, 333
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
ĐẾN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
ThS. Đào Vũ Phương Linh1, Lê Mỹ Kim2
(1),(2)Trường Đại học Quy Nhơn
Tóm tắt:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ đã và đang thay đổi bản các điều kiện
kinh tế–xã hội, văn hóa kỹ thuật của tất ccác quốc gia trên thế giới. Với sự phát triển
vượt bậc, khoa học & công nghệ sẽ biến những điều tưởng chừng như không thể trở thành có
thể. Năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản phẩm, dịch vụ tăng lên nhanh chóng trong khi
chi phí thương mại giảm dần sẽ làm tăng doanh thu toàn cầu, thúc đẩy tốc độ và chất lượng
tăng trưởng kinh tế, tạo ra lượng của cải vật chất khổng lcho hội. Đây shội để
các nước đang phát triển nói chung Việt Nam nói riêng thể thu hẹp khoảng cách với
các nước phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam cũng sẽ không tránh khỏi những tác động và thách
thức lớn từ cuộc cách mạng này, đặc biệt đối với thị trường lao động khi khoa học &
công nghệ sẽ trở thành lực lượng lao động trực tiếp xu hướng thay thế con người
nhiều lĩnh vực. Bài viết này với mục tiêu đề cập đến những thách thức mà thị trường lao động
Việt Nam có thể gặp phải trong bối cảnh diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Từ đó, tác
giả đưa ra một số giải pháp nhằm giúp thị trường lao động Việt Nam vượt qua được những
thách thức trước mắt để nắm bắt cơ hội mà cuộc cách mạng này mang lại.
Từ khóa: Cuộc cách mạng 4.0, thị trường lao động, lao động.
1. Vài nét về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Trong lịch sử, nhân loại đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp lớn: Cuộc ch
mạng công nghiệp lần thứ nhất (1760-1840) sử dụng năng lượng nước hơi nước đthực
hiện giới hóa sản xuất; Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ cuối thế kỷ 19,
sử dụng năng lượng điện dây chuyền sản xuất để thực hiện sản xuất hàng loạt; Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu từ những m 1960, sử dụng điện tử công nghệ
thông tin để thực hiện tự động hóa sản xuất. hiện nay, thế giới đang bước vào giai đoạn
đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ lần thứ tư. Theo Klaus Schwab,Chúng ta đang
tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp m thay đổi cơ bản lối sống, phong
cách làm việc cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ tính phức tạp, sự dịch
chuyển này không giống với bất kỳ điều con người từng trải qua. Bản chất của cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số tích hợp tất cả các công
nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ
c động lớn đến quá trình sản xuất như công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,.. Klaus Schwab nhận định, đây là cuộc cách
mạng mà tốc độ đột phá củakhông có tiền lệ lịch sử, nếu so sánh với các cuộc cách mạng
công nghiệp trước đây tcông nghiệp 4.0 đang phát triển nhanh chóng theo hàm số chứ
không phải m tuyến tính, đang phá vỡ cấu trúc của hầu hết các ngành công nghiệp
mọi quốc gia trên thế giới.
Công nghiệp 4.0 tạo ra xu hướng tự động hóa trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản
xuất. Bao gồm các hệ thống mạng vật (IoS), mạng Internet kết nối vạn vật (IoT) điện
toán đám mây. Cuộc các mạng này tạo điều kiện thuận lợi cho việc nh thành các nhà máy
thông minh (hay nhà máy số) với các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình
vật lý và tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo
này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, và thông qua IoS thì người dùng
sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này. Trong nhà máy
, 334
số, các thiết bị máy móc thông minh giao tiếp với nhau bằng hệ thống mạng và liên tục chia
sẻ thông tin về lượng hàng hiện tại, về sự cố, về những thay đổi trong đơn đặt hàng hoặc mức
độ nhu cầu. Quá trình sản xuất thời hạn sản xuất được phối hợp với mục tiêu tăng hiệu
suất và tối ưu hóa thời gian sản xuất, công suất chất lượng sản phẩm trong các khâu phát
triển, sản xuất, tiếp thị và thu mua. Đối với nhà y số, ngoài hạ tầng mạng máy móc thông
minh còn sự ghép nối với hạ tầng các mạng thông minh khác như: mạng thiết bị di động
thông minh, mạng lưới điện thông minh, mạng logicstic thông minh và liên kết đến cả mạng
thương mại điện tử, mạng xã hội .
