trong tổng cơ cấu thủy hải sản khai thác).
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2005,2011 [5].
Hình 2.2: Sản lượng thủy hải sản khai thác VBVBBL giai đoạn 2005 – 2011
- Năng suất khai thác: sản lượng trên đơn vị tàu tăng từ 49,03 tấn/chiếc năm 2000
lên 82,25 tấn/chiếc năm 2011, tăng 67,75%. Việc thay đổi cơ cấu đội tàu theo hướng giảm
dần lượng tàu nhỏ đã có ảnh hưởng tích cực làm tăng sản lượng trên đơn vị tàu. Bên cạnh
đó, sản lượng khai thác tăng cũng phù hợp quá trình áp dụng cơ khí hóa nghề cá, nâng cao
công suất của các đội tàu đánh bắt xa bờ góp phần tăng năng suất lao động.
- Về hiệu quả khai thác thủy sản: Nghề cào đôi (công suất > 90 CV) doanh thu trên
300 triệu đồng/chuyến (20 – 25 ngày/chuyến), lợi nhuận gần 150 triệu đồng/chuyến; Nghề
cào đơn (công suất > 90 CV) đa số kết hợp kéo cá và tôm (25 – 30 ngày/chuyến), chi phí
cao nên khoảng 40% có lãi 30 – 40 triệu đồng/chuyến; Nghề lưới rê (công suất < 90 CV),
gồm các nghề lưới xù, lưới rê cá chét, cá cháy, lưới 3…, doanh thu từ 20 – 30 triệu
đồng/chuyến (6 – 7 ngày/chuyến), lãi từ 10 – 15 triệu đồng/chuyến; Nghề lưới rê (công suất
> 90 CV), tàu đánh bắt tôm sú bố mẹ, kết hợp với lưới cá (70 – 75 ngày/chuyến), doanh thu
78
trung bình 600 – 800 triệu đồng/chuyến, lãi từ 200 – 250 triệu đồng/chuyến; các nghề cào
đơn, nghề lưới rê và các đội tàu (công suất < 50 CV) đi về trong ngày bị ảnh hưởng bởi
sóng gió nên hiệu quả khai thác không cao.
- Các hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá: trên địa bàn chưa có cơ sở cơ khí sửa chữa
đóng tàu lớn, chỉ có 3 cơ sở sửa chữa đóng tàu thuyền vừa với công suất 20 lượt chiếc/năm
và một số cơ sở sửa chữa đóng ghe thuyền nhỏ ở TP Bạc Liêu, thị trấn Hộ Phòng, thị trấn
Giá Rai, thị trấn Hòa Bình và thị trấn Gành Hào.
Cảng và bến cá của tỉnh, hiện có một cảng biển là cảng Gành Hào nhưng đã quá tải, dự
kiến nâng cấp trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 thành cảng cá loại I. Ngoài ra, ở tất cả
các huyện, thị ven biển đều có bến cá phục vụ nhu cầu vận chuyển lên xuống thủy hải sản.
Các loại dịch vụ khác như vựa thu mua cá, trạm xăng dầu, dịch vụ khuân vác, vận
chuyển, cơ sở sản xuất nước đá, các cửa hàng mua bán ngư lưới cụ… bước đầu đáp ứng
được công tác hậu cần dịch vụ cho đánh bắt thủy sản tạo thuận lợi cho việc quản lý phương
tiện nghề cá, góp phần bảo vệ cảnh quan môi trường và đẩy mạnh phát triển thương mại
thủy sản. Bên cạnh đó, tỉnh đã đầu tư đưa vào sử dụng 3 trạm đèn tín hiệu báo bão ven biển
tại cửa biển Nhà Mát, Cái Cùng và Gành Hào (tổng vốn đầu tư 8.900 triệu đồng) phục vụ tốt
cho phòng chống bão.
1.3.1.3. Chế biến thủy hải sản
Nguồn nguyên liệu chính cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản đó chính là lượng
thủy sản (chủ yếu là tôm) được đánh bắt và nuôi trồng trên địa bàn tỉnh. Tôm là nguyên liệu
chính vì sản phẩm chế biến của tỉnh đa phần là tôm đông lạnh. Từ nguồn nguyên liệu này,
các nhà máy chế biến tiến hành sơ chế, đông lạnh, sấy khô, đóng gói và đưa ra thị trường
trong và ngoài nước.
Về phân bố, các nhà máy chế biến thủy hải sản phân bố rãi rác toàn tỉnh, chủ yếu tập
trung ở trục QL1A nằm giữa VBVBBL và vùng ngọt hóa phía Bắc. Với vị trí thuận lợi về
giao thông, các nguồn nguyên liệu thủy hải sản sẽ được vận chuyển từ toàn tỉnh và các vùng
lân cận về các nhà máy chế biến và sau chế biến sẽ được vận chuyển theo QL1A để xuất
khẩu đi các nước hay tiêu thụ nội địa.
Công nghiệp chế biến thủy sản được xác định là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh,
trong đó chủ yếu là công nghiệp chế biến thủy sản phục vụ xuất khẩu. Tính đến thời điểm
năm 2011, toàn tỉnh có 26 nhà máy chế biến thủy sản với công suất 62.400 tấn/năm, tăng
19.700 tấn/năm, gấp 1,5 lần năm 2005. Hầu hết các nhà máy được đầu tư tương đối đồng
79
bộ, công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn chất lượng về vệ sinh an toàn thực phẩm. Sản lượng
thủy sản đông lạnh sản xuất của tỉnh tăng từ 19.772 tấn năm 2005 lên 26.785 tấn năm 2007
và đạt 32.400 tấn năm 2011, nhưng cũng chỉ đạt 52% công suất chế biến của các nhà mày.
Sản lượng thủy sản chế biến năm 2011 quy nguyên liệu ước đạt khoảng 52.000 tấn,
chiếm khoảng 21% tổng sản lượng thủy sản, 35% sản lượng thủy sản nuôi và 75% sản
lượng tôm nuôi của tỉnh.
Ngoài chế biến thủy sản phục vụ xuất khẩu nêu trên, trong địa bàn tỉnh, đặc biệt là
VBVBBL còn có các cơ sở chế biến phục vụ tiêu thụ nội địa, bao gồm: làm khô, nước mắm,
bột cá nguyên liệu…(nổi tiếng ở thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải; phường Nhà Mát, xã
Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu) với khả năng chế biến hàng năm chiếm khoảng 20 – 30%
nguyên liệu phục vụ chế biến và tiêu thụ trong nước.
Chế biến thủy hải sản phát triển không những giải quyết việc làm cho một lượng lớn
lao động chưa có việc làm của tỉnh (khoảng hơn 28.000 lao động) mà còn tạo ra động lực
cho nông, ngư dân gia tăng sản xuất thủy sản, tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến. Bên cạnh đó, chế biến thủy hải sản còn nâng cao giá trị sản phẩm thủy hải sản. Vai trò
của công nghiệp chế biến thủy hải sản sẽ tiếp tục được khẳng định trong thời gian tới, đặc
biệt là khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
1.3.1.4. Giá trị thu nhập
Cùng với nông nghiệp, thủy sản đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh
Bạc Liêu. Tỷ trọng của ngành thủy sản liên lục dẫn đầu và tăng liên tục trong cơ cấu và giá
trị sản xuất nông – lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh. Giá trị sản xuất của ngành từ năm 2002
đến năm 2011 tính theo giá hiện hành luôn luôn chiếm trên 50% trong tổng giá trị sản xuất
của nông – lâm nghiệp và thủy sản. Tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu thủy sản năm 2011 là
237,5 triệu USD với tốc độ tăng bình quân hằng năm là 6,69%. Như vậy, cho thấy thủy sản
đóng góp một phần không nhỏ từ xuất khẩu các sản phẩm thủy sản cho nền kinh tế của tỉnh.
Thu nhập từ sản xuất thủy sản tăng liên tục từ năm 2002 đến năm 2011 với gần 6
nghìn tỷ đồng. Năm 2011 giá trị sản xuất thủy sản đạt gần 8 nghìn tỷ đồng, trong đó giá trị
nuôi trồng chiếm 83,73% tổng giá trị, phần còn lại là 16,27% thuộc về khai thác và dịch vụ
80
thủy sản.
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2002, 2005, 2011 [5].
Hình 2.3: Giá trị sản xuất thủy sản theo giá so sánh tỉnh Bạc Liêu (2002 - 2011)
Nhu cầu nhập khẩu thủy sản của các nước đối tác tiếp tục tăng mạnh trong những năm
qua, là điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu tăng nhanh sản lượng để hưởng
lợi các yếu tố giá cả và thị trường rộng mở. Năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản
lên đến 284 triệu USD, đạt 118,33% kế hoạch, tăng 29,68% so cùng kỳ. Các đơn vị trong
nước xuất khẩu đạt 234,3 triệu USD, tăng 30,21%; đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài đạt 49,6
triệu USD, tăng 27,24%.
Đối với thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp vẫn giữ vững sản lượng tiêu thụ lớn ở
các thị trường truyền thống là Mỹ, Nhật, EU, đồng thời tranh thủ mở rộng thị trường tiềm
năng như Nga, Úc, Hồng Kông, Hàn Quốc,... Hiện nay các doanh nghiệp đang tiếp tục mở
rộng quan hệ và tìm kiếm thêm thị trường xuất khẩu thủy sản mới, như thị trường Trung
Quốc. Mặc dù, giá cả xuất khẩu có nhiều biến động vì yêu cầu của thị trường song vẫn có
xu hướng tăng lên trong giai đoạn 2002 – 2011. Trong thời gian tới cần tiếp tục tìm kiếm
đơn hàng và nâng cao chất lượng sản phẩm nhầm nâng cao giá trị thu nhập.
1.3.1.5. Những khó khăn và tồn tại
- Nuôi trồng thủy sản
Mặc dù nuôi trồng thủy sản ở VBVBBL được khẳng định là nghề sản xuất chủ lực,
mang lại hiệu quả kinh tế cao vì phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu như sản lượng nuôi trong nhiều năm qua đã có sự tăng trưởng nhanh
so với thời kỳ trước thì nuôi trồng thủy sản của vùng vẫn còn có những khó khăn và tồn tại
81
nhất định như sau:
+ Việc quản lý và quy hoạch chưa được thực hiện nghiêm túc, tình trạng sản xuất
manh mún chưa được khắc phục. Cơ cấu loài thủy sản nuôi chưa đa dạng, vẫn chủ yếu là
tôm sú nên độ rủi ro cao.
+ Kết cấu hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu nuôi trồng thủy sản, nhất là thủy lợi, điện và giao thông đối với các vùng nuôi tôm
thâm canh và bán thâm canh tập trung của vùng nói riêng và của toàn tỉnh nói chung.
+ Thời tiết diễn biến ngày càng phức tạp khó lường, môi trường nuôi ngày càng bị suy
thoái, ô nhiễm và phải thường xuyên đối diện với tình hình dịch bệnh gây hại trên tôm nuôi.
Một bộ phận nông ngư dân còn thiếu kiến thức nuôi tôm, cũng như các loài thủy hải sản
khác.
+ Về giá cả các yếu tố đầu vào, đầu ra đối với tôm nuôi (giá bán nguyên liệu, giá mua
thức ăn, thuốc thú ý, …) vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố chưa ổn định. Về vốn có một số hộ do
thất bại các năm trước, không có tích lũy vốn để tái sản xuất, nợ quá hạng ngân hàng nên
không thể tiếp tục vay vốn để sản xuất.
+ Phần lớn các cơ sở kinh doanh giống, thức ăn thủy sản chưa đạt yêu cầu, xây dựng
chưa đúng quy chuẩn, tiêu chuẩn và chưa quan tâm nhiều đến điều kiện vệ sinh thú y thủy
sản. Vẫn còn tình trạng buôn bán các sản phẩm thú ý thủy sản, chế phẩm sinh học không
nằm trong danh mục cho phép lưu hành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
+ Về tiêu thụ sản phẩm cho người nuôi, chưa có chính sách đồng bộ nhằm bảo vệ giá
trong điều kiện thị trường luôn biến động, chưa thực hiện tốt khâu dự báo thị trường, giá cả
để người nuôi chủ động trong sản xuất (thời điểm thu hoạch, đối tượng nuôi, …).
- Khai thác thủy hải sản
+ Nghề khai thác xa bờ phát triển chậm, công suất và trọng tải tàu khai thác thủy hải sản
vẫn còn ở quy mô vừa và nhỏ, khả năng chịu sóng gió kém, chưa thể vươn ra khơi xa với thời
gian đi biển dài ngày. Hiệu quả của các tàu đánh bắt xa bờ còn thấp do nghề khai thác chủ yếu
là nghề cào, sản phẩm có giá trị kinh tế cao chiếm tỷ trọng thấp, chi phí sản xuất ngày càng
cao, đặc biệt là do ảnh hưởng việc tăng giá xăng dầu, giá vật tư đầu vào.
+ Tình trạng gia tăng về năng lực khai thác, trong khi ngư trường khai thác chưa được
mở rộng, dẫn đến áp lực khai thác vùng ven bờ tăng, nguồn lợi thủy hải sản suy giảm làm
82
ảnh hưởng đến môi trường sinh thái ven bờ.
+ Các thông tin, dữ liệu nghề cá còn thiếu, nên các dự báo về nguồn lợi, khả năng khai
thác thủy sản để phục vụ cho công tác quản lý, chỉ đạo sản xuất, xây dựng các chính sách
phát triển khai thác thủy hải sản chưa kịp thời.
+ Tình trạng thiếu ngư dân lành nghề, chưa qua các lớp đào tạo là trở ngại lớn cho hoạt
động quản lý và tổ chức sản xuất đánh bắt hải sản, do trình độ văn hóa của ngư dân còn
thấp, nhiều ngư dân còn lúng túng, chưa nắm chắc được ngư trường và kỹ thuật khai thác
của vùng biển xa bờ.
+ Cơ sở vật chất, hệ thống hậu cần phục vụ tuy đã được đầu tư nhưng chưa đồng bộ và
còn nhiều bất cập, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Các cửa biển ra vào, các
khu neo đậu chưa được nạo vét thường xuyên, ảnh hưởng đến hoạt động cũng như neo đậu
tàu cá.
+ Ngư dân thiếu vốn đầu tư, do không có tài sản đủ để thế chấp nên khó tiếp cận được
nguồn vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng ngân hàng để đầu tư nâng cấp, cải hóa phương
tiện. Ý thức chấp hành công tác đăng ký, đăng kiểm của một bộ phận ngư dân chưa cao, còn
trốn tránh, không làm thủ tục đăng ký, đăng kiểm.
+ Các dịch vụ hậu cần nghề cá còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được 3 khu neo đậu
cho tàu thuyền tránh bão tại Nhà Mát, Cái Cùng và Gành Hào. Cảng cá Gành Hào đang bị
quá tải, hạ tầng giao thông khu vực cảng cá với Quốc lộ 1A chưa được đầu tư nâng cấp, gây
khó khăn cho hoạt động của cảng cá.
- Chế biến thủy sản
+ Sự mất cân đối giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến tiêu thụ chưa được giải quyết
một cách căn cơ. Tình trạng thừa, thiếu nguyên liệu vẫn tồn tại và gây ra sự mất ổn định
trong sản xuất. Các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu thu mua của nông
ngư dân mà chưa tạo ra mối liên kết chặt chẽ hoặc chủ động xây dựng vùng nguyên liệu cho
riêng mình.
+ Vấn đề đa dạng hóa sản phẩm còn hạn chế, các doanh nghiệp trong tỉnh chủ yếu
mạnh về chế biến mặt hàng tôm xuất khẩu nhưng còn bỏ ngỏ các mặt hàng khác như cá,
nhuyễn thể. Do vậy chưa tận dụng hết nguồn nguyên liệu tại chỗ.
+ Phần lớn các nhà máy chế biến thủy sản của tỉnh Bạc Liêu mặc dù được đầu tư hoàn
thiện công nghệ và kỹ thuật và dây chuyền sản xuất hiện đại. Tuy nhiên đa phần các nhà
máy thiếu hệ thống xử lý nước thải hoặc hệ thống xử lý nước thải không hiệu quả nên tình
83
trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng cho các khu vực xung quanh nhà máy.
+ Vấn đề sử dụng kháng sinh hóa chất thiếu kiểm soát dẫn đến chất lượng sản phẩm
sau chế biến không đảm bảo theo yêu cầu của các thị trường, đặc biệt là các thị trường khó
tính như Mỹ, EU, … nguy cơ mất thị trường rất lớn.
