Sông nước trong tâm thức người Việt
lượt xem 2
download
Sông nước đã từ lâu trở thành một phần không thể thiếu trong tâm thức và đời sống văn hóa của người Việt. Với hàng ngàn kilômét sông ngòi, kênh rạch, hình ảnh sông nước không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn gắn liền với những truyền thuyết, phong tục và tập quán của dân tộc. Sông nước là biểu tượng cho sự sống, sự gắn bó với thiên nhiên và là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật. Bài viết này sẽ khám phá ý nghĩa sâu sắc của sông nước trong tâm thức người Việt, từ những giá trị văn hóa, tinh thần đến những ảnh hưởng trong đời sống hàng ngày.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sông nước trong tâm thức người Việt
- 50 NGUYỀN THỈ THU TRANG - SÔNG NUỞC TR O N G - phát biểu, chúng tôi chỉ nói đến sông nưóc có liên quan đến nhận thức, tư duy, cách SÔNG NƯỚC ứng xử cũng như biểu hiện tâm hồn, cảm xúc của người Việt từ xưa đến nay. TRONG T Â M THỨC 1. Nước Việt Nam có nhiều con sông lớn nhỏ, rộng hẹp khác nhau nhưng hầu NGƯỜI VIỆT ________________■ như vùng, miền nào cũng có. "Nưốc" trong tiếng Việt còn có nghĩa là Tổ quôc, lãnh NGUYỄN THỊ THU TRANG thổ, quốc gia, đất nưốc... Sông nưốc tồn tại cùng với con người. Với những cư dân lúa ông nưốc từ lâu vẫn là hình ảnh quen nước, nước không chỉ là điều kiện tiên thuộc, dung dị nhất về quê hương, quyết của kinh tế nông nghiệp (nước, phân, bản quán trong lòng mỗi người dân Việt. cần, giông) mà còn là yêu cầu đầu tiên cho Mỏ đầu bài thơ "Tông biệt hành", Thâm mọi sự lựa chọn từ nơi sinh sông đến vị trí Tâm viết: quan trọng n h ất là kinh đô của một nước. Trong một bài viết có tên “VỊ thê địa - vãn Đưa người ta không đưa qua sông hóa của Hà Nội nghìn xưa trong bôi cảnh Sao có tiếng sóng ở trong lòng môi sinh lưu vực sông Hồng và cả nưởc Việt Bóng chiều không thắm, không vàng vọt Nam”, cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã vẽ ra Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?... tứ giác nước của Hà Nội trong đó có hai con Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn sông quan trọng: sông trước là sông Nhị và học đã tranh luận và giảng giải rấ t nhiều sông sau là sông Tô. Giáo sư Vượng cũng về khổ thơ hay nhất bài này. Nhìn từ góc cho rằng: "... các cửa ô cơ bản ngày trước độ văn hóa còn thấy thêm rằng "tiếng sóng” của thủ đô Hà Nội đều là cửa nước (đúng dào dạt không phải từ đáy sông mà từ với khái niệm Watergate), ví dụ: Ồ cầ u "trong lòng" ấy chính là tâm thức sông nước Giấy nằm ở ngã ba Tô Lịch - Kim Ngưu...", có sẵn trong mỗi người. Người Việt xưa và tư duy sông nước ấy còn có liên quan cũng như nay, nói tới chia li, cách trở vẫn đến việc hình thành nên những cảng thị hay nghĩ tới hình ảnh dòng sông, con đò, như mặt tiền của cả một vùng duyên hải bến nước... Nghịch lí mà Thâm Tâm đưa ra miền Trung [7:366], Thượng tọa Thích là "không" mà "có" ấy tựa như một điểm Nguyên Đức, trụ trì chùa Hồ Sơn, Tuy Hòa nhấn có giá trị biểu cảm và thẩm mĩ rất cũng cho rằng ngay cả việc dựng chùa, đặc trưng cho tâm hồn dân tộc. Người ra đi, tưởng như