2. Thị trường lao động Việt Nam
2.1. Cơ cấu lao động của Việt Nam
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá một
chủ trương lớn của Đảng Nhà nước. Qtrình này tất yếu làm thay đổi tỷ trọng lao động
trong c ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, y
dựng dịch vụ giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Bảng 2.1 cho thấy chuyển dịch
cấu lao động tnăm 2000 đến 2016 theo ba khu vực kinh tế: Nông, lâm, thuỷ sản; Công
nghiệp y dựng; Dịch vụ. Đến nay, khu vực Nông, m, thuỷ sản chiếm 41,9% lao động
(giảm 20,3 điểm phần trăm so với năm 2000), khu vực Công nghiệp xây dựng chiếm
24,7% và khu vực Dịch vụ chiếm 33,4%.
Bảng 2.1. Cơ cấu lao động của các khu vực kinh tế
Đơn vị: Phần trăm
Năm Nông, lâm, thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
62,2
60,3
58,6
57,3
56,1
55,1
54,3
52,9
52,3
51,5
49,5
48,4
47,4
46,8
46,3
44,0
41,9
13,0
14,5
15,4
16,8
17,4
17,6
18,2
18,9
19,3
20,0
21,0
21,3
21,2
21,2
21,5
22,8
24,7
24,8
25,1
26,0
26,0
26,5
27,3
27,6
28,1
28,4
28,4
29,5
30,3
31,4
32,0
32,2
33,2
33,4
( Nguồn: 2000-2015: Niên giám thống kê, 2016: Điều tra lao động và việc làm 2016).
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu lao động chia theo vùng và khu vực kinh tế.
, 335
(Nguồn: Tổng cục thống kê - Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2016).
Biểu đồ 2.1 biểu thị tỷ trọng lao động đang m việc chia theo khu vực kinh tế của
từng vùng. Số liệu cho thấy, thành phố Hồ Chí Minh có cơ cấu kinh tế phát triển cao hơn
Nội, với 98,1% lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ. các
khu vực miền núi ven biển, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực Nông, m và thuỷ sản
còn khá cao, con số này ở Tây Nguyên là 72,5%, Trung du miền núi phía Bắc là 64,6% và
Bắc Trung Bộ Duyên hải miền Trung 48,0%. Như vậy, thể thấy tỷ trọng lao động
trong lĩnh vực Nông, lâm, thủy sản vẫn còn khá cao.
2.2. Chất lượng lao động
Theo bản tin tóm tắt chính sách (số 1, năm 2014) được thực hiện bởi Viện Khoa học -
lao động hội Tổ chức lao động thế giới, Việt Nam chưa có lực ợng lao động trình đ
cao với cơ cấu và chất lượng như mong đợi. Chúng ta chưacơ chế đào tạo và sử dụng hợp
để tạo ra động lực cho lực lượng y trở thành trụ cột dẫn dắt nền kinh tế phát triển đúng
hướng. Quy mô, chất lượng lao động trình độ cao nhỏ đồng thời với việc sử dụng lãng phí
nguồn lực quan trọng nhất của đất nước đã khiến cho năng suất lao động hội sức cạnh
tranh của nền kinh tế trở nên yếu kém.