2.3.2. Khai thác khoáng sản biển
2.3.2.1. Khai thác muối biển (diêm nghiệp)
Khai thác muối biển là nghề truyền thống của ngư dân ven biển Bạc Liêu. Thương
hiệu muối Bạc Liêu đã khá phổ biến trong nước và xuất khẩu sang nước ngoài. Tình hình
sản xuất muối gặp nhiều khó khăn và biến động do tác động của các yếu tố tự nhiên. Kết
quả sản xuất muối của tỉnh đạt được qua các năm không ổn định:
Bảng 2.11: Kết quả sản xuất muối tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2002 – 2011
Năm DT (ha) SL Chia ra loại muối NS (tấn/ha) (103 tấn) Đen (%) Trắng (%)
2002 3.115,0 63,2 199.380 174.380 87,5 25.000 12,5
2003 2.489,0 70,5 175.376 140.376 80,0 35.000 20,0
2004 1.848,0 71,7 132.505 98.505 74,3 34.000 25,7
2005 1.795,5 66,6 119.538 95.538 79,9 24.000 20,1
2006 1.795,0 27,9 50.000 47.311 94,6 2.689 5,4
2007 1.952,0 39,8 77.700 62.072 79,9 15.628 20,1
2008 2.090,0 43,5 90.871 73.506 80,9 17.365 19,1
2009 3.206,0 12,7 40.661 38.170 93,9 2.491 6,1
2010 3.487,0 76,3 266.092 229.373 86,2 36.719 13,8
2011 3.134,0 37,3 177.000 79.000 67,5 38.000 32,5
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu [14].
- Diện tích sản xuất muối: diện tích sản xuất muối của tỉnh có nhiều biến động trong
giai đoạn 2002 – 2011. Cụ thể, năm 2002 có 3.155,0 ha đến năm 2005 giảm xuống 1.795,5
ha (giảm 1.359,5 ha, bình quân giảm 4,5%/năm), tăng lên 3.487,0 ha năm 2010 (tăng
1.691,0 ha, bình quân tăng 14,2%/năm) và năm 2011 đạt 3.134,0 ha, giảm 353 ha.
- Địa bàn sản xuất muối: địa bàn sản xuất muối khá ổn định, tập trung ở 3 huyện, thành
84
phố VBVBBL với quy mô năm 2010: Đông Hải 2.249 ha (64,5%), Hòa Bình 1.101 ha
(31,6%), thành phố Bạc Liêu 137 ha (3,9%). Tổng số hộ làm muối 1.800 hộ, lao động 5.414
người, tập huấn 04 lớp kỹ thuật sản xuất muối chất lượng cao tại huyện Hòa Bình và Đông
Hải với 120 diêm dân tham gia.
- Năng suất sản xuất muối: của tỉnh biến động mạnh, năm cao nhất đạt 76,3 tấn/ha
(2010), năm thấp nhất đạt 12,7 tấn/ha (2009) và năm 2011 đạt 37,3 tấn/ha (bằng 48,9% năng
suất năm 2010).
Hình 2.4: Tổng sản lượng muối VBVBBL giai đoạn 2002 – 2011
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu [14].
- Sản lượng muối: Sản lượng muối của tỉnh đạt 199,4 nghìn tấn năm 2002 giảm xuống
còn 50,0 nghìn tấn năm 2006 (sau 4 năm giảm 149,4 nghìn tấn), tăng lên 90,9 nghìn tấn năm
2008 (sau 3 năm tăng 40,9 nghìn tấn) và giảm còn 41 nghìn tấn năm 2009 (giảm 49,9 tấn),
năm 2010 tăng lên 266,1 nghìn tấn (tăng 225,4 nghìn tấn) và năm 2011 giảm còn 117 nghìn
tấn (giảm 49,1 tấn). Như vậy, sản lượng muối không ổn định, cứ 3 – 4 năm lại có một năm
mất mùa, từ năm 2008 đến nay cứ năm được năm thất.
- Nguyên nhân, ngoài tác động của yếu tố giá cả, chủ yếu là do phương thức sản xuất
muối thủ công phụ thuộc rất lớn vào thời tiết, những năm mưa thuận gió hòa thì năng suất
muối cao, những năm gặp mưa trái mùa năng suất giảm. Vì vậy, việc chuyển đổi phương
thức làm muối, ứng dụng khoa học và công nghệ để duy trì năng suất muối và ổn định hàng
85
năm là hết sức cần thiết.
- Hiệu quả mô hình sản xuất muối: trước năm 2008, người dân chủ yếu làm muối
chuyên, nhưng từ năm 2008 đến nay người dân chuyển nhanh sang phương thức làm muối
luân canh với nuôi trồng thủy sản (nuôi cá kèo, tôm, cua, cá) cho hiệu quả cao hơn. Diện
tích muối luân canh với nuôi thủy sản năm 2009 là 2.812 ha, chiếm gần 88% diện tích làm
muối của tỉnh và năm 2010 giảm còn 1.350 ha, chỉ còn chiếm 38,7% diện tích muối của
tỉnh. Riêng năm 2011, đối với sản xuất muối đen lợi nhuận bình quân 0,96 triệu đồng/ha;
đối với sản xuất muối trắng trải bạt lỗ bình quân 2,3 triệu đồng/ha (do mưa trái mùa nên
diêm dân gom bạt nhựa, chuyển qua sản xuất muối đen).
- Chế biến và tiêu thụ muối:
+ Chế biến muối: Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 2 nhà máy chế biến muối Iốt, sản lượng sản
xuất tăng từ 3.000 tấn năm 2002 lên 5.100 tấn năm 2011, tương ứng với sản lượng muối
nguyên liệu khoảng 6.000 tấn, chiếm khoảng 2,3% tổng sản lượng muối và sản lượng
muối chế biến đủ cung cấp cho trên 2 lần nhu cầu tiêu dùng muối ăn của người dân trong
tỉnh.
+ Tiêu thụ muối: Năm 2011, sản lượng muối sản xuất tại Bạc Liêu là 177 nghìn tấn (gấp
2,8 lần sản lượng năm 2005 và 6,5 lần sản lượng muối năm 2009), trong đó làm nguyên
liệu chế biến muối iốt chiếm khoảng 2,3%, còn lại 87,7% cung cấp cho thị trường trong
và ngoài tỉnh. Giá thu mua muối bình quân tại tỉnh trong 10 năm qua cho thấy:
Bảng 2.12: So sánh giá muối đen và muối trắng tại tỉnh Bạc Liêu
Giá muối bình quân (đồng/kg) Năm
Muối đen Muối trắng So sánh muối trắng/đen (%)
2002 180 330 183,3
2003 180 330 183,3
2004 180 330 183,3
2005 240 320 133,3
2006 420 650 154.8
2007 625 740 118,4
2008 1.250 1.600 128,0
86
2009 1.650 2.450 148,5
2010 350 650 185,7
2011 980 1.480 151,9
Nguồn: Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu [14].
Chỉ có 2 năm (2008,2009) là giá thu mua muối cao, thuận lợi cho diêm dân, còn lại 8
năm là giá thu mua thấp, hầu hết diêm dân đều bị lỗ. Năng suất muối trắng tuy cao gấp 1,7 –
1,8 lần năng suất muối đen, nhưng do thời gian làm muối trắng kéo dài hơn làm muối đen
1,45 lần, nên thực chất năng suất làm muối trắng chỉ cao hơn làm muối đen khoảng 1,2 –
1,3 lần. Vốn đầu tư ban đầu cho làm 1 ha muối trắng cao hơn muối đen khoảng 40 triệu
đồng, tương ứng giá thành muối trắng cao hơn muối đen khoảng 1,4 – 1,5 lần, trong khi
chênh lệch giữa giá muối trắng và muối đen từ năm 2006 đến nay có xu hướng giảm, chỉ
dao động từ 1,18 – 1, 86 lần và theo giá thu mua tạm trữ năm 2011 là khoảng 1,42 lần. Lý
do này khiến cho diêm dân ít mặn mà chuyển đổi từ làm đen sang làm muối trắng. Nhưng từ
khi chuyển giao công nghệ trải bạt nhựa trên nền sân kết tinh để sản xuất muối trắng chất
lượng cao đã đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội rõ rệt, lợi nhuận cao gấp nhiều lần mô hình
làm muối theo kiểu củ, chất lượng muối tốt hơn, bán được giá hơn.
- Những khó khăn, tồn tại và hạn chế:
+ Thời tiết không thuận lợi (do các đợt mưa trái mùa) đã gây thất thoát 30.065 tấn, giá trị
thiệt hại khoảng 15.032 triệu đồng (năm 2011) và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến không
đạt chỉ tiêu kế hoạch về sản lượng muối.
+ Giá muối không ổn định, chất lượng muối không đồng đều, nguồn tiêu thụ bấp bênh, nên
đời sống của bà con diêm dân gặp nhiều khó khăn. Sản lượng muối đen còn chiếm tỷ
trọng cao trong sản xuất, ảnh hưởng lớn đến khả năng tiêu thụ và thu nhập của diêm dân.
+ Do thiếu vốn đầu tư, giá muối không ổn định, nguồn tiêu thụ bấp bênh, thời tiết diễn biến
phức tạp,... nên bà con diêm dân còn rất e ngại đầu tư công nghệ trải bạt trên nền sân kết
tinh (chi phí đầu tư cao). Việc đầu tư kết cấu hạ tầng vùng muối chậm so với yêu cầu,
chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa và dân sinh kinh tế.
+ Vấn đề tìm kiếm đầu ra cho muối sản xuất, cũng như tìm thị trường cho sản phẩm muối
đã qua chế biến đang là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Đã nhiều năm liền do không
tiêu thụ được sản phẩm muối, nguồn nguyên liệu muối bị tồn động, gây ảnh hưởng đến
87
hoạt động tái sản xuất nghề muối gặp rất nhiều khó khăn.
2.3.2.2. Khai thác phong điện (điện gió)
Tiềm năng gió để phát triển điện gió ở Việt Nam qua nghiên cứu được xác định chủ
yếu tập trung ở khu vực duyên hải các tỉnh phía Nam, trong đó có Bạc Liêu. Tổng diện tích
được đánh giá có tiềm năng gió vào loại khá trở lên (có vận tốc trung bình năm tại độ cao
lắp turbin từ 6m/s trở lên), ở độ cao tiêu biểu lắp tuarbin (80m) là 2.659 km2, chiếm tỉ lệ
0,8% diện tích cả nước, với tổng công suất điện gió ướt đạt khoảng 10.637 MW.
Tại Việt Nam ngoài nhà máy điện gió của REVN tại Tuy Phong (Bình Thuận), với
tổng công suất điện gió đến cuối năm 2011 là 31 MW, xếp hạng thứ 55 trên thế giới, còn có
2 dự án điện gió qui mô công nghiệp đã và đang được triển khai. Đó là dự án điện gió đảo
Phú Quý do PVP làm chủ đầu tư, công suất 6 MW và dự án điện gió Bạc Liêu do công ty
Công Lý làm chủ đầu tư, tổng công suất là 99,2 MW. Như vậy khi hoàn thành đây sẽ là
công trình điện gió lớn nhất Việt Nam.
Dự án nhà máy điện gió Bạc Liêu được xây dựng mới toàn bộ, có quy mô công suất là
99,2 MW, bao gồm 62 trụ turbine gió, công suất mỗi turbine gió là 1,6 MW, điện năng sản
xuất toàn dự án khoảng 320 triệu KWh/năm. Tổng mức đầu tư toàn dự án là 5.200 tỷ đồng,
với diện tích đất 500 ha. Trong đó, giai đoạn 1 dự án đang được triển khai đầu tư xây dựng
gồm 10 turbine gió với công suất 16 MW, tổng mức đầu tư giai đoạn 1 là 963 tỷ đồng, sản
lượng điện năng khoảng 56 triệu KWh/năm và sẽ hoàn thành trong năm 2013 (gồm 10 trụ
turbine cùng với đường dây tải điện 110 KV). Dự án chính thức khởi công ngày 09/9/2010,
điện gió Bạc Liêu được hòa vào lưới điện Quốc gia là một cột mốc quan trong cho sự phát
triển các nguồn năng lượng sạch ở nước ta, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long.
2.3.3. Ngành lâm nghiệp
Rừng ở Bạc Liêu không nhiều, có hai loại sinh thái rừng đặc trưng của vùng đồng
bằng sông Cửu Long là rừng ngập mặn ven biển và rừng ngập nước nội địa. Trong đó, rừng
ngập mặn ven biển có diện tích lớn nhất, năng suất sinh học cao, có giá trị về phòng hộ và
môi trường.
Bảng 2.13: Tình hình sản xuất lâm nghiệp tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2002 - 2011
Năm
88
2002 2004 2006 2008 2010 2011 Tiêu chí
- Diện tích rừng (nghìn ha) 6,8 5,9 5,5 4,3 5,8 5,8
+ Rừng tự nhiên 3,5 3,0 2,8 2,2 2,3 2,3
+ Rừng trồng 3,3 2,9 2,7 2,1 3,5 3,5
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2002, 2005, 2011 [5].
Năm 2011, tổng diện tích rừng của tỉnh hơn 5,8 nghìn ha, chiếm 2,3% diện tích đất tự
nhiên của tỉnh. Trong đó, diện tích rừng tự nhiên là 2,3 nghìn ha, chiếm 39,7% diện tích
rừng của tỉnh. Giá trị sản xuất lâm nghiệp theo giá hiện hành rất thấp và đang có xu hướng
tăng. Năm 2011, đạt 104,9 tỷ đồng, chiếm 0,6% GDP của tỉnh.
VBVBBL chiếm phần lớn diện tích rừng và đi đầu trong phát triển rừng, đặc biệt là
huyện Đông Hải và Hòa Bình, tổng diện tích rừng của vùng là 5.167,0 ha (trong đó diện tích
có rừng 3.362,6 ha; diện tích đất nuôi trồng thủy sản và đất chuyên dùng là 899,9 ha; đất bãi
bồi quy hoạch phát triển rừng và vùng đệm rừng đặc dụng là 913,5 ha). Giá trị sản xuất lâm
nghiệp theo giá so sánh của toàn tỉnh và VBVBBL đều có xu hướng tăng qua các năm. Diện
tích rừng VBVBBL tuy lớn nhưng chủ yếu là rừng phòng hộ và bảo tồn đa dạng sinh học
nên giá trị sản xuất không cao. So với giá trị sản xuất lâm nghiệp toàn tỉnh qua các năm thì
tỉ trọng giá trị sản xuất lâm nghiệp của VBVBBL ngày càng tăng lên đáng kể, năm 2006
chiếm 33% tỉ trọng giá trị sản xuất, đến năm 2008 chiếm 35% và năm 2011 chiếm 41%.
Bảng 2.14: Giá trị sản xuất lâm nghiệp (giá so sánh) phân theo huyện ven biển
(Đơn vị: Triệu đồng)
Năm
Khu vực 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Toàn tỉnh 17.426 19.624 20.453 20.512 22.574 22.435
VBVBBL 5.751 6.477 7.417 7.438 8.611 9.213
TP. Bạc Liêu 871 883 881 883 1.041 1.060
Huyện Hòa Bình 2.788 3.140 3.446 3.456 3.954 3.809
Huyện Đông Hải 2.092 2.454 3.090 3.099 3.616 4.344
89
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2006, 2011 [5].
Thực trạng bảo vệ và phát triển rừng tính đến nay, thực hiện hợp đồng giao khoán
quản lý, bảo vệ rừng phòng hộ ven biển cho 386 tổ chức, hộ gia đình và cá nhân với diện
tích 3.089,25 ha (đạt 77%). Công tác bảo vệ rừng được tăng cường, nhưng do tính chất phức
tạp của công tác này, nên tình trạng vi phạm quy định quản lý, bảo vệ rừng như phá rừng,
khai thác lâm sản trái phép, vẫn còn xảy ra. Công tác trồng và khoanh nuôi rừng triển khai
từ năm 2002 đến nay được khoảng 1.000 ha rừng phòng hộ và 4,3 triệu cây phân tán (tương
đương 1.900 ha), khoanh nuôi tái sinh 414 ha rừng phòng hộ ven biển, trong đó thành rừng
280 ha.
Những khó khăn và hạn chế: Áp lực về công ăn việc làm và nhu cầu đời sống cho
người dân địa phương đối với công tác bảo vệ rừng ngày càng một tăng. Đầu tư cho trồng
rừng lâu thu hồi vốn, nên khó thu hút tổ chức, cá nhân cho đầu tư trồng và bảo vệ rừng, tình
trạng chặt phá rừng với nhiều mục đích khác nhau vẫn chưa được ngăn chặn triệt để. Hoạt
động chế biến lâm sản của tỉnh chậm phát triển, chủ yếu là các cơ sở quy mô nhỏ, trang thiết
bị và kỹ thuật chế biến lạc hậu, sản phẩm chủ yếu là đồ mộc gia dụng, gỗ xây dựng phục vụ
trong tỉnh. Trang thiết bị và phương tiện phục vụ công tác lâm sinh còn thiếu, tiến bộ kỹ
thuật trong lâm nghiệp như giống, xử lý đất, phòng chống cháy rừng còn nhiều hạn chế. Hệ
thống cơ chế chính sách có liên quan đến công tác lâm nghiệp còn những bất cập, đầu tư của
nhà nước cho công tác bảo vệ và phát triển rừng thấp.
