intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quy trình kỹ thuật trồng rau dền

Chia sẻ: Ffsfff Thng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

326
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Rau dền là loại rau mùa hè (từ tháng 2 đến tháng 7), mọc rất khoẻ. Rau dền có bộ rễ khoẻ, ăn sâu nên chịu hạn và chịu nước rất giỏi. Lá hình thoi hay hình ngọn giáo, thon hẹp ở gốc, nhọn tù.Rau dền có hạt nhỏ, hạt có lớp vỏ sừng nên giữ được sức nẩy mầm rất lâu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quy trình kỹ thuật trồng rau dền

  1. Quy trình kỹ thuật trồng rau dền
  2. Cây rau dền - Ảnh: VRS 1. Đặc tính sinh học: - Có nhiều loại rau dền: rền cơm, rền tía, rền 3 màu,... có giá trị dinh dưỡng cao. - Rau dền là loại rau mùa hè (từ tháng 2 đến tháng 7), mọc rất khoẻ. - Rau dền có bộ rễ khoẻ, ăn sâu nên chịu hạn và chịu nước rất giỏi. - Lá hình thoi hay hình ngọn giáo, thon hẹp ở gốc, nhọn tù. - Rau dền có hạt nhỏ, hạt có lớp vỏ sừng nên giữ được sức nẩy mầm rất lâu ngay cả
  3. trường hợp bị vùi sâu trong đất. - Cây rau dền sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 25 – 30 độ C, nếu có độ ẩm cao thì cây cho nhiều cành lá. 2. Kỹ thuật gieo trồng: a. Về giống: có nhiều loại nhưng chủ yếu chọn 2 loại giống để làm rau ăn như: - Dền trắng (còn gọi lá dền xanh): cây Rau có thân, lá đều xanh; phiến lá hẹp, hình lá liễu (nên còn có tên là dền lá liễu). - Dền đỏ (còn gọi là dền tía): Cây rau có loại lá hơi tròn đều hoặc tròn như vỏ hến, có loại lá dài to; thân, cành, lá có màu huyết dụ. Ngoài ra, còn có rau dền cơm cũng là một loại cây thân thảo, phân nhiều nhánh từ gốc, thân có khía màu xanh nhạt; lá hình thoi hoặc hình trứng có cuống dài bằng phiến. Rau dền cơm cũng là món Rau thông thường ở gia đình nông thôn, có thể dùng bằng cách luột hoặc nấu canh. b. Thời vụ, làm đất, lượng giống: - Vụ chính: gieo hạt từ tháng 2 đến tháng 7. - Vì hạt rau dền rất nhỏ nên cần làm đất thật kỹ (làm đất nhuyễn) tạo điều kiện cho hạt nẩy mầm đều, khi gieo nên trộn hạt với tro bếp để gieo cho đều. - Lên liếp rộng từ 0,6 – 1,0 m x chiều dài ( tuỳ theo kích thước vườn) nhưng tối đa
  4. không nên quá 20 m. - Lượng hạt giống gieo ở vườn ươm từ 1,5 – 2 g/m2. - Sau khi gieo khoảng 25 – 30 ngày thì nhổ cấy (cây cao 10 – 15 cm), trồng với khoảng cách: 15 x 15 cm hoặc 12 x 20 cm. c. Phân bón: - Bón lót: kết hợp làm đất và bón lót phân cho cây: 120 – 150 kg phân chuồng/100 m2 - Sau khi cấy từ 5 – 7 ngày thì cây đã phục hồi. Vì rau rền là loại rau ăn lá nên bón thúc bằng phân Urê pha thật loãng 0,4 kg/100m2. - Nếu trồng thùng xốp tại nhà thì chỉ cần sử dụng phân cá ủ hoai bón vào đất đã làm kỹ là rau sẽ lên rất tốt. - Nếu không có phân cá có thể sử dụng nước tiểu ngâm lân bột từ 2 tuần trở lên pha loãng tưới cho rau, rau cũng sẽ lên rất tốt. * Tưới nước: 1 ngày/lần. d.Phòng trừ sâu bệnh: Cây rau dền ít bị sâu bệnh, chủ yếu bị các loài sâu ăn lá như sâu róm, sâu xanh, sâu khoang. Nếu trồng tại nhà thì chỉ nên dùng các loại thuốc thảo mộc tự chế như:
  5. - Thuốc lào ngâm 1 đêm rồi pha loãng phun cho rau; - Xà phòng rửa bát pha loãng rồi đem phun; - Dầu khoáng SK Enspray 99 EC hoặc dầu khoáng đầu trâu Bio hopper 39 EC; Nếu các biện pháp trên không có hiệu quả nhiều thì có thể dùng thuốc Sherpa hoặc Sherzol để phun phòng trị. Lưu ý: Khi dùng thuốc BVTV phải theo nguyên tắc 4 đúng và đảm bảo thời gian cách ly. Không được dùng các loại thuốc cấm, không sử dụng quá liều qui định. e. Thu hoạch: - Sau khi cấy ra vườn trồng 25 – 30 ngày thì tiến hành thu hoạch. Thường nhổ cả cây, ít khi hái tỉa. Trong trường hợp bà con nông dân muốn thu hoạch Rau lúc cây còn non (cây cao 10 – 15 cm) để sử dụng cũng được.