chỉ cần chọn nơi hẻo lánh, "thâm dù không qua sông vẫn nghe âm vang sóng sơn cùng cốc" để th u ậ n tiệ n cho việc tu vỗ và dòng sông không có ấy, qua ngôn ngữ hành, nhưng thực ra yếu tô' nưổc vẫn được thơ, thực sự đã chảy trong tâm hồn người tính đến đầu tiên. Suối nước, giếng nước đọc. nhà chùa thường rấ t trong và ngọt và Nói tới sông nước trong tâm thức của không chỉ có trong văn chương của Nguyễn người Việt là đề cập tới khá nhiều vấn đê' Tuân [5], Trong nhận thức của người Việt, liên quan: điểu kiện địa lí, môi trường sông, sự hiện hữu của sông nước khẳng định sự tiến trình lịch sử, đặc điểm dân tộc và tồn tại của sự sông, hay nói khác hơn, giá phong tục, tập quán V.V.. Trong giới hạn trị của nước chính là đem lại cuộc sông cho của một bài viết ngắn cũng là một ý kiến con người. Nước dồi dào, cây côi xanh tươi,
- TCVHDG s ó 3/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 51 mùa màng sung túc; sông cạn, nước khô có nhận như một lẽ tấ t yêu của tự nhiên. nghĩa là sự sống đang cạn kiệt, đang bị hủy Chuyện “Sơn Tinh - Thủy Tinh” dù có thừa diệt. Dần dần, từ tự nhiên tồn tại khách nhận thần núi thắng thần nước, nưởc dù có quan, nước hiện hữu, chi phối nhận thức và dâng cao mấy cũng không ngập núi được, cách ứng xử trong mỗi con người. Sông nhưng hằng năm lũ lụt vẫn xảy ra vì Thủy nước là dòng chảy bất tận của thời gian (Dù Tinh vẫn nhở mốì thù xưa và Thủy Tinh cho sông cạn, đá mòn...)-, là sự xác định giới vẫn là một vị thần mang tính cách người, hạn về không gian (Đôi ta cách một con hành xử như là một người bình thường. Sự sông...), là nguồn cội thiêng liêng (ưô'ng giận dữ của tự nhiên đối với con người nước nhớ nguồn), là niềm tin trong cuộc phần lốn là do con người đã không tôn sông (Có nước, có cá / Sông có khúc, người trọng nó. Điều này còn được thể hiện rấ t ấn có lúc), là đạo đức và cách hành xử (Thác tượng qua nhiều truyện ngắn của Bình trong hơn sống đục / Chớ thấy sóng cả mà Nguyên Lộc như truyện “Bà Mọi hú”, ngã tay chèo)... Những tính chất: lỏng, truyện "Câu dầm"... Trong truyện “Bà Mọi mềm, trong, linh hoạt, liên kết không có hú”, nhà văn Bình Nguyên Lộc lí giải vùng ranh giới, truyền nhiệt, dễ bốc hơi... của ruộng rừng phía tây Hồ Nai - Biên Hòa nước dường như đều có ảnh hưởng đến tính luôn khô cạn là do Bà Mọi linh thiêng giận cách của người Việt. Đó cũng là hệ quả tấ t đồng bào Kinh phá rừng nên đã bịt tắ t yếu từ mối quan hệ giữa con người vởi tự dòng nưởc. Tiếng hú tuyệt vọng, đau đớn nhiên. của người đàn bà rừng rú mà thần thánh ấy vang vọng, là lời nhắc nhở mọi người về Khi nói đến hệ giá trị trong văn hóa cách ứng xử với tự nhiên, vê việc cần bảo vệ truyền thống của người Việt, PGS. Chu nguồn nước. Truyện “Câu dầm” cũng vậy, Xuân Diên lưu ý rằng: "Trong mối quan hệ thông qua chuyện báo ứng hoang đường giữa con người với tự nhiên, người Việt phụ của ông Ba, hệ quả tấ t yếu của chuyện vét thuộc vào tự nhiên, nương nhờ tự nhiên hơn sạch cá ở sông suôi, ao hồ th ậ t khủng khiếp là chiếm lĩnh, làm chủ tự nhiên. Khuynh và con người phải hứng chịu lấy. Câu cá là hướng đó trong ý thức th ể