2.3.4. Ngành dịch vụ, du lịch
Ngành dịch vụ, du lịch VBVBBL có sự phát triển nhanh chóng, đóng góp tích cực vào
sự tăng trưởng kinh tế. Giá trị sản xuất dịch vụ, du lịch ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong
nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động,
cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng các mối quan hệ, hợp tác của tỉnh. Cơ cấu ngành dịch
vụ đã có những chuyển dịch tích cực, bên cạnh các ngành dịch vụ truyền thống đã hình
thành và phát triển một số ngành dịch vụ mới như bảo hiểm, kinh doanh bất động sản. Tuy
nhiên các ngành dịch vụ truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn như thương mại, khách sạn
nhà hàng, vận tải, bưu chính viễn thông… Thành phố Bạc Liêu là trung tâm phát triển dịch
vụ, du lịch mạnh nhất của toàn tỉnh.
- Thương mại: hoạt động kinh doanh thương mại phát triển nhanh cả về số lượng, chất
lượng và quy mô kinh doanh, với phương thức hoạt động ngày càng đa dạng, tạo ra các
90
kênh lưu thông hàng hóa thông suốt từ thành thị đến nông thôn, đáp ứng nhu cầu cơ bản của
sản xuất và đời sống nhân dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn vùng năm 2011 là 10.763,76
tỷ đồng theo giá thực tế (chiếm 59,6% tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng đồng đều ở các thành phần kinh tế. Nếu phân theo
ngành kinh doanh thì tốc độ tăng trưởng của dịch vụ và khách sạn nhà hàng ngày càng có
nhiều biểu hiện tích cực, điều này một phần là bởi các chương trình đầu tư, xúc tiến phát
triển du lịch đang được đẩy mạnh. Trong cơ cấu ngành kinh doanh thì thương nghiệp chiếm
tỷ trọng lớn nhất với 72,52% với mức tăng 25,63%, dịch vụ chiếm 14,36% tăng 26,06%,
khách sạn nhà hàng chiếm 13,11% và tăng 26,01%.
trưởng đáng kể, đạt tốc độ khá cao, đạt 16,9% (giai đoạn 2002 – 2006) và 23,0%/năm (giai đoạn 2007 –
2011). Năm 2011, tổng số khách du lịch đến Bạc Liêu là 530.400 lượt, trong đó khách nước
- Ngành du lịch: trong giai đoạn 2002 – 2011, số lượng khách du lịch đến Bạc Liêu đã có sự tăng
ngoài là 17.760 lượt (chiếm 3,35% tổng số khách), khách trong nước là 512.640 lượt (chiếm
96,65% tổng số khách). Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng lượt khách du
lịch đến với Bạc Liêu là do ngành du lịch Bạc Liêu có chuyển biến tích cực, đặc biệt là các
điểm du lịch Phật bà Nam Hải, vườn chim Bạc Liêu, vườn nhãn, nhà Công tử Bạc Liêu, khu
lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu... thu hút lượng khách đến tham quan khá nhiều so với
những năm trước.
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Bạc Liêu [16].
Hình 2.5: Số khách du lịch đến Bạc Liêu giai đoạn 2002 – 2011
91
Doanh thu từ hoạt động du lịch trong giai đoạn 2002 – 2011 tăng trưởng tương đối
cao. Năm 2002 thu từ du lịch đạt 80 tỷ đồng đến năm 2010 đạt 385,5 tỷ đồng (tăng hơn 5
lần). Năm 2011, thu từ du lịch đạt 469 tỷ đồng, tăng 21,7% so với năm 2010. Trong cơ cấu
nguồn thu từ du lịch của Bạc Liêu, mua sắm chiếm tỷ trọng lớn nhất (32,97%); ăn uống
chiếm vị trí thứ 2 (29,36%); lưu trú chiếm vị trí thứ 3 (18,86%); còn lại là các hoạt động
khác. Cơ cấu này thể hiện rõ nét đặc điểm khách du lịch lưu trú của Bạc Liêu chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng số khách.
Tỷ trọng đóng góp của du lịch trong GDP tỉnh còn thấp, năm 2011 mới đạt 1,51%
trong GDP tỉnh, giá trị khoảng 148,72 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994).
Cơ sở vật chất kỹ thuật, đến năm 2011 số cơ sở lưu trú là 30 cơ sở, với 733 buồng,
trong đó có 11 cơ sở được xếp hạng sao với 445 buồng. Nhìn chung, hệ thống cơ sở lưu trú
du lịch của Bạc Liêu chưa phát triển, số lượng ít, quy mô các cơ sở nhỏ. Về chất lượng có
thể thấy, tỷ lệ cơ sở lưu trú được xếp hạng sao trong tổng số cơ sở lưu trú thấp (năm 2011 tỷ
lệ buồng lưu trú du lịch được xếp hạng sao mới đạt 60,71% trong tổng số buồng). Bên cạnh
đó, dịch vụ ăn uống chủ yếu tập trung ở thành phố Bạc Liêu và khu vực thị trấn và đông dân
cư. Dịch vụ vui chơi giải trí cũng chưa phát triển.
Lao động ngành du lịch trong giai đoạn 2002 – 2011 tăng trưởng với tốc độ bình quân
6,5%/năm. Số lượng lao động năm 2002 mới có 850 người, đến năm 2010 là 1.500 người.
Năm 2011 số lượng lao động là 1.900 người. Chất lượng nguồn lao động du lịch của tỉnh
còn thấp, số lao động đạt trình độ Đại học và trên Đại học mới có 45 người đạt tỷ lệ 2,4%,
trong khi đó số lao động chưa qua đào tạo là 905 người, chiếm 47,6%.
Hiện tại, du lịch tỉnh Bạc Liêu tập trung phát triển các loại hình chính:
+ Du lịch sinh thái: chủ yếu là tham quan vườn chim Bạc Liêu; du lịch cuối tuần ở
Vườn Nhãn Bạc Liêu; du lịch sinh thái biển ở khu du lịch biển Nhà Mát….
+ Du lịch văn hóa: mới khai thác được dưới dạng nhỏ lẻ một số điểm di tích lịch sử
văn hóa như Nhà công tử Bạc Liêu; Khu lưu niệm Cao Văn Lầu; một số khu, điểm di tích
khác… Các di tích lịch sử này mới được khai thác dưới hình thức một điểm tham quan đơn
lẻ, trong khi những giá trị văn hóa sâu hơn, những giá trị ăn theo… đều chưa được khai
thác.
+ Du lịch lễ hội: một số lễ hội được khai thác như lễ hội Đồng Nọc Nạng; Lễ hội Dạ
cổ hoài lang; Lễ hội Nghinh ông; Lễ hội Quán âm Phật đài và một số lễ tết của các dân
tộc… bước đầu hình thành các sản phẩm du lịch thu hút khá đông khách du lịch.
+ Du lịch văn hóa tâm linh: có những tiềm năng về du lịch văn hóa tâm linh như Quán
âm Phật đài, Lăng và lễ hội cá ông; Nhà thờ Tắc Sậy, các chùa phật giáo… Tuy nhiên các 92
sản phẩm mới tập trung vào việc hình thành các sự kiện (chủ yếu là lễ hội) liên quan, các
dịch vụ ăn theo, các sản phẩm bổ trợ phát triển mạnh.
Nhìn chung, sản phẩm du lịch Bạc Liêu có chất lượng thấp, đơn điệu, ít sáng tạo. Các
giá trị ăn theo, các giá trị bổ trợ chưa được khai thác hiệu quả, do đó chưa thu hút được
khách du lịch, khả năng cạnh tranh thấp, hiệu quả kinh tế không cao do các nguyên nhân
chính và cũng là những hạn chế của quá trình khai thác tiềm năng du lịch phát triển sản
phẩm du lịch của Bạc Liêu.
Về phát triển du lịch theo lãnh thổ ở Bạc Liêu hiện nay, các không gian du lịch chưa
được hình thành một cách rõ nét, chủ yếu là các điểm du lịch riêng biệt, chưa có sự kết nối.
Các khu điểm du lịch hiện trạng tập trung phát triển ở khu vực TP Bạc Liêu và một số khu
vực có tiềm năng du lịch bao gồm:
+ Khu vực trung tâm TP Bạc Liêu, với di tích nhà Công tử Bạc Liêu, hệ thống nhà cổ;
hệ thống các cơ sở dịch vụ, lưu trú
+ Khu du lịch biển Nhà mát (TP Bạc Liêu)
+ Khu Quán âm Phật đài (TP Bạc Liêu)
+ Khu du lịch giồng nhãn Bạc Liêu (TP Bạc Liêu)
+ Khu vườn chim Bạc Liêu (TP Bạc Liêu)
+ Khu nhà thờ Tắc Sậy (Giá Rai)
+ Khu cửa biển Gành Hào (Đông Hải)
Như vậy nếu nhìn tổng quan, du lịch Bạc Liêu được phát triển tập chủ yếu ở
VBVBBL, đặc biệt là thành phố Bạc Liêu và một số khu vực phụ cận xung quanh. Vì vậy
các chỉ tiêu đánh giá thực trạng phát triển ngành du lịch của tỉnh hiện nay, cũng có thể xem
là của VBVBBL vì tỉ lệ giá trị thu được từ hoạt động du lịch đã hơn 95% tập trung ở vùng
này.
2.3.5. Ngành giao thông vận tải biển
Bạc Liêu là tỉnh có đường bờ biển dài 65 km nhưng do nhiều nguyên nhân nên đến
nay, giao thông vận tải biển vẫn cũng chưa có điều kiện phát triển. Hiện tại, Bạc Liêu vẫn
chưa có cảng biển và đội tàu biển.
VBVBBL hiện nay chỉ mới có 3 cơ sở sửa chữa tàu thuyền, 12 xưởng cơ khí chuyên
sửa máy tàu và một số cơ sở sửa chữa, đóng ghe thuyền nhỏ. Hầu hết, các cơ sở đều có công
suất nhỏ và trình độ khoa học kỹ thuật còn rất hạn chế. Tuy nhiên, trong quy hoạch và dự án
93
kêu gọi đầu tư trong tương lai, xây dựng cảng biển Gành Hào (huyện Đông Hải). Cảng biển
Gành Hào nếu được xây dựng và hoàn thành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế biển của
tỉnh phát triển và giúp quá trình mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế.
Thực trạng giao thông vận tải VBVBBL đã được hoàn thiện cơ bản, hệ thống giao
thông đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân nông thôn trong cả hai mùa mưa nắng. Nhiều
trục đường giao thông nối với QL1A đã được chỉnh sửa và xây dựng mới đáp ứng nhu cầu
94
vận chuyển hàng hóa và giao lưu kinh tế trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.
95
2.4. Vị trí kinh tế biển trong nền kinh tế tỉnh Bạc Liêu
Trong những năm qua, cùng với xu hướng đổi mới và phát triển kinh tế tỉnh Bạc Liêu,
kinh tế biển VBVBBL cũng đã có bước phát triển rõ rệt và ngày càng đóng góp đáng kể vào
sự tăng trưởng giá trịnGDP của tỉnh.
Về quy mô GDP của VBVBBL không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn so với giá
trị GDP toàn tỉnh, năm 2011 giá trị sản xuất toàn vùng theo giá hiện hành đạt 12.632 tỷ
đồng, giá trị GDP theo giá so sánh đạt 5.188,7 tỷ đồng. Nếu so sánh với tỷ trọng GDP toàn
tỉnh thì tỷ trọng GDP của kinh tế biển VBVBBL chiếm khoảng 52,8%, kinh tế biển của tỉnh
có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà. Về tốc độ tăng trưởng
kinh tế VBVBBL giai đoạn 2006 – 2011 đạt 11,49%, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân của tỉnh trong giai đoạn này lên 11,57%. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
như vậy nên thu nhập bình quân đầu người VBVBBL cũng đạt mức cao, năm 2011 đạt
30,55 triệu đồng/năm, trong khi thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh chỉ là 24,8 triệu
đồng/năm (cao hơn 1,23 lần so với mức thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh).
Cơ cấu kinh tế VBVBBL đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong 10 năm từ năm
2002 đến năm 2011, cơ cấu kinh tế VBVBBL đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp – xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông – lâm – ngư nghiệp. Theo đó, tỷ trọng
khu vực 1 giảm khá mạnh 8,84%; khu vực 2 tăng 5,54%; khu vực 3 tăng 3,31%.
Bảng 2.15. Cơ cấu kinh tế tỉnh Bạc Liêu và VBVBBL năm 2011 (Đơn vị %)
Cơ cấu ngành Năm 2002 Năm 2011
- Toàn tỉnh Bạc Liêu:
+ Nông – Lâm – Ngư 51,70 59,6
+ Công nghiệp – xây dựng 24,52 20,6
+ Dịch vụ 23,28 19,8
- VBVBBL
+ Nông – Lâm – Ngư 47,35 56,2
+ Công nghiệp – xây dựng 28,14 22,6
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2002, 2011 [5].
+ Dịch vụ 24,51 21,2
96
Trong nội bộ ngành cũng có sự chuyển dịch rõ nét. Cơ cấu sản xuất ngành nông
nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng ngành thủy sản, gắn với khai thác hiệu quả tiềm năng
và lợi thế của từng vùng sinh thái. Giá trị tăng thêm của ngành là 7,31%/năm; Cơ cấu sản
xuất ngành công nghiệp – xây dựng chuyển dịch theo hướng gắn sản xuất với thị trường tiêu
thụ, tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, tập trung phát triển công nghiệp chế biến các sản
phẩm có thế mạnh như thủy sản và nông sản. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp xây
dựng là 16,22%/năm; Cơ cấu ngành dịch vụ phát triển các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất
và đời sống, đáp ứng tốt hơn đời sống nhân dân như du lịch – thương mại, bưu chính viễn
thông, vận tải,… Tuy nhiên, quan hệ tỷ lệ giữa khu vực sản xuất và dịch vụ chưa có sự thay
đổi lớn. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng ổn định 15,58%/năm.
Nếu so sánh về tỷ trọng của riêng các ngành kinh tế biển thì có thể nhận thấy rõ ngành
có tỷ trọng đóng góp lớn nhất trong GDP của tỉnh là ngành thủy sản, đến hoạt động dịch và
du lịch, lâm nghiệp và cuối cùng là khai thác khoáng sản biển. Trong tương lai cơ cấu đóng
góp này sẽ có nhiều thay đổi nếu ngành du lịch và nhà mày điện gió hoàn thành.
Bảng 2.16 Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của VBVBBL và tỉnh Bạc Liêu năm
2011
Toàn tỉnh VBVBBL Chỉ tiêu
Đơn vị tính Km2 2.570 1.121 Diện tích tự nhiên
873.293 406.780 Dân số
Người Người/km2 340 363 Mật độ dân số
Lao động đang làm việc Người 466.985 215.594
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội Tỷ đồng 5.602 2.983
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 12 14 %
Tỷ lệ % GDP vùng/toàn tỉnh 100 52,8 %
24,8 30,55 Thu nhập bình quân đầu người Triệu đồng
454 Giá trị sản xuất nông nghiệp Tỷ đồng 1.993
(Giá so sánh 1994)
Sản lượng lương thực Tấn 909.543 166.349
Giá trị sản xuất thủy sản Tỷ đồng 7.949 5.564
(Giá so sánh 1994)
97
Sản lượng thủy sản Tấn 253.479 179.299
Giá trị sản xuất công nghiệp Tỷ đồng 4.359 3.487
(Giá so sánh 1994)
Tổng số học sinh các cấp Người 136.188 61.973
BQ số giường bệnh/vạn dân 1.754 1.214 Giường
BQ số bác sỹ/vạn dân Người 5,9 7,9
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu năm 2011 [5].
Tỷ lệ hộ nghèo % 15 12
VBVBBL huy động được nguồn đầu tư phát triển khá lớn trong thời gian qua. Nếu
không kể đến các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước… thì
vùng cũng thu hút được nguồn vốn đầu tư phát triển mạnh các ngành kinh tế biển như du
lịch, điện gió, bến cảng cá. Các dự án động lực đang được thu hút đầu tư mạnh mẽ là khu
kinh tế biển Gành Hào, cảng biển Gành Hào, nhà máy nhiệt điện. Điều này cho thấy kinh tế
biển của tỉnh đã và đang được quan tâm phát triển và sẽ là xu hướng phát triển trong tương
lai và ngày cang đóng góp nhiều hơn nữa cho sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Kinh tế biển phát triển đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội VBVBBL phát triển và
góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của tỉnh, nhờ vậy mà tình hình văn hóa – xã
hội đã có những triển biến tích cực. Trong đó, nổi bật là công tác xóa đói giảm nghèo, đến
năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm chỉ còn 12%. Y tế có sự phát triển mạnh mẽ, công tác y tế dự
phòng có nhiều thành công trong phòng và đẩy lùi dịch bệnh. Giáo dục được phát triển đồng
đều ở các cấp học. Bình đẳng về giới có sự tiến bộ vượt bậc, vai trò của người phụ nữ ngày
càng được nâng lên trong xã hội.