  6. Bệnh hại trên cây ớt và giải pháp phòng trừ . Héo rũ gốc mốc trắng - Tác nhân gây bệnh: Do nấm Sclerotium rolfsii. - Triệu chứng bệnh: Triệu chứng điển hình của bệnh được thể hiện rõ nhất từ khi cây ra hoa - hình thành quả - thu hoạch. Nấm xâm nhiễm vào phần thân cây sát mặt đất, vết bệnh lúc đầu nhỏ màu nâu tươi hơi lõm, về sau vết bệnh lan rộng có thể dài tới vài centimet bao quanh thân, gốc, lan rộng xuống tận cổ rễ dưới mặt đất. Mô vết bệnh dần dần bị phân hủy, các lá dưới gốc héo vàng và rụng trước, sau đó lan lên các lá phía trên, cuối cùng dẫn tới các lá héo rũ, cây khô toàn thân. Khi cây mới nhiễm bệnh thì rễ cây vẫn bình thường, sau đó rễ dần dần hóa nâu, thâm nâu và thối mục. Trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao, ẩm độ cao thì trên bề mặt vết bệnh sát mặt đất sẽ xuất hiện lớp nấm màu trắng phát triển mạnh, sợi nấm mọc đâm tia lan dần ra mặt đất chung quanh gốc cây, tạo thành một đốm tản nấm màu trắng xốp, một vài ngày sau trên tản nấm đó sẽ hình thành nhiều hạch nấm. Khi còn non hạch có màu trắng sau chuyển dần sang màu nâu giống hạt cải. Bệnh xuất hiện có thể rải rác hoặc từng vạt trên ruộng tùy theo điều kiện ngoại cảnh đất đai và quá trình chăm sóc. - Đặc điểm phát sinh gây hại của bệnh
  7. Đây là loại nấm đa thực gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau, phát sinh phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ cao nhưng thích hợp nhất là nhiệt độ 25-30oc. Hạch nấm có thể tồn tại 5 năm trong đất khô nhưng chỉ tồn tại 2 năm trên đất ẩm. Sợi nấm chỉ sống được vài tuần và chết khi nguồn dinh dưỡng được sử dụng hết. Nấm gây bệnh được bảo tồn trong đất và các tàn dư cây trồng bằng hạch nấm hoặc sợi nấm, có khả năng sinh sống và nảy mầm ở độ sâu khoảng 5-8cm, nếu bị vùi lấp sâu hơn sẽ không có khả năng nảy mầm. Nấm không thể tồn tại trên đất bỏ hoang khoảng 2 năm. Sự có mặt của tàn dư cây trồng chưa bị phân hủy trên ruộng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và xâm nhiễm của nấm bệnh. Bệnh thường phát sinh nặng hơn khi lượng lá rụng trên ruộng tích tụ quá nhiều chung quanh gốc. 2. Héo rũ thối đen Do nấm Phytophthora capsici. Bệnh gây hại trên cây ớt trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển. Tùy từng giai đoạn và điều kiện ngoại cảnh khác nhau mà mức độ gây hại của bệnh cũng khác nhau. Ở thời kỳ cây con, vết bệnh lúc đầu là là một chấm nhỏ màu nâu hoặc màu đen ở rễ gốc thân. Sau đó vết bệnh lan lên phía trên làm hại thân lá và lan xuống phía dưới gây hại rễ chính, gây thối rễ, cây chết gục. Khi gặp trời mưa độ ẩm cao toàn cây bị thối nhũn ra, bề mặt mô bệnh thường có một lớp nấm màu trắng.Trời hanh khô cây bệnh nâu đen héo và chết. Khi cây lớn,
  8. trên gốc thân có vết màu đen kéo dài về phía trên và dưới. Khi chẻ phần thân thấy lõi có màu nâu đến nâu đen, nhưng đặc điểm này không có ở những vị trí cao hơn. - Đặc điểm phát sinh gây hại của nấm Nấm phát sinh gây hại trong phổ nhiệt độ rộng 12-300c. Bệnh phát triển gây hại mạnh khi thời tiết nóng ẩm và đất ướt, lượng mưa lớn hay tưới nước quá mức, nhất là khi trên ruộng đã có cây bị bệnh thì đây là điều kiện để bệnh lây lan ra cả ruộng, vì du động bào tử của nấm gây bệnh có thể bơi được trong nước.