Năm 2014, Việt Nam gần 5,4 triệu lao động trình độ cao, bao gồm 585 nghìn lãnh
đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị (chiếm 10,9% lao động trình độ cao); 3.165 nghìn
lao động chuyên môn kỹ thuật bậc cao (chiếm 58,7%) và 1.638 nghìn lao động chuyên môn
kỹ thuật bậc trung (chiếm 30,4%). Giai đoạn 2009-2014, lao động trình độ cao tăng khá
nhanh, từ 4,5 triệu người n 5,4 triệu người. Trong số lao động trình độ cao, đến gần 1,4
triệu người (tương đương 1/4) không có bằng cấp hoặc chỉ có bằng cấp, trung cấp; người
trình độ đào tạo cao đẳng trở lên chiếm 74,3% lao động trình độ cao. Mặc tăng nhanh
nhưng quy lao động trình độ cao vẫn còn nhỏ so với yêu cầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Với gần 5,4 triệu người, lao động trình độ cao hiện chỉ
chiếm 10,2% tổng việc m cả nước. Giai đoạn 2009-2014, lao động trình độ cao chỉ tăng
bình quân mỗi năm 175 nghìn người, bằng 1/5 mức tăng của tổng việc làm.
Biểu đồ 2.2. Quy mô lao động trình độ cao và tỷ trọng so với việc làm
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Báo cáo Điều tra lao động và việc làm giai đoạn 2009-2014. Số
liệu năm 2014 là số 6 tháng đầu năm)
Mặc dù, chất lượng lao động Việt Nam đã được cải thiện liên tục trong những m
gần đây nhưng nhìn chung tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nước ta vẫn còn thấp. Theo báo
cáo điều tra lao động việc làm năm 2016, trong tổng số 54,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên
thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ có khoảng 11,3 triệu người đã được đào tạo, chiếm
20,9% tổng lực lượng lao động (tăng 10,7 điểm % so với năm 2014). Hiện cả nước có hơn 43
triệu người (chiếm 79,1% lực lượng lao động) chưa được đào tạo để đạt một trình độ chuyên
môn kỹ thuật nhất định. Nvậy, nguồn nhân lực của ớc ta trẻ dồi dào nhưng trình độ
tay nghề và chuyên môn kỹ thuật còn thấp.
So sánh số liệu theo 6 vùng kinh tế - hội ttỷ llao động đã qua đào tạo cao nhất
vùng Đồng bằng sông Hồng (28,9%) thấp nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long
, 336
(12,2%). Tỷ trọng lực ợng lao động có trình độ đại học trở lên khác nhau đáng kể giữa c
vùng. Nơi tỷ trọng này cao nhất vùng Đông Nam Bộ (13,6%). Ngược lại, đồng bằng
sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước, lại là vùng có tỷ trọng lực lượng lao động có trình
độ từ đại học trở lên thấp nhất (5,5%).
Bảng 2.2. Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo
Đơn vị tính: Phần trăm
Nơi cư trú/vùng Tổng số
D
y
Nghề
Trung
cấp
Cao
đẳng
Đ
i h
c
trở lên
Cả nước 20,9 5,0 3,9 2,8 9,2
Nam 23,3 8,0 3,8 2,2 9,2
Nữ 18,4 1,7 4,1 3,4 9,2
Thành thị 37,4 7,4 5,7 4,1 20,2
Nông thôn 13,1 3,8 3,1 2,2 4,1
Các vùng
Trung du và miền núi phía Bắc 17,9 4,0 4,9 2,8 6,1
Đồng bằng sông Hồng 28,9 7,6 4,5 3,6 13,2
Trong đó: Hà Nội 43,1 8,8 6,0 4,2 24,2
Bắc Trung Bộ và DH miền Trung 20,6 4,7 4,4 3,2 8,3
Tây Nguyên 13,6 2,5 3,5 1,9 5,7
Đông Nam Bộ 26,4 6,2 3,5 3,0 13,6
Trong đó: Thành Phố Hồ Chí Minh 34,9 6,7 3,8 3,8 20,6
Đ
ng b
ng Sông C
u Long
12,2
2,6
2,6
1,5
5,5
(*
) S
li
u không bao g
m ngư
i Vi
t Nam hi
n đang cư trú
c ngoài t
i th
i đi
m
điều tra.