hiện thành sự tôn thú vui, là để kiếm sông nhưng xét ở góc độ trọng, sự sùng bái tự nhiên, trong hành cân bằng sinh thái, nếu câu triệt để thì môi động thể hiện thành những sự lựa chọn có trường sông nưởc sẽ bị hủy diệt. tính chất thích nghi với tự nhiên, tận dụng sức tự nhiên hơn là chinh phục tự nhiên, Nam Bộ là vùng sông nước vì có tới dùng sức người thay th ế tự nhiên, trong 57.000km đường kênh rạch, sông nước sinh hoạt thể hiện thành lối sôhg hòa hợp, [2:313], Cũng như Bình Nguyên Lộc, nhà hòa mình với tự nhiên, gắn bó với môi văn Sơn Nam là cây bút của sông nước trường tự nhiên..." [2:256-257]. Người Việt miền Nam. Tác phẩm của ông không chỉ từ xa xưa đã sông hòa vối sông nưởc đến khai thác văn hóa sông nưổc Nam Bộ làm mức coi sông nước n h ư người. Cách đ ặ t tên để tài, bô’i cảnh dựng truyện mà còn thể sông phổ biến ở cả nước là: sông Cái, sông hiện rấ t đặc th ù ngôn ngữ, nhận thức và Con, sông Cả... cũng thể hiện một mối quan cách ứng xử của người miên Nam trong môi hệ rất thân tình, rấ t gia đình của con người trường và cuộc sông sông nước. Đọc “Mùa với tự nhiên. Sông nước cho dù có lúc làm "len" trâu ”, “Một cuộc biển dâu”, “Bắt sấu nguy hại hay gây khó khăn cho cuộc sống rừng u Minh hạ”, “Con Bảy đưa đò”... của con người thì con người cũng biết chấp Sơn Nam sẽ nhận ra cá tính người miền
- 52 NGUYỀN THỈ THU TRANG - SÔNG NUÓC TR O N G - Nam trọng nghĩa, hào sảng, dễ dãi... thể giác "bèo dạt, mây trôi" hoặc "lênh đênh hiện trong sự gắn kết với nưóc: ruộng ngập mặt nước" như miền Nam và miền Bắc. Có nước, trồng lúa nưóc, tôm cá rắn rùa... là chăng người ta sợ những con "ma gia", oan thức ăn có sẵn dưới nước, nhà trên nưóc, hồn của những người chết nưốc, thỉnh chợ trên nước, đi lại trên nước bằng ghe, thoảng lại hiện lên đòi những người khác là xuồng, coi hát trên nước, đua ghe trên "họ Lê, họ Nguyễn, họ Trần..." th ế mạng. sông, nhân duyên trên nước; thậm chí con Mặt khác, Phú Yên cũng như các tỉnh trâu, con chuột cũng biết bơi và người chết duyên hải miền Trung, vì có m ặt tiếp giáp vào mùa nước thì đành an táng bằng cách với biển Đông nên trong sự nhận thức con dìm xác dưới nước... người, biển mới là biểu tượng hùng vĩ, vững 2, Như vậy, sông nước vừa là hình ảnh bền của tự nhiên. Người dân hay "ngó ra chung của đâ't nước vừa rấ t cá biệt, vừa là ngoài biển..." và rấ t nhiều câu ca dao bắt tự nhiên khách quan vừa thể hiện tính bản đầu bằng cụm từ "ngó ra" như vậy. Sinh địa, sự khác biệt của văn hóa mỗi vùng hoạt văn hóa gắn với biển có phần lấn át miền. Những con sông đều giống nhau ở văn hóa sông nưổc. Phú Yên không có một dòng nước chảy giữa hai bờ, nhưng sông lượng từ ngữ lớn gắn liền với sinh hoạt Hồng khác với sông cử u Long và càng khác sông nước như phương ngữ Nam Bộ nhưng với những con sông ngắn mà dốc, chạy từ cũng có một hệ thống ngữ nghĩa khá đa miền núi phía Tây đổ xuống biển Đông ở dạng thể hiện nếp sinh hoạt, tư duy của khúc ruột miên Trung... người dân vùng biển, đặc biệt là có hiện Theo tài liệu [4:90], tỉnh Phú Yên có tượng biến âm địa phương ở những làng khoảng 50 con sông có chiều dài