  9. 3. Bệnh héo xanh vi khuẩn Bệnh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra. Bệnh héo xanh thường thể hiện triệu chứng ngay sau khi vi khuẩn xâm nhập vào rễ hoặc phần thân sát mặt đất. Ở cây bị bệnh ban ngày lá cây mất màu nhẵn bóng, tái xanh héo cụp xuống, về ban đêm có thể hồi phục lại. Sau 2-3 ngày lá cây bị bệnh không thể hồi phục được nữa, các lá gốc tiếp tục héo rũ và toàn cây bị héo rũ rồi chết, cắt ngang thân thấy bó mạch dẫn hóa nâu hoặc nâu đen, nhúng đoạn thân vào cốc nước sạch sẽ thấy dịch vi khuẩn chảy ra màu trắng sữa (đây là đặc điểm để phân biệt bệnh do vi khuẩn và các đối tượng gây hại khác). Trong điều kiện ẩm độ cao, thân cây bệnh dần thối mềm, gãy gục. - Điều kiện phát sinh phát men của bệnh: Bệnh gây hại mạnh trong điều kiện nóng ẩm, nhất là khi gặp nắng mưa xen kẽ. Nguồn bệnh vi khuẩn có thể sống trong đất 5-6 năm, còn trên cây ký chủ và trong hạt giống là 7 tháng. Vi khuẩn chủ yếu tồn tại trong đất, tàn dư cây bệnh để trở thành nguồn bệnh cho vụ sau, năm sau. Bón đạm quá nhiều, tưới nước quá ẩm, nhất là khi trên ruộng có cây bị bệnh sẽ thuận lợi cho bệnh lây lan và gây hại. † Biện pháp quản lý bệnh các loại bệnh trên + Dọn sạch tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng.
  10. + Luân canh với cây không cùng ký chủ, tốt nhất là lúa nước. + Chọn hạt giống khỏe sạch bệnh để trồng, giống trên ruộng không bị bệnh. + Tránh gây tổn thương rễ trong quá rinh trồng trọt, chăm sóc. + Khi trồng cần lên luống cao sâu rộng để dễ thoát nước khi gặp mưa lớn. + Bón phân cân đối hợp lý tránh bón đạm quá nhiều. + Thường xuyên kiểm tra phát hiện cây bị héo rũ để nhổ bỏ kịp thời, phải hạn chế tưới nước, tránh bệnh lây lan trên ruộng. + Sử dụng giống chống chịu bệnh, giống ít bị bệnh. + Đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii có thể cày sâu 10-13 cm để vùi lấp hạch nấm và dùng một số loại nấm đối kháng như: Trichoderm, Gliocladium... + Biện pháp hóa học thường hiệu quả thấp do tác nhân gây bệnh tồn tại chủ yếu trong đất, xâm nhiễm gây hại ở bộ phận rễ, cổ rễ thân sát mặt đất. Tuy nhiên, trong những trường hợp thực sự cần thiết có thể dùng một số loại thuốc phun để tăng cường sức đề kháng cho cây và hạn chế bệnh lây lan như: Rovral, Viroval, Hạt vàng, Carbendazim, Benlat... (dùng đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii); Aliette, Ridomil, Phosacide... (dùng đối với bệnh do nấm Phytophthora capsici); Streptomycine 50-200ppm, Kasamin, Starner... (dùng đối với bệnh do vi khuẩn). 4. K hi cây ớ t bị c hết nha nh Bệnh do nấm gây ra (nấm Pythium sp. Và Fusarium sp.).Mầm bệnh thường lưu tồn trong đất, bã thực vật, nhất là các loại cây có mang bệnh này ở vụ trước. Rẫy ớt bị