Chính trị - xã hội, quốc phòng an ninh được tăng cường và tạo mọi điều kiện thuận lợi
để các hoạt động kinh tế - xã hội được đảm bảo. Công tác phòng chống tội phạm và các tệ nạn
xã hội trên địa bàn đã từng bước làm giảm bớt các vụ việc vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự
xã hội. Cải cách hành chính có chuyển biến tích cực. Tình hình kỹ luật, kỹ cương trong các cơ
quan hành chính Nhà Nước được nâng cao.
Tóm lại, kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu đã có những chuyển biến tích cực trong thời gian
qua, tỉnh đã có những chủ trương đúng đắn trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, ưu
tiên phát triển các ngành có lợi thế. VBVBBL đã đạt sự phát triển vượt bậc, đóng góp ngày
càng lớn trong sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, góp phần quan trọng trong sự 98
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống nhân dân.
2.5. Một số vấn đề liên quan trong phát triển kinh tế biển và vùng ven biển tỉnh
Bạc Liêu
2.5.1. Vấn đề khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven biển
- Hệ thống văn bản pháp luật, các chính sách về khai thác và sử dụng nguồn lợi và môi
trường sống của các loài thủy sản được ban hành đã tạo khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh
cho công tác quản lý nhà nước về nuôi trồng, khai thác, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thủy
sản.
- Cùng với tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, tỉnh đã thường xuyên tổ chức
tuần tra, kiểm soát, đã phát hiện và xử lý nhiều trường hợp vi phạm về bảo vệ nguồn lợi
thủy sản, giải tỏa nhiều lượng hàng đáy, nò, đó, vó, lú trái phép. Như việc tuyên truyền, vận
động nhân dân xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu giải tỏa các hàng đăng khai thác cá
kèo giống tại khu vực xây dựng nhà máy điện gió, kiểm tra khai thác nghêu giống tại xã
Điền Hải, huyện Đông Hải.
- Bên cạnh đó, công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản của tỉnh còn những
hạn chế như: ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân chưa cao; việc khai
thác thủy sản gây ảnh hưởng xấu đến nguồn lợi thủy sản có xu hướng tăng; số phương tiện
khai thác thủy sản ven bờ ngày càng tăng nhưng chưa có cơ chế quản lý thích hợp; các hoạt
động khai thác thủy sản bằng công cụ cấm vẫn còn; hệ thống chính sách chưa tháo gỡ được
những khó khăn, vướng mắc trong quản lý và khai thác vùng lộng, ven bờ.
2.5.2. Phòng chống thiên tài, bảo vệ môi trường biển và ven biển
- Về phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, thực hiện tốt công tác thông tin cho các
tàu thuyền hoạt động trên biển để chủ động phòng tránh các đợt áp thấp nhiệt đới, bão và
thực hiện tốt công tác cứu hộ, cứu nạn trên biển đối với các trường hợp tai nạn trên biển.
- Sự cố tràn dầu vào khoảng giữa tháng 3 năm 2007 đã phát hiện sự cố tràn dầu và dầu
vón cục nằm rải rác dọc theo bờ biển Bạc Liêu, sự cố tràn dầu được Ban chỉ huy phòng
chống lụt bão và tiềm kiếm cứu nạn tỉnh chỉ đạo các Sở, Ngành chức năng có liên quan triển
99
khai sự cố khắc phục. Nhìn chung, sự cố tràn dầu không gây ảnh hưởng lớn đến nuôi trồng
thủy sản và phát triển rừng ngập mặn ven biển.
- Về môi trường biển và ven biển, công tác bảo vệ môi trường nước trên địa bàn tỉnh
luôn được tăng cường. Tuy nhiên, chất lượng nước mặt kênh rạch và ven biển đang có xu
hướng xấu đi do bị ô nhiễm từ nguồn nước thải công nghiệp – chất thải công nghiệp không
qua xử lý hoặc xử lý không đạt yêu cầu, từ chất thải sinh hoạt và một phần từ việc sử dụng
thái quá phân bón, thuốc trừ sâu và nước thải nuôi trồng thủy sản theo phương thức công
nghiệp – bán công nghiệp chưa được xử lý triệt để. Song về cơ bản vẫn đảm bảo chất lượng
phục vụ cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và sinh hoạt của người dân.
2.5.3. Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển
- Kết cấu hạ tầng thủy lợi từng bước được hoàn thiện, về cơ bản đảm bảo việc cấp,
thoát nước phục vụ nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp và dân sinh cho VBVBBL.
Tạo ra hệ thống giao thông thủy, góp phần phát triển giao thông nông thôn cho vùng.
- Kết cầu hạ tầng giao thông được ưu tiên đầu tư, đến hết năm 2011, toàn vùng đạt
100% số ấp có đường giao thông nông thôn cho xe hai bánh đi lại cả hai mùa mưa, nắng.
Hiện nay, toàn tỉnh có 35/50 xã (chiếm 70% số xã) có đường ô tô đến trung tâm xã; còn 15
xã chưa có đường và đường bị hư hỏng ô tô không đến được trung tâm xã, đang được xây
dựng bằng nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ. VBVBBL hiện có 6 xã chưa có đường giao
thông cho ô tô đến trung tâm xã.
- Kết cấu hạ tầng lưới điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được quan tâm đầu tư
phát triển, nâng tổng số hộ dân có điện lưới quốc gia sử dụng từ 93% năm 2007 lên 96,6%
năm 2011.
- Kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp có bước phát triển khá, bước đầu thu hút
được một số nhà đầu tư vào địa bàn vùng. Hoàn thành cơ bản hạ tầng khu du lịch Nhà Mát,
khu du lịch nghĩ dưỡng Nhà Mát, trung tâm thương mại Gành Hào, bước đầu hình thành
mạng lưới hạ tầng về du lịch, dịch vụ, lưu thông phân phối trên địa bàn vùng.
- Hoạt động dịch vụ bưu chính viễn thông của vùng được mở rộng và tăng nhanh, đã
phủ sóng rộng khắp, đảm bảo nhu cầu trao đổi trong nước và ngoài nước.
- Tổng số vốn đầu tư xã hội của vùng giai đoạn 2007 – 2011 là 10.937,72 tỷ đồng,
trong đó đầu tư thủy lợi, phòng chống thiên tai (đê, kè) là 714,22 tỷ đồng, các dự án lâm
100
nghiệp là 77,24 tỷ đồng, các dự án diêm nghiệp là 4,59 tỷ đồng và các dự án bố trí, sắp xếp
dân cư khu vực rừng phòng hộ ven biển là 1,28 tỷ đồng.
2.5.4. Về bảo vệ an ninh – quốc phòng vùng biển
- Các Sở ngành, Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng, công an tỉnh, Ủy ban nhân dân các
huyện, thành phố ven biển phối hợp với lực lượng hải quân, cảnh sát biển vùng 5 thường
xuyên tuần tra, kiểm soát, bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích trên vùng biển của tỉnh;
phát hiện ngăn chặn kịp thời những biểu hiện xâm hại đến an ninh vùng biển, làm chỗ dựa
vững chắc cho các hoạt động khai thác trên vùng biển của tỉnh.
- Giữ vững an ninh trật tự và an toàn xã hội khu vực ven biển và trên biển, góp phần
củng cố mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các nước có vùng biển lân cận trong khu vực,
tạo môi trường ổn định, điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế biển và công tác đối ngoại của tỉnh.
- Tình hình tàu cá, ngư dân bị nước ngoài bắt giữ, kể từ năm 2008 đến nay, tổng số tàu
và thuyền viên bị nước ngoài bắt (chủ yếu là Malaysia và Indonesia) là 9 chiếc, với 96
thuyền viên; hiện tại các thuyền viên đã được về nước, còn lại 8 tàu đang bị nước ngoài giữ.
- Các cơ quan, đơn vị có liên quan và lực lượng vũ trang đã có sự phối hợp chặt chẽ
trong thực hiện nhiệm vụ, xử lý, giải quyết các vụ việc xảy ra trên biển và vùng ven biển.
Nhìn chung, các hoạt động khai thác biển diễn ra bình thường, chưa phát hiện dấu hiệu nghi
vấn tàu nước ngoài xâm nhập chủ quyền an ninh vùng biển.
2.5.5. Vấn đề ứng phó với BĐKH tác động đến kinh tế biển và VBVBBL
- Bạc Liêu là tỉnh ven biển nằm trên bán đảo Cà Mau thuộc vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Do nằm tiếp giáp với biển Đông, hệ thống sông ngòi chằng chịt, địa hình nhìn chung
khá thấp (theo thống kê có khoảng 98,1% diện tích có cao trình thấp hơn 1m so với mực
nước biển) nên rất dễ bị ảnh hưởng của nước biển dâng và các thiên tai khác như bão, ấp
thấp nhiệt đới,... BĐKH sẽ tác động đến hệ thống tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc
Liêu, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với con người, đất đai, cơ sở hạ tầng, nguồn nước, các hệ sinh
thái tự nhiên. Trong đó, VBVBBL chắc chắn sẽ là khu vực chịu tác động mạnh mẽ và nặng
nề nhất, các ngành kinh tế biển sẽ chịu nhiều ảnh hưởng bởi BĐKH và nước biển dâng.
- BĐKH và nước biển dâng sẽ có những ảnh hưởng lớn và tiềm ẩn nhiều nguy cơ đến
môi trường tự nhiên và các hoạt động sản xuất và đời sống của con người. Các tác động đến 101
môi trường tự nhiên như ảnh hưởng đến tài nguyên đất, tài nguyên nước, các hệ sinh thái.
Các tác động đến các ngành kinh tế như sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, thương mại –
dịch vụ, xây dựng, cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị… Đời sống người dân cũng chịu nhiều
ảnh hưởng tiêu cực. VBVBBL sẽ là vùng môi trường nhạy cảm nhất và gánh chịu nhiều hậu
quả của BĐKH, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của vùng sẽ có nhiều thay đổi trong
tương lai.
- Nhận định được nguy cơ tiềm ẩn của BĐKH và nước biển dâng trong tương lai. Tỉnh
Bạc Liêu đã xây dựng chương trình hành động ứng phó với BĐKH và nước biển dâng, với
mục tiêu nâng cao nhận thức và giảm nhẹ khả năng bị tổn thương do tác động của BĐKH và
nước biển dâng, góp phần duy trì các hoạt động kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó có kinh tế
biển nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
- Đối với các ngành kinh tế biển và VBVBBL cũng đã được sự chỉ đạo của tỉnh và các
Sở, Ngành liên quan cho đầu tư các chương trình ứng phó đối với từng ngành cụ thể, nhằm
kịp thời ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực mà BĐKH và
nước biển dâng mang lại.
102
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ BIỂN TỈNH BẠC LIÊU
3.1. Cơ sở khoa học xây dựng định hướng và giải pháp
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Bối cảnh quốc tế: nhận thức được vai trò to lớn của biển, đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay, với xu hướng tăng tốc độ phát triển kinh tế, sức ép về gia tăng dân số, và sự
cạn kiệt ngày càng nhanh của các nguồn tài nguyên trên đất liền. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề
mang tính toàn cầu đang nổi lên có liên quan đến sự sống còn của con người đều liên quan
chặt chẽ đến biển. Nhiều nước trên thế giới đã đẩy mạnh điều tra, thăm dò và khai thác các
tiềm năng của biển, kể cả tiềm năng của vùng ven bờ và tiềm năng tiềm ẩn ở đáy đại dương.
Kinh tế biển đã và đang được các quốc gia có biển quan tâm phát triển, hầu hết các
ngành kinh tế liên quan đã được chú trọng khai thác, như ngành đánh bắt hải sản biển thế
giới hàng năm đạt trên 100 triệu tấn, khai thác hàng chục triệu tấn rong biển; nghề nuôi
trồng hải sản trên biển và ven biển hầu như có ở hầu hết các quốc gia có biển và tương lai
không xa sẽ đóng vai trò chủ đạo trong ngành hải sản thế giới; ngành khai thác dầu khí ở
biển đã và tiếp tục trở thành một trong những ngành mũi nhọn của kinh tế biển và ven biển;
ngành khai thác khoáng sản biển và ven biển cũng đem lại nhiều đóng góp cho ngành công
nghiệp thế giới; không gian biển được sử dụng nhiều hơn cho hoạt động giao thông vận tải
góp phần phát triển mạnh mẽ thương mại và giao lưu quốc tế; không gian biển và ven biển
hiện nay còn được sử dụng ngày càng nhiều cho hoạt động du lịch và nghỉ dưỡng.
Tóm lại, do lợi ích về kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng mà biển và đại dương
mang lại cho cả quốc gia có biển và quốc gia không có biển. Cũng chính vì vậy mà sự quan
tâm về chủ quyền và quyền tài phán trên biển giữa các quốc gia có biển cũng diễn ra ngày
càng mạnh mẽ hơn. Hiện nay có nhiều vùng chồng lấn về lãnh hải trên biển giữa các quốc
gia đã trở thành đối tượng tranh chấp, điển hình là khu vực biển Đông và nhiều vùng biển
khác trên thế giới. Nhiều nước đang xây dựng cho mình chiến lược tiến ra biển hay củng cố
sức mạnh quân sự của mình trên biển nhằm duy trì khả năng kiểm soát các hoạt động trên
biển và đại dương. Tuy nhiên xu thế chung vẫn là hòa bình, hợp tác, hội nhập kinh tế quốc
tế, chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra ở mỗi khu vực và mỗi nước.
103
Trong khu vực Đông Nam Á, các quốc gia đều có biển (trừ Lào), đây là khu vực được
đánh giá là phát triển năng động và là một nhân tố quan trọng đối với hòa bình, hợp tác phát
triển trong khu vực. Các quốc gia này cũng đang quan tâm hướng ra biển, vùng biển Đông hiện
đang có những vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia trong khu vực với Trung Quốc,
Đài Loan. Vì vậy, mở rộng hợp tác và tăng cường liên kết sẽ là xu hướng nhằm duy trì hòa bình
ổn định trong khu vực và quốc tế.
Về bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề bất ổn và có nhiều biến
động kinh tế diễn ra. Cụ thể là tình hình khủng hoảng kinh tế ở Mỹ do đồng đô la mất giá
làm cho nền kinh tế Mỹ vẫn tăng trưởng rất chậm; tình hình khủng hoảng tài chính ở khu
vực EU đã và đang diễn ra trầm trọng; các nước có nền kinh tế mới nổi như Braxin, Nga
cũng đang đứng trước những nguy cơ khủng hoảng… bối cảnh kinh tế thế giới như vậy sẽ
có những tác động mạnh mẽ đến các ngành kinh tế Việt Nam, trong đó có kinh tế biển và
vùng ven biển.
Bối cảnh trong nước: Việt Nam là quốc gia có thế mạnh về biển, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội còn thấp so với khu vực và thế giới. Hiện tại có khoảng hơn 1/3 dân số
của cả nước sinh sống ở vùng ven biển và chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển (trong đó có
VBVBBL), nhưng số người sống dựa vào biển chỉ chiếm khoảng 40% dân số ven biển.
Bối cảnh hiện tại, các nguồn tài nguyên trên đất liền Việt Nam đã và đang được khai
thác, nhiều loại tài nguyên có nguy cơ bị cạn kiệt. Để tiếp tục phát triển ổn định kinh tế đất
nước, duy trì mức tăng trưởng bình quân 8 – 9%/năm trong những năm tới thì việc đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển và vùng ven biển là một điều cấp thiết và được sự quan tâm
hàng đầu từ Trung ương đến các địa phương.
Tiềm năng phát triển kinh tế biển Việt Nam được đánh giá là rất phong phú và đa
dạng, thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam nhiều năm qua đã có những đóng góp to
lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước, với mức đóng góp hơn 48% GDP cả nước. Trước
tình hình hội nhập và xu thế khai thác tiềm năng thế mạnh của biển đã được Chính phủ
- Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện
thông qua trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với ba mục tiêu chính như sau:
đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả với tầm nhìn dài hạn.