trên 10km, ven biển. Nhiều người tự giải thích đó là do trong đó phần lớn là các sông ngắn từ 10 nguồn nưốc hay cho đó là dân biển "ăn đến 50km. Mật độ sông ngòi khá dày, trung sóng, nói gió" và sóng gió, muôi biển làm bình là 0, 5km/km2, nhưng vào mùa nắng cứng tiếng nói của họ. T hế nhưng, như một kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8, 9 nhiều sự tiếp nối truyền thông, người dân vẫn giữ sông, suối hầu như đều cạn kiệt nước. tục cúng giếng, cúng sông và trên mâm Nguồn nước cung cấp chủ yếú là nước mưa cúng sóc vọng, cúng nhà mới, bao giờ cạnh và có từ 70 đến 80% lượng nước tập trung hai món gạo, muôi căn bản cũng có chai vào mùa mưa, gây nên hiện tượng ngập, lụt hoặc chén nước trong. Trước mỗi nhà là thường xuyên. Trong kí ức của người dân, một vò nưởc giếng. Vò làm bằng đất nên mưa lụt và nắng hạn đểu đáng sợ và đều mùa hè nước không nóng mà mùa đông liên quan tới nước Trời. Người nông dân nước cũng không lạnh. Ai đi ngang qua, thường cầu khấn "Lạy trời mưa xuống / Lấy nếu khát, cũng có thể ghé vô múc gáo nước nước tôi uống...". Mưa nhiều, mưa ít cũng uống. Bên cạnh vò nước thường có một là do đấng quyền năng này "Ông không tha, chậu đất trồng hành, trồng hẹ hay trồng bà không tha. Trời cho cày lụt hai ba tháng rau. Nước uống còn dư trong gáo là để tưói mười...". Con người th ậ t khiêm nhường, vì cho chậu rau ấy. Nhà văn Võ Hồng còn kể cầu mong nên mọi sự ban phát dù quá một chuyện hà tiện, "để dành" nước rất đáng, dù làm hại người xin, vẫn được coi đó đáng yêu của người miền Trung: Một bà cụ là của "cho", của Trời. Sông nước cũng thấy trời mưa đem hết ang, thau, chậu không đủ rộng, đủ dài để con người có cảm trong nhà ra hứng nước mưa, tới khi cần
- TCVHDG SÓ 3/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 53 cái thau lớn mà đổ nưóc đi thì tiếc nên bà hứng du lịch và nhiều ý tưởng khác cho khệ nệ bưng thau nước mưa đổ lại xuống cuộc sông. Trong mỗi người chúng ta vừa có giếng! những con sông cụ thể mà ta gắn bó vừa có Trăm sông đều đổ ra biển cả nhưng những con sông bắt nguồn từ sự tiếp nhận sông vẫn có đời của sông, biển vẫn sông đời văn hóa (qua văn chương, hội họa, âm của biển. Chỗ gặp gỡ là cửa biển, là vùng nhạc...). Đi lên vùng Tây Bắc, hay là chưa nước "xà hai" mặn ngọt pha trộn như là từng đến đây nhưng khi nhắc đến tên sông một kiểu vừa tranh chấp vừa hòa hợp tạm Đà, thê nào bạn cũng hình dung bằng hình thời. Văn hóa các tỉnh ven biển miền Trung ảnh Nguyễn Tuân miêu tả "Con sông Đà với mặt tiền là biển, m ặt hậu là núi cũng tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc giông như một vùng nước "xồ hai", có sự chân tóc ăn hiện trong mây trời Tây Bắc giao thoa mạnh mẽ, thú vị so với hai đầu bung nở hoa ban, hoa gạo..." [6:161], Văn Nam và Bắc của đất nước. Biển dù rộng chương, nghệ th u ật đôi khi làm cho nhiều lớn, đem lại nhiều lợi ích cho con người thì sự vật rấ t tầm thường trở nên lấp lánh, cũng không thay th ế sông suôi được, cũng đáng yêu hơn và hiệu quả mà nó đem lại như nước mặn không thay cho nước ngọt chính là tình yêu đôi với quê hương, là cảm được. Đặc