(Nguồn: Tổng cục thống kê - Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2016)
Theo (Chang and Huynh, 2016), trình độ giáo dục của lao động Việt Nam khá thấp
so với các nước ASEAN-5, xếp vị trí thứ 4 trên Campuchia. Có đến 73% lao động có trình độ
tiểu học dưới tiểu học, 18% tốt nghiệp trung học sở 9% sau trung học phổ thông.
Đồng thời kỹ năng của lao động Việt Nam cũng được đánh giá thấp nhất trong khối
ASEAN-5. Lao động kỹ năng thấp chiếm khoảng 41% trong tổng số lao động, khoảng
49% là lao động có k năng trung bình và chỉ có khoảng 10% lao động có kỹ năng cao.
Biểu đồ 2.3. Phân phối lao động theo kỹ năng
(Nguồn: Chang and Huynh, ILO 2016)
2.3. Năng suất lao động (NSLĐ)
Theo Tổng cục Thống , trong giai đoạn 2006 - 2015, năng suất lao động của
Việt Nam xu hướng tăng, bình quân tăng 4 %/năm. Biểu đồ 2.4 cho thấy, sau giai đoạn
tăng trưởng chậm từ năm 2009 đến năm 2012, năng suất lao động có dấu hiệu phục hồi nhanh
chóng. Năm 2015, ng suất lao động tăng mạnh so với năm 2014 và tốc độ tăng cao nhất
, 337
từ năm 2006 đến nay, đạt khoảng 6,45%. Điều này cho thấy xu hướng phục hồi tăng trưởng
nhanh của nền kinh tế cũng như sự cải tiến của năng suất lao động. Đến năm 2016, năng suất
lao động của Việt Nam tính theo giá hiện hành ước đạt khoảng 84,5 triệu đồng mỗi lao động
(khoảng 3.853 USD/lao động), tăng 5,31 % so với năm 2015, tuy nhiên nhưng tốc độ tăng
năng suất chậm hơn năm 2015.
Biểu đồ 2.4. Năng suất lao động Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Biểu đồ 2.5 cho thấy, trong các khu vực kinh tế thì Công nghiệp - Xây dựng khu
vực năng suấ lao động cao nhất, trong khi đó, Nông - Lâm - Thủy sản khu vực ng
suất thấp nhất. Năng suất lao động của khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản chỉ bằng hơn
1/4 năng suất lao động trong khu vực công nghiệp - Xây dựng và bằng hơn 1/3 năng suất của
khu vực dịch vụ. Năng suất lao động thấp khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản một
trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng tới năng suất lao động hội, bởi phần lớn lao
động Việt Nam làm việc trong khu vực này. Tuy nhiên, theo Viện năng suất Việt Nam, giai
đoạn 2011 – 2014, tốc độ tăng năng suất lao động khu vực Công nghiệp - Xây dựng và khu
vực Nông - Lâm - Thủy sản là tương đương nhau, với mức tăng bình quân khoảng 3,9%/năm.
Năm 2015, năng suất lao động khu vực Công nghiệp Xây dựng không sự cải thiện so
với năm 2014, trong khi đó năng suất lao động khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản có sự
gia tăng đáng kể. Năm 2016, năng suất lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt
32,9 triệu đồng, tăng 9,7% so với năm 2015 cũng là khu vực tốc độ tăng năng suất cao
nhất; khu vực dịch vụ đạt 103,5 triệu đồng, tăng 7,8%; trong khi đó khu vực công nghiệp
xây dựng là 112 triệu đồng, giảm 2,6%. Như vậy, mặc dù năng suất lao động của khu vực này
vẫn đang ở mức thấp nhưng xu hướng cho thấy đang tăng lên một cách nhanh chóng.
Biểu đồ 2.5. Năng suất lao động ở các khu vực kinh tế theo giá thực tế
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Số liệu bảng 2.3 cho thấy rằng, năng suất lao động của Việt Nam đã được cải thiện
liên tục qua các năm và ngày càng được rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực.
Nếu năm 1990, năng suất lao động trung bình của các nước ASEAN gấp 3,6 lần so với Việt