  11. bệnh này thường là các rẫy thoát nước không tốt và việc luân canh cây trồng không hợp lý, nhất là vụ trước cũng trồng ớt. Trong rẫy ớt bị bệnh, rải rác có những cây có hiện tượng sáng và chiều lá vẫn tươi, nhưng trưa lại héo. Sau đó vài ngày, các cây ớt này nhanh chóng héo hoàn toàn, lá rụng và trái ớt bị giảm kích thước đáng kể. Nhổ cây ớt lên sẽ thấy rễ bị thối và có màu nâu. Khi phát hiện ớt có hiện thượng này, phải lập tức nhổ bỏ các cây bệnh và tiêu hủy ngay để diệt mầm bệnh, tránh lây lan qua cây khác và cả các loại cây của vụ sau. Phòng và trị bệnh cho cây ớt lúc này bằng cách phun cho cây các loại phân bón lá giàu Can-xi như Caltrac, BoroCa, Hợp trí CaSi,… và phun các loại thuốc có gốc Fosetyl Alumium, Metalaxyl theo nồng độ khuyến cáo trên bao bì, kết hợp việc khai nước ra cho ruộng thông thoáng. Trong bón phân, chú ý dùng phân cân đối, nên tăng cường phân hữu cơ, phân hữu cơ sinh học như Super Humic… Sẽ hiệu quả hơn nếu kết hợp với sử dụng các sản phẩm có chứa nấm đối kháng Trichoderma, nhằm tiêu diệt mầm bệnh trên rẫy. Tuy nhiên, biện pháp hóa học không mang lại hiệu quả hữu hiệu nhất, mà phải dùng biện pháp tổng hợp nói trên, chú ý tuyệt đối không dùng hạt giống có mầm bệnh (lấy ở rẫy có cây bị bệnh) và xử lý đất trước khi xuống giống bằng các loại thuốc gốc đồng có bán nhiều trên thị trường. 5. Bệ nh thá n thư c ho cây ớt ở A n Gia ng
  12. Theo Chi cục BVTV tỉnh An Giang, từ đầu mùa mưa đến nay bệnh thán thư trên cây ớt diễn ra rất nghiêm trọng. Kỹ sư Nguyễn Thị Mỹ Phụng - cán bộ kỹ thuật Chi cục BVTV tỉnh cho biết: Qua ghi nhận của Trạm BVTV các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu và huyện Châu Thành, cây ớt bị bệnh thán thư làm giảm năng suất từ 30-35%, cá biệt có nhiều nơi thiệt hại từ 70-80%. Để giúp đỡ các địa phương trồng ớt, vừa qua Chi cục BVTV tỉnh An Giang đã phối hợp với lực lượng kỹ thuật viên đến kiểm tra ở các xã có diện tích ớt bị nhiễm bệnh nặng. Qua theo dõi, hầu hết ruộng ớt mắc bệnh đều do giống có nguồn gốc không rõ ràng, ngoài ra do mưa dầm, nhiệt độ tăng nên một số nấm phát triển gây hại, mà bà con nông dân không biết nên sử dụng thuốc phòng trị không đúng. Theo kỹ sư Nguyễn Thị Mỹ Phụng, bệnh thán thư trên các cây họ cà, ớt đều do nấm Cotlletotrichum spp. Bệnh lây lan bằng bào tử, khi gặp thời tiết thuận lợi bệnh phát triển với tốc độ rất nhanh, sẽ làm thiệt hại lớn đến năng suất. Để phòng trị bệnh thán thư cho cây ớt, ngành BVTV tỉnh An Giang khuyến cáo bà con nông dân cần trồng những giống kháng bệnh, áp dụng bón phân cân đối dùng NPK theo tỉ lệ 2: 1: 1. Không nên trồng ớt xen với cây có tán lá che lấn cây ớt vào mùa nóng. Khi bà con thăm đồng thấy ớt có hiện tượng bệnh thán thư nên dùng một số thuốc sau: Score 250 ND pha 0,01-0,02%; Ridomil MZ 72 WP pha 0,3%, Metazeb 72WP, Antracol; Daconil phun xen với Bocdeaux hoặc Oxy Clorua đồng 0,5% để ngừa
