PHENOBARBITAL
(Kỳ 1)
Tên tiếng Anh:
Phenobarbital.
Mã ATC:
N03A A02
Loại thuốc:
Chống co giật và an thần, gây ngủ.
Dạng thuốc và Hàm lượng:
- Viên nén 15 mg, 50 mg, 100 mg;
- Dung dịch tiêm 200 mg/1 ml;
- Dung dịch uống 15 mg/5 ml;
- Viên đạn.
Dược lý và Cơ chế tác dụng:
Phenobarbital là thuốc chống co giật thuộc nhóm các Barbiturat.
Phenobarbital và các Barbiturat khác có tác dụng tăng cường và/hoặc bắt chước
tác dụng ức chế synap của Acid gama Aminobutyric (GABA) ở não; điều này cho
thấy chúng có những điểm tương đồng với các Benzodiazepin.
Tuy nhiên, các Barbiturat khác với các Benzodiazepin ở tính chọn lọc kém
hơn; với các Barbiturat, ngoài tác dụng ức chế chọn lọc lên synap, chỉ cần tăng
liều nhẹ cũng gây ức chế không chọn lọc.
Phenobarbital và các Barbiturat khác làm giảm sử dụng oxygen ở não trong
lúc gây mê, có lẽ chủ yếu thông qua việc ức chế hoạt động của neuron. Các tác
dụng này là cơ sở của việc sử dụng các Barbiturat để đề phòng nhồi máu não khi
não bị thiếu máu cục bộ và khi tổn thương sọ não.
Các Barbiturat ức chế có hồi phục hoạt động của tất cả các mô. Tuy vậy,
với cùng một nồng độ trong huyết tương hay với các liều tương đương, không phải
tất cả các mô đều bị ảnh hưởng như nhau.
Hệ thần kinh trung ương nhạy cảm với các Barbiturat hơn rất nhiều; liều
thuốc gây ngủ và an thần chỉ có tác dụng không đáng kể lên cơ xương, cơ tim và
cơ trơn. Phenobarbital ức chế hệ thần kinh trung ương ở mọi mức độ, từ an thần
đến gây mê.
Thuốc chỉ ức chế tạm thời các đáp ứng đơn synap ở hệ thần kinh trung
ương, nhưng sự hồi phục của synap bị chậm lại và có sự giảm trở kháng sau synap
ở một số synap, các đáp ứng đa synap bị ảnh hưởng nhiều hơn; điều này giải thích
vì sao tác dụng chống co giật và tác dụng ức chế của thuốc lại kéo dài.
Phenobarbital chủ yếu được dùng để chống co giật, tuy vậy thuốc vẫn còn
phần nào được dùng để điều trị hội chứng cai rượu. Tác dụng chống co giật của
thuốc tương đối không chọn lọc; thuốc hạn chế cơn động kinh lan tỏa và làm tăng
ngưỡng động kinh. Thuốc chủ yếu được chỉ định trong cơn động kinh toàn bộ (cơn
lớn), và động kinh cục bộ (cục bộ vận động hoặc cảm giác).
Phenobarbital làm giảm nồng độ bilirubin huyết thanh ở trẻ sơ sinh, ở
người bệnh tăng Bilirubin huyết không liên hợp, không tan huyết bẩm sinh và ở
người bệnh ứ mật trong gan, có thể do cảm ứng Glucuronyl transferase, một
enzym liên hợp Bilirubin.
Thuốc uống được hấp thu chậm ở ống tiêu hóa (80%), thuốc gắn vào
Protein huyết tương (ở trẻ nhỏ 60%, ở người lớn 50%) và được phân bố khắp các
mô, nhất là ở não, do thuốc dễ tan trong mỡ.
Thể tích phân bố là 0,5 - 1 lít/kg. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt sau
khi uống 8 - 12 giờ ở người lớn, sau 4 giờ ở trẻ em và nồng độ đỉnh trong não đạt
sau 10 - 15 giờ. Nửa đời của thuốc trong huyết tương dài (2 - 6 ngày) và thay đổi
theo tuổi:
Trẻ em từ 1 đến 10 tuổi đào thải phenobarbital nhanh hơn nhiều so với
người lớn (40 - 50 giờ ở trẻ em; 84 - 160 giờ ở người lớn) còn ở người bệnh bị suy
gan hoặc suy thận thì dài hơn rất nhiều. Phải sau 15 - 21 ngày mới đạt trạng thái
cân bằng động của thuốc. Thuốc đặt hậu môn hầu như được hấp thu hoàn toàn ở
ruột già.
Nếu tiêm tĩnh mạch, tác dụng của thuốc xuất hiện trong vòng 5 phút và đạt
mức tối đa trong vòng 30 phút. Tiêm bắp thịt, tác dụng xuất hiện chậm hơn một
chút. Dùng theo đường tiêm, Phenobarbital có tác dụng kéo dài từ 4 đến 6 giờ.
Phenobarbital được hydroxyl hóa và liên hợp hóa ở gan. Thuốc đào thải chủ
yếu theo nước tiểu dưới dạng các chất chuyển hóa không có hoạt tính (70%) và
dạng thuốc nguyên vẹn (30%); một phần nhỏ vào mật và đào thải theo phân.
Phenobarbital là chất cảm ứng Cytochrom P450 mạnh nên có ảnh hưởng đến
chuyển hóa của các thuốc được chuyển hóa ở gan thông qua cytochrom P450.