biệt hơn, không dễ gì mất đi xúc trong tâm hồn. Tồn tại một cách bình trong tiềm thức, tâm hồn người Việt hình đẳng và gắn kết với những con sông trên ảnh con sông quê hiền hòa, trong mát. bản đồ địa lí, hành chính của đất nước là những con sông trên bản đồ văn chương, 3. Năm 1948, trong thời kháng chiến nghệ thuật. Sông Đà của Nguyễn Tuân, chông Pháp, Hoàng cầm viết bài thơ “Bên sông Đuống của Hoàng cầm , sông Lấp của kia sông Đuông”, sau đoạn tả con sông vói Tú Xương, sông Trà Bồng của Tế Hanh, dòng nước trong và bờ cát trắng, nhà thơ sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bày tỏ tâm trạng, cảm xúc: "Đứng bên này sông Côn của Nguyễn Mộng Giác, sông sông sao nuối tiếc t Sao xót xa như rụng Phường Lụa của Võ Hồng...; rồi sông Lô, bàn tay...". Chữ "rụng bàn tay" đó quả là sông ĐăKrông, sông Ba, sông Hiền Lương, bất ngờ. Ai cũng có thể nói hay về lòng yêu sông La, sông Mã, sông Tiền, sông Hậu, mến của con người đỗì với quê hương, sông Vàm cỏ Đông... nổi danh trong nhạc, nhưng nói như Hoàng c ầm thì mới cảm trong họa... Có con sông thơ, nhạc và cũng nhận được th ật cụ thể và máu thịt về quê có những con sông lịch sử mãi mãi khắc ghi hương đối với mình. Con sông quê đã như như sông Bạch Đằng, sông cầu , sông một phần thân thể (phần quan trọng, Gianh, sông Bến Hải... Sông nước tự bản không thể thiếu là bàn tay) gắn bó chung thân nó đã là gương m ặt quê hương... trong mỗi con người. Và con sông Đuông hay còn gọi là sông Thiên Đức chảy qua Sông quê, ao làng, giếng nước... là nơi tỉnh Bắc Ninh của Hoàng cầm bỗng trở in hình mây trắng, trời trong, là nơi gần thành một sinh thể có linh hồn, có tâm gũi để gửi gắm biết bao tâm sự, nỗi niềm trạng và thân thiết, gần gũi xiết bao! Từ của người dân quê. Tê Hanh có con sông con sông cụ thể trên những vùng quê khác "xanh biếc" gắn liền với tuổi nhỏ của mình. nhau đã chảy thành sông thơ, sông nhạc... Hai mươi nấm sông xa quê, dòng sông ấy trong văn hóa Việt Nam. Từ văn hóa có liên vẫn "lai láng chảy" từ nỗi nhớ của nhà thơ, quan đến cảm hứng sáng tác, đến cảm và còn tiếp tục hóa thân trong tâm hổn
- 54 NGUYỄN THỊ THU TRANG - SÔNG NUÓC TRONG... hàng triệu người đọc. Có lẽ vì nưóc dễ lây càng lơi lỏng đi, chỉ có số phận chìm nổi của lan và có khả năng hóa giải mọi điều người phụ nữ ngày xưa thì nơi nào cũng gợi chăng? Ngày xưa cô Tấm đi xem hội ngẫu xót xa, thương cảm. Nhiều khi họ phải lấy nhiên đánh rơi chiếc giày xuống nước như câu "phận gái mười hai bến nước” đế tự an gieo cầu hạnh phúc; còn nàng Vũ Thị, vợ ủi mình, hay chỉ biết làm một cái bến tĩnh Trương Sinh, lại bỏ mình theo làn nưởc vì tại, âm thầm chờ đợi: "Thuyền ơi có nhớ bến oan ức, tuyệt vọng. Các cô gái làng ai chẳng chăng / Bến thì một dạ khăng khăng đợi một lần thầm ngắm dung nhan mình qua thuyền". Khi thuyền tình tan vỡ, họ cũng mặt ao, mặt sông, giếng nước hay thậm chí chỉ biết oán trách con đò, dòng nước: "Cha là chum đựng nước... Có biết bao mốì lương mẹ cho em sang chuyến đò nghiêng. Đò duyên kết thành hay tan vỡ từ những lần chùng chiềng đôi mạn em ôm duyên trở gánh nước hoặc qua sông, qua đò. Thi sĩ Hồ về..."