  13. bệnh khi thời tiết thuận lợi. Nếu bệnh này xuất hiện nhiều ở vụ sau bà con nên trồng luân canh cây trồng khác họ với cà và ớt. NTNN, 9/9/2003 6. Bệ nh thối xá m hạ i ớ t Trong vụ đông, khi nhiệt độ xuống thấp, kèm theo những đợt mưa phùn kéo dài, tạo nên độ ẩm cao là điều kiện thích hợp cho các loại nấm bệnh phát sinh và phát triển, làm cho cây trồng dễ mắc một số bệnh. Gần đây, qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy cây ớt ở một số vùng thuộc các địa phương như Hà Tây, Hải Phòng, Hải Dương đã bắt đầu bị nhiễm bệnh do một loại nấm mốc màu xám gây ra. Bệnh phát triển khá nhanh, ở vùng bãi ven sông có xu hướng nặng hơn ở nội đồng. Đó là bệnh thối xám (gray mold hay botrytis cinerea). Nếu không kịp thời phòng trừ, trong thời gian tới khi có những giai đoạn mưa phùn kéo dài, bệnh sẽ có nguy cơ phát triển trên diện rộng. Triệu chứng: Có thể tìm thấy các triệu chứng bệnh xuất hiện trên hoa, quả (trái) non, thân và lá ớt, kể cả ở phần cuống quả và đoạn cuống còn sót lại sau thu hoạch. Ngay từ đầu, những cánh hoa nhiễm bệnh sẽ chuyển màu xám và thối. Sau đó những quả ớt non trong diện tiếp xúc với những cánh hoa này sẽ có màu nâu đậm và bắt đầu mềm rũ. Quả non mang bệnh có nhiều khả năng bị rụng sớm. Trong khi đó, những quả ớt lớn hơn cũng có thể bị bệnh thông qua phần cuống của vòi nhụỵ. Quả bị nấm bệnh
  14. một thời gian sẽ bị mềm nhũn ra, biến màu nâu và thối. Vết bệnh trên thân cây thường phát sinh từ phần cuống quả của già còn sót lại sau thu hoạch hay do những cánh hoa bị bệnh bay trong gió và rơi xuống. Nấm mốc màu xám xuất hiện trên hầu hết các vết bệnh, nhưng các vết trên thân và lá không có nhiều nấm này như ở cánh hoa và quả non. Nguyên nhân và điều kiện phát bệnh: Nguồn gây bệnh ban đầu là các sợi nấm bay tới từ các ruộng bị bệnh ở kế bên, nhất là đầu hướng gió thổi tới, hay của các vụ trước còn sót lại trong đất. Khi gặp điều kiện thuận lợi như đã nhắc tới ở trên, chúng hình thành các bào tử đính (conidia) và bắt đầu phát tán, đồng thời tạo ra các vết bệnh mới. Nhiệt độ thích hợp nhất cho bệnh bùng phát là vào khoảng 14-200C. Bệnh không chỉ gây hại cho cây trồng ngoài ruộng mà còn có thể tấn công cả cây trong nhà lưới hoặc nhà kính của các trung tâm rau sạch. Phòng trừ: Khi trồng cần làm đất sạch, tơi xốp, khô thoáng và chọn trồng những cây non khỏe mạnh, không mang bệnh. Trồng ớt với mật độ vừa phải, không nên quá dày. Khi cần tưới nước, chỉ tưới vào gốc, tránh tưới trên tán lá ớt để hạn chế độ ẩm cao. Nếu phun bổ sung phân bón lá thì nên phun vào buổi sáng của ngày nắng ấm để nước dễ bay hơi. Khi nhiệt độ không khí xuống thấp và độ ẩm cao cần lưu ý phun thuốc phòng bệnh. Tốt nhất, nên phun thuốc phòng tối thiểu một lần trước khi bệnh xuất
  15. hiện, điều này rất đáng lưu ý trong phòng trừ bệnh nói chung. Sau đó có thể phun từng đợt, cách nhau 7 đến 14 ngày, tùy theo điều kiện thời tiết và mật độ vết bệnh phát hiện trên ruộng. Khi cây đã bị bệnh, cần xử lý bằng thuốc trừ bệnh. (Báo NNVN đã có dịp giới thiệu về thuốc phòng và trừ bệnh hại cây trồng trên số 1607 ngày 1/4/2003). Nên sớm loại bỏ các lá, quả và thân cây bị nhiễm bệnh vì chúng chính là nguồn gây bệnh cho các cây khoẻ mạnh khác. Có thể kể ra một vài tên hoạt chất (active ingredient) của các thuốc hóa học thường dùng phòng trừ bệnh này như: Folpet, Metalaxyl, Daconil, Benomyl v.v.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
17=>2