intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh lớp 7 giải một số bài toán bằng nhiều cách

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

89
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm THCS "Hướng dẫn học sinh lớp 7 giải một số bài toán bằng nhiều cách" nghiên cứu về các phương pháp giải bài toán bằng nhiều cách khi dạy học Toán lớp 7 nhằm giúp học sinh khắc sâu và nắm vững kiến thức tổng hợp, phong phú để vận dụng vào việc giải bài tập Toán theo nhiều các khác nhau. Tạo niềm say mê, hứng thú học Toán của học sinh, đồng thời nâng cao năng lực, phát triển trí tuệ và óc sáng tạo cho học sinh. Mời quý thầy cô và các em cùng tham khảo nội dung chi tiết tại đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh lớp 7 giải một số bài toán bằng nhiều cách

  1. NỘI DUNG TRANG I.   PHẦN   MỞ   ĐẦU 02 02 1.   Lý   do M  ỤC L ọC chỤ n   đề   tài 03 03 04 2.   Mục   tiêu,   nhiệm   vụ   c ủa   đề   tài 04 04 04 05 3.   Đối   tượng   nghiên   cứu 05 06 04 08 4.   Phạm   vi   nghiên   cứu 08 04 09 5.   Phương   pháp   nghiên   cứu 22 23 04 II. PHẦN NỘI DUNG 24 1.  Cơ   sở   lý   luận 24 05 2.   Thực   trạng 25 ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­06 3. Biện pháp:  3.1 Mục tiêu của biện pháp 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp 3.3 Điều kiện thực hiện 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn  đề nghiên cứu 1 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ  1. Kết luận: 
  2. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Trong dạy học Toán ở bậc THCS, việc cần nhất là hình thành cho học sinh một   hệ  thống khái niệm Toán học quan trọng; làm cho học sinh nắm vững bản chất kiến   thức một cách sâu và rộng. Đó chính là cơ  sở, là tiền đề  quan trọng để  xây dựng cho   học sinh khả năng vận dụng kiến thức đã học để giải một số bài toán theo nhiều cách  khác nhau. Tuy nhiên, tôi nhận thấy đa số học sinh chưa nắm vững bản chất kiến thức,   chưa có khả  năng vận dụng tốt kiến thức để  giải bài tập theo nhiều cách khác nhau,  chưa nắm được nhiều phương pháp giải các dạng toán nên học sinh thường gặp khó  khăn khi giáo viên yêu cầu học sinh giải một bài toán theo nhiều cách khác nhau.  Nguyên nhân chủ yếu là do:  + Học sinh thường cảm thấy khó khăn, ngại học lý thuyết, chưa nắm  vững bản   chất kiến thức hoặc nắm kiến thức cơ bản chưa sâu. Mặt khác do ý thức học tập của  học sinh chưa cao, chưa thật sự tập trung chú ý để hiểu và ghi nhớ các công thức, quy   tắc, định lý, tính chất và các hệ quả nên khi làm một bài Toán không nhớ kiến thức nào  để vận dụng. Nhiều học sinh học toán tốt nhưng khi tìm được lời giải cho bài toán này   rồi thì làm tiếp qua bài khác ngay chứ không suy nghĩ tìm tòi xem bài toán đó còn cách  giải nào khác nữa không.  + Phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phù hợp với nhiều đối tượng học   sinh, các tiết dạy và học chưa sinh động, chưa gây được niềm say mê, hứng thú học  Toán của người học. Khi giảng dạy một số giáo viên chưa tổng hợp, liên hệ kiến thức  2
  3. cho học sinh. Hơn nữa trong một tiết học ngắn ngủi, giáo viên thường dạy nhanh phần   lý thuyết, chưa lật lại vấn đề  để  khắc sâu kiến thức cho học sinh. Mặt khác, một số  giáo viên ít tìm tòi, nghiên cứu các cách giải khác nhau cho một bài toán nên khi đưa ra  một bài toán, sau khi  học sinh giải đúng thì qua bài khác chứ không  đưa ra được nhiều   cách giải khác nhau cho bài toán đó để  mở  rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh,   chưa kích thích được trí tò mò và chưa phát huy được sự thông minh sáng tạo của học   sinh.  + Trong quá trình giảng dạy Toán lớp 7, tôi nhận thấy khi giáo viên đưa ra các   một bài toán có thể giải bằng nhiều cách rồi yêu cầu học sinh tìm ra các cách giải khác   nhau, học sinh sẽ rất hứng thú và tích cực suy nghĩ, tìm tòi phương pháp giải khác cho  bài toán, tạo ra được các tình huống bất ngờ thú vị làm  tiết học trở nên nhẹ nhàng, sôi  nổi, thú vị  và bớt căng thẳng hơn, làm cho học sinh cảm thấy hứng thú hơn với việc   học Toán, đồng thời nâng cao năng lực, phát triển trí tuệ và óc sáng tạo cho học sinh. Để giúp học sinh nắm vững kiến thức một cách sâu và rộng trong quá trình giải  bài tập Toán, nắm được nhiều phương pháp giải Toán khác nhau, giáo viên có thể linh  động đưa ra các dạng toán và phương pháp giải dạng toán đó, sau đó vận dụng kiến   thức đã học hoặc mở  rộng thêm kiến thức khác để  giúp học sinh giải dạng toán đó  bằng nhiều cách khác nhau. Việc giải một bài toán bằng nhiều cách khi dạy học Toán  không chỉ có hiệu quả cao trong tất cả các cấp học mà còn vận dụng được trong nhiều  môn học khác nhau. Để  học sinh THCS nói chung và học sinh lớp 7 nói riêng có thể  hiểu sâu và nắm vững kiến thức từ đó áp dụng vào giải bài tập Toán, nắm được nhiều  phương pháp giải Toán khác nhau, giúp cho học sinh  cảm thấy việc học nhẹ nhàng và   có hiệu quả  hơn, có hứng thú với việc học toán hơn, nâng cao năng lực, phát triển trí   tuệ  và óc sáng tạo cho học sinh, đồng thời cũng là để  rèn luyện, nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nên tôi xin trao đổi một số  kinh nghiệm:  “Kinh  nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 7 giải một số bài toán bằng nhiều cách”. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô và các   bạn đồng nghiệp để sáng kiến này được hoàn thiện, mang lại hiệu quả cao hơn trong   dạy học Toán ở trường THCS. 3
  4. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: Nghiên cứu về các phương pháp giải bài toán bằng nhiều cách khi dạy học Toán   lớp 7 nhằm giúp học sinh khắc sâu và nắm vững kiến thức tổng hợp, phong phú để  vận dụng vào việc giải bài tập Toán theo nhiều các khác nhau. Tạo niềm say mê, hứng   thú học Toán của học sinh, đồng thời nâng cao năng lực, phát triển trí tuệ  và óc sáng  tạo cho học sinh. Đưa ra các một số  phương pháp để  giáo viên và học sinh có thể  áp dụng trong  việc giải một bài toán theo nhiều cách khác nhau nhằm nâng cao chất lượng giáo dục   và hiệu quả  giảng dạy, phát huy được tính tích cực, chủ  động và sáng tạo của giáo   viên cũng như của học sinh trong quá trình dạy ­ học môn Toán 7. Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ  của bản thân, làm tài liệu tham khảo cho   đồng nghiệp. Giúp đồng nghiệp thấy được sự  quan trọng của việc giải một bài toán   bằng nhiều cách khi dạy học Toán 7. 3. Đối tượng nghiên cứu:   Một số phương pháp giải khác nhau đối với một số dạng toán 7. 4. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về một số phương pháp giải khác nhau đối với một số dạng toán 7   ở trường THCS Nguyễn Lân. 5. Phương pháp nghiên cứu: ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tham khảo ý kiến của đồng nghiệp. ­ Phương pháp điều tra, khảo sát, nghiên cứu các sản phẩm hoạt động. ­ Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm. ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 4
  5. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: Toán học là môn trong các môn học có nhiều khả  năng trong việc rèn luyện  phương pháp suy luận khoa học, muốn đạt hiệu quả  cao trong việc dạy và học Toán   thì phải có phương pháp dạy và học tốt. Không có phương pháp tốt, không có hiệu quả  cao. Biết cách dạy Toán và biết cách học Toán, hiệu quả dạy và học sẽ tăng gấp nhiều   lần. Bên cạnh việc giảng dạy của giáo viên thì khi giải các dạng Toán đòi hỏi học sinh  phải nắm vững các kiến thức cơ bản; biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức   từ đơn giản đến phức tạp để có thể giải một bài toán theo nhiều cách khác nhau. Làm cho học sinh nắm được nhiều phương giải khác nhau đối với một bài toán  là vô cùng quan trọng. Vì vậy trong mỗi tiết dạy bài mới, luyện tập, ôn tập, ôn thi học  sinh giỏi giáo viên cần linh động đưa ra các dạng toán với các phương pháp giải khác  nhau một cách sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với đối tượng và tâm sinh lý của học sinh.  Sau khi học xong các em sẽ tự  hệ thống hóa được các kiến thức và các phương pháp  5
  6. giải cần nhớ để áp dụng vào bài tập và vào thực tế, việc học vì thế cũng sẽ nhẹ nhàng   và có hiệu quả  hơn, các em sẽ giải được bài Toán nhẹ nhàng và  nhanh chóng, không   còn thụ động trông chờ vào người khác. Việc đưa ra các dạng toán với các phương pháp giải khác nhau một cách hợp lý  trong phần luyện tập, ôn tập, ôn thi học sinh giỏi sẽ có tác dụng rất lớn trong việc phát   triển tư duy đồng thời gây hứng thú học tập cho HS. Phát triển trí tuệ cho HS lớp 7 qua  bộ  môn Toán là một vấn đề  rất quan trọng, cần được quán triệt trong mọi khâu của  việc giảng dạy Toán: cách đặt vấn đề, nội dung các câu hỏi gợi mở của GV khi giảng   bài, cách GV kiểm tra và nội dung các câu hỏi, bài tập kiểm tra, cách yêu cầu HS phân  tích đề bài, phê phán các câu trả lời, các bài làm có tác dụng rất lớn đến việc giáo dục   tư duy độc lập, sáng tạo, óc phê phán cho HS, giúp các em biết thắc mắc, biết trình bày   lập luận vấn đề một cách chặt chẽ, logic, phát huy khả  năng tìm tòi, nghiên cứu kiến   thức mới... Chính vì thế trong quá trình dạy học Toán, giáo viên cần: ­ Đặt mình vào vị trí của học sinh vì điều quen thuộc với giáo viên có thể là điều   rất mới đối với học sinh. Sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng   học sinh. ­ Tạo ra các tình huống có vấn đề làm xuất hiện ở học sinh nhu cầu nghiên cứu  kiến thức mới, tìm ra các cách giải mới cho một số bài toán. ­ Không dạy theo cách truyền đạt kiến thức một chiều, chọn hệ thống câu hỏi,  bài tập  hợp lý để lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học. ­ Không bỏ  qua mà hãy khai thác ngay câu trả  lời của học sinh để  sửa sai giúp   học sinh khắc sâu kiến thức đồng thời khuyến khích các câu trả  lời tốt, các phương   pháp giải hay, ngắn gọn. ­ Vừa giảng vừa luyện, vận dụng kiến thức là cách tốt nhất để nắm vững kiến   thức. ­ Thường xuyên nghiên cứu tài liệu, sách tham khảo, sách nâng cao, tìm tòi các   phương pháp giải hay cho các bài toán trong quá trình giảng dạy. Không ngừng học hỏi   để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân.   Đây là những vấn đề  không mới, xong trong quá trình giảng dạy, nhiều giáo   viên chưa thực sự chú tâm và chưa khai thác triệt để do đó hiệu quả tiết dạy chưa cao.  6
  7. Trong quá trình giảng dạy Toán, tôi nhận thấy việc đưa ra một số  dạng toán có thể  giải theo nhiều cách khác nhau làm cho tiết học có những tình huống bất ngờ, sinh  động và vui vẻ hơn, tạo được hứng thú học tập cho học sinh, nhờ đó hiệu quả của tiết   dạy cũng tăng lên, khắc sâu được kiến thức cho học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến   thức mới một cách nhẹ nhàng hơn, nhớ  được lâu hơn để  từ  đó áp dụng được vào bài  tập tương tự dễ dàng, biết chọn lựa phương pháp giải hay, hợp lý, ngắn gọn khi giải   một bài toán, phát triển tư duy và khả năng sáng tạo của học sinh. Bồi dưỡng năng lực  tự học, tự nghiên cứ và tìm tòi khám phá kiến thức mới cho học sinh. “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 7 giải một số bài toán bằng nhiều  cách”  sẽ  giúp giáo viên trau dồi được kiến thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả  giảng dạy, giúp  học sinh phát triển tư duy, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo   trong giải Toán, đồng thời giáo dục tư  tưởng, ý thức, thái độ, lòng say mê học Toán  cho học sinh lớp 7. Chính vì lẽ đó, tôi muốn trao đổi cùng quý Thầy cô và các em học  sinh “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 7 giải một số  bài toán bằng nhiều   cách” với mong muốn giúp các em học sinh lớp 7 yêu thích môn Toán hơn qua những   bài toán với nhiều cách giải khác nhau. 2. Thực trạng: 2.1.Thuận lợi, khó khăn: * Thuận lợi: Trong quá trình thực hiện đề  tài, tôi đã được Nhà trường, các Thầy cô, bạn bè  đồng nghiệp của trường THCS Nguyễn Lân giúp đỡ  tận tình và tạo điều kiện thuận   lợi cho việc nghiên cứu, được dự  giờ  một số  giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong   giảng dạy, được tiếp xúc với nhiều đối tượng học sinh khác nhau, trong đó có một số  HS khá giỏi đã biết giải một bài toán theo nhiều cách khác nhau. * Khó khăn: Chưa có nhiều tài liệu viết về phương pháp giải bài toán bằng nhiều cách trong  dạy học Toán 7. Việc đưa ra bài toán với nhiều cách giải khác nhau của một số  giáo   viên trong các tiết dự giờ chưa nhiều nên hầu như nghiên cứu được thực hiện dựa trên   7
  8. kinh nghiệm và tìm tòi nghiên cứu tài liệu của bản thân trong quá trình dạy học Toán 7.  Số học sinh giỏi và đam mê Toán học không nhiều.  2.2. Thành công, hạn chế: * Thành công: Giải bài toán bằng nhiều cách trong quá trình dạy học môn Toán 7 không những  giúp cho học sinh nắm vững kiến thức hơn, hiểu kiến thức sâu và rộng hơn, nắm được   nhiều phương pháp giải toán hơn mà còn tạo ra các tình huống bất ngờ, thú vị làm cho  tiết học nhẹ nhàng và vui vẻ hơn, thu hút được sự chú ý vào bài giảng và tạo hứng thú  học tập cho HS. HS biết chọn lựa cách giải hay, ngắn gọn, hợp lý cho một bài toán. Giải bài toán bằng nhiều cách không chỉ áp dụng đối với môn Hình học, Đại số,  Số học mà ngay cả các môn học khác cũng rất có hiệu quả. Giải bài toán bằng nhiều   cách không chỉ tạo được hứng thú học tập cho học sinh mà còn rèn khả năng sử dụng  ngôn ngữ chính xác, phát triển khả năng tư duy của học sinh.  * Hạn chế: Đưa ra quá nhiều phương pháp giải một bài toán một cách không hợp lý sẽ gây  tâm lý hoang mang cho học sinh, học sinh khá giỏi ít hoặc ngại phát biểu xây dựng bài  vì sợ mình trả lời sai. HS yếu kém thì học thụ động, không biết phải làm như thế nào,   chỉ biết trông chờ vào câu trả lời của người khác. Để giải được một bài toán bằng nhiều cách thì đòi hỏi cả giáo viên và học sinh  đều phải nắm vững kiến thức Toán học một cách sâu và rộng, nắm được phương pháp   giải của nhiều dạng toán khác nhau. Hơn nữa không phải lúc nào việc giải một bài  toán bằng nhiều cách c8ũng có hiệu quả, nếu không áp dụng hợp lý thì càng làm cho  học sinh tiếp nhận kiến thức một cách mơ  hồ  và không biết nên vận dụng kiến thức  nào, cách giải nào để giải bài tập cho phù hợp. Mặt khác không phải bài toán nào cũng  có nhiều cách giải khác nhau để có thể vận dụng. 2.3. Phân tích,  đánh giá thực trạng mà đề tài đã đặt ra: Trong quá trình dạy học Toán tôi nhận thấy có rất nhiều học sinh bị hổng kiến   thức, nhiều em chưa nắm vững được các kiến thức cơ bản cần thiết. Chính vì thế các   em cảm thấy thực sự  khó khăn khi học Toán, tâm lý e ngại, dẫn đến tư  tưởng lười   8
  9. học, lười suy nghĩ, thiếu tự  tin, sợ học môn Toán. Việc giải bài toán theo nhiều cách  không chỉ  khó khăn với học sinh trung bình, yếu, kém mà ngay cả  học sinh khá giỏi  cũng cảm thấy ngại và lười suy nghĩ, tìm tòi để tìm ra cách giải khác. Khi đọc đề  bài  toán, học sinh chưa phân tích được các yếu tố bài toán đã cho, không biết vẽ hình hoặc  vẽ  hình không chính xác, chưa biết sử dụng kiến thức nào, phương pháp nào để  giải   dẫn đến không làm được bài tập. Một số  học sinh định hướng được cách giải khác  nhưng lại không biết cách trình bày bài như thế  nào cho chặt chẽ, logic. Chính vì thế  mà việc giúp HS nắm vững kiến thức, nắm vững được các dạng toán và phương pháp  giải của dạng toán đó để  vận dụng vào làm bài tập và giải quyết các vấn đề  thực tế  cuộc sống, tạo niềm say mê, hứng thú học Toán cho HS là vô cùng quan trọng.  Qua các vấn đề về thực trạng đã nêu ở trên có thể thấy được những thuận lợi,   thành công và mặt mạnh của việc giải bài toán bằng nhiều cách trong dạy học Toán 7,  có thể thấy việc giải bài toán bằng nhiều cách trong dạy và học mang lại hiệu quả rất   lớn,  ngoài ra nó còn có tác dụng giáo dục học sinh về mọi mặt, đặc biệt là rèn tính cẩn  thận, rèn khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, chính vì thế giáo viên thực sự nên kết  hợp việc giải bài toán bằng nhiều cách trong quá trình dạy học môn Toán 7. Tuy nhiên   bên cạnh những mặt tích cực thì việc giải bài toán bằng nhiều cách ở  lớp 7 cũng còn  có những khó khăn, hạn chế  nhất định, nhưng nếu giáo viên thực sự  có tâm và yêu  nghề, ham tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi thì vẫn có thể khắc phục được những khó khăn,   hạn chế và mặt yếu của việc giải bài toán bằng nhiều cách  trong quá trình dạy học. 3. Biện pháp: 3.1. Mục tiêu của biện pháp:  ­ Giúp GV nhận biết được trường hợp nào nên đưa ra bài toán có nhiều cách   giải  khi dạy học môn Toán lớp 7 cho phù hợp để tạo hứng thú học tập cho học sinh và   nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy. ­ Giúp HS nắm vững được bản chất kiến thức, khắc sâu, mở  rộng và nâng cao  kiến thức cho HS, từ đó có thể vận dụng vào giải bài tập từ cơ bản đến nâng cao. ­ Giúp HS tránh được những sai lầm thường gặp khi giải toán, nắm được nhiều  phương pháp giải khác nhau cho một bài toán, biết chọn lựa cách giải hay, ngắn gọn,  9
  10. hợp lý để vận dụng vào giải bài tập, làm cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của   Toán học. ­ Tạo ra các tình huống có vấn đề, khơi dậy trí tò mò, óc sáng tạo, niềm say mê,  hứng thú học tập môn Toán của HS. ­ Tạo ra các tình huống bất ngờ, thú vị, làm tiết học nhẹ nhàng, vui vẻ hơn, tạo  sự thân thiện giữa GV và HS. ­ Phát triển tư duy độc lập sáng tạo, óc phê phán cho HS, giúp các em biết thắc   mắc, biết lật đi lật lại vấn đề, biết tìm tòi, suy nghĩ, rèn kỹ năng vẽ hình và khả năng   sử dụng ngôn ngữ chính xác, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh... 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp: a. Sử dụng bài toán có nhiều cách giải để tạo tình huống có vấn đề:  Trong quá trình giảng dạy, giáo viên thường  tạo ra các tình huống có vấn đề  để khơi dậy trí tò mò và tạo hứng thú học tập cho học sinh khi vào bài mới, kiến thức   mới hoặc chuyển từ  mục này sang mục khác. Trước khi dạy học bài mới,  ở  phần  kiểm tra bài cũ giáo viên có thể đưa ra một bài toán mà học sinh vừa có thể  giải bằng   cách dùng kiến thức đã học vừa có thể  giải bằng cách dùng kiến thức bài mới, sau đó  giáo viên đặt vấn đề để vào bài mới. Bài toán 1: Khi dạy bài “Quan hệ giữa đường vuông góc và đường xiên, đường xiên và  hình chiếu”. Trong phần khởi động tiết học, giáo viên có thể yêu cầu học sinh giải bài  toán: “Cho tam giác ABC vuông tại B, trên cạnh BC lấy điểm D khác B và C. So  sánh AB, AD và AC”. Học sinh vừa được học bài “Quan hệ giữa góc và cạnh đối diện trong một tam   giác” nên sẽ nghĩ ngay đến việc áp dụng kiến thức bài này để giải như sau:  A 1 2 B D C 10
  11. * Cách 1: ∆ ABD vuông tại B nên góc B là góc lớn nhất, mà cạnh AD đối diện với góc B  nên cạnh AD là cạnh lớn nhất   AD > AB (1) ᄊ  là góc nhọn, mà   D ∆ ABC vuông tại B nên  D ᄊ  và  D ᄊ  là hai góc kề bù  ᄊ  tù. D 1 1 2 2 ᄊ  tù nên AC > AD (2) ∆ ACD có cạnh AC đối diện với  D2 Từ (1) và (2)   AC > AD > AB. Sau khi nhận xét, giáo viên yêu cầu học sinh giải theo cách khác. HS cũng đã học  định lý Pi­ta­go nên có thể giải bài toán trên như sau: * Cách 2: ∆ ABD vuông tại B nên theo định lý Pi­ta­go, ta có: AD2 = AB2 + BD2      AB2 
  12. Như vậy, với việc vận dụng kiến thức về “Quan hệ giữa đường vuông góc và  đường xiên, đường xiên và hình chiếu”, cách giải thứ 3 ngắn gọn hơn nhiều. Vấn đề  giáo viên đặt ra đã được giải quyết dựa vào kiến thức bài mới. Bài toán 2: Khi dạy bài “Tính chất của dãy tỉ  số  bằng nhau”. Trong phần khởi động   tiết học, giáo viên yêu cầu học sinh giải bài toán:  x y z “Tìm ba số x, y, z biết:  = =  và x + y – z =14’’ 3 8 4 Học sinh đã học bài tỉ lệ thức nên có thể giải theo cách sau: * Cách 1: x y z x y x z = = � = ; = 3 8 4 3 8 3 4  Từ  8x 4x �y= ; z= (1) 3 3 Ta có: x + y – z =14 (2) 8x 4 x Từ (1) và (2) � x + − = 14 � 3x + 8x − 4x = 42 � 7x = 42 � x = 6   3 3 8 x 8.6 4 x 4.6  Khi đó:  y = = = 16; z = = =8 3 3 3 3 Vậy x = 6; y = 16; z = 8 Trong cách giải này, học sinh phải biết cách tách thành hai tỉ lệ thức để rút y và  z theo x rồi thay vào đẳng thức (2) để đưa về đẳng thức chỉ  chứa một ẩn x,  từ đó có   thể tìm x rồi thay vào (1) để tìm y, z. Học sinh cũng có thể giải bài toán trên theo cách sau : * Cách 2:  x y z Đặt   = = = k � x = 3k ; y = 8k ; z = 4k  (1) 3 8 4 Ta có:  x + y – z =14 (2) Từ (1) và (2)  3k + 8k ­ 4k = 14 7k = 14  k = 2 Khi đó: x = 3k = 3.2 = 6 ;   y = 8k = 8.2 = 16;   z = 4k = 4.2 = 8  Vậy x = 6; y = 16; z = 8 12
  13. Trong cách giải này, học sinh phải nắm được khi các tỉ số bằng nhau thì chúng   có cùng chung một giá trị, vì thế có thể đặt giá trị chung của các tỉ số là k để rút x, y, z  theo k rồi thay vào (2) để đưa về đẳng thức chỉ chứa một ẩn k,  từ đó có thể tìm k rồi   thay vào (1) để tìm x, y, z. Sau khi nhận xét cách giải của học sinh, giáo viên đặt vấn đề: Bài toán trên còn  có thể giải theo cách nào khác không? Ta cùng tìm hiểu trong bài hôm nay. Câu hỏi này  sẽ khơi dậy trí tò mò của học sinh, để trả lời được câu hỏi này học sinh phải chú ý để  nắm được kiến thức của bài mới. Sau khi học xong   bài “Tính chất của dãy tỉ  số  bằng nhau”, giáo viên yêu cầu  học sinh giải lại bài toán ở phần đặt vấn đề. Khi đó học sinh sẽ dễ dàng nhận thấy có   thể giải bài toán trên bằng cách áp dụng tính chất của dãy tỉ số bằng nhau như sau :  * Cách 3 : Áp dụng tính chất của dãy tỉ số bằng nhau ta có : x y z x + y − z 14 = = = = =2 3 8 4 3+8−4 7 x = 2 � x = 2.3 = 6 3 y = 2 � y = 2.8 = 16   8 z = 2 � z = 2.4 = 8 4 Vậy x = 6; y = 16; z = 8 Với cách thứ 3, học sinh sẽ cảm thấy dễ nhớ và dễ áp dụng hơn khi giải dạng   toán trên.       :  Cho   ∆ ABC, có   ᄊA = 1000 , C  Bài toán  3 ᄊ = 300 . Trên cạnh AC lấy điểm D sao cho  ᄊ D = 100 . Vẽ đường phân giác của góc BAD cắt BC tại E. Chứng minh rằng AE   CB là đường trung trực của đoạn thẳng BD. * Cách 1:    Học sinh đã được học định nghĩa đường trung trực của một đoạn thẳng, các  trường hợp bằng nhau của hai tam giác, tam giác cân nên có thể chứng minh AE vuông   góc với BD tại trung điểm của BD bắng cách chứng minh  ∆ ABD cân tại A suy ra AB  13
  14. =AD. Gọi I là giao điểm của AE và BD. Chứng minh  ∆ AIB =  ∆ AID, từ đó suy ra IB =  ID và  ᄊAIB = 900 , suy ra AE là đường trung trực của đoạn thẳng BD. Giải:  A 40 D I 40 30 B 10 C E ∆ ABC, có  ᄊA = 1000 , C ᄊ = 300  nên  B ᄊ = 1800 − ᄊA − C ᄊ = 1800 − 1000 − 300 = 500. Lại có  CB ᄊ D = 100 � ᄊABD = ᄊABC − CB ᄊ D = 500 − 100 = 400 Mặt khác góc ADB là góc ngoài tại đỉnh D của  ∆ BCD  nên  ᄊADB = CB ᄊ D+C ᄊ = 100 + 300 = 400 � ᄊABD = ᄊADB � ∆ ABD cân tại A   AB = AD. Gọi I là giao điểm của AE với BD Xét  ∆ AIB và  ∆ AID có: ᄊ B = IᄊAD (gt), AI là cạnh chung AB =AD (cmt),  IA ∆ AIB =  ∆ AID (c.g.c)  IB = ID  (1) (2 cạnh tương ứng);  ᄊAIB = ᄊAID (2 góc tương ứng) Ta lại có:  ᄊAIB + ᄊAID = 1800 (kb)   � ᄊAIB = ᄊAID = 1800 : 2 = 900 � AI ⊥ BD tại I (2) Từ (1) và (2)   AE là đường trung trực của đoạn thẳng BD . * Cách 2:  14
  15. A 40 D I 40 30 B 10 C E Chứng minh A và E cách đều B và D. Trong bài toán này, để chứng minh AB =   AD, EB = ED, ta chưa thể chứng minh  ∆ AEB =  ∆ AED vì chưa đủ yếu tố bằng nhau,  trong trường hợp này ta có thể chứng minh   ∆ ABD cân tại A để suy ra AB = AD bằng   cách chứng minh  ᄊABD = ᄊADB (tính số  đo hai góc này dựa vào tính chất tổng ba góc và  tính chất góc ngoài của một tam giác rồi so sánh hai góc). Để chứng minh EB = ED, ta   chứng minh  ∆ AEB =  ∆ AED.  Giải: ∆ ABC, có  ᄊA = 1000 , C ᄊ = 300  nên  B ᄊ = 1800 − ᄊA − C ᄊ = 1800 − 1000 − 300 = 500. Lại có  CB ᄊ D = 100 � ᄊABD = ᄊABC − CB ᄊ D = 500 − 100 = 400 Mặt khác góc ADB là góc ngoài tại đỉnh D của  ∆ BCD  nên  ᄊADB = CB ᄊ D+C ᄊ = 100 + 300 = 400 � ᄊABD = ᄊADB � ∆ ABD cân tại A   AB = AD. Xét  ∆ AEB và  ∆ AED có: AB =AD (cmt),  EA ᄊ AD (gt), AE là cạnh chung ᄊ B=E ∆ AEB =  ∆ AED (c.g.c)  EB = ED (2 cạnh tương ứng) Ta có: AB = AD nên A thuộc đường trung trực của BD  (1)             EB = ED nên E thuộc đường trung trực của BD  (2) Từ (1) và (2)   AE là đường trung trực của đoạn thẳng BD. Với cách 2 này thì giáo viên có thể  sử  dụng bài toán trên để  tạo tình huống có  vấn đề   khi dạy bài “Tính chất đường trung trực của một đoạn thẳng”. Sau khi học  sinh nắm được định lý đảo “Điểm cách đều hai đầu mút của một đoạn thẳng thì nằm   trên đường trung trực của đoạn thẳng đó” thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh giải bài  15
  16. toán trên, như  vậy học sinh sẽ  nắm kiến thức vững hơn và biết cách vận dụng kiến  thức vừa học để giải bài toán trên theo cách khác. * Cách 3: Dựa vào tính chất: “Trong một tam giác cân, đường trung tuyến  ứng với cạnh   đáy  đồng thời đường trung trực của tam giác”. Tức là cần chứng minh  ∆ ABD cân tại  A. Gọi I là giao điểm của AE và BD. Ta chứng minh AI là đường trung tuyến ứng với   cạnh đáy BD, từ đó suy ra AI hay AE là đường trung trực của đoạn thẳng BD. Giải: A 40 D I 40 30 B 10 C E ∆ ABC, có  ᄊA = 1000 , C ᄊ = 300  nên  B ᄊ = 1800 − ᄊA − C ᄊ = 1800 − 1000 − 300 = 500. Lại có  CB ᄊ D = 100 � ᄊABD = ᄊABC − CB ᄊ D = 500 − 100 = 400 Mặt khác góc ADB là góc ngoài tại đỉnh D của  ∆ BCD  nên  ᄊADB = CB ᄊ D+C ᄊ = 100 + 300 = 400 � ᄊABD = ᄊADB � ∆ ABD cân tại A   AB = AD. Gọi I là giao điểm của AE với BD Xét  ∆ AIB và  ∆ AID có: ᄊ B = IᄊAD (gt), AI là cạnh chung AB =AD (cmt),  IA ∆ AIB =  ∆ AID (c.g.c)  IB = ID (2 cạnh tương ứng) ∆ ABD cân tại A, có AI là đường trung tuyến  ứng với cạnh đáy BD nên AI là đường  trung trực của đoạn thẳng BD. Suy ra AE là đường trung trực của đoạn thẳng BD. Với cách 3 này thì giáo viên có thể  sử  dụng bài toán trên để  tạo tình huống có  vấn đề khi dạy về “Tính chất của tam giác cân” trong bài “Tính chất ba đường cao của  tam giác”. Sau khi học sinh nắm được tính chất của tam giác cân thì giáo viên có thể  16
  17. yêu cầu học sinh giải bài toán trên, như  vậy học sinh sẽ nắm kiến thức vững hơn và   biết cách vận dụng kiến thức vừa học để giải bài toán trên theo cách khác nữa. b. Sử  dụng bài toán có nhiều cách giải để  mở  rộng, nâng cao kiến thức cho học   sinh: Trong quá trình giảng dạy, và bồi dưỡng học sinh giỏi, việc mở rộng và nâng  cao kiến thức đã học nhằm phát triển tư  duy, phát huy tính độc lập, sáng tạo và  bồi  dưỡng năng lực tự học cho học sinh là vô cùng quan trọng. Chính vì thế giáo viên cần  phải tìm tòi, nghiên cứu để  tìm ra các phương pháp giải hay cho một bài toán. Trong   các tiết luyện tập, ôn tập, bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên khéo léo chọn lựa, cho   học sinh làm một số  bài toán có thể  giải bằng nhiều cách. Trong đó học sinh có thể  dùng kiến thức và phương pháp giải đã học để  giải bài toán. Sau khi giải xong, giáo   viên yêu cầu học sinh giải bài toán đó theo cách khác. Điều đó sẽ tạo yếu tố bất ngờ,   thú vị, kích thích trí tò mò và phát huy khả  năng sáng tạo của học sinh. Học sinh sẽ  cảm thấy rất hứng thú và say mê học Toán khi phát hiện ra các cách giải mới cho một  bài toán mà mình chưa biết. Bài toán 1: Tính giá trị  của đa thức P(x) tại x = 11 với  P(x) = x17 ­ 12x16 + 12x15 ­  12x14 + ... + 12x – 1 * Cách 1: P(11) = 1117 – 12.1116 + 12.1115 – 12.1114 + ... + 12.11 – 1 = 1117 – (11+1).1116 + (11+1).1115 – (11+1).1114 + ... + (11+1).11 – 1 = 1117 – 1117 – 1116  + 1116 + 1115 – 1115 – 1114 + ... + 112 + 11 – 1 = 11 – 1 = 10 Vậy P(11) = 10  Khi gặp dạng toán tính giá trị  đa thức một biến đã thu gọn, thông thường học  sinh sẽ thay ngay giá trị của biến vào đa thức rồi thực hiện phép tính. Tuy nhiên trong  cách giải này, hầu hết học sinh chỉ  dừng lại  ở  bước thay giá trị  rồi không biết phải  thực hiện phép tính như thế nào, vì thế giáo viên thường phải gợi ý tách hết các số 12   thành tổng 11 + 1 rồi tiếp tục sử dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép   17
  18. cộng để  thực hiện phép tính, học sinh sẽ thấy ngay được kết quả sau khi rút gọn các   hạng tử đối nhau.  * Cách 2:  Thay 12 bằng x + 1, ta có: P(x) = x17 – (x + 1)x16 + (x + 1)x15 – (x + 1)x14 + ... + (x + 1)x – 1 = x17 – x17 – x16  + x16 + x15 – x15 – x14 + ... + x2 + x – 1 = x – 1 Khi đó :  P(11) = 11 – 1 = 10  Trong cách giải này, ta có thể thay hết các số 12 thành tổng  x + 1 rồi tiếp tục sử  dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng, sau đó thu gọn đa thức  trước khi tính giá trị. Mấu chốt của cách giải này là  ở  chỗ  học sinh phải phát hiện   được x.xn­1 = xn và xn ­ xn = 0. * Cách 3 :  Ta có: x = 11 nên x – 11 = 0 Do đó :  P(x)  = x17 – 11x16  –  x16 + 11x15 + x15 – 11 x14 – x14 + ... + 11x + x – 1 = (x – 11)x16 – (x – 11)x15 + (x –11)x14 – ... – (x –11)x + x – 1 = x – 1 Khi đó :  P(11) = 11 – 1 = 10  Trong cách giải này, ta có thể tận dụng ngay giá trị x = 11 nên x – 11 = 0 để  thu gọn đa thức  bằng cách tách các hạng tử   rồi đặt thừa số  chung để  làm xuất   hiện các thừa số x – 11.     Tính A = (­1).(­1)2.(­1)3 ... (­1)2015.(­1)2016  Bài toán  2: * Cách 1:  A = (­1).(­1)2.(­1)3 ... (­1)2015.(­1)2016 = (­1)1+2+3+...+2015+2016 = (­1)2017.2016:2 = (­1)2017.1008 = 1 Trong cách giải trên ta có thể  sử dụng công thức tính tích các lũy thừa cùng cơ  số ­1 sau đó áp dụng công thứ tính tổng dãy số cách đều để tính số mũ của thừa số ­1. * Cách 2:  A = (­1).(­1)2.(­1)3 ... (­1)2015.(­1)2016     = (­1).1.(­1).1.(­1) ... (­1).1       (có 2016 thừa số trong đó có 1008 thừa số ­1) 18
  19.     = 1 Trong cách giải này ta có thể  tính lũy thừa của từng thừa số  sau đó tính xem  trong tích có bao nhiêu thừa số ­1 để suy ra kết quả.  Để giải được bài toán theo hai cách trên thì học sinh phải nắm được công thức  (­1)2n = 1 và (­1)2n+1 = ­1 với n N *   Bài toán 3: Cho tam giác ABC. D và E lần lượt là trung điểm của các cạnh AB và   1 AC. Chứng minh rằng: DE // BC và  DE = BC . 2 A * Cách 1: Trên tia đối của tia ED lấy điểm M sao cho EM =  E M D 1 1 2 ED. Xét  ∆ EAD  và  ∆ ECM có:  1 2 ᄊ =E EA = EC (gt),  E ᄊ (đđ), ED = EM (theo cách vẽ) B C 1 2   ∆ EAD  =  ∆ ECM (c­g­c)  AD = CM (2 cạnh tương ứng);  ᄊA = C ᄊ (2 góc tương ứng) 1 Ta có :  ᄊA = C ᄊ , mà  ᄊA và  C 1 ᄊ là hai góc so le trong  1  AD // CM  ᄊ DC = MC B ᄊ D (hai góc so le trong ) Xét  ∆ BDC  và  ∆ MCD có:  ᄊ DC = MC BD = MC (= AD) ,  B ᄊ D (cmt), DC chung.   ∆ BDC  =  ∆ MCD (c – g – c) ᄊ =C  BC = DM (2 cạnh tương ứng);  D ᄊ (2 góc tương ứng) 1 2 ᄊ =C Ta có :  D ᄊ , mà  D ᄊ và  C ᄊ là hai góc so le trong   DE // BC 1 2 1 2 1 1 Vì  DE = DM  mà DM = BC  � DE = BC . 2 2 1 Vậy  DE // BC và  DE = BC . 2 19
  20. Để  giải bài toán trên ta có thể  vẽ  thêm yếu tố  phụ  là lấy điểm M trên tia đối  của tia ED sao cho EM = ED để tạo ra các cặp tam giác bằng nhau, từ đó chứng minh   1 được DE // BC và  DE = BC . 2 * Cách 2 : A Trên nửa mặt phẳng bờ  BC có chứa điểm A, vẽ  tia Cx //   x E D 1 N AB.  1 3 2 Trên tia Cx lấy điểm N sao cho CN = AD. 2 1 B C  Xét  ∆ EAD  và  ∆ ECN có:  EA = EC (gt),  ᄊA = C ᄊ (vì AD // CN), AD= CN (theo cách vẽ) 1   ∆ EAD  =  ∆ ECN (c­g­c) ᄊ =E �E ᄊ (2 góc tương ứng); và DE = EN (2 cạnh tương ứng);  1 2 ᄊ +E Mà  E ᄊ = 1800 (kb) nên  E ᄊ +E ᄊ = 1800 1 3 2 3  ED và EN là hai tia đối nhau   D, E, N thẳng hàng. Xét  ∆ BDC  và  ∆ NCD có:  ᄊ DC = NC BD = CN (= AD) ,  B ᄊ D (BD // CN), DC chung.   ∆ BDC  =  ∆ NCD (c – g – c) ᄊ =C  BC = DN (2 cạnh tương ứng);  D ᄊ (2 góc tương ứng) 1 2 ᄊ =C Ta có :  D ᄊ , mà  D ᄊ và  C ᄊ 1 2 1 2 là hai góc so le trong   DE // BC 1 1 Vì  DE = DN  mà DN = BC  � DE = BC 2 2 1 Vậy  DE // BC và  DE = BC . 2 Ngoài cách vẽ thêm yếu tố phụ như cách 1, ta cũng có thể vẽ thêm yếu tố  phụ  là trên nửa mặt phẳng bờ BC có chứa điểm A, vẽ tia Cx // AB. Trên tia Cx lấy điểm N  sao cho CN = AD để tạo ra các cặp tam giác bằng nhau, từ đó chứng minh được DE //   1 BC và  DE = BC . 2 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2