104
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh,
- Thu hút mọi nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường trên
hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển và ven biển, hảo đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng CNH, HĐH.
tinh thần chủ động, tích cực mở cửa. Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực bên trong,
tranh thủ sự hợp tác quốc tế và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài theo nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Từ những chỉ đạo mang tầm vĩ mô, các địa phương có biển trong cả nước đã và đang
xây dựng cho mình chiến lược phát triển kinh tế biển riêng, phù hợp với điều kiện từng địa
phương. Vì vậy, việc đẩy mạnh đầu tư và có những định hướng chiến lược, những giải pháp
thúc đẩy kinh tế biển phát triển là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam đến năm
2020
Nghị quyết 03 NQ/TW và chỉ thị 20 CT/TW của Bộ chính trị về phát triển kinh tế biển
đã khẳng định: “Vùng biển, ven biển và hải đảo là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định
đối với sự phát triển của nước ta. Cần phát huy mọi tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển
và hải đảo cùng sức mạnh cả nước để xây dựng Việt Nam trở thành một nước về biển và
kinh tế biển, có cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu với một số ngành mũi nhọn, làm động lực
thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển”. Quan điểm phát triển kinh tế biển đã xác định:
- Đặt kinh tế biển và ven biển trong tổng thể nền kinh tế của cả nước, trong sự gắn
kết giữa các vùng và trong bối cảnh hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
- Phát triển kinh tế biển Việt Nam theo hướng mở cửa, hướng mạnh về xuất khẩu và
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế trên cơ sở lấy thế mạnh khoa học – công nghệ làm động
lực, tạo sự phát triển, hiệu quả và bền vững.
- Ưu tiên phát triển nhanh các ngành, lĩnh vực quan trọng và có tiềm năng lớn, hình
thành một số ngành mũi nhọn, có kỹ thuật công nghệ hiện đại, tạo giá trị lớn, tích lũy cao và
ổn định cho nền kinh tế cả nước. Chú trọng hỗ trợ đầu tư cho các khu vực khó khăn, chậm
phát triển.
- Gắn phát triển kinh tế biển với củng cố an ninh quốc phòng, bảo vệ và tái tạo tài
nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững.
105
3.1.3. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của tỉnh Bạc Liêu
Nghị quyết “Về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030” trong các quan điểm phát triển đã nêu rõ, phát triển mạnh và
toàn diện kinh tế biển và ven biển. Nghị quyết cũng đã xác định 5 trọng điểm phát triển trong
thời gian tới, trong đó có các trọng điểm liên quan đến phát triển kinh tế biển và vùng ven
biển như nâng cấp, xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại, nhất là các
tuyến hành lang ven biển nhằm tạo sự kết nối thuận lợi cho giao thương hàng hóa và phát
triển kinh tế - xã hội; hình thành khu kinh tế biển Gành Hào bao gồm nhà máy nhiệt điện,
cảng Gành Hào và khu công nghiệp Gành Hào; phát triển du lịch và dịch vụ ven biển; đầu tư
các cơ sở sửa chữa tàu thuyền; đầu tư phát triển một số nghề biển mới như năng lượng gió,
năng lượng sóng, thủy triều, khai thác khoáng sản vùng đáy biển, dầu khí (khi có điều kiện).
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”, Tỉnh ủy Bạc Liêu đã ban hành Chương trình số 23, ngày 06/6/2007. Ủy ban nhân
dân tỉnh Bạc Liêu đã ban hành quyết định số 2054/QĐ – UBND ngày 10 – 10 – 2008 về Đề
án phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020, kèm theo đó là nhiều chương trình
hành động và dự án có liên quan đến phát triển kinh tế biển và vùng ven biển của tỉnh. Đề
án đã nêu rõ phương hướng chung và những giải pháp cụ thể là:
- Tiếp tục khẳng định vùng biển và ven biển Bạc Liêu là địa bàn chiến lược, có nhiều
tiềm năng kinh tế; phấn đấu trở thành tỉnh mạnh về biển, góp phần bảo vệ vững chắc toàn
vẹn lãnh thổ; giải quyết tốt các vấn đề an ninh vùng biển, nâng cao mức sống cư dân ven
biển. Phát triển toàn diện kinh tế biển, góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự chuyển dịch
cơ cấu và phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
- Tổ chức sắp xếp nghề khai thác biển theo hướng chuyển đổi nghề khai thác có hiệu
quả kinh tế cao và đủ điều kiện khai thác vùng biển xa bờ ở độ sâu từ 50 m trở lên, để có
khả năng tăng sản lượng; sắp xếp hợp lý các phương tiện khai thác thủy sản, chuyển đổi các
phương tiện đánh bắt gần bờ sang xa bờ, chuyển đổi một số nghề khai thác cạn kiệt sang
ngành nghề khác.
- Động viên và có giải pháp hợp lý để các ngân hàng mạnh dạn đầu tư trung và dài
hạn cho phát triển kinh tế biển; cho vay cho khai thác đánh bắt như cho vay vốn đối với các
ngành sản xuất khác...
106
- Phát triển kinh tế biển dựa trên nguyên tắc và đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững
kinh tế - xã hội chung của tỉnh. Việc phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải
thiện môi trường, đảm bảo các vấn đề xã hội và phát triển của các thế hệ tương lai, đặc biệt
là trong bối cảnh tỉnh đang chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu và nước biển dâng
đến vùng kinh tế biển.
3.2. Các định hướng phát triển kinh tế biển chung
3.2.1. Tổ chức không gian phát triển kinh tế biển
Việc tổ chức không gian kinh tế biển là nhiệm vụ mang tính chiến lược và có vai trò
định hướng cho các hoạt động kinh tế diễn ra phù hợp với đặc điểm, điều kiện của vùng.
Đối với tỉnh Bạc Liêu, không gian kinh tế biển chỉ gồm hai bộ phận chính là không gian
biển và không gian vùng bờ được bố trí và tổ chức như sau:
Không gian biển: là vùng biển rộng lớn hơn 20.000 km2 được xác định là vùng
biển thuộc tỉnh Bạc Liêu, là không gian phát triển nghề khai thác thủy hải sản, thăm dò dầu
khí, hàng hải và bảo tồn biển.
Không gian vùng bờ: đối với không gian này, việc xác định các tiểu vùng để định
hướng quy hoạch phát triển dựa trên nét đặc thù của vùng và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Vùng bờ tỉnh Bạc Liêu được xác định gồm thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình, huyện
Đông Hải.
- Tổ chức không gian kinh tế - xã hội chung: dự kiến đến năm 2015 là 13.500 ha nuôi
tôm công nghiệp và bán công nghiệp, giữ ổn định đến năm 2020. Diện tích nuôi tôm quảng
canh cải tiến kết hợp đến năm 2020 là 46.292 ha. Do đặc thù của vùng nên vẫn cần phải duy
trì diện tích lúa 1 vụ, dự kiến đến năm 2020 vẫn còn khoảng 2.600 – 2.700 ha ở những nơi
khó chuyển sang nuôi tôm hoặc không hiệu quả. Bên cạnh đó, cùng với việc mở rộng bãi bồi
những điều kiện thuận lợi mở rộng diện tích nuôi nhuyễn thể lên khoảng 6.000 ha, đồng thời
trồng thêm rừng ngập mặn ở bãi bồi thay thế rừng đã điều chỉnh, đảm bảo quỹ rừng và độ che
phủ rừng. Kết hợp với hệ thống đường giao thông ven biển, hình thành một số không gian du
lịch.
- Tổ chức không gian đô thị, nông thôn: từng bước xây dựng các đô thị trong vùng
có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, đảm
bảo cho các đô thị phát huy được chức năng thu hút và động lực phát triển. Quy hoạch
107
không gian đô thị mỗi tiểu vùng gắn với một đô thị lớn và một số đô thị vệ tinh, trong đó
xác định các đô thị như thành phố Bạc Liêu đô thị loại II, thị xã Gành Hào thành đô thị loại
IV.
+ Với vị trí vai trò địa chính trị, kinh tế ở vùng ĐBSCL, mật độ dân số và cơ cấu kinh
tế như hiện nay, về không gian thành phố Bạc Liêu sẽ mở rộng về phía Đông, phía Nhà Mát.
Những đô thị vệ tinh cho thành phố Bạc Liêu sẽ là các thị trấn Hòa Bình và Châu Hưng
(huyện lỵ trung tâm của huyện Vĩnh Lợi mới). Bên cạnh những chức năng hành chính,
chính trị, văn hóa thành phố Bạc Liêu cần phải là khu trung tâm dịch vụ tổng hợp như
nghiên cứu khoa học, đào tạo đến tài chính, ngân hàng, giải trí, không chỉ đối với tỉnh mà
đối với khu vực ĐBSCL nói chung.
+ Thị trấn Gành Hào sẽ phát triển lớn hơn về quy mô và chức năng, như một trung tâm
kinh tế biển lớn của tỉnh, với số dân ước khoảng 50 nghìn người vào năm 2015 và 60 nghìn
người vào năm 2020. Tại đây sẽ bố trí phát triển một hệ thống cảng, khu công nghiệp; phát
triển thương mại dịch vụ, dịch vụ ngân hàng, du lịch. Vì vậy, giai đoạn 2016 - 2020, khi đủ
điều kiện sẽ nâng cấp thị trấn Gành Hào thành thị xã Gành Hào, nhằm phát huy lợi thế của
một trung tâm kinh tế biển.
+ Dự kiến thành lập một số thị trấn mới như thị trấn Vĩnh Mỹ B, thị trấn Cái Cùng
(huyện Hòa Bình); thị trấn Điền Hải (huyện Đông Hải.)
- Song song với bố trí không gian đô thị cần quan tâm tới bố trí các khu dân cư nông
thôn. Cùng với kinh tế và xã hội phát triển, mức sống dân cư được nâng cao việc bố trí
thành các cụm tuyến dân cư, thuận lợi cho sinh hoạt đi lại và thực hiện các chương trình
phát triển xã hội là rất cần thiết. Dự kiến quy hoạch phát triển các khu dân cư tập trung:
Vĩnh Trạch Đông – thành phố Bạc Liêu, Long Điền, Định Thành – huyện Đông Hải, Vĩnh
Hậu – huyện Hòa Bình.
3.2.2. Định hướng phát triển các ngành kinh tế biển
3.2.2.1. Ngành thủy sản
Nuôi trồng thủy hải sản
- Chỉ tiêu phát triển:
+ Tổng diện tích nuôi trồng thủy hải sản vùng tăng từ 61.638 ha năm 2011, lên 65.059
ha năm 2015, lên 68.638 năm 2020, lên 71.500 năm 2030. Tập trung chủ yếu ở các đối
108
tượng nuôi chính là nuôi nước lợ; nuôi tôm bằng các hình thức như công nghiệp, quảng
canh cải tiến, nuôi trên đất lúa; nuôi thủy sản khác; và nuôi nhuyễn thể bãi bồi.
+ Tổng sản lượng nuôi thủy hải sản VBVBBL tăng từ 92.544 tấn năm 2011 lên
130.000 tấn năm 2015, lên 190.000 tấn năm 2020 và lên 290.000 tấn năm 2030. Trong đó,
sẽ tăng sản lượng theo thứ tự các loại thủy hải sản nuôi chính là tôm, cá và thủy sản khác.
+ Sản xuất tôm giống, nhằm nâng cao chất lượng và tăng tỉ lệ cung cấp tôm giống cho
người nuôi trồng tính 50% năm 2011, lên 70 – 80% năm 2015, lên 90 – 100% năm 2020 và
sau năm 2020, đồng thời cung cấp cho các tỉnh lân cận ở vùng ĐBSCL. Cần sắp xếp lại
mạng lưới sản xuất tôm giống của tỉnh theo hướng giảm số lượng cơ sở sản xuất nhỏ lẻ,
tăng số lượng sản xuất có quy mô lớn với quy trình kĩ thuật hiện đại. Số cơ sở sản xuất tôm
giống dự kiến giảm từ 190 cơ sở năm 2011, còn 100 cơ sở năm 2015, còn 50 cơ sở năm
2020 và còn 20 cơ sở năm 2030, với sản lượng tôm giống cung cấp trên 15 tỷ con năm
2015, trên 20 tỷ con năm 2020 và trên 30 tỷ con năm 2030.
- Phương hướng phát triển:
+ Tập trung phát triển các đối tượng chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân trắng) trên địa bàn
vùng. Tăng cường công tác quản lý, giám sát và quy hoạch vùng nuôi sao cho phù hợp với
điều kiện tự nhiên và đặc điểm phát triển thủy sản của từng khu vực, từng tiểu vùng sinh
thái. Có chương trình giám sát vùng nuôi và môi trường nuôi chặt chẽ. Tăng cường công tác
thông tin dự báo để ngăn chặn và khắc phục kịp thời những sự cố gây bất lợi cho vùng nuôi
trồng thủy hải sản.
+ Xúc tiến đầu tư xây dựng thành công Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, gắn
kết chặt chẽ với chế biến, tiêu thụ và du lịch sinh thái trên địa bàn vùng. Đối tượng ứng
dụng là các loại cua biển, cá kèo, tôm sú, tôn thẻ, cá chẻm, nghêu, sò… coi đây là nội dung
quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời
gian tới.
+ Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư gây nuôi các đối tượng thủy sản
có tiềm năng thay thế tôm sú để thực hiện đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng thủy sản, ứng
phó với biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và phòng chống dịch bệnh do nuôi tôm sú độc canh
kéo dài.
+ Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (thủy lợi, giao thông, lưới điện…) phục
vụ sản xuất nuôi trồng thủy sản, nhất là các vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung, đảm bảo 109
các điều kiện nuôi thâm canh, an toàn dịch bệnh; hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng cho các vùng
nuôi tôm công nghiệp 15.000 – 20.000 ha.
+ Xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng các khu sản xuất giống tập trung (khu vực xã
Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình và khu vực xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải, quy mô mỗi
khu vực từ 100 – 150 ha) nhằm chuẩn hóa cơ sở vật chất và quy trình sản xuất giống; kiểm
soát chặt chẽ chất lượng giống thủy sản, đáp ứng đủ nhu cầu giống thủy sản phục vụ sản
xuất tại địa phương; hoàn thành đưa vào hoạt động Trại sản xuất giống thủy sản nước mặn,
lợ cấp I; đầu tư cải tạo nâng cấp trại sản xuất giống thủy hải nước mặn xã Vĩnh Thịnh,
huyện Hòa Bình đáp ứng được các yêu cầu sản xuất giống thủy sản chất lương cao, sạch
bệnh.
+ Tổ chức lại sản xuất các vùng nuôi trồng thủy sản, đặc biệt với các vùng nuôi các
sản phẩm chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân trắng và các thủy đặc sản khác) theo hướng tạo mối
liên kết chặt chẽ, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người nuôi với doanh nghiệp chế biến, xuất
khẩu thủy sản; đồng thời đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề nuôi trồng
thủy sản, nhằm tạo ra các vùng nuôi có sản lượng hàng hóa lớn, có chất lượng cao và ổn
định.
+ Thực hiện tốt công tác dự báo thông tin thị trường, giá cả; giảm bớt các tầng nấc
trung gian trong thu mua nguyên liệu thủy sản; mở rộng hình thức kí kết hợp đồng thu mua
nguyên liệu thủy sản (giữa các hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại và nông hộ với các nhà máy
chế biến, xuất khẩu thủy sản);
+ Tăng cường kiểm tra vệ sinh thú y thủy sản của các cơ sở sản xuất giống, sản xuất
thức ăn thủy sản trên địa bàn vùng; kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống thủy sản, thức ăn,
thuốc thú y thủy sản, chế phẩm sinh học và các yếu tố đầu vào khác trong nuôi trồng thủy
sản.
Đánh bắt thủy hải sản
- Chỉ tiêu phát triển:
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về đóng
mới, mua mới tàu, thay máy tàu khai thác thủy sản và cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai
thác thủy sản trên các vùng khơi. Đặc biệt, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, và
dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa; Chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối
với thủy sản khai thác… tạo mọi điều kiện thuận lợi để ngư dân tiếp cận được các nguồn
110
vay vốn tín dụng, ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân và huy động được các nguồn vốn tự có
của ngư dân để sớm xây dựng và hình thành cho được đội tàu đánh bắt xa bờ có công suất
lớn, được đầu tư trang thiết bị hiện đại, để có thể khai thác dài ngày trên biển và nâng cao
hiệu quả khai thác, đánh bắt hải sản trên các vùng biển xa, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc
gia trên biển, phấn đấu đạt các tiêu chí cơ bản sau:
+ Số lượng tàu thuyền: tăng từ 1.208 chiếc năm 2011, lên 1.250 chiếc năm 2015, lên
1.350 chiếc năm 2020 và 1.450 chiếc năm 2030, trong đó, số lượng tàu thuyền đánh bắt xa
bờ tăng từ 416 chiếc năm 2011, lên 450 chiếc năm 2015, lên 520 chiếc năm 2020 và lên 600
chiếc năm 2030; Số lượng tàu thuyền đánh bắt vùng lộng và ven bờ tăng từ 792 chiếc năm
2011, lên 800 chiếc năm 2015, 830 chiếc năm 2020 và lên 850 chiếc năm 2030.
+ Tổng công suất tàu thuyền: tăng từ 142.252 CV năm 2011, lên 155.000 CV năm
2015, lên 190.000 CV năm 2020 và lên 240.000 CV năm 2030. Trong đó, công suất tàu
thuyền đánh bắt xa bờ tăng từ 117.400 CV năm 2011, lên 132.750 CV năm 2015, lên
161.200 CV năm 2020 và 204.000 CV năm 2030; Công suất tàu thuyền đánh bắt vùng lộng
và ven bờ tăng từ 24.852 CV năm 2011, lên 26.250 CV năm 2015, lên 28.800 năm 2020 và
36.000 năm 2030.