... Dzếnh, tác giả của bài “Chiều” nổi tiếng, Sông nước từ xưa đến nay đã chảy chính là kết quả của tình yêu giữa người trong tâm hồn người Việt với biết bao buồn thanh niên Quảng Đông phiêu bạt với cô lái vui của một đời người, với biết bao thăng đò trên sông Ghép (Thanh Hóa). Hồ Dzếnh trầm, đổi thay của thời cuộc. Người chưa nói rằng, nưóc Việt in hình trong thơ của một lần qua sông, qua đò, chưa từng sông ông: cạnh sông nước nhưng nghe câu hò của một Thơ tôi: đê thắm, bướm vàng chàng trai của vùng sông nước phương Con sông be bé, cái làng xa xa... [1:45] Nam: "Hò ơ... Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ Nếu những con sông quê hiền hòa, be / Mùng ai có rộng, cho anh ngủ nhờ một bé chảy xuôi dòng kết nối nên tình yêu quê đêm!" thì cũng thấy rấ t thú vị và tâm hồn hương thì giếng nước và những mặt ao lâng lâng, bắt nhịp... (nhất là ồ vùng đồng bằng Bắc Bộ) chính là Sông nước hóa thành giá trị văn hóa và nơi thể hiện rõ nhất đặc điểm của văn hóa có khả năng làm tươi mới tâm hồn con làng và nếp sinh hoạt trong gia đình người người... Việt. Cái giới hạn cong cong, tròn tròn khép 4. Cuối cùng, cần phải nói rằng sông kín, chật hẹp mà thăm thẳm ấy, luôn chứa nước cũng như tình yêu không phải là vĩnh đựng biết bao chuyện buồn vui của đời viễn, bất biến mà luôn vận động, đổi thay. người. Nhà có đám cưới, nhà có tang ma, có Dù người xưa hay lấy sông núi để thề bồi con nhỏ, có khách, dậy sớm và thức khuya, nhưng vẫn có chuyện "sông cạn, đá mòn" hẹn hò và thề thốt, ồn ào hay lặng lẽ... đều gắn với giếng nước, cầu ao. Người ta trò xảy ra. Câu nói nổi tiếng "Không ai có thể chuyện, chia sẻ, giãi bày, tâm sự hay gây tắm hai lần trên một dòng sông" của học sự nhiều khi từ giếng nước, cầu ao... Nhà giả Heraclite (530 - 470 tr.CN) xem ra vẫn nghiên cứu văn hóa Toan Ánh ví cái ao, cái là nỗi ám ảnh chung cho con người hiện đại giếng đốì với làng quê giống như chén nưốc về bưốc đi của thời gian cùng với sự thay mắm không thể thiếu trong mỗi bữa cơm đổi liên tục của xã hội và thê giói tự nhiên gia đình [1:45]. Diễn trình Nam tiến của trong đó có sông nước. Nhiều giá trị văn hóa người Việt cộng với những điều kiện tự bị mất đi và thay thê bằng những giá trị nhiên khác biệt đã làm cho sự ràng buộc mới. Con người cần kiến th iết những công của "văn hóa làng" càng vào miền trong (Xem tiếp tra n g 45)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ý nghĩa việc nghiên vấn đề bản sắc văn hoá làng xã trong xây dựng nông thôn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
9 p | 584 | 234
-
Những thành tựu đạt được sau 30 năm
4 p | 472 | 112
-
Đề cương kinh tế chính trị - KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
6 p | 2100 | 105
-
Biểu tượng văn hóa của Việt Nam: Hoa Sen
18 p | 213 | 29
-
Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đổi mới hiện nay - 1
7 p | 120 | 14
-
Nàng Han trong đời sống tâm linh dân tộc Thái
4 p | 107 | 11
-
Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam - Trung tướng Đồng Văn Cống
10 p | 89 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn