Sơn Ta - Sơn Mài, Phát Triển Hay
Thụt Lùi
Trước khi đi vào vấn đề chính tôi thấy cần bàn đôi chút về khái niệm Sơn Ta
- Sơn Mài. Sơn Ta có nguồn gốc lâu đời, trong xã hội cận đại, Sơn Ta chủ
yếu được dùng sn xuất đồ mỹ nghệ, và trang trí” tượng chùa. Sơni có
xuất xứ từ n Ta. Sau năm 1925 mới có thuật ngữ Sơn Mài.
Thực ra, trong thao tác bản khi làm vóc hay làm tượng phủ sơn đã bao
gmcả Sơn và i, nhưng sơn và mài ở đây là hai quá trình bi đắp và
làm phẳng; Còn khi các sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
(CĐMTĐD) làm tranh lại áp dụng kỹ thuật sơn và mài theo một hướng khác.
Sơn là vẽ, là dkiến, là
đưa ra khả năng phối trợ,
bao gồm dự định phối
hợp của nhiều lớp màu
được chồng đè (kng
tuyệt đối đồng đều về độ
dày mỏng) lên nhau.
Mài, là vẽ, là làm phng,
là tn dụng khả năng
phối hợp (cả ngẫu nhiên
và chủ động) của những
lp màu đã sơn theo d
kiến lúc trước. Với k
thuật như trên, sơn - mài
có ưu thế về chiều sâu,
lrõ thlớp của nhiều
lp màu; khi bức tranh
được đánh bóng thì hiu
quả theo chiều sâu tăng lên rõ rt, không một chất liệu nào sánh kịp.
Ngày nay nhiu họa sĩ thay sơn ta bằng sơn Nhật, thao tác bản cũng bao
gmn và mài như cách vẽ sơn ta, cũng tạo nên hiệu quả lộ màu phía
dưới, nhưng tt và lì màu, không có chiều sâu như cht sơn ta.
NGUYỄN SÁNG. Lớp học đêm. 1960. 80x120cm
Bởi vậy, để nhấn
mạnh sơn mài có
ngun gốc từ sơn
ta và cũng để phân
biệt với n mài sử
dụng chất sơn bóng
của Nht, tôi tạm
đặt gạch nối giữa
hai danh t: sơn ta
-n mài.
Trước năm 1925, nghĩa là trước khi nhóm thanh niên những khóa đầu của
trường CĐMTĐD, đưa sơn ta vào sáng tác hội họa. Đại để sơn ta được s
dụng để sản xuất những đồ “thủ công mỹ nghệ”, và quả thật khi ở trường
Mỹ Thuật, người Pháp chủ trương đào tạo những thợ mỹ nghệ.
Trong công cuộc này, sơn ta được coi như món hàng béo bnhằm khai thác
li nhuận kếch xù cho người Pháp, vic những sinh viên m nghệ trở thành
nghệ sĩ nằm ngoài ý muốn của chính phủ bảo hộ là nhờ ở ng lao rất lớn
của ngài Hiệu trưởng Victor Tardieu. Còn sơn ta được áp dụng làm hi họa
tương truyền nằmng lao khuyến khích và cổ vũ nhiệt tình của ngài
Joseph Inguimberty. Khi sơn ta - sơn mài gặt hái được những kết quả đáng
mừng, dư luận nói chung rất phấn khởi, thì cùng lúc một số tờ báo lúc đó lại
lên tiếng phản đối với luận điệu rằng: sơn ta đang được việc cho mỹ nghệ,
nên để sơn ta chuyên làm đmỹ nghệ, bảng màu của sơn ta quá nghèo nàn,
không đủ sức diễn tả được hiện thực v.v...
Tuy vậy thắng lợi trên nghệ thuật hội họa đã đưa sơn ta - sơn mài vượt át
những ý kiến phản bác.
Sau này trong kháng chiến chống Pháp, xuất phát từ chủ trương “Nghệ thuật
phục vụ công chúng”, “Nghệ thuật tuyên truyền”, Nguyễn Đỗ Cung (người
trước kia hết lời ca ngợi sơn mài) nay cực lực phản đối. Ông cho rằng: “Làm
sơn mài là tự húc đầu vào tường, Nguyễn Gia Trí cũng húc đầu vào
tường...
Lúc này một số họa sĩ lao vào sáng tác sơn mài hoàn toàn có khả năng tả
thực. Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tư Nghiêm cùng nghiên cu thử đưa u xanh
vào sơn mài, mở ra cho chất liệu sơn mài vốn chỉ có son đỏ, sơn then, vàng
lá, bc, trắng, vỏ trứng, nâu hoặc cánh gián... nay có thêm hmàu lạnh.
Bức tranh “Lớp học đêm” của Nguyễn Sáng được thể hiện bằng sơn mài như
một bằng chứng sống động nhất chứng minh sơn mài có đủ khả năng diễn
thực, tả thực.
Vượt qua những mốc khó khăn đó, tiếp theo là giai đoạn sơn mài trên đà
NGUYỄN KHANG. Đánh cá đêm trăng. 1943
phát triển nở rộ với những tìm i, khám phá chất liu phong phú, đa dạng,
tưởng như không
là không làm
được.
Tuy vậy, thắng lợi
của sơn mài trong
hội họa hình như
đã làm chúng ta
choáng ngợp, đi tới
nhận định: sơn ta
trong truyn thống
chỉ dùng sn xuất
đồ mỹ nghệ, sự
xuất hiện của hội họan mài đã đưa sơn ta lên một địa vị mới - địa vị của
nghệ thuật - thật vậy chăng?. Đúng là sơn mài đã khng định thành công v
trí của mình trong sáng tác hi họa, nhưng nếu chỉ vì vậy mà khẳng định như
trên thì hình như trong nhận định ấy có vấn đề nhầm lẫn.
Qulà trước năm 1925, n ta đã từng được dùng để sản xuất nhưng đồ mỹ
nghệ như: Hoành phi, câu đối, tráp quả, khay đĩa và cả những đôi guốc mộc
xinh xắn... ở trong không gian gia đình, vàng, bạc, sơn son lộng lẫy hứa hẹn
một đời sống giàu sang, vương giả. Nhưng khi bước chân qcửa chùa t
cũng vàng, bạc, sơn son ấy giđây rực rỡ, kỳ ảo trong đèn nến phản chiếu
một thế giới tâm linh, đưa hồn ta tạc vào miền cực lạc, không phải nhờ vào
Đẹp vàng son, ngon mật mỡ”; Vàng, bạc, n son giờ đây vứt bỏ cái áo mỹ
nghệ, thay đổi thể chất để sống đời sống tâm linh, thanh tịnh, uy nghiêm
vô biên nâng đỡ m hồn nhiều thế hệ người Việt.
Hãy thử hình dung những tượng Quan âm Nam Hải (Chùa Bút Tháp), Phật
Nhập Niết Bàn (Hà Bắc), tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, nếu tước
bỏ đi lớp áo sơn ta sang trọng lộng lẫy liu còn ginguyên hiu quả thẩm
mỹ? ở đây chất sơn ta hơn bao giờ hết phát huy được đặc tính chất liệu ở
mức cao nhất của nó.
Nhm mắt, tập trung mẫn cảm vào đầu ngón tay rồi lướt nhẹ bàn tay trên b
mặt tượng tròn, chất sơn mát lạnh, trơn hoạt nuột nà s đưa bạn tạm rời bỏ
những ưu phiền đời thường như vị sư già lần tràng hạt, miệng Nam Mô
Phật... bỏ lại cõi thế tục bước vào thế giới m linh!
Mmắt nhìn tượng pht lung linh,ng sâu thăm thẳm như hư không bất
tận, hiệu quả phối trợ giữa chất liu sơn ta trên tượng tròn tưởng chưa bao
giờ được phát huy trở lại ở mặt phẳng không gian hai chiều - tnhững mặt
tranh - của các họa sĩ sơn mài trường Mỹ thuật Đông Dương cho đến hiện
đại.
LÊ QUỐC LỘC. Hội chùa. 1939
Cm hứng nghệ thuật, linh hồn nghệ thuật dân tộc Việt Nam từ Đông Sơn
đến 1925 chủ yếu được thể hiện ở điêu khc, và đây trong giá tr tinh thần
của những tượng phật, tượng tổ, tượng chân dung... không thể phủ nhận
những vai trò rt lớn của chất liệu sơn ta.
Vậy là trước khi có trường M
thuật Đông Dương, trước khi
lp sinh viên đầu tiên nghiên
cứu đưa sơn ta vào sáng tác
hội họa thì sơn ta đã từng có
địa vnghệ thuật vững chắc
trên cơ sở kết hợp chất liệu với
kiến trúc và điêu khắc.
Nói tới sơn ta, thiết tưởng
cũng cần nhắc qua đôi nét sơ
lược về những kỹ thuật mà
ngày nay không còn xuất
hiện... không phải tất cả các
tượng chùa cn đại có phủ n ta đều được làm bằng cốt gỗ. Phần đa các
tượng phật, tượng bà chúa... được làm bng cốt đất phủ sơn. Lại có tượng
hai vị sư chùa Đu, có cốt bằng người thật...
Nói đến cốt đất chúng ta có th liên tưởng đến việc tổ tiên chúng ta - còn sót
li knhiu ngày nay ở những vùng nông thôn nghèo vi cách làm nhà
bằng tường đất đố, hoặc đất nện. Loại tường này không có độ bền như tường
gạch, đá nhưng hợp thủy thổ, tiện dụng và li rẻ tiền.
Tượng đất phủ sơn là giải pháp hết sức độc đáo, phản ánh tài trí trong truyn
thống của dân tộc ta. Khi quan sát những tượng bằng đất phủ sơn, bạn sẽ
nhận thấy vẻ lộng lẫy toát lên không kém gì nhng tượng gỗ phủ sơn. Ngày
nay việc làm tượng như trên không thịnh hành, k như bởi một phần thị hiếu
và nhng tiến bộ kỹ thuật của thời đại, nhưng một phần bởi hình như k
thuật đó đã tht truyền (?). Chưa có công trình khoa học nào nghiên cu để
lrõ công đoạn và kỹ thuật làm tượng bằng cốt đất phủ sơn. Theo phỏng
đoán, đại để, đất sét được luyn kỹ với mùn cưa hoặc vỏ trấu rồi đem nặn
đắp thành tượng đất. Sau đó tiếp tục bồi lên phn thân tượng mấy lớp giấy
bản hoặc giấy dó... tiếp theo là nhng công đoạn tương tự như khi ta làm
tượng gỗ phủ sơn hoặc m vóc để vẽ tranh sơn mài.
Cho đến nay kỹ thuật xử lý tượng hai nhà sư chùa Đậu vẫn hoàn toàn m
mịt... cùng vi hai nhà sư, kỹ thuật xử lý xác, kỹ thut phủ sơn... rồi sẽ rời
bỏ chúng ta để trở về với hư vô vĩnh viễn.
NGUYỄN SÁNG. Kết nạp Đảng ở Điện
Biên Ph. 1963
Lại có những tượng xử lý màu
da thịt bằng những mảng màu
trắng ngần, sâu thẳm... trường
tồn qua thời gian vẫn sáng
ngời. Trong khi bột trắng titan
mà chúng ta dùng trong sơn
mài hiện nay thường trơ lỳ và
xám đi theo thời gian.
Nói qua đôi điều về kỹ thuật
và chất liệu để chúng ta thấy
rằng những điều chúng ta biết
về kỹ thuật, chất liệu sơn ta
truyền thống còn chưa nhiều.
Những gì được xem là thng lợi của sơn mài cũng chưa vượt nổi con mắt
thm mỹ tài tình khi các cụ đưa chất sơn ta lộng lẫy sang trọng, sâu thẳm,
nửa thực nửa hư âm vang như tiếng chuông chùa xóa tan nim tục, phối trợ
trên nhng tượng tròn để ng giá trị, nâng phẩm hạnh tốt đẹp của sơn ta lên
một bậc nữa để rồi trở thành kinh điển.
Khi sơn ta được ứng dụng vào hi họa thì đại để cũng cái kỹ thuật làm vóc
hay làm các lớp áo cho tượng tròn, người họa sĩ dùng sơn cánh gián, sơn
then trn, giằm với son, vỏ trứng, vỏ trai hoặc vàng bạc mà tô u lên
những tấm vóc phẳng hoặc được đắp nổi trội lên một số chi tiết, rồi dùng
đá son mm mài phẳng bề mt...
Thoạt đầu của công cuộc khai thác sơn ta, những tên tuổi như: Nguyễn Văn
Quế, Tạ Tỵ, Phạm Hậu, Mạnh Quỳnh, Nguyn Khang, Lê Quốc Lộc,
Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn... đều góp mt. Phần ln các
tranh giai đoạn này trầm nặng, ckính, hệ thống nét tỉ mỉ, trau chuốt thiên
về chất trang trí. Duy chỉ có Nguyễn Gia Trí vượt trên tất cả... màu sắc được
tự do ngao du cất tiếng hát kể truyện cổ tích... những khung cảnh đời thường
như khóm tre, bụi chuối, hồ sen... giờ đây lung linh huyn ảo bên nhng
lưng ong thoắt ẩn, thoắt hiện... những nét vàng như tự trong sâu thẳm sơn
then bất chợt cao vọi png túng như cánh diều no gió hay khúc hát cao vút
di vào tri xanh... nâng hồn ta hoan hỷ... ngập tràn trong ánh sáng... đó là
thứ ánh sáng của những vùng hư ảo từ sâu thm tâm linh biến đổi thể chất
của vàng bạc, n son chiếu rọi chan chứa thấm đẫm đến người và vật.
Như trên tôi đã nói, trong kháng chiến chống Pháp với tinh thần phục vụ số
đông công chúng, “Nghệ thuật tuyên truyền”, nhiu ý kiến cho rằng sơn mài
không đủ sức tả thực, để phản bác những ý kiến nói trên Tô Ngọc Vân bắt
tay vào nghiên cu tìm cách diễn tả hiện thực qua chất liệu sơn mài. Còn
Nguyễn ng qua tác phẩm “Lớp học đêm” lại khiến tất cả nhưng ai còn
PHAN KAN. Nhmột chiều Tây
Bắc. 1958