+ Sản lượng khai thác: tổng sản lượng thủy sản khai thác năm 2011 là 98.500 tấn, năm
2015 tăng lên 105.000 tấn, năm 2020 tăng lên 120.000 tấn và năm 2030 tăng lên 130.000
tấn. Trong đó, sản lượng cá khai thác năm 2011 là 69.405 tấn, năm 2015 tăng lên 71.000
tấn, năm 2020 tăng lên 82.000 tấn và năm 2030 tăng lên 87.000 tấn; Sản lượng tôm khai
thác năm 2011 là 18.000 tấn, năm 2015 tăng lên 20.000 tấn, năm 2020 tăng lên 22.000 tấn
và năm 2030 tăng lên 25.000 tấn; Sản lượng thủy sản khác khai thác năm 2011 là 11.100
tấn, năm 2015 tăng lên 14.000 tấn, năm 2020 tăng lên 16.000 tấn và năm 2030 tăng lên
18.000 tấn.
- Phương hướng phát triển:
+ Xây dựng kế hoạch để triển khai có hiệu quả Chương trình khai thác thủy sản trong
Chiến lược phát triển kinh tế biển. Tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về khai
thác, đánh bắt thủy hải sản của Việt Nam và các nước lân cận cho ngư dân, hạn chế tình
trạng tàu cá và ngư dân bị nước ngoài bắt giữ xử phạt.
111
+ Xây dựng và hình thành cho được đội tàu đánh bắt xa bờ có công suất lớn, được đầu
tư trang thiết bị hiện đại, để có thể khai thác dài ngày trên biển và nâng cao hiệu quả khai
thác, đánh bắt hải sản trên các vùng biển xa, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
+ Phát triển mạnh khai thác các loài hải sản có giá trị kinh tế cao, đảm bảo nguồn
nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu có sản lượng ổn định và được kiểm soát chặt chẽ
về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng giá trị và sản lượng các loại sản phẩm
nguyên liệu từ khai thác thủy sản, trên cơ sở đầu tư, áp dụng các tiến bộ khoa học để nâng
cao chất lượng sản phẩm sau khai thác, nhất là công nghệ bảo quản tiên tiến, giảm tổn thất
sau thu hoạch và kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng chất bảo quản sản phẩm, đẩy mạnh khai
thác xa bờ, giảm khai thác ven bờ vừa để bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
+ Có chính sách đầu tư tín dụng ưu đãi để khuyến khích ngư dân đầu tư chuyển đổi
phương tiện đánh bắt gần bờ sang đánh bắt xa bờ, cơ cấu hợp lý đội tàu khai thác vùng lộng,
tăng năng lực khai thác vùng khơi. Hướng dẫn chuyển đổi một số ngành khai thác gần bờ
làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản sang ngành nghề khác.
+ Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư nâng cấp các cơ sở dịch vụ hậu cần
nghề cá hiện có (sữa chữa, đóng mới tàu thuyền, cơ khí, sản xuất nước đá, nước ngọt, sản
xuất nghề lưới cụ, đăng kiểm, phao tiêu…). Phát triển một số cơ sở đóng mới, sửa chữa, cải
hoàn tàu cá có trọng tải trên 50 tấn và mỗi năm có khả năng đóng mới từ 30 – 40 tàu, sửa
chữa 80 - 100 tàu. Thực hiện tốt bảo quản sau thu hoạch, nâng cao chất lượng và hiệu quả
khai thác hải sản.
+ Tổ chức sắp xếp lại ngành nghề khai thác phù hợp với từng vùng khai thác (sản
lượng khai thác vùng khơi chiếm tỷ lệ trên 75% tổng sản lượng khai thác thủy hải sản). Tổ
chức sản xuất theo tổ, đội khai thác kết hợp với mô hình dịch vụ trên biển; thực hiện tốt Quy
chế quản lý thông tin liên lạc giữa các tổ, đội; quy chế tổ chức đánh bắt hải sản theo tổ, đội;
công tác đào tạo nghề cho ngư dân; công tác đăng ký, đăng kiểm tàu cá theo quy định và
tình hình hoạt động tàu cá trên biển; thực hiện tốt công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, đảm
bảo an toàn cho người và phương tiện nghề cá hoạt động trên biển.
+ Đầu tư xây dựng đưa vào khai thác sử dụng Dự án nâng cấp mở rộng cảng cá Gành
Hào với quy mô cảng cá loại I vào năm 2015, nhằm tạo động lực thu hút tàu thuyền hoạt
động nghề cá có công suất đến 600 CV/phương tiện cập cảng lên xuống hàng hóa, thúc đẩy
phát triển nghề cá và trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá. Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi 112
trường tại cảng cá, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của
tỉnh Bạc Liêu và các tỉnh lân cận.
+ Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát trên vùng đặc quyền kinh tế biển và ở các
thủy vực trên địa bàn tỉnh. Xử lý nghiêm các hành vi khai thác thủy sản trái phép như: Đánh
bắt thủy sản bằng hóa chất, xung điện, đánh bắt các loại thủy sản còn non chưa trưởng
thành, hủy hoại nguồn lợi và môi trường sinh thái, tháo nước từ các ao tôm nhiễm bệnh ra
sông, kênh, rạch; tự ý đặt nò, đó, vó, lú, đóng đáy, chất trà,… trên sông, kênh, rạch không
xin phép, gây cản trở dòng chảy, sự di chuyển của các loại thủy sản và phương tiện giao
thông trên các kênh, sông, rạch.
Chế biến thủy hải sản
- Chỉ tiêu phát triển: khuyến khích các nhà máy hiện có mở rộng công suất và kêu gọi các
nhà đầu tư xây dựng mới nhà máy chế biến thủy hải sản nhằm nâng tổng công suất chế biến của
các nhà máy trên địa bàn tỉnh đến năm 2015 đạt 84.000 tấn (trong đó sản lượng chế biến xuất
khẩu 56.000 tấn); đến năm 2020 đạt 150.000 tấn (trong đó sản lượng chế biến xuất khẩu
100.000 tấn) và định hướng tới năm 2030 đạt khoảng 200.000 tấn (trong đó sản lượng chế biến
xuất khẩu 150.000 tấn).
- Phương hướng phát triển: đầu tư cải tạo, nâng cấp trang thiết bị tiên tiến, hiện đại và
cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường trong các nhà máy chế biến, phấn đấu tới năm 2015
có 100% là máy chế biến xuất khẩu thủy sản đáp ứng các yêu cầu đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm theo các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và phù hợp với các quy định của quốc tế;
thực hiện truy xuất nguồn gốc, đáp ứng các yêu cầu bắt buộc của một số thị trường nhập
khẩu lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản và các thị trường mới khó tính như Nga, Hàn Quốc,…
3.2.2.2. Ngành diêm nghiệp
Chỉ tiêu phát triển:
- Khẩn trương đề xuất lập các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng muối. Đề
xuất với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án nâng
cấp, cải tạo hạ tầng đồng muối xã Điền Hải, huyện Đông Hải và dự án kho muối Quốc gia
tại xã Điền Hải. Phấn đấu đến năm 2015 xây dựng đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng vùng
muối để tạo điều kiện cho diêm dân nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản xuất
muối, tăng lợi nhuận.
113
- Ổn định địa bàn sản xuất muối tập trung và giảm diện tích từ 3.134 ha năm 2011,
xuống 2.811 ha năm 2015; xuống 2.731 ha năm 2020 và 2.400 ha năm 2030.
- Tăng năng suất muối từ 37,3 tấn/ha năm 2011, lên 76,8 tấn/ha năm 2015, lên 100 tấn/ha
năm 2020 và năm 2030. Sản lượng muối đạt 216 nghìn tấn năm 2015 và 240 nghìn tấn năm
2020 và năm 2030. Chuyển đổi nhanh từ phương thức sản xuất muối đen sang phương thức sản
xuất muối trắng, phấn đấu đưa sản lượng muối trắng từ 32,5% năm 2011, lên trân 35% năm
2015, trên 50% năm 2020 và trên 70% năm 2030.
Phương hướng phát triển:
- Tập trung đầu tư hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng vùng muối, đi đôi với hỗ trợ diêm dân tiếp
cận với các nguồn vốn để ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là mô hình sản xuất
muối sạch, chất lượng cao bằng phương pháp trải bạt trên nền sân kết tinh. Đầu tư xây dựng
vùng sản xuất muối ứng dụng công nghệ cao với quy mô khoảng 1.500 ha (tại xã Long Điền
Đông và xã Điền Hải, huyện Đông Hải) nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
- Nhân rộng mô hình sản xuất kết hợp muối – NTTS để tăng thu nhập trên đơn vị sản
xuất và cải thiện đời sống nhân dân.
- Nâng công suất chế biến của 02 nhà máy chế biến hiện có, đồng thời đẩy mạnh xúc
tiến đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến muối gắn với vùng nguyên liệu muối chất lượng
cao và đẩy nhanh tiến độ xây dựng Kho dự trữ muối quốc gia tại tỉnh Bạc Liêu.
- Mở rộng ký kết hợp đồng tiêu thụ muối giữa diêm dân với các doanh nghiệp chế
biến muối trong và ngoài tỉnh để tiêu thụ hết muối nguyên liệu chất lượng cao sản xuất trên
địa bàn tỉnh.
- Triển khai chính sách bình ổn giá muối phù hợp và kịp thời để diêm dân yên tâm
đầu tư sản xuất và nâng cao thu nhập.
3.2.2.3. Ngành lâm nghiệp
Chỉ tiêu phát triển:
- Tập trung chỉ đạo quản lý bảo vệ diện tích đất lâm nghiệp và diện tích rừng của
vùng hiện có 5.167,0 ha, đặc biệt là rừng phòng hộ ven biển Đông. Xây dựng kế hoạch và tổ
chức trồng rừng trên đất bãi bồi ven biển và các khu vực bị sạt lở ven biển (sau khi được
gây bồi tạo bãi trồng rừng), với quy mô là 3.000 ha. Sớm triển khai xây dựng công trình mô
hình thí điểm đê mềm gây bồi, tạo bãi khôi phục rừng phòng hộ ven biển khu vực cửa biển 114
Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu để rút kinh nghiệm và triển khai nhân rộng trên địa bàn tỉnh.
Vận động nhân dân trồng cây trên các diện tích sản xuất không hiệu quả và trên đất phi
nông nghiệp (công sở, trường học, đường giao thông, khu dân cư…) để tăng diện tích cây
xanh, cải thiện môi trường, phòng chống gió bão, sóng thần,… bảo đảm yêu cầu phát triển
bền vững.
- Khẩn trương lập quy hoạch bảo tồn, phát triển rừng đặc dụng vườn Chim Bạc Liêu
và khu rừng Canh Điền, huyện Đông Hải đến năm 2020, định hướng 2030. Đồng thời, quan
tâm quản lý, bảo tồn sự đa dạng sinh học các khu rừng phòng hộ ven biển Đông, các vườn
chim tư nhân theo hướng vừa bảo tồn đa dạng sinh học vừa kết hợp du lịch sinh thái.
- Thực hiện bố trí, sắp xếp lại dân cư (giai đoạn 2011 - 2015) ở khu vực rừng phòng
hộ xung yếu ven biển trên địa bàn tỉnh cho 440 hộ, có kế hoạch đào tạo nghề, cấp đất ở và
sản xuất để người dân ổn định cuộc sống, không tái lấn chiếm đất rừng. Chuẩn bị các điều
kiện bố trí, sắp xếp lại dân cư (giai đoạn 2016 - 2020) cho 1.614 hộ, với 7.876 nhân khẩu.
- Xây dựng mới một nhà máy chế biến gỗ và lâm sản tại khu công nghiệp Trà Kha
(TP Bạc Liêu), nhằm giải quyết nguồn nguyên liệu lâm sản trong tỉnh. Xây dựng vườn ươm,
vườn giống với diện tích 3 ha tại rừng phòng hộ ven biển, mỗi năm sản xuất 2 triệu cây
giống các loại phục vụ trồng rừng tập trung.
- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật: nâng cấp và sửa chữa 09 Trạm Kiểm lâm rừng
phòng hộ ven biển để phục vụ công tác bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng. Xây
dựng 2 chòi canh phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng.
Phương hướng phát triển:
- Quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và bảo tồn sự đa dạng sinh học theo hướng vừa bảo
tồn đa dạng sinh học vừa kết hợp du lịch sinh thái. Khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng du lịch, xây dựng thêm một số khu du lịch sinh thái (nhưng không làm phá
vỡ cảnh quan thiên nhiên) trên chân rừng phòng hộ ven biển từ Nhà Mát đến Gành Hào (kể
cả đầu tư khai thác các khu rừng đã trồng của các tổ chức và cá nhân) để phục vụ du lịch,
tạo thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho nông, ngư dân. Bố trí, sắp xếp lại dân cư ở khu
vực ngoài đê biển và khu vực rừng phòng hộ ven biển vào định cư phía trong đê biển, có kế
hoạch đào tạo nghề phù hợp để người dân ổn định cuộc sống.
- Nâng cao trách nhiệm và năng lực bảo vệ rừng của lực lượng kiểm lâm và chính
quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc quản lý, bảo vệ và phát 115
triển rừng, việc thực hiện mô hình lâm – ngư kết hợp của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
nhận khoán quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
nhân dân thực hiện tốt Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Chủ động thực hiện công tác phòng
cháy, chữa cháy rừng, đảm bảo kịp thời xử lý các tình huống không để xảy ra cháy rừng trên
địa bàn, nhất là khu vực Vườn chim Bạc Liêu.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh khu vực
lâm phần phòng hộ để các hộ ổn định cuộc sống và tạo điều kiện cho người làm nghề rừng,
vay vốn đầu tư phát triển sản xuất lâm – ngư kết hợp để tăng thêm thu nhập, cải hiện đời
sống.
3.2.2.4. Khai thác phong điện
- Căn cứ vào tiềm năng điện gió khu vực tỉnh Bạc Liêu và quy hoạch phát triển điện
lực tỉnh Bạc Liêu. Trong giai đoạn 2011 – 2015, nhà máy điện gió Bạc Liêu xây dựng tại xã
Vĩnh Trạch Đông – thành phố Bạc Liêu sẽ cung cấp cho hệ thống nguồn công suất 99,2
MW. Cụ thể, đến năm 2013 phải hoàn thành giai đoạn 1 với 10 trụ turbine và đến năm 2015
phải hoàn thành và đưa vào vận hành 62 turbine còn lại.
- Xây dựng và hoàn chỉnh công trình đồng bộ, gồm đường dây 110 kV mạch kép
2xACKP – 240 từ trạm 22/110 kV (nhà máy điện gió) Bạc Liêu – Sóc Trăng, chiều dài
2x15,6 km, khi trạm 220/kV Bạc Liêu II hoàn thành thì đường dây này sẽ được đấu nối trực
tiếp với trạm 220 kV Bạc Liêu II. Xây dựng hoàn thành trạm nâng áp 22/110 kV (nhà máy
điện gió) Bạc Liêu: 2x63 MVA.
- Giai đoạn 2015 trở về sau, thu hút và kêu gọi đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng
giao thông và cơ sở vật chất du lịch xung quanh khu vực nhà máy điện gió. Mục tiêu gắn dự
án điện gió Bạc Liêu với phát triển du lịch tham quan và du lịch sinh thái ven biển. Nếu
thực hiện được những dự án này, du lịch biển và ven biển sẽ có sức hút rất lớn du khách đến
với Bạc Liêu.
3.2.2.5. Ngành thương mại, dịch vu và du lịch ven biển
Ngành thương mại:
Tiếp tục đẩy mạnh kêu gọi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại, nhất là thành
phố Bạc Liêu và các thị trấn ven biển; huy động mọi nguồn vốn để đầu tư xây dựng, cải tạo
hệ thống chợ, nhất là các chợ đầu mối nông sản như chợ phường 5, thành phố Bạc liêu và
chợ đầu mối thủy sản ở thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải và các chợ trung tâm các khu 116
dân cư, du lịch; chợ trên địa bàn các xã chưa có chợ, đáp ứng các tiêu chí xây dựng nông
thôn mới.
Ngành du lịch ven biển:
+ Tập trung huy động mọi nguồn lực để khai thác tiềm năng du lịch biển, tận dụng lợi
thế sông nước, rừng, biển,… gắn với đầu tư phát triển hoàn chỉnh kết cầu hạ tầng giao thông
và cơ sở vật chất phục vụ du lịch để Bạc Liêu trở thành điểm đến hấp dẫn về du lịch của
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Gắn du lịch với quảng bá, giới thiệu truyền thống lịch sử
văn hóa, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, là khâu đột phá trong phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh.
+ Tăng cường vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tranh thủ các
nguồn vốn của Trung ương để đầu tư phát triển du lịch. Tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả
vốn đầu tư phát triển theo các chương trình và dự án của Trung ương trên địa bàn có liên
quan tới phát triển du lịch, dành một phần ngân sách tỉnh cho phát triển du lịch; tập trung
hoàn thành và đưa vào sử dụng các khu du lịch như Quan âm phật đài, cụm du lịch Nhà
Mát, trường đua, khu nghỉ dưỡng trên chân rừng, khu cầu dẫn và du lịch trên biển, các khu
bảo tồn Cá Ông, cụm du lịch Giồng Nhãn, vườn chim Bạc Liêu và Lập Điền.
+ Quy hoạch phát triển du lịch, tiến hành lập các quy hoạch chi tiết các khu, điểm du
lịch làm cơ sở hình thành tour du lịch ven biển: Cao Văn Lầu – vườn Chim – vườn Nhãn –
Resort Rồng Việt – chùa Xiêm Cán – nhà máy điện gió – lăng cá Ông và tuyến kè Gành
Hào – lăng cá Ông, vườn chim Lập Điền – khu di tích lịch sử nơi thành lập chi bộ Đảng đầu
tiên ở Bạc Liêu và khu vực Tắc Sậy. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ phục vụ du lịch như
hệ thống nhà hàng, khách sạn, y tế, sản phẩm lưu niệm,… Xây dựng phong cách văn minh,
lịch thiệp, hiếu khách của người Bạc Liêu để phát triển du lịch một cách bền vững.
3.2.2.6. Ngành giao thông vận tải biển và VBVBBL
- Phấn đấu đến năm 2015, đảm bảo 100% xã có đường giao thông cho xe bốn bánh
đến trung tâm xã. Nâng cấp đường giao thông nông thôn ấp liền ấp theo tiêu chí xây dưng
nông thôn mới.
- Hoàn thiện và đưa vào sử dụng các danh mục công trình, dự án giao thông cụ thể
sau: cảng biển Gành Hào, tuyến đường Giá Rai – Gành Hào, Gành Hào, Hộ Phòng, Xóm
Lung – Cái Cùng, Hòa Bình – Vĩnh Hậu, Anh Trạch – Định Thành – An Phúc – Gành Hào,
Giồng Nhãn – Gành Hào, thành phố Bạc Liêu – đường nối ra đê biển Đông. Bên cạnh đó, 117
nạo vét các kênh xáng Bạc Liêu – Cà Mau và các kênh khác phục vụ giao thông đường
thủy.
3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực
- Tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết về phát triển nguồn nhân lực đến năm 2015
và các năm tiếp theo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu khóa XIV gắn với Quy
hoạch phát triển nhân lực của Ủy ban nhân dân tỉnh giai đoạn 2011 – 2020 và Đề án đào tạo
nghề cho lao động nông thôn (Quyết định số 436/QĐ – UBND ngày 10 tháng 3 năm 2011
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh). Để kinh tế biển phát triển đối với VBVBBL việc phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển là nhiệm vụ cấp thiết.
- Phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ qua đào tạo toàn vùng đạt 50% tổng số lao động, trong
đó đào tạo có chứng chỉ nghề đạt 30%. Nâng cấp Trung tâm dạy nghề huyện Đông Hải
thành trường Trung cấp nghề vào năm 2015. Đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các trường
đào tạo và các trung tâm dạy nghề, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên ở các trường cao đẳng và
đại học trên địa bàn tỉnh (phải có từ 60 – 70% số giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên). Mỗi
ngành phải có từ 2 – 3 chuyên viên đầu đàn đạt trình độ cao.
- Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh doanh giỏi, lao
động lành nghề. Hướng dẫn nông dân làm nghề nông một cách khoa học, có kiến thức thị
trường, quản lý kinh tế để sản xuất có hiệu quả. Đồng thời, chú trọng đào tạo nghề cho bộ
phận con em nông dân chuyển nghề, xuất khẩu lao động. Nghiên cứu cơ chế cử tuyển,
khuyến khích ưu đãi thích hợp nhằm thu hút cán bộ nghiên cứu, cán bộ khoa học kỹ thuật,
cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn giỏi phục vụ trong các ngành kinh tế và các lĩnh vực
liên quan đến kinh tế biển.
3.2.4. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và dân cư ven biển
- Triển khai thực hiện đồng bộ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bạc
Liêu đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đối với VBVBBL. Đầu tư xây dựng, nâng cấp đồng bộ
hệ thống trường học, trạm y tế, các công trình văn hóa cộng đồng, các khu dân cư, khu đô
thị, điện, nước sạch, cây xanh,... bảo đảm các nhu cầu nhân sinh, phát triển sản xuất và kinh
doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.
118
- Tập trung đầu tư xây dựng, đến năm 2015 hoàn thành đưa vào sử dụng các dự án đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng có tính động lực, đáp ứng được các yêu cầu thúc đẩy phát triển
sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm.
- Nâng cấp, phát triển một số xã ven biển thành các phường và thị trấn, ưu tiên phát
triển kết cấu hạ tầng các thị trấn trung tâm huyện và các khu đô thị mới.
- Đối với thành phố Bạc Liêu, đến năm 2015 thực hiện di dời xong trung tâm hành
chính thành phố Bạc Liêu hiện tại về phường 5, hình thành các khu đô thị mới, đẩy mạnh
đầu tư phát triển toàn diện xã Hiệp Thành, xây dựng khu dân cư nhà ở thu nhập thấp xã
Vĩnh Trạch Đông và khu dân cư khóm Chòm Xoài, phường Nhà Mát để di dời các hộ dân
sinh sống phía ngoài đê biển và khu vực rừng phòng hộ ven biển của thành phố Bạc Liêu.
- Đối với huyện Hòa Bình, quy hoạch và hình thành thị trấn Kinh Cùng, đầu tư xây
dựng các cụm dân cư ở ấp Vĩnh Mới và ấp Vĩnh Tiến, xã Vĩnh Thịnh để di dời các hộ dân
sinh sống ngoài đê và khu vực rừng phòng hộ ven biển.
- Đối với huyện Đông Hải, thực hiện di dời trung tâm hành chính huyện Đông Hải từ
thị trấn Gành Hào về Điền Hải trước năm 2015, hoàn thiện các công tác xây dựng khu kinh
tế Gành Hào, xây dựng kết cấu hạ tầng và dự án đầu tư để hình thành thị xã Gành Hào vào
năm 2016 – 2020. Hình thành thị trấn Điền Hải, Long Điền và đầu tư xây dựng các cụm dân
cư ở ấp Bửu 2, xã Long Điền Đông để di dời dân cư ven biển về tái định cư.
3.2.5. Khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tài nguyên biển là hữu hạn, nếu khai thác không hợp lý và không có giải pháp tái tạo
và bảo vệ môi trường thì nguồn lợi sẽ bị cạn kiệt. Do đó khai thác hợp lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường được xem là giải pháp phát triển bền vững. Trước hết cần phải bố trí sắp xếp
hợp lý các phương tiện khai thác thủy sản, chuyển đổi các phương tiện đánh bắt gần bờ sang
đánh bắt xa bờ, chuyển đổi một số nghề khai thác cạn kiệt sang ngành nghề khác.
Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, khuyến khích nuôi trồng thủy sản theo
mô hình sinh thái, ứng dụng công nghệ vi sinh. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống quan trắc
cảnh báo môi trường và thiên tai vùng biển và nội địa, để có biện pháp thích hợp bảo vệ môi
trường, giảm nhẹ thiên tai.
119
3.2.6. Xây dựng hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và dự báo phát triển kinh tế biển,
vùng biển ven biển tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020
- Về tăng trưởng kinh tế: phấn đấu tăng trưởng kinh tế ổn định đạt mức 16%/năm vào
năm 2020 (trong đó giai đoạn 2011 – 2015 đạt mức tăng trưởng 14% và giai đoạn 2016 –
2020 phấn đấu tăng khoảng 16%).
- Quy mô kinh tế: VBVBBL so với toàn tỉnh Bạc Liêu. Năm 2011 chiếm khoảng
52,8% GDP toàn tỉnh, năm 2015 tăng lên 56% và năm 2020 chiếm khoảng 66% GDP toàn
tỉnh.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch theo hướng tích cực là
tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Dự báo cơ cấu kinh tế nông - công nghiêp,
xây dựng – dịch vụ của vùng đến năm 2015 tương ứng là 36,4% - 31,7% - 31,9%; đến năm
2020 là 28% - 37% - 35% (so với mục tiêu kinh tế toàn tỉnh năm 2020 là 31% - 35% -
34%).
- Huy động ngân sách: phấn đấu thu ngân sách trên địa bàn VBVBBL đến năm 2015
đạt 1.600 tỷ đồng, chiếm khoảng 65% tổng thu ngân sách của tỉnh và đến năm 2020 thu
khoảng 4.000 tỷ đồng.
- Văn hóa, tiến bộ xã hội: cần nhanh chóng hoàn thiện các cơ sở văn hóa, thể thao,
trường học, y tế và các công trình phúc lợi khác. Đảm bảo nhu cầu sinh hoạt văn hóa và vui
chơi giải trí của dân cư trên địa bàn. Đảm bảo vấn đề việc làm và nâng cao chất lượng cuộc
sống.
- Môi trường: đảm bảo môi trường, cảnh quan đô thị luôn xanh – sạch – đẹp. Thu gom
xử lý chất thải rắn ở các đô thị ven biển đạt 95% vào năm 2015 và đạt 100% vào năm 2020,
chất thải y tế được thu gom, xử lý đạt vệ sinh 100% trước năm 2015.
3.2.7. Quốc phòng, an ninh
- Tổ chức khảo sát, xác định các khu vực dành riêng cho nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh vùng biển và ven biển. Chú ý nâng cao tính “lưỡng dụng” của các công trình cơ sở hạ
tầng về viễn thông, quan trắc, giao thông, bến cảng,… vừa đáp ứng yêu cầu phát triển sản
xuất, kinh doanh vừa đảm bảo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết.
- Quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang, mà nòng cốt là lực lượng
bộ đội biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự trị an
120
vùng biển và ven biển của tỉnh. Thường xuyên tuần tra, kiểm soát, bảo vệ vững chắc chủ
quyền và lợi ích trên vùng biển của tỉnh. Phát hiện, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện xâm
hại đến an ninh vùng biển, làm chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động khai thác trên vùng
biển của tỉnh.
- Quan tâm huấn luyện, quản lý lực lượng dân quan tự vệ các xã ven biển, tăng cường
xây dựng lực lượng dự bị động viên đáp ứng được yêu cầu tham gia quản lý vùng biển trong
thời bình và động viên lực lượng khi tình trạng khẩn cấp xảy ra trên địa bàn và thời chiến.
3.3. Các giải pháp chủ yếu
3.3.1. Quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế biển
- Tập trung xây dựng và hoàn chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trình Chính Phủ duyệt và tổ chức thực
hiện. Đẩy nhanh tiến độ lập và tổ chức thực hiện các quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm
đến năm 2020, tầm nhìn 2030, để tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện các nhiệm
vụ, giải pháp phát triển kinh tế trên địa bàn vùng, nhất là quy hoạch khu kinh tế, du lịch,
nuôi tôm công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, thương mại – dịch vụ và dân cư.
- Khẩn trương triển khai thực hiện các quy hoạch, các dự án quan trọng cụ thể như
Quy hoạch Trung tâm hành chính mới thành phố Bạc Liêu; khu kinh tế Gành Hào, cảng
nước sâu, cảng biển Gành Hào, nhà máy điện gió; khu nghỉ dưỡng Rồng Việt ven biển, khu
nghỉ dưỡng Nhà Mát, các khu nghỉ dưỡng chân rừng, trường đua, khu cầu dẫn và dịch vụ
trên biển; Trung tâm văn hóa Phật giáo Gành Hào… để làm động lực thúc đẩy nhanh sự
phát triển.
- Nâng cấp vai trò trách nhiệm của các cấp, các ngành và mọi người dân trong việc
quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy
định hiện hành.
3.3.2. Hoàn thiện chính sách và hệ thống quản lí và khai thác biển
Trên cơ sở hướng dẫn của Trung ương, xây dựng và hoàn thiện các cơ quan quản lý
nhà nước về biển, nâng cao năng lực quản lý của các huyện có biển. Phối hợp với các ngành
Trung ương, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các cơ chế chính sách
121
bảo đảm cho phát triển kinh tế biển một cách bền vững. Ban hành các chính sách kinh tế
gắn với các chính sách xã hội, an ninh quốc phòng.
3.3.3. Huy động nguồn vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh
- Đẩy mạnh phát huy nội lực, đa dạng hóa các hình thức huy động và tạo vốn trong
tỉnh, coi đây là nguồn vốn có ý nghĩa quyết định về lâu dài, đảm bảo có đủ năng lực nội tại
để đầu tư phát triển kinh tế. Phấn đấu hàng năm tăng dần huy động thuế và phí vào ngân
sách để đạt khoảng 8,1% GDP vào năm 2015.
- Tăng cường thu hút ngoại lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng quan hệ
hợp tác với các tỉnh, thành trong cả nước, hình thành thị trường vốn, liên kết, liên doanh
phát triển các ngành có lợi thế của vùng. Vận động linh hoạt các quy định của Nhà nước để
ban hành các chính sách, cơ chế phù hợp để kêu gọi, khuyến khích các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực phát triển kinh tế biển và VBVBBL bằng nhiều
hình thức như BT, BTO, BOT, PPP, FDI,…
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là với các cấp, các ngành có liên quan
trực tiếp đến môi trường đầu tư. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có
liên quan đến giải quyết thủ tục đầu tư, nhằm tạo sự thống nhất, thuận tiện, nhanh gọn trong
việc giải quyết các thủ tục đầu tư.
3.3.4. Về phát triển khoa học, công nghệ
- Hình thành các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công
nghệ mới vào sản xuất, chế biến, xuất khẩu sản phẩm.
- Xúc tiến đầu tư xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao và các khu nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao, gắn kết chặt chẽ với chế biến, tiêu thụ và du lịch sinh thái trên địa
bàn vùng (đối tượng ứng dụng là các loại cua biển, cá kèo, tôm sú, tôm thẻ, cá chẽm, nghêu,
sò, hoa, sinh vật cảnh, rau, đậu thực phẩm…). Hướng dẫn nông, ngư dân sản xuất lúa, rau
màu, nuôi trồng thủy sản theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP).
- Ưu tiên đầu tư một số dự án trọng điểm để từng bước thích ứng với biến đổi khí
hậu, nước biển dâng (từng ngành phải có các dự án ưu tiên đầu tư cụ thể). Hiện đại hóa các
trạm báo bão ven biển và đầu tư xây dựng “Trạm bờ” kết nối vệ tinh với các tàu đánh bắt
xa bờ để hỗ trợ tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển. Xây dựng và đưa vào khai thác sử dụng
122
14 trạm quan trắc cảnh báo sóng thần trên địa bàn ven biển, nhằm bảo đảm an toàn cho nhân
dân trong vùng và các hoạt động khai thác biển.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện các đề tài nghiên
cứu, ứng dụng, xác định tiến bộ kỹ thuật và chuyển giao vào thực tế sản xuất. Khuyến khích
các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng hiện đại, tiết kiệm năng lượng và
giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chế biến, xuất khẩu. Đẩy mạnh việc áp dụng các hệ
thống quản lý chất lượng, quản lý môi trường đáp ứng yêu cầu đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm theo các quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia và phù hợp với quy định quốc tế. Quan tâm xây
dựng thương hiệu và quảng bá thương hiệu, thực hiện tốt các quy trình về ghi nhãn hàng
hóa và bảo vệ bản quyền, tăng cường phổ biến kiến thức về sở hữu trí tuệ,…
- Tăng cường mối quan hệ với các viện, trường đại học trong và ngoài nước về hợp
tác nghiên cứu khoa học, công nghệ và chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ. Đồng thời,
tích cực tham gia hội chợ, triễn lãm khoa học, công nghệ để tiếp thu các công nghệ mới có
thể áp dụng vào thực tế sản xuất ở địa phương.
3.3.5. Xúc tiến đầu tư và mở rộng thị trường
- Thực hiện đầy đủ và vận dụng các cơ chế, chính sách do Nhà nước ban hành về
phát triển kinh tế biển và vùng ven biển. Tiếp tục rà soát, cập nhật, bổ sung và hoàn chỉnh
cơ chế, chính sách theo thẩm quyền. Tạo mọi điều kiện để thu hút vốn đầu tư theo hướng có
lợi nhất cho nhà đầu tư, đặc biệt là đối với các dự án có vốn đầu tư quy mô lớn và những
ngành, lĩnh vực mà tỉnh khuyến khích đầu tư.
- Tiếp tục thực hiện cải cách các thủ tục hành chính để tạo bước đột phá trong thu hút
đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng quy chế và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan, đơn vị liên quan đến giải quyết thủ tục đầu tư, nhằm tạo sự thống nhất, thuận tiện,
nhanh gọn trong việc giải quyết các thủ tục đầu tư.
- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước của các cấp, các ngành và công tác kiểm tra
đôn đốc, tháo gỡ khó khăn của các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Tăng cường công tác “hậu
kiểm” tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh theo qui
định của pháp luật.
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực phát triển kinh – xã
hội trên địa bàn. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xúc tiến thương mại và các hoạt 123
động đối ngoại, giữ vững thị trường truyền thống (Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc)
và phát triển mở rộng các thị trường (Hồng Kông, Trung Đông, Đông Âu, Asean,…). Tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia thực hiện các phương án hợp tác, hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững mối quan hệ với các đối tác đã được thiết lập, đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu.
- Coi trọng phát triển thị trường nội địa và thực hiện các giải pháp khuyến khích tiêu
dùng. Đồng thời, chú trọng phát triển các ngành dịch vụ, theo hướng nâng cao chất lượng
phục vụ và năng lực cạnh tranh, đảm bảo phục vụ tốt nhất nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ
cho sản xuất và đời sống nhân dân.
- Củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác với thành phố Cần Thơ, thành phố Hồ Chí
Minh, Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, các tập đoàn kinh tế
lớn. Đồng thời, tăng cường hợp tác nhiều mặt với các tỉnh, thành phố trong khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, cả nước và ngoài nước để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hóa và phát triển du lịch.
3.3.6. Về môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
- Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động môi trường chiến lược cho các quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển các ngành kinh tế - xã hội.
- Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi trường với
phát triển kinh tế - xã hội. Đưa mục tiêu bảo vệ môi trường vào quy hoạch, kế hoạch hàng
năm của các cấp, các ngành. Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm
môi trường, có chế tài đầy đủ để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm.
- Nhanh chóng tiếp cận các thông tin, dữ liệu về tài nguyên và môi trường trên vùng
biển của tỉnh, nắm chặt tình hình diễn biến về tài nguyên, môi trường biển phục vụ cho công
tác quản lý, phát triển bền vững kinh tế biển. Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng các cuộc điều tra cơ bản, quan trắc, dự
báo về tài nguyên và môi trường biển phục vụ phát triển kinh tế biển và VBVBBL.
- Tích cực thực hiện ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi gây ô nhiễm môi trường
và làm suy thoái môi trường biển. Đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ và phát triển các hệ sinh
thái biển và vùng ven biển, duy trì các hoạt động thả giống thủy sản vào các vùng biển của
tỉnh hàng năm. Đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ ven biển.
124
Nghiêm cấm và xử lý nghiêm, triệt để các hình thức khai thác mang tính hủy diệt nguồn lợi
thủy sản.
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục và thực hiện cam kết về trách nhiệm của các
tổ chức và cá nhân tham gia vào các quá trình sản xuất, chế biến, hoạt động dịch vụ tuân thủ
các quy định của phát luật về bảo vệ môi trường. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về
môi trường ở các cấp, các ngành và thực hiện xã hội hóa về công tác bảo vệ môi trường.
- Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, từng bước nâng cao mức an
toàn phòng chống thiên tai, chủ động phòng chống hoặc thích nghi để giảm thiểu tổn thất,
chống xói mòn, suy thoái đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái, hiện đại hóa các trạm báo bão
ven biển. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án phòng chống thiên tai, thích ứng với biến
đổi khí hậu,… nhằm đảm bảo cuộc sống ổn định, an toàn cho nhân dân trong vùng và các
hoạt động khai thác biển
- Chủ động phòng chống, khắc phục hậu quả thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh đối với
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và thực hiện các chính sách an sinh xã hội, nhất là đối với
các đối tượng dễ bị tổn thương và các vùng khó khăn.
3.3.7. Gắn phát triến kinh tế biển với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đảm bảo
an sinh xã hội
- Gắn kết chặc chẽ quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội với nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh. Bảo đảm việc đầu tư phát triển các chương trình, dự án về kinh tế - xã
hội phải góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh vùng biển và ven biển của tỉnh.
- Chủ động quan hệ với các tỉnh lân cận (Sóc Trăng, Cà Mau) xây dựng quy chế phối
hợp trong công tác quản lý, bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường và hoạt động
khai thác, đánh bắt, mua bán thủy sản trên biển...
- Kịp thời điều chỉnh, bổ sung kế hoạch, phương án phòng thủ, tác chiến sát với quy
hoạch phát triển kinh tế biển và khu vực ven biển của tỉnh. Kết hợp chặt chẽ việc xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, giữ gìn sự đoàn kết giữa các dân
tộc, các tầng lớp nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự khu vực ven biển.
- Xây dựng các lực lượng, phương tiện đánh bắt hải sản thành những tổ, đội khai
thác vừa làm nhiệm vụ khai thác hải sản, bảo vệ môi trường biển, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ
an ninh, quốc phòng vùng biển, trong đó tổ chức cho được lực lượng tự vệ biển để phối hợp
125
với lực lượng hải quân, cảnh sát biển và các lực lượng khác làm tốt công tác tuần tra trên
biển, khi tình hình phức tạp xảy ra tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên biển.
- Quan tâm giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội vùng ven biển, (về xóa đói, giảm
nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, cung cấp nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,...). Đặc biệt chú ý các điều kiện đảm bảo an toàn tính
mạng, tài sản của những người và các phương tiện hoạt động trên biển. Khuyến khích ngư
dân khai thác trên biển tham gia các loại hình bảo hiểm thuyền viên, bảo hiểm phương tiện
tàu cá. Nghiên cứu xây dựng quỹ hỗ trợ thiên tai để chủ động hỗ trợ cho nhân dân khi bị
thiên tai.
3.4. Kiến nghị
Để kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu phát triển mạnh trong thời gian tới, bằng việc khai thác
có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh ven biển, sớm xây dựng vùng ven biển thành
vùng kinh tế động lực, phát triển năng động, tác giả của đề tài xin có những kiến nghị như
sau:
- UBND tỉnh, các sở ngành có liên quan tiếp tục xây dựng các phương án quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Hoàn thành
đề án phát triển các huyện ven biển trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh về biển và các
ngành có liên quan.
- Thực hiện điều tra, đánh giá tổng thể về tình hình tài nguyên – môi trường vùng
biển và ven biển… làm cơ sơ cho việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phòng an ninh vùng biển và ven biển Bạc Liêu.
- Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển hành lang kinh tế ven biển.
Tăng cường vốn đầu tư thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ven biển, nhất là các
đoạn đường nối liền các tỉnh, các huyện. Thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển các ngành
kinh tế biển bằng cách tạo mọi điều kiện thuận lợi, xây dựng môi trường đầu tư thông
thoáng, đơn giản thủ tục hành chính, hỗ trợ các quy hoạch, giải phóng mặt bằng,… để thu
hút mạnh mẽ các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư phát
triển vùng biển của tỉnh.
- Đối với phát triển các ngành kinh tế biển cần có sự quan tâm, chỉ đạo phát huy
những lợi thế và khắc phục những khó khăn nhất định, nhằm phát triển hài hòa các ngành,
126
các lĩnh vực. Bên cạnh đó, cần chú trọng phát triển những ngành kinh tế biển có thế mạnh
của tỉnh như ngành thủy sản, ngành du lịch…
- Phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ quản lý và
nguồn lao động có tay nghề cao trong các ngành kinh tế biển và liên quan đến biển, phục vụ
mục tiêu phát triển nhanh và bền vững kinh tế biển và vùng ven biển.
- Phát triển kinh tế biển bằng cách kết hợp hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường vùng biển và quen biển. Hướng
sự phát triển kinh tế biển bền vững là mục tiêu quan trọng mà các cấp, các ngành cần đặt
biệt quan tâm./.
127
KẾT LUẬN
Với những nội dung đề tài: “Phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu: Tiềm năng, thực
trạng và giải pháp” đã thể hiện trong 3 chương, với các biểu, bảng và những nội dung được
trình bày trong nghiên cứu này, tác giả rút ra những kết luận sau:
- Đúc kết cơ sở lý luận khoa học về kinh tế biển và các vấn đề có liên quan. Trong
đó, đã tìm hiểu về quan niệm, khái niệm kinh tế biển; cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ kinh
tế biển; các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển… Kinh nghiệm phát triển kinh
tế biển trên thế giới và ở Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài cũng đề cập đến các vấn đề có liên
quan như vấn đề môi trường biển, suy giảm đa dạng sinh học biển, ảnh hưởng của BĐKH
đến phát triển kinh tế biển và vùng ven biển. Đây sẽ là cơ sở lý luận quan trọng cho sự phát
triển kinh tế biển ở tỉnh Bạc Liêu.
- Bạc Liêu là tỉnh có đường bờ biển dài 56 km, có khá nhiều tiềm năng, lợi thế về tự
nhiên và tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên biển, rừng, đất đai và nước… Về kinh tế - xã hội
cũng là vùng có nguồn lao động dồi dào và tình hình phát triển kinh tế rất năng động và ổn
định trong những năm qua.
- Kinh tế biển và ven biển Bạc Liêu trong giai đoạn 2002 – 2011 đã có những khởi
sắc và đang trên đà phát triển mạnh nhờ vào sự quan tâm đầu tư phát triển của tỉnh. Các
ngành kinh tế biển truyền thống tiếp tục gặt hái những thành tựu quan trọng như ngành thủy
sản, diêm nghiệp, lâm nghiệp. Các ngành kinh tế biển khác cũng đã được hình thành và phát
triển ở Bạc Liêu như khai thác phong điện, du lịch ven biển,… Kinh tế VBVBBL phát triển
mạnh và có sự chuyển dịch theo hướng hiện đại, đã đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế
toàn tỉnh. Kinh tế biển và vùng biển đã và sẽ tiếp tục là động lực phát triển kinh tế - xã hội
trong thời gian tới.
- Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình phát triển kinh tế biển và vùng ven
biển cũng còn nhiều hạn chế như trình độ phát triển các ngành kinh tế biển vẫn còn thấp,
việc quy hoạch và quản lý còn nhiều bất cập, thiếu vốn đầu tư phát triển, cơ sở hạ tầng chưa
đảm bảo tốt cho sự phát triển…Mặt khác, sự phát triển kinh tế biển còn chịu ảnh hưởng của
nhiều vấn đề liên quan, trong đó có vấn đề môi trường và BĐKH đang là nguy cơ lớn nhất
cho tương lai.
128
- Trên cơ sở đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và kinh
tế - xã hội; thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2002 – 2011. Tác giả
đã đưa ra những định hướng chính và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế
biển của tỉnh trong thời gian tới.
- Tóm lại, nếu thực hiện được các định hướng và giải pháp đặt ra thì trong tương lai
không xa Bạc Liêu sẽ là tỉnh có kinh tế biển phát triển mạnh ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Kinh tế biển sẽ đưa Bạc Liêu phát triển ổn định và hướng đến mục tiêu phát triển bền
vững./.
129
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức An (2008), Hệ thống đảo ven bờ Việt Nam tài nguyên và phát triển, Nxb Hà
Nội.
2. Nguyễn Văn Âu (1999), Địa lí tự nhiên biển Đông- Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
3. Lê Huy Bá, Vũ Chí Hiếu, Võ Đình Long (2006), Tài nguyên môi trường và phát triển
bền vững, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
4. Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (2006), Bạc Liêu thế và lực trong thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị Quốc Gia.
5. Cục thống kê tỉnh Bạc Liêu, Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu các năm 2002, 2005,
2011, Bạc Liêu.
6. Cục thống kê Bạc Liêu (2012), Thực trạng nông thôn – nông nghiệp Bạc Liêu: Tiềm
năng và phát triển, Bạc Liêu.
7. Nguyễn Khắc Duật (1987), Địa lí kinh tế vận tải biển, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
8. Nguyễn Dược, Trung Hải (2006), Sổ tay thuật ngữ địa lí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Trường Giang (2005), Kinh tế thủy sản tỉnh Bạc Liêu: Thành tựu và triển vọng,
Nxb Bạc Liêu.
10. Phạm Văn Giáp, Phạm Bạch Châu, Nguyễn Ngọc Huệ (2002), Biển và cảng biển thế
giới, Nxb Xây Dựng, Hà Nội.
11. Võ Nguyên Giáp (1987), Kinh tế biển và khoa học kỹ thuật về biển ở nước ta, Nxb
Nông nghiệp.
12. Liên hiệp các hội khoa học – kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh Hội sinh học TP. Hồ Chí Minh
(2012), Cơ sở khoa học để đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí
hậu và nước biển dâng, Nxb Nông nghiệp, TP. Hồ Chí Minh
13. Quang Luyện, Rừng – biển và kinh tế thủy sản, Viện kinh tế - trung tâm khoa học xã hội
và nhân văn Quốc gia.
14. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bạc Liêu (2011), Đề án Quy hoạch tổng
thể phát triển nông lâm ngư và diêm nghiệp tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020, Bạc
Liêu.
15. Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu (2010), Khung kế hoạch hành động ứng
phó với biến đổi khí hậu tỉnh Bạc Liêu, Bạc Liêu.
130
16. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bạc Liêu (2011), Quy hoạch phát triển ngành du
lịch tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, Bạc Liêu.
17. Võ Thị Tám (2012), Hiện trạng và định hướng phát triển bền vững kinh tế biển ở tỉnh
Bến Tre, Luận văn thạc sỹ Địa lí học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, Tp. HCM.
18. Lê Bá Thảo (1977), Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Giáo dục
19. Lý Kim Thụy (2011), Kinh tế biển tỉnh Cà Mau: Thực trạng và Giải Pháp, Luận văn
thạc sỹ Địa lí học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. HCM.
20. Nguyễn Ngọc Thụy (1978), Thiên nhiên vùng biển nước ta, Nxb KH-KT
21. Vương Toàn Thuyên (2006), Kinh tế vận tải biển, Trường đại học hàng hải Việt Nam.
22. Nguyễn Thụy Ngọc Trang (2011), Tiềm năng, hiện trạng và định hướng phát triển kinh
tế biển tỉnh Ninh Thuận, Luận văn thạc sỹ Địa lí học, Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. HCM.
23. Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2005), Địa lí kinh tế - xã hội đại
cương, Nxb Đại học Sư phạm.
24. UBND tỉnh Bạc Liêu (2008), Đề án phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020,
Bạc Liêu.
25. UBND tỉnh Bạc Liêu (2012), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bạc
Liêu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bạc Liêu.
26. Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế biển và các hải đảo Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.
27. Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tổng kết khoa học
công nghệ đề tài: Cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển
Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một số khu vực trọng điểm, Hà Nội.
28. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Báo cáo hội thảo
Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam, Hà Nội.
29. Vũ Trung Tạng (1979), Nguồn lợi sinh vật biển Đông, Nxb Khoa học và kỹ thuật.
131
PHỤ LỤC
1. Phụ lục một số dự án trọng điểm kêu gọi đầu tư của VBVBBL
TT Tên dự án Địa điểm đầu tư
1 Khu đô thị cao cấp đường Hùng Vương Thành phố Bạc Liêu
2 Khu cao ốc tổng hợp đầu cầu Bạc Liêu 3 Thành phố Bạc Liêu
3 Thành phố Bạc Liêu Cao ốc liên hợp thương mại – du lịch đường Bà Triệu
4 Khách sạn cao cấp Bạc Liêu Thành phố Bạc Liêu
5 Cầu dẫn và cảnh quan nhân tạo biển Bạc Liêu Thành phố Bạc Liêu
6 Khu du lịch văn hóa và resort nghỉ dưỡng Thành phố Bạc Liêu
7 Tuyến du lịch sinh thái ven biển Bạc Liêu Thành phố Bạc Liêu
8 Xây dựng khu kinh tế biển Gành Hào Huyện Đông Hải
9 Xây dựng cảng biển Gành Hào Huyện Đông Hải
10 Bệnh viện chuyên khoa tim mạch có can Thành phố Bạc Liêu thiệp
11 Nhà máy sản xuất dược phẩm Thành phố Bạc Liêu
132
2. Phụ lục một số Bản đồ về tỉnh hình kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH BẠC LIÊU
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu
133
BẢN ĐỒ VỊ TRÍ ĐỊA LÍ VÀ MỐI LIÊN HỆ LIÊN VÙNG CỦA TỈNH BẠC LIÊU
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bạc Liêu
134
BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH BẠC LIÊU NĂM 2010
Nguồn: UBND tỉnh Bạc Liêu
135
BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG VÀ QUY HOẠCH KẾT CẤU HẠ TẦNG CHỦ YẾU, HỆ THỐNG ĐÔ THỊ VÀ CÁC ĐIỂM DÂN CƯ TỈNH BẠC LIÊU
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